MỘT KHO TÀNG .....(ORGYEN KUSUM LINGPA)

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
vajrasattvamantra-stone.jpg

Translation :

oṃ vajrasattva samayam anupālaya
oṃ Vajrasattva! Preserve the bond!

Vajrasattvatvenopatiṣṭha
As Vajrasattva stand before me.

dṛḍho me bhava
Be firm for me.

sutoṣyo me bhava
Be greatly pleased for me.

supoṣyo me bhava
Deeply nourish me

anurakto me bhava
Love me passionately

sarva siddhiṃ me prayaccha
Grant me siddhi in all things,

sarvakarmasu ca me cittaṃ śreyaḥ kuru hūṃ
And in all actions make my mind most excellent. hūṃ

ha ha ha ha hoḥ
ha ha ha ha hoḥ

bhagavan sarvatathāgatavajra mā me muñca
Blessed One! Vajra of all the tathāgatas! Do not abandon me.

vajrū bhava mahāsamayasattva āḥ (hūṃ phaṭ)
Be the Vajra-bearer, Being of the Great Bond! āḥ (hūṃ phaṭ)
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Các bạn cũng biết rằng thân xác đang đến gần cái chết một cách nhanh chóng. Thời gian cái chết của chúng ta thì bất định nhưng sắp xảy ra. Vào lúc chết, tâm thức lìa khỏi thân thể và đó là cái chết. Thân xác thì không gì khác hơn là một đống tập hợp các tích tập bất tịnh mà cuối cùng bị bỏ lại đằng sau cho sự thối rữa và mục nát. Khi đó tâm thức đi vào bardo và trở thành một hiện thể không thân tướng. Ngay cả những hiện thể (chúng sinh) ở trong một trạng thái không thân tướng cũng có một vài giác quan của một thân thể nhưng nó là một thân tâm thức. Những hiện thể như thế kinh nghiệm chính mình như thật có mặc dù họ không sở hữu một thân vật lý gồm máu và thịt. Tuy thế, họ có cùng kinh nghiệm về các hiện tượng. Sự nhận biết về sự hiện diện của họ gây nên sự sợ hãi trong những người khác bởi bản thân họ luôn luôn sợ hãi và đầy những tri giác tiêu cực. Họ là những chúng sinh không thể được thỏa mãn. Bất luận họ ăn thức gì, họ không bao giờ thực sự thỏa mãn. Đây là những chúng sinh mà các bạn mời thỉnh trong thực hành Chošd.

Chúng sinh hữu tình – gồm cả các chúng sinh không sắc tướng – thì rộng lớn vô vàn không thể nghĩ bàn. Khi chúng ta nói về tất cả chúng sinh hữu tình thì điều này bao gồm cả chúng sinh bardo và vô số chúng sinh của các cõi vô sắc. Khi ta nói về không gian, nó thì vô hạn, ta không thể xác định được nơi nào nó chấm dứt bất luận các bạn nhắm hướng nào – trên, dưới, mỗi phía hay ở trung tâm. Nếu các bạn phải đi xe hơi hay máy bay, du hành trong bất kỳ phương nào, các bạn sẽ không bao giờ đi tới giới hạn của không gian. Trong khi trải qua tiến trình của sinh và tử, ta không thể tìm ra một biên giới của không gian. Cũng như không gian vô hạn, số lượng chúng sinh trong sáu cõi sinh tử thì cũng thế. Không thể tìm thấy một giới hạn đối với số lượng của họ. Cũng như không gian thì vô hạn, số lượng chúng sinh thì vô hạn, và sự tích tập không ngừng nghỉ của nghiệp tiêu cực cũng vô hạn. Vì thế, ba trạng thái của đau khổ thì không ngừng nghỉ và vô hạn. Trong Phakpa Sangpa Chod Pa’i Monglam Gyi Gyalpo, Lời Cầu Nguyện cho Hành Xử Tuyệt Hảo có nói : “giống như chính không gian thì vô hạn, các tích tập về nghiệp và nỗi khổ mà chúng sinh kinh nghiệm thì vô hạn. Vì vậy, sự cầu nguyện của tôi để làm lợi lạc chúng sinh cũng vô hạn”. Để làm lợi lạc chúng sinh, ước muốn của ta nên không có giới hạn. Không gian vô hạn, chúng sinh vô hạn, nỗi khổ vô hạn và vì thế sự cầu nguyện của ta để làm lợi lạc chúng sinh phải vô hạn.

Vì tất cả chúng sinh đều kinh nghiệm một sắc tướng bất tịnh huyễn hóa, cho nên chỉ có những sự ban phước từ ý hướng giác ngộ thuần tịnh (Bồ đề tâm) của chư Phật mới có thể làm lợi lạc cho chúng ta. Không có gì khác có thể giải thoát ta khỏi nỗi khổ của sắc tướng bất tịnh huyễn hóa này. Trong khi ở trong sắc tướng này chúng ta tiếp tục tin tưởng rằng chúng ta có một hiện hữu thực sự, bẩm sinh. Chúng ta tin rằng mình hiện hữu vĩnh cửu trong khi thực ra chúng ta vô thường. Chúng ta tin rằng các hiện tượng hiển nhiên là thật có trong khi chúng không có thật. Duy chỉ có tâm của một vị Phật thoát khỏi những trói buộc của những tin tưởng sai lầm, trước tiên ổn định chúng sinh trong hỉ lạc tạm thời, giải thoát chúng ta khỏi nỗi đau khổ một cách tương đối để sau cùng chúng ta có thể thành tựu sự toàn giác vô song. Chính là nhờ tâm giác ngộ của Đức Phật, tâm ngài có bốn sức mạnh vĩ đại, bốn trạng thái vô úy, ba mươi bảy chiếc cánh của sự giác ngộ và vô số các thuộc tính giác ngộ về thân, ngữ, tâm, các phẩm tính và hành động cao quý, chúng là một bánh xe của những sự ban phước và lòng bi mẫn không thể vơi cạn, mà tất cả chúng sinh có thể có được lợi lạc chân thật.

Sau khi lắng nghe giáo lý này, tất cả các bạn phải thấy rõ rằng từ cõi trời cao nhất cho tới con sâu nhỏ bé nhất bò trên mặt đất, tất cả chúng sinh vô hạn như không gian trong vòng sinh tử đều đang kinh nghiệm một sắc tướng bất tịnh huyễn hóa là sản phẩm của các tích tập thuộc về nghiệp tiêu cực. Họ cảm nhận lạnh, nóng, đói, khát và thường xuyên bị phiền não, như thể họ đang bị đâm liên tục bởi một chiếc kim, từ lúc họ được sinh ra cho tới khi chết và trong suốt chu kỳ không ngừng dứt của sinh và tử. Gốc rễ của toàn bộ tình cảnh nguy nan này là sự bám chấp vào một cái ngã, nó là sắc tướng bất tịnh huyễn hóa. Ta phải nhận ra được bản tánh của tánh Không và bắt đầu tịnh hóa các tri giác về cái hiện thân này trong thực tại khi thức. Các bạn cần liên tục nhắc nhở mình về bản tính trống không của tất cả hiện tượng. Điều này khiến ta có thể đem sự tỉnh giác như thế vào trạng thái mộng.

Vào buổi tối, thay vì cho phép tâm rơi vào một trạng thái tỉnh giác trống không trầm trệ và từ đó, bị thúc đẩy bởi các lề thói quen thuộc, rơi vào các hiện tượng trong mộng cũng được tri giác là thật có, các bạn cần tự nhắc nhở mình rằng toàn bộ kinh nghiệm của trạng thái mộng cũng là một ảo tưởng huyễn hóa. Nếu các bạn không thể phát triển một sự hiểu biết rằng kinh nghiệm về thực tại lúc thức và trạng thái mộng là huyễn hóa, thì các bạn sẽ tiếp tục bị lừa dối bởi sự tri giác về tất cả các cảnh giới hiện hữu. Chính tâm thức đã lừa gạt ta khiến ta tin rằng kinh nghiệm đó là thật trong khi đúng ra nó là một kinh nghiệm bất tịnh huyễn hóa. Các bạn phải thường xuyên nhắc nhở tâm thức rằng điều này không thật. Nó như một giấc mộng. Hãy liên tục nhắc nhở mình rằng mọi hình tướng xuất hiện thì hoàn toàn như một giấc mộng. Các giấc mộng thì không thực mặc dù trong khi các bạn đang mơ các bạn có thể tin rằng các kinh nghiệm của các bạn là thực, nghĩ rằng chúng thì tốt, xấu, hay chung chung, nhưng ngay khi các bạn thức dậy, các bạn nhận ra rằng thật ra chúng không đáng giá ngay cả một sợi tóc bởi vì các bạn có thể nhận ra rằng đó là một giấc mộng. Đây là cách mà các bạn cần cảm nhận đối với toàn bộ kinh nghiệm về thế giới này từ lúc các bạn sinh ra cho tới khi các bạn chết. Từ lúc các bạn sinh ra, và trải qua mọi tình huống khác nhau trong đời các bạn, các hoạt động và các chu kỳ sự kiện không ngừng cho tới khi các bạn đến tuổi sáu mươi, bảy mươi hay tám mươi, nếu các bạn may mắn, mọi sự đều đã xảy ra như một giấc mộng. Ngay cả những kinh nghiệm của hôm qua là một ảo tưởng ngày hôm nay.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
aaaaKhi cái chết đến, tâm thức tách khỏi thân xác. Giây phút mà tâm thức lìa khỏi thân, điều gì xảy ra? Hãy suy nghĩ về điều này. Không thứ gì trong cuộc đời này là thật nữa. Hãy nghĩ về giấc mộng đêm qua. Nó không còn thật nữa vào hôm nay. Nó đã xảy ra ngày hôm qua và không thật vào ngày hôm nay. Hãy nghĩ về mọi công việc các bạn đã làm hôm nay với nỗ lực ghê gớm mà các bạn đã cho là thật có. Tất cả các hoạt động và tình huống mà các bạn từng dính dáng tới dường như cực kỳ quan trọng vào lúc đó, thì giống như giấc mộng đêm qua. Hãy suy nghĩ về điều đó. Hãy suy nghĩ về những gì xảy ra ở bên ngoài. Hãy quên thân thể đi. Hãy nghĩ về bên ngoài : Các hoạt động của ngày hôm qua, giáo lý hôm qua, tình huống mà các bạn ở trong đó ngày hôm qua. Chúng không thật vào ngày hôm nay. Chúng không thật nữa bởi nó là một ảo tưởng. Nó là một kinh nghiệm vô thường đã xảy ra hôm qua và hôm nay không còn hiện hữu. Kinh nghiệm mà các bạn đang có ngay lúc này sẽ nhanh chóng qua đi và sẽ không thể sống lại được. Ngay cả các Giáo Pháp cũng thế. Tình huống của việc cùng tụ hội để nghe Pháp thì giống như giấc mộng đêm qua. Khi sử dụng những ví dụ này các bạn có thể thấy rõ ràng rằng sinh tử là một ảo tưởng bất tịnh.

Một khi các bạn thể thấy được ảo tưởng bất tịnh đó là như thế, thì các bạn đang thực hành Bardo Đời Này và Bardo Trạng thái Mộng. Điều này sẽ cho phép các bạn thể nhập Bardo Thiền Định, sự chứng ngộ rằng bản tánh toàn khắp của sinh tử và Niết bàn là bản tánh căn bản của tịnh quang. Các bạn phải chứng ngộ rằng tất cả các pháp là bản tánh căn bản của tịnh quang trống không. Khi các bạn có thể thấu suốt giác tánh tịnh quang trống không thì các bạn có thể chuyển hóa các hình tướng xuất hiện tương đối của sinh tử thành giác tánh tuyệt đối của Pháp giới. Những giáo lý này là các phương pháp để thực hiện điều đó.

Kỹ thuật để thành tựu sự tỉnh giác về sắc tướng thanh tịnh huyễn hóa như sau : Bắt đầu sự thực hành này, hãy ngồi trong tư thế thiền định với một hình ảnh của Đức Vajrasattva trước mặt các bạn trên một cái kệ nhỏ. Rồi đặt hay cầm một trái quả cầu pha lê trước mặt Vajrasattva và nhìn vào hình ảnh quả cầu pha lê. Bởi vì một quang phổ ánh sáng cầu vồng xuất hiện từ quả cầu pha lê, bằng cách đặt nó trước hình ảnh Vajrasattva các bạn sẽ thấy nhiều hình ảnh của bổn tôn, bản chất của những hình ảnh đó là ánh sáng cầu vồng. Vì những hình ảnh khác nhau của Vajrasattva xuất hiện từ quả cầu pha lê, sẽ hiển nhiên rằng sự xuất hiện thì huyễn hóa và không có bất kỳ hiện hữu sẵn có chân thật nào. Hãy tiếp tục thiền định về bản tánh huyễn hóa này trong một thời gian ngắn. Rồi tưởng tượng rằng những hình ảnh huyễn hóa của Vajrasattva tan vào các bạn và thân các bạn trở thành hình ảnh huyễn hóa của Vajrasattva. Thiền định theo cách này trong một thời gian, tưởng tượng rằng toàn bộ vũ trụ bên ngoài của các bạn và những gì ở trong nó, tất cả chúng sinh hữu tình, tan ra thành ánh sáng và hòa tan vào các bạn như thân tướng huyễn hóa của Vajrasattva. Như thế ba cõi sinh tử trở thành trò nô đùa của sự biểu lộ huyễn hóa của Vajrasattva. Phương pháp này thì quan trọng trong việc các bạn tự chuẩn bị cho Bardo Pháp tánh khi sự phô diễn của các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ xuất hiện. Rồi các bạn sẽ có sự xác tín rằng sự xuất hiện của các bổn tôn là sắc tướng thanh tịnh huyễn hóa và sẽ được giải thoát nhờ nhận ra được bản tánh đích thực của các sự xuất hiện này trong bardo. Nếu bản thân các bạn quen thuộc với sắc tướng thanh tịnh huyễn hóa của Vajrasattva mãi theo cách này và quán tưởng thân thể của riêng các bạn như sự biểu lộ thanh tịnh huyễn hóa của Vajrasattva, và mọi sự của hiện hữu hiện tượng thì không là gì khác hơn biểu lộ đó, các bạn sẽ có thể đạt được giải thoát trong Bardo Pháp tánh.

Khi đang thức các bạn bị tràn ngập bởi ba độc và các lề thói quen thuộc. Do điều này, các bạn đang liên tục tích tập nghiệp tiêu cực và các che chướng qua hoạt động của tâm thức. Ban đêm, các bạn tiếp tục bị tràn ngập bởi ba độc này, chúng trở thành một trạng thái vô minh. Tâm thức các bạn trở nên bị lừa dối bởi sự vô minh, và suốt trong toàn bộ giấc ngủ và giấc mộng, các bạn ở trong trạng thái vô minh tích tập ác-hạnh này. Trong trạng thái mộng điều quan trọng là chuyển hóa sự mê lầm thành giác tánh tịnh quang.

Học giả Shantideva vĩ đại nổi tiếng về việc ngủ suốt ngày và đêm và tuy thế ngài không ngủ trong một trạng thái bình thường của sự mê lầm. Ngài đã kinh nghiệm sự giải tan của trạng thái ngủ vào ánh sáng chói ngời (quang minh). Trong trạng thái ánh sáng chói ngời đó ngài đã có thể chuyển hóa các giấc mộng thành những kinh nghiệm chẳng hạn như gặp được Đức Văn Thù trong Phật cảnh, nhận lãnh các giáo lý và hòa lẫn tâm ngài với Đức Văn Thù trong thời gian lâu dài. Mọi người nói chung đều đã cho rằng Ngài chỉ biết ngủ. Thật ra, ngài Shantideva là một trong sáu báu vật vĩ đại của Ấn Độ và một trong những bậc thầy vĩ đại của mọi thời đại. Ngài đã thực hành yoga giấc mộng suốt cả ngày và đêm. Các phẩm tính cao quý của Học giả Shantideva và Đại Thành Tựu giả Karma Lingpa thì ngang bằng nhau. Ngài Shantideva tự phô diễn như một tỳ kheo trong khi ngài Karma Lingpa thì tự phô diễn như một ngakpa, nhưng bản tánh của các ngài thì đồng nhất theo cách mặt trời thì luôn luôn không thay đổi.

Mặt trời có vẻ khác nhau từ ngày này sang ngày kế tiếp, do những sự hình thành khác nhau của mây mà xảy ra như vậy, nhưng mặt trời không bao giờ thực sự thay đổi. Bởi tất cả những lý lẽ mà chúng ta đã thảo luận, bardo giấc mộng thì cực kỳ quan trọng cần phải thể nhập. Quá nhiều thời gian được dùng để ngủ trong sự mê muội hôn trầm, nó chỉ tích tập thêm ác hạnh. Hãy chỉ suy nghĩ về tất cả các ác hạnh mà các bạn đang tích tập trong khi các bạn ngủ trong trạng thái vô minh hiện tại này. Có thể các bạn cho rằng điều các bạn đang làm trong khi ngủ là tốt đẹp hay ích lợi nhưng không phải như vậy. Thật ra, giấc ngủ làm ngắn lại cuộc đời các bạn và là một sự trải rộng của các hiện tượng lầm lạc, đưa các bạn tới gần cái chết của mình hơn và gây ra bệnh tật. Chỉ trong các cõi trời, giấc ngủ mới không cần thiết. Mặc dù đôi lúc các vị trời ngủ trong mỗi tháng, nhưng đó không phải là sự đều đặn bắt buộc. Một trong những lý do của sự trường thọ của các vị trời là họ không ngủ, và một trong những lý do của thọ mạng ngắn ngủi của chúng ta là chúng ta ngủ quá nhiều. Nhiều bệnh tật của con người đến từ thực phẩm, và cùng cách đó, thọ mạng ngắn ngủi của chúng ta đến từ việc ngủ quá nhiều.


Các bạn cần hiểu rõ rằng, là các hành giả, nếu các bạn sắp ngủ, điều cực kỳ quan trọng là thực hành yoga giấc mộng và chuyển hóa thời gian này thành một kinh nghiệm của sự tỉnh giác giác ngộ. Rồi thì các bạn có thể được như Đức Padmasambhava và tất cả những bậc đã đạt thân cầu vồng. Việc đạt được thân cầu vồng là một thành tựu về siêu việt giấc ngủ để không có ngăn cách nào trong kinh nghiệm của ngày và đêm. Các bậc đạo sư thành tựu vĩ đại đã đạt tới một trạng thái ở đó các ngài đã thực hành liên tục suốt ngày và đêm. Dù các ngài đã hay đang ở trong sự thiền định (quân bình) hoặc hậu thiền định, trạng thái đó trở thành một sự tương tục của sự tỉnh giác giác ngộ được gọi là chu kỳ vĩ đại không ngừng nghỉ của giác tánh nội tại và sự phô diễn của nó. Giấc ngủ bình thường không phải là một bộ phận của kinh nghiệm đó. Vì thế, hãy nói cho tôi biết có tốt hay không khi tẩy trừ những sự mê muội của các bạn ?
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
Kỹ thuật để thành tựu sự tỉnh giác về sắc tướng thanh tịnh huyễn hóa như sau : Bắt đầu sự thực hành này, hãy ngồi trong tư thế thiền định với một hình ảnh của Đức Vajrasattva trước mặt các bạn trên một cái kệ nhỏ*. Rồi đặt hay cầm một trái quả cầu pha lê trước mặt Vajrasattva và nhìn vào hình ảnh quả cầu pha lê. Bởi vì một quang phổ ánh sáng cầu vồng** xuất hiện từ quả cầu pha lê, bằng cách đặt nó trước hình ảnh Vajrasattva các bạn sẽ thấy nhiều hình ảnh của bổn tôn, bản chất của những hình ảnh đó là ánh sáng cầu vồng***. Vì những hình ảnh khác nhau của Vajrasattva xuất hiện từ quả cầu pha lê, sẽ hiển nhiên rằng sự xuất hiện thì huyễn hóa và không có bất kỳ hiện hữu sẵn có chân thật nào.

*
marblebuddha.jpg


**
buddharainbow.jpg


***
buddhamandala.jpg
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

CHƯƠNG 5

BARDO TRẠNG THÁI MỘNG


aaaaBây giờ ta sẽ tiếp tục với các giáo lý về Bardo Trạng thái Mộng và sự thực hành giấc mộng minh bạch. Các giấc mộng là kết quả của những lề thói được đem đến từ thực tại khi thức. Nó giống như một con ngựa được dẫn dắt bởi một dây cương. Bởi các lề thói của thực tại khi thức của các bạn được đem vào trạng thái mộng nên điều quan trọng là nhận ra chúng. Các bạn phải luôn luôn nhắc nhở tâm thức rằng mọi hiện tượng thì như một giấc mộng. Tất cả các pháp đều huyễn hóa. Bằng cách thực hành điều tôi đã giảng về sự nhận thức tánh Không vốn như vậy của các hiện tượng hiển nhiên và sự chuyển hóa thân bất tịnh huyễn hóa, các bạn có sự chuẩn bị hay sẽ tự chuẩn bị để tiến hành cùng loại thực hành này khi ở trong trạng thái mộng thực sự.

Khi các bạn chuẩn bị đi ngủ, các bạn cần khơi dậy Bồ đề tâm. Việc này được làm bằng cách suy nghĩ rằng tất cả chúng sinh đã từng là cha mẹ của các bạn trong quá khứ và sự thiết tha trong việc thực hành của các bạn phải là có được năng lực để giải thoát tất cả chúng sinh và củng cố họ trong trạng thái toàn giác. Sau đó, hãy thực hiện một sự khẩn cầu khiến các bạn có thể thể nhập sự thiền định về sự tỉnh giác huyễn hóa trong trạng thái mộng. Hãy nằm nghiêng về bên phải trong “tư thế sư tử ngủ” với bàn tay phải ở dưới đầu các bạn, hai đầu gối hơi co, và cánh tay trái để dọc theo thân các bạn. Hãy cố gắng an trụ thật thư lỏng trong một trạng thái tỉnh giác thuần tịnh. Rồi hãy quán tưởng vị đạo sư gốc của các bạn ở trên đầu mình, hoặc trên cái gối của các bạn, và duy trì sự tỉnh giác về sự hiện diện của các bậc đạo sư. Hơn nữa, hãy quán tưởng bản thân các bạn là một hiện thân trí huệ như Đức Văn Thù, Quán Thế Âm hay Đức Phật Di Lặc. Nếu các bạn gặp khó khăn trong việc tự quán tưởng mình là một bổn tôn thì hãy cố gắng phát triển sự tự hào của một bậc giác ngộ, một vị Phật hay Bồ tát. Điều này sẽ đem xuống các sự ban phước thêm nữa. Khi đã tự củng cố mình như một vị Phật, hãy khẩn cầu để có được một giấc mộng minh bạch. Hãy cầu nguyện với đạo sư gốc ở trên gối hay ở trên đỉnh đầu các bạn và đọc những bài cầu nguyện này bảy lần.

Sau đó hãy quán tưởng Đức Padmasambhava ở trong trung tâm cổ họng của các bạn, có kích thước khoảng một đốt ngón tay cái, đang mỉm cười, chói ngời và trong sáng nhưng không có sự hiện hữu thực sự. Hãy cho phép tâm thức các bạn tập trung vào sự hiện diện của Đức Padmasambhava và khẩn cầu ngài để các bạn có được một giấc mộng minh bạch. Trong khi khẩn cầu với sự tỉnh giác về sự hiện diện của đạo sư gốc của các bạn ở trên đầu và Đức Padmasambhava trong trung tâm cổ họng các bạn, hãy cố rơi vào giấc ngủ.

Nếu các bạn không thể có được một giấc mơ minh bạch, nghĩa là có khả năng nhận ra một giấc mơ trong khi nó xảy ra, thì các bạn phải thức dậy và lập lại tiến trình. Hãy kiên nhẫn trong việc này và lập lại tiến trình của sự khơi dậy Bồ đề tâm, làm vững chắc sự quán tưởng, đi vào một trạng thái sùng mộ và thực hiện các sự khẩn nguyện. Sau đó cố gắng rơi vào giấc ngủ một lần nữa với sự tỉnh giác nhất tâm của sự thực hành và ý hướng của các bạn.

Nếu làm như thế mà các bạn vẫn không thể có một giấc mơ minh bạch thì các bạn có thể phải cần dùng thêm thời gian trong thực tế khi thức của các bạn để tự nhắc nhở mình rằng mọi sự xuất hiện đều như một giấc mộng, trong cùng cách thế rằng giây phút này là một giấc mộng, để các bạn có thể đem sự tỉnh giác đó vào trạng thái mộng. Hãy tập trung một cách mạnh mẽ, lập đi lập lại, trên sự kiện rằng các sự xuất hiện trong thời gian ban ngày và thời gian đang mơ có cùng một bản tánh. Chúng thì huyễn hóa. Rồi các bạn có thể có một sự tỉnh giác nào đó trong trạng thái mộng rằng thực sự các bạn đang mơ, rằng nó là một ảo tưởng huyễn hóa.

Nếu các bạn thực hành trong cách này nhiều lần và nhận ra rằng các bạn vẫn không thể có được một giấc mơ minh bạch, các bạn nên giữ tư thế sư tử ngủ và tự quán tưởng mình như một bổn tôn, có thể là Đức Vajra-pani, Hayagriva, Trošma Ngakmo hay Vajrayogini. Sau khi đã làm vững chắc sự tự-quán tưởng, thì các bạn nên quán tưởng Đức Vajrasattva, có kích thước của một móng ngón tay cái, ở trong trung tâm cổ họng của các bạn. Hãy tập trung vào trái tim Đức Vajrasattva và thực hiện những sự cầu nguyện mạnh mẽ để có được một giấc mơ trong sáng và cố gắng rơi vào giấc ngủ.

Nếu sau khi thực hành theo cách này một lúc, các bạn thấy rằng các bạn vẫn không thể có được một giấc mơ minh bạch và thực ra các bạn không có bất kỳ kết quả nào, thì các bạn có thể tiến hành kỹ thuật kế tiếp là quán tưởng trong trung tâm ở cổ họng các bạn một hoa sen bốn cánh với các chữ sau đây ở trên đó. Ở trung tâm hoa sen, hãy quán tưởng một chữ OM trắng. Trên cánh phía trước chữ OM hãy quán tưởng chữ AH. Trên cánh ở bên phải, hãy quán tưởng chữ NU. Ở phía sau, quán tưởng chữ TA. Và ở bên trái, quán tưởng một chữ RA. Hãy bắt đầu sự thiền định này bằng cách tập trung trên chữ OM và sau đó khi các bạn bắt đầu cảm thấy buồn ngủ, hãy di chuyển tâm các bạn tới chữ AH ở trước chữ OM, cho phép sự tập trung của các bạn an trụ ở đó. Khi các bạn tự cảm thấy mình còn buồn ngủ hơn nữa, hãy lập tức di chuyển sự chú tâm của các bạn tới chữ NU. Khi cảm giác về giấc ngủ trở nên nặng nề hơn và mãnh liệt hơn, hãy cố gắng di chuyển tâm các bạn tới cánh phía sau và chữ TA. Sau đó, đúng lúc các bạn đang ngủ, hãy di chuyển tâm các bạn tới chữ RA và cố gắng thực sự rơi vào giấc ngủ bằng cách một lần nữa quay trở lại với chữ OM là tâm của Đức Vairocana. Hãy cố làm điều này để điều sau cùng các bạn tỉnh thức về trước khi ngủ là chữ OM. Năm chữ này, OM AH NU TA RA là các chữ của năm vị Phật thiền và các ngài có rất nhiều sự ban phước. Điều quan trọng là giữ sự tập trung nhất tâm để các vọng tưởng không cắt đứt các giai đoạn của sự quán tưởng này và rơi vào giấc ngủ trong cách thức đúng đắn đã được mô tả.

Bây giờ, nếu sau khi thực hành phương pháp này mà các bạn vẫn không thể có một giấc mơ minh bạch, thì có một phương pháp cuối cùng. Sau khi thực hiện các sự khẩn cầu, các bạn hãy quán tưởng trong trung tâm cổ họng các bạn một bindu ánh sáng và tập trung tâm các bạn vào đó khi các bạn rơi vào giấc ngủ trong trạng thái tỉnh giác đó.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Đây là các phương pháp khác nhau mà các bạn có thể nỗ lực. Sau một tháng thực hành phương pháp này, chúng chuyển đổi lẫn nhau, các bạn cần nhận ra rằng các bạn có tiến bộ thực sự. Nếu sau khoảng một tháng mà các bạn vẫn không có một giấc mơ minh bạch, thì có thể các bạn đang tiếp cận sự thực hành không đúng đắn hoặc có lẽ samaya của các bạn bất tịnh. Lúc đầu, khi các bạn sắp có một giấc mơ minh bạch, nhiều giấc mơ sẽ xảy ra và chúng sẽ trở nên rất rõ ràng trong tâm các bạn. Chính ngay trước khi kinh nghiệm về một giấc mơ minh bạch mà những giấc mơ của các bạn tăng lên và trở nên rất sâu sắc. Một giấc mơ minh bạch là một trạng thái ở đó các bạn có thể nhận thức rằng các bạn đang mơ trong khi ở trong trạng thái mộng. Thật dễ dàng để làm điều này khi giấc mộng có tính chất khiếp sợ và khó khăn hơn nữa khi giấc mộng là một bộ phận đáng ao ước đối với kinh nghiệm của một đời người. Nếu các bạn không thể có một giấc mơ minh bạch thì các bạn cần cố gắng sửa chữa samaya hư hỏng, tiến hành thêm các thực hành chuẩn bị tiên quyết, các kỹ thuật tịnh hóa, sự trì tụng thần chú một trăm âm và kiên trì trong sự tích tập công đức và tịnh hóa nghiệp tiêu cực của mình bởi vì các bạn cần tẩy trừ các chướng ngại đang ngăn cản các bạn trong việc đạt được giai đoạn này, là điều cần thiết để tiến hành giai đoạn kế tiếp của sự thực hành.

Một khi các bạn đã có một giấc mơ minh bạch, giai đoạn kế tiếp là chuyển hóa kinh nghiệm về trạng thái mộng thành tịnh quang trong trạng thái mộng, các bạn bắt đầu kỹ thuật trong cách thế ít nhiều tương tự với cách mà các bạn đã làm với kỹ thuật giấc mơ trong sáng. Các bạn khơi dậy Bồ đề tâm, nằm nghiêng trong tư thế sư tử ngủ, tự quán tưởng mình là bổn tôn và quán tưởng một vòng tròn ánh sáng trắng được đánh dấu với chữ HRIH trong trung tâm tim của các bạn. Rồi các bạn rơi vào giấc ngủ trong khi tập trung vào điều này một cách nhất tâm. Khi các bạn rơi vào giấc ngủ và thành công, thì thay vì kinh nghiệm các hiện tượng của giấc mộng, kinh nghiệm về ánh sáng (hay ánh sáng chói, quang minh) sẽ xuất hiện. Kinh nghiệm về ánh sáng giống như ở trong một không gian xanh dương chói ngời có ít mây. Như thể là một lớp mây mỏng đang thu nhỏ lại vào màu xanh ngắt của không gian. Hãy chỉ kinh nghiệm đang ở trong không gian mà không có bất kỳ tri giác về một sự vật nào.

Theo các truyền thống khác, khi ta đang đến gần kinh nghiệm tịnh quang, có thể các dấu hiệu hay thị kiến như khói, một huyễn tượng, lửa cuồn cuộn, sương mù hay một không gian trong trẻo thanh tịnh. Các thị kiến này cũng có thể xuất hiện trong thực hành tsalung. Trong thực hành Dzogchen, mặc dù các dấu hiệu xảy ra và là những kinh nghiệm có giá trị trên con đường, chúng tuyệt nhiên không phải là kinh nghiệm về tịnh quang và cần được để qua một bên. Theo truyền thống Dzogchen về sự tri giác tịnh quang, có thể có các dấu hiệu tốt nào đó như một giấc mơ kỳ diệu ngay trước kinh nghiệm về tịnh quang hay có thể nghe âm thanh của một con rồng hay thấy mặt trời mọc. Sau cùng, tất cả những điều này chỉ là những kinh nghiệm trên con đường. Những sự xuất hiện này phát sinh từ chính không gian tịnh quang nhưng ta nên cố gắng tập trung vào việc tri giác kinh nghiệm tịnh quang. Khi kinh nghiệm này xuất hiện, thân thể ta sẽ không còn nữa thậm chí trong tri giác của các bạn. Ta sẽ không tri giác điều gì khác hơn là tịnh quang con đường này nó giống như màu xanh ngắt của không gian và tuy thế nó không giống như việc chỉ kinh nghiệm không gian. Thân xác và không gian sẽ bất khả phân. Sẽ chỉ đơn giản là một sự tỉnh giác về tánh Không như không gian hoàn toàn rộng mở, nó chói lọi và trong sáng. Nếu ta không nhận ra điều này, thì ta không nhận ra ánh sáng căn bản.

Kinh nghiệm về ánh sáng căn bản thì giống như một đại dương xanh dương bao la. Ánh sáng căn bản là Pháp Thân Phổ Hiền. Thấu suốt trạng thái tỉnh giác đó là lên tới cấp bậc thứ mười ba của một bậc nắm giữ kim cương (Kim Cương Trì) và trên cấp bậc đó ta sẽ được giải thoát, ngay cả trước sự phô diễn của các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ xuất hiện trong bardo. Nếu ta không được giải thoát trên cấp bậc đó, ta được giải thoát ngay khi sự phô diễn của các bổn tôn hòa bình bắt đầu xuất hiện trong Bardo Pháp tánh, khởi đầu với Đức Vajrasattva. Đối với các hành giả của tantra Kalachakra, do bởi họ quen thuộc với Vajra Heruka (Heruka Kim Cương) ở phương Đông, khi bổn tôn xuất hiện, nếu họ đã nhận các giáo huấn về sự giải thoát nhờ sự nghe thì sự nhận ra và giải thoát sẽ đồng thời. Tương tự như vậy, các hành giả của Yamataka sẽ được giải thoát khi bổn tôn xuất hiện từ phương Nam. Những người quen thuộc với Đức Phật Heruka ở trung ương, Hayagriva ở phương Tây, và Vajrakilaya ở phương Bắc sẽ có khả năng được giải thoát khi vị bổn tôn bảo trợ của họ hiển lộ và họ nhận ra bản tánh của sự hiển lộ đó. Khi ấy các hành giả của Vajrakilaya sẽ được giải thoát trong cõi thuần tịnh của Đức Phật Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu). Những người đã từng thực hành sự hiển lộ về thân của giác tánh giác ngộ, Đức Manjushri (Văn Thù), sẽ được giải thoát một cách tương ứng. Những người thực hành Ratnasam-bhava Heruka (Heruka Bảo Sanh) sẽ được giải thoát trong cõi thuần tịnh của sự Vinh quang Hiển lộ của Đức Phật Ratnasambhava (Bảo Sanh).
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
....trong cõi thuần tịnh của Đức Phật Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu).

Amoghasiddhi

amoghasiddhi.jpg


Kubera-6.jpg


d_amoghasiddhi.jpg
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Maha Shri Heruka


_heruka.jpg
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
Phật Ratnasambhava

ratnasambhava.jpg


NAM-MÔ BẢO SANH PHẬT
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Trong bất cứ trường hợp nào, nếu ta không nhận ra ánh sáng căn bản thì ta sẽ tiếp tục kinh nghiệm sự phô diễn của các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ trong Bardo Pháp tánh. Nếu ta đã từng thực hành trong đời và đã có những ấn tượng nghiệp mạnh mẽ đó, thì trong Bardo Pháp tánh khi những bổn tôn và Heruka này xuất hiện, các ngài sẽ được nhận ra và ta sẽ được giải thoát ở cấp bậc thứ mười ba của một vị Kim Cương Trì. Nếu không, ta sẽ đi xa hơn nữa trong bardo và kinh nghiệm đang ở trong hai mươi hai nơi đầy năng lực và ba mươi hai chốn linh thánh ở đó các vị Phật hóa thân an trụ. Ta sẽ thực sự kinh nghiệm đang ở trong Núi Huy Hoàng màu Đồng Đỏ của Đức Padmasambhava, các cõi thanh tịnh của Đức Tara hay Đức Quán Thế Âm và sẽ có thể đạt được giải thoát trong Bardo Trở thành, đó là sẽ giải thoát như một Hóa Thân. Nếu không điều gì trong những sự xuất hiện này được nhận ra thì ta sẽ tiếp tục luân hồi trong ba cõi sinh tử, nhận lấy vô số tái sinh trong một trạng thái hoang mang, là điều các bạn từng làm từ vô thủy. Điều đó đáng kinh sợ biết bao !

Rất quan trọng khi nhận lãnh các giáo lý về giai đoạn thành tựu sáu Bardo. Không có giáo lý nào tốt hơn vì nó giải thoát các bạn khỏi vòng sinh tử. Pháp phải là cái gì làm lợi lạc các bạn vào lúc các bạn chết. Nếu nó làm lợi lạc thì nó là Pháp hoàn hảo và nếu nó không làm lợi lạc cho các bạn vào lúc chết thì nó là Pháp không tốt đẹp.

Giáo Pháp của Mantra bí mật là con đường nhanh nhất để giải thoát trong bardo vì ta quá quen thuộc với các bổn tôn và nhận ra các ngài khi các ngài xuất hiện. Tùy theo các khuynh hướng quen thuộc của ta, các ngài sẽ xuất hiện tràn đầy năng lực. Vajra Heruka là một hiển lộ phẫn nộ của Đức Vajrasattva nhưng cả hai chỉ là một. Những người thực hành phái tân dịch sẽ nhận thấy Vajrasattva trong hình tướng hòa bình hay phẫn nộ dù họ là những hành giả của Kalachakra, Chakrasam-vara, Guhyasamaya hay Hevajra. Suốt trong bốn tantra lớn, hiển lộ hòa bình của Vajrasattva chiếm ưu thế. Vì thế, các hành giả của tất cả các tantra này sẽ rất quen thuộc với hiển lộ hòa bình. Không có gì khác biệt giữa Đức Vajrasattva của phái cựu dịch và của phái tân dịch. Họ sẽ nhìn Vajrasattva phù hợp với khả năng của riêng họ. Những người đã thực hành những bổn tôn này sẽ nhìn thấy các ngài khi các ngài xuất hiện trong bardo và sẽ nhận ra các ngài và được giải thoát. Bất luận Đức Vajrasattva được thực hành như thế nào trong bất cứ dòng truyền thừa đặc biệt nào, bản chất của ngài thì vẫn thế. Vajrasattva là hiện thể hiển lộ của trí huệ nguyên thủy như-gương (đại viên cảnh trí). Ngài là Akshobhya và xuất hiện như Akshobhya hay Vajrasattva như một hiển lộ của trí huệ như-gương. Nếu ta đã từng thực hành Yamantaka, sự hiển lộ của sắc tướng giác ngộ – là Đức Manjushri (Văn Thù) – thì ta sẽ gặp được Đức Phật Vairo-cana trong bardo và được giải thoát. Điều này tương ứng với sự tịnh hóa mê lầm (si). Trong thực tế, Đức Manjushri thuộc về tầng cấp thân giác ngộ, trong khi Đức Avaloki-tesvara thuộc về tầng cấp ngữ giác ngộ là sự tịnh hóa tham muốn. Đức Vajrapani thuộc tầng cấp tâm giác ngộ là sự tịnh hóa sân hận. Bất kỳ bổn tôn nào trong các bổn tôn thuộc về tầng cấp hoạt động giác ngộ chẳng hạn như Vajrakilaya tương ứng với sự tịnh hóa ganh tị như tất cả các bổn tôn Tara đã làm. Các ngài là hiện thân của sự tịnh hóa chất độc ganh tị. Đức Phật Ratnasambhava là hiện thân của sự tịnh hóa kiêu ngạo.

Về các yếu tố (đại), tham tương ứng với lửa; sân tương ứng với nước; si tương ứng với đất; kiêu ngạo tương ứng với các hình thành của đất chẳng hạn như các núi non; ganh tị tương ứng với gió. Khi thảo luận về mối tương quan giữa các yếu tố (đại) và các cảm xúc, điều này không có nghĩa là bằng cách thành tựu bổn tôn đó các bạn sắp trở nên được nối kết với một độc hay yếu tố (đại) đặc biệt, mà nó có nghĩa là bổn tôn là sự biểu lộ được tịnh hóa của khuynh hướng đó, nó tồn tại trong các bạn rất lâu khi các bạn ở trong vòng sinh tử. Sự giải thích này về mối tương quan giữa các đại, vô minh và những phẩm tính của giác tánh trí huệ, những diễn tả thì chung nhất cho cả phái cựu dịch lẫn tân dịch.

Trong phái cựu dịch, giai đoạn thành tựu của anu yoga bao gồm sự thực hành về sự hợp nhất đại lạc và tánh Không bằng cách khám phá bốn hỉ lạc, nhưng sự khám phá này vẫn còn là một kinh nghiệm về tịnh quang được minh họa. Nó là sự hiển lộ của kinh nghiệm trí huệ nguyên thủy như bốn hỉ lạc và vẫn còn là sự minh họa. Trong khi các bạn ở trên con đường thì kinh nghiệm tượng trưng cho kinh nghiệm tuyệt đối chỉ xảy ra vào lúc kết quả. Đây là sự hiển lộ của trí huệ nguyên thủy tuyệt đối được liên kết với kinh nghiệm tối hậu về tịnh quang hay tịnh quang tuyệt đối như đối nghịch với tịnh quang minh họa, nó giống như một đứa trẻ với một mô hình (bản sao) về một cái tháp (stupa) và sau đó là cái tháp thực sự. Sự minh họa thì giống như mô hình trong khi sự vật thực sự thì tuyệt đối.

Nếu các bạn có thể nghỉ ngơi trong tỉnh giác nội tại và muốn chuyển hóa nó thành kinh nghiệm về ánh sáng trong trạng thái mộng, các bạn hãy giữ tư thế sư tử nằm như đã giảng trước đây. Rồi các bạn cố rơi vào giấc ngủ trong một trạng thái tỉnh giác nơi mà ánh sáng và tánh Không được hợp nhất, cho phép tỉnh giác nội tại trong trạng thái của tánh Không chói sáng đó được tập trung trong trái tim. Các bạn sẽ cố rơi vào giấc ngủ một cách thình lình mà không mất sự tỉnh giác về sự trong sáng và tánh Không. Trong bản văn có dạy rằng những người sẽ có thể rơi vào ánh sáng thay vì ngủ và sẽ không có các hiện tượng mộng bởi vì các giấc mộng chỉ là sự xuất hiện của các lề thói quen thuộc. Thay vào đó sự tương tục của định quân bình của họ trong giác tánh nội tại sẽ được kinh nghiệm.

Có những giai đoạn tan rã xảy ra khi các bạn rơi vào giấc ngủ và đây cũng là giai đoạn tan rã xảy ra tương tự vào lúc chết. Nếu các bạn có thể nhận ra tịnh quang này thì nó cũng là kinh nghiệm mà các bạn có vào lúc chết, tuy nhiên sẽ không có các giai đoạn tan rã. Nó sẽ giống như một đứa trẻ nhận ra mẹ nó và nhảy vào lòng bà. Ánh sáng con, là cái được minh họa, là sự tu tập mà ta đã trải qua trong tiến trình của cuộc đời ta. Khi ánh sáng căn bản ló rạng vào lúc chết thì ánh sáng con sẽ hợp nhất với ánh sáng căn bản và sự giải thoát sẽ xảy ra. Để đạt được sự giải thoát vào lúc chết, các bạn nương nhờ vào các thực hành mà các bạn đã thực hiện trong Bardo Đời Này, gặp gỡ giác tánh nội tại, và trong Bardo Trạng thái Mộng.

Về phần những giai đoạn tan rã này, chúng đến vào lúc chết và trong khi các bạn ngủ, thì trước tiên, địa đại tan vào thủy đại và vào lúc đó các bạn sẽ cảm thấy một cảm giác nóng ấm trong trung tâm trán. Sẽ rất cần thiết phải duy trì sự trong sáng trống không. Rồi trong giai đoạn tan rã kế tiếp, thủy đại tan vào hỏa đại và vào lúc đó rất cần duy trì sự trong sáng trống không và sự tỉnh giác về sự quân bình thiền định. Ví dụ như các bạn nên cố giữ sự trong sáng chói ngời của tâm như thể chăm chú vào một ngọn đèn bơ chiếu sáng một căn phòng tối. Nếu các bạn có khuynh hướng đánh mất sự tỉnh giác thì hãy tăng cường sự tập trung của các bạn vào tỉnh giác nội tại hơn trước. Sau đó hỏa đại tan vào phong đại và vào lúc này rất cần duy trì sự tu tập trong quân bình thiền định để cuối cùng ngay khi các bạn rơi vào giấc ngủ phong đại tan vào thức. Nếu các bạn có thể ở trong một trạng thái trong sáng trống không ngay khi phong đại tan vào thức, ngay đúng lúc rơi vào giấc ngủ, thì có nói rằng không còn nghi ngờ gì nữa, kinh nghiệm tịnh quang sẽ ló rạng. Sự ánh sáng sẽ ló rạng thay vì trạng thái của giấc ngủ thông thường được đặt nền trên sự mê lầm (si). Sẽ không có Bardo giấc mộng vào lúc này. Nó sẽ trở thành kinh nghiệm về ánh sáng, hoàn toàn trong sáng và trống không, cùng việc không nắm giữ điều gì ngoài sự nhận biết đơn thuần của việc thấy nó như nó là và an trụ ở đó. Điều này tương ứng với Bardo Vào lúc Chết khi ánh sáng được minh họa trở thành ánh sáng căn bản và ta có thể đạt được giải thoát. Các bạn nên tự quen thuộc với các giai đoạn tan rã này bởi khi mỗi đại tan rã vào đại kế tiếp, kinh nghiệm sẽ mạnh mẽ hơn. Nếu chưa từng có sự tu tập thì điều này sẽ chỉ đưa các bạn tới một trạng thái ngủ sâu hơn nữa. Nếu đã có tu tập, nó dẫn các bạn đến gần ánh sáng căn bản hơn. Nếu nhờ năng lực của cái thấy và sự thiền định của các bạn, các bạn có thể duy trì sự trong sáng trong tâm vào lúc đó, giống như có một ngọn đèn bơ được thắp lên trong một căn nhà tối, kinh nghiệm về ánh sáng sẽ xuất hiện. Các bạn sẽ có thể tan vào ánh sáng đó, nó là bản tánh căn bản của tâm. Các bạn sẽ thành công trong việc tan hòa vào kinh nghiệm ánh sáng căn bản, kinh nghiệm tịnh quang trong khi các bạn ngủ, hay tan hòa vào ánh sáng căn bản vào lúc chết.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Vì cái chết xảy ra cho tất cả chúng sinh trong ba cõi, nên sự tu tập theo cách này rất quan trọng. Khuynh hướng mạnh mẽ nhất vào lúc chết sẽ là tin tưởng rằng các bạn thực sự hiện hữu và bám chấp vào cái biết đó. Không có sự tu tập trong bản tánh huyễn hóa của các hình tướng xuất hiện, không tự mình quen thuộc với ánh sáng thì cho dù các bạn là một học giả rất uyên thâm hay một yogi kỳ dị với mái tóc dài, các bộ y trắng, một cái bùa bằng bạc cột trong tóc trên đỉnh đầu các bạn, các khoen tai bằng vỏ ốc và mọi thứ đồ trang sức, các bạn vẫn thất bại vào giây phút quan trọng này. Sự thực hành thực sự của các bạn sẽ rõ ràng vào ngày các bạn chết. Nếu các bạn chưa từng thành tựu cái thấy (kiến) thì các bạn sẽ chết như một người bình thường thay vì như một hành giả Pháp. Là các hành giả, điều quan trọng là chuẩn bị cái chết để các bạn sẽ không dễ dàng bị lạc lối ở đó với ác hạnh của các bạn, quằn quại một cách bất lực, muốn hoàn tất công việc hơn nữa và nhận ra rằng đã quá muộn. Các bạn đừng cố gắng hành xử như các Đại thành tựu giả vĩ đại trong quá khứ và làm ra vẻ mình là một hành giả Kim Cương thừa vĩ đại. Sự trắc nghiệm cuối cùng xảy ra vào lúc chết, và nếu không có chút thành tựu nào thì các bạn sẽ chết trong cách thế bình thường. Tất cả các hành giả ở mọi cấp bậc, dù họ là các nhà sư, yogi hay hành giả cư sĩ, đều phải chuẩn bị cho giây phút này. Cách thức chuẩn bị là chứng ngộ cái thấy và sự thiền định.

Đây là Giáo Pháp sâu xa nhất mà các bạn sẽ luôn luôn tiếp xúc với. Vấn đề duy nhất sẽ là mặc dù các bạn đã tiếp xúc với nó, các bạn khó là những hành giả ngay cả của Tiểu thừa. Đôi khi tôi tự hỏi tại sao tôi xử sự với các bạn như thể các bạn có nghiệp của các hành giả vĩ đại thuộc Đại thừa hay Dzogchen Kim Cương thừa mặc dù tâm thức các bạn bị giới hạn ở các trạng thái tỉnh giác thấp kém. Một yogi đích thực có cái nhìn linh thánh, và thực sự nhìn thấy thế giới bên ngoài như một cõi thanh tịnh, tất cả chúng sinh là các bổn tôn nam và nữ, và nghe mọi âm thanh như bản tánh của mantra. Vị nam hay nữ ấy an trụ trong trạng thái Kim cương ba nhánh của giác tánh như sự nô đùa của sự sống, vượt lên những biên cương của thiền tịnh, không-thiền định và hậu-thiền định. Ngày nay hầu hết các hành giả Kim Cương thừa tự cho mình là anh hùng với nhiều vũ khí nhưng khi trận chiến thực sự xảy ra, họ đánh rơi vũ khí của họ và chạy trốn. Những anh hùng đích thực không có vũ khí. Trong cùng cách đó, nhiều hành giả xấu mặc những y phục kỳ dị và sử dụng năm điều đáng ao ước, nhưng không có bất cứ cái thấy (kiến) nào. Các yogi tốt không cần đến bất kỳ thứ gì trong những loại đó nhưng họ thường không được nhận thấy. Ngày nay bất kỳ các bạn đi đâu, dù các bạn ở Tây Tạng, Ấn Độ hay bất cứ nơi nào, các bạn thấy rõ những vấn đề này. Ai cũng muốn giáo lý Dzogchen và ai cũng tự cho là đang thực hành ở mức độ cao nhất. Tuy thế khi thực sự khảo sát thì thậm chí có ít người gần được là các hành giả Dzogchen, ít người có thể thực sự tự cho là những người đi theo gót chân của các đại thành tựu giả vĩ đại trong quá khứ. Giáo pháp thì thật sâu xa và tuy thế các hành giả vẫn đổ lỗi cho Pháp đối với những thiếu sót của riêng họ. Những người sinh ra đời là người xấu, và họ đổ lỗi cho Pháp đối với mọi vấn đề của họ trong khi cho mình là tốt đẹp khi thực tế thì không như thế. Các bạn chớ bao giờ đổ lỗi cho Pháp. Pháp thì tuyệt hảo trong mọi dòng truyền thừa. Các bạn phải thấy lỗi lầm của chính mình và làm việc với chúng để khi các bạn đi đến tuổi già trong đời mình các bạn có thể như một con chim bay thẳng đến giải thoát mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Rồi thì các bạn sẽ chiến thắng những bardo và đạt được giải thoát.

Vào lúc cuối của các giai đoạn tan rã của các đại, phong đại tan vào thức và thức tan vào tịnh quang. Nếu sự vô minh ngăn che ánh sáng chói ngời thì ta sẽ rơi vào giấc ngủ, bị say bởi giấc ngủ giống như ta say rượu. Nếu không thế, ta sẽ thực hiện sự tỉnh giác về ánh sáng chói ngời, sự thành tựu tuyệt đối với tất cả sáu trạng thái bardo. Bây giờ, những phương pháp cuối cùng để thành tựu sự tỉnh giác tịnh quang trong trạng thái mộng là giữ tư thế sư tử ngủ, quán tưởng trong trung tâm tim của các bạn một hoa sen bốn cánh, ở giữa bông hoa là đạo sư gốc của các bạn xuất hiện và là một, không thể phân ly với Đức Padmasambhava. Thân ngài có kích thước của một đốt ngón tay cái, và ngài trong sáng chói ngời và trong mờ. Hãy để bản thân các bạn tập trung vào sự hiện diện của ngài trong trung tâm tim của các bạn và nếu các bạn mất sự tỉnh giác thì đem nó trở lại và duy trì sự tập trung của các bạn. Sau đó, hãy tưởng tượng rằng ánh sáng từ thân Đức Padmasambhava đi vào các bạn và thân các bạn tan ra thành ánh sáng. Rồi ánh sáng phát ra thâm nhập ba cõi sinh tử. Vũ trụ tan ra thành ánh sáng hòa tan vào tất cả chúng sinh. Tất cả chúng sinh tan thành ánh sáng và hòa tan vào các bạn. Bản tánh của các bạn là Đức Padmasambhava ngồi trong trái tim các bạn và các ý niệm còn sót lại của bản ngã hòa tan vào Đức Padmasambhava. Rồi hãy tưởng tượng rằng các bạn và tất cả chúng sinh được giác ngộ trong giác tánh của thân, ngữ, và tâm của Đức Padma-sambhava. Khi tâm thức các bạn hợp nhất với Đức Padma-sambhava, thì thay vì một kinh nghiệm về giấc ngủ hôn trầm, nó sẽ là một kinh nghiệm về sự trong sáng và thấu thị. Trước hết các bạn sẽ kinh nghiệm thấy vào thân thể của chính các bạn và sau đó nhìn thấy mọi sự đang diễn tiến quanh các bạn một cách rõ ràng. Các bạn có thể đi vòng quanh Núi Tu Di và bốn châu lục. Các bạn sẽ thấy chúng sinh trong các cõi sống. Thậm chí các bạn sẽ có thể thấy một tên trộm lẻn vào nhà trong khi các bạn đang ngủ ở đó. Các bạn sẽ thấy mọi tình huống xảy ra trong khi các bạn ở trong kinh nghiệm về ánh sáng chói này thay vì ở trong trạng thái mộng. Đây không phải là sự giác ngộ nhưng chỉ là một giai đoạn trên con đường. Khi phong đại tan vào thức, trong trường hợp của một hành giả chân thực thì kinh nghiệm đó trở thành ánh sáng chói. Còn với người không có sự tu tập, thức bị che chướng bởi vô minh. Điều này hoàn toàn giống như đang say rượu và không thể nhận ra sự tỉnh giác nội tại. Chúng ta tiến hành các thực hành này, chúng được liên kết với sáu bardo để thể nhập Phật tánh, đó là giải thoát khỏi mọi dấu vết của mê lầm.

Phương pháp khác mà các bạn có thể sử dụng là tự quán tưởng mình là bổn tôn. Ở giữa thân các bạn, hãy quán tưởng kinh mạch năng lực trung ương, avadhuti, thật chói sáng và trong suốt như một cái nhau phồng lên và không có bất kỳ sự hiện hữu bẩm sinh chân thực nào. Kinh mạch kéo dài từ lỗ mở ở đỉnh đầu xuống tới điểm ngay dưới rốn. Sau đó, ở ngang trung tâm trái tim, hãy quán tưởng một bindu ánh sáng trắng với sắc hơi đỏ, nó nổi, rung động, lung linh, sẵn sàng tự nhiên đi lên và ra khỏi đỉnh đầu. Khi các bạn tập trung vào bindu ánh sáng này, các bạn phải ở trong một trạng thái tỉnh giác nội tại, trong sáng trống không, và sau đó cố gắng rơi vào giấc ngủ. Nếu các bạn không thể kinh nghiệm ánh sáng sau khi rơi vào giấc ngủ theo cách này, thì thật lý tưởng nếu có một người bạn ở đó để đánh thức các bạn một khi các bạn bị cuốn vào giấc ngủ vào một lúc nào đó. Họ sẽ đánh thức các bạn để xem các bạn có rơi vào kinh nghiệm về ánh sáng hay không. Các bạn không cần tiếp tục ngủ trong một thời gian dài, các bạn có thể thức để xem các bạn có kinh nghiệm ánh sáng hay không và sau đó các bạn có cơ hội để tiến hành sự thực hành một lần nữa để thể nhập kinh nghiệm ánh sáng này hay không. Đây là phương cách khác để tập nhận ra ánh sáng vào lúc chết.

Khi các bạn thực hành, thì sau cùng các bạn cần đạt tới một điểm ở đó không còn bất kỳ phân biệt nào nữa giữa thực tại lúc thức và trạng thái mộng hay kinh nghiệm tịnh quang. Chúng trở thành một giòng tương tục của giác tánh nội tại. Khi các bạn thành tựu kinh nghiệm về ánh sáng này, an trụ trong giác tánh nội tại, các khả năng thấu thị mà các bạn phát triển thật hết sức ngạc nhiên. Các bạn sẽ có thể viếng thăm chúng sinh ở những cõi hiện hữu khác. Các bạn sẽ biết ai trong những thân quyến của các bạn đã tái sinh ở đó vì thế các bạn có thể tạo mối liên hệ về nghiệp tốt đẹp hơn đối với họ trong tương lai bởi các bạn biết rõ điều gì xảy ra cho họ. Các bạn sẽ có thể nhìn thấy những chúng sinh mà các bạn có những cộng nghiệp đặc biệt với họ. Đây là điều cực kỳ ích lợi trong phạm vi làm lợi lạc chúng sinh. Nếu các bạn trở thành một hành giả tốt ở cấp độ này thì các bạn có thể tự coi mình như một yogi Dzogchen hạng thứ (so với hạng trưởng). Sau khi các bạn đã hoàn thiện sự thực hành về ánh sáng chói lọi này, các bạn sẽ nhìn mọi sự hiện hữu hiện tượng với tri giác thanh tịnh. Các bạn sẽ có thể thấy được những năng lực nam mãnh liệt như Samatabhadra và những năng lực nữ mãnh liệt như Samantabhadri. Vào lúc đó, các bạn có thể tự coi mình như một yogi Dzogchen tốt. Sẽ không còn bất kỳ phân biệt nào giữa tốt và xấu. Dù sao đi nữa, điều này kết thúc sự truyền dạy về Bardo Giấc mộng nó bao gồm giai đoạn thành tựu ánh sáng chói lọi (quang minh).

Điều đó sẽ kết thúc giáo lý vào tối hôm nay. Tôi cảm thấy muốn về nhà và đi ngủ.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

CHƯƠNG 6

BARDO VÀO LÚC CHẾT

Tối nay tôi muốn bàn về Bardo của Giây Phút Chết, “sự giải thoát tự nhiên nhờ sự chuyển di tâm thức, nó làm rõ ràng điều không xác quyết”. Nó tương tự việc nhận một ân xá từ một vị vua. Sự tương đồng này muốn nói tới một tình huống ở đó một người bị nhà vua bắt đi đày bỗng nhiên nhận được tin cho biết lệnh ân xá đã được ban ra và anh ta được tự do trở về. Người ấy sẽ cảm thấy vững tin và không còn sợ hãi khi nghe những tin tức đó. Tương tự như vậy, bởi nhận lãnh các giáo huấn trực chỉ về sự tự-xuất hiện và tiến trình chết như con đường, là điều trước đây đáng sợ, không chắc chắn và không rõ ràng, thì thình lình nó rõ ràng và hiển nhiên. Đó là lý do tại sao các bạn cần thực hành Giáo Pháp sâu xa này và được chuẩn bị đầy đủ cho giây phút chết.

Giây phút chết này cũng được gọi là “sự coi giây phút chết như con đường”. Nếu các bạn nhận lãnh và thực hành các giáo lý về sự chuyển di tâm thức này, các bạn sẽ có khả năng tiếp cận giây phút chết mà không sợ hãi. Các bạn sẽ hoàn toàn được chuẩn bị để diện kiến định mệnh của các bạn không chút nghi ngại. Bằng cách nhận lãnh các giáo lý về phowa từ một bậc thầy tâm linh có phẩm chất, các bạn bắt gặp một thực hành để phân biệt giữa samsara (sinh tử) và Nirvana (Niết bàn). Các bạn nhận được cơ hội để thực sự vượt qua vòng sinh tử. Các bạn phải chuẩn bị cho giây phút chết trong khi các bạn còn sống. Nếu các bạn đã từng chuẩn bị, khi giây phút cái chết đến các bạn sẽ nhớ lại rõ ràng các giáo huấn trực chỉ và sử dụng chúng. Điều này sẽ hoàn toàn tùy thuộc vào sự thực hành mà các bạn đã hoàn tất trong đời các bạn.

Ngài Jetsun Milarepa nói : “Vì sợ chết, tôi chạy trốn vào núi để thiền định và nhớ lại sự vô thường của cuộc đời. Đạt được chỗ an nghỉ bẩm sinh và bất biến của sự bất tử là sự tỉnh giác bên trong về cái chết và lẽ vô thường.” Nếu ta được chuẩn bị cho cái chết thì cũng giống như đang được chuẩn bị cho cuộc chiến đấu : khi biết quân địch đang đến gần thì điều khôn ngoan là có vũ khí trong tay. Cũng thế, khi chuẩn bị cho giây phút chết, là một thời điểm của nỗi đau khổ to lớn, các bạn cần được chuẩn bị đầy đủ để đối mặt giây phút đó một cách trực tiếp và chiến thắng nó. Các bạn phải lợi dụng cơ hội để thực hành trong khi các bạn còn sống. Toàn bộ một cuộc đời thực hành Pháp được thể hiện vào giây phút chết. Cực kỳ quan trọng vào lúc chết là các bạn phải an trụ không phóng tâm và phải sử dụng các giáo huấn trực chỉ mà các bạn đã được ban cho.

Từ lúc sinh ra cho tới lúc chết, chúng ta ở trong Bardo Đời Này. Từ lúc bệnh tật hay điều kiện (duyên) sẽ gây nên cái chết của chúng ta bắt đầu cho tới khi hơi thở bên trong bị trục xuất, chúng ta kinh nghiệm Bardo Giây Phút Chết. Khi chúng ta chết, chúng ta từ giã thế giới này và mọi sự trong đó. Chúng ta từ bỏ gia đình, bạn bè và những người thân yêu của ta. Chúng ta phải chia lìa với tất cả những người đã từng rất thân thiết với ta cũng như chia lìa với tài sản của ta và mọi sự là quan trọng trong suốt đời ta. Các câu kệ gốc viết : “Tôi sẽ từ bỏ mọi bám chấp, khát khao và tham luyến vào lúc chết.” Cực kỳ quan trọng là phải buông bỏ sự tham luyến của các bạn đối với những hiện tượng của đời này. Theo cách này, các bạn có thể tập trung một cách rõ ràng vào các giáo huấn các bạn đã nhận lãnh trong đời này và các thực hành các bạn đã hoàn tất. Vào lúc chết, các bạn có thể thực sự chứng ngộ tịnh quang vô sinh và đi vào pháp tánh, nhưng điều đó sẽ tùy thuộc vào sự thực hành mà các bạn đã hoàn tất.

Sự chuẩn bị tốt nhất cho cái chết là hoàn thiện hai giai đoạn của thực hành Dzogchen trong suốt đời các bạn. Chúng là trekchod, sự cắt đứt để đi vào cái thuần tịnh nguyên sơ, và tošgal, sự vượt qua với sự hiện diện tự nhiên. Nếu điều này không thể làm được, thì các bạn nên chuẩn bị bằng cách nhận các giáo huấn về phowa, sự chuyển di tâm thức vào lúc chết. Một cá nhân có thể đã từng nhận được mọi giáo huấn cần thiết để thành tựu Dzogchen, hay kinh nghiệm các sắc tướng như ảo tưởng huyễn hóa, hoặc Bardo của Trạng Thái Mộng nhưng có thể không đủ khả năng để thành tựu sự thực hành. Những người không có cơ hội để thực hành các kỹ thuật sâu xa do những phóng tâm trong các hoạt động hàng ngày có thể là những nhà lãnh đạo, những gia chủ v.v... Trong những trường hợp như thế, các giáo huấn sâu xa bị mất hút trong đời sống đó. Vì thế tâm thức vẫn cần đến một phương pháp nhờ đó sự giác ngộ có thể được thành tựu mà không cần thiền định. Phương pháp đó là phowa, cũng được nhắc đến như sự tự-giải thoát ngay trên nhận biết, nó cho phép một người không thiền định đi vào một trạng thái tỉnh giác giải thoát khỏi vòng sinh tử và như thế ám chỉ tới một nơi chốn an nghỉ bất biến. Với phowa, một người bình thường vẫn có một cơ may để đạt được giải thoát bằng cách tự quen thuộc với kỹ thuật sâu xa này.

Có hai giai đoạn đối với thực hành phowa : sự chuẩn bị trước cái chết và sự chuyển di tâm thức thực sự vào lúc chết. Giai đoạn đầu tiên được thực hành khi các bạn còn khỏe và vẫn còn có thể thực hành nó. Không có sự thực hành phowa, các bạn sẽ không sẵn sàng vào lúc chết và sẽ không có sự chuyển di tâm thức vào lúc đó. Các bạn cần chuẩn bị tâm thức cho sự không thể tránh được của cái chết và sự chuyển tiếp xảy ra trong cách thức tương tự cách những con chim di trú từ những khí hậu lạnh lẽo tới khí hậu ấm áp trong mùa đông. Biết rằng cái chết không thể tránh được và thời gian của nó thì bất định, các bạn nên thành tựu sự thực hành càng sớm càng tốt. Trong cách này, các bạn có khả năng du hành tới đích điểm của các bạn mà không có bất kỳ trở ngại hay che chướng nào. Một sự tái sinh làm người quý báu với những tự do và đặc ân của nó thì cần thiết để thực hành phowa. Một hành giả phowa phải tỉnh giác về sự quý báu của việc tái sinh làm người này và nỗ lực duy trì nó bao lâu ông còn có thể được mang thân người.

Các dấu hiệu của cái chết có bốn loại : hai dấu hiệu đầu tiên phải thực hiện với thứ tự thời gian, là các dấu hiệu chỉ ra rằng cái chết không lập tức và các dấu hiệu cho thấy là cái chết thì lập tức. Các dấu hiệu này được trình bày trong bản văn gọi là Tsenma Rangdrol, Sự Tự-Giải Thoát của các Đặc Tính. Nó ích lợi để các bạn tự làm quen thuộc với các dấu hiệu này bởi nếu chúng được nhận ra thì các bạn có cơ hội để tăng tiến sự thực hành của các bạn.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Về điểm này, tôi muốn nói rõ rằng phowa không bao giờ được dùng để thâu ngắn đời người. Các dấu hiệu của việc tới gần của cái chết thì quan trọng và ích lợi trong việc trợ giúp hành giả nhanh chóng thành tựu sự thực hành. Bất kỳ cố gắng nào để đẩy nhanh tiến trình hấp hối đều cực kỳ tiêu cực và tương tự như việc tự tử, là một trong những hành động thuộc về nghiệp xấu nặng nề nhất mà một người có thể mắc phạm.

Có nhiều lý do cho điều này. Lý do hiển nhiên nhất là không có gì quý báu hay hi hữu hơn sự tái sinh làm người này và vì thế nó cần được duy trì càng lâu càng tốt. Đức Phật đã dạy rằng nghiệp tiêu cực do bởi lấy đi mạng sống của một chúng sinh phải được hoàn trả năm trăm đời trong các cõi địa ngục. Trong thân thể các bạn có tám mươi tư ngàn loại ký sinh vật sinh sống, nhờ vậy mà không bị bệnh tật vật lý hay sự mất quân bình. Khi các bạn đau ốm, các ký sinh vật cũng kinh nghiệm sự bệnh tật. Vì thế, nếu các bạn tự sát, các bạn đang đồng thời tiêu diệt nghiệp bằng cách tái sinh trong các cõi địa ngục năm trăm đời đối với mỗi ký sinh vật. Các bạn đừng bao giờ nên nghĩ ngợi tới việc lấy đi mạng sống của chính mình.

Từ một quan điểm Kim Cương thừa, việc lấy đi mạng sống của chính các bạn hoàn toàn là sự hủy diệt các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ cư trú trong thân Kim cương. Đây là tư tưởng thậm chí còn tệ hơn các trọng tội. Năm trọng tội là giết cha, giết mẹ, giết một vị A La Hán, gây nên một sự mất hòa hợp trong tăng đoàn hay cố ý làm đổ máu một đấng Thiện Thệ. Các bạn cần cực kỳ thận trọng về bất kỳ khuynh hướng nào dẫn đến một cái chết non qua hành động này. Ngay cả trước khi ta cân nhắc trong việc thực hiện pháp phowa thực sự là sự chuyển di vào lúc chết, những buổi lễ nào đó cần được thực hiện để đánh lừa cái chết. Nếu đã có các dấu hiệu cho thấy cái chết của ta là chắc chắn thì có các buổi lễ có thể được cử hành để lừa dối hay trì hỗn cái chết, và sau khi chúng đã được cử hành ba lần, sau đó và chỉ sau đó mới là lúc thích hợp để tiến hành pháp phowa thực sự.

Những buỗi lễ đó đưa chúng ta tới giây phút thực sự mà các bạn sẽ thực hiện sự chuyển di tâm thức, khi hoàn toàn không thể đảo ngược lại được giây phút chết. Như tôi đã đề cập tới trước đây, có hai giai đoạn đối với sự thực hành phowa : sự tu tập khi ta còn sống trong sự chuẩn bị cho cái chết của ta và sự chuyển di tâm thức thực sự vào lúc chết. Trong cả hai trường hợp, ba nhận thức phải được củng cố. Ba nhận thức này là nhận thức kinh mạch trung ương như con đường, tâm thức của các bạn như kẻ du hành trên con đường và đích đến là Dewa-chen, Cõi Cực Lạc. Một khi các bạn đã củng cố ba nhận thức này, tâm thức được tu tập để đi lên con đường kinh mạch trung ương hướng thẳng tới mục đích là trái tim Đức Phật A Di Đà, đấng an trú trong cõi Dewachen.

Trước khi bắt đầu giai đoạn đầu tiên của sự thực hành, hãy suy niệm bốn tư tưởng chuyển hóa tâm và hãy khơi dậy Bồ đề tâm. Sau đó các bạn bắt đầu thực hành bằng cách ngồi trong tư thế hoa sen viên mãn (kiết già), xương sống thật thẳng, với đôi bàn tay trong bộ ấn như sau : các lòng bàn tay đặt nhẹ trên hai đầu gối với các ngón tay duỗi và hướng xuống trong cử chỉ chạm đất. Hãy quán tưởng một chữ HUNG xanh dương thật trong sáng và chói ngời trong trái tim các bạn. Từ chữ HUNG chính trong trung tâm tim của các bạn một chữ HUNG khác chiếu sáng và đi xuống, phong tỏa lỗ dưới (hậu môn), đóng cánh cửa tái sinh trong các cõi địa ngục. Một lần nữa, từ chữ HUNG trong trung tâm tim các bạn, một chữ HUNG thứ hai chiếu tỏa ra, đi xuống lỗ của lối vào bí mật và đóng cánh cửa tái sinh trong cõi súc sinh. Chữ HUNG khác tỏa chiếu từ chữ HUNG trong trung tâm tim các bạn và phong tỏa miệng. Hai chữ HUNG nữa chiếu ra phong tỏa hai lỗ tai. Hai chữ HUNG nữa chiếu ra phong tỏa ra hai lỗ mũi. Rồi tưởng tượng rằng các lỗ còn lại được phong tỏa bởi chữ HUNG khiến cho tâm thức không thể thoát ra khỏi thân thể từ bất kỳ nơi nào khác hơn là lỗ mở ở đỉnh đầu.

Ở lỗ mở trên đỉnh đầu, hãy quán tưởng một chữ HAM trắng lộn ngược. Hãy bắt đầu bằng cách quán tưởng một cách rõ ràng kinh mạch trung ương chạy xuyên qua giữa thân các bạn và nó có hình dạng của một ruột cừu khô được thổi phồng lên, trong suốt nhưng rõ ràng. Kinh mạch trung ương chạy suốt từ tận lỗ mở ở đỉnh đầu các bạn xuống tới chỗ dưới rốn bằng bề rộng bốn ngón tay. Nó có màu trắng sáng, chói ngời và chạy thẳng lên. Trong trung tâm của kinh mạch năng lực trung ương là bản tánh của giác tánh của ta. Nó có hình dạng của một bindu ánh sáng, màu trắng, chói ngời, trong sáng, nổi và rung động như thể sẵn sàng vút lên. Các bạn cần quán tưởng bindu năng lực ánh sáng, là giác tánh của các bạn, trong trung tâm kinh mạch trung ương để nó có thể vọt lên thật dễ dàng và ra khỏi đỉnh đầu các bạn. Rất cần quán tưởng một chỗ mở rộng của kinh mạch trung ương ở lỗ mở trên đỉnh đầu không có sự ngăn che nào.

Sẽ có nhiều dấu hiệu là cái chết sắp xảy ra và một vài trong số các dấu hiệu này sẽ xảy ra trong các giấc mộng. Thái độ tinh thần của ta sẽ thay đổi khi sức khỏe thể chất thay đổi. Đây là một vấn đề rộng lớn mà tôi không có thì giờ để đi vào. Có nhiều dấu hiệu để tìm kiếm sự xác định là thật ra cái chết có sắp xảy ra không. Tuy nhiên, cho dù các dấu hiệu xuất hiện thì các bạn cũng chỉ có thể chết sau nhiều năm. Một số người chết trẻ, một số chết già. Một số chết vì các loại vũ khí và một số bởi chiến tranh. Một số chết vì bom đạn.

Cách thức chết của chúng ta thì không chắc chắn nhưng sự kiện chúng ta sẽ chết thì tuyệt đối chắc chắn. Bởi sự không chắc chắn này, các bạn cần sẵn sàng để thực hiện giai đoạn thứ hai của sự thực hành phowa vào bất kỳ giây phút nào có được. Đối với các hành giả Đại Viên Mãn, vua của mọi kỹ thuật chuyển di sẽ được sử dụng, và đó là hợp nhất giác tánh nội tại của ta với tâm của đạo sư. Bản tánh của tâm là rigpa, giác tánh trống không nội tại, và nhờ năng lực của thực hành thiền định mà ta có thể thể hiện giác tánh nội tại vào lúc chết. Thật quen thuộc với việc hợp nhất giác tánh nội tại của ta với tâm của đạo sư là điều rất quan trọng. Việc duy trì trạng thái quân bình này vào lúc chết được gọi là sự chuyển di tâm thức tối thượng bằng sự thể nhập cái thấy Pháp Thân.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Kỹ thuật bậc trung là sự hợp nhất các giai đoạn phát triển và thành tựu được gọi là “sự chuyển di tâm thức Báo Thân”. Phowa Hóa Thân được thành tựu qua ba nhận thức, nó cho phép tâm hành giả chuyển di tới cõi cực lạc Hóa Thân.

Vào lúc chết, sau khi bốn yếu tố (tứ đại) đã phân tán lẫn vào nhau, ba giai đoạn của sự tan rã xảy ra theo thứ tự liên tiếp. Sự xuất hiện đầu tiên là một tia sáng trắng. Sự xuất hiện thứ hai là một tia sáng đỏ. Sự xuất hiện thứ ba là một sự thoáng ngất, một kinh nghiệm của sự rơi vào vô thức và sau đó tịnh quang, ánh sáng căn bản, tự trình hiện. Trừ các Bồ tát với sự chứng ngộ cao nhất, các giai đoạn tan rã này xảy ra cho tất cả mọi người vào lúc chết. Điều thật quan trọng là bản thân các bạn phải quen thuộc với chúng. Những giai đoạn này rất mãnh liệt bởi vì sự tan rã có tính chất sinh học ảnh hưởng tới tâm thức. Cách thức duy nhất để vượt qua sự khó khăn của giai đoạn tan rã là bằng đại định của cái thấy kim cương, một đại định mà chỉ các Bồ tát với chứng ngộ cao tột mới có thể thành tựu. Có nhiều giáo lý về các giai đoạn tan rã xảy ra vào lúc chết. Ngài Patrul Rinpoche đã ban cho một số giáo lý liên quan tới các giai đoạn tan rã này và chúng rất ích lợi cho những người sơ học bởi sự tiếp cận thì thẳng tắt.

Khi các giai đoạn tan rã bắt đầu, thị lực của ta bị mất đi như thể nhãn thức ngưng hiện hữu. Nhĩ thức ngưng hiện hữu. Thân thức ngưng hiện hữu. Sáu tri giác của giác quan bị suy kiệt khi tiến trình tan rã xảy ra. Vào một lúc nào đó trong giai đoạn tan rã này, ta không còn kinh nghiệm các phản ứng như sự hạnh phúc hay đau khổ nữa. Những cảm xúc đó bị tẩy trừ khỏi tâm thức. Rồi tới một lúc trong tiến trình tan rã này khi người hấp hối không còn nhận biết họ là ai hay những ai đang ở đó với họ. Vào lúc đó, năng lực của nhãn quan tan rã vào nhãn thức. Tất cả các giác quan khác cũng mất đi năng lực của chúng bằng cách tan rã vào bản tánh căn bản của ta, là Phật tánh, chính nó kinh qua ba giai đoạn đã được đề cập ở trên. Một cách đồng thời, các đại tan rã. Thịt tan vào địa đại, vào lúc đó người hấp hối cảm thấy một cảm giác nặng nề và không thể chuyển động được nữa. Máu tan vào thủy đại và các chất lỏng trong thân thể chảy ra qua các khiếu mà không thể kiểm soát được. Khi hơi ấm tan vào hỏa đại thân thể trở nên giá lạnh. Khi hỏa đại tan vào gió (phong), sự tỉnh giác trở nên rất lờ mờ và thân thể lạnh giá hơn nữa. Khi năm đại trong thân thể tan trở về yếu tố căn bản, các năng lực giác quan tan rã một cách tương ứng.

Như thế, tôi đang thực sự nói về điều gì ở đây ? Tôi đang nói về tiến trình mà mỗi một và tất cả mọi người trong chúng ta sẽ kinh qua, tuy nhiên ngay cả bây giờ khi các bạn nghe những lời này, các bạn có thể nghĩ rằng tôi đang nói về người nào khác đang hấp hối, nhưng đây chính là điều mà tất cả chúng ta phải trải qua.

Vào lúc chết, nghiệp tiêu cực của con người trội vượt hẳn lên và gây nên sự đau khổ ghê gớm. Đây là nỗi đau khổ mãnh liệt nhất mà các bạn sẽ luôn luôn kinh nghiệm. Người hấp hối có một vài năng lực để hiểu biết về sự tái sinh kế tiếp của họ và để phản ứng lại việc đó trong những giây phút cuối cùng này. Tâm thức mê lầm có thể biểu lộ theo một cách mà những lời cuối cùng người đang hấp hối thốt ra thì hoàn toàn tiêu cực và khó chịu. Nếu họ sắp đi xuống cảnh giới địa ngục thì họ có thể biểu lộ những khuynh hướng của cảnh giới địa ngục trong thái độ tinh thần và sự biểu lộ qua thân thể ngay trước khi chết. Nếu họ sắp đi tới cảnh giới ngạ quỷ hay cảnh giới súc sanh, họ có thể biểu lộ các khuynh hướng đó. Sẽ có các dấu hiệu và các biểu lộ. Người hấp hối có thể thực sự thấy được nơi tái sanh trước khi các dấu hiệu và biểu lộ này xảy ra và điều này sẽ trở nên rõ ràng hiển hiện. Ngài Milarepa nói : “Một người xấu thấy nơi tái sanh tương lai của mình và vào lúc đó vị thầy trở thành sự tương thuộc duyên sanh của chân lý không sai chạy về nhân và quả.”

Những người sắp đi vào cảnh giới địa ngục sẽ mọc lên một cách tượng trưng những chiếc sừng và răng nanh, và nhìn thấy Yama, Thần Chết đang đến dẫn tay họ tới cõi địa ngục, nơi đó họ sẽ bị thiêu đốt trong các loại địa ngục. Thậm chí họ sẽ có kinh nghiệm này trước khi tới đó. Đây không phải là câu chuyện nào đó mà tôi đang bịa đặt. Nó xảy ra như thế nhưng các bạn vẫn nghĩ rằng nó sắp xảy ra cho người nào khác. Nỗi đau khổ của cái chết thì không thể nghĩ lường.

Năm ngoái khi tôi ở Delhi, một hôm chúng tôi đã viếng thăm một vườn bách thú, ở đó có một cái chuồng nhốt ba con rắn khổng lồ. Vài con chim nhỏ được thả vào chuồng cùng với một ít hạt để chúng đủ sống cho tới khi các con rắn ăn thịt chúng. Những con rắn chắc chắn sẽ ngấu nghiến những con chim nhỏ bé đó vì chúng là con mồi của lũ rắn. Tuy nhiên, những con chim không có ý niệm gì về số phận của chúng. Và như thế, mặc dù mọi người nhìn vào chuồng có thể thấy rằng ngày mai các con chim sẽ chết, nhưng chính chúng thì hoàn toàn không biết gì về tình trạng nguy hiểm của chúng. Việc này gây ấn tượng cho tôi như một ví dụ cổ điển về thân phận của chúng sinh. Tất cả chúng ta đều thích dấn mình vào những vấn đề thế gian, cuộc đời chúng ta bị tiêu mòn bởi công việc và những hoạt động khác, và chúng ta không thấy được bản chất của sinh tử trong khi nó thật hiển nhiên. Không thấy được điều đó, người ta tiếp tục theo đuổi các hoạt động thế tục mà không có bất kỳ sự tỉnh giác nào về số phận của họ : cái chết đó đang tới gần vào bất cứ giây phút nào như một sự thật đối với những con chim trong cái chuồng đó. Thật buồn khôn tả khi nhìn thấy tình trạng nguy cấp và sự vô minh của chúng sinh. Quá rõ ràng là chúng sinh cần Pháp để họ có thể né tránh được Yama, Thần Chết, khi ông ta đến dắt tay họ đi. Có một cơ hội để chuẩn bị nếu như các bạn có thể gặp được Pháp và thực hành nó. Nếu các bạn không chuẩn bị, các bạn sẽ giống như một con cừu bơ vơ lạc lối, gặm cỏ thơm ngon trên những sườn dốc cao, xa bầy và những hình thức khác của đời sống, và khi nó đang vui hưởng bữa tiệc thì bất thần không biết từ đâu một con chó sói nhảy xổ ra và ăn nó ngấu nghiến. Đừng quên rằng Thần Chết đang đến gần. Vào lúc đó các bạn sẽ bị tràn ngập bởi bất kỳ nguyên nhân của cái chết nào. Nguyên nhân của cái chết sẽ là kinh nghiệm mãnh liệt nhất về nỗi đau khổ mà các bạn chưa từng có trong đời các bạn. Các bạn sẽ bị tràn ngập bởi các giai đoạn tan rã. Điều thiết yếu là phải chuẩn bị và làm việc như thế trong khi các bạn vẫn còn có thể.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Có hai giai đoạn đối với tiến trình tan rã : sự tan rã bên ngoài và sự tan rã bên trong. Sự tan rã bên ngoài là sự tan rã liên tục của năm đại, đó là địa, thủy, hỏa, phong và không đại. Điều này đã được giảng rõ. Vào lúc này, người hấp hối không thể phân biệt hay nhận ra các tri giác của giác quan. Điều này chỉ ra rằng các xuất hiện đang tan lẫn vào giai đoạn xuất hiện của ánh sáng đỏ. Hơi thở bên ngoài đã ngưng nhưng hơi thở bên trong vẫn còn hiện diện trong thân. Cái chết hãy còn chưa xảy ra. Như thể là có một ngọn nến hay đèn bơ nhỏ còn cháy trong trung tâm tim vì hơi thở bên trong đang hiện diện, và tâm thức vẫn còn ở trong thân, mặc dù người ấy không còn thở nữa. Tuy thế cái chết chưa xảy ra vì hơi thở bên trong vẫn còn.

Vào lúc này, sự tan rã bên trong xảy ra. Hạt giống (chủng tử) nguyên thủy mà chúng ta nhận từ cha chúng ta lúc thụ thai, một bindu trắng gồm tinh chất trong đỉnh đầu, đã tồn tại ở đó từ lúc thụ thai. Khi các đại tan rã và hơi thở bên ngoài ngưng lại, bindu trắng này nhỏ xuống qua kinh mạch chính giống như một ngôi sao băng đi vào trái tim. Người hấp hối kinh nghiệm điều này như một tia ánh sáng trắng, giống như mặt trăng xuất hiện trong một bầu trời trong trẻo và làm tràn đầy nó khiến mọi sự trở nên trắng ngần. Khi bindu hay giọt tinh chất đi vào tim chúng ta, ba mươi ba vọng tưởng liên kết với sự sân hận tạm thời bị ngưng lại. Nếu người hấp hối đã thành tựu cấp bậc chứng ngộ nào đó lúc sống, thì vào lúc này người ấy sẽ chứng ngộ Hóa thân và đạt được giải thoát bằng cách đi vào một trạng thái tỉnh giác thuần tịnh không thể thối chuyển được, là nơi họ sẽ được giải thoát khỏi vòng sinh tử. Đối với người đó, mọi vọng tưởng sẽ vĩnh viễn chấm dứt hay chuyển hóa thành sự giác ngộ. Tuy nhiên, một người bình thường kinh nghiệm một sự ngưng dứt tạm thời của những ý niệm được đặt nền trên sự sân hận vào giây phút giọt trắng đi xuống. Điều này được gọi là sự xuất hiện màu trắng tan hòa vào giai đoạn xuất hiện của gió.

Ngay khi giọt trắng đi tới trái tim, chủng tử nguyên thủy được nhận từ mẹ chúng ta vào lúc thụ thai đã tồn tại trong trung tâm rốn của ta suốt cuộc đời ta, nó cũng được gọi là chủng tử trứng hay chủng tử máu, đi lên kinh mạch trung ương và tan vào trái tim, hợp nhất với chủng tử trắng. Vào lúc này, có một tia sáng đỏ như thể mặt trời bất ngờ xuất hiện trong một bầu trời trong trẻo làm tràn đầy nó với một ánh sáng đỏ chói. Bốn mươi ý niệm kết hợp với sự tham dục bị ngưng lại. Nếu người hấp hối đã là một hành giả thành tựu trong cuộc đời, người ấy sẽ có khả năng đạt được giải thoát trong sự tỉnh giác Báo Thân của Không-Lạc và chứng ngộ trạng thái giải thoát bất thối chuyển. Đối với một người bình thường, kinh nghiệm về sự ngừng dứt của bốn mươi ý niệm được liên kết với tham dục này là tạm thời và chỉ xảy ra vào thời điểm chủng tử đỏ đi lên. Điều này được gọi là giai đoạn xuất hiện của màu đỏ tan vào giai đoạn cận-đạt đến bóng tối.

Khi hai chủng tử này hợp nhất ở trung tâm tim, chúng được kết dính lại với nhau và lập tức kinh nghiệm cận tử bắt đầu. Đây là một kinh nghiệm về bóng tối hoàn toàn, không có ý thức, vào lúc này bảy ý niệm được đặt nền trên sự mê lầm và vô minh bị dừng lại. Đây cũng là lúc mà một hành giả hảo hạng chứng ngộ Pháp Thân, đặc biệt là khi các thực hành Dzogchen đã được thành tựu. Nếu người hấp hối là một hành giả của giai đoạn phát triển thì người ấy, nhờ thói quen của sự thực hành deity yoga trong đời, sẽ có thể tập trung trên chủng tự hay các chữ mantra trong tim của deity (bổn tôn). Việc đi vào sự tỉnh giác thiền định của bổn tôn theo cách đó sẽ đưa đến giải thoát vào giây phút này. Nếu người hấp hối đã thực hành tsalung, thì nhờ thói quen của sự thực hành Không-Lạc trong một trạng thái của bốn hỉ lạc, họ sẽ đi vào trạng thái tỉnh giác trí huệ. Một hành giả bình thường hơn có thể nhớ lại sáu hồi niệm vào lúc này. Chúng là hồi niệm về bổn tôn, giới luật, tăng đoàn, đức hạnh và v.v... Dù có thể ở trong bất kỳ tình huống nào, các hành giả phải nhớ lại và sử dụng thói quen mạnh mẽ nhất của họ vào giây phút quyết định này. Nếu người hấp hối là một tăng hay ni, người ấy có thể nhớ lại các cam kết đã được lập ra để duy trì các nguyện hay giới luật nào đó. Nếu người hấp hối đã thực hành bố thí, họ có thể nhớ lại các hành động bố thí và hành vi đạo đức đó mà họ đã quen thuộc. Nếu người ấy đã từng là một hành giả trì tụng thần chú, người ấy có thể nhớ lại các thói quen của tâm. Nếu người ấy đã từng là một hành giả Dzogchen, người ấy có thể nhớ lại cái thấy (kiến) và đạt được giải thoát trong Pháp Thân bằng cách hợp nhất giác tánh bất nhị với Đức Phật Vajradhara hay Samantabhadra (Phổ Hiền). Sự hồi niệm này thì tối cao. Nếu người ấy đã là một hành giả mahayoga hay anu yoga, người ấy có thể thấu suốt kinh nghiệm của Đức Vajradhara và đạt giải thoát. Nếu người ấy đã trì tụng OM MANI PADME HUNG, thì riêng điều này đã có thể là một hồi niệm rất mãnh liệt của kinh nghiệm cận tử.

Trái lại, nếu người hấp hối không có các thói quen tích cực hay đức hạnh, thì sau khi các tia sáng trắng và đỏ xảy ra và hai chủng tử hợp nhất, trong kinh nghiệm cận tử về bóng tối tâm thức sẽ mê lạc vào a lại da, là thức nền tảng rộng khắp. Trái lại, một hành giả vào giây phút kinh nghiệm cận tử sẽ tri giác sự ló rạng của ánh sáng căn bản, kinh nghiệm tịnh quang, tinh khiết như một bầu trời không mây, rực rỡ và chói ngời. Kinh nghiệm đó giải thoát khỏi bất kỳ che chướng hay dấu vết che chướng nào. Nếu người ấy đã được đưa vào tịnh quang trong đời mình và quen thuộc với sự thiền định, thì người ấy có thể đã từng thể nhập tịnh quang được minh họa khiến khi tịnh quang mẹ xuất hiện, thì sẽ giống như một đứa trẻ nhận ra được mẹ nó và lập tức nối kết bằng cách nhảy vào lòng bà. Tịnh quang được minh họa, nhờ năng lực của sự nhận thức, chuyển hóa thành ánh sáng mẹ hay ánh sáng căn bản. Không có gì quan trọng hơn việc nhận ra ánh sáng mẹ vào lúc này.

Nhưng, điều này có thể hoàn toàn chỉ là lối nói hoa mĩ, chỉ là bàn luận suông. Nếu các bạn không thực hành, nghiệp của các bạn sẽ quá tiêu cực khiến không thể hiểu thấu điều này và các bạn sẽ hoàn toàn tiếp tục lang thang trong sinh tử. Không có thực hành các bạn hoàn toàn rất tầm thường và sẽ chỉ kinh nghiệm ánh sáng trắng, ánh sáng đỏ và sự tối sầm. Đây là một kinh nghiệm khó vượt qua đến nỗi, nói đúng ra, chỉ có các hành giả cao cấp nhất mới có thể thực sự chiến thắng giây phút này trong một ý nghĩa tuyệt đối và thành tựu thân cầu vồng. Trong tất cả những trường hợp cá biệt khác sẽ chỉ là những dấu vết vi tế của những mê lầm thuộc về nghiệp. Mọi chúng sinh trong ba cõi đều phải chết trong cách này, không một ai được miễn trừ tiến trình này. Ngay cả những lama giàu có nhất cũng phải ra đi theo lối đó. Chẳng có lợi lạc gì đối với các hoạt động mà bản thân các bạn dính líu vào để tích lũy của cải. Bằng cách đi vào con đường với cam kết chân thực và samaya (hứa nguyện) trong sạch, người ta hoặc hướng trực tiếp tới mục đích giải thoát hoặc lạc đường và trộn lẫn Pháp thanh tịnh với cái thấy bất tịnh cùng các hoạt động bất tịnh, do đó đổi hướng và tiến về sự tái sinh trong các cõi thấp. Đây là lý do vì sao rất cần sử dụng tốt đẹp sự tái sinh làm người quý báu này.

Các bạn đã nhận được các giáo huấn trực chỉ cốt tủy bắt nguồn từ Đức Padmasambhava nhưng ngoài việc ấy ra tình huống của các bạn thực sự là rất vô ích. Tuy nhiên, nếu các bạn có thể hoàn toàn nhận thức được sự quý báu của những giáo lý dẫn tới giải thoát này, thì lần lượt các bạn có thể thực sự đạt được giải thoát. Các bạn có thể nhận ra điều đó không? Các bạn có thể thiền định về nó? Đây có phải là điều mà các bạn thực sự nghĩ rằng các bạn có thể thực hiện? Xin hãy nhận ra cơ hội mà các bạn đang có, sự quý báu của các giáo lý này và xin hãy thực hành. Đừng chỉ là một kẻ khùng điên và tiêu phí cơ hội này. Các giáo huấn trực chỉ không bao giờ được xa lìa. Đức Phật A Di Đà không ở quá xa. Đức Phật nguyên thủy Phổ Hiền không ở quá xa. Nếu các bạn biết phải thiền định thế nào các bạn sẽ khám phá sự bất nhị và các bạn sẽ khám phá ra rằng không có sự phân cách giữa các bạn và chư Phật.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Bản tánh của tâm thì trống không, thoát khỏi mọi giới hạn. Nó không màu sắc, hình dạng hay các yếu tố phân biệt đối với bất kỳ loại nào và tuy thế nó lang thang trong sinh tử, kinh nghiệm nỗi khổ và tích tập nghiệp. Thực ra, tâm có năng lực để đạt được tự do và kinh nghiệm được đại lạc và hạnh phúc chân thật. Tất cả chín thừa của Phật Pháp hiện hữu là để cho bản tánh của tâm có thể được thấu suốt phù hợp theo các nhu cầu và khả năng của hành giả. Mỗi phái tìm kiếm để khám phá trạng thái vô ngã và định danh sự khám phá đó một cách thích hợp. Một vài phái gọi nó là bản tánh của tâm. Các Thanh Văn gọi nó là sự không có cá tính đối với một con người. Phái Yogachara, “Duy Thức” gọi nó là tâm không có bản ngã (vô ngã). Phái Trung Quán gọi nó là trung đạo. Các phái khác gọi nó là trí huệ siêu việt, tinh túy của các đấng Thiện Thệ, mahamudra (Đại Ấn), một bindu tinh túy, nền tảng rộng khắp, giác tánh bình thường hay tamal gyi shepa. Khi ta bắt gặp nó, bất chấp sự định danh của nó, không chút hồi niệm các sự kiện trong quá khứ, không cần đến sự tiên liệu các sự kiện trong tương lai, trong giây phút hiện đây, để mặc như nó là, tâm bình thường hay giác tánh (sự tỉnh giác) này không phải là cái gì trống rỗng hay hư vô mà đúng hơn nó hoàn toàn rõ ràng. Nó không là cái gì đặc biệt, phi thường vì sự biểu hiện của giác tánh thì vô hạn. Nó không tản mác bởi nó là nhất-vị. Tinh túy là Pháp Thân. Bản tánh là Báo Thân. Phẩm tính là Hóa Thân và sự không thể phân chia của ba điều đó là svabhavakaya (Thân Tự Tánh). Sự truyền dạy này được trao cho Lhacham Pema Sel trong đời Đức Padmasambhava. Bà đã giữ gìn nó và về sau đã hóa thân là Longchenpa là bậc đã ban các giáo lý Dzogchen kỳ diệu nhất. Đây là các giáo huấn tinh túy đến trực tiếp từ Đức Padmasambhava và chúng chỉ dạy cách thức đạt được giải thoát. Điều này được thành tựu nhờ thấu suốt cái thấy về giác tánh nội tại. Sau khi nhận được các truyền dạy và giáo huấn về bản tánh này, điều quan trọng là đưa chúng vào đời sống của các bạn bằng cách thực hành chúng. Một khi các bạn đã được dạy cách thiền định, quả là một phí phạm lớn lao nếu các bạn không thực hành.

Các giáo lý này là tâm yếu của Đại Thành tựu giả vĩ đại Karma Lingpa. Bởi chúng ta không biết được chúng ta sẽ còn sống vào ngày mai không nên bây giờ là lúc để chuẩn bị cho cái chết và cách tốt nhất để làm điều đó là thể nhập cái thấy Dzogchen. Cái thấy đó sẽ siêu vượt các giai đoạn tan rã vào lúc chết : tia sáng trắng, tia sáng đỏ, và sự thoáng ngất tối sầm, được theo sau bởi sự ló rạng của tịnh quang. Nếu chúng ta quen thuộc với giác tánh tịnh quang thì khi đó ta sẽ đạt được giải thoát trong ánh sáng căn bản. Nếu không, Bardo Pháp Tánh sẽ xuất hiện và chúng ta sẽ có các cơ hội khác để nhận ra các cõi Phật thuần tịnh như sự phô diễn của các bổn tôn xuất hiện trước tiên trong sự biểu lộ an bình và sau đó trong biểu lộ phẫn nộ. Nếu các cõi Phật không được nhận ra và nếu sự giải thoát không xảy ra thì Bardo Trở thành sẽ rõ ràng và ta sẽ bị lôi vào các trạng thái tái sinh trong sinh tử trong tương lai. Cho tới khi tri giác mê lầm được giải thoát, các bạn sẽ tiếp tục khoác lấy các hình tướng và trải nghiệm thân xác các bạn đang bị thiêu đốt trong địa ngục hay bất kỳ kinh nghiệm nào của hiện thân vật lý, và cứ lặp đi lặp lại mãi. Nó sẽ không ngừng dứt cho tới khi sự mê lầm trong tâm bị cạn kiệt. Sự mê lầm trong tâm bị cạn kiệt nhờ thiền định. Nếu các bạn không thực hành, thì các bạn hy vọng điều gì? Làm thế nào tôi có thể giúp đỡ các bạn? Điều khiến tôi có phần e ngại là đã quá rộng rãi với những khám phá quý báu này, nhưng điều đó là xứng đáng nếu các bạn đưa những giáo lý này vào tâm khảm và thực hành chúng. Hãy thận trọng suy nghĩ điều này. Nếu các bạn không thiền định, thế thì không tốt. Nó làm suy đồi mọi sự. Mọi sự trở nên hư hỏng. Xin đừng lãng phí cơ hội này. Hãy nỗ lực thực hành.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

CHƯƠNG 7

BARDO PHÁP TÁNH

aaaaTối nay chúng ta sẽ thảo luận về Bardo Pháp tánh, sự tự-giải thoát nhờ cái thấy, nó tương tự như một đứa trẻ đang nghỉ ngơi trong lòng mẹ. Các giáo lý về Bardo Pháp tánh đặc biệt liên quan tới sự phô diễn của giác tánh nội tại của ta. Bản văn gốc nói : “Giờ đây, khi Bardo Pháp tánh hé mở đối với tôi, tôi sẽ từ bỏ tất cả các niệm tưởng sợ hãi và kinh khiếp. Tôi sẽ nhận ra bất kỳ điều gì xuất hiện như phóng chiếu của riêng tôi và nhận biết nó là một thị kiến của Bardo. Giờ đây tôi đã đi tới thời điểm quan trọng này tôi sẽ không sợ hãi những bậc an bình và phẫn nộ là những phóng chiếu của chính tôi.”

Thực ra, trước khi thảo luận về Bardo Pháp tánh, tôi muốn bàn thêm về sự chuyển di tâm thức, sự thực hành việc đưa tâm thức đi lên và ra ngoài kinh mạch trung ương. Trong truyền thống Longsal Nyingpo, ta quán tưởng chính mình là Đức Avalokiteshvara, trong trung tâm của ta là kinh mạch trung ương thẳng như một thân tre. Ta quán tưởng sinh khí và tâm mình là một trái cầu, kích thước bằng một trái trứng đầu tiên mà con gà mái đẻ ra, ở trong kinh mạch trung ương, ở khoảng trái tim. Ta quán tưởng Đức A Di Đà ở trên đỉnh đầu và tưởng tượng rằng tâm thức mình là một bindu ánh sáng. Bindu này thì nổi và rung động, được phóng lên và ra ngoài kinh mạch trung ương giống như một ngôi sao băng, hợp nhất với tâm Đức A Di Đà và trở nên không thể ly cách với Đức A Di Đà.

Có nhiều truyền thống về phowa. Kỹ thuật khác sẽ quán tưởng bản thân mình là Vajravarahi, duy trì sự tỉnh giác về ba kinh mạch, là kinh mạch trung ương và các kinh mạch trái và phải. Đức Phật Vajradhara sẽ được quán tưởng ngay trên đỉnh đầu ta và tâm thức được phóng lên qua kinh mạch trung ương đi vào tim Đức Vajradhara.

Trong truyền thống Nyingthig, ta quán tưởng chính mình là Vajrayogini, kinh mạch trung ương thẳng đứng như cành tre và tâm thức được bắn vọt lên và ra ngoài với âm thanh PHAT.

Trong một terma mà tôi đã khám phá, ta quán tưởng mình là dakini Yeshe Tsogyal. Guru Dewachenpo, tức Padmasambhava trong biểu lộ của đại lạc, được quán tưởng trên đỉnh đầu ta và được vây quanh bởi một đoàn tùy tùng gồm các đạo sư dòng truyền thừa. Sau khi dâng một bài cầu nguyện khẩn cầu đặc biệt, tâm thức, một bindu của năng lực ánh sáng, được phóng lên qua kinh mạch trung ương, ra ngoài đỉnh đầu ta ở đó nó hợp nhất với tâm của Guru Đại Lạc.

Theo truyền thống về sáu Bardo, ta quán tưởng thân mình như một thân ánh sáng gồm có năm màu cầu vồng, với kinh mạch trung ương và hai kinh mạch phụ ở hai bên. Ta quán tưởng tâm mình là một bindu ánh sáng ở trong kinh mạch trung ương. Khi ta tụng âm PHAT, tâm thức được phóng lên và ra ngoài đi vào tim Đức A Di Đà, ở đó nó tan ra. Đây là sự thực hành phowa với ba nhận thức.

Nếu các bạn có thể thành tựu kỹ thuật phowa tối cao, nhận ra giác tánh nội tại trống không vào lúc chết, niêm phong giây phút đó với cái thấy của Đại Viên Mãn, thì các bạn sẽ được giải thoát trong Pháp Thân. Nếu các bạn đã từng là một hành giả mahayoga thuộc giai đoạn phát triển thì vào lúc chết các bạn sẽ quán tưởng chính mình là vị bổn tôn mà các bạn đã liên hệ với chẳng hạn Vajrakilaya, Yamantaka v.v... và duy trì sự tỉnh giác về chủng tự trong trung tâm tim của các bạn với các chữ thần chú xoay tròn. Các bạn sẽ kinh nghiệm giây phút chết theo cách đó và đạt được giải thoát như một Báo Thân Phật.

Nhiều người trong các bạn cần nương cậy vào phowa với ba nhận thức vào lúc chết. Ba nhận thức này là nhận thức kinh mạch trung ương như con đường, tâm thức hành giả như kẻ du hành trên con đường và Dewachen, cõi Cực Lạc, như đích đến. Trọng tâm của thực hành này là đưa tâm thức ta đi lên và ra ngoài kinh mạch trung ương khiến nó hợp nhất với tâm Đức A Di Đà. Nếu các bạn không thể quán tưởng điều đó một cách rõ ràng, các bạn cần tưởng tượng rằng tâm các bạn không ly cách với tâm Đức A Di Đà. Phowa với ba nhận thức thì cực kỳ mạnh mẽ và đem lại các sự ban phước to lớn.

Bây giờ, các thực hành liên kết với Bardo Đời Này và Bardo Thiền định chuẩn bị cho ta kinh nghiệm về sự xuất hiện của Pháp tánh là phô diễn của sự thuần tịnh nguyên thủy. Trạng thái thuần tịnh nguyên thủy được thể nhập qua con đường trekchod – “sự cắt đứt để đi vào sự thuần tịnh nguyên thủy”. Một khi các bạn chứng ngộ cái thấy nhờ trekchod, thì các bạn có thể thể nhập rigpa như con đường tošgal – “sự vượt qua với sự hiện diện tự nhiên”. Theo cách này, các bạn có thể đạt được giải thoát trong đời bạn vào lúc chết, hay khi tịnh quang mẹ ló rạng và được nhận ra. Các bạn cũng có thể đạt được giải thoát khi sự phô diễn của các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ xuất hiện và được nhận ra như sự phô diễn của giác tánh của chính các bạn. Một nền tảng vững chắc của sự thực hành trong đời này cho phép các bạn tự quen thuộc với các kỹ thuật này. Không có nó, sự giải thoát sẽ không xảy ra. Nhưng chỉ đơn thuần quen thuộc với thực hành tošgal sẽ bảo đảm sự nhận ra bản tánh của sự phô diễn của các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ và các bạn sẽ không còn tái sinh trong vòng sinh tử nữa. Đây là một thực hành sâu xa gieo trồng các hạt giống giải thoát rất sâu xa trong tâm thức các bạn.

Giáo lý về Bardo Pháp tánh có bốn phần. Phần thứ nhất là để cho ba cửa (thân, ngữ, tâm) nghỉ ngơi trong sự hòa hợp của chính chúng, để mặc chúng an dịu như một giòng sông trong sự hòa điệu của riêng chúng. Phần thứ hai, sử dụng các giáo huấn tinh yếu của đạo sư, là nghỉ ngơi trong bản tánh của các sự vật, cách thức chúng thật sự an trú. Thứ ba là nghỉ ngơi tự nhiên; để thành tựu điều này, có bốn loại sự dán chặt thiền định, trong đó người ta thiền định một cách tự nhiên về sự cắt đứt đến cái thuần tịnh nguyên thủy. Phần thứ tư là thâm nhập vào bản tánh của tâm bằng cách vượt qua với sự hiện diện tự nhiên – sự hiện diện tự nhiên của ying, thigle và rigpa. Như thế, ta đạt được thân cầu vồng Pháp Thân.

Các vấn đề then chốt của ba cửa thân, ngữ và tâm thì thiết yếu trong việc giữ gìn sự thực hành của ta hoàn toàn thanh tịnh. Đối với thân, ta có ba tư thế căn bản trong tošgal, nó tương ứng với ba thân. Thứ nhất là tư thế hóa thân, nó giống như tư thế của một hiền nhân. Thứ hai là tư thế báo thân, nó giống như tư thế của một con voi đang ngủ. Thứ ba là tư thế pháp thân, nó giống như tư thế của một con sư tử tuyết ngồi thẳng đứng trên cặp đùi của nó.

Trong thực hành Troma, tư thế báo thân là tư thế bảy điểm của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na. Ba tư thế của thân thì khác biệt theo các truyền thống khác nhau. Tư thế pháp thân sư tử tuyết thật tuyệt hảo. Có nhiều trích dẫn về tầm quan trọng của các sự ban phước chỉ có được từ các tư thế. Các trích dẫn này có thể được tìm thấy trong các bản văn như Dra Thal Gyur, mười bảy Tantra và Mutig Trengwa, hay Chuỗi Ngọc. Sự giảng dạy về các tư thế mà tôi đưa ra ở đây phù hợp với terma của ngài Karma Lingpa. Theo truyền thống, các giáo lý tošgal được ban cho bảy đệ tử mỗi lần và sự thực hành được thực hiện một cách lý tưởng khi bầu trời trong trẻo và lặng gió. Thực hành này phải được thực hiện ở một nơi cô tịch.

Trong tư thế pháp thân sư tử tuyết, các bạn đặt hai bàn chân cạnh nhau. Nắm bàn tay lại thành kim cương quyền, các bạn đặt chúng ở phía trước chân mình, vươn thân trên lên để nó thật thẳng. Đầu các bạn hơi cúi xuống. Khi thân thẳng thắn, các kinh mạch thẳng và tâm thức trong sáng, điềm tĩnh và thoát khỏi các vật chướng ngại trong các kinh mạch năng lực. Sau đó, bằng nhãn quan, cái nhìn của các bạn được giữ trong cách thế sẽ được mô tả về sau. Ngay bây giờ chúng ta sẽ tập trung vào các tư thế.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Tư thế thứ hai là tư thế báo thân của một con voi đang ngủ. Trong tư thế này, các bạn cúi mình xuống trên đầu gối, hai khuỷu tay trên mặt đất và cằm nằm trong lòng hai bàn tay. Đầu các bạn hơi nâng lên.

Tư thế thứ ba là tư thế hóa thân của một hiền giả. Trong tư thế này, các bạn ngồi với đôi bàn chân trên mặt đất và đầu gối hướng lên. Các khuỷu tay chạm vào đầu gối, chân các bạn cạnh nhau, và hai tay được xếp chéo lại, tay phải trên tay trái với các ngón tay chạm vai. Xương sống cần thật thẳng.

Đây là ba tư thế của thực hành tošgal giúp cho bản tánh trí huệ nguyên thủy bẩm sinh được nhận thức một cách trực tiếp. Nhờ các tư thế này mà bản tánh trí huệ bẩm sinh của ta hiển lộ tự nhiên. Vấn đề then chốt của thân là giữ lấy một trong những tư thế. Hãy để nó tự nhiên.

Vấn đề then chốt của ngữ có ba điểm : thứ nhất là giảm thiểu sự trò chuyện, thứ hai là giữ chánh niệm trong ngôn ngữ của ta và thứ ba là hoàn toàn loại trừ ngôn ngữ theo cách tiệm tiến. Vấn đề căn bản ở đây là ngôn ngữ không bao giờ chấm dứt, vì thế hãy cắt đứt lời nói không cần thiết. Trong khi thiền định đừng nói năng bất cứ điều gì.

Vấn đề then chốt của tâm là thể nhập giác tánh thuần tịnh, duy trì sự trong sáng không phóng tâm và với mức độ tập trung nào đó. Đừng đi vào những ý niệm. Chỉ mặc cho tâm ngơi nghỉ.

Vấn đề then chốt để giữ gìn sự tỉnh giác của ba cửa là an trụ trong tri giác trực tiếp. Ở đây ta đang đi vào sự tự-tỉnh giác về bản tánh của nó như ba thân. Sự phô diễn bẩm sinh của giác tánh là cái thấy về thigle (bindu), các phần tử xuất hiện một cách khách quan trong không gian trước mặt.

Sau đó chúng ta có vấn đề then chốt để thực hành. Lối vào ban đầu đối với sự thực hành là nhờ nhãn quan và cách nhìn thích hợp. Ta nên cố gắng giữ con mắt thật yên. Trước tiên, có cách nhìn của pháp thân là nhìn lên không gian với một tiêu điểm thật yên tĩnh. Việc duy trì cái nhìn pháp thân này tự động cắt đứt tri giác mê lầm. Thứ hai là cách nhìn báo thân, là nhìn thẳng vào không gian trước mặt. Cách nhìn này đem lại tri giác thuần tịnh về trí huệ nguyên thủy. Thứ ba là cách nhìn hóa thân, là nhìn hướng xuống cho ta khả năng kiểm soát sinh khí và tâm vi tế của ta. Đây là ba cách nhìn trong khi thực hành tošgal.

Có hai đối tượng bên ngoài mà ta tập trung vào bằng cái nhìn : phạm vi bên ngoài và phạm vi bên trong. Phạm vi bên ngoài là không gian không vướng bận bởi bất kỳ chướng ngại nào như những đám mây hay các vật thể được tạo dựng. Phạm vi bên trong là ánh sáng chói. Một lần nữa, phạm vi bên ngoài là không gian tự do đối với mọi dấu vết hay sai sót nào và phạm vi bên trong là ánh sáng thuần tịnh chính là giác tánh bẩm sinh của ta. Hai phạm vi này được hợp nhất nhờ sự thực hành. Ta dùng các đối tượng bên ngoài như mặt trời, mặt trăng hay một ngọn nến khi thực hành.

Cuối cùng, ta phải kiểm soát sinh khí. Phải biết cách nín khí (hơi), cách thở ra, và cách kiểm soát hơi thở bình thường trong ba giai đoạn này. Giáo lý này phù hợp với Bardo Pháp tánh bởi vì nếu thành tựu, khi sự phô diễn của các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ xuất hiện, ta sẽ không sợ hãi.

Bây giờ, tôi muốn quay trở lại việc thảo luận về các dấu hiệu của cái chết. Các dấu hiệu của cái chết rất cần được nhận ra khi cái chết đang nhanh chóng đến gần. Là chúng sinh trong sáu cõi, chúng ta không thể tránh khỏi việc gặp gỡ cái chết. Cái chết xảy đến bởi một trong hai lý do : sự cạn kiệt của nghiệp hay sự tấn công của các điều kiện, các tình huống hay các trở lực bất ngờ. Khi cái chết xảy đến do sự cạn kiệt của nghiệp và sinh lực, nếu là một tình huống may mắn thì ta có thể chết từ từ trên giường có bạn hữu và những thành viên trong gia đình vây quanh. Tình huống này không ít thì nhiều có thể thoải mái hơn, và các giai đoạn của cái chết sẽ trở nên rõ ràng trong một trật tự tiệm tiến liên tiếp. Một cái chết bất ngờ thì không nhất thiết là do sự cạn kiệt của nghiệp. Đúng hơn, nó phải thực hiện với sự tấn công của một trở lực lấy đi mạng sống của ta, như một tai nạn xe hơi hay một xáo trộn về các đại trong việc bị sét đánh. Khi ấy không có các giai đoạn tan rã nhưng thật đột ngột, ta có kinh nghiệm về trạng thái không ý thức là giai đoạn sau cùng của ba giai đoạn tan rã : sự xuất hiện của màu trắng, sự xuất hiện của màu đỏ và sự thoáng ngất tối sầm đột ngột vào lúc chết. Trong trường hợp cái chết thình lình, ba giai đoạn đó xảy ra nhưng chúng sẽ không được nhận ra. Kinh nghiệm sẽ rất thô lậu và nặng nề, và ta sẽ lập tức rơi vào trạng thái thoáng ngất, không hiểu biết chút gì về điều xảy ra và sau đó tỉnh lại trong trạng thái trung ấm. Cách thức chết này thật khó khăn bởi nỗi đau khổ và vô minh to lớn mà nó đem lại. Khi các giai đoạn tan rã không rõ ràng thì còn khủng khiếp và sợ hãi hơn nữa trong bardo. Tốt hơn là ta có cơ hội để chết chậm rãi, trải qua một thời gian ở nơi mà ta có sự tỉnh giác nào đó về các giai đoạn tan rã. Nếu các bạn gặp cái chết bất thần thì cho dù các bạn là một hành giả Pháp, các bạn sẽ không có thì giờ để chuẩn bị bằng cách cử hành các bài khẩn nguyện và các thực hành khác mà có thể các bạn đã tu tập suốt đời mình. Các bạn sẽ không được tự do để tự quán tưởng mình là một bổn tôn bởi các bạn sẽ bị tóm lấy vào giây phút chết đó. Đây là lý do khác của việc tại sao điều quan trọng là các hành giả Dzogchen phải duy trì sự tỉnh giác về giác tánh nội tại và an trụ trong cái thấy (kiến) ở mọi lúc.

Nếu bản thân các bạn quen thuộc với pháp phowa trong đời các bạn, quen thuộc việc quán tưởng tâm các bạn như một quả cầu ánh sáng trí huệ được phóng thẳng lên kinh mạch trung ương như một ngôi sao băng và thoát ra đỉnh đầu các bạn đi vào cõi thuần tịnh hay trái tim của Đức Phật, nếu các bạn đã từng phát triển một thói quen mạnh mẽ là đưa tâm thức mình đi lên và ra ngoài, và lập đi lập lại điều này, thì có thể ngay cả trong trường hợp một cái chết bất ngờ, đây sẽ là nơi mà tâm thức có thể xuất ra khỏi thân thể. Một hành giả Dzogchen cần luôn luôn duy trì sự tỉnh giác vào mọi lúc. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng. Nếu các bạn may mắn, các bạn sẽ không chết bất ngờ trong đời này và sẽ có cơ hội để chết trên giường các bạn, với thuốc thang hảo hạng, có các bác sĩ, y tá và những người thân yêu ở xung quanh. Các bạn sẽ có tự do để thực hiện sự thực hành của mình. Và trong cách này, các bạn sẽ có cơ hội để quán tưởng các giai đoạn của sự tan rã. Ở mặt khác, tôi nói cho các bạn rõ là ngay cả việc tưởng tượng các giai đoạn này cũng là điều cực kỳ khó khăn. Vào lúc chết, nếu các bạn không có sự tỉnh giác hay căn bản của sự thực hành, thì trong trường hợp một cái chết bất ngờ, các bạn sẽ chỉ rơi vào một trạng thái mất ý thức còn nặng nề hơn bất kỳ giấc ngủ sâu nào mà các bạn từng kinh nghiệm. Khó mà đảo ngược lại được, cho dù các bạn đang chết từ từ. Nếu các bạn không tỉnh giác về sự tan rã, các bạn sẽ bị đánh bại bởi sự hôn trầm nặng nề của tiến trình hấp hối. Sẽ là một sự tràn ngập khủng khiếp khi ba giai đoạn xảy ra. Các bạn sẽ không được tự do để kiểm soát nó trừ khi các bạn có thói quen về Pháp rất mạnh mẽ. Cực kỳ khó khăn để làm điều gì đó trong lúc này. Nó không giống như bất kỳ giây phút nào khác. Tâm thức bị tràn ngập. Dù ta chết bởi sự cạn kiệt của nghiệp hay bởi một điều kiện (duyên) bất ngờ, thì trong ý nghĩa nào đó chúng cũng giống nhau ít nhiều. Các bạn phải tu tập và chuẩn bị bất cứ điều gì.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Sự cạn kiệt của nghiệp cũng có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào. Các bạn có thể chết khi các bạn còn trẻ hay khi già đi. Có thể vào bất cứ lúc nào. Khi thần chết đến thăm các bạn, chào hỏi, và đưa các bạn sang trạng thái tái sinh kế tiếp, các bạn sẽ kinh nghiệm kết quả của những nguyên nhân mà các bạn đã tích tập trong đời này. Thời gian mà các bạn dâng hiến cho sự thực hành Pháp sẽ là kho công đức các bạn mang theo mình. Công đức này sẽ kéo dài bao lâu mà năng lực của nó tồn tại, nó được đặt nền trên sức mạnh của sự tích tập của nó. Đó là những gì sẽ thúc đẩy các bạn đi vào trạng thái tái sinh kế tiếp của các bạn, dù là tái sinh như một vị trời, người hay bất kỳ loại thân tướng nào có thể. Rõ ràng là các bạn phải nhận thức rằng karma (nghiệp) là thật có. Được đặt nền trên định luật nhân quả, kết quả của sự thực hành Pháp là đức hạnh và hạnh phúc.

Có nhiều người trong căn phòng này tối nay, và mọi người trông rất khác biệt nhau. Ai nấy đều có vẻ khác nhau. Mọi người có những thái độ khác nhau, hiểu biết các giáo lý bằng những cách khác nhau, có một đời sống gia đình khác nhau, mức độ giàu có khác nhau và v.v... Căn nguyên của mọi sự này là nghiệp. Thọ mạng mà các bạn sẽ trải qua, dù dài hay ngắn, thì hoàn toàn do bởi nghiệp của các bạn, và chỉ có nghiệp của các bạn là sẽ quyết định các bạn sống thọ bao lâu và các bạn sẽ có bao nhiêu thời gian để chuẩn bị cho giây phút quan trọng đó.

Ở Tây Tạng, hầu hết mọi người chết vì ăn uống không thích hợp. Tôi không biết trong quốc gia này đa số các bạn chết ra sao, nhưng đó là nguyên nhân cái chết của phần lớn người Tây Tạng. Dù bất kỳ tình huống nào, điều đầu tiên sẽ xảy ra cho người hấp hối là họ sẽ không nghe rõ ràng các lời nói chuyện. Mọi âm thanh sẽ trở nên mơ hồ, và khi thời gian qua đi người hấp hối sẽ không hiểu được điều gì diễn ra quanh họ. Đây là sự bắt đầu của tiến trình chết. Sau đó thịt tan vào địa đại. Các chất lỏng tan vào thủy đại. Rồi hơi ấm trong thân tan vào hỏa đại. Khi tâm thức tan vào không gian (không đại), đó chính là giây phút các kinh nghiệm về “con đường trắng”, “con đường đỏ”, và “con đường đen” xảy ra.

Như thế, đi ngược lại tiến trình, thịt, xương và mỡ của chúng ta, tất cả những thứ ấy bắt nguồn từ địa đại tan trở lại vào địa đại. Khi các chất lỏng tan trở lại vào nước, chúng chảy ra ngoài thân thể mà không kiểm soát được. Hơi ấm của thân thể tan vào hỏa đại. Hơi thở tan vào gió và gió-ở khắp lưu hành khắp trong thân thể ta tan vào gió của chất tinh túy của đời sống. Vào lúc này hơi thở bên ngoài chấm dứt. Điều này xảy ra trước sự ngưng dứt của hơi thở bên trong, vào lúc đó 84.000 loại mê lầm chấm dứt. Sau đó các loại gió (khí) khác tan rã. Có năm loại gió (khí) chính. Gió-ở khắp tan thành gió của đời sống. Sau đó là sự tan rã của gió tràn lên, gió dồn xuống, và các gió hơi ấm và hấp thu, tất cả chúng đều tan rã. Khi những gió này tan rã ta không bất có bất kỳ kinh nghiệm cảm xúc nào nữa. Tiến trình tan rã này xảy ra cho tất cả chúng sinh trong vòng sinh tử nhưng khi họ không nhận ra tiến trình và không có sự tỉnh giác, họ lại tiếp tục tái sinh và cứ lập đi lập lại như thế. Trong sự tái sinh đó, họ tích tập thêm nghiệp tiêu cực và nhận ra tái sinh khác. Chúng sinh bị mắc bẫy trong vòng tái sinh bất tận này được đặt nền tảng trên nghiệp tiêu cực. Cực kỳ quan trọng là phải có sự tỉnh giác nào đó về tiến trình này để các bạn có thể duy trì tỉnh thức trong nó và đạt được giải thoát nhờ sự tỉnh giác đó.

Hạt giống (chủng tử) mà ta nhận từ người cha lúc thụ thai, nó từ đỉnh đầu đi xuống kinh mạch trung ương. Lúc đó ba mươi ba ý niệm được đặt nền trên sự sân hận bị ngưng lại và có kinh nghiệm về tia sáng trắng, nơi đó mọi sự trở nên trắng như một vầng trăng tròn xuất hiện trong không gian. Khi điều này xảy ra ta sẽ không tỉnh lại từ tiến trình hấp hối. Vào giai đoạn này, không thể thay đổi gì được nữa. Rồi hạt giống đỏ được nhận từ người mẹ lúc thụ thai đi lên kinh mạch trung ương tới tim. Điều này được kinh nghiệm như một tia sáng đỏ, giống như một mặt trời sáng chói, và vào lúc đó bốn mươi ý niệm được đặt nền trên sự tham muốn bị ngưng lại. Khi hai hạt giống này được hợp nhất ở trung tâm tim, ta kinh nghiệm sự thoáng ngất tối đen của giây phút chết. Khi hạt giống trắng rơi từ đỉnh đầu xuống trái tim thì cũng có một kinh nghiệm về hỉ lạc đang tràn ngập và không giống bất kỳ hiện tượng nào xảy ra trong các trạng thái tỉnh giác khác. Ta hoàn toàn bị kiệt quệ bởi kinh nghiệm hỉ lạc này. Khi hạt giống đỏ đi lên trái tim, lúc tia sáng đỏ xảy ra, ta có kinh nghiệm về sự trong sáng tương ứng với sự tham muốn. Khi hai hạt giống hợp nhất trong tim, sự thoáng ngất đen tối xảy ra, có một kinh nghiệm mãnh liệt về bóng tối dày đặc. Vào lúc đó, các ý niệm được liên kết với sự mê lầm bị ngưng lại và vào lúc đó ta chết.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2 Thg 12 2006
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Kinh nghiệm hỉ lạc xảy ra tương tự như sự hỉ lạc được kinh nghiệm trong hoạt động tính dục. Khi tâm thức được thụ thai trong tử cung của bà mẹ, trong hành vi tính dục của cha mẹ, do khuynh hướng nghiệp nó đi vào miệng người cha, đi xuống và qua cơ quan của cha, đi vào cơ quan của mẹ, tan hòa trong hạt giống của mẹ và sự thụ thai xảy ra. Tâm thức kinh nghiệm hỉ lạc vào lúc thụ thai. Đây cũng là loại hỉ lạc được kinh nghiệm bởi người hấp hối khi hạt giống trắng rơi xuống tim. Nó được gọi là kinh nghiệm ban đầu-đồng xuất hiện về hỉ lạc, nó chỉ lập lại chính nó vào lúc chết. Đối với một hành giả mật thừa đã quen thuộc với các thực hành tương ứng với quán đảnh thứ ba, sự thực hành anu yoga quét sạch các khuynh hướng vi tế hấp dẫn tới kinh nghiệm hỉ lạc này. Một hành giả Dzogchen có phẩm chất thực hành với một phối ngẫu có thể tạo nên kinh nghiệm hỉ lạc này để thấu suốt bản tánh của nó và tịnh hóa các khuynh hướng trong một chiều hướng bình thường. Điều này được thành tựu qua sự thực hành được gọi là thực hành Không-Lạc của bốn niềm vui. Sự thực hành này thiết lập các tình huống nhờ đó ta có thể tẩy bỏ các thói quen của hỉ lạc bình thường. Đây là năng lực của sự thiền định thuộc giai đoạn thành tựu.

Khoảng thời gian khi tâm thức kinh nghiệm sự thoáng ngất thường kéo dài khoảng ba ngày, mặc dù trong trường hợp của một hành giả nó có thể kéo dài bảy ngày hay hơn nữa. Một khi trạng thái này chấm dứt, người hấp hối kinh nghiệm sự ló rạng của ánh sáng căn bản xuất hiện như con đường đi tới giải thoát. Nếu họ đã là một hành giả Dzogchen và đã thiền định về giác tánh nội tại trống không, thì thậm chí chỉ ba phút của sự thiền định đó cũng được nhân đôi lên vào lúc này trong Bardo. Nó cho ta một cơ hội tốt hơn để đạt được giải thoát khi tịnh quang mẹ xuất hiện và được nhận ra. Việc nhận ra tịnh quang thì thật huy hoàng bởi vì toàn bộ nền tảng của trái đất, tất cả các hiện tượng, chuyển hóa thành ánh sáng xanh dương tinh tế chói lọi và ta nhận thức được mình là thành phần của sự phô diễn vĩ đại này của ánh sáng xanh dương, là cái gì hoàn toàn thanh tịnh, nguyên sơ và tinh khiết. Nó là một màu xanh dương đầy khí lực tỏa khắp mọi phương diện của các hiện tượng. Nhận ra kinh nghiệm này nhờ sự thiền định của ta về giác tánh nội tại trống không có nghĩa là ta sẽ nhận ra được tịnh quang mẹ và đi lên mười cấp bậc cùng năm con đường đạt tới giải thoát trong Báo Thân, sự đánh thức Pháp Thân. Việc quen thuộc với và bắt gặp tịnh quang mẹ này khi nó ló rạng là điều quan trọng duy nhất mà các bạn có thể học hay thực sự thực hành trong đời. Điều quan trọng là mỗi người trong các bạn cần thấu suốt và trở nên quen thuộc với các giai đoạn tan rã và hiểu rõ rằng cái tiếp theo sau đó là sự ló rạng của ánh sáng căn bản. Nếu điều này được nhận ra, đó là cơ hội của các bạn để đạt được giác ngộ. Nếu các bạn biết cách thành tựu nơi an nghỉ bất biến này, thì đây là cái gì tách lìa vô minh với sự giải thoát. Đây là ranh giới mà các bạn vượt qua từ sinh tử tới niết bàn. Đây là sự chứng ngộ sự thuần tịnh nguyên thủy. Tôi không thể nhấn mạnh tầm quan trọng của điều này. Mọi việc tu tập của các bạn, mọi sự các bạn làm trên con đường tâm linh đều nằm trong sự chuẩn bị cho giây phút đó. Nó là một giây phút tự nhiên. Các bạn phải biết cách gặp gỡ nó để đạt được giải thoát. Sau giây phút đó, các hiện thân và các phân tử của ánh sáng xuất hiện và nhờ năng lực của thực hành trekchod và tošgal của các bạn, các bạn có một cơ hội để đạt được giải thoát. Bằng năng lực của thực hành trekchod và tošgal, các bạn có thể đạt được giải thoát vào giây phút ánh sáng căn bản ló rạng nhờ sự nhận ra giác tánh nội tại trống không.

Không gì tốt đẹp hơn điều này. Cái gì có thể tốt hơn? Giả sử các bạn học với một trăm đạo sư, các bạn chẳng bao giờ có thể gặp được giáo lý nào cao hơn giáo lý này. Không gì cao hơn Dzogchen. Tại sao lại còn lo thực hành giáo lý gì khác? Nếu các bạn cho rằng có thứ gì tốt đẹp hơn nó thì hay hơn cả là các bạn có thể nhảy xuống biển.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên