Nhà Sư Vướng Lụy

Bạch Vân Nhi

Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (thán
Phật tử
Tham gia
27 Tháng 5 2009
Bài viết
2,518
Điểm tương tác
888
Điểm
113
Địa chỉ
CANADA
Nhà Sư Vướng Lụy (tt)

[NEN="http://trungtamtutam.com/diendantuthien/picture.php?albumid=38&pictureid=3465"]

Nhà Sư Vướng Lụy (chương 20)

Tôi đưa mắt nhìn theo Tĩnh Tử. Ngậm ngùi than một tiếng:
-Tơ tình ràng buộc lòng người chặt chẽ quá!
Tôi gắng cưỡng chế sóng tâm tình, vội vã quay gót vòng quanh chân núi. Đang bước đi, chợt gặp người phu kéo xe tay, tôi gọi lại, leo lên xe ngồi, thẳng đường tới nhà ga. Mua vé tàu xong, tàu hỏa chuyển bánh, thôi thế thì thôi…
Who ran to help me when I fell,
And would some pretty story tell,
Or kiss the place to make to make it well?...

(Ai người ai kẻ giúp tôi
Lúc tôi té giữa khung đời dở dang
Ai đăm chiêu kể chuyện vàng
Ai hôn chốn cũ cho dàn mộng xinh…?
)
Hai ngày rưỡi sau, tôi tới Trường Trĩ (Nagasaki) rồi xuống tàu thủy sang Trung Hoa. Bấy giờ nhìn lại cảnh mặt biển đã từng chứng giám ngày tôi về Nhật…
Hai đoạn đời! Cách biệt nhau như trời cao và đất thẳm. Tôi đem hết bao nhiêu giấy mực và tặng vật Tĩnh Tử trao cho tôi, tôi đem quăng hết vào lòng biển. Tự nhủ: như thế là hết. Trút sạch làu tàu mọi kỷ niệm đau xót vào trong lòng nước ngàn năm nguôi lãnh…
-I told myself that the sorrows and trouble of my heart had also been swallowed into oblivion by the same waves…
In over a year and a half,
I’ve only sung it one,
And I don’t suppose I shall sing it again
For months and months and months


Đó là thơ của ai tôi không còn nhớ rõ. Nhưng nó về bây giờ giữa lúc tôi quyết liệt quên quên, trên mặt đại dương ngày nọ đã từng nhìn thấy tôi cao hứng dịch thơ Byron. Còn lại gì đâu của ngày nô nức cũ?
Hơn một năm rưỡi trời tôi đã hát
Chỉ một lần tôi lên giọng cao ca
Và tôi tưởng không bao giờ còn hát
Lại một lần suốt tuế nguyệt dôi da

Bên cành hồng thụ phôi pha
Càn khôn riêng một đời ta hư phù…
Anh hoa phát tiết sa mù
Mùa dâng nhị bội sương phù du tuôn…

Còn lại gì đâu? Đâu còn gì lại (cại lòn) của ty hào hoang mao nương tử. Dù nương tử ôn tồn thùy mỵ nhe răng cười huyền bí một đêm kia. Dù nương tử ỡm ờ ôi cợt ghẹo! Cái tồn sinh tại hạ mép bên rìa…
Tôi hối tiếc từng cơn yêu đắm đuối
Tôi bàng hoàng sống từng trận nam phương
Hồ phương diện gió phương lan lầm lũi
Biển phong lan triều nam diện lên đường.
Tôi nghĩ tới tháng ngày chuyển dịch
Những thay hình đổi dạng mở phơi
Trong ly nước mộng tuyệt vời
Với sầu giao động nỗi đời giao thoa
Hồn trong định mệnh đọc ra
Hỡi ôi dâu biển đầu hoa mơ hồ

-Blame not my lute! For he must sound
Of this and that as liketh me.


Đừng lên án tỳ bà cung bậc
Vì nó ngân huyền mật nọ kia
Như niềm hối tiếc bốc tia
Như hồn hoài vọng mép rìa tồn liên
Tỳ bà hỡi! Triền miên trở giấc
Lần lao công tối hậu một lần
Rồi ra lãng phí vô ngần
Sơ đầu chung cực đây lần sơ khai
Bởi chưng cung bậc ngân dài
Chớm qua dứt tuyệt an bài đã xong…
Cung tỳ bà hỡi song song
Về sương nhị bội bên dòng tịch nhiên

(My lute, awake! Perform the lasts
Labour that thou and I shall waste,
The end that I have now begun;
For when this song is sung and past,
My lute, be still, for I have done.
)
Hỡi giấc ngủ làm tiêu tan phiền não
Đứa con yêu của hắc dạ u nùng
Bồ bịch với tử thần từ muôn thuở
Nảy sanh trong vùng tĩnh tịch thân uyên
Xin giải khứ cho ta niềm uể oải
Và liên tồn thiết lập ánh dương quang
Phục hồi lại lãng quên sầu suốt xứ
Để triều ngày về kịp lúc than van
Những bão tố từng đánh chìm xuân xanh mộng
Giúp nhãn quan đủ sức khỏe muôn vàn
Niềm khinh thị cuồng kiêu dâng trống rỗng
Chẳng cần chi đêm phi lý điêu tàn

(Care-charmer Sleep, son of the sable Night, Brother to Death, in silent darkness born;
Relieve my languish, and restore the light
With dark forgetting of my care return,
And let the day be time enough to mourn
The shipwreck of my ill adventured youth;
Let walking eyes suffice to wail their scorn,
Without the torment of the night’s untruth
.)
(Daniel)
Giấc Hy Lạp anh hùng Ulysse hỡi
Hãy về nhanh về gấp ở bên ta
Cùng sở hữu những bờ xanh bến lục
Gây não phiền là giông gió đại dương
Và tại đây ta giải phóng phiêu bồng.
Ngồi chứng kiến những lao công hỳ hục
Suốt bốn mùa trong thăm thẳm trùng dương
Ngày hoan lạc sát na tươi thắm nhuộm
Suốt đêm trường nằm ngủ mộng tinh sương

(Come worthy Greek, Ulysses, come,
Possess these shores with me;
The winds and seas are troublesome,
And here we may be free.
Here may we sit and view their toil
That travail in the deep,
And joy the day in mirth the while,
And spend the night in sleep.
)

Sau hai ngày trên tàu triền miên cơn cớ phiêu bồng ra như thế, chúng tôi đã cập bờ Thượng Hải. Tôi lên bờ, lập tức dấn bước vào đô thành. Sắm vội một bộ y phục tăng lữ, tịch nhiên hướng về Vũ Lâm. Tôi vốn xưa nay hâm mộ cảnh đẹp Thánh Hồ, bấy giờ thuận đường ghé viếng một trận cho thỏa tâm nguyện bình sinh. Lúc đến bên bờ Tây Tử Hồ, cảnh vắng lặng bao la khiến tôi mở rộng mắt nhìn suốt buổi, phiêu nhiên hẳn ngoài vòng lao lung khổ nhọc trần hoàn.
Phải rồi. Phải rồi. Thiên nhiên là cõi rộng từ bi, ban cấp cho con người cái kho tàng vô tận. Tôi nghe rõ giọng Thiên Nhiên man mác vỗ về.
-“Lúc ngươi yêu ta, ta cho người toàn thể vừng dương vừng nguyệt và ngàn sao trên trời, để đùa chơi cho thỏa mộng. Ta cho ngươi toàn thể thời gian vĩnh viễn của Thời Thể trong một thiểm động sát na. Ta cho ngươi toàn khối hùng cường núi non giáp trĩ, cổ thụ lâm tuyền trong một vòng tay ghì siết. Ta cho ngươi toàn khối đại hải sông hồ trong một nhịp phập phồng của hồn ngươi náo nức…”
-When you love me. I gave you the whole sun and stars to play with. I gave you eternity in a single moment, strength of the mountains in one clasp of yours arms, and the volume of all the seas in one impulse of your soul”.

Tôi bước lên một chiếc ghe con hình hài giống như quả dưa gang. Hướng về phía Mao Gia Phụ (bến tàu Mao Gia). Tôi khoác áo, kiểm điểm hành trang, tìm tới chùa Linh Ẩn. Tức là nơi chốn mà Tống Chi Vấn từng vịnh:
Lâu quan thương hải nhật
Môn đối Chiết Giang Triều


(Lầu gác ngóng về phía mặt trời trên biển xanh. Cửa ngõ đối diện với triều trước Chiết Giang).
Chiết Giang triều nước xuôi dài
Vừng dương ngóng mộng lâu đài biển xanh
Hồng môn đối diện đô thành
Thành đô diện đối trì hành lữ cung

Tiền môn lù hiện liên tùng
Khách đường phục chí tao phùng chỉn e
Buông rơi hành lý trên hè
Sa di chất vấn ai dè khách xa
Từ đâu đất trích tại nhà
Đừng chờ đợi tịch nhiên là ngỗng xưa
Hồn linh giải tỏa không ngừa
Tằng kinh thương hải xin chừa vũ vân…


(I went to the monastery door and then onto the visitors’ reception hall. After I had put my baggage outside the hall to the left side. I went to the right sight and stood as immovable as the proverbial swan – Liberavi animan meam” - I have freed my soul).
Một chặp lâu sau một nhà sư ra hỏi:
-Đại sư từ đâu lại?
Tôi đáp:
-Từ Quảng Châu lại.
Nhà sư nghe nói thì hân hoan mà rằng:
-Quảng Châu là nơi chốn phú dụ lắm.
Tôi không đáp, mò trong túi rút ra xuất thẻ tăng lữ đưa ông ta xem. Nhà sư xem xét xong, liền hân hoan dẫn tôi lên lầu gác phía Nam nghỉ ngơi. Phòng ấy khá rộng, có tới mấy trượng vuông, trong lầu chẳng có đồ vật chi hết cả chỉ có một ít gạch xám chất lại mà thôi.
Đến chiều hôm, bữa ăn chay dùng xong, tôi vội đi nghỉ, dùng những tấm gạch xám làm gối gối đầu, làm nệm gác chân. Giữa đêm thình lình thức giấc, không sao trở ngủ lại được, nghe có những âm thanh gì léo nhéo trong phòng. Lòng tôi kinh nghi, tưởng rằng phòng có ma quỷ cư trú. Lòng tôi sợ mãi không thôi. Tôi run sợ vội quấn tấm chăn trùm kín dầu, không dám mở mắt rục rịch gì hết cả. Mình mẩy mồ hôi ra như tắm. Đêm thâu chầy chầy, lòng tôi khổ sở buồn sợ khôn xiết. Trời vừa chớm tinh sương, tôi nghe tiếng chuông ngân, liền vùng dậy. Hỏi thăm nhà sư gác đêm, mới hay rằng trên lầu có nhiều chuột, đêm chúng kêu nhau nheo nhéo, chứ chẳng phải ma quỷ thần tiên thiên tần gì hết cả. Những khách tiến hương lai vãng, nghỉ lại chùa, vốn thường kinh hoảng ra như thế.
Ăn sáng xong, trụ trì tới chào hỏi tôi mà rằng:
-Sư từ xa đến đây, sớm hôm chả phải lên điện làm gì, chỉ ra bên ngoài chùa quét lá khô rụng, chất dồn lại rồi đốt.
Tôi đáp:
-Xin trân trọng thụ giáo.
Quá ngọ, tôi được sai đi cắt cỏ và rửa cỏ tại chân đá Lãnh Tuyền Đình. Sống thong dong như thế năm ngày. Tôi cảm thấy thư thái trong lòng, chẳng còn biết chi tới những ưu hoạn nhân gian, những kinh hãi trần thế. Nghe gió, ngóng trăng, nhìn hoa, gọi lá, vạn niệm gột sạch làu làu. Tuy nhiên đôi lúc vâng, dường như…-“Zwei Seelen wohnen ach! In meiner Brust.” (Goethe) Hai linh hồn hỡi ôi! Cùng cư lưu trong hung trung tôi vậy.
Làm thế nào? Làm thế nào! Phải tự mình chối bỏ mất mình đi. Đó là lời ca ngâm trăm năm vĩnh viễn.

Entbren sollst! Du! Sollst entbehren!
Das ist der ewige Gesang

(Goethe)
Meine Ruh’ist hin,
Mein Herz ist schwer

Miền thanh tĩnh trong tâm linh tôi đã mất
Trái tim tôi mang nặng những đau thương
Hồn vĩnh viễn ngậm ngùi như viễn khách
Lạc trong sương hoài niệm một thiên đường
Tình nghĩa cũ giữa đêm trường thống thiết
Lời than van sao mãi mãi như dường
Thanh xuân phơi phới mộng hường
Trong linh hồn dậy mùi hương năm nào
Hỡi ôi dâu biển dậy trào
Tầm sưu túy điệu ty hào rỗng tuênh…

Ich singe, weider Vogel singt,
Der in den Zweigen wohnet…

Ca lừng như mộng thênh thênh
Như chim hót giữa buồn tênh nhánh cành
Em biết chăng cõi miền hoa chanh nở
Lá um tùm lồ lộ trái vàng cam
Vòm phơ phất tự trời xanh bỡ ngỡ
Rừng sim ôi bóng lục trúc đào lam
Miền cõi ấy nơi kia là chốn ấy
Cùng em đi tới viếng buổi khôn hàn
Song trùng đôi núi quan san
Người em yêu dấu còn hoang mang gì.


-Kennst du das Land, wo die Zitronen blühn, Im dunkeln Laub die Gold - Orangen glühn, Ein sanfter Wind vom blauen Himmel weht, Die Myrte still und hoch der Lorbeer steht? Kennst du es wohl?

Dahin! Dahin!

Moech ich mit dir, omein Geliebter, ziehn!

(Know you the land where the lemon-trees bloom? In the dark foliage the gold oranges glow; a soft wind hovers from the sky, the myrtle is still and the laurel stands tall - do you know it well? There, there, I would go, O my be loved with thee!)
Song trùng đôi núi quan san
Người em yêu dấu còn hoang mang gì
Cùng em ước nguyện xin đi
Ngôi nhà cổ một lầm lỳ nín thinh
Trụ lăng cẩm thạch biên đình
Cảo thơm lần giở sao Tình Yêu phai
Lối mòn sơn đạo lẻ loi
Trong sa mù lạnh bóng lừa tịch liêu
Động Xưa Rồng Cũ Cựu Triều
Lâm tuyền Nham Thạch sương chiều dửng dưng
Miền kia mộng ước không cùng
Vùng Thanh Cấm Nguyệt ta cùng nhau đi…

(Goethe)
Ich grolle nicht, and wenn das Herz auch bricht
(I do not murmur, even if my heart breaks)
Thở than nào có ích gì
Dẫu rằng tim máu vạn nghì tan hoang
Bởi đâu sầu khổ muôn vàn
Nghĩa gì như thế? Khôn hàn lao lung
Bởi đâu tim máu khôn cùng
Còn nghe vang dội song trùng sử xanh

Thần Tiên Chuyện Cũ chia ngành
Biển dâu phù động sịch mành sương sa…
-Ich weiss nicht, was sol les bedeuten
Dass ich so trauirig bin;
Ein Maerchen aus alten Zeiten,
Das kommt mir nicth aus dem Sinn.
(I know not why I am so sad
I cannot get out of my head
A fairy-tale of olden times…
)
(Heinrich Heine)

Những câu chuyện thần tiên huyền ảo! Ôi những ngày tôi cư lưu tại gia đình vị mục sư Tây Ban Nha năm ấy. Mục sư giảng dạy Âu ngữ cho tôi. Tiểu thư đọc Dante, Unamuno cho tôi. Ngày ấy xa xuôi lắm, kể như một thế kỷ trôi qua. Tôi chưa bao nhiêu tuổi, nhưng hình như đã mang hết mọi tuổi tác trần hoàn. Tiểu thư của Tây phương về Châu Á. Kỳ ngộ ngẫu nhiên rằng từ ngẫu nhĩ. Tới bây giờ tại hạ còn tỉ mỉ hoài niệm mỗi lời mỗi tiếng gieo vàng ném ngọc của cô nương.
Nel mezzo del cammin di nostra vita
(In the middle of the road of our life…)

Đứng ở giữa con đường bình sinh cuộc sống. Tại hạ quay đầu về hướng vọng mãi ân tình vô hạn của cô nương. Cô nương bình yên một bình sinh nơi lầu cao gác rộng. Tại hạ xin suốt đời phiêu dạt chân trời mặt biển để cầu nguyện sương tuyết cho cô nương…
Đoạn trường thay lúc phân kỳ
Dư vang hạnh phúc một thì đã qua
Niềm riêng tại hạ chan hòa
Người ôi ấy kẻ tôi là tại đây…
Trút niềm giũ nỗi sơ khai
Tâm tình hoài vọng bỏ ngoài xa kia…

Lasciate ogni speranza voi ch’entrate!
(All hope abandon, ye who enter here)
Nessun maggior dolore,
Che ricordarsi del tempo felice
Nella miseria
(There is no greater sorrow
Than to recall a time
Of happiness in misery)

Hỡi ôi tại hạ là là
Hỡi ôi ôi hỡi lọ là hỡi ôi
Niềm đau nỗi khổ không lời
Liên miên tuế nguyệt muôn đời dây dưa
Không thay không đổi không chừa
Không hy vọng hão không thừa thãi dâng
Mà riêng tấc cỏ vô ngần
Dấu bèo cam chịu tử phần chịu cam…

(-“Ah me!
Pain, pain ever, for ever!
No change, no pause, no hope!
Yet I endure…”)
Cô nương phấn diện hội đàm
Biệt khai sinh diện ngậm hàm sương thu
Ni cô nuồng thúy lục phù
Chân kinh dưỡng dục thân tù tội thân
Lời đi lệch mất một phần
Hoàng mao a tỷ yên hàn lung sa
Trời mai trời mốt trời qua
Phỉ phong cốt cách mà ra phụ lòng
Hoa trôi nước chảy xuôi dòng
Xót thân chìm nổi đau lòng hợp tan
Lời xưa đã lỗi muôn vàn
Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây
Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây
Đỉnh chung sao nỡ kiếp này cho an
Hùng cơ hiêu cảo đa tàm
Hương giao hùng nhụy hoa đàm lục sim
Ly căn gia tốc diện tiền
Bào hoa bán đỗ ba hiền bốn nhân
Điên tam đảo tứ chuyên cần
Mẫn mai hoàng vũ thị gần thị xa
Mù khơi ma mộc giang há
Mòn con mắt một người ta nhu mì
Nhị bù thập đắp thiên ty
Thần hoang vu dậy tiên quỳ hai chân
La Treizième revient…
C’est encore là première
Et c’est toujours la seule-ou c’est le seul moment
Car es-tu reine ô toi la première
Ou la denière?
Ou le dernier amant?...
Es tu roi? Toil le seul
Aimez qui vous aima du berceau dans la bière
Celle que j’aimais seul m’aime encore tendrement
C’est la mort
Ou la morte
Ô délice! Ô tourment!
La rose qu’elle tient
C’est la Rose Trémière
Em Mười Ba trở lại
Vẫn em thuở ban đầu
Vẫn em người duy nhất
Hoặc duy nhất phút giây
Phải em là Hoàng hậu
Thứ nhất hay cuối cùng
Phải em là Vua Chúa
Người duy nhất
Hay tình nhân chung cục?
Hãy yêu đi kẻ từng yêu người lắm đó
Từ trong nôi trong đáy chiếc quan tài
Kẻ ta yêu một mình
Còn yêu mãi
Em ồ em
Em mãi mãi đó mà
Ấy Tử Thần hoặc Người Em Tử Diệt
Ôi não nùng ồ hoan lạc sương rơi
Đóa tường vi nàng nắm giữa tay ngời
Là hồng lục Đường Quỳ rừng tử trúc
Thánh nữ thành đô
Thiên thu trời Ý
Hai bàn tay đầy lửa rực lập lòe
Về Á Đông là lựu đỏ ven khe
Hồng phong nhụy là hoa tâm màu tía
Đóa hồng vàng của Thánh Nữ Gudule
Có tìm ra trong sa mạc đầu nguồn
Chiếc Thập Đá giữa thanh thiên vòi cõi
Hồng tuyết bạch hãy rụng rơi vội vã
Vì lẽ chi người lăng nhục Chư Tiên
Rụng rơi đi ma trắng giữa trời ghiền
Thánh hố thẳm, thánh hơn người lắm đó
Rose blanche, tombe! Vous insultez nos dieux Tombez, fantômes blancs, de votre ciel qui brule:
-La Sainte de l’abime est plus sainte à mes yeux!
-The Thirteenth returns…
She is still the first
And always the only one
Or the only moment:
For are you Queen, ô you!
The First or the Last?
Are you King
You the only or last Lover?
Love who loved you
From the Cradle to the Grave:
She whom I loved alone
Still loves me tenderly:
She is Death - or the Dead Woman
O delight! O torment!
The Rose she is holding
Is the Hollyhock Flower.
Napolitain saint with your hands
Full of fires,
Rose with the violet heart,
Flower of saint Gudula:
Did you find your cross
In the Desert of the Skies?
White Roses fall!
You insult our Gods:
Fall, white Phantoms, from
Your burning sky:
The Saint of the Abyss
Is more saintly in my eyes!


Hỡi nương tử tiểu ái nữ của mục sư Robert ngày cũ! Nương tử chính là một nòi Nữ Thánh Hố Thẳm của tự như phiêu nhiên nhi lai, phiêu nhiên nhi thứ của Tử Trúc Lâm nào vô sở tòng lai diệc vô sở khứ. Ngày xưa, đuổi ra khỏi gia đình, tại hạ đã may mắn được chưởng môn phương trượng Tử Trúc Lâm nuôi nấng, giáo hóa mấy năm. Khi phương trượng bất ngờ viên tịch, tại hạ bơ vơ được gia đình cô nương đem về dạy dỗ, bày vẽ học tập sách vở Tây phương ân sâu nghĩa nặng thế nào. Mà riêng dong nhan và tâm hồn nương tử càng âm thầm giáo hóa ôm ấp tuổi thơ của tại hạ. Kể làm sao xiết muôn vàn… Ôi nữ lang! Một lần trong liên tồn vạn đạo. Tại hạ không còn lời không còn tiếng để nói ra huyền nhiệm của hoàng mao lục diện nga my những sát na khôn hàn thuở đó. Những thi ca Ý Đại Lợi, Tây Ban Nha từ đó, đã phát tiết anh hoa ra ngoài, là chỉ duy tứ Tinh Thể của thiên hương quốc sắc nọ mà thôi. Nhưng vì lẽ cho cô nương thùy mị hồn nhiên đoạn trường là thế, cô nương lại giảng giải cho tại hạ quá nhiều về tâm sự Emily Bronte?
Ngày nay. Ngày nay mà bao nhiêu mộng tồn sinh của bình sinh tại hạ đã theo nhau tan rã xuôi chiều, nằm tĩnh mịch nơi cổ tự hoang liêu, hoài niệm cô nương, tại hạ chỉ còn biết ôn lại lời thơ ngày cũ, phiên dịch nó vào trong ngôn ngữ Á Đông này, riêng gửi cho gió vàng về ngọn cỏ lá cây

Tù Nhân
Tuy nhiên bạo ngược nhà ngươi
Hãy xin rõ nhẽ con người của ta
Cả tua mệnh vận há là
Liên tồn chịu trận năm qua năm về
Há ru trầm nịch não nề
Nể lòng há lẽ ba bề rụng lông
Bốn bề rung lộng vời trông
Rộng lưng tuyệt vọng bụi chồng chất than
Chẳng nhe ưu uất khôn hàn
Há rằng sứ giả muôn vàn biệt tăm
Niềm hy vọng nguyệt đêm rằm
Hằng hằng tĩnh dạ hội đàm đáo lai
Hiến dâng tặng vật khôn tày
(Khay tồn) Tự do vĩnh viễn cho ngày phù du
Đến từ trận trận gió tây
Với luồng thiên khí cuối ngày lang thang
Với hoàng hôn bảng lảng vàng
Trời thanh như lục lam dàn nghìn sao
Gió se từng sợi thì thào
Tư lường với lửa ngàn sao lập lòe
Vô ngần tượng triệu vàng hoe
Phất phơ phù động lệ kiều sát nhân
Niềm vui hứng? Nỗi tần ngần
Liên tồn chết lịm tiên lần tồn lo
Tằng kinh thương hải xuống đò
Đáo lai bỉ ngạn khôn dò bỉ biên
Phiêu bồng dục vọng mãn thiên
Vô duyên lộng xõa với niên kỷ chầy
Cơn vui cuồng dại cuộc này
Giữa niềm khiếp đảm lệ đầy tương lai
Triều dự cảm, sông ngân dài
Đẫm trang hồng hạnh mỏng dày mấy phân
Trời bất tuyệt mộng thanh tân
Trời linh thể ngập bôn đằng sát na
Từ đâu tới những dư ba
Từ vầng nhật sáng hay là bão giông
Từ cơn chiếu diệu lục hồng
Hay từ sấm chớp vân mồng truy hoan
Tuy nhiên sơ khởi một làn
Phiêu nhiên tĩnh tịch lại dàn cồn hoa
Vô thanh vô tức khuynh tà
Xuống chênh chếch bóng như là đà gieo
Cuộc tranh chấp vốn hiểm nghèo
Của nô nức với hút heo đoạn trường
Bỗng dưng chấm dứt như dường
Rằng từ ngẫu nhĩ vô thường ra hoa
Thần tiên thuyết thoại hay là
Tiên thần hiền thánh hanh hà thông hang
Thang hồng lồng lộng hai làn
Thanh lan rũ bức một hàng cỏ thơm
Vân niên cốc khẩu khe rờn
Đào tâm sự túy tiếu cuồng ca ngâm
(Sịch mành huyền hỏa cựu lâm
Đăng nhai đáo lĩnh sầm sầm uất sương
Hành ca thị thượng thế thường
Ông trời rớt hột vì thương bà trời
Tấm quần bà ướt chơi vơi
Đầu tiên xiêm trút mồ hôi con tườu
Bất cần xảo toán cơ mưu
Diêm sinh điếm đạm giấc trừu tượng mơ
Phi tiên? tức đạo lững lờ
Phi hiền? tức thánh tiên thờ phượng tiên
Diện tiền bất viễn tồn liên
Tiên đồn thánh lũy phi tuyền tuôn ra)
Âm thầm xoang điệu hòa ca
Máu trong me phổi da ngà máu me
Mé mau kỳ ảo lập lòe
Liên tồn nứt rạn lại lè xè ngân
Há rằng duệ địa toi đâm
Đi đời đất tiếu ngâm ngâm tuyệt trù
Tới bao giờ đến bây giờ
Tan hoang hào lũy mới ngờ cho ra
Bấy giờ bất chợt lập lò
Lóe ra một tí tia vô dạng hình
Cõi Vô Thức, miền U Minh
Huyền vi tịch hạp ôn hinh hai vành
Xòe ra xoạc tới chớp nhanh
Cù cưa đúm đẩy tam bành nhà ma
Ngất ngây chết lịm ngoài da
Thì trong tinh thể lại hòa chan cơn
Vèo bay đôi cánh xanh rờn
Cập bờ cố ý làm dồn rộng thêm
Dám toan khêu dược vang trền
Mép rìa tối hậu truông ghềnh thậm chung
Hỡi ôi nhịp điệu song trùng
Cuộc đừng cơn phập phồng hùng tâm se
Huyền môn tâm pháp khôn dè
Liên tồn khởi sự nhìn nghe liên tồn
Máu tim ráo riết dập dồn
Não cân ngong ngóng một dòng tư suy
Hồn cảm phách? Phách cảm ghi
Máu me khiêm thuận sầu bi xích xiềng
Dẫu sao hảo hợp là miền
Của tương xung của uy quyền âm dương
Thế sao là sổ đoạn trường
Bài ra thế ấy vịnh dường thế kia
Càng khắc khoải càng bốc tia
Liên tồn càng dập, mép rìa càng dâng
Triều ngây ngất, sóng lâng lâng
Ỷ liên thanh ngạn bên lầm than hang
Ban sơ cỏ mọc hai hàng
Ngần sương chiếu diệu huy hoàng tượng hoa
Dẫu rằng hoành đoạt thậm đa
Lửa đen hỏa ngục hay là dương quang
Dẫu như bất tuyệt khôn hàn
Dẫu rằng cơ sự muôn vàn nhà ma…
(Bạch hồng loạn trụy thiên hoa
Kim liên địa dòng mù sa đêm nào
Tinh vi vạn pháp ty hào
Mạn dao chủ vỹ em Tào Tháo ôi
Cửa thiên chấn động liên hồi
Lôi đình hội đạo ly bôi hội thiền
Tam tòa phối hợp như nhiên
Bronte thiết nhứt Nuồng Tiên thiết nhì
Ở truồng lắm lúc lắm khi
Lắm là rất mực ù lỳ lắm nghe)


THE PRISONNER
Still, let my tyrants know, I am not doomed to wear
Year after year in gloom, and desolate despair;
A messenger of Hope comes every night to me,
And offers for short life, eternal liberty.
He comes with western winds, with evening s wandering airs,
With that clear dusk of heaven that brings the thickest stars.
Winds take a pensive tone, and stars a tender fire,
And visions rise, and change, that kill me with desire.
Desire for nothing known in my maturer years,
When Joy grew mad with awe, at counting future tears.
When, if my spirit s sky was full of flashes warm,
I knew not whence they came, from sun or thunder-storm.
But, first, a hush of peace--a soundless calm descends;
The struggle of distress, and fierce impatience ends;
Mute music soothes my breast--unuttered harmony,
That I could never dream, till Earth was lost to me.
Then dawns the Invisible; the Unseen its truth reveals;
My outward sense is gone, my inward essence feels:
Its wings are almost free--its home, its harbour found,
Measuring the gulph, it stoops and dares the final bound,
Oh I dreadful is the check--intense the agony--
When the ear begins to hear, and the eye begins to see;
When the pulse begins to throb, the brain to think again;
The soul to feel the flesh, and the flesh to feel the chain.
Yet I would lose no sting, would wish no torture less;
The more that anguish racks, the earlier it will bless;
And robed in fires of hell, or bright with heavenly shine,
If it but herald death, the vision is divine!"

(Emily Bronte)
Bộ sách quý giá cô nương đưa tặng tại hạ ngày tại hạ đáp tàu sang Nhật, ngày nay tại hạ nằm bên phương trượng chùa chiền, vẫn đem gối đầu năm canh, và bao phen lần giở… Một mùi hương huyền ảo từ đó cứ đi về vây bọc một cung thành mơ mộng suốt bờ cõi chiêm bao.

Thưa Gái ạ! Nếu gái về xứ sở -
Của dư vang về sử lịch khuynh thành
Thì quốc sắc bốc thiên hương rạng rỡ
Sẽ bao trùm hồn sông Lõa sông Xên

Si vous alliez, Madame, au vrai pays de gloire,
Sur les bords de la Seine ou de la verte Loire,
Belle digne d orner les antiques manoirs,
Vous feriez, à l abri des ombreuses retraites
Germer mille sonnets dans le coeur des poètes,
Que vos grands yeux rendraient plus soumis que vos noirs

(Baudelaire)

Tô Mạn Thù (bản dịch của Bùi Giáng)

picture.php



[/NEN]

 
Last edited:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Bạch Vân Nhi

Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (thán
Phật tử
Tham gia
27 Tháng 5 2009
Bài viết
2,518
Điểm tương tác
888
Điểm
113
Địa chỉ
CANADA
Nhà Sư Vướng Lụy (tt)

[NEN="http://trungtamtutam.com/diendantuthien/picture.php?albumid=38&pictureid=3589"]

Nhà Sư Vướng Lụy (chương 21)

Một ngày kia nhàn rỗi, tôi lẩn thẩn ra ngoài Xuân Tông Đình ngắm cảnh, chợt thấy trên tường vách có bài thơ ai mới viết lên, nét chữ đen còn ướt. Tôi tỉ mỉ đọc xem thì ra đó là bài “Tổn quan trúc chi từ”.
Nhị phẩm gia hàm tứ phẩm giai
Hoàng nhiên lục kiệu tứ nhân đài
Hoàng đường bán quỵ xưng ty phủ
Bạch giản thông tường thự hiến đài
Miết phủ thỉnh đàm đương tọa trấp
Trác phiên tiếp kiến đại môn khai
Tiện nghi thử nhựt xưng quan sát
Ngũ bách quan đương mại đắc lai…


(Bài thơ ngụ ý châm biếm bọn hãnh tiến đút lót tiền nong lên chức quan chễm chệ làm tàng)
Tôi đang trầm ngâm ngán ngẩm, định bỏ đi nơi khác, chợt thấy một tỳ kheo thiếu niên mang một cái giỏ bước tới, khoảng chừng mười sáu mười bảy tuổi. Gương mặt có vẻ u ám đau buồn. Vừa thấy tôi, thì liền chắp tay đảnh lễ mà rằng:
-Kính a sư, nơi này có chốn nào cho tôi tạm trú chăng?
Tôi đáp:
-Có. Tôi đưa dẫn chú tới khách đường.
Tỳ kheo nói:
-A Di Đà Phật.
Tôi nói:
- Chú từ đâu lại? Xét hình dong chú, lao khổ lắm lắm, để tôi xách giùm cái giỏ kia cho chú.
Tỳ Kheo nhíu mày đáp:
-Đa tạ hậu ý a sư. Tôi mỏi mệt lắm, đúng như sư vừa nói. Tôi từ Hồ Nam tới đây, phát nguyện tham lễ thập phương. Mặc dù tôi ốm yếu mỏi mệt, nhưng mối hận trong lòng đã tiêu tan, và hơn nữa, cũng quên bẵng, chẳng còn nhớ nỗi cay đắng như thế nào.
Tối đến, tỳ kheo cùng tôi lên gác ngủ. Tôi xét thấy áo quần vật dụng của chú, đều không có vẻ cũ kỹ lắm, thì đoán rằng chú ta chỉ mới cạo tóc đi tu thôi. Và chỉ nhìn thoáng qua cũng rõ là trong lòng chú chất chứa ngàn mối uất hận.
Bèn hỏi:
-Chú xuất gia bao lâu rồi?
Tỳ kheo nghe tôi nói, trầm tư một lúc lâu, rầu rĩ đáp:
-Tôi cạo đầu chỉ mới hơn tháng nay. A sư đối đãi với tôi thật nhiều đức độ lễ nghĩa. Lòng tôi thật cảm kích. Tôi xin cho a sư rõ vì lẽ chi cho tôi xuất gia - Tôi hận người đời! Từ bé mồ côi cha mẹ, chú tôi tham tiền tham lợi đem tôi bán cho một gia đình giàu có để họ làm con nuôi.
Một ngày kia, mưa gió tầm tã, tôi ngồi bên cửa sổ, đọc thi ca đời Đường, chợt thấy nhà láng giềng có một cô con gái. Lúc bấy giờ bên khung cửa thêu thùa. Tôi đưa mắt nhìn cô ấy. Thì rõ ra là một hồng nhan sắc nước hương trời, quả có là như thiên tiên xuống trần gian giỡn cợt.
Ban sơ tôi chẳng dám có ý dòm dỏ lếu láo gì cả. Chợt một ngày nọ, cô gái kia viết cho tôi một tờ thư cũn cỡn, đem dây chỉ hồng cột vào đuôi một con chuồn chuồn tý hon, cho veo bay tà tà qua song cửa tôi. Nó bay chậm rãi vào phòng, uể oải đậu xuống cách tôi ba thước rưỡi bốn ly. Phía bên dưới là một dòng khe rất mực tiểu khê liên tồn ngăn cách ngôi nhà cô con gái xinh đẹp và nhà tôi. Tôi nắm được tờ thư, thong dong hồi hộp tụng niệm thiết tha, như các vị thầy tu tụng kinh gõ mõ, hầu mong sớm về Niết Bàn Cực Lạc, hoặc trời Đậu Suất, hoặc trời Phạm Hạnh La Treizième, La Quatozième. Lòng thơ ngây của tôi say lúy túy trong kiều diễm quốc sắc, say sưa bàng hoàng giữa cuộc tình tự thiên hương, máu me bột bột như Tề Thiên Đại Thánh ăn trộm được đào tiên điên tào đào túy. Nhân than thở một tiếng mà rằng:
-Ta há chăng tu hành đắc quả A nậu đa la tam miệu tam bồ đề từ bao nhiêu kiếp trước, mà kiếp nay sinh bình lạc được lọt vào vòng con mắt xanh tươi mát của giai nhân?
Do đó, mộng hồn ước phách thảy thảy hai mặt ba bề, bốn xung quanh đều bị gái láng giềng liên tồn nhiếp dẫn vào vòng ảo huyễn phiêu nhiên chẳng còn biết đâu là trời thái hư, đâu là đất tịch mịch, mây phiêu hốt, trăng hoang liêu, nguyệt nguyên tiêu, tuyết trùng dương, mưa sóc vọng…
Hỡi ôi linh hồn đãng khí vân tiêu
Vào trong sóc vọng đến điều trùng dương
Bình minh Bắc Húc một phương
Mở phơi phóng nhiệm lục hường hây hây
Hồng nhan em có mọc đầy
Liên tồn em khép mở đầy ngổn ngang
Bấm dây trên phím tơ đàn
Mờ bay trắng xóa suốt ngàn mai xuân
Vân tưởng y thường hoa tưởng dung
Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng
Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến
Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng
Một ngành diễm tuyệt tơ chung
Vu sơn vân vũ yên lung lục hàn
Hè xuân nhị nguyệt bước sang
Màu nguyên thủy giục một nàng bước ra
Phượng khô từ tiết tháng ba
Mùa đông sắp tới đo ra một hàng
Anh đi gió trút đổ ngàn
Rồi tung râu tóc áo vàng thước gươm
Rằng từ mây liễu hoa tâm
Mộng về hàm tiếu ngâm ngâm bên người

Kính thưa đại sư!
Nói ra thì nghe chướng thật, nhưng làm sao có thể chẳng nói ra. Cầm tờ thư bé bỏng trong tay, tại hạ bỗng nhiên tưởng mình là tuyệt trù hào kiệt cái thế anh hùng hiên ngang hiệp sĩ lăng tằng sư tử hống động vũ lâm xuân.
Từ đó về sau, sớm hôm liên miên lại bên song cửa, dở chiều tựa án, dở chiều thiu thiu, nhưng mà làn nhãn quan thì liên miên phóng xạ phát tiết anh hoa ra ngoài sang mù sương láng giềng trắng nuột. Rồi từ đó nương tử nọ não nùng kia còn ban cấp cho tại hạ những họa thêu ngọc gấm, những bút mực giấy nghiên. Tôi biết gia đình nàng nghèo lắm và ông cha của nàng già rồi thì tôi bèn đem vàng bạc hậu báo ân đức hồng huệ của hồng nhan. Mấy lần như thế. Nhưng thử hỏi; tôi đào đâu ra vàng bạc mà hậu báo như thế mấy lần? Tất nhiên đó là của ăn cắp vậy. Hỡi ôi, đại sư hãy nguyên lượng cho giùm. Một kẻ luống tuổi hoặc già nua, hoặc một trung niên thi sỹ thì chẳng bao giờ nên ăn cắp sỗ sàng, nhưng tôi chỉ là một thằng bé thơ ngây sống toàn nhiên trong mộng cảnh. Thì sự thị phi thiện ác của nhân hoàn há đâu có thể ước thúc được tôi? Một ngày nọ cô gái tặng tôi một chiếc túi gấm tự tay nàng thêu trong đựng một hộp bút mực nõn nà. Cầm hộp bút mà tôi mơ tưởng tới những vỏ sò, vỏ hến suốt mười phương quốc độ bờ bến bên hải ngạn phiêu du: - “em đi bên ấy chân tròn khép. Hai ống mơ hồ mỏi một hang…” Hỡi ôi cái túi gấm gì mà đèo bòng lẽo đẽo đa mang đìu hiu cỏ tơ vàng hoe ra như thế bao phủ những hố những hang những hầm sâu rộng động biếc rất mực từ bi bồ liễu ra đời? Yên tử cốc? Thu hải đường? Môi chước tuyết? Dã hoa sương? Nữu phường noãn? Thủy sơ ba? San san bộ? Trì trì lai? Niết tróc thủ? Kiết cư ước? Củng mộc lan? An diện huệ? Đà diên cúc? Ức dương tỏa? Phanh âm mao? Tấu hạp liệm? Chấn phấn liễu? Thiền vu nguyệt? Thanh cấm băng? Quận não khí? Tróc ảnh phù đồ? Đào ắc điệu na? Đa tàm hậu tứ? Bồi liễm yên lung? Tịch khai sa thạch? Niệm tuyến nân hương? Môn từng soạn quế? Tiệp báo vân mồng? Ban thiên đạo hạnh? Bá chủng thập phương? Thương hải lam điền? Thiền duyên lục điệp…??? làm sao? Làm sao kể xiết đó là cái chi?
Chỉ biết rằng một phen đón tặng vật, thì chợt nghĩ rằng sẽ không còn đào đâu ra bạc vàng đá quý để đền đáp ân huệ của tiên cô. Không còn cơ duyên xảo hợp để ăn cắp ăn trộm được nữa. Tôi bèn mở môi hỏi mượn tiền của một người tỳ tử ở trong nhà. Tôi chẳng ngờ đâu rằng tỳ tử nọ chấp thuận cho mượn tiền, nhưng âm thầm đem sự vụ nọ ra mà nói với nghĩa phụ tôi.
Sáng ngày hôm sau, nghĩa phụ tôi gọi tôi tới, nghiêm giọng trách mắng:
-Ta vốn xưa nay yêu quý mày. Ngờ đâu mày là đứa bé con hư thân mất nết, hành động đảo tứ điên tam phóng đãng hình hài nhà ma rất mực ra như thế. Nhà ta đây không thể nào chứa chấp cái loại hư hỏng đốn mạt như mày. Mày hãy sớm liệu cút đi xa, để lão phu khỏi tóm lấy thân thể mày mà bóp dập mảnh xương vai trong mình mẩy xương xẩu của cái thằng người ngợm luộm thuộm đích thị là mày. Nếu lão phu không sớm đối phó theo thể thái quyết liệt như thế, chịu ẩn nhẫn dung thứ cho mày ở tại đây, rồi ra nay mày mê con này, mày đem tiền của cho nó, mai kia mày mê con nọ, rồi cuối cùng mày lớn lên, mày sẽ quen thói si mê, trong khi gia sản của tao tàn lụi hết, thì mày chỉ còn có một cánh là nhảy chồm tới nắm lấy hình hài lão phu mà đem bán sấp bán ngửa cho mọi kẻ lưu manh nào lão phu đâu có biết họ biết tên? Rõ thật là:
Ngươi đâu tá? Quê nhà chưa tỏ
Tuổi bao nhiêu? Tên họ là chi?
Đã sinh cùng nước cùng thì
Cùng ta không biệt mà ly là mày…




Phải. Không biệt mà ly. Ly khai từ giữa tâm dạ ruột rà. Ly khai từ thuở ban sơ ta lưu tâm chiếu cố. Giữa mày và tao từ nay thế là dứt tuyệt ân nghĩa bình sinh. Mày đau lòng, tao biết. Nhưng tao há chẳng còn não dạ gấp bội điệp song trùng mày đó chăng nhe? Kể ra, tao cũng chẳng oán hận chi mày. Dù sao mày kể ra cũng còn nhỏ tuổi mà cằn nhằn gây gổ mãi với mày.
Nhưng mà sự tình éo le đã eo óc xảy ra oái oăm đến thế, đôi ta đành ân đoạn nghĩa tuyệt mà thôi. Mày đi đường mày, Tao đi đường tao. Tình nghĩa đôi ta đến thế nào? Đã ra như thế lối vào chông gai. Chỉ xin Thượng Đế an bài. Cho chân mày bước dặm dài riêng thôi…
Dù sao, trước khi để mày ra đi, lòng tao cũng có âm thầm quyến luyến. Thôi để tao tặng mày một bài thơ tiễn chân bình sinh ly biệt. Thơ rằng:
"Tiếc thay chút nghĩa cũ càng.
Đường chia hai ngã muôn vàn muối sương
Sớm hôm sầu dựng lạ dường
Tâm linh lão hủ còn mường tượng con.
Dẫu rằng biển cạn sông mòn
Ban sơ tri ngộ mộng còn trùng lai

All ou man en g emoi ·
Prosthêsei tasd aras.
Dẫu sao ta cũng hết lòng
Tìm phương ngừa giúp long đong cho mày
Những nguyền rủa nặng hại thay
Mày đi quá lậm trong ngày phù du
Màu xanh thung lũng hư phù
Há đâu lếu láo lù lù hiện thân
Ấy nơi tấc cỏ mộng ngần
Trong lu hũ nọ nửa gần nửa xa
Nửa như mật tụ là hoa
Nửa như cay đắng ấy là giấm chua
Mai sau ví chẳng chịu chừa
Còn toan rờ rẫm thì thừa tai ương
Tiến lui giữa ngã ba đường
Từ đây cách biệt khe mương khôn tày
Giữa ta đây với thân mày
Một vùng khoảng rộng chia hai con đường
Nghe chăng, hỡi bé bỏng dường
Lưu ly khốn đốn còn thường hằng điên
Nếu mày chịu bớt quàng xiên
Nghe ta bày tỏ một miền chân như
Thì xin mày hãy rằng từ
Mai đừng vi phạm đất lừ đừ kia
Cõi thiêng liêng đó mép ria
Phải nên kinh sợ mà chia xa lời
Chỉ riêng trong địa hạt ngồi
Chung cho thiên hạ thì lời mày được thốt ra
Còn riêng góc nọ kia là
Tuyệt nhiên chớ có nại hà ứng ngôn…
(Polla keleuthos eratuei
Klueis, Ô pollumokth’alata;
Logonn ei tin’iskheis
Pros éman leskhan, abtôn apobas,
Ina pasi nomos,
Phonei Prosthén d’aperoukou)

Ông cụ hổn hển ngậm ngùi nói xong như tạc hình một bồ tát ẩn hiện mô dạng ở bên miền lập ngôn tịch hạp thái thậm hoang liêu. Tôi đờ đẫn tê dại lắng nghe, nửa hiểu, nửa không. Duy có cảm tưởng dị thường rằng mình đã vô duyên đánh rơi mất một cơ hội phi phàm trong bình sinh miên bạc.
Bất thình lình, tôi giác ngộ: Ông cụ già nọ mang một linh hồn nào từ lịch kiếp lang thang vô sở tòng lai diệc vô sở khứ… và đã nén lòng mình trong một thứ liên tồn hạ học lập ngôn.
Ông cụ còn viết một lá thư bảo tôi đem về giao cho người thúc phụ của tôi… Nghĩa phụ thảo nhứt hàm, chúc dư khiệt quy, chí ngô thúc phụ. Dư thụ hàm nhập phòng, nữ do ỷ song nghênh dư hàm tiếu… Tôi nhận lấy tờ thư quay về phòng, cô gái láng giềng còn tựa cửa đón tôi, ngậm cười ôi một cách…!!!
Tôi thẳng thắn đem sự vụ đầu đuôi ra nói cho cô bé biết:
-Hôm nay bị nghĩa phụ đuổi đi. Chẳng biết ngày sau còn có dịp nào cùng cô nương gặp gỡ tại chốn nào chăng?
Cô gái nghe tôi nói thế, thì có vẻ không vui, ủ rũ đưa một ngón tay uể oải, ngập ngừng mà rằng:
-Đêm nay trời không có trăng. Anh chờ tới mười một giờ khuya, thì chèo ghe nan ra chờ em ở phía sau nhà hẻo lánh nhé. Anh sẽ cắm sào đợi em ở chốn tịch mịch đó. Sớm chầy gì em cũng sẽ len lỏi lách lau ra hội diện. Anh chịu như vậy chăng? Được chăng?
Tôi vội vã líu lưỡi đáp:
-Được. Được. Chịu lắm.
Nhận được lời phân phô của hồng nhan hương phấn ra như thế, cõi lòng tôi thấy thơm ngát như cờ reo chiêng trống dậy tưng bừng. Cảm thấy như được hồng ân từ thiên thượng chan rưới xuống hình hài. Bèn nô nức lui vào phòng ôn tồn gẫm lại cái lời kia của nương tử như hân hoan nhậu nhẹt một yến tiệc siêu phàm.
Thúc phụ cật vấn mà rằng:
-Mày hãy nói cho tao rõ, mày lấy tiền tiêu vào việc chi? Tiêu pha vào vụ chi? Đánh cờ bạc hả? Rủ rê bọn vô lại chơi bời hả? Đàng điếm phiêu bồng hả?
Tôi chỉ biết cúi đầu cung kính làm thinh nín im thin thít. Vì sợ nói sự thật ra, ắt là tiêu ma thanh danh của láng giềng tiên nga thiên nữ. Thì sao có thể được cho đành? Với cái cuộc rụng rơi tàn xiêu ngõa giãi kia?
(Dư tuy cung mặc, bất cảm đáp nhứt từ; khủng trực ngôn chi, tắc lân nữ tiên nga thanh danh ngõa giải, thị hà khả giả?

- The only thing I could do was to maintain a respectful silence. I did not dare to answer one word, fearing that if I told the truth, the girl’s reputation would be ruined and shattered like clay tiles).
Một chặp sau, thúc phụ lại hỏi tiếp:
-Nào, nào! Nói cho cùng mày cùng đứa nào rủ rê cờ bạc lêu lổng chơi bời ra như thế?
Tôi vẫn ngồi nín im thin thít, như thế càng khiến thúc phụ nổi dóa thêm. Ông cầm cái ống điếu giơ ra đập tơi bời xuống trên vai tôi từng cơn tua tủa.
Tôi cắn răng chịu đau đớn, không dám rục rịch, mà cũng chẳng dám khóc lóc một giọt nước mắt bé bỏng nào.
Chờ tới lúc nhá nhem thao láo, cầm lòng chẳng được, tôi len lỏi men xuống bờ sông tháo chiếc ghe chài cá của nhà láng giềng. Vai tôi đau ê ẩm nhức nhối không thể tả. Quờ quạng chèo đi, hai tay hì hục, mà môi miệng thì liên tồn tụng niệm mà rằng:
-Đêm nay không cố gắng cùng cực để giáp mặt giai nhân, thì lỡ làng lời ước nguyện. Kể chi đau đớn thịt da? Kể chi xót xa xương cốt? Hai vai rời rạc đã đến nỗi nào? Cho dầu toàn thể hình hài có tan rã ra nhà ma chăng nữa, há dễ mà lui? Há đâu mà dừng cuộc? Há chẳng hồ dễ mà bỏ cơn? Mà chấm dứt ân tình chiến trận đêm nay? Thế là tôi dồn tụ hết bình sinh miên bạc lại để trì chèo chống ghe nan trong một phen liên tồn rục rịch rất mực thong dong cõi lòng hơ hớ.
Tới lúc chạm vào miền mép căn nhà bí ẩn của giai nhân hồng môn le lói, thì chuông đồng hồ đổ tám giờ rưỡi.
Lòng tôi thư thái, cờ reo trống giục liên hồi, quên bẵng hết đau đớn gân xương và máu me da thịt. Tôi đặt mái chèo nơi một mép rìa căn nhà lá cỏ của giai nhân. Chờ đợi rất lâu. chằng thấy bóng hồng thì lo âu éo le khôn tả.
Chợt trời nổi một trận mưa như trút. Tôi bèn chèo ghe nan tới dưới lục ba tiêu, nơi một góc tường để ẩn núp (úp nẩng an cần). Chống chỏi gió mưa, đêm dài chờ đợi. Cho tới canh tư, vẫn mang mang bặt tăm, chẳng thấy một bóng ma nào thấp thoáng, đừng nói chi là hình ảnh yểu điệu tiên nga!
Tôi trong lòng biết rõ là sự vụ có nham nhở gì trở ngại biến cố lôi thôi. Lòng đau xót khôn cùng, tôi co giò nhảy tòm xuống nước lạnh. Chẳng còn biết trời tròn hay đất méo, sơn hà đảo tứ hoặc điên tam! Bao nhiêu trận khờ thương dại nhớ, cuồng mộng si mơ, của thanh xuân sàm diên dục trích thảy thảy cùng chan hòa trong một sát na giá buốt mà tiêu tán theo ngọn nước xuôi dòng. Hỡi ôi ! Ôi hỡi! Hỡi ôi ôi! “Tôi còn gì nữa là tôi! Thuyền quyên nàng vẫn là người thuyền quyên”.
I lost all sense of my surroundings and knew nothing until I gradually regained consciousness. Tôi mất trụi hết mọi thức giác về sự vật bốn bề ba ngõ bảy ngõ xung quanh, chẳng còn biết gì gì nữa cả mô mô tê tê coi tề chi ráo ráo! Cho tới lúc dần dà tiềm tiệm hồi tỉnh lại hỡi ôi!
Nhìn bốn phía, chỉ thấy phên trúc, vách rạ, nhà tranh. Té ra là nằm giữa một gian nhà cỏ một ngư ông. Một ông một bà già nua, ngồi bên tôi ân cần đăm đăm nhìn ngó, vốn đưa tay sờ ngực phổi tôi mấy phen.
Tôi đột nhiên cất tiếng hỏi:
-Có phải ông bà đã ra tay cứu vớt sinh mệnh của cháu đó chăng? Nhiên dư thành vô diện mục cánh sinh nhân thế !

I really feel too ashamed of my self to return to the world of living !
Quả thật cháu xấu hổ quá, không còn mặt mũi mắt môi nào mà sống nữa ở nhân gian!
Bà lão mà rằng:
-Tội quá! Tội quá! Cháu bé ôi! Cháu đừng nói chi nhiều. Nằm im tĩnh dưỡng! Trời và Phật và Như Lai Bồ Tát Linh Mục Thượng Thừa sẽ cộng tác che chở cho cháu đặng bình an tai qua nạn khỏi.
Nghe giọng bà lão ôn tồn thâm hậu thì bỗng nhiên tôi vùng sa nước mắt, và đem hết sự tình ra kể lại một phen.
Bà lão lắc đầu tóc bạc phơ mấy bận, than dài một tiếng mà rằng:
-Thiên hạ phụ tâm nhân nhi, tỉ tỉ nhiên nhiên dã. Khánh kim hậu tu tri tự trọng. (Thiên hạ thiếu chi kẻ phụ lòng, như đó rứa mà thôi! Cháu từ rày về sau hãy nên liệu mà giữ mình, coi trọng cái thân thể).
Ông lão nói tiếp:
-Chịu khó cho ru! Gắng ẩn nhẫn chăng chớ! Cháu nay đã nếm qua cái mùi tục lụy lạc bước một lần, bể khổ vô biên, hồi đầu thị ngạn. Chợt một phen tỉnh ngộ, quay đầu, thì cập bờ Như Lai bỉ ngạn vậy. Tốt thay! Lành thay! Phúc đức thay!
Tôi cầm nước mắt tại đầy đủ hai hàng, quỳ xuống bái tạ ông bà, rồi cáo biệt. Chẳng biết hướng gót chân tới đâu. Đâu chốn đâu nơi, đâu trời đâu đất, đâu lật đật đâu thong dong.
Cõi lòng đầy bi thương, thống hận, tôi dấn gót chân vào trong núi Nhạc Lộc, cạo trọc đầu làm một tỳ kheo. Rồi đem chôn hết bao kỷ vật phấn mốc hương thừa (vốn hằng đeo giắt ở bên hông) đem chôn hết vào sâu trong thớ đất sét ở bên sơn thụ lâm tuyền tại chốn Phi Lai Chung mù sương man mác.
Rồi sau đó tôi theo chân một bọn người lái buôn mà tới chốn non nước này. Ngày nay, đứng trước trời đất mang mang, vũ trụ hắt hiu, càn khôn hiu hắt há chăng chẳng nhẽ nhận ra sao gọi là tình? Sao gọi là hận? (Kim tự mang mang vũ trụ, hựu ô đổ sở vị tình, sở vị hận da?) Diện tiền hiu hắt mù sương? Biết đâu địa ngục thiên đường là đâu? Liên tồn miệng mọc chòm râu. Đầu tôi tóc bạc khê đầu in rêu?
Nghe chuyện Tương Tăng kể xong, thì lòng tôi bồi hồi nhớ lại sự cũ của mình, lồng lộn tung hoành hàng hai ở trước con mắt. Kỷ niệm dâng trào ở bốn phía rập rình dâu biển giáp công.
Tôi không còn làm sao ngủ được nữa. Y hy văn từ mẫu trách dư chi thanh, thần vi tủng nhiên nhi động… Bỗng nhiên nghe vẳng dậy giọng từ mẫu trách mắng mình, thần hồn tôi hốt nhiên tê giá. Hốt hoảng bồi hồi. Nước mắt trào ra suốt năm canh thiêm thiếp ri rỉ liên tồn mờ hoen hương sắc cố hương…
Sáng hôm sau, tôi mệt mỏi rụi cả máu me, không dậy được. Tương Tăng sớm hôm lo thang thuốc, cơm cháo cho tôi. Nửa đêm thao thức, nhìn Tương Tăng lọ mọ cặm cụi, lòng tôi bất chợt cảm thương dữ dội quá, tôi âm ỷ khóc một mình. Từ đó về sau, hai đứa tôi trở thành hoạn nạn chi giao. Rồi sau đó Tương Tăng cũng rõ hết những mối đau ngầm vui gượng của tôi. Chúng tôi quyến luyến nhau, không rời nhau được nữa.
Tôi đau trận đó tới hai mươi hôm mới bình phục, chống gậy bước ra cửa dòm cảnh vật xa xa. Bầu trời sắc nước long lanh thăm thẳm. Tiếng chuông ngân dài. Phong cảnh như gột rửa trăm não ngàn phiền ra khỏi xương máu ri rỉ của con người ta. Tôi lẩm nhẩm thơ Virgil…

-“In fretadum fluvii current, dum montibus umbrae… Lustrabunt convexa… polus dum sidera pascet… While the rivers shall run to ocean, while the shadows shall move in the mountain valleys, while the sky shall feed the stars, always shall thy happiness, and the felicity, and the rapture, and thy name, and thy glory abide…
Khi trường giang còn dọc xuôi về tỳ hải
Lúc bóng xanh thung lũng vẫn liên tồn
Và động đậu suốt vùng sương suối liễu
Và thanh thiên còn bồi dưỡng sao rờn
Ngàn tinh tú còn lắt lay phiêu diễu
Thì thiên thu còn vĩnh phúc cho người
Và hoan lạc cuồng cơn điên trận đảo
Và vinh quang và tên tuổi xa vời
Còn ở lại cư lưu trong mộng ảo
Với tà xiêm duệ địa bóng trường quần
Với đồn lãng nhũ ba hương phức úc
Suốt bình sinh với miên bạc luống từng…


Then endure for a while
And live for a happier day…
Thì ẩn nhẫn một thời gian khiêm thuận
Vì một ngày nào đó sẽ đẹp hơn
Vì một tháng liên tồn lôn bôi động
Lòng chan hòa hồn vĩnh thể đâm bông
Quần sẽ đỏ vì bàn chân nàng bước
Nữ Thần ôi đã hiển lộ huy hoàng
Trong gót ngọc ngậm ngùi xuân buổi trước
Ngày bữa sau lửa lựu lập lòe bông…

Tô Mạn Thù (bản dịch của Bùi Giáng)

picture.php



[/NEN]
 
Last edited:

Bạch Vân Nhi

Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (thán
Phật tử
Tham gia
27 Tháng 5 2009
Bài viết
2,518
Điểm tương tác
888
Điểm
113
Địa chỉ
CANADA
Nhà Sư Vướng Lụy (tt)

[NEN="http://trungtamtutam.com/diendantuthien/picture.php?albumid=21&pictureid=3301"]

Nhà Sư Vướng Lụy (chương 22)

Od ekeinos ego. Phônê gar oro, to phat dzomenôn…
(Chẳng cần chi kiếm ta nhiều. Ta ngồi đây ngóng tiêu điều hai tai)


HOMER

Chợt một ngày kia, vị giám viện tới bên tôi bảo:
-Mai là ngày Trung Nguyên tiết, tại thành nội, gia đình họ Mạch có tế lễ, vị thủ tòa đã phái lão nạp ứng phó cuộc kia. Ngài cũng có hỏi “trong số trụ tăng, ai là kẻ khả dĩ chọn làm đồng bạn”. Thì lão nạp đáp rằng chính đại sư là người thích hợp nhất. Thủ tòa rất lấy làm mừng rỡ mà rằng: “Sư trầm tĩnh quả ngôn, tác trang sơn môn phong phạm, năng khởi thập phương tông ngưỡng”. Hơn nữa, gia đình họ Mạch vốn là người ở Lĩnh Nam, thì đại sư cùng đi với lão nạp là phải lắm, tiện lợi lắm lắm. Hơn bất cứ kẻ nào khác. Vì vậy nên lão nạp chẳng thể nào chẳng đặng tá trọng ư đại sư…
Tôi bèn đáp mà rằng:
-Từ ngày tôi xuất gia tới giờ, vốn chẳng có dịp quen với công cuộc thể lệ đó. Ngoài việc thằp hương niệm tụng tâm kinh đại bi ra, thì tôi chẳng còn khả năng gì nữa cả. E rằng sẽ không ứng phó được chu đáo niềm kỳ vọng của đại sư?
Vị giám viện đáp mà rằng;
-Pháp quy cúng dường, chừng đó đã đủ rồi. Lại có thêm ba người phụng thị, rất mực thông thạo sự việc. Tiểu sư phụ chỉ cần giúp chúng tôi đốt nhang, gõ chuông mõ, thắp đèn lai rai là đủ. Rất mong tiểu sư phụ đừng từ nan, chịu khó giúp cho một chút để thêm phần xán lạn cho cuộc này.
Nghe vị giám viện phân trần rõ ra như thế, tôi bèn nhận lời. Vị giám viện hân hoan cáo biệt.
Tôi bảo Tương Tăng rằng:
-Những sự vụ luộm thuộm kia chẳng ích gì cho chính giáo cả. Trái lại chỉ làm cho thiên hạ nhìn chúng ta càng nham nhở thêm mà thôi. Những cuộc ứng phó lai rai thế nọ, ngày xưa vốn chẳng hề có nghe. Xưa kia, thuở Bạch Khởi làm tướng nhà Tần, ông ta đã hãm giết bốn mươi vạn sĩ tốt đầu hàng tại Trường Bình. Đến thời Lương Vũ Đế, nhà sư Chí Công đại hiền đức, nêu ra sự vụ bi thảm kia, cốt để cảnh giác những kẻ khát máu khao me, và đưa ra những phương sách ôn tồn chế độ.

Vũ Đế bèn chiêu tập thiên hạ san trường giang đại hải, suốt bảy ngày bảy đêm liên tồn cỏ tơ nối tiếp. Lúc bấy giờ những cao tăng danh tiếng, cùng đồng thời đề huề nghe lời yêu thỉnh mà đề huề phó ước nhi lai. "Đề huề lưng túi gió trăng. Sau lưng theo một vài thằng lai rai. Họ gì như thể bẻ bai? Trung niên thi sỹ ấy ai đó là?...Cầm bằng cũng thể mà ra? Theo chân Bồ tát mặn mà Như Lai…”
All the famous monks answered his invitation at one time. The accepting of invitations commenced from that time… Ứng phó chi pháp tự tử thỉ... phép tắc ứng phó, khởi đầu từ đó mà ra vậy.
Tôi từng có đọc trong kinh điển, thấy ký chú thuở xưa rằng Đức Phật tại thế, vi pháp thi sinh, dùng pháp mà giáo hóa tứ sinh, nhân gian thiên thượng không có gì mà Ngài chẳng đem ra áp dụng điều đình mà thành thục tự như. Chư đệ tử thì đề huề phân hóa thập phương, khôi hoằng đạo giáo, kịp đến khi Phật diệt độ về sau, ông A Nan cùng chư vị Bồ Tát kết tập tam tàng, lưu thông từ bảo. Cho đến thời Hán Minh Đế, Phật pháp mới nhập chấn đản. Từ đời Đường Tống về sau, thì dần dà rời rã, tiệm nhập kiêu ly.

Tiền bạc liên tồn được sử dụng làm miếng ăn thức mặc, và Phật giáo trở thành một món đồ có thể đem bán mua. Hỡi ôi! Kỳ dị thay ôi hỡi! Ta phù! Dị tai! Tự ký vị độ, yên năng độ nhân? Tỷ như hạ tĩnh cứu nhân, nhị câu hãm nịch. (Tự mình mà còn chưa độ được, há đâu có thể độ người? Cũng tỷ như lao xuống giếng cứu người, rốt cuộc cả hai cùng chết đuối

- Alas, how were these who had not found the Path themselves able to show others the Path! For instance, it is like going down into a well to rescue another and both drown).
Huống nữa, ban bố cho, ấy là: dự với cùng, mà không có tùm lum cướp giật. May tôi đem Phật pháp ban dự cho người, nếu người đem tiền của ban dự lại cho tôi, thì ấy gọi là buôn đi bán lại, há đâu còn cái nghĩa “ban cho mà chẳng thu về”? Huống nữa, thật ra lại chẳng hề có cho đáng gọi là “dĩ Pháp dự nhân” chút tẻo teo nào cả. Mà chỉ lai rai lếu láo mồi mép kinh kệ mấy lời, để thu hồi tài lợi. Cho dẫu thật có chút công kiến thành chăng nữa, cũng chẳng đủ đền bồi cái lỗi tham lam cầu lợi. Còn như tương sự cẩu thả nham nhở, chỉ mong ngóng bo bo kiếm chác, thì ấy là cướp bóc tài vật của thí chủ. Vậy thì món nợ tinh thần và vật chất đối với các thí chủ, chúng ta làm sao trả được!...Tội lỗi kia làm sao gột rửa được…!
Tương tăng mà rằng:
-Lời sư thật là thâm sâu chí lý, không bắt bẻ vào đâu được. Tôi không hiểu vì sao Chí Công lại đặt ra phép tắc sám hối, khiến cho cái tệ hại càng tệ hại thêm, vì xui người ta tưởng rằng tội lỗi có thể gột sạch bằng những lời vớ vẩn ăn năn…
Tôi đáp:
-Chí Công vốn là Bồ tát hóa thân, vốn có thể đem lời vàng mà làm cho xinh tươi vật thể. Trái lại các nhà tu hành đời Đường bo bo thọ trì tụng niệm Phạn kinh, thật là chẳng chút chi ty hào bổ ích cả.
Ngày nay còn dùng được sự tích gì đâu đối với bọn phàm tăng lố nhố? Vân Thê xiển dương sám pháp, dây dưa tới ngày nay, chỉ tổ làm tai hại cho kẻ chân tu chính dưỡng, lưu độc sa môn, cái họa thật là cùng cực kịch liệt. Còn như môn phái Thiền tông vốn chẳng có sám pháp, nhưng ngày nay lại cũng đua đòi bắt chước giở trò, há đó chẳng là một điều cảnh giới lớn đó chăng? Nhưng anh và tôi đều là những kẻ chính tín chân nguyện, đã quy y Phật, là chỉ cốt xiển dương quảng thiết tứ đế và bát chính đạo mà thôi. Há đâu có thứ nêu ra cùng với những trò nham nhở kia ru?
Tương Tăng nói:
-Tốt thay! Phải thay! Mã Minh Bồ tát bảo: “Chư Bồ tát xá vọng nhất thiết hiển chân thực; chư phàm phu phúc chân nhất thiết hiển hư vọng… (Chư Bồ tát gột bỏ hư, vọng, nhất thiết hiển lộ chân thực; trái lại bọn phàm phu làm điên đảo cái chân thực, và nhất thiết hiển hư vọng).

Tô Mạn Thù (bản dịch của Bùi Giáng)

picture.php



[/NEN]
 
Last edited:

Bạch Vân Nhi

Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (thán
Phật tử
Tham gia
27 Tháng 5 2009
Bài viết
2,518
Điểm tương tác
888
Điểm
113
Địa chỉ
CANADA
Nhà Sư Vướng Lụy (tt)

[NEN="http://trungtamtutam.com/diendantuthien/picture.php?albumid=38&pictureid=3610"]
Nhà Sư Vướng Lụy (chương 23)

Ngày hôm sau, tôi theo chân vị giám viện tới nhà họ Mạch. Nhưng tôi chưa hỏi rõ tên ông họ Mạch kia là gì và ông ta từ đâu lại. Chỉ biết rằng ông ấy là một vị tể quan mà thôi. Tối đến, pháp sư khai trường. Đó là lần đầu tiên tôi kinh nghiệm cuộc tế đàn như thế.
Lúc bấy giờ đàn ông đàn bà đông đúc xúm xít sát vai nhau ở bốn phía xem lễ. Giám viện lim dim khép hai hàng lông nheo thấp xuống, liên tồn chắp tay, cất cao giọng niệm sang sảng lời “chân ngôn” trong kinh điển, tới câu - “Tưởng cốt nhục dĩ phân ly, đổ âm dung nhu hà tại?” ( Tưởng tới kẻ thân yêu đã chia lìa, nhìn ngó đâu cho thấy lại âm dong?) thanh âm thật là ảm đạm. Kịp tới câu - “Ô hô! Đỗ quyên kiến lạc đào hoa nguyệt, huyết nhiễm chi đầu hận chính trường”;(Hỡi ôi! Con chim đỗ quyên đau lòng kêu thảm thiết hoa đào rơi trăng rụng, máu me ướt nhiễm đầu cành,mối hận miên man dằng dặc) - Kịp tới câu:
-“Tích nhựt phong lưu đô bất kiến, lục dương vân thảo độc lâu hàn” (Vẻ phong lưu ngày xưa chẳng hề còn thấy chút gì cả, mà chỉ còn liễu xanh, cỏ thơm và lầu trơ lạnh) - Lại đến câu: “Tướng quân chiến mã kim hà tại? dã thảo nhàn hoa mãn địa sầu!” Đâu là chiến mã tướng quân? Cỏ hoa hoang dại sầu lan đất dày…) - “Tis d’esth’ o khôros; tou théôn momidzetai? Athiktos oud’oikêtos. Ai gar émp hoboi théai sph’ékhoussi, Gês te kai Skotou korai…” Bỗng dưng mà cái giọng vàng hiu hắt của nương tử con vị mục sư Robert nọ chợt len lỏi về nơi mọi kỷ niệm lòa xòa thuở xưa nàng ngâm thơ Hy Lạp:
-“Đất nào như thế hỡi người? Hiến cho thần thánh nào vui hay buồn?- Đất này bất khả xâm lăng. Con người không thể về ăn ở đời. Cư lưu hồ dễ được chơi? Riêng là địa hạt của chơi vơi thần. Uy linh khủng khiếp vô ngần. Ấy con của Đất và thần U Âm…”
Hỡi ôi!
Nương tử tươi xinh ngâm thơ Hy Lạp và giám viện già nua đọc kinh tế điện vong hồn… Gẫm ra cho kỹ thì đôi bên cũng buồn rầu ủ rũ như nhau. Niềm riêng tại hạ u sầu. Gẫm câu kỳ ngộ ban đầu đã xa. Cô nương ký ức đậm đà. Tiểu tăng sầu dựng căn nhà nhớ nhung…
Hỡi ôi!
Đang khi tôi triền miên âm thầm mông lung tư lự ra như thế giữa cảnh trạng trang nghiêm im lặng như tờ bốn phía ba xung quanh, thì hốt nhiên nghe thấy trong đám người ngồi xúm xít tựa lưng tường vách trước mặt có nảy ra một âm thanh ri rỉ yểu điệu mà rằng:
-Quả thật đúng là người ấy đó, không còn nghi ngờ gì nữa! Gẫm lại cái thuở bé bỏng thơ dại nô đùa với nhau tưởng như cách biệt hai cõi! Ôi bao xiết, thê nhiên vô ngần ra như thế!
Một lát sau, lại nghe giọng một người đàn ông nói tiếp mà rằng:
-Tội thay! Thương thay! Quả thật Tam Lang nhất định đi rồi!
Tôi giật mình đánh thót một cái! Kẻ nào vừa nói tên tôi ra như thế?
Lúc bấy giờ thần hồn tôi hoảng nhiên biến động, tôi chẳng dám đưa mắt nhìn thẳng coi thử là ai.
Lại nghe âm thanh nữ lang ri rỉ mà rằng:
-Trông anh ấy dường như vừa mới khỏi một trận đau ốm nặng! Em biết rõ rằng Tam Lang vốn xưa kia có một tâm sự ẩn mật không nói được ra lời!
Tôi lim dim con mắt, lặng lẽ suy đoán cái giọng nói kia xem đó là ai mà thanh âm uyển chuyển tròn xoe ra như thế. Đó là em Hoàng? Em Lục? Em Xích Bích? Em Thanh Nga? Em Cấm Nguyệt? Em Thiền Vu? Hay là em Thâm U Chi Xứ?
Dư mặc sát kỳ thanh âm cửa chí, thỉ đại ngộ kỳ tức Mạch gia huynh muội, vi ngộ lân lý, hựu vi tổng giác đồng song…

Tôi suy gẫm về cái thanh âm kia lâu lắm, sau đó mới sực rõ rằng ấy chính là hai anh em nhà họ Mạch, vốn xưa kia là bạn láng giềng của tôi(ngày tôi ở nhà nghĩa phụ) hai anh em nhà họ Mạch cũng là bạn học ngày còn bé còn bỏng của tôi vậy. Bé ôi! Ôi bé! Bé ôi ôi! Cũng thể mà ra thể lệ rồi. Cung bậc trầm luân thu Xích Bích. Linh hồn Tào Tháo mím hai môi ! Bé ôi! Mạch thị ra đời. Mịch thiên nhiên bạc mạt đời kiếp than. Ta về giũ áo quan san. Mùi hương đất trích cung đàn nhật tâu.
-Look! I am living. On what? Neither Childhood nor future are growing less… Super- numerous existence wells up in my heart…

-Hãy nhìn xem! Ta đang là sống đó. Hà tòng xuất? Hà tòng do? Hà to dòng? Tòng đâu thế? Tế nị từ? Từ nị tề? Bởi vì đâu mà ba bề sống thế bốn cho vì? Bì cốt một Bột phát ma? Ta thập dạng? Tàng ẩn mô? Tô tỷ sam? Tàm thơ ấu? Tẩu hỏa nhập ma là? Cũng cùng không cũng cũng? Há hao mòn hòn hột rộng ra ru? Hằng sa số hằng sinh bình tồn hoạt? - Nảy tuông dồn trong tim máu tôi dâng…

Chẩm ma na cá cung tong.
Há rằng khiêm thuận khơi dòng dịch kinh
Tuổi thơ ấu động biên đình
Đã ra như thể quỷ tình tự ma
Thi thư thoái nhượng yên hà
Ngã trừu sưu cú bách là vô công…

I had pondered over these voices for a long time before I made the great discovery that these were the Mei brother and sister, who had been my village neighbors. We were also schoolmates during our tender years. By count, we had been apart for five years…

Té ra lân lý ra vào
Vốn xưa kia đã cắm sào đồng song
Đây sông phức úc phiêu dòng
Phòng văn hơi giá tấm lòng rã hai
Trùng quan đồi núi dặm dài
Năm năm ly biệt dịp may trùng phùng
Kế tương biệt ngũ tải, tưởng kỳ phụ kim vi hoạn ư thử… Hồi thủ tiền trần đồ tăng hạo thán nhĩ!
Gẫm ra ly biệt đã năm năm, tưởng tới phụ thân của anh em bạn cũ nay làm quan bổ nhiệm tại chốn này, quay đầu ngóng vọng bụi đường mù sương thuở trước, càng thêm ngậm ngùi lồng lộn lai láng lưu ly lất lây một cách!
Ức dư ky Hương Giang thời…
Nhớ lại thân mình thuở trú ngụ nơi Thừa Thiên Hương Giang đất khách, dư Mạch thị huynh muội kết lân ư Mãi Hoa Nhai (cùng anh em nhà họ Mạch kết bạn láng giềng tại Mai Hoa Nhai- Đường phố bán hoa) phụ thân hai bạn vốn là người đôn hậu tính tình (không hề có chi mô giống như cái nòi tầm phào thi sỹ) ý cực khả thân, đối xứ với tôi rất mực chân tình chính ái, nay bỗng dưng không hẹn mà gặp gỡ tại chốn man mác cõi miền này, thật là quả thật do tiền duyên túc ái… tái úc vân yên viên bô vô hạn vạn niệm viêm lương vương thịnh vinh thông cầu vồng bảy sắc… bắc nam xuôi ngược triền phược một niềm [1]…

Thì mai đây, tôi ắt hẳn có thể nhân đó mà hỏi thăm dò ra tin tức cố hương cựu sự. Thì như thế cũng đủ an ủi một phần nào cái thân thể phiêu linh của một tình tự bồ tát vướng tục lụy hơi nhiều. Há chẳng chăng ru? Dư kim hậu hoặc năng tạ thử nhứt tấn cựu hương chi sự, tư diệc túc dĩ sảo ủy phiêu linh phủ da?

Perhaps later I could use this opportunity to ask news about my old home village. This would be sufficient to comfort a lone derelict like me).
Tôi trong lòng như thế thì hân hoan trấn định như thường.
Tới lúc rạng đông phơ phất thì pháp sư tế điện đã xong xuôi mọi mọi.
A servant boy came before me and bowed, saying:
-“My master has ordered me to request Your Holiness to come to the study for rice”.

Một chú bé tỳ bộc tới trước mặt tôi, chắp tay xá một cái mà rằng: - Chủ nhân ra lệnh cho tiểu tử. Kính mời đại sư rời gót sang thư trai dùng cơm”.
I followed him immediately. Tức thì tôi theo gót chú bé đi ngay (đay nghi rất mực rạo rực mà rằng).
Thử thời đồng lai chư tăng, hàm hãi dị, dĩ bỉ bối vị thường tri dư thân thế; bỉ ý vị dư nhứt nhân kiến chiêu, tức hữu thù vinh cực sủng…

Lúc bấy giờ chư tăng vốn cùng đồng đi trong cuộc lễ, thảy thảy đều lấy làm kinh hãi kỳ dị, ấy bởi vì họ vốn không rõ thân thế quá khứ tôi, thấy tôi bỗng nhiên được mời đi ăn cơm như thế, thì trong ý họ tưởng rằng đó là một vinh dự đặc biệt của kẻ được chuộng đãi tài năng. Nhưng chư tăng kia mặc dù vào cửa Phật, mà tâm hồn tình tự thì lại rạo rực xu hướng hết về phía vinh hạnh phồn hoa! Thế mới nên ra như thế vậy!

(All the other monks who had come with me were starled by this statement because they did not know my past. They must have thought to themselves that is was a marked honor and great favour for me to be invited alone in this fashion. Althought these men were in monkhood, their natures were still eager for mundane glory. That is why they acted thus) [2]…

Lúc tôi bước vào trai phòng, thấy cơm nước dọn ra thật là lai láng ngon lành ngành ngọn yến diện. Có đủ đầy nào là rau cải rải rác tròn xoe, những là cá ướp dấm chua hom hem ri rỉ, nào là thịt riêm ngũ hương, quế hoa lật tử, hồng lăng ngẫu phấn, ngấn phẩu béo ngùi, ngậm ngùi hột giỏ giẻ, tam bạch tây qua, Long Tĩnh Hổ Bào trà, ba la mật kim cương mường tượng, mượn cớ mớ thượng tương hồng tự thối; tối ngọt thậm ngon thon thon măng búp, múp băng ngà, tuyết ngọc long lanh xanh um chùm cụm mũm mĩm bất ngờ mép bờ mềm dịu a na tam miệu tứ bồ đề, lục bồ tát mát mẻ miêu cương đâu mường đâu mán đó mọi miền mọi mại mọi lô lô…
(When I had reached the study, I saw that a lavish spread had been laid out. The courses were as follows: vegetable, sour fish, “five-fragrant spiced” dried bean curds; cassia blooms fried with chestnuts, red lily-root powder,”san-pak” watermelons, “Hu P’ao” Dragon-Well tea, and “rainbow-brand” ham. All this had been prepared especially on my account).

Mọi thứ ngon ngọt mặn mà đó dọn ra là vì tôi hết cả [3]. Hỡi ôi!
Trong lòng tôi lặng lẽ cảm tạ ông bà họ Mạch. Quả thật ông bà ôn tồn quyến luyến cố nhân. Thật quả bà ông là người y y hữu cố nhân chi ý. Đủ chứng thực cái cõi lòng đôn hậu rất mực tày trời động đất, tại khoảng viêm lương thế thái kiêu ly này, ông bà đúng thực là những tâm hồn thơ ngây như con chim loan, chim phụng, con kỳ lân, con sư tử đậm đà mắt xanh mày thắm liễu my nhi vậy. (Nên nhớ rằng con sư tử mặc dù uy nghiêm khả phạ, nhưng không hề dữ dằn trật búa như con kim báo con beo, hoặc bê bối như con đười ươi, con khỉ đột).
Chốc lát sau, ông bà họ Mạch nắm tay đứa con đứa cái bước vào, cùng tôi chào hỏi ôn tồn niềm nở kẻ ở người đi. Tôi chăm chú nhìn kỹ hai anh em con nhà ông bà họ Mạch, thì thấy rằng hai anh em kia mặt mũi cũng hồn nhiên thơ mộng như xưa, đề huề yên vui với cha mẹ, thì tôi càng ngậm ngùi vô hạn cho cái thân thế cô độc của mình là một nhà sư chẳng có chi phiêu nhiên như lai chút nào cả. Tứ cố tiêu điều, phụ ngã phụ nhân, hà dĩ kham thử? (Phụ mình phụ người há sao chịu nổi như thế?) Thì tôi đưa hai bàn tay vướng tục lụy lên bưng lấy bộ mặt bồ tát dở dang của mình mà ri rỉ khóc một phen khôn hàn dấm dớ.
Ông bà họ Mạch và hai đứa con cũng u sầu buồn bã thấy tôi đau khổ như thế. Cô con gái bỗng nhiên xúc động khôn cầm, cũng bắt chước tôi khóc òa một trận.
Không ai nói được lời nào.
Chợt ông nhà Mạch đưa bàn tay vỗ vào xoa cái đầu trọc của tôi, trang nhiên cất giọng mà rằng:
-Cháu bé đừng nên ưu sầu quá xá như thế. Hãy nên đổi sầu làm vui. Đã lâu ngày, tôi không gặp cháu. Ban đầu ta có nghe người làng nói, mới hay rằng cháu đã rũ trút bụi trần mà quy y cửa Phật. Thì lòng ta đã ngậm ngùi suy gẫm. Thiên tư tuấn sảng như cháu, mà bước đường đời sao lại lận đận nhà ma? Mà Như Lai thì há đâu chẳng lại man mác mù sương quá ư phiêu hốt. Chắc gì cháu đã đáo bỉ ngạn mà nêu câu ba la mật kim cương? Thì lòng ta cũng mang nhiên mà âu lo cho cháu lắm.

Đã một năm nay, ta dắt dìu gia đình ra ngoại nhậm nơi đây kiều cư ư thử. Đêm vừa qua chợt hai đứa cháu nhà nói cho ta biết rằng cháu có tới đây cùng chư tăng lo việc pháp sự. Khiến lòng lão phu rất mực kinh ngạc bàng hoàng lại thêm vô cùng hoan hỷ chất chen xen lẫn tràn ngập xâm lăng chim chuyền líu lo bụi ớt. Lão phu nay tuổi tác đã ra người già nua! Chẳng thể liệu được rằng có phen gặp cháu. Há đâu có thể dám nghĩ rằng? Mà ra cơ sự lăng tằng chiêm bao? Thiên duyên bố thiệt hội nào? Mà nay tái ngộ âm hao bây giờ?
(-Do not grieve, my boy, said he. I have not seen you for a long time. When I first heard what the villagers said, I knew that you have separated yourself from all mundane affairs to become a monk. I felt very grieved that a heaven-given and extraordinary mentality like yours should have had such a sorrowful path in this life. A year ago I brought my family to live here. My Children told me last evening that you had come to our home to take part in the ceremony. This filled my old body with a mixture of fear and gladness. I am old indeed. I had not thought that I should be able to meet you again. How can it be said that this meeting was not arranged by Heaven?)
Bà vợ của nghĩa phụ cháu vốn mùa xuân năm trước đã thiên cư Hương Giang, vướng bịnh hầu dịch mà qua đời. Nay lão phu mong rằng cháu chẳng quay về Quảng Đông làm gì nữa. Lão phu cũng rõ là cháu chẳng có cốt phàm, lão phu mời cháu ở lại đây làm khách thơ mộng, để cùng bầu bạn với hai con “heo” (cha nói về con) của lão phu, vì như thế, cháu cũng thật là giúp ích cho lão phu rất nhiều vậy. Ý cháu nghĩ như thế nào?
Nghe ông nhà Mạch nói rằng bà vợ nghĩa phụ tôi đã chết năm ngoái, thì lòng tôi mang nhiên thêm nữa. Té ra nhân sự biển dâu bách biến khôn lường. Chẳng biết đâu là nên hư phải quấy ở trong cái miền cõi lơ đễnh sương phù du tuôn hớ hênh.

Chú thích:
[1] Ngôn ngữ Tô Tử Cốc tại đây rõ ràng là khởi phát từ thủy mạch Như Lai lãng đãng nơi những bộ kinh.
[2] Bản dịch Ang ngữ có di biến linh động chút ít. Cấp cho ta một trường hợp đơn sơ rất mực tố vọng sinh bình sinh ra suy gẫm sâm si đen sì…
[3] Hỡi ôi! Đãi tiệc nhà sư mà sao lắm của ngon vật lạ như thế? Phải chi mà đem cho hết ông Tản Đà nhậu nhẹt một trận!

Tô Mạn Thù (bản dịch của Bùi Giáng)

picture.php




[/NEN]​
 
Last edited:

Bạch Vân Nhi

Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (thán
Phật tử
Tham gia
27 Tháng 5 2009
Bài viết
2,518
Điểm tương tác
888
Điểm
113
Địa chỉ
CANADA
Nhà Sư Vướng Lụy (tt)

[NEN="http://trungtamtutam.com/diendantuthien/picture.php?albumid=38&pictureid=3611"]

Nhà Sư Vướng Lụy (chương 24)

Tôi lau nước mắt đáp ông Mạch mà rằng:
-Cháu cảm tạ tấm lòng bác chiếu cố. Lòng cháu bàng hoàng còn biết lấy chi báo đáp. Nhiên nhi, trong chùa còn chú Tương Tăng, pháp danh là Pháp Nhẫn, vốn là bạn chí thiết của cháu, cùng nhau sống đã lâu ngày, cháu chẳng nỡ nào chia tay với người bạn ấy. Sau này, cháu sẽ mong được nhiều dịp tới viếng bác để nghe bày vẽ được nhiều, xin bác vui lòng cho như thế.

Ông Mạch suy nghĩ chút ít, rồi hòa ái bảo rằng:

-Như vậy cũng tốt lắm! Bác chỉ lo sợ rằng đời sống khắc khổ trong chùa cháu chịu đựng không kham.

Tôi đáp mà rằng :

-Dạ không có chi như thế. Chư tăng trong chùa đối đãi với cháu rất tốt. Ngoài Pháp Nhẫn ra, lại còn Chơn Pháp, Tuệ Sỹ Pháp, Chí Hải ni cô, Phùng Pháp ni cô, Khánh Pháp ni cô, toàn nhiên là những vị từ bi độ lượng khả dĩ mai sau dắt dẫn cháu cập bờ đáo bỉ ngạn ba la mật kim cương. Ngoài ra lại còn Minh Châu phương trượng vốn xưa kia là…

-Là sao?

-Là thường hằng có làm thơ ngâm vịnh với song hồn thiên hạ thi sỹ trung niên.

-À, té ra là như thế. Vạn hạnh, ức phúc vậy thay!

Gladness shone upon Mr. Mei’s face. He led me to my seat at the table, I noticed that there was a complete spread of Chekiang delicacies on the table. Yet my heart carried so many sorrows that, for the moment all dishes tasted alike; it seemed as if I were merely chewing wax.


Ông Mạch hân hoan, hỷ hình ư sắc. Nắm lấy tay tôi dẫn vào nhập tiệc. Trên bàn có đầy đủ đông đảo tràn lan những món ăn Chiết Giang Hà Nam Hà Bắc. Nhưng lòng tôi đầy rẫy những ưu lự khôn hàn, gắp món nào cũng như món nấy, cũng thể như ăn sáp nhạt mà thôi.

Ăn xong, tôi sơ lược kể lại chuyến đi Nhật Bản tìm mẹ. Gia đình ông Mạch thảy đều cảm động vô cùng.

Con gái ông Mạch và Mạch phu nhơn đều đồng than bảo rằng té ra như thế thì lòng trời cũng đã sẵn sàng có an bài ôn tồn thỏa đáng cho liên tồn thế sự nhân gian, và hết lời khuyên tôi hãy gắng mà nguôi quên những cái cơn sầu muộn ủ ê đi. Trời nắng rồi trời mưa rồi trời tạnh cũng như dâu biển chiến tranh hòa bình rất mực vậy đó mà. Tôi lại cảm động một cơn và vùng khóc thêm một phen nữa.

Tới lúc cáo biệt lâm hành, Mạch phu nhân đem ra cho tôi một trăm đồng vàng dặn bảo mà rằng:

-Cháu đừng từ chối, hãy nhận lấy mà tiêu dùng lúc cần cấp.

Tôi khước từ mà rằng:

-Cháu tự lúc khởi hành từ Đậu Tử, đã có dành dụm hai trăm, tới nay vẫn còn giữ được phân nửa, nằm vuông tròn ở trong túi áo cà sa phơ phất ôn tồn. Ân đức kia của hai bác, cháu xin tâm lĩnh vậy. Và kính tạ phu nhân nửa phần thơ mộng nửa phần đăm chiêu:

Phu Nhân cả cười mà rằng:

-Thơ mộng cái chi? Đăm chiêu cái chi?

Tôi cũng cười theo một tiếng.

Về tới chùa. Vài ngày sau, hai anh em Mạch cùng tới viếng chùa Linh Ẩn (Secluded Soul Monastery). Gặp tôi trò chuyện tại Lãnh Tuyền Đình (Chilly Spring Pavilion). Tôi nhân lúc hàn huyên vui vẻ, mà xen lời ngẫu nhĩ hỏi thăm về tin tức Tuyết Mai:

-Chẳng biết cảnh huống gần đây của Tuyết Mai ra như thế nào?

Ban đầu anh em Mạch thị có vẻ ấp úng che giấu, ngôn ngữ mơ hồ.

Tôi không nghe ra đầu dây mối nhợ rõ. Liền nêu trở lại câu hỏi lần nữa... Rồi hỏi tới lần thứ ba…

Thì cô gái hơi nhíu hàng lông mày là rằng:

-Nếu như sự tình là ngọc nát hương tan thì anh nghĩ sao?

Nghe nàng nói thế như sét đánh ngang tai. Cơ hồ tôi suýt ngã gục chết ngất. Trấn định thần hồn không được, tôi run lên từ đầu tóc tới ngón chân, thu tay đấm vào ngực mình mà hét.

-Có thật như thế chăng?

Người anh cô Mạch liền nắm lấy cánh tay tôi mà rằng:

-Em nó nói bậy bạ bừa bãi! Đâu có hề xảy ra chuyện đó… Sự thật là… là…

Nói tới đó, ngập ngừng, chuyển sang điệu an ủi:

-Anh Tam Lang thân mến ạ, anh hãy bảo trọng thân thể. Em gái nó nói câu ấy chẳng có chi xác thực hết cả. Sự thật là chúng tôi có nghe người ta đồn rằng cô Tuyết Mai vướng bệnh tơ tưởng gì đó, rồi đau ốm có phần kịch liệt thế thôi. Dù sao, thì Trời Xanh cũng che chở những người hiền hậu đàng hoàng như cô ấy. Cô cũng như Kim Cương nương tử. Có lẽ nào mệnh vận hẩm hiu cho được. Anh Tam Lang chớ nên lo sợ mà tổn hại thân thể máu me.

Tôi cố gắng trấn tĩnh. Ngày đó, anh em Mạch lại mời tôi cùng về nhà anh chơi.

Qua ngày hôm sau, buổi sáng tôi thơ thẩn ra dạo vườn phía sau nhà, chợt thấy cô em Mạch đang đứng đăm chiêu trên chiếc cầu gỗ, tay vịn nhịp cầu mà hai con mắt ngó xa xôi.

Thấy tôi đi tới, thì hai má lúm đồng tiền của nàng bỗng nhiên ửng đỏ phất phơ. Ý dường như là không nỡ đem tin tức giai nhân kia mà nói ra cho rõ. Tôi sắp quày thân đi nơi khác, cô gái bỗng đưa mắt nhìn qua một cái, cất giọng mà rằng;

-Tam Lang có vui lòng cho phép em dẫn anh đi dạo vườn một chặp?

Tôi nghiêng thân cung kính ôn tồn, trang nhiên cảm tạ mà rằng:

-Há dám làm phiền gót ngọc? Kính hỏi hiền muội một lời: Tuyết Mai thật ra có còn sống tại nhân gian chăng? Hiền muội có thể nói rõ hết đầu đuôi cho nghe?

Cô gái riu ríu giọng vàng thở dài một cái, lắc đầu mà rằng:

-Ngạn ngữ có câu: “Tâm can Mẹ ghẻ, một mẻ tam bành…” Há chẳng là sự thường tình? Ngày trước ở quê nhà, em có nghe người ta nói rằng người Mẹ ghẻ kia bức bách chị Tuyết Mai phải làm dâu một nhà giàu có nào đó. Trong cái đêm trước ngày về nhà chồng, chị Mai đã lìa đời, sau bao nhiêu ngày ốm đau hao mòn nhịn đói. Chẳng biết ông Trời Xanh, ông Phật đỏ ở đâu, mà chẳng thấy thấp thoáng về cứu giúp. Người trong làng ai ai cũng thương tiếc chị Tuyết Mai, mà chẳng có ai chịu phục ông Trời Xanh tài hoa gì hết cả. Còn em nghĩ tới mà ngán ngẩm chán phèo cho trời tròn đất méo, nhân gian đen đủi hoen hoen, rốt cuộc xô bồ ra như thế.

Nghe rõ tin tức đau đớn ấy, tôi than khóc thất thanh lạc thể ly hồn. Cấp tốc quay về chùa, cùng Pháp Nhẫn bàn bạc, cùng nhau khăn gói vội vã quay về Lĩnh Nam Lam Hải, mong tìm tới mộ Tuyết Mai mà phúng điếu an ủi cái vong hồn.


Chiều xế ngày hôm sau, gia đình ông Mạch cùng tiễn chân tôi tới Củng Thần Kiều. Gạt lệ chia tay.
Tô Mạn Thù (bản dịch của Bùi Giáng)

picture.php




[/NEN]
 
Last edited:

Bạch Vân Nhi

Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (thán
Phật tử
Tham gia
27 Tháng 5 2009
Bài viết
2,518
Điểm tương tác
888
Điểm
113
Địa chỉ
CANADA
Nhà Sư Vướng Lụy (tt)

[NEN="http://trungtamtutam.com/diendantuthien/picture.php?albumid=38&pictureid=3612"]

Nhà Sư Vướng Lụy (chương 25)

Trên dặm đường dằng dặc, tôi lẩn quẩn linh hồn như con kim báo lạc rừng hiu hắt giữa mù sương thôn ổ. Gẫm lại những cái lời những con người đời xưa mà nhấm gậm lại gan mật đau đớn ở trong mình: “Ta hăm hở chí trai hồ thỷ, bởi vong tình nên thái thượng vong tâm. Nàng lưu ly thân gái liễu bồ, vì giận phận, hóa ngang tàng tính mệnh… Nhưng mà? Mà nhé! Nhé mà? Mà chẳng nhé?
-Don’t think that I am wooing, Tathagatha! Even if I were, you’d never come. For my call is always full of “A way!” Against such a powerful current you cannot advance. Like an outstretched arm is my call…

-Xin chớ nghĩ rằng tôi đang cầu khẩn hỡi Như Lai!
Vì cho dẫu khẩn cầu, người cũng sẽ chẳng bao giờ chịu đến
Vì tiếng kêu của tại hạ khôn hàn
Vẫn mãi mãi chan hòa niềm ly khứ
Về hư vô là viễn xứ hư không
Và đối nghịch lại dòng tuôn xiết nọ
Người không sao tiến tới được bên lòng
Và tiếng gọi vẫn như dường như thế
Một vòng tay duỗi rộng giữa sương hồng
Và sương lục mông lung hồn lữ thứ
Và sương lam vô hạn mất vân mồng
Và vâng một vâng hai vâng ba vâng bốn
Cũng vô ngần vâng ạ ạ vân vân…
Chiêm bao đậu khấu si đần
Cơn điên cuồng dại cơn dần dần se
Ông trời bà đất so le
Thị thành tâm sự còn nhe răng cười
Tôi và Pháp Nhẫn tới Thượng Hải, mới hay rằng tiền bạc ở trong túi áo thảy thảy đều không cánh mà bay. Không còn cách gì mướn thuyền, đành cùng Pháp Nhẫn quyết định đi bộ. Dọc đường khất thực le lói, niếm mùi cay đắng.

Sau đó, chúng tôi tới Hoành Bồ Quan, bước vào biên giới Nam Hùng. Quá trạm Hồng Mai Dịch, nghe thổ dân bảo rằng đường đi vốn bằng phẳng bình an, duy có điều những đoạn đường thủy hơi nhiều, mà việc thuyền bè chểnh mảng.
Phải trải cơn chờ trận đợi, nhiều phen lắm, mới mong tới được Thủy Hưng. Chúng tôi hai đứa dốc hết tiền bạc thưa thớt còn lại trong túi áo ra, thì cũng tạm gọi là có đủ để mướn ghe và mua thực dụng.
Xong xuôi, ghe giương buồm đi. Gặp gió xuôi buồm thuận, mấy ngày sau vượt qua Trinh Thủy. Tới huyện Thủy Hưng, thì hai đứa tôi mới bớt lo âu được một phen. Đêm đó, thuyền buộc tại một bến đò xơ xác dưới gốc cây tàn dương bại liễu. Bấy giờ vào tiết Trung thu tháng chín, khí trời lạnh lẽo, sơn xuyên tịch liêu. Ngẩng mặt nhìn phong cảnh tiêu điều, chợt một trận gió tây bắc heo hút thổi qua vi vút bên mép tai. Tôi lật nhiên hãi hùng nghe ra như có một giống vật kỳ lạ đồ sộ khò khè tới tập kích chiếc ghe. Dưới ánh đèn leo lắt, tôi đưa mắt dòm thấy một đống ngổn ngang, ước có hơn trăm rưỡi con cua to bự cuộn tròn cuống rốn ù lỳ ngọ nguậy nhà ma. Té ra kể cũng là cà lũng một cảnh tượng cưỡng cơn kỳ thú tôi được nhìn ngó nhăn nhó nhất mực một lần đầu.
Pháp Nhẫn bảo tôi mà rằng:
-Tôi nghe nói Chu Phụng Sơn (núi Chu Phụng) cách đây không bao xa có toà nhà xưa của Trương Cửu Linh (thi nhân đời Đường) sáng mai chúng ta hãy len lỏi theo đường mòn tới viếng một phen chơi. Chịu bỏ chút ít thì giờ đi quanh co một trận cũng là phải lẽ vậy:
Tôi bảo:
-Chỉ tiếc là chúng ta không có cơ hội thống ẩm cuồng ca một trận. Nếu được thì chúng ta có thể mở một cuộc nướng mấy con cua kia. Rồi vào trong làng thôn, thôn làng thang lan mơ mộng mà mua một mớ rượu vàng ăm ắp đầy lu ra đây ngồi giữa cảnh trời thu mà tha hồ nhậu nhẹt thù tạc tơi bời cho nguôi cái cơn u sầu ở trong thớ dạ. Nào, nào đêm nay trăm sầu nghìn muộn, ắt có còn đày đọa máu me tim phổi chúng ta ru ?
Ông lái ghe đưa tay chỉ cho chúng tôi nhìn một ngôi chùa giữa một rừng phong, bảo với chúng tôi rằng:
-Đó là Hoài An Cổ Lan Nhược vậy. Những tường vàng vách ngọc ngày nay đã rã rời rụng rơi toe toét hết cả. Phụ lão tương truyền rằng tháng ba Giáp Thân thời xưa các bậc di lão của hàng ngũ lãnh đạo dân tộc chúng ta đã từng chiêu tướng mộ binh tại chốn này. Các ông có nhận thấy rằng vong hồn thu thảo còn phảng phất vong linh cựu thời, trong ngọn gió hiu hiu? Hỡi ôi! Phong cảnh y nhiên mà giang sơn đã đổi chủ há chẳng khiến lòng người hoài cảm ưu nhiên ru?
Chúng tôi sắp ngủ, chợt trời nổi trận gió dông mù mịt mưa tuôn. Tôi bảo Pháp Nhẫn:
-Đêm nay không thể ngủ tại ghe được. Chẳng bằng cùng vào trong am miếu kia đụt mưa, sáng mai lại lên đường.
-Như thế phải vậy.
Chúng tôi bèn từ biệt ông lái ghe, nhắm thẳng hướng Rừng Phong mà tiến gót. Tới cửa chùa nhìn thấy bốn bề tường vách rã rời sập đổ, các cánh cửa cũng tan tành. Vào trong chùa, vắng ngắt. Chỉ leo lắt thấy Phật đăng bốn phía vách. Bên cạnh điện có một con đường thông ra phía sau, dẫn tới một căn phòng nhỏ. Tôi đoán chắc đó là chốn cư trú của vị tăng trụ trì, nên dừng gót không tiến vào làm chi. Pháp Nhẫn đưa tay mò mẫn tấm bia có đề thơ, lẩm nhẩm mà đọc rằng:
-“Thập quận danh hiền thỉnh tự tư
Tòa trung nhược cá thị nam nhi
Đỉnh Hồ nan vãn long tu nhựt
Uyển Thủy tranh trì ngưu nhĩ thời
Khốc tận đông thanh đồ hữu lệ
Ca tàn Ngưng Bích cánh vô thi
Cố lăng mạch phạn thùy kiêu thủ
Doanh đắc không đường tửu mãn ba"
-Đó là bài thơ của Đạm Quy hòa thượng (triều Minh Gia Tĩnh) tặng cho Ngũ Mai Thôn vậy. Thuở bấy giờ bọn gọi là danh lưu nhân sỹ, đã cam lòng đem đất đai tổ tiên hiến dâng cho rợ Hồ. Tàn bạo sát hại vũ nhục đủ rõ. Đạm Quy hòa thượng vốn là kẻ đội trời đạp đất, quen thói vẫy vùng, anh hào đường đường một đấng. Hỡi ôi! Đơn Hà nhứt cự, di lão ư quang, chí kim do quật nhi bất thân, hà thiên tâm chi hội hôi giả
(Alas! When his abode, “red dew”, was burned down, the glorious traditions of the faithful remnant of this country were buried in obscurity, never to come to life again. Why is Heaven so stupid as to let such conditions exist?)
Trời bỗng tạnh mưa. Tôi và Pháp Nhẫn, Chơn Pháp, Tuệ Pháp không nói năng gì nữa, cởi áo nằm xuống một góc điện (ghiện đóc). Tôi ngẫu nhiên từ cõi mộng kinh động tỉnh ra, lúc bấy giờ bốn bề tĩnh mịch, vạn lại trầm trầm, bách ban duệ địa thảy thảy cùng là đã quét đất mang nhiên miên nhan mậu sắc mắc sậu phiêu bồng cưỡng cơn sè sẹ. Chợt nghe Tây phong thổi táp táp, phần phật đạp vào cành tre bẹ trúc, côn trùng lạnh lẽo sầu đong tiếp nối vơi đầy. Bỗng nhiên có tiếng niệm Thi kinh (kinh thi ky thinh) mờ hoen phai nhạt cái câu lục nga sầu não vô ngần, cay đắng tuyệt lâu “Ai ai phụ mẫu! Sinh ngã cù lao!" Thì cõi lòng tôi bỗng trào cơn sôi cuộc như tan rã mất rồi…
Sáng ra, trời trong xanh. Tôi gặp nhà sư đêm hôm niệm kinh Thi… Hỡi ôi ! Mặt nhìn mặt !Té ra đó là người con trai của vú nuôi tôi. Chính là Triều Nhi đó vậy. Tôi kinh ngạc ngậm ngùi. Còn Triều Nhi thì cơ hồ như tưởng tôi là vong hồn ma quỷ. Hai đứa đăm đăm ngó nhau thật lâu như bị thâu hồn nhiếp phách.
Bi yếu vạn trạng mà rằng:
-A huynh trở về bao ngày như thế?
Tôi đáp:
-Đêm hôm qua tới đây, mưa gió đầy trời, đành vào trong điện này tránh mưa. Hiền đệ vì lẽ chi mà trông tiều tụy hình dong ra như thế? A mẫu bình an khỏe mạnh chứ.
Triều Nhi chưa kịp mở môi, đã thấy ròng ròng hai hàng nước mắt. Bảo tôi rằng:
-Từ mẫu em đã qua đời, em đau lòng quá, bèn rũ áo cạo đầu đi tu. Em lưu trú chốn này gần bên nấm mộ đã ba con trăng rồi (ba tháng).
Tôi nghe nói, thì bủn rủn cả tay chân bước tới ôm Triều Nhi mà khóc.
-Ý anh là về Nam Hải thì trước tiên là tìm thăm vú nuôi. Tự ngày anh còn bé bỏng, chỉ một mình vú nuôi nấng thương yêu ngờ đâu ngày nay đã là người thiên cổ. Trời Xanh ôi! Vú nuôi ân đức dưỡng dục, tôi chưa đền đáp được chút gì! Phật từ bi ôi! Lòng tôi tan nát còn ra cái cái dạng gì gì! Tim phổi cũng theo nhau rã rời đi mất hết.
Triều Nhi dẫn chúng tôi ra ngoài cửa phía tây, tới nắm mộ. Chỉ thấy đất vàng le lói một vùng, - Hoàng thổ nhất khâu lưu chỉ đảo. Tam kinh huyền vọng kiểu lư tê…
Hàng bạch dương hiu hiu hắt hắt. Đàn chim rừng đậu ở trên đó, ca hót cái lời gì? Tôi và Pháp Nhẫn, phủ phục khóc than.
Triều Nhi lau nước mắt mà rằng:
-Vong mẫu cảm lòng cổ trang phu nhân vô cùng. Trừ cổ trang phu nhân ra, muốn tìm cho một người nhân đức lân mẫn, thật là không có. Em tháng trước đây gửi đi lá thư, chẳng biết rằng a huynh đã trở về. Hôm nay gặp a huynh tại đây, thì thật là mộng hồn em cũng không liệu được tới, há chẳng phải là Trời Xanh Phật Vàng Thượng Đế Đỏ cũng rủ lòng thương xót chúng ta chăng? Mẹ em ắt cũng ngậm cười nơi chín suối.

Tôi lẩm nhẩm lời thơ nương tử con gái mục sư Robert: - “Kô ros d’od’ieros ôs apaikassai, bruônn daphnes, class, ampelou. Puknopteroi d’eisô kat’autôn eustomouss ared ones… and where we are is clearly consecreted groud: luxuriant in laurel, olive, vine - and deep in song of nightingales…
Và nơi chốn chúng tôi tao ngộ ấy
Là đất đai của Thơ Mộng Thiêng Liêng
Cành Nguyệt Quế và Ô Liu Nho Thắm
Và Yến Oanh thăm thẳm dậy bên miền…

Tô Mạn Thù (bản dịch của Bùi Giáng)

picture.php




[/NEN]
 
Last edited:

Bạch Vân Nhi

Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (thán
Phật tử
Tham gia
27 Tháng 5 2009
Bài viết
2,518
Điểm tương tác
888
Điểm
113
Địa chỉ
CANADA
Nhà Sư Vướng Lụy (tt)

[NEN="http://trungtamtutam.com/diendantuthien/picture.php?albumid=38&pictureid=3589"]

Nhà Sư Vướng Lụy (chương 26)
Đoạn Kết

The last act is bloody, however charming the rest of the play may be (Màn cuối đẫm máu lệ, cho dẫu toàn khối thừa dư của vở tuồng có thơ mộng kiều diễm bao nhiêu chăng nữa)”
Chúng tôi tạm cùng Triều Nhi chia tay, rồi cùng hướng về phía cố hương của Tuyết Mai mà đi. Đường đất dặm dài ngun ngút, chúng tôi vừa đi vừa xin ăn dọc đường. Bảy ngày đêm sau mới tới Diệp Thôn (Yellow Leaf village). Độc giả còn nhớ ấy chăng. Thôn nọ là cái nơi cư lư của vú nuôi tôi ngày trước. Ngày đó tôi đã có lần làm một kẻ bán hoa. Căn nhà vú nuôi đã bán cho chủ khác. Nhìn bên ngoài cũng không còn giống như ngày trước. Càng thấy sầu muộn thêm ra.
Tôi cùng Pháp Nhẫn vào một mép thôn làng hẻo lánh, nghỉ đêm tại một ngôi nhà cũ nát. Chớm tờ mờ sáng, tôi cùng Pháp Nhẫn khoác áo ăn xin mà lên đường mé tây, mà ngâm câu hàn gia cơ xá
Lúc bấy giờ, lòng tôi đã trải qua vạn thiên bách chuyển, chẳng còn biết nghĩ chi là địa ngục nghĩ chi là thiên đường. Nghĩ chi là em Tuyết Mai ngậm cười chín suối, hoặc chi nghĩ là Mai Tuyết cười ngậm chốn hoàng tuyền.
Tới chốn cũ nhà của Tuyết Mai, tôi dừng chân đứng im một lúc. Hồi tưởng lại các ngày tôi đi bán hoa, lây lất cất tiếng rao “Ông bà cô bác chị em có mua hoa tươi lá biết đủ đầy…” Mọi sự còn rành rành thị hiện như câu chuyện sáng hôm qua mù sương sa trên tóc rối. Nào ai đâu có liệu nổi sự đời nó xoay vần vấn vít? Thùy liệu vân mấn hoa nhan kim cánh hóa nhiên nhi khứ? Ai có liệu trước được rằng tóc mây mặt ngọc, nay bỗng nhiên đã biến thành khói sương trôi biệt?

Ai có liệu được rằng cái niềm vui quen biết, cái ân nghĩa chia đường, rốt cuộc đã ra ma mặn mà cơn cớ quỷ! Ôi tình ôi nghĩa ôi nghiệp ôi duyên ôi tiền oan túc chướng hỡi ôi ôi! Ta hăm hở một phen đi phen ở. Em ngang tàng tính mệnh cuộc trong cơn. Cợt đùa truông lá cồn xế xanh rờn. Hoa cồn thắm cũng đành như thể úa, Thủa âm ế âm u phen nguyền rủa. Trận coi tề ủa lạ ả a nam. A Nan ôi là ứ y khôn hàn A Bồ Tát ấy Tu Bồ Đề tụ đủ.

Tù ngục với phù sinh đe ủ rũ. Đủi ủ ê còn biết nói răng mầng Câu thơ tù tội xoay vần. Niềm riêng tỳ tử há cần mẫn soi.
How could there come an end to my agony? Snow Mei herself, would surely have pitied me without end. I was exceedingly weary of being insnared in this mundane net and wished only for the end. Ta hồ! Tiểu trích phong trần, kỷ tao ma nghiệt. Tuyết Mai diệc tất lân ngã ư vĩnh vô cùng. Dư ky my thế võng, diệc yêm yêm dục tận hỹ.
Duy tưởng tới tự ngày tôi từ biệt Nhật Bản về đây, mẹ tôi ở lại bên ấy, tựa cửa mong chờ ngày tôi trở lại. Thì cũng như đem con trâu đất sét mà quẳng vào giữa biển rộng miên man. Còn tăm dạng đâu mà dò la tin tức. Tôi quả thật là đứa trẻ lăng nhăng, đã điên rồ đem bao kỳ vọng của mẹ già của dì lại, của em khờ, mà quẳng tuốt hết xuống lòng biển nước mặn sóng chua. Thế thì? Thế thì tôi còn làm thơ than thi sỹ cái gì gì? Mà cạo đầu đi tu cái gì gì cho được? Gẫm ra, tội lỗi tày trời. Còn đâu tìm ra một vị Bồ Tát Như Lai nào rủ lòng thương mà dẫn dắt lên đường kim cương ba la mật?
Lúc bấy giờ lòng tôi tê giá rã riêng khôn hàn, gắng gượng lò dò bước tới bên cửa căn nhà lẩy bẩy cất giọng gọi:
-Thí chủ! Thí chủ!
Một lát sau, một cô bé bước ra. Tôi nhìn rõ, đúng là cô gái tỳ tử ngày xưa đã đón hỏi tôi, đưa thư từ và trao tiền bạc của Tuyết Mai cho tôi. Tỳ tử giương hai mắt đăm đăm nhìn, bỗng nhiên lùi ra sau mấy bước, mặt mày thảnh thốt hãi hùng. Lại trố mắt nhìn hai đứa chúng tôi, dở chiều như quen biết, dở chiều như xa lạ.
Tôi chưa mở lời nói, lòng đau như cắt. Vừa khóc vừa than mà rằng:
-Cô còn nhớ cái kẻ bán hoa ngày trước chăng? Cô Tuyết Mai ngày nay chôn ở nơi nào ? Mong cô dẫn tôi đi viếng mộ Tuyết Mai một phen. Thì tôi xin cảm tạ ân đức của cô nương lắm. Tôi nay gấp gáp nóng lòng như sôi, không chọn ra lời để diễn tả tâm sự, mong cô thương cảm mà thứ cho.
Cô tỳ nữ nghe tôi nói, vẻ mặt nàng bỗng nhiên lạnh như đồng. Rồi chợt nổi cơn giận dữ. Nàng quay mặt nhìn nơi khác một lúc lâu, chợt cất giọng dữ dội mà rằng:
-Kỳ dị thay là cái lời ăn tiếng nói của tiên sinh! Người ta đã đau đớn chết đi rồi, tiên sinh còn khóc còn than có ích gì đến ai cho được chứ! Có từng nghe ai nói rằng cô Tuyết Mai đã có phụ lòng tiên sinh một phen nào đâu cho đáng! Xin thử hỏi chàng bán hoa một câu nhé: Tiểu thư nhà tôi đã vì ai mà đứt ruột nát cả gan vàng?
Nói đến đó, nàng lại trố mắt nhìn tôi, hai má đỏ rực. Thảng thốt bẽn lẽn mà rằng:
-Hòa thượng hãy đi đi! Hãy thứ lỗi vô lễ của nô tỳ đối với hòa thượng!
Nói xong, quay lưng trở vào, đóng rầm cánh cửa lại.
Tôi đứng trơ cúi gầm cái đầu xuống, không còn lý do gì biện giải được nữa. Đâu có ngờ bị một trận cự tuyệt lạnh giá như thế nơi cô nữ tỳ. Lòng như dao cắt. Tôi đờ đẫn ù lỳ đứng trồng như cột. Chẳng còn thiết chi sống nữa ở trong nhân gian. Lâu lắm, Pháp Nhẫn lựa lời khuyên giải, tôi bồi hồi nửa tỉnh nửa mê, cũng cảm thấy vơi bớt một phần chua xót.
Quày thân đi, Pháp Nhẫn bước theo. Hai đứa lang thang đi khắp các bãi tha ma nơi thôn làng, dừng chân trước từng nấm mộ. Cho tới nhá nhem vẫn tìm không thấy đâu bia mộ Tuyết Mai. Trời sập tối, bốn bề sương khói mịt mùng. Khắp nơi dằng dặc im lặng căm căm. Chỉ nghe hơi thở hổn hển của hai đứa ngơ ngẩn nhìn nhau thôi.
Tôi thấp giọng bảo:
-Bạn thân thiết ôi, thôi thế là rồi rồi. Tôi chẳng còn chịu đựng nỗi đau đớn, chỉ còn nên chấm dứt cái kiếp sống thừa thãi này đi thôi.
Pháp Nhẫn ngẩng đầu ngó trời. Rồi ngậm ngùi lựa lời an ủi, khuyên tôi hãy nên quay về chùa, rồi ngày mai sẽ lên đường về cõi bắc. Tôi đứng ù lỳ ra đó như thây ma. Pháp Nhẫn dìu tôi bước đi, hì hục lây lất trên con đường khúc khuỷu. Hỡi ôi!
-Đạp biến bắc khâu tam thập lý. Bất tri hà xứ táng khanh khanh? (Đi khắp gò hoang ba mươi dặm. Tìm đâu ra nấm mộ khanh khanh?)
Mây ôi làn gió u nùng
Dửng dưng như thể một vùng như lai
Miêu cương bồ tát an bài
Dấu bèo phôi dựng nét mày ngài phơi
Cành hoa mai tuyết gãy rồi
Đoạn hồng linh nhạn sao lồi lõm cơn
Gò hoang mấy dặm cát rờn
Lưỡi tê tục lụy cung đờn nhà ma…
Cầm bằng cũng thể mà ra
Bình minh bắc húc cũng là nam phương
Đất nào vùi lấp cô nương
Niềm riêng lão nạp lộn đường bữa nay


Think, gentle reader, how bitterly grieved I was at this time. Was there another tragedy in all the word, which could be compared to mine? My tears had ceased flowing. I perceived that my heart was as numb as wood or stone.

Độc giả tư tri, dư thử thời sầu khổ, nhân gian ninh phục ngô thất giả? - Độc giả nghĩ xem, lão nạp thuở bấy giờ đau khổ như thế, nhân gian còn ai đau khổ bằng? Nước mắt đã ngừng chảy? Cảm thấy cõi lòng mình đã biến thành gỗ đá. Quyết ý lên đường về viếng sư phụ ở chùa. Cùng Pháp Nhẫn khăn gói lên đường.
Nhi bất tri dư nhĩ thiên u hận, chính vị hữu ngãi giả. Yet, I did not know when all my sorrows that filled all the wide heavens, would come to an end. I now put aside my brush, finding it unbearable to say more.


TO THE HAPPY FEW
(Cuốn truyện của Đại sư Tô Mạn Thù có nhiều trang quá thảm khốc. Lúc dịch, tại hạ thỉnh thoảng có thêm vài lời vui vẻ vào, cốt để nhẹ bớt tính cách quá khốc liệt… Độc giả nguyên lượng)
Tô Mạn Thù (bản dịch của Bùi Giáng)

picture.php




[/NEN]
 
Last edited:

Tấn Hạnh

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 7 2011
Bài viết
339
Điểm tương tác
375
Điểm
63
Đoạn hồng linh nhạn ký


Hồng nhạn lạc loài giữa trời không
Có dứt tiếng kêu của nổi lòng
Mạn Thù trong sương một tiếng thở
Lạc đường líu ríu ngã về Không

Cầu bước qua cầu chốn về đâu?
Nón rộng che nghiêng một nổi sầu
Như tâm hằng gọi, Lai không đến
Giọt đổ theo mành, ướt liễu xanh.


 

Tấn Hạnh

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 7 2011
Bài viết
339
Điểm tương tác
375
Điểm
63
Tô mạn thù - tô tử cốc



TÔ MẠN THÙ (1884-1918)


tomanthu.jpg


苏曼殊(1884~1918) Su Manshu


Nghiện xì-gà Manila, thích ăn ngọt (đặc biệt mê món hạt dẻ rang tẩm đường, kem, kẹo và món thạch Yokan của Nhật), từng tự cạy răng vàng đem đổi kẹo ăn và sau cùng, ở tuổi 34 đã bị bội thực vì trong một lúc vui đã đánh cuộc với bạn bè là có thể ăn hết 60 miếng há-cảo. Con người có nhiều nét riêng kỳ cục đó chính là học giả Tô Mạn Thù (thế danh Tô Huyền Anh, ngoại hiệu Tô Tử Cốc) sinh năm 1884 tại Hoành Tân ( 横浜Yokohama)- Nhật Bản, tốt nghiệp đại học Tokyo (du học từ năm 1903), thông thạo nhiều ngoại ngữ, cùng lúc là một hoạ sĩ, thi sĩ, ký giả, văn sĩ, tu sĩ và một học giả Phật giáo uyên thâm. Đời sau vẫn xem ông là một chuyên gia về Trung Luận. Ở Việt Nam, nhà thơ Bùi Giáng là người có cảm tình đặc biệt với thầy Tô Mạn Thù qua bản dịch cuốn tự truyện Đoạn Hồng Linh Nhạn Ký mà ông sửa lại thành Nhà Sư Vướng Lụy in thành sách trước 1975. Năm 2002 Saigon cũng vừa tái bản lại.
Thân phụ thầy Tô Mạn Thù là người Quảng Đông tên Tô Kiệt Sanh (Su Jiesheng) (1846-1904), ông nội là Tô Thụy Văn (1817-1897), cả hai đều là thương gia làm ăn bên Nhật Bản. Hai năm trước khi thầy Tô chào đời, cha thầy có một tiệm trà lớn ở Hoành Tân. Ông Jiesheng vốn đã có vợ họ Hoàng bên Quảng Đông, nhưng khi ở Nhật ông cưới thêm một người thiếp Nhật Bản tên Kaisen. Em gái của cô Kaisen là Kai Yoko là một thiếu nữ đẹp, đã từ làng quê lên Yokohama phụ giúp công việc với chị. Ông Kiệt Sanh mềm lòng trước sắc đẹp của Yoko và tìm cách gần gũi. Kết quả là Yoko có mang với ông, năm ấy nàng vừa 17 tuổi và sau đó sinh ra Tô Mạn Thù vào ngày 9 tháng 10 năm 1884. Sinh con được ba tháng thì Yoko bị cha bắt về quê, bỏ đứa bé Tô Huyền Anh (tức thầy Tô) lại cho người chị chăm sóc. Thế là từ bé thầy Tô đã có một hoàn cảnh tình cảm không bình thường, cộng thêm công việc buôn bán cứ buộc ông Kiệt Sanh phải thường xuyên xa con, tuổi thơ của thầy Tô từ đó có những vết hằn mà về sau thầy đã đem chúng phổ vào từng câu chữ thơ văn như một nỗi oan khiên khó giải. Ai từng thấy qua những bức tranh của thầy, chẳng hạn bức Thu Tứ Đồ (T.K có thấy qua bức tranh này) cũng phải nhận ra một sắc màu hiu hắt cô quạnh khó tả.
Năm thầy Tô được 6 tuổi (năm 1890) thì được người vợ chánh thất của cha mang về Quảng Đông. Hai năm sau thầy được giao cho ông đồ Su Rouquan ở một ngôi trường tư nội trú để vừa học vừa được chăm sóc thuốc thang đặc biệt vì thể chất thầy Tô từ bé đã còm cõi yếu đuối cần có một chế độ sinh hoạt riêng. Năm thầy Tô 12 tuổi thì ngày kia lâm trọng bệnh, gia đình tưởng không còn cứu được, lại thêm nỗi mê tín nên đem thầy bỏ vào nhà củi chờ tắt thở sẽ đem chôn. Cũng may một người chị dâu của thầy có lòng trắc ẩn đã tận tình chạy chữa đứa em chồng đã bắt đầu thoi thóp tím ngắt. Nhờ đó thầy Tô khỏi bệnh và ngay sau đó quyết định xin vào tu ở chùa Lục Dung (Liurong -六榕寺) ở Quảng Châu. Nhưng thầy Tô chỉ ở đây được ít lâu thì bị chùa đuổi vì đã lén bắt chim bồ câu nướng ăn. Thầy năn nỉ bà Hoàng (vợ lớn của cha) cho lên Thượng Hải đi học. Tại đây do hoàn cảnh đẩy đưa thầy đã theo học tiếng Tây Ban Nha với một người thầy cũng người Y-Pha-Nho trong suốt hai năm liền. Năm 15 tuổi thầy Tô qua Nhật sống với người cậu và đi học tại Hoành Tân. Thầy có về làng của mẹ ruột là Yoko sống một thời gian. Trong thời gian này thầy đã yêu một cô hàng xóm người Nhật và vì gia đình bên gái cực lực phản đối, nàng thiếu nữ kia đã chết vì thất tình. Thầy Tô quá đau lòng bèn bỏ Nhật về Tàu xin tu lại ở chùa Pujian ở Quảng Châu. Có chút lãng mạn hoang đàng nhưng thầy Tô vẫn là một người trượng nghĩa và hào khí. Do bất mãn với triều Thanh trước đó, cộng thêm tình bạn đối với những người duy tân, thầy đã trở thành đối tượng truy sát của phe bảo hoàng. Đại nạn này của thầy phần lớn vẫn là vì người hơn là vì mình. Những người quen biết vẫn nhận xét thầy là một nghịch hạnh Bồ tát, đại lượng vị tha, có lòng tu nhưng cho đến lúc dứt hơi vẫn chưa một ngày làm được ông thầy tu thanh tịnh. Các tài liệu tiếng Anh viết về thầy vẫn dùng chữ Half-monk để gọi con người lãng tử ấy.
Từ chỗ trốn tránh kẻ thù, thầy Tô đã ngẫu nhiên đưa chân vào một cuộc đời chìm nổi luân lạc. Nhờ chút kiến thức cầm tay, thầy viết báo để sống và lưu lạc khắp cõi Á Châu, không dưới mười nước: Nhật, Ấn, Thái, Tích Lan, và cả Việt Nam. Tiện thì ở lại ít lâu, nếu không cũng đôi hôm quét lá lễ Phật rồi cơm hàng cháo chợ, trôi giạt vô chừng…
Bên trong thầy Tô luôn là những mâu thuẫn thường trực, tâm huyết một thanh niên trí thức khiến thầy muốn duy tân Trung Hoa nhưng mắt tuệ của một thầy tu cứ buộc thầy nhìn đâu cũng là mù sương. Mọi tranh đấu chỉ là giải pháp tạm thời để hướng tới những mục đích ngắn hạn. Đó là chưa kể trò đời ngang trái thường xui nên những trái khoáy: Đại sự phải do người tài làm nên, việc xong lại thấy kẻ dốt ngồi sẵn trên ngai cửu trùng. Dẫu chẳng có dạ tranh giành nhưng ngẩm đến cảnh thiên hạ tiếp tục lầm than từ hôn quân này đến bạo chúa khác thì lòng nào không nản. Nếu thiên hạ may mắn có được minh quân thì giai đoạn vàng son này cũng là một thoáng phù vân để tiếp nối sau đó vẫn là những canh bạc, ván cờ đầy bất trắc.
Bên cạnh nỗi niềm ưu thời mẫn thế và một lý tưởng Bồ tát đạo ngất trời, thầy Tô chẳng may lại có một trái tim đa cảm. Đến chết vẫn độc thân nhưng đời ông luôn lẫn khuất những bóng hồng trêu ngươi. Tương truyền thầy Tô có nhiều giai nhân thân quen trên mức bình thường, đủ cả sắc tộc: Nhật Bản, Tây Ban Nha và Anh quốc. Ông là khách viếng thường xuyên của nhiều trà đình tửu quán nổi tiếng ở Thượng Hải và Nam Kinh, trong đó có kỹ phường Tái Kim Hoa nổi tiếng với các cô Geisha người Nhật. Thầy Tô từng làm rất nhiều thơ tình để tặng cho họ. Trong đó phải kể đến các cô Kim Phụng từ bến Tần Hoài ở Nam Kinh, Thoại Tiết Nam và Tố Trinh từ Thượng Hải, Sen Yuko từ Nhật đến. Cô gái Nhật này là một nhạc sĩ chơi đàn có tiếng. Chẳng hiểu những chuyện cơ mật này thiên hạ đã từ đâu biết được, ngẩm mà ngán !
Trước sau thầy Tô đi về Nhật Bản mười một lần, tính ra hai phần năm cuộc đời của thầy là sống tại Nhật. Thầy từng là giáo sư giỏi của hơn mười ngôi trường trung học tại Tô Châu, An Huy ở Trung Quốc, trường Long Hoa ở Bangkok và trường Nouban ở Java. Ở Nhật, thầy Tô đứng lớp dạy nhiều môn Toán, Hội Hoạ, Anh văn, Hán ngữ và là một chuyên gia Sanskrit tại Tokyo. Thường xuyên xê dịch nhưng thầy vẫn dành nhiều thời gian để biên soạn, viết văn, in sách và dịch sách (thầy đặc biệt chọn dịch các tác phẩm của Goethe, Byron, Shelley và nhất là Victor Hugo). Thầy Tô xài tiền không đếm và chuyện nợ nần không phải hiếm hoi, có lúc ở Nhật thầy phải sống bằng cách ôm bát khất thực (nhà sư khất thực ở Nhật được quyền đội nón rộng vành và mang guốc hay giày nhưng ít khi đi một mình).
Từ năm 1903, lúc đang du học ở Nhật, thầy Tô là một đảng viên trung kiên của Quốc Dân Đảng. Ông thường sắp xếp những cuộc gặp gỡ giữa các sinh viên Trung Quốc với ông Liệu Trọng Khải, nhân vật thứ hai sau Tôn Văn và còn dành thời gian đi Oumoli để tập bắn súng. Trong các năm 1903, 1907 và 1912 thầy Tô đã lần lượt thành lập các tờ Dân Báo, Quốc Dân Nhật Nguyệt, Thái Bình Dương để kêu gọi lòng ái quốc và xác lập quan điểm chính trị. Bác sĩ Tôn Văn dùng lễ bè bạn đối xử với thầy Tô và đổi lại, thầy là một chiến hữu trung liệt. Trước lúc nhắm mắt xuôi tay ở Thượng Hải, thầy còn thều thào hai câu, một câu nhắc đến mẹ già ở Nhật và một câu nhắc đến trọng trách của mình tại Quảng Đông. Trong số những người bạn quý của thầy Tô phải kể đến Tôn Văn, Lý Thúc Đồng, Phùng Tự Do, Tưởng Giới Thạch, Thái Triết Phu, Lưu Sư Bồi, Trần Ứng Thời,… nhưng thân thiết nhất lại là Trần Độc Tú, người lập nền tảng cho Đảng Cộng Sản Trung Quốc sau đó !
Ngày 02 tháng 05 năm 1918 thầy Tô bị bệnh rồi mất ở Thượng Hải. Thi hài thầy Tô đã được bạn bè đưa về an táng trên núi Cô Sơn cạnh Tây Hồ, Hàng Châu, và bác sĩ Tôn Trung Sơn là người đứng ra gánh vác mọi phí tổn cho tang lễ tương đối tốn kém này. Nghĩ lại mà thương cho cụ Thiều Chửu, sư Thiện Chiếu của Việt Nam. Xứ mình gì cũng có, chỉ thiếu một Tôn Trung Sơn.
Chuyện thầy Tô bị bội thực do đánh cuộc với bạn bè đến nay vẫn chỉ là chuyện vui chưa thể kiểm chứng, kể cả những giai thoại truyền kỳ về đời tư có phần quá quắt của thầy cũng thế. Xưa nay người Tàu vẫn hiếu sự và với một người phóng khoáng như thầy Tô làm sao tránh nổi những thị phi thêm thắt đôi khi có nội dung chết người kiểu ấy !
Sau khi thầy Tô Mạn Thù từ trần được hai năm thì hai người bạn của thầy là Lý Căn Nguyên và Thái Triết Phu đã gom góp 22 bức tranh của thầy vẽ bằng mực tàu rồi in thành một sưu tập tên là Mạn Thù Di Mặc để tặng cho thân hữu. Bốn chữ này trên cuốn sưu tập là thủ bút của Tôn Trung Sơn. Sau này ông Liu Zazi và con trai là Liu Wuji đã bỏ công tìm thêm tất cả tác phẩm thư pháp và những thủ bút của thầy Tô Mạn Thù rồi in chung với bộ tranh Mạn Thù Di Mặc và giao cho nhà xuất bản Tân Bắc ấn hành.
Từ lâu, bạn bè và người ái mộ đã sưu tầm tất cả những bản dịch, bài viết, thư từ, những bài thơ rơi rớt đâu đó, trong các hình thức viết tay, đánh máy của thầy Tô Mạn Thù. Tất cả đều được in thành sách, tính đến nay tổng số đếm được là 92 cuốn, trong đó có những cuốn tái bản 6 lần. Sau đây là bảng phân loại:
-100 bài thơ, 100 bức tranh,
-Sáu cuốn tiểu thuyết cùng truyện ngắn,
-Hơn 100 lá thư với thủ bút của thầy Tô.
-Bản dịch hai cuốn tiểu thuyết ngoại quốc (Trà Hoa Nữ của Alexandre Dumas de Fils và Những Kẻ Khốn Cùng của Victor Hugo)
-10 bài thơ dịch, vô số ghi chú và bản nháp.
-Đặc biệt 8 cuốn bản thảo thầy viết bằng chữ Sanskrit, bốn cuốn văn pháp chữ Phạn.
-Hai công trình biên khảo về nguyên tác Trung Luận (Madhyamika-kàrika) và tập truyện thần thoại Cổ Ấn Sakuntala.
-Một cuốn biên khảo địa danh Phật Giáo.
-Một biên khảo về hành trình thám hiểm Tây Dương của Trịnh Hoà đời Minh cùng các bản đồ hải hành của nhân vật này.
-Một sưu tập danh nhân Nhật Bản.
-Công trình nghiên cứu về tôn giáo cổ đại Ai Cập.
-Tự điển Hán- Anh
-Tự điển Quảng Đông- Anh ngữ.
-Tự điển Anh-Hán.
-Ba trăm bài thơ không đề.
-Bản dịch cổ thi Trung Quốc sang tiếng Anh.
Tô Mạn Thù là một học giả mà cũng là một nghệ sĩ đa tài. Thơ ông hay, tranh ông đẹp và các công trình biên khảo đều thâm hậu, đắc dụng. Đời ông ngắn ngủi, nhưng ông sống nhiều và sẽ bất tử trong nền văn học Trung Quốc. Trong vòng hai mươi năm sau ngày thầy Tô ra đi, ở Trung Quốc bỗng dấy lên làn sóng Niềm Đam Mê Mạn Thù, chữ dùng của nhà văn Lỗ Tấn. Người ta đã đổ xô tìm đọc tất cả những gì được cho là của thầy Tô hay nói về thầy Tô. Trong hai mươi năm, cuốn hồi ký Đoạn Hồng Linh Nhạn Ký của ông được tái bản ít nhất mười tám lần, người ta đã viết hàng chục cuốn biên khảo kể cả tiểu thuyết về nhân vật Tô Mạn Thù, soạn hẳn một biên niên sử về cuộc đời ngắn ngủi của ông để ghi dấu từng bước chân trầm luân của con người thiên tài đó. Ở đây ta có thể kể vài cuốn tiểu thuyết mô phỏng chuyện đời Tô Mạn Thù như Nhân Gian Địa Ngục, Hận Hải Cô Chu Ký, đều bán đắt như tôm tươi. Thầy Tô đã trở thành con người của truyền kỳ huyền thoại chỉ vì sự nghiệp của ông để lại quá lớn và đó lại là dấu chân để đời của một cánh chim hồng nhạn đã đi qua cuộc đời này trong một thời gian quá ngắn ngủi.
Nhiều nhà nghiên cứu hôm nay đã nhận rằng qua những di cảo để lại, thầy Tô rõ ràng là một học giả uyên bác nhất thời Thanh mạt. Ông là một trong ba dịch giả hàng đầu của Trung Quốc trong giai đoạn đầu thế kỷ 20 đã giới thiệu văn học tư tưởng ngoại quốc cho người Trung Hoa. Thầy Tô đã may mắn thông thạo những ngoại ngữ đắc dụng cho sự nghiệp của mình. Thầy thông thạo ít nhất năm thứ tiếng Phạn, Nhật, Anh, Pháp, Tây Ban Nha. Các sử gia cho rằng Phật giáo Trung Quốc từ đại lục đến hải ngoại từ sau đời Đường chưa hề có một học giả Phạn ngữ nào uyên bác như thầy Tô. Ông là người đầu tiên dịch tác phẩm Duyên Hải Độc Cư của Sahlo từ tiếng Sanskrit sang Anh ngữ, dịch ra chữ Hán những bi ký A- Dục tại các Phật tích Ấn Độ và giới thiệu cho giới học Phật Trung Quốc phương cách tiếp cận nguyên tác kinh điển từ bản gốc thay vì lệ thuộc các bản dịch.
Văn học Trung Quốc chắc chắn sẽ khá hơn hiện tại rất nhiều nếu từ đầu thế kỷ 20 có được nhiều người như thầy Tô. Ông đã có công phiên dịch các tác giả Tây phương thời thượng với hi vọng giúp người Tàu hiểu được tư tưởng xứ ngoài. Chỉ tiếc về lý tưởng này, người Nhật đã đi trước và đi xa hơn người Trung Quốc với một khoảng cách khó lường.
Tính đến nay, các tác phẩm của thầy Tô đã được dịch sang các thứ tiếng Anh, Nhật, Nga, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Á Rập,… Tên tuổi của ông đã được nhắc đến trong vô số sách báo và công trình quan trọng
The Biographies of Famous Chinese People in the Time of PC, The Twentieth Century’s World Literature Encyclopedia, Dictionary of Oriental Literature, Dictionary of Chinese Names,…
Các sử gia, học giả Đông Tây như giáo sư Gulik của Hàn Lâm Viện Tiệp Khắc, nhà sử học Triều Tiên Hung-Yok-Ip đều công nhận ông là một thiên tài của Trung Quốc về cả tục học lẫn đạo học. Riêng Phật giáo Nhật Bản đã xây dựng một ngôi đền lưu niệm Tô Mạn Thù ngay tại sinh quán Yokohama của ông và vào năm 1934 học giả Sato đã viết một chuyên luận về thầy Tô và đăng trên chuyên san The Times of Literarure and Arts. Cũng trong năm này, tiến sĩ Izzuka của Nhật đã bảo vệ thành công luận án của ông về đề tài Tô Mạn Thù dày trên hai trăm trang.


TOẠI KHANH BIÊN DỊCH
 

TamDuc

Phó Trưởng Ban Đại Biểu nhiệm kỳ I (2011-2012)
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
30 Thg 1 2010
Bài viết
890
Điểm tương tác
114
Điểm
43
Địa chỉ
Canada
Một bài thơ của Tô Mạn Thù

Một bài thơ của Tô Mạn Thù

本事詩
春雨樓頭尺八簫
(*)
何時歸看浙江潮

芒鞋破缽無人識

踏過櫻花第幾橋

蘇曼殊
(清)
(Xuân vũ lâu đầu xích bát tiêu
Hà thời qui khán Chiết Giang Triều
Mang hài phá bát vô nhân thức
Ðạp quá anh hoa đệ kỷ kiều)

Quê người xuân ướt tiếng tiêu

Ngày về cố quận ngắm triều còn xa
Anh đào mấy độ lên hoa
Giày rơm bát bể, cầu qua lại cầu.

*
尺八簫=một loại tiêu ở Nhật
Tô Mạn Thù là một nhà sư đời Thanh. Trên đường tu hành, đi qua Nhật nhiều năm. Nhớ nhà, nên làm ra bài thơ này.

LHK.


Tô Mạn Thù cha là Hoa kiều ở Nhật, mẹ ông cũng là người Nhật. Ông sinh ra ở Nhật, trở về Trung Quốc năm 10 tuổi, rồi lại quay trở lại Nhật học. Năm 20 tuổi ông thế phát làm tăng nhân, lãng du thiên hạ.

Đa phần thơ của Tô Mạn Thù là thơ thất tuyệt, "Bản sự thi" là tên chung cho một nhóm những bài thơ tự sự của ông, chứ không phải tên của một bài duy nhất, phong cách chịu ảnh hưởng của Lý Thương Ẩn và Cung Tự Trân. Ngoài thơ, Tô Mạn Thù còn viết tiểu thuyết, trong đó nổi tiếng nhất là Đoạn hồng linh nhạn ký đã được Bùi Giáng dịch ra tiếng Việt.
Đây là một bài Bản sự thi khác của họ Tô:

Ô xá lăng ba cơ tự tuyết

Thân trì hồng diệp tố đề thi
Hoàn khanh nhất bát vô tình lệ
Hận bất tương phùng vị thế thì...

Ôi em bềnh bồng da tựa tuyết

Thân ôm lá thắm viết dòng thơ
Trả em một bát vô tình lệ
Xuống tóc gặp nhau hận chẳng chờ...




 

Tấn Hạnh

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 7 2011
Bài viết
339
Điểm tương tác
375
Điểm
63


Bồ Tát hằng độ sanh, ra vào sanh tử mãi không dứt đoạn. Xem tình yêu, vui buồn, sướng khổ và sanh tử của chúng sanh với mình nào có khác.

Bồ Tát nguyện sanh vào đời, chịu đựng tất cả nổi thống khổ bình thường mà bất cứ chúng sanh nào cũng có. Nhưng ở nơi các Ngài là trí tuệ sáng rỡ, lòng từ bi yêu thương cuộc đời mà một con người không tu hành không thể nào hiểu được. Tuy chịu khổ cùng chúng sanh, nhưng không thấy mình bị khổ, do mỗi đời hóa thân đều tu học Bát Nhã.

Nước chảy trăm ngã, luồng lách khắp nơi, nuôi dưỡng và tưới mát sự sống. Cũng thế, Bồ Tát hòa vào đời trong mọi hình thức thoát tục lẫn lụy tục, để đem tình thương và trí tuệ tiến hóa đến cho chúng sanh. Với mong muốn chúng sanh được tu học tiến hóa, đạt đến giải thoát như mình.



Cầu mong cho tất cả chúng sanh đều có được trái tim và trí tuệ Bồ Tát.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên