Thánh_Tri

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Tựa chung cho các sách Phật Học Chỉ Nam, Phật Học Khởi Tín Biên và Lục Đạo Luân Hồi Lục

10. Tựa chung cho các sách Phật Học Chỉ Nam, Phật Học Khởi Tín Biên và Lục Đạo Luân Hồi Lục

Nhất niệm tâm tánh của hết thảy chúng sanh thật sự không hai không khác với tam thế chư Phật, nhưng do chưa ngộ nên chẳng thể thọ dụng. Vì thế phẩm Như Lai Xuất Hiện trong kinh Hoa Nghiêm có câu: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ của Như Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp trước, nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí sẽ được hiện tiền”. Nên biết: Trí huệ và vọng tưởng chấp trước vốn chẳng phải là hai vật! Mê thì toàn thể trí huệ biến thành vọng tưởng, chấp trước. Ngộ thì toàn thể vọng tưởng, chấp trước biến thành trí huệ. Ví như nắm bàn tay lại hay xòe bàn tay ra, vốn chỉ là một bàn tay. Kết thành băng hay tan thành nước vốn chỉ là một thứ nước. Ấy là do Tâm Thể bất biến, Dụng thường tùy duyên, nhưng Thể thường bất biến. Tại phàm chẳng giảm, nơi thánh không tăng, ở trong trần không nhiễm, lìa cấu chẳng tịnh, ở trong sanh tử chẳng bị luân hồi, chứng Niết Bàn nhưng chẳng thuộc Tịch Diệt. Không có hình tướng nhưng làm chủ của muôn hình tướng, không có pháp nào nhưng là tông của muôn pháp.

Từ trước đến nay, thường tự như như, trọn chẳng có phàm - thánh, chúng sanh - Phật sai khác! Ngộ thì gọi là Hiền, chứng thì gọi là Thánh. Nếu chỉ sẵn có nhưng chưa ngộ, tuy có Tánh Đức, trọn chẳng có Tu Đức thì chỉ là phàm phu luân hồi trong lục đạo mà thôi! Do Dụng tùy duyên nên có tứ thánh lục phàm[26], khổ - vui thăng trầm sai khác. Nhưng duyên có nhiễm - tịnh, ắt theo một trong hai thứ đó. Theo nhiễm duyên thì khởi Hoặc, tạo nghiệp, luân hồi sáu nẻo. Theo tịnh duyên thì đoạn Hoặc chứng Chân, thường trụ Niết Bàn. Do Hoặc nghiệp có nặng - nhẹ nên có đường lành trời - người và đường A Tu La thiện - ác xen tạp, cũng như ba đường ác: súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Do Hoặc khởi Hoặc, do nghiệp tạo nghiệp, hoặc thiện hay ác, trọn không có tướng nhất định cho nên chỗ thọ sanh lần lượt đổi dời như bánh xe [xoay tròn] không có khởi đầu, thoạt lên thoắt xuống. Đã có đủ Phiền Hoặc thì đều bị nghiệp ràng buộc, theo nghiệp thọ sanh, chẳng thể tự chủ.

Do đoạn chứng có nông - sâu, nên người đoạn Kiến Tư thì chứng quả Thanh Văn. Người dứt được tập khí thì chứng quả Duyên Giác. Người phá vô minh chứng quả Bồ Tát. Nếu phá sạch hết vô minh, phước huệ viên mãn, công tu đức đến cùng cực, tánh đức phơi bày trọn vẹn, thì chứng Phật Quả. Chứng Phật Quả chẳng qua cũng chỉ là chứng triệt để rốt ráo công đức lực dụng sẵn có nơi tâm tánh trong địa vị phàm phu, nay tự thọ dụng được toàn thể mà thôi, chứ chẳng hề thêm mảy may gì vào cái sẵn có ban đầu cả! Như Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát tuy sở chứng cao - thấp bất đồng, nhưng đều chưa thể thọ dụng hoàn toàn công đức sẵn có nơi tánh.

Ngược lại, hết thảy phàm phu dùng sức tâm tánh chẳng thể nghĩ bàn này để khởi tham - sân - si nơi sáu trần cảnh, tạo giết - trộm - dâm, đến nỗi đọa trong ba ác đạo, vĩnh viễn luân hồi. Toàn là như vậy, chẳng đáng buồn ư? Dù cho tận lực tu Ngũ Giới, Thập Thiện, được làm thân trời - người, nhưng phước lạc trong nhân gian chính là căn bản của đọa lạc. Phiền Hoặc trong cõi trời tuy chẳng mãnh liệt sắc bén như trong nhân gian, nhưng một khi phước trời vừa hết, chắc chắn phải sanh xuống cõi thấp hơn. Do túc phước chưa hết, nên được hưởng phước. Do hưởng phước bèn tạo nghiệp. Đã tạo nghiệp rồi, phải đọa ác đạo đúng là trong nháy mắt! Huống chi có người do mạng trời đã hết, bèn vì sức của ác nghiệp đời trước đã chín muồi, đọa thẳng vào ác đạo! Do vậy, cổ đức nói người tu hành nếu không chánh niệm tu trì Tịnh nghiệp, chỉ được phước báo nhân thiên, gọi là “mối oán đời thứ ba”.

Kinh Pháp Hoa dạy: “Tam giới không yên như nhà lửa cháy, các khổ đầy dẫy, thật là đáng sợ!” Người biết tốt - xấu ắt sẽ coi chuyện gấp cầu thoát lìa, hòng được an ổn là kế sách bậc thượng. Đại trượng phu sanh trong thế gian, đã biết một niệm tâm tánh của chính mình không khác gì chư Phật, lại biết nhân quả tu chứng trong mười pháp giới chẳng ra ngoài tự tâm. Cho nên, sẽ phát đại Bồ Đề [tâm], tận lực tu Định Huệ, mong đoạn Hoặc chứng Chân, thành ngay Phật đạo, khiến cho chúng sanh trong khắp pháp giới cùng ra khỏi đường mê, cùng lên bờ giác, rốt ráo tự chứng được tâm tánh vốn sẵn có mới thôi. Nếu là kẻ căn cơ kém cỏi, chưa thể làm được như thế, thì phải dùng lòng tín nguyện sâu dốc sức tu Tịnh nghiệp, nương vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Để đến khi chứng Vô Sanh Nhẫn, lại nương theo nguyện trở lại độ thoát chúng sanh. Nhưng trước lúc vãng sanh phải phát Bồ Đề tâm, tự hành, dạy người, dẫu chẳng thể hiện tướng lưỡi rộng dài, vang rền Hải Triều Âm thì cũng nên đối với kinh luận của Phật, Tổ, di thư của bậc tiên hiền, tìm lấy bộ nào khế lý khế cơ, dễ dàng lãnh hội được, biên tập thành sách để lại cho tương lai. Phàm là nhân quả ba đời, lục đạo luân hồi và công đức Tam Bảo, lợi ích của Phật pháp, và “đạo độ khắp ba căn, pháp phàm thánh cùng tu”, bèn phân môn chia loại, trình bày phân tích rạch ròi, khiến cho người đọc xem đến, tự nhiên tự biết chỗ lấy - bỏ. Từ đó, đoạn nghi sanh tín, quy tâm đại giác, hoặc là liễu sanh tử ngay trong đời này, hoặc trở thành nhân duyên đắc độ trong vị lai.

Nếu không có được tai mắt ấy, chớ nên mạo muội theo đuổi, hãy nên in khắc lưu truyền các sách khế lý khế cơ của cổ nhân, ngõ hầu những sách ấy được lần lượt truyền bá, xiển dương, vĩnh viễn dùng làm thuyền từ, quả thật không còn công đức nào lớn hơn. Những điều vừa nói trên đây tuy chí nhằm lợi người, nhưng công giáo hóa thật sự quy về chính ta. Do vậy, trong đời hiện tại phước huệ tăng cao, lâm chung lên thẳng Thượng Phẩm. Há chẳng phải là bậc trượng phu đường đường, oai nghi tốt lành rạng rỡ hay sao? Nếu không biết nghĩa này, chỉ căn cứ theo Thế Đế tu dưỡng, dẫu cho đời này nắm thật vững đạo “ý thành tâm chánh”, chỉ e một khi chuyển sang đời khác, lại bị mê hoặc, bị nghiệp buộc ràng, theo nghiệp thọ báo. Như lá cuốn theo gió đùa chẳng thể tự chủ, hoặc rơi trên nệm, hoặc rớt vào nhà xí. Nghĩ rồi chẳng thấy thật đáng sợ lắm ư?

Cư sĩ Đinh Phước Bảo chuyên tinh học Y kể đã mấy năm. Kế đó, nghĩ bệnh sanh từ thân, thân do nghiệp sanh, nghiệp do tâm sanh. Nếu chỉ trị thân, quả thật chẳng phải là đạo nhổ rễ lấp nguồn rốt ráo vậy. Do vậy bèn nghiên cứu Phật học, tiên chú[27] các kinh, muốn cho hàng sơ cơ dễ lãnh hội, nên dùng phương cách huấn hỗ[28] của Hán Nho sao cho dù văn hay nghĩa đều thông suốt. Ấy là vì kinh Phật sâu xa, uyên áo, ý nghĩa vô cùng, chú sớ của cổ đức đa phần chú trọng nêu lên cương lãnh, xiển dương chỗ nhiệm mầu, không giải thích tường tận từng câu từng chữ, khiến cho hàng sơ cơ thật khó thể lãnh hội! Nếu dùng phương pháp huấn hỗ để nhập môn thì sẽ tự có thể đăng đường nhập thất, sau đấy mới nghiên cứu chú sớ của cổ đức ắt sẽ như mặt trời chói lọi giữa không trung, không điều gì nhỏ nhặt chẳng chiếu thấu, bất tất phải chấp [những gì được giải thích sơ khởi] ở đây là rốt ráo vậy.

Lại do Nho gia trong đời quen chấp vào sự thấy nghe, không tin con người chết đi thần minh bất diệt, không tin những chuyện nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo. Người bậc thượng chỉ có thể làm kẻ tự lo giải thoát cho chính mình, hoàn toàn chẳng thể thay đổi phong tục, giác thế dạy dân[29]. Kẻ bậc hạ bèn cho rằng “đã không có nhân quả, chết đi bèn vĩnh viễn diệt mất”, sao không muốn gì bèn làm đấy để cả một đời này được khoái lạc ư? Từ đó, phóng túng không kiêng dè, yên tâm làm ác, đến nỗi thế đạo nhân tâm ngày càng đi xuống. Do vậy, ông Đinh đem tất cả sự tích rõ ràng về nhân quả báo ứng trong kinh luận của Phật, Tổ và các di thư của những bậc hiền nhân Tăng -Tục xưa nay chép thành ba bộ:

1) Thứ nhất là Lục Đạo Luân Hồi Lục, nhằm chỉ rõ chuyện thăng trầm trong lục đạo về mặt Lý lẫn mặt Sự, những cảnh tượng trong chốn u minh, trạng huống của quỷ thần. Đồng thời chỉ rõ muốn thoát khỏi nỗi khổ trong đường tăm tối, mà bỏ đại pháp của Như Lai thì hoàn toàn chẳng thể nương cậy vào đâu được. Quả là bộ sách cải ác tu thiện, xả mê quy ngộ, kính cẩn sùng mộ Phật pháp, là bước ban đầu khiến cho người ta hâm mộ chân thừa.

2) Bộ kế tiếp tên là Phật Học Khởi Tín Biên. Bộ kế đó là Phật Học Chỉ Nam. Ý chỉ của hai cuốn sách này gần giống nhau. Trước hết, nói về nhân quả báo ứng, hAIhAI CUOtiếp đến nói về công đức Phật pháp; nhưng chỗ khác nhau là bộ Khởi Tín chú trọng vào nghĩa đầu tiên, còn bộ Chỉ Nam chú trọng vào nghĩa thứ hai. Những công đức Phật pháp được nhắc đến trong sách cũng đều sao lục từ sách vở của những bậc cao nhân dật sĩ; nhưng vì hạn cuộc vào từng thiên, nên không khỏi bị thiếu sót. Nhưng nếu tín căn đã sanh thì đã có đủ Đại Tạng kinh luận và sách vở của thánh hiền tồn tại [để tham khảo]. Sách này chẳng qua là sách nhập môn để dẫn người ta tiến vào Phật pháp, há nên vin vào đây rồi tự giới hạn mình, ngừng lại không tiến tới nữa! Thuật lại những sự ấy, tấm lòng ấy quả thật rộng lớn, lợi ích quả thật chẳng thể nghĩ bàn được!

Quang túc nghiệp sâu nặng, có mắt như mù, lạm dự vào Tăng chúng, uổng hưởng của tín thí, thẹn chẳng có năng lực tu Định Huệ đoạn Hoặc chứng Chân, chỉ mong nương theo Phật từ lực, đới nghiệp vãng sanh. May sao ông Đinh chẳng vì đó mà chê bỏ, hễ có trước thuật gì đều gởi đến cho. Nhưng chữ nhỏ mắt quáng, bất quá giở xem qua loa để kết duyên tùy hỷ mà thôi. Gần đây, được thấy ba bộ sách này, khôn ngăn cảm động, muốn lưu truyền rộng rãi, hiềm là nghèo không chỗ cắm dùi, bèn chẳng nề hà kém cỏi, viết tựa giới thiệu đại lược. Mong sao nơi nơi chốn chốn, những người có tâm lo cho thế đạo sẽ lần lượt lưu thông, truyền bá nhiều nơi. Như thế chẳng những sẽ thỏa lòng đúc kết, biên tập của ông Đinh mà quả thật còn là thay cho Phật, Tổ, hiền nhân, hiện tướng lưỡi rộng dài rền tiếng hải triều không ngớt vậy. Sẽ thấy phong tục đổi thay, nhanh chóng đạt đến đại đồng bình trị, dân hòa, thời thế tốt đẹp, cùng hưởng niềm vui vô vi. Công đức lợi ích ấy sẽ có thọ lượng bằng với mười phương hư không, há có thể dùng văn tự ngôn ngữ để hình dung được nổi ư? Nếu chẳng vì người kém cỏi mà vứt bỏ hoàn toàn lời này thì may mắn lắm thay!

----------------------------------------
[26] Tứ thánh là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Lục phàm là trời, người, A Tu La, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục.

[27] Tiên chú: Chú thích, giải thích ý nghĩa kinh điển.

[28] Huấn hỗ là giải thích ý nghĩa văn tự: Từ giải thích từng chữ đến giải thích trọn vẹn ý nghĩa cả đoạn văn, cả chương sách. Vận dụng những từ ngữ bình dị, thông dụng để giải thích những văn chương, trước tác phức tạp.

[29] Nguyên văn “giác thế phiến dân” (làm cho cõi đời tỉnh giác, khai thông dân trí).
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa tái bản bộ An Sĩ Toàn Thư (lời tựa thứ nhất)

11. Lời tựa tái bản bộ An Sĩ Toàn Thư (lời tựa thứ nhất)


Cái đạo sẵn có trong tâm chúng ta lớn lao thay! Pháp sẵn có trong tâm chúng ta nhiệm mầu thay! Tịch - Chiếu bất nhị, Chân - Tục viên dung. Ly niệm, ly tình, bất sanh bất diệt. Đó gọi là “có mà chẳng có, không có mà có”, hoặc: “Không mà chẳng không, chẳng không lại không”. Chúng sanh và Phật đều do đây mà ra, thánh hay phàm đều chẳng thể diễn tả được. Giống như gương sáng trọn chẳng có một vật nào, nhưng hễ Hồ đến, Hán hiện[30]. Như các tướng xa xôi trong thái hư chẳng trở ngại mặt trời chiếu qua mây đùn. Đấy chính là “nơi Thật Tế lý địa chẳng nhiễm mảy trần, trong tâm Bổn Giác có đủ trọn vẹn các pháp”. Đấy chính là vô thượng giác đạo do đức Như Lai đã chứng, đó cũng là chân tâm thường trụ của chúng sanh đang mê.

Tam giáo thánh nhân nương theo tâm tánh này, đều lưu lại ngôn giáo, rộng hướng dẫn quần manh. Do vậy, Ni Sơn[31] nêu ý chỉ “thành minh” sâu xa để làm đường lối tu - tề - trị - bình; Trụ Sử[32] nói Đạo Đức Kinh, chỉ bày thuật trường sanh. Đại Giác Thế Tôn xứng pháp giới tánh, chỉ bày tâm Chân Như, diễn giảng đạo “nghịch trần hiệp giác”, lập tông “bất sanh bất diệt”. Tuy cạn - sâu, lớn - nhỏ bất đồng, thế gian, xuất thế gian khác biệt, nhưng chủ yếu đều chẳng ngoài việc phát huy, diễn bày thông suốt cái lý sẵn có trong tâm chúng ta khiến cho khắp các hàm thức đều xứng tánh khởi tu, do tu hiển tánh, tiêu tan huyễn vọng vốn dĩ không có, khôi phục thiên chân sẵn có, vĩnh viễn thoát đường mê, chứng ngay lên bờ giác mới thôi.

Văn Xương Đế Quân trong đời xa xưa, tâm giữ vẹn Ngũ Thường, tận lực phụng trì Tam Giáo, tự hành, dạy người, chỉ muốn đạt đến chí thiện, công cao đức cả, nên bèn được cai quản văn học. Chỉ sợ hàng mạt học vô tri, mê muội tánh thường trụ bao kiếp, bèn soạn văn dạy dỗ rộng rãi, thuật chuyện một trăm mười bảy đời về trước. Diệu nghĩa vô tận, ai lường được uyên nguyên. Chú giải dẫu nhiều, chẳng thể phô bày hết lẽ uyên áo mênh mông. Cho nên ngàn đời trước, ngàn đời sau, người dạy dỗ, kẻ được dạy dỗ thảy đều nuối tiếc chưa thỏa ý.

An Sĩ tiên sinh xưa đã trồng cội đức, thừa nguyện tái lai, xem rộng rãi cùng tột các sách, thâm nhập kinh tạng, tự đặt trách nhiệm tỉnh giác cõi đời, khai hóa dân trí, giữ thân tốt đẹp, thay đổi phong tục để nêu khuôn mẫu tốt đẹp. Dùng học thức kỳ tài diệu ngộ, dùng tâm pháp Linh Sơn - Tứ Thủy[33] để soạn bản chú giải cho bài văn tùy cơ thuyết pháp của Đế Quân khiến cho kẻ nhã, người tục cùng được xem. Lý vốn nơi tâm, từ ngữ nêu được chỗ trọng yếu, dẫn chứng sự thật, xé toạc mây mê nơi cõi ý, xiển dương nghĩa lý, ý chỉ, giương cao vầng mặt trời trí huệ trên bầu trời tâm tánh khiến cho người đọc đối với pháp gì, chuyện gì cũng đều có chỗ để phỏng theo, tâm tâm, niệm niệm thường biết kinh sợ, dè dặt. Thật là đã vạch toang tấm lòng đau đáu của Đế Quân, giãi bày hết cả ra, ngõ hầu ngàn đời trước, ngàn đời sau, người dạy dỗ, kẻ được dạy dỗ đều thỏa thích, không còn nuối tiếc mảy may gì nữa!

Nhưng bi tâm chưa hết, từ nguyện chẳng cùng, muốn khiến cho nhân dân đề cao lòng trung hậu, khoan thứ như đối với người ruột thịt, dứt đao binh, hưởng tuổi trời, giữ lễ nghĩa để vẹn luân thường, chuộng đức, xa lìa sắc đẹp. Do vậy, ông bèn soạn bộ sách răn kiêng giết tên là Vạn Thiện Tiên Tư, bộ sách răn kiêng dâm tên là Dục Hải Hồi Cuồng. Ấy là vì người đời sát nghiệp nhiều nhất, dâm nghiệp dễ phạm. Do vậy, chẳng ngại phiền nhọc, ra rả khuyên răn. Lại vì tu tràn lan những chuyện lành thế gian chỉ được phước trời - người, khi hết phước sẽ đọa lạc, khổ độc làm sao dứt cạn cho được? Do vậy, từ những kinh luận Tịnh tông, ông chọn lấy những lời lẽ phù hợp căn cơ, gộp thành một bộ sách, đặt tên là Tây Quy Trực Chỉ, khiến cho khắp những ai giàu sang, nghèo hèn, già, trẻ, trai, gái, dù trí hay ngu, dù Tăng hay tục, đều cùng niệm A Di Đà Phật cầu sanh Cực Lạc, thoát khỏi luân hồi, lên thẳng Bất Thoái, từ tạ những nỗi khổ do vọng nghiệp cảm thành, hưởng sự vui tâm ta sẵn có.

Ba bộ sách trước tuy giảng về việc tu hành điều thiện thế gian, nhưng cũng có pháp liễu sanh thoát tử. Bộ sách cuối cùng này tuy nói về pháp liễu sanh tử, nhưng cũng phải tu hành các thiện pháp thế gian. Còn như những chuyện thuận lý dẫn đến điều lành, trái nghịch dẫn đến điều xấu đều phân tích rạch ròi, dứt nghi, giải đáp những vấn nạn, lý trọn, văn khéo. Nỗi niềm lay động kẻ điếc, làm sáng mắt người mù càng thống thiết hơn cứu người bị chết đuối hay đang bị lửa thiêu. Thật có thể nói là dựng thiên địa, lập quỷ thần, bổ trợ sáu kinh, nâng đỡ danh giáo, đáng là bộ kỳ thư tốt lành nhất trong đời, chẳng thể xem giống như những bộ thiện thư tầm thường khác. Nếu bảo tiên sinh chẳng phải là Bồ Tát thừa bổn nguyện luân, hiện thân cư sĩ, thuyết pháp độ sanh thì tôi chẳng tin.

Bất Huệ lúc bé đọc sách Nho, chẳng biết tâm truyền của Khổng Mạnh, lớn lên học Phật thừa, chưa ngộ được tánh thể của Như Lai. Đến nay tuổi sắp tri mạng (năm mươi), kiến giải như nhìn vào vách, chỉ có cái tâm ham thiện, chẳng có mảy may sức lợi người gì, muốn đem sách này in khắc lưu truyền, hiềm rằng nghèo không chỗ cắm dùi, lại lười mộ duyên. Do vậy, nhiều năm chưa thỏa được nguyện. Cư sĩ Lý Thiên Quế ở Tây Thục có linh căn từ xưa, dốc lòng hành thiện mong chứng đắc vô thượng Phật pháp, đến triều bái danh sơn Phổ Đà. Ở Pháp Vũ Thiền Tự, ngẫu nhiên gặp gỡ, nếu không có sẵn túc duyên, sao lại giải cấu[34] như thế? Ông bèn khuất mình hỏi pháp, cầu xin lẽ xuất yếu (đạo lý trọng yếu để giải thoát). Nhân đó, tôi bèn dạy “tận lực giữ luân thường, tinh tu Tịnh nghiệp, tự lợi, lợi tha, chỉ lấy đó làm trọng”. Nếu có thể tận lực thực hành không tỳ vết thì mới cảm hóa được đồng nhân. Nếu hành vi chẳng phù hợp lời nói thì phụng pháp lại trở thành hoại pháp. Những kẻ chẳng tu đức thế gian, chẳng tận lực làm lành, không phải là vì không có tư chất để tu đức, làm lành, mà là vì không có thầy tốt bạn lành để hướng dẫn. Nên bèn tặng cho ông ta cuốn sách này, bảo hãy đọc kỹ, chăm chú sao cho hành vi cử chỉ của mình đều phù hợp với những gì được chỉ bày, dạy dỗ trong sách này, không sai khác chút xíu nào thì mới nên. Ông ta khác nào được vật quý báu nhất, mừng rỡ khôn cùng, phát nguyện khắc in để rộng lưu truyền. Lại xin tôi viết tựa để bảo khắp đồng nhân. Do vậy chẳng nề hà kém cỏi, lược thuật đầu đuôi. Những ai có chí thờ vua giúp dân, tu thân, tề gia, dạy con cháu mong thành thánh thành hiền, ngộ tâm tánh liễu sanh tử thì xin hãy đọc kỹ rồi tận lực thực hành, đừng cho lời tôi là hư vọng, sai quấy vậy!

------------------------------------------
[30] Nói gọn của câu “Hồ đến Hồ hiện, Hán đến Hán hiện”

[31] Ni Sơn là tên một ngọn núi ở quê Khổng Tử. Cha mẹ Ngài cầu tự được Ngài từ núi này nên Khổng Tử có tên tự là Trọng Ni.

[32] Trụ Sử là gọi tắt của Trụ Hạ Sử, là một chức quan thời nhà Châu, nhà Tần, tương đương với chức quan Ngự Sử thời Hán. Lão Tử Lý Đam từng làm chức quan này thời Châu. Như vậy, Trụ Sử ở đây chính là Lão Tử.

[33] Tứ Thủy là tên một con sông ở tỉnh Sơn Đông, chảy qua huyện Khúc Phụ, quê hương Khổng Tử. Khổng Tử là người nước Lỗ (nay thuộc địa phận tỉnh Sơn Đông). Sau khi tạ thế, Ngài được chôn cạnh sông Tứ Thủy. Ở Sơn Đông, nay cũng có huyện Tứ Thủy. Như vậy, “dùng tâm pháp Linh Sơn Tứ Thủy” chính là dùng tâm pháp của Phật và Nho.

[34] Giải cấu: Vô tình gặp gỡ nhau. Truyện Kiều có câu: “May thay giải cấu tương phùng. Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa”.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa tái bản bộ An Sĩ Toàn Thư (lời tựa thứ hai)

12. Lời tựa tái bản bộ An Sĩ Toàn Thư (lời tựa thứ hai)

Hai nghiệp dâm - sát chính là căn bản sanh tử của hết thảy chúng sanh. Khó đoạn nhất chỉ có dâm, dễ phạm nhất chỉ có sát. Trong hai thứ này, đối với dâm thì những ai biết tự ái đôi chút còn có thể tự chế chẳng phạm. Nhưng muốn cho ý địa thanh tịnh, trọn chẳng có mảy may gì thì chỉ bậc A La Hán đoạn Hoặc chứng Chân mới có thể làm được. Còn ngoài ra, tuy tập khí ái nhiễm dày - mỏng khác nhau, nhưng đều đã cố kết triền miên trong tâm thức, từ kiếp này sang kiếp khác, chưa thể giải thoát. Sát thì thế gian đều coi là chuyện đương nhiên, cậy mình mạnh, lấn áp kẻ yếu, dùng thịt chúng nó để no bụng mình. Chỉ cốt sướng miệng một lúc, ai tin phải bao kiếp đền bồi? Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Do người ăn dê, dê chết thành người, người chết thành dê. Như vậy cho đến mười đời, chết chết, sống sống, ăn nuốt lẫn nhau, do ác nghiệp cùng nhau sanh cho đến cùng tột đời vị lai”. Cổ đức nói: “Muốn cho thiên hạ không binh kiếp, trừ phi chúng sanh không ăn thịt”. Lại nói: “Muốn biết kiếp đao binh trong thế gian, hãy nghe tiếng lò mổ thịt nửa đêm”.

Đã có nhân ấy ắt phải chuốc lấy quả ấy. Chẳng nghĩ đến thì thôi, hễ nghĩ tới bèn rất sợ hãi. An Sĩ tiên sinh kính vâng lời Phật sắc truyền, riêng rủ lòng từ mẫn, do vậy soạn bộ Dục Hải Hồi Cuồng để răn kiêng dâm, soạn bộ Vạn Thiện Tiên Tư để răn kiêng giết. Dẫn chứng sự thật, nêu rõ nhân quả. Thiết tha mong người khắp cõi đời cùng giữ tấm lòng chân thật “cha trời mẹ đất, coi dân như ruột thịt, nghĩ loài vật cũng như mình”, vĩnh viễn dứt bỏ chuyện thương tổn thuần phong, loạn hoại luân lý, dứt ác niệm cậy mạnh hiếp yếu. Lại muốn cho đồng nhân đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện; do vậy, bèn chú thích tường tận bản Âm Chất Văn của Văn Xương Đế Quân, để những hành vi thường ngày, khởi tâm xử sự, chuyện lớn như trị quốc an dân, chuyện nhỏ như một lời, một niệm, đều tuân thủ theo lời dạy răn, đều giữ khuôn phép. Do vậy, thuyết “giữ lòng kính, dè dặt, cẩn thận, chánh tâm thành ý” của cổ thánh tiên hiền chẳng đến nỗi thành chuyện bàn xuông mà thôi! Ba bộ sách trên đây văn từ, lý lẽ, không gì chẳng trội tuyệt xưa nay, bổ trợ kinh điển, giúp cho bình trị.

Bởi tiên sinh do kỳ tài diệu ngộ, dùng bút mực phát huy tâm pháp của Phật, Tổ, thánh hiền cho kẻ nhã lẫn người tục cùng xem vậy. Tuy nhiên, người đã có thể kiêng dâm, kiêng sát, không làm các điều ác, vâng làm các điều lành, nhưng nếu chẳng liễu sanh thoát tử, làm sao đảm bảo đời đời kiếp kiếp chẳng quên mất tu trì? Người luôn sanh trong thiện đạo, rộng tu phước huệ, chẳng đọa đường ác để đền trả lẫn nhau, há được mấy ai? Liễu sanh thoát tử, nào có dễ đâu? Chỉ người tận lực tu Định Huệ, đoạn Hoặc chứng Chân thì mới có thể rốt ráo tự do. Ngoài ra, dù có tôn quý như Thiên Đế, tột bậc là Phi Phi Tưởng Thiên, phước thọ tám vạn đại kiếp, vẫn thuộc trong vòng trói buộc của nghiệp lực thiện ác, bị nghiệp lực thiện ác xoay chuyển! Do vậy, riêng nương theo một pháp “cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh” của đức Như Lai, thâu thập rộng rãi những nghĩa trọng yếu trong kinh luận Tịnh Độ, soạn thành một bộ sách, đặt tên là Tây Quy Trực Chỉ. Nếu đọc đến sách này, tin tưởng chắc chắn không nghi, sanh tín, phát nguyện, cầu sanh Tây Phương, bất luận căn cơ lợi hay độn, tội nghiệp nặng hay nhẹ, cũng như công phu cạn hay sâu, cốt sao tín nguyện chân thành, thiết tha, trì danh hiệu Phật, đến lúc lâm chung không ai chẳng được Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh. Đã vãng sanh bèn siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, ngộ tự tâm ngay trong đương niệm, chứng giác đạo trong tương lai. Nghĩa lý, lợi ích ấy chỉ có chứng mới biết được, cố nhiên ngòi bút chẳng thể diễn tả được nổi. Điều này thuộc về chuyện dùng tín nguyện của chính mình để cảm Phật từ bi, cảm ứng đạo giao, đạt được lợi ích lớn lao như thế. So với chuyện cậy vào tự lực để đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử thì khó - dễ khác biệt vời vợi như trời với đất.

Hiện nay, các nước bên Tây Phương đại chiến đã mấy năm, nước ta thoạt đầu do ý kiến bất đồng, rốt cuộc thành Nam - Bắc đánh lẫn nhau. Lại thêm mấy năm qua, những tai nạn như nước dâng, gió bão, hạn hán, lụt lội, động đất, thổ phỉ, ôn dịch… liên tiếp xảy ra. Tính ra số người thương vong trong nước, ngoài nước không dưới vạn vạn người, đau lòng buốt óc, thảm chẳng nỡ nghe! Bất Huệ lạm dự vào Tăng chúng, chưa chứng đạo quả, chỉ giữ tấm lòng thương đời, chẳng có sức cứu người mảy may. Có vị đồng hương là tiên sinh Cần Phố Lưu Tại Tiêu, là người thanh cao, đời đời đạo đức, dốc lòng tin tưởng Phật pháp. Mùa Hạ năm nay lên núi gặp gỡ, bàn đến những sự tình trong nước ngoài nước gần đây, buồn bã hỏi: “Có diệu pháp gì để cứu giúp hay chăng?” Tôi nói: “Đây là khổ quả, quả ắt phải có nhân. Nếu muốn cứu khổ thì phải đoạn trừ nhân. Hễ đoạn được nhân thì quả không do đâu sanh được! Vì thế kinh dạy: ‘Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả’”. Bèn đưa bộ An Sĩ Toàn Thư cho ông xem, mong hãy khắc in lưu truyền rộng rãi, khiến ai nấy đều được thấy nghe, cùng lên bờ Giác. Tiên sinh mừng rỡ khôn cùng, liền sai người cháu là Triệu Bộ Vân bỏ ra bảy trăm đồng, xin tôi thay ông ta đảm nhiệm chuyện ấn tống.

Nhớ năm Mậu Thân xưa kia, từng khuyên ông Lý Thiên Quế khắc bản tại đất Thục (Tứ Xuyên), ông ta liền xin tôi viết tựa. Về sau, nhân duyên không đủ, rốt cục việc chẳng thành. Nay được ông Lưu kiên quyết tán thành, quả chẳng phải là duyên nhỏ. Trộm thấy những lời hay cải ác hướng lành trong Liễu Phàm Tứ Huấn, bài ký Du Tịnh Ý[35] là hạnh tốt đẹp chí thành thấu trời, phát huy sự lý công phu tu dưỡng, thật là đẹp đẽ, thuần thành, tinh tường, trọn vẹn. Nhân đó, đem ghép vào sau bộ Âm Chất Văn Quảng Nghĩa gồm ba cuốn. Bài Giới Sát Phóng Sanh Văn của đại sư Liên Trì là bậc chúa soái từ bi diệt sạch ma quân tàn nhẫn, bài tụng Bất Tịnh Quán của ngài Tỉnh Am v.v… là mãnh tướng tịnh hạnh diệt trừ ma quân tham dục, bài Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn của ngài Tỉnh Am là thuyền từ phổ độ chúng sanh trầm luân trong biển khổ. Do vậy, xếp những bài này vào sau ba thứ pháp môn[36]. Ví như gấm dệt thêm hoa, đặt đèn cạnh gương, rực rỡ chói ngời, vui mắt đẹp dạ người ta. Nếu như đọc đến, ắt những ý niệm chẳng trung hậu, chẳng khoan thứ sẽ đột nhiên băng tiêu, tâm tự lợi - lợi tha đột nhiên như mây nhóm. Từ đó, từng bước càng thù thắng hơn, càng vào càng sâu hơn, phàm tình trở thành thánh trí mà chẳng biết, chẳng hay, ngõ hầu liễu sanh thoát tử, vĩnh viễn thoát luân hồi. Tận mặt lễ Phật Di Đà, đích thân được thọ ký. Kính vì những người đọc sách này mà chúc mừng rằng: “Chìm trong biển khổ đã lâu, chợt gặp được thuyền từ, tuân hành trung thứ, quy mạng Giác Hoàng[37], tín chân, nguyện thiết, hết chấp quên tình, cảm ứng đạo giao, hầu Vô Lượng Quang”. Những điều khác đã nói tường tận trong lời tựa viết năm Mậu Thân, ở đây không nhắc lại.

-----------------------------------------
[35] Tức bài ký Du Tịnh Ý Gặp Táo Quân, là một tác phẩm khuyên đời, không rõ ai là tác giả, có nội dung khuyên con người tin sâu nhân quả, vui theo mạng trời, cải ác hướng thiện.

[36] Ba thứ pháp môn ở đây chỉ Âm Chất Văn Quảng Nghĩa, phần trích lục từ Liễu Phàm Tứ Huấn và bài ký Du Tịnh Ý.

[37] Giác Hoàng là một danh hiệu tôn xưng đức Phật, có nghĩa là vị giác ngộ tối thắng nhất.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa đúc bản kẽm lưu thông sách Tứ Huấn của ông Viên Liễu Phàm

13. Lời tựa đúc bản kẽm lưu thông sách Tứ Huấn của ông Viên Liễu Phàm


Đạo thánh hiền chỉ có Thành và Minh. Phân ra thánh và cuồng chỉ trong một niệm. Thánh mất niệm thành cuồng, cuồng khắc chế được niệm bèn thành thánh. Để hình dung sự thao túng được - mất thì ví như thuyền chèo ngược nước, chẳng tiến ắt lùi, không thể không gắng sức tu dưỡng, không sanh phóng túng chút nào! Phải biết một chữ Thành chính là chân tâm cả thánh lẫn phàm đều có, giống hệt như nhau, không hai. Một chữ Minh là hàm dưỡng[38] phản tỉnh, là đạo để từ phàm đạt thánh. Trong địa vị phàm phu, trong sanh hoạt thường nhật, vạn cảnh xen lẫn, nếu chẳng quan sát nhận biết sẽ khó tránh khỏi những tình tưởng trái lý nẩy sanh trong chớp mắt. Tưởng ấy đã sanh, chân tâm liền bị ngăn lấp, những việc làm cử chỉ đều đánh mất lẽ trung chánh.

Nếu chẳng một phen dùng công phu thiết thực để khắc chế, trừ khử cho hết sạch thì ngày càng đi xuống, không biết đến đâu là cùng tận. Uổng để cái tâm làm thánh chìm đắm mãi mãi trong phường hạ ngu, chẳng đáng buồn ư? Nhưng làm thánh chẳng khó, chỉ là tự làm sáng Minh Đức. Muốn làm sáng Minh Đức thì phải khởi đầu từ cách vật trí tri. Nếu chẳng thể cực lực cách trừ (trừ bỏ) “món vật” là lòng dục của con người thì chân tri vốn có chắc chắn khó thể triệt để hiển hiện. Muốn cho chân tri hiển hiện thì trong lời lẽ hành vi hằng ngày phải thường khởi giác chiếu, chẳng để cho hết thảy tình tưởng trái lý tạm chớm trong tâm. Thường khiến cho tâm này rỗng sáng thông suốt, như gương đặt trên đài, hễ có cảnh liền hiện bóng, chỉ chiếu cảnh trước gương, chẳng bị cảnh chuyển. Xấu - tốt tự nó, can chi đến ta? Đến chẳng mong ngóng, đi không lưu luyến. Nếu tình tưởng trái lý vừa mới chớm nẩy, liền nghiêm ngặt đối trị, trừ khử cho hết sạch, như đối địch cùng quân giặc, chẳng những không cho chúng xâm lấn lãnh thổ của mình, mà còn chém tướng đoạt cờ, trừ sạch dư đảng.

Về cách cầm quân thì chính mình phải nghiêm ngặt gìn giữ, đừng lười nhác, đừng coi thường. Khắc kỷ, giữ lễ, trọng lòng kính, giữ lòng thành, khí giới phải dùng đến “bốn điều không” của Nhan Tử[39], “ba lượt phản tỉnh”[40]của Tăng Tử, cách “ít lỗi biết sai” của Cừ Bá Ngọc, lại thêm dè dặt, kiêng sợ như đang đi vào vực sâu, như đi trên băng mỏng, thì quân oai lan xa, tặc đảng kinh hãi, sợ bị tàn sát diệt chủng, mong được hưởng hồng ân vỗ về. Do vậy, kéo nhau đầu hàng, quy thuận, chịu giáo hóa, đổi hết tâm trước, dốc lòng tu đức sau. Tướng không ra khỏi nhà, binh không đổ máu, toàn bộ giặc thù đều thành con đỏ, kẻ phản nghịch đều thành dân lành. Trên hành, dưới bắt chước theo, toàn cõi yên bình, chẳng dấy can qua, ngồi hưởng thái bình.

Những điều vừa nói trên đây là do cách vật (trừ khử vật dục) nên trí tri (hiểu thấu suốt). Do trí tri nên tự nhiên sáng tỏ đức sáng, Thành và Minh nhất trí, phàm biến thành thánh. Nếu như căn khí kém hèn, chưa thể đạt được hiệu quả, thì hãy nên bắt chước ông Triệu Duyệt Đạo, ban ngày làm điều gì, tối đến ắt thắp hương tâu cùng Thượng Đế, chuyện gì chẳng dám báo thì chẳng dám làm. Viên Liễu Phàm không làm các điều ác, vâng làm các điều thiện. Mạng do chính ta lập, phước do ta tự cầu, khiến cho tạo hóa chẳng thể chuyên quyền độc đoán. Thọ trì Công Quá Cách, phàm khởi tâm động niệm và ngôn ngữ, hành vi, thiện - ác mảy may đều nhớ, để mong thiện ngày một tăng, ác ngày một giảm. Thoạt đầu thì thiện - ác xen tạp, lâu dần sẽ chỉ có thiện không ác. Vì thế, có thể chuyển vô phước thành có phước, chuyển yểu thọ thành trường thọ, chuyển không con cháu thành đông con cháu. Hiện đời đã dự vào hạng thánh hiền; báo hết, cao đăng cõi Cực Lạc. Hạnh làm khuôn mẫu cho đời, lời lẽ làm pháp tắc cho đời. Người ta là trượng phu, ta cũng là trượng phu; sao lại tự khinh, đành chịu thua kém?

Nếu có kẻ hỏi:

- “Cách vật” là cùng tận cái lý của sự vật trong thiên hạ. “Trí tri” chính là thúc đẩy tri thức của chúng ta đến tột bậc, sao cho mỗi mỗi đều hiểu rõ. Sao lại coi lòng ham muốn của con người là vật, coi chân tri là tri, coi khắc phục, đối trị không cho vật dục hiển hiện là cách trí vậy?

Đáp:

- Thành và Minh Đức đều là ước theo bản thể của tự tâm mà nói. Danh tuy có hai, vốn chỉ là một. [Nói] Tri và ý tâm là gộp chung Thể và Dụng của tự tâm để nói. Chứ thật ra, cả ba điều này đều là một. Cách, trí, thành, chánh, minh (ở đây chỉ “minh” trong “minh Minh Đức” và “minh” trong “thành minh”), năm thứ này đều ước trên phương diện dứt lòng tà, giữ lòng thành, phản vọng quy chân mà nói. Trong công phu kiểm điểm, phản tỉnh, quán sát, tu tập thì Minh là cương lãnh chung, Cách Trí, Thành, Chánh là những mục riêng vậy. Tu thân, chánh tâm, thành ý, trí tri do vậy đều là “minh Minh Đức” (làm sáng tỏ đức sáng). Nếu chân tri sẵn có nơi tự tâm bị vật dục che lấp thì ý chẳng thành, tâm chẳng chánh! Nếu có thể trừ khử được thì gió huệ quét sạch mây chướng, tâm nguyệt riêng sáng vằng vặc giữa trời. Đây chính là thánh nhân dạy cho con người thứ tự quyết định từ lan man hướng đến thiết thực, từ sơ đến thân vậy!

Nếu phải hiểu cùng tận cái lý của sự vật trong thiên hạ khiến cho tri thức nơi tâm ta đã rõ thấu hết cả rồi mới có thể thành ý thì chỉ những người đọc rộng các sách, đi khắp thiên hạ mới có thể thành ý chánh tâm để làm sáng tỏ Minh Đức! Những người chưa thể đọc rộng các sách, đi khắp mọi nơi, dẫu có thiên tư thuần hậu cũng chẳng có phần nơi chánh tâm thành ý, huống gì những kẻ kém cỏi hơn họ ư? Có đạo lý ấy hay chăng? Nhưng hết thảy những người chẳng hiểu sâu xa tận cùng lý và những ai vô tri vô thức nếu nghe đến lý tánh đa số đều đề cao thánh cảnh, riêng mình cam phận phàm ngu, chẳng chịu mạnh mẽ gắng sức theo đuổi tu tập. Nếu nói đến nhân quả ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, dù thiện hay ác đều có quả báo, ắt là họ sẽ sợ ác quả mà đoạn ác nhân, tu thiện nhân để cầu thiện quả. Thiện - ác chẳng ngoài ba thứ thân - khẩu - ý. Đã biết nhân quả sẽ tự giữ gìn thân - khẩu, rửa tâm gột ý, dù ở trong nhà tối phòng kín vẫn thường như đối trước Thượng Đế, chư thiên, chẳng dám manh nha chút tâm tà vạy để phải chuốc lấy tội lệ! Đấy chính là đại pháp đức Thế Tôn dùng để dạy cho khắp hết thảy thượng trung hạ căn trí tri thành ý chánh tâm tu thân. Nhưng kẻ cuồng sợ bị bó buộc, cho là chấp tướng; kẻ ngu giấu diếm sự đáng hổ thẹn, trá ngụy của chính mình nên bảo là mờ mịt. Trừ hai loại người ấy ra, có ai không tin nhận chuyện này? Do vậy, ngài Mộng Đông nói: “Người khéo bàn tâm tánh, ắt chẳng lìa bỏ nhân quả. Tin sâu nhân quả rốt cuộc sẽ hiểu rõ tâm tánh”. Lý này thế tất nhiên như vậy.

Phải biết: Từ địa vị phàm phu cho đến khi viên chứng Phật quả đều chẳng ra ngoài nhân quả. Kẻ nào chẳng tin nhân quả đều là hạng người tự vứt bỏ thiện nhân thiện quả, thường tạo nhân ác, ắt thường thọ quả ác, trải trần điểm kiếp[41], luân chuyển trong ác đạo, không cách gì thoát ra, buồn thay! Thánh hiền ngàn lời vạn lẽ, không gì chẳng nhằm làm cho con người phản tỉnh, khắc chế ý niệm, ngõ hầu Minh Đức sẵn có trong tâm chúng ta chẳng đến nỗi bị vùi lấp, đích thân được thụ dụng. Chỉ vì con người không biết nhân quả nên thường hay buông lung càn rỡ, dù suốt đời đọc sách vẫn chỉ là học từ chương, chẳng quyết ý mong thành thánh thành hiền. Do vậy, ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ! Bốn thiên sách dạy con của tiên sinh Viên Liễu Phàm văn lẫn lý đều thông suốt, mở rộng tâm mắt con người. Đọc đến có niềm vui lâng lâng, có khuynh hướng muốn học theo, quả thật là khuôn mẫu tốt lành để yên đời vậy. Cư sĩ Châu Quần Tranh ở Vĩnh Gia bội phục sách ấy đến cùng cực, mong Thương Vụ Ấn Thư Quán ở Thượng Hải đúc bản kẽm để làm của chung cho những người cùng chí hướng. Lại ấn tống bao nhiêu đó để kết pháp duyên, xin tôi viết lời tựa. Nhân đấy, tôi bèn tóm tắt ý “khắc kỷ, giữ lễ, dứt lòng tà, giữ lòng thành của thánh hiền” cho xong trách nhiệm vậy.

---------------------------------------
[38] Nguyên văn là “tồn dưỡng”, ngụ ý tu dưỡng, kiềm chế vọng niệm, huân tập thiện niệm, thiện tâm.

[39] Nhan Tử tức Nhan Hồi (Nhan Uyên), một người học trò nổi tiếng của Khổng Tử. Theo sách Luận Ngữ, Nhan Uyên hỏi Khổng Tử thế nào là khắc kỷ giữ lễ, Khổng Tử đáp: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” (phi lễ thì không ngó, phi lễ thì không nghe, phi lễ thì không nói, phi lễ thì không làm). Bốn điều này về sau thường gọi là “Nhan Tử tứ vật” (bốn điều không của Nhan Uyên).

[40] Tăng Tử tên là Sâm, tự Tử Dư, là người học trò khác của Khổng Tử. Theo sách Luận Ngữ, ông thờ mẹ chí hiếu, mỗi ngày thường tự ba lần phản tỉnh để xét lỗi mình. Tuy tư chất không thông duệ bằng những học trò khác, ông được coi là người thực sự nắm được đạo trung thứ của Khổng Tử.

[41] Trần điểm kiếp: Số kiếp nhiều như vi trần.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa tái bản sách Tứ Thư Chú Giải của ngài Ngẫu Ích

14. Lời tựa tái bản sách Tứ Thư Chú Giải của ngài Ngẫu Ích


Đạo nơi tâm người như nước trên mặt đất, tuy nơi cao nguyên hay đất bằng hoàn toàn chẳng trông thấy nước, nhưng nếu đào đất để tìm thì không nơi đâu chẳng được. Nước ví như Minh Đức sẵn có trong tâm chúng ta, đất ví như vật dục huyễn hiện trong tâm ta. Nếu có thể cách vật trí tri thì không một ai chẳng thể làm sáng tỏ Minh Đức. Nhưng đào đất lấy nước, không một ai chẳng đổ công tìm, bởi không có nước sẽ không thể sống còn. Đối với cái đạo sẵn có nơi tâm, con người đa số chẳng chịu ra sức, đến nỗi vật dục che lấp Chân Tri, chẳng biết mong thành thánh thành hiền, cam tâm tự ruồng rẫy mình, tự vứt bỏ. Do vậy, chôn Pháp Thân, mất huệ mạng, sống làm thây đi thịt chạy, chết mục nát cùng cỏ cây, chẳng đáng buồn ư?

Tứ Thư là đại kinh đại pháp của Khổng giáo để trên kế tục cổ thánh, dưới mở mang cho hàng hậu học để họ dùng cách vật trí tri tự làm sáng tỏ Minh Đức (cái đức sáng); sau đó, áp dụng cho gia đình, đất nước, thiên hạ, sao cho người trong gia đình, đất nước, thiên hạ, ai nấy đều làm sáng tỏ Minh Đức. Trước khi có bộ sách này thì tuy có những lời bàn luận tỉ mỉ hay đại lược khác nhau, nhưng ý chỉ đều tương đồng. Sau bộ sách này thì tuy căn cơ lợi - độn khác biệt, nhưng hiệu quả không khác. Thật có thể nói là tiên thiên chẳng trái nghịch trời, hậu thiên[42] lại hợp thiên thời, [Khổng Tử quả là] bậc thầy gương mẫu của muôn đời, trăm đời Nho Gia tôn sùng vậy.

Đại cương của sách nằm ở chỗ tu đạo “làm sáng tỏ Minh Đức”, mà chuyện hạ thủ tối thân thiết là riêng ở chỗ “cách vật trí tri, khắc kỷ, giữ lễ, dứt lòng tà, giữ lòng thành”. Nếu với mỗi chữ, mỗi câu, người học đều đem thân tâm lãnh hội thì dù chỉ là một gã thất phu cũng sẽ góp phần tán trợ đạo sanh thành dưỡng dục trùm trời tột đất, nào khó đạt được bản tâm, khiến cho thánh hiền một phen khổ tâm lưu lại giáo huấn chẳng trở thành uổng công đặt để! Càn khôn đại phụ đại mẫu càng sáng hơn, chẳng thẹn cùng trời đất xưng là Tam Tài! Há chẳng tự gắng công ư? Đại pháp của đức Như Lai được truyền qua phương Đông từ đời Hán, đến đời Đường các tông đều có đủ, Thiền đạo đại hưng, cao nhân xuất hiện như rừng, tùy cơ tiếp độ người. Do vậy, cho đến đời Nguyên - Minh những nhà Nho vùng Liêm, Lạc, Quan, Mân[43] , ai nấy đều dùng yếu nghĩa của Phật pháp để phát huy Nho tông, khiến cho tâm pháp của Khổng Tử, Nhan Hồi đã dứt tuyệt lại được tiếp nối. Họ dùng tịnh tọa tham cứu để mong khai ngộ, không ai chẳng coi Phật pháp là pháp tắc để phỏng theo. Do vậy, có những vị công sâu lực trọn, lâm chung biết trước lúc mất, ngồi cười nói qua đời rất nhiều. Họ thành ý chánh tâm, đáng làm bậc thầy gương mẫu trong Nho môn, nhưng vì muốn giữ lấy môn đình nên đối với những gì họ đã phỏng theo, chẳng những không tỏ bày ra, trái lại còn chê trách, để những kẻ đời sau học theo sẽ tôn trọng đạo của chính họ, chẳng đi theo Phật pháp. Nhưng làm vậy cũng uổng công, họ chẳng nghĩ mình bên trong ngầm tu, ngoài mặt bài xích, hậu học há chẳng thấy được lỗi thầy ư? Cho thấy tâm lượng họ nhỏ nhen, thành ý chánh tâm không gì chẳng bị tỳ vết, rò rỉ, thật đáng đau tiếc lắm!

Cuối đời Minh, Ngẫu Ích đại sư vốn là Pháp Thân đại sĩ, thừa nguyện thị hiện trong đời, thoạt đầu đọc sách Nho, liền bắt chước tiên Nho bài Phật, chứ thật ra chưa biết vì sao Phật thành Phật! Về sau đọc kinh Phật, mới hối tội trước, liền chuyên tinh nghiên cứu, mới biết Phật pháp là gốc của hết thảy các pháp. Những kẻ bài xích nếu không là phường bịt tai trộm linh thì cũng là những kẻ chưa thấy màu sắc đã biện luận mù quáng. Ngài bèn phát tâm xuất gia, hoằng dương pháp hóa. Một đời chú giải, trước thuật kinh luận hơn bốn mươi loại, số quyển đến cả mấy trăm, không gì chẳng phải là “chữ nào chữ nấy thấy được sự thật, lời nào lời nấy siêu việt”, như gảy bàn tính lợi ích vô tận.

Lại nghĩ trong Nho Tông người bậc thượng dùng Phật pháp để tự lợi ích, rốt cuộc khó thể quán thông rốt ráo; kẻ kém hơn chỉ nghĩ tập tành từ chương là đủ, phần nhiều tạo ác nghiệp báng pháp. Trong tâm đau thương, muốn cứu giúp họ; do vậy, dùng Phật pháp giải thích Tứ Thư, Châu Dịch. Chú giải sách Luận Ngữ, Mạnh Tử thì nêu đại lược đại nghĩa. Chú giải sách Trung Dung và Đại Học thì chỉ thẳng nguồn tâm. Ấy là vận dụng nghĩa Khai Quyền Hiển Thật trong kinh Pháp Hoa, dùng lý viên đốn để chú thích những lý lẽ yên trị cõi đời, ngõ hầu tâm pháp Linh Sơn, Tứ Thủy được hiển lộ triệt để, không còn che giấu chút nào. Những kẻ lấy Phật pháp để tự lợi mình sẽ được lợi ích rốt ráo thật sự, những phường chuyên tập tành từ chương sẽ do đây biết được Phật pháp rộng lớn, chẳng dễ suy lường, cũng mau chóng dứt tà kiến, dần dần sanh chánh tín, biết khử trừ vật dục đề tự sáng tỏ được Minh Đức. Do vậy, bèn tận lực tìm cầu, sẽ trực tiếp lãnh hội được tâm truyền của Khổng Tử, Nhan Hồi, lợi ích ấy há nhường cho các nhà Nho đời Tống, Nguyên, Minh riêng hưởng ư?

Gần đây, các giới mở rộng tầm mắt, những người thiên tư cao không ai chẳng nghiên cứu Phật pháp. Một người xướng trăm người hòa, không ai chẳng ngả theo. Đã biết tâm sẵn có Phật tánh, vô thỉ vô chung, đầy đủ công đức chân thật thường - lạc - ngã - tịnh, há thấy việc nhân chịu nhượng, thấy điều nghĩa không làm, đề cao thánh cảnh, tự làm phàm ngu ư? Do vậy, vĩ nhân danh sĩ đa phần đua nhau ăn chay niệm Phật, dốc sức tu tịnh nghiệp, mong cho sống thì thấy được Phật tánh, chết đi sanh về Phật quốc mới thôi.

Hai vị cư sĩ Úc Cửu Linh và Thi Điệu Mai xưa có linh căn, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, vừa thấy bộ chú giải Tứ Thư của ngài Ngẫu Ích liền khôn ngăn hoan hỷ, bảo sách này chỉ thẳng vào nhất niệm của đương nhân, minh thị rõ ràng tâm pháp của đạo Nho, đạo Thích, quán triệt dung thông pháp thế gian lẫn xuất thế gian, khiến cho thượng, trung, hạ căn tùy theo căn cơ đều được lợi ích. Người sâu xa sẽ thấy sâu xa, chẳng ngại khế hợp thẳng vào Bồ Đề, kẻ nông cạn cũng sẽ dần dần gieo thiện căn. Cho nên họ muốn khắc in để lưu thông rộng rãi. Đem công đức này kính chúc xuân huyên[44] được thêm tuổi thọ, đến khi trăm tuổi thần thức về An Dưỡng, quá khứ phụ mẫu tiêu trừ túc nghiệp, được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tịnh Độ. Xin Quang viết lời tựa để bảo cùng những người sáng suốt trong tương lai. Quang tự thẹn xưa kia làm gã Xiển Đề hủy báng Phật pháp đến nỗi nghiệp chướng lấp tâm, không cách gì ngộ chứng. Vui mừng được họ thỉnh, mong cho hết thảy mọi người đối với Phật pháp đều sanh chánh tín, ngõ hầu nghiệp chướng cùng tiêu, tâm quang đều cùng phát hiện. Sách Châu Dịch Thiền Giải, Kim Lăng [Ấn Kinh Xứ] đã khắc xong. Sách Mạnh Tử Trạch Nhũ do chiến tranh nên đã thất truyền, cư sĩ Dương Nhân Sơn tìm bên Nhật vẫn chẳng thấy, cũng chẳng đáng tiếc lắm ư!

--------------------------------------
[42] Theo Dịch Học, tiên thiên là những gì bẩm sinh, hậu thiên là những gì do nuôi dưỡng, đào tạo mà có. Như vậy, câu này có thể hiểu là đạo của Khổng Tử chẳng trái với bẩm tánh của con người, dùng để giáo dục con người thì lại hợp thời.

[43] Liêm chính là Liêm Giang, còn có tên là An Viễn Giang, thuộc vùng Tây Nam tỉnh Giang Tây. Lạc là Lạc Thủy, một con sông ở vùng Thiểm Tây. Chữ Quan có thể hiểu nhiều nghĩa, nếu hiểu là Quan Đông thì là vùng Đông Bắc Trung Quốc, còn Quan Trung lại là vùng đất Tứ Xuyên. Mân là tỉnh Phước Kiến. Theo ngu ý, bốn chữ này dùng để chỉ những nơi trọng yếu của Trung Quốc.

[44] Xuân huyên (cha mẹ): Theo từ điển Từ Hải, Xuân là một loại cây thân mộc, rụng lá vào mùa Đông, lá non có mùi thơm có thể ăn được, chất gỗ cứng chắc, có thể chế thành đồ dùng. Theo truyền thuyết, cây Xuân sống lâu hơn tám ngàn năm nên thường được ví cho cha với ý nghĩa chúc thọ. Do vậy, cha còn được gọi là Xuân Đình. Vì chữ Xuân 椿tự dạng khá giống với chữ Thung 樁nên thường bị dùng lẫn với chữ Thung. Huyên萱 (Huyên Thảo, tên khoa học là Hemerocallis fulva), còn gọi là Vong Ưu Thảo, Nghi Nam Thảo, hoặc Kim Châm Thảo. Chỗ mẹ ở thường trồng loại cỏ này nên mẹ còn được gọi là “huyên đường”. Người Trung Hoa thường dùng câu “xuân huyên tịnh mậu” (cây xuân lẫn cỏ huyên cùng tươi tốt) để chúc tụng cha mẹ luôn khỏe mạnh.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa sách Pháp Hoa Nhập Sớ

15. Lời tựa sách Pháp Hoa Nhập Sớ


Suốt một đời đức Như Lai nói các pháp môn Đại - Tiểu, Quyền - Thật, Thiên - Viên, Đốn - Tiệm, không pháp nào chẳng tùy cơ lập giáo, đối bệnh phát thuốc. Cho đến hội Pháp Hoa, khai Quyền hiển Thật, hội tam quy nhất (quy ba thừa về Nhất Thừa), khai Tích hiển Bổn, nêu thọ lượng nơi Bổn, giơ tay, cúi đầu[45] đều thành Phật đạo. Lời lẽ, xử sự đều thuận chánh pháp. Từ hết thảy pháp hiển thị Thật Tướng, từ ngay nơi cái tâm bị mê chỉ ra bản thể giác đạo. Phàm mọi duyên do của cả một đời giáo pháp đều được hiển lộ, xiển dương, khen ngợi, chỉ dạy triệt để không nghi, khiến cho khắp thượng trung hạ căn đều được khai thị ngộ nhập tri kiến Phật, rốt ráo tỏ rõ bổn hoài xuất thế của Phật. Hay đẹp thay! Mầu nhiệm thay! Vì thế, nghĩa lý sâu xa, u viễn, chẳng dễ suy lường.

Khi kinh Pháp Hoa được truyền đến Chấn Đán (Trung Hoa), hơn một ngàn năm qua, chú giải tuy nhiều, nhưng chỉ có bản của ngài Thiên Thai Trí Giả là nêu bật được tông chỉ. Do vì Ngài dùng ngũ trùng huyền nghĩa[46] để giải thích tổng quát tên kinh, dùng nhân duyên, ước giáo, bổn tích, quán tâm để giải thích trọn vẹn kinh văn, đặt tên là [Pháp Hoa] Văn Cú. Có thể nói: “Không nghĩa nào chẳng được hiển lộ, không căn cơ nào chẳng được thâu gồm!” Lại dùng Chỉ Quán để phát minh hành tướng, khiến cho ba thứ giáo - hạnh - lý của Pháp Hoa được phơi bày trọn vẹn triệt để, không còn che lấp chút nào. Do vậy, xưa kia những người y theo sách ấy tu tập đắc đạo như rừng. Đến đời Đường, Kinh Khê tôn giả[47] cho rằng ba bộ sách lớn ấy văn nghĩa quá sâu xa, chẳng thuận tiện cho hàng sơ cơ, nên đối với mỗi sách [Pháp Hoa] Huyền Nghĩa, [Pháp Hoa] Văn Cú, [Ma Ha] Chỉ Quán đều soạn chú thích. Bản chú thích sách Văn Cú mang tên là Văn Cú Ký. Xưa kia, Kinh, Sớ, Ký[48] đều lưu hành, người mới học xem đến, khá phí tâm lực. Pháp sư Tứ Minh Đạo Oai đời Tống bèn tóm lược sách Văn Cú và Văn Cú Ký, gom chép vào bên dưới kinh văn, đặt tên là Pháp Hoa Nhập Sớ để người học khỏi mất công tìm đọc liền hiểu ngay, có lợi rất lớn. Do vậy, sách được lưu thông trong nước, ngoài nước, từ thời Nguyên - Minh trở đi, sách bị thất truyền ở Trung Quốc. Cuối đời Quang Tự nhà Thanh, Thức Định đại sư thỉnh Đại Tạng Kinh bản in mới của Hoằng Giáo Thư Viện ở bên Nhật, trong đó có sách này. Do vậy, ngài giao mấy trăm đồng cho pháp sư Diệt Tận ở chùa Tịnh Giới tại Kim Lăng bảo khắc in sách ấy. Thầy Diệt Tận chia thành hai mươi quyển. Bản thảo chép xong, giảo chánh hoàn thành, chỉ mới in được sáu quyển thì thầy Diệt Tận tạ thế. Do vậy, việc ấn loát bị gác lại mấy năm.

Vào năm Dân Quốc thứ tám (1919), Quang do khắc in các sách như An Sĩ Toàn Thư v.v… từ Phổ Đà đến Duy Dương[49], mới biết chuyện này. Ý muốn tiếp tục cho sách được hoàn thành, nhưng khổ vì không tài lực. Có cư sĩ Trương Thụy Tăng xưa đã gieo cội đức, dốc lòng tin tưởng Phật thừa, khá thương cho thế đạo nhân tâm ngày càng xuống dốc, cho rằng nếu không dùng đại pháp của Như Lai làm sao vãn hồi cho được! Vì thế, đối với việc kiêng giết phóng sanh đều tận lực phụng hành. Đối với văn giới sát phóng sanh đều lưu thông nhiều nơi. Cũng như đối với những loại cách ngôn khuyến thiện đều chẳng tiếc tiền của để khắc in truyền bá. Chỉ muốn cho đồng nhân cùng nghĩ đến cái tâm của cha trời mẹ đất, ai nấy ôm ý niệm coi dân như đồng bào, coi loài vật như chính mình, đều mong tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha, cùng lên cõi thọ, đều gội Phật ân mới thôi!

Nghe Quang đến Duy Dương, ông nhiều lần đến thăm. Nhân đó, đem chuyện này thuật lại, mong ông thành tựu cho. Ông vui vẻ bằng lòng, bảo Quang lo giảo chánh đối chiếu. Hiềm vì sách lưu truyền đã lâu, sai ngoa quá nhiều. Thoạt đầu chưa xem kỹ, tưởng thầy Diệt Tận đã giảo chánh rồi, ắt không sai lạc nhiều lắm. Đến khi khắc xong, soát lại, mới biết sót lỗi quá nhiều. Do vậy, bèn dựa theo sách Văn Cú và Văn Cú Ký, sửa lại cho đúng. Trong ấy, có những chữ, những câu không trọn vẹn, thông suốt, tựa hồ bị thiếu sót, hay sai lạc, nhưng không gây trở ngại gì đến đại ý thì cứ để nguyên vì bản in đã khắc xong, không tiện sửa chữa. Mong ai đọc đến sách này, đều trong một niệm tâm của chính mình, liền được khai thị ngộ nhập tri kiến Phật, sẽ chẳng phụ Phật tánh chính mình sẵn có, cũng như chẳng phụ Như Lai nói kinh, Trí Giả tạo sớ, Kinh Khê tạo ký, Đạo Oai hội nhập, cũng như công Thức Định đại sư, cư sĩ Thụy Tăng lưu thông. Khắc đã xong bèn tự thuật duyên khởi.

-------------------------------
[45] Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện có câu: “Nếu người tâm tán loạn, chỉ dùng một cành hoa, cúng dường nơi tượng vẽ, dần thấy vô số Phật. Hoặc có kẻ lễ bái, hoặc lại chỉ chắp tay, cho đến giơ cánh tay, hoặc chỉ khẽ cúi đầu, dùng đó cúng dường tượng, tự thành vô thượng đạo”…

[46] Ngũ Trùng Huyền Nghĩa: là năm tầng huyền nghĩa để giải thích một bộ kinh do ngài Thiên Thai Trí Giả đề ra, gồm: thích danh, biện thể, minh tông, biện dụng, phán giáo (giải thích đề mục kinh, biện luận bản thể của kinh, nêu rõ tông thú của kinh, luận về công dụng của kinh, phán định kinh này thuộc về giáo pháp nào trong Ngũ Thời Giáo, Tứ Hóa Nghi). Xin xem bộ A Di Đà Kinh Yếu Giải để hiểu rõ hơn về Ngũ Trùng Huyền Nghĩa.

[47] Ngài Trạm Nhiên (711-782), là cao tăng đời Đường, là Tổ thứ năm của tông Thiên Thai. Ngài là người xứ Kinh Khê, Thường Châu (nay thuộc tỉnh Giang Tô). Cả nhà theo Nho, mình Ngài học Phật. Năm 17 tuổi học Thiên Thai Chỉ Quán với sư Kim Hoa Phương Nham. Năm 20 tuổi theo học với ngài Tả Khê Huyền Lãng, học giáo nghĩa Thiên Thai. Năm 38 tuổi, xuất gia tại Hưng Tịnh Lạc Tự. Sư lại đến Triệu Châu học Luật với ngài Đàm Nhất. Sau về Ngô Quận, giảng bộ Ma Ha Chỉ Quán. Khi ngài Huyền Lãng tịch, Sư được chúng đề cử lãnh chúng. Sư tự đặt cho mình trách nhiệm trung hưng tông Thiên Thai, đề xướng thuyết “hữu tình lẫn vô tình đều có Phật tánh”. Các đời vua Đường như Huyền Tông, Túc Tông, Đại Tông nhiều lần xuống chiếu thỉnh Sư nhập cung dạy pháp, nhưng Ngài đều cáo bệnh không đến. Sư nhập diệt vào tháng Hai năm Kiến Trung thứ ba, thọ bảy mươi hai tuổi, pháp lạp 43 năm. Do ngài là Tổ trung hưng tông Thiên Thai nên đại chúng kính trọng thường gọi bằng danh xưng Kinh Khê Tôn Giả, chứ không gọi thẳng tên tục. Đời Bắc Tống Sư được phong tặng danh hiệu Viên Thông Tôn Giả. Ngoài bộ Pháp Hoa Văn Cú Ký nổi tiếng ra, Sư còn để lại nhiều tác phẩm giá trị, quan trọng nhất là các bộ Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa Thích Thiêm, Chỉ Quán Phụ Hành Truyền Hoằng Quyết, Chỉ Quán Sưu Ký, Chỉ Quán Đại Ý, Kim Cang Bề, Pháp Hoa Tam Muội Bổ Trợ Nghi, Thủy Chung Tâm Yếu, Thập Bất Nhị Môn.

[48] Kinh là kinh Pháp Hoa, Sớ là các bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Pháp Hoa Văn Cú, Ký là bộ Văn Cú Ký.

[49] Duy Dương là một thành phố thuộc tỉnh Giang Tô.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa cho tác phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao Hiệt (trích yếu bộ Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao)

16. Lời tựa cho tác phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao Hiệt (trích yếu bộ Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao)


Pháp môn Tịnh Độ không gì lớn lao vượt ra ngoài nó được. Hết thảy chư Phật và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của hết thảy chư Phật đều từ đây mà ra. Hết thảy Bồ Tát và đạo thượng cầu hạ hóa xứng tánh Bồ Tát đang tu đều do đây mà vào. Ấy chính là “không gì chẳng từ pháp giới này lưu xuất; không gì chẳng quy hoàn pháp giới này”. Như Lai vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong đời. Dẫu tùy cơ lập giáo đủ mọi thứ khác biệt, nhưng tìm lấy một pháp dù thánh hay phàm, thượng trung hạ căn, cho đến phường nghịch ác đều có thể liễu sanh thoát tử ngay trong đời này, giã biệt tam giới, cao đăng chín phẩm thì chỉ có mỗi một mình pháp Tịnh Độ là được như vậy mà thôi.

Ôi! Như Lai đại từ phổ độ chúng sanh, chỉ có một pháp này mới bộc lộ hết bổn hoài. Chúng sanh tu hành mong thoát sanh tử, chỉ do một pháp này chắc chắn được toại nguyện. Pháp môn rộng lớn, lợi ích rộng sâu. Vì vậy, hết thảy Phật tử đều phụng hành. Ngờ đâu, gần đây kẻ ngu phu ngu phụ, phần nhiều dốc kiệt lòng thành quy mạng, còn bậc thông Tông thông Giáo lại coi thường, bỏ qua, tợ hồ chẳng nghe biết đến, là vì lẽ nào? Do kẻ nghiên cứu Giáo dùng giáo lý thông thường để luận Đoạn - Chứng, chẳng tin có chuyện đới nghiệp vãng sanh, thường khư khư ở trong sanh tử độ sanh, chẳng nguyện làm người được mau thoát sanh tử! Chẳng biết chén bát chưa nung, gặp mưa liền rã. Phiền Hoặc chưa đoạn, sanh sang kiếp khác liền mê; tự lợi còn khó, huống gì lợi tha! Ấy là vì chẳng lượng đức mình, là hạng phàm phu sát đất vừa có chút huệ tánh bèn tưởng mình có bản lãnh của bậc Pháp Thân đại sĩ, đến nỗi một phen lầm lạc, vĩnh viễn lầm lạc! Người tham Thiền chuyên chú tham cứu để minh tâm kiến tánh, chẳng biết kẻ căn cơ hơi kém chẳng thể minh tâm kiến tánh rất nhiều. Dẫu cho đã minh tâm kiến tánh, nhưng Hoặc nghiệp chưa đoạn thì vẫn luân hồi sanh tử y như cũ, chẳng thể thoát khỏi, lại càng nhiều hơn nữa! Ngũ Tổ Giới, Thảo Đường Thanh, Hải Ấn Tín, Chân Như Triết v.v… đều là những bằng chứng xác thực! Ôi! Tử sanh cũng lớn lao thay! Há có nên chuyên cậy vào tự lực, không nương vào Phật lực ư? Hay là tự lực quả thật trội hơn Phật lực chăng? Làm người sống trong cõi đời, lớn như sáng lập cơ nghiệp truyền lại cho đời sau, nhỏ như một manh áo, một bữa ăn, không gì chẳng cậy vào sức của mọi người để thành tựu chuyện của chính mình. Đối với đại sự liễu sanh thoát tử, dù có Phật lực vẫn chẳng chịu nương tựa, muốn tỏ rõ bản lãnh phi thường, chỉ e kém xa gã ngu phu. Chí ấy có thể nói là lớn, nhưng tiếc rằng không biết đấy chỉ là nói năng lớn lối!

Chẳng thấy trong kinh Hoa Nghiêm, là [bản kinh] vua cả Tam Tạng, do đức Như Lai khi mới thành Chánh Giác vì bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ đã vượt ngoài các giới, giảng ra Phật pháp thành tựu ngay trong một đời. Thật nghĩa rốt ráo quy tông kết đảnh của đạo thành Phật trong một đời ấy nằm ngay ở chỗ dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, ngõ hầu viên mãn Phật quả. Sở chứng của Thiện Tài đã bằng với Phổ Hiền, bằng với chư Phật, đáng gọi là bậc Đẳng Giác Bồ Tát. Đẳng Giác chỉ kém đức Phật mà vẫn phải hồi hướng vãng sanh, các đại Bồ Tát trong toàn thể Hoa Nghiêm thế giới hải đều vâng lãnh lời dạy này, cùng tu pháp này. Căn tánh những người thông Tông, thông Giáo hiện thời có nhạy bén, chứng nhập có sâu xa hơn những vị Bồ Tát ấy hay chăng? Ngàn kinh vạn luận đâu đâu cũng chỉ quy, vãng thánh tiền hiền người người hướng về. Há có phải những kinh luận ấy chẳng đáng để tuân theo ư? Há các vị thánh hiền ấy đều là ngu phu ngu phụ ư? Tóm gọn một lời: Nghiệp chướng sâu nặng, chưa kham giải thoát! Bởi thế cho nên “dùng thường ngày chẳng biết, quen làm mà chẳng xem xét” vậy!

Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm: Trong phẩm cuối cùng là phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm bản tám mươi quyển, Thiện Tài tham học với năm mươi ba vị tri thức viên mãn, đến chỗ ngài Phổ Hiền, được Phổ Hiền khai thị, và nương sức oai thần, liền chứng Đẳng Giác. Phổ Hiền bèn nói ra bài kệ, xưng tán công đức mầu nhiệm thù thắng của Như Lai. Do kinh văn [truyền sang Trung Hoa] chưa hết, nên pháp hội chưa xong mà kinh đã chấm dứt. Thanh Lương quốc sư soạn riêng Sớ Sao để hoằng dương lớn lao đạo này. Đến niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường Đức Tông, quốc vương Ô Trà ở Nam Ấn Độ mới cống nạp toàn bản Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm bằng tiếng Phạn, dịch thành bốn mươi quyển. Ba mươi chín quyển đầu chính là phẩm Nhập Pháp Giới trong bộ Bát Thập Hoa Nghiêm, nhưng văn nghĩa tường tận hơn. Cuốn thứ bốn mươi chính là phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện đang được lưu hành. Khi ấy, ngài Thanh Lương cũng dự vào dịch trường, cực lực tán dương, phụng mạng soạn sớ.

Sớ văn của toàn bộ bốn mươi quyển ở Trung Quốc thất truyền đã lâu. May là trong tạng kinh ở Nhật, vẫn còn bộ sách này. Bắc Kinh Khắc Kinh Xứ chuyên khắc những tác phẩm của cổ đức, chẳng bao lâu nữa sẽ lại được lưu truyền. Quyển kinh này lại được Ngài soạn cuốn Biệt Hành Sớ để cho những người thích giản lược và tu Tịnh Độ nghiên cứu đến cùng tận. Học trò Ngài là Khuê Phong[50] viết lời sao, đã được lưu thông trong nước lẫn ngoài nước. Nhưng do văn từ phong phú, nghĩa lý quá nhiều, chẳng tiện cho kẻ sơ cơ. Cư sĩ Phạm Cổ Nông do thấy thế gian đã ghép ba kinh Tịnh Độ và một phẩm Hạnh Nguyện thành Tịnh Độ Tứ Kinh, chú giải của ba kinh rất nhiều, chẳng trở ngại tùy theo căn cơ mà chọn đọc, còn kinh này chỉ có mỗi bộ Sớ Sao, tuy phát huy đến tận cùng, nhưng kẻ sơ cơ thường hay bị mờ mịt. Do vậy, đối với bộ Sớ Sao, ông Phạm trích lấy những nghĩa trọng yếu, cho khắc bản lưu thông. Văn tuy giản lược, nhưng nghĩa vẫn đầy đủ. Có thể nói là xét căn cơ, lập giáo pháp thích hợp, có ích không ít cho pháp môn! Nếu người học trước hết đọc “hiệt bản” (bản trích yếu) này, rồi mới đọc toàn văn thì chẳng những thấu hiểu tấm lòng hoằng truyền, tán dương của ngài Thanh Lương mà còn thấu hiểu được tấm lòng khuyến phát của đức Phổ Hiền, tâm xuất thế của Như Lai. Dám thỉnh những vị thông Tông thông Giáo cùng thuận theo các vị Bồ Tát trong Hoa Tạng hải hội và những kẻ ngu phu ngu phụ nhất trí tiến lên, cùng sanh Tây Phương để khỏi phụ ân Phật dạy dỗ, chẳng phụ linh tánh của chính mình!

-------------------------
[50] Khuê Phong Tông Mật (780-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm, người xứ Quả Châu, sống vào thời Đường, thường được gọi là Khuê Phong Thiền Sư hay Khuê Sơn đại sư, thụy hiệu là Định Huệ thiền sư. Năm Nguyên Hòa thứ 2 (807) lên kinh ứng thí, đi ngang qua Toại Châu, nghe Đạo Viên hòa thượng thuyết pháp bèn xin xuất gia và thọ giới Cụ Túc. Theo lời khuyên của ngài Đạo Viên, Sư đến tham học với ngài Ích Châu Nam Ấn chùa Tịnh Chúng, rồi tham yết ngài Thần Chiếu chùa Báo Quốc tại Lạc Dương. Năm Nguyên Hòa thứ năm (810), gia nhập vào đồ chúng của ngài Thanh Lương Trừng Quán, thọ trì giáo học kinh Hoa Nghiêm. Năm Nguyên Hòa 11 (811), trụ tích tại chùa Trí Cự ở núi Chung Nam, tự thệ không xuống núi, đọc hết Đại Tạng Kinh trong ba năm, soạn ra bộ Viên Giác Kinh Khoa Văn. Sau ngài qua chùa Thảo Đường cũng thuộc núi Chung Nam lắng tâm tu học, soạn ra bộ Viên Giác Kinh Đại Sớ. Rồi lại dời qua Khuê Phong Lan Nhã cũng thuộc núi ấy, chuyên chú tụng kinh tu Thiền. Tướng quốc Bùi Hưu cùng mọi nhân sĩ trong triều, ngoài nội đều rất kính trọng. Sư từng được thỉnh vào cung giảng kinh, nhưng không lâu lại xin trở về núi. Ngày mồng Sáu tháng Giêng năm Hội Xương nguyên niên, Sư tọa hóa tại Hưng Phước Tháp Viện, thọ sáu mươi hai tuổi, pháp lạp ba mươi tư năm.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa cho tác phẩm Kim Cang Thứ Hỗ[51]

17. Lời tựa cho tác phẩm Kim Cang Thứ Hỗ[51]

Kinh Kim Cang từ nơi Hữu bàn về Không, chẳng đọa nơi Không; từ Không luận về Hữu, chẳng đọa vào bên Hữu. Không lẫn Hữu cùng mất, Chân - Tục bất nhị, chúng sanh và Phật nhất trí, lý - sự viên dung, hạnh khởi giải tuyệt, tiến thẳng vào biển giác. Hết thảy Bồ Tát nương theo đây tu nhân, tam thế chư Phật nương vào đây chứng quả. Kinh này chính là cương yếu của giáo pháp suốt cả một đời đức Như Lai, quả thật là chuẩn mực để thượng hoằng hạ hóa của hàng Bồ Tát. Chỉ bày bổn thể của Như Như, cơ lẫn lý đều khế hợp. Chứng Không Không tam-muội, giải lẫn hạnh đều viên. Diệu lại càng diệu, huyền càng thêm huyền. Khéo thay, cao quý thay! Há có thể nghĩ bàn được nổi ư? Thế gian thường chẳng xem xét, cho là Không Tông, cô phụ Phật ân quá đáng! Độ tận hết thảy chúng sanh chẳng thấy tướng người độ, kẻ được độ, chẳng trụ vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp để hành bố thí, cho đến lục độ cũng như vạn hạnh. Dùng không “ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả” để tu hết thảy thiện pháp, không trụ vào đâu để sanh tâm, tuy thuyết pháp nhưng không có pháp gì để thuyết; tuy thành Phật nhưng không có Bồ Đề để đắc. Ấy là mây bay biển Hạnh, sóng dậy cửa Độ, chính là đạo xứng tánh duyên khởi, không có sự để hành.

Do vậy, trong chẳng thấy có cái ta là người độ, ngoài chẳng thấy có người và chúng sanh được độ, giữa chẳng thấy có tướng thọ giả để chứng Vô Dư Niết Bàn. Cái thấy “có mình lẫn người” cùng mất, tình kiến phàm lẫn thánh đều hết. Tam luân thể không, một đạo thanh tịnh. Thật Tướng diệu lý như như bất động, triệt để phô bày trọn vẹn. Vì thế được phước đức bằng với mười phương hư không vậy! Còn như thọ trì kinh này, vì người khác nói, dù chỉ bốn, ba, hai, một câu, phước ấy còn hơn dùng bảy báu đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới để bố thí suốt vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, hơn phước của việc hằng ngày ba thời dùng thân mạng nhiều như số cát sông Hằng để bố thí. Ấy là vì hết thảy chư Phật và pháp vô thượng giác đạo của chư Phật đều từ kinh này mà ra. Do đó, người thuyết pháp chính là dùng sự trang nghiêm của Phật để tự trang nghiêm và trang nghiêm hết thảy chúng sanh. Công đức chân thật tự hành hóa độ người ấy được gọi là Không, há chẳng đáng sao!

Vì thế, dù chỉ nói kinh này bốn, ba, hai, một câu thì hết thảy trời người đều nên cúng dường như cúng dường tháp miếu Phật. Do người trì kinh tâm hợp với đạo, tâm hợp với Phật, nên chuyển được hậu báo nặng nề nhất thành hiện báo nhẹ nhàng nhất, lại còn sẽ đắc Bồ Đề. Do tự hành, dạy người, tâm chẳng trụ vào tướng chính là dùng Trí Như Như để khế hợp Lý Như Như, ngay khi đó dung hợp thành một với Bồ Đề, Niết Bàn, như nước lẫn vào nước, như không trung hợp với không trung. Dù có thánh trí, chẳng thể phân biệt được! Những pháp môn đức Như Lai đã giảng trong suốt một đời đều dùng trí này chiếu thấu để tu thì nước chảy đến liền thành kênh, mây tan trăng rạng, một trần chẳng lập, vạn đức trọn phô!

Cư sĩ Mã Thông Bạch xưa đã trồng cội đức, dốc lòng tin tưởng Phật thừa, phẩm hạnh thanh cao, trước thuật phong phú, thật là bậc văn chương lỗi lạc hiện thời, có học thức cao tuyệt. Nhưng do dốc chí nơi Nho Tông, chưa rảnh rỗi tinh chuyên nội điển. Mãi đến khi tuổi tròn hoa giáp (sáu mươi), thấy lẽ tang thương biến đổi, ngộ thân thế vô thường, bèn buông bỏ hết thảy, chuyên xem kinh Phật. Mới biết lời Như Lai nói đều chỉ tâm ta, viên châu sẵn có nơi vạt áo cơ hồ quên mất. Mừng rỡ cùng cực, chuyển thành bi cảm. Về sau đọc kinh này, tâm hoa bừng nở; do đấy, thuận theo kiến giải của mình soạn thành bộ Kim Cang Thứ Hỗ. Đối với chỗ văn từ quyện lẫn vào nhau bèn phân chương đoạn cho rõ, đối với nghĩa huyền diệu bèn dùng lời lẽ bình dị để giảng rõ. Khế lý, khế cơ, thông trên thấu dưới, đúng là hướng dẫn tốt lành cho hàng sơ cơ, thật là cửa trọng yếu để nhập đạo. Các môn nhân muốn khắc bản để lưu truyền mãi mãi, ngõ hầu những Nho sĩ thông suốt thảy đều ngưỡng mộ học theo, lợi ích ấy chỉ có đức Phật mới có thể biết được nổi. Gắng đem nỗi niềm ngu thành để làm lời tựa dẫn nhập.

---------------------------------
[51] Hỗ là giải thích những nghĩa lý trong sách cổ bằng những ngôn từ bình dị, đương thời cho người ta dễ hiểu. Do cư sĩ Mã Thông Bạch đem nghĩa lý kinh Kim Cang giải thích bằng văn tự hiện thời một lần nữa, trước ông đã có nhiều người làm chuyện đó, nên đặt tên tác phẩm là Thứ Hỗ (giải thích bằng thể văn đơn giản một lần nữa).
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa cho bản đúc kẽm tác phẩm Kim Cang Kinh Tuyến Thuyết

18. Lời tựa cho bản đúc kẽm tác phẩm Kim Cang Kinh Tuyến Thuyết


Một quyển kinh này người người đều có, ai ai chẳng không. Nhưng do mê chân đuổi theo vọng, trái giác, hợp trần, chẳng biết phản quán nội chiếu đến nỗi chẳng thể tự thụ dụng. Vì thế, phẩm Như Lai Xuất Hiện trong kinh Hoa Nghiêm có câu: “Lúc Như Lai thành Chánh Giác, than rằng: ‘Lạ thay! Lạ thay! Hết thảy chúng sanh đều có đủ trí huệ, đức tướng củaNhư Lai, chỉ vì vọng tưởng, chấp trước mà chẳng chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí đều được hiện tiền”. Trong đoạn mở đầu kinh này, do ngài Tu Bồ Đề thấy oai nghi của Phật nên khen ngợi: “Đức Thế Tôn hy hữu! Khéo hộ niệm phó chúc các Bồ Tát”, muốn khiến cho pháp hộ niệm phó chúc được rạng rỡ trong thế gian, nên hỏi: “Bồ Tát phát vô thượng Bồ Đề tâm, nên trụ như thế nào? Nên hàng phục cái tâm như thế nào?” Hai câu này chính là yếu chỉ của hộ niệm, phó chúc vậy.

Như Lai lấy chuyện “làm cho tất cả hết thảy chúng sanh trong chín pháp giới đều được nhập Vô Dư Niết Bàn để được diệt độ, nhưng chẳng thấy có tướng chúng sanh được diệt độ” để đáp câu hỏi “hàng phục” ; lấy chuyện “Bồ Tát đối với pháp hãy nên không trụ vào đâu, chẳng trụ vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp để hành bố thí” để đáp câu hỏi “nên trụ như thế nào?” Lại nói: “Chẳng trụ vào Sắc để sanh tâm, chẳng trụ vào Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp để sanh tâm, hãy nên không trụ vào đâu để sanh tâm”. Lại còn khen ngợi sâu xa phước đức chẳng trụ vào tướng để bố thí, [nói phước đức ấy] lượng chẳng thể suy lường giống như mười phương hư không vậy. Vì sao độ tận hết thảy chúng sanh lại nói là “không thấy có chúng sanh được diệt độ?” Là vì Vô Dư Niết Bàn chính là tánh thể sẵn có của chúng sanh. Do mê trái nên không biết, thoạt đầu chưa từng bị mất, được Bồ Tát chỉ dạy bèn hiểu rõ hạt châu trong chéo áo, đầu nằm ngay trên cổ. Đã hiểu rõ như vậy thì xong rồi, chứ nào phải lại có? Chẳng qua chúng sanh tự tánh tự độ, há nào có ta là người độ, nào có người và chúng sanh được độ? Cũng như nào có tướng thọ giả để nhập Vô Dư Niết Bàn ư?

Bốn tướng đã là không thì tam luân thể không, nhất đạo thanh tịnh. Do tam luân thể không, nhất đạo thanh tịnh, nên vạn hạnh như mây nhóm, tâm không trụ vào đâu. Dẫu cho vạn hạnh như mây nhóm, thật ra không có một pháp nào để lập. Thấy tình và vô tình đều cùng một Thật Tướng; cho nên núi, sông, đại địa hoàn toàn hiển lộ thân Pháp Vương. Kinh Lăng Nghiêm coi Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, Thất Đại đều là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh, chính là bằng chứng. Do vậy, biết: Như Lai trí huệ, đức tướng vốn tự đầy đủ, không thiếu, không thừa. Nhưng vì mê trái nên bỗng dưng huyễn khởi vọng tưởng, chấp trước, đến nỗi trí huệ, đức tướng bị ẩn mất chẳng hiện. Nếu chịu suy xét đến cùng cực, xét xem vọng tưởng, chấp trước này từ nơi đâu mà có, thì mây mù phủ kín bầu trời ắt sẽ triệt để tiêu diệt. Vầng mặt trời sẵn có sẽ hiển hiện toàn thể. Lúc mây mù phủ kín, mặt trời cũng chưa hề bị mất; lúc mây mù tan tác, mặt trời cũng chưa hề có lại! Độ tận hết thảy chúng sanh mà chẳng thấy một chúng sanh nào được độ chính là ý này.

Ai thấy được lý này, hành được hạnh này, dùng “không trụ vào đâu” để sanh tâm, ắt thấy các tướng không có tướng. Người như thế thọ trì kinh này, vì người khác diễn nói dẫu chỉ bốn, ba, hai, một câu thì phước đức của người dùng bảy báu đầy ắp tam thiên đại thiên thế giới để bố thí vẫn chẳng thể bằng được! Do một câu nhiễm vào thần thức, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo. Trụ vào tướng để bố thí thì quả báo ở nơi nhân thiên! Do vậy, nói: “Chỗ nào có kinh, chỗ ấy chính là tháp miếu. Kinh ở tại chỗ nào, chỗ ấy có đủ Tam Bảo”. Vì vậy, hết thảy thế gian trời, người, A Tu La đều phải nên cúng dường. Do người nói chẳng chấp vào tướng, như như bất động, dùng Như Như Trí khế hợp Như Như Lý, Phật như, chúng sanh như, nhất như, vô nhị như. Nói cả ngày nhưng thật ra chưa từng nói, dù nín lặng không nói cũng chưa từng chẳng nói. Do người ấy đi, đứng, nằm, ngồi, qua lại, cúi, ngửa, mặc áo, ăn cơm, giơ nắm tay, dựng ngón tay, không gì chẳng phải là Vô Dư Niết Bàn bất sanh bất diệt, là toàn thể đại dụng của vô trụ sanh tâm. Ruộng đất vượt ngoài kiếp, trăng gió nơi quê cũ, mặc người tự được, nào ai ngăn trở? Do vậy, ông bán củi[52] nghe được một câu liền được nối Tổ truyền đăng, lẫy lừng vũ trụ. Người ta là trượng phu, mình cũng thế, chẳng nên tự khinh để rồi thua kém. Như vậy, người thọ trì nên phát đại Bồ Đề Tâm như thế nào? Nên sanh tâm không trụ vào đâu như thế nào?

Cuối triều Đạo Quang nhà Thanh, có Vô Trụ Lão Nhân Trần Trụ xưa có huệ căn, nhược quan (20 tuổi) bèn tụng kinh này, đến ngoài bảy mươi, xem rộng các bản chú giải, gạn lọc lấy những nghĩa lý tạo thành bộ Tuyến Thuyết. Dùng một sợi dây “chẳng trụ vào tướng” để xâu dính lại triệt để. Câu chữ giản dị, dễ hiểu, có ích cho hàng sơ cơ. Nếu nắm được chỗ chỉ quy từ sách này thì đối với chú giải của cổ đức, đối với kinh của Như Lai sẽ như mở được kho báu, tùy ý thụ dụng.

Hai anh em ông Giản Chiếu Nam, Giản Ngọc Giai ở Việt Đông (Quảng Đông), do mẹ mất, các thân hữu đến phúng điếu, ai nấy đều gởi những bài ai điếu, liễn đối phúng viếng. Họ gom lại cho khắc in, đặt tên là Ai Tư Lục. Lại muốn vì mẹ làm lợi cho hết thảy nên bèn cho đúc bản kẽm cuốn Kim Cang Kinh Tuyến Thuyết in thành mấy ngàn cuốn, để cùng với bộ Ai Tư Lục dùng tặng các thân hữu đã phúng điếu để tạ ơn những lời chúc tụng hay đẹp. Một là mong cho mẹ được cao thăng phẩm sen, hai là mong cho thân hữu tăng trưởng thiện căn. Thật đúng là: “Hiếu tử bất quỹ, vĩnh tứ nhĩ loại” (tạm dịch: Hiếu tử chẳng cùng khốn, vĩnh viễn ban cho ngươi).

Nếu nghi Kim Cang vô tướng, Tịnh Độ hữu tướng, hai pháp làm sao dung thông nhau được? Tôi nói: Kinh Kim Cang dạy độ tận hết thảy chúng sanh, nhưng chẳng thấy tướng độ, chẳng trụ vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp để hành bố thí. Bố thí đứng đầu lục độ vạn hạnh; đã dạy chẳng trụ vào tướng bố thí thì trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ, cùng với vạn hạnh, không gì chẳng phải như vậy. Như thế, kinh Kim Cang chính là quy củ chuẩn mực cho con người hành khắp lục độ vạn hạnh, phổ độ hết thảy chúng sanh, chính là cương yếu của khắp hết thảy các pháp môn trong cả một đời giáo hóa. Ấy chính là ngay nơi tướng mà lìa tướng, sao không thể dung thông với Tịnh Độ cho được? Phàm pháp độ sanh, chỉ có mỗi Tịnh Độ thật là bậc nhất. Muốn sanh về Tịnh Độ thì phải tịnh cái tâm. Hễ tâm tịnh thì cõi Phật tịnh. Dùng tâm thanh tịnh chẳng trụ vào tướng để niệm Phật thì tâm này làm Phật, tâm này là Phật, vãng sanh Tây Phương, chứng Vô Sanh Nhẫn, chính là lý sự quyết định chẳng thay đổi vậy, nào còn ngờ gì nữa?

-------------------------------
[52] Khi chưa xuất gia, tổ Huệ Năng làm tiều phu, gánh củi đến bán cho ông trưởng giả, nghe ông đọc kinh Kim Cang bèn ngộ chân tâm, phát tâm xuất gia.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa tái bản bộ Tán Lễ Địa Tạng Bồ Tát Sám Nguyện Nghi

19. Lời tựa tái bản bộ Tán Lễ Địa Tạng Bồ Tát Sám Nguyện Nghi


Tâm thể vốn tịnh, do căn trần mà trược niệm khởi lên. Phật tánh thường tồn, do mê trái nên phàm tình hừng hực. Do vậy, khiến cho sức tịch chiếu bị biến thành duyên tối tăm, loạn động. Trong thường trụ, lầm chịu nỗi khổ sanh tử. Chấp trước Ngũ Ấm, chẳng biết rốt ráo đều là không. Ngăn lấp nhất tâm, nào hiểu vốn chẳng thể được! Đắm nhiễm lục trần huyễn cảnh, đọa lạc đường khổ tam đồ. Dẫu trải qua vi trần kiếp số, chẳng thể thoát khỏi luân hồi lục đạo. Do vậy, đức Thế Tôn ta rủ lòng từ mẫn, nhân Địa Tạng Bồ Tát thưa hỏi, bèn nói pháp luân thập lực của Phật để nghiến nát Phiền Hoặc, thành tựu đạo khí. Do đấy, vứt bỏ ác pháp, đoạn trừ hết thảy Vô Y Hạnh[53], tu trì thiện pháp, đầy đủ hết thảy Hữu Y Hạnh. Nhưng muốn đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn thì phải sám trừ tội khiên đời trước. Nếu chẳng chấp vào Ngũ Ấm sẽ tự chứng được ba thân. Bên ngoài thì nhờ vào Phật lực, pháp lực, Bồ Tát thệ nguyện lực, trong nương vào sức thành kính, sức sám hối, sức tự tánh công đức nên sương tội ngập trời bị tiêu diệt triệt để; bầu trời chân tánh sẵn có được hiển hiện toàn thể.

Do vậy, biết rằng ba kinh Thập Luân, Bổn Nguyện, Chiêm Sát[54] đều là vì Địa Tạng đại bi nguyện lực khiến cho chúng sanh côi cút không nơi nương cậy trong đời Mạt có chỗ nương cậy lớn lao. Ngẫu Ích đại sư đã chứng Pháp Thân, thừa nguyện tái lai, thoạt đầu thị hiện làm kẻ Xiển Đề, sau trở thành sứ giả Như Lai, một đời hạnh giải, lý sự viên dung. Suốt đời trước thuật, tánh - tu cùng trọn đủ. Ngài muốn làm cho trược trí trở thành tịnh trí, bèn dựa theo ba kinh trên, soạn ra Sám Nghi, ngõ hầu biến phàm tâm thành Phật tâm, dùng Thập Luân để làm sáng tỏ sự tán thán, sám hối. Gương báu đã mài, quang minh tự phát. Ma-ni đã gột rửa, bèn tuôn ra trân bảo. Thật có thể nói là diệu pháp để phản bổn hoàn nguyên, là đạo để đạt “tâm này làm Phật” vậy. Hoằng Nhất Thượng Nhân từ trước đã khâm phục trước thuật của đại sư, bèn cho khắc bản bộ sám nghi này để lưu truyền rộng rãi, khiến cho người có chí diệt Hoặc nghiệp huyễn vọng, chứng chân tâm sẵn có, trên nối tiếp huệ mạng Như Lai, dưới tạo thành điển hình cho đời sau đều được thọ trì vậy!

------------------------------
[53] Kinh Địa Tạng Bồ Tát Thập Luân dạy có mười Hữu Y Hạnh Luân và mười Vô Y Hạnh. Hữu Y nghĩa là những hạnh nghiệp có thể nương nhờ vào, dùng chữ Luân với ý nghĩa giống như bánh xe lăn, nghiền nát Hoặc nghiệp. Như vậy, Hữu Y Hạnh Luân là những hạnh nghiệp có thể đoạn phiền hoặc, chứng Bồ Đề. Vô Y Hạnh là những hạnh nghiệp không thể nương tựa vì chúng tăng trưởng phiền não, vọng tưởng, chấp trước.

Mười Hữu Y Hạnh Luân là:

1) Đầy đủ lòng tin trong sạch, trọn tín tâm thanh tịnh.

2) Có đủ lòng hổ thẹn.

3) An trụ trong luật nghi, nhiếp thân khẩu ý, an trụ tịnh giới.

4) An trụ từ tâm.

5) An trụ bi tâm.

6) An trụ hỷ tâm.

7) An trụ xả tâm.

8) Có chánh quy y, y chỉ nơi Tam Bảo.

9) Đầy đủ tinh tấn, tùy thuận tu học, dũng mãnh, siêng tinh.

10) Thường lạc tịch tịnh, lòng lắng tịnh, tư duy đúng lý, dứt các vọng tưởng.

Mười Vô Y Hạnh là:

1) Gia Hạnh hoại nhưng ý lạc không hư hoại.

2) Ý lạc bị hoại nhưng gia hạnh không hoại.

3) Gia hạnh, ý lạc đều hoại.

4) Giới hoại, nhưng kiến không hoại.

5) Kiến hoại, nhưng giới không hoại.

6) Kiến, giới đều hoại.

7) Gia hạnh, ý lạc, giới, kiến đều không hoại, nhưng y chỉ vào sức bạn ác.

8) Tuy y chỉ thiện hữu và có gia hạnh, nhưng ngu độn như dê câm, không phân biệt các sự lý, nghe thiện pháp nói là bất thiện pháp, chẳng lãnh ngộ được ý nghĩa.

9) Đối với các thứ của cải, thường không chán đủ, miệt mài theo đuổi nên tâm bị loạn.

10) Bị các bệnh tật bức bách nên cúng bái thần quỷ, cầu chú thuật.

[54] Trong Đại Tạng có ba bộ kinh: Địa Tạng Bồ Tát Thập Luân Kinh, Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh và Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh đều do đức Địa Tạng khải thỉnh Phật bèn nói pháp, hoặc do một vị Bồ Tát khác khải thỉnh, Phật bèn giảng diễn về công hạnh của Địa Tạng Bồ Tát.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa khắc lại bộ Giản Ma Biện Dị Lục

20. Lời tựa khắc lại bộ Giản Ma Biện Dị Lục


Người học đạo suy nghĩ lập hạnh đều phải chất trực, trung chánh, chẳng được có mảy may có tướng thiên vị, riêng tư, lươn lẹo. Nếu có chút thiên lệch, cong quẹo gì thì sẽ như bàn cân không chuẩn, cân các vật nặng - nhẹ đều sai. Như thể chất gương chẳng sạch, chiếu các hình tượng khó thể phân biệt tốt - xấu. Sai chỉ hào ly, mất đi ngàn dặm! Xoay vần sai lầm, không thể ngăn dứt được! Kinh Lăng Nghiêm nói: “Mười phương Như Lai đồng một đạo, nên thoát lìa sanh tử đều dùng trực tâm”. Do bảo tâm là trực (ngay thẳng) nên từ địa vị đầu đến địa vị cuối, trong những địa vị trung gian, vĩnh viễn chẳng có tướng cong quẹo. Kinh Thư nói: “Tâm con người khi gặp hoàn cảnh quyến rũ thì tâm đạo bị nhỏ đi, hãy tập trung tư tưởng, chuyên nhất [gìn giữ đạo tâm], giữ cho thiên tánh không đổi dời[55]”. Pháp Tạng[56] đời trước, vốn có linh căn cho nên đời này giải ngộ và kiến địa đều chẳng nông cạn. Nhưng do cái gốc ngã mạn sâu xa, muốn làm bậc cao nhân thiên cổ đệ nhất, tự mình lập bừa ra những tông chỉ, danh tướng, viết bộ Ngũ Tông Nguyên những mong hậu học suy tôn ông ta, rốt cuộc trở thành tri kiến của tà ma, ngoại đạo. Nếu như khi ấy cứ một bề vâng giữ trực tâm trực hạnh, ắt sẽ thấy trong hội của ngài Mật Vân[57] không ai bằng được, đạo phong lừng lẫy khó gì chẳng vượt trội các phương! Tiếc là ông ta chẳng chú trọng thực ngộ, thực chứng, lại mưu tính, lập cách để mình được vượt trội hết thảy, khiến cho ngài Mật Vân ba lần, bảy lượt quở trách để uốn nắn ông ta!

Con người chẳng phải là thánh hiền, ai không vướng lỗi? Nếu thật sự là người anh hùng, quả cảm sẽ tự hổ thẹn, sám hối, biết lỗi sửa lỗi, cầu thật ngộ, thật chứng, thì pháp mạch Lâm Tế, Như Lai huệ mạng sao không trực tiếp truyền thừa cho được? Lẽ đâu dựng cao tràng kiêu mạn, giữ dở, che lỗi, khiến cho những gã học trò như Hoằng Nhẫn v.v… càng thêm cuồng vọng, phô phang ý kiến ức đoán của chính mình, viết sách Ngũ Tông Cứu, biến chánh thành tà, biến tà thành chánh, báng pháp, báng tăng, tự lầm, lầm người. So với Pháp Tạng, lại càng sâu nặng gấp mười. Kẻ đui dẫn lũ mù, kéo nhau vào lửa. Ôi! Đáng buồn thay! Đương thời, Pháp Tạng, Hoằng Nhẫn mặc tình tô vẽ, khiến cho môn đình rất thạnh, hàng sĩ đại phu đa phần thành ngoại hộ. Do vậy, những tà thuyết lầm lạc trong các bộ ngữ lục Ngũ Tông Nguyên, Ngũ Tông Cứu của cha con họ đều được đưa vào Đại Tạng.

Đến năm Ung Chánh thứ mười một (1733), Thanh Thế Tông muốn tuyển chọn ngữ lục, đọc khắp các trước tác của họ, biết họ mang ý kiến lầm lạc, đến nỗi làm mù chánh nhãn của người khác, bèn truyền hủy sạch những bản ấy. Lại sắc truyền các tùng lâm trong thiên hạ, phàm có sách hay ván in sách ấy, phải hủy trừ cho hết. Nếu giấu diếm, bị phát giác sẽ kết tội phạm luật. Lại sợ có người bị trúng độc sâu xa, không thể ói ra hết được, do sách Ngũ Tông Cứu cuồng vọng, trái nghịch quá mức, vua bèn trích lục hơn tám mươi điều [từ sách ấy], vạch trần, phê phán từng điều, truyền đưa vào Đại Tạng hòng mở con mắt chánh cho người, báo ân Phật, ân Tổ. Nhưng do muôn vàn điều không rảnh rỗi, đến mùa Xuân năm Ung Chánh 13 (1735) mới hoàn thành bản cảo, chưa sửa chữa hoàn chỉnh, xe rồng đã lên làm khách cõi trời. Cao Tông (Càn Long) kế vị, mới cho khắc ván. Chỉ vì chẳng giao phó cho người thông hiểu, nên với những chữ viết giả tá theo lối chữ Thảo đa phần sửa thành lối chữ Chân Phương, chẳng hạn như chữ Vị 謂 (nói) sửa thành chữ Vị 為 (vì), nhiều đến hơn cả trăm chỗ[58]. Những kinh sách được Thế Tông khắc in đều giảo chánh, đối chiếu tinh xác, nghiêm cẩn, chỉ có mình sách này sai ngoa quá nhiều. Do vậy, biết sách ấy được khắc sau khi nhà vua đã lên làm khách cõi trời.

Hơn nữa, mùa Xuân năm Ung Chánh thứ 13, khởi công khắc ván Đại Tạng Kinh, vua đã truyền dụ đem sách này nhập Tạng để lưu thông, nhưng rốt cuộc không nhập, là vì Cao Tông lên ngôi chưa lâu, chuyên lo chánh trị, không rảnh rang đề xướng. Còn những hàng Tăng tục khác thì do đồ đảng của Pháp Tạng quá đông, nên đều sợ nếu đề xướng [nhập tạng sách này] ắt phải chuốc họa. Do vậy, gác lại không bàn đến, cho nên không nhập. Bản ván khắc sách của triều đình được giữ trong đại nội, trừ phi hoàng đế hạ chỉ, không cách nào ấn loát được. Vì thế, sách này chẳng được lưu truyền trong đời. Nhưng pháp bảo này ắt có thần, vật thủ hộ, khiến cho sách được giấu kín đã lâu lại xuất hiện, được lưu truyền rộng rãi. Nhân duyên này được ghi đầy đủ trong lần in thạch bản. Nay tính khắc lại bản gỗ, bèn lắng lòng giảo duyệt, hòng khôi phục lại bản lai diện mục cho tác phẩm của Thế Tông. Cư sĩ Ưng Quý Trung nguyện bỏ tiền khắc lại, nên tôi bèn viết lời tựa nêu rõ đầu đuôi để thuật cùng người thông suốt trong mai sau.

Phàm muốn liễu sanh thoát tử, ắt phải thật chứng. Nếu chỉ ngộ chưa chứng thì Phiền Hoặc vẫn còn, phải nỗ lực vô cùng. Nếu có thể khăng khắng dốc sức, trải duyên rèn luyện, tâm luôn giác chiếu, thầm phù hợp thánh trí, phàm tình nhân ngã thị phi không do đâu khởi được. Nếu chẳng gắng giác chiếu, phàm tình vẫn cứ lừng lẫy như cũ thì công hạnh càng cao, tình kiến càng nặng; từ ngộ nhập mê sẽ khó thể tránh khỏi! Như người tỉnh ngủ không ngồi dậy, hồi lâu sau lại ngủ tiếp. Cổ nhân nói: “Đại sự đã sáng tỏ, như chôn cha mẹ”[59]. Chính là vì Phiền Hoặc chưa đoạn, chỉ sợ lại mê. Phải biết người đoạn Hoặc, không còn phàm tình. Đã không còn phàm tình, nào còn có sanh tử? Người đại ngộ dẫu ngộ bằng chư Phật, nhưng Hoặc chưa đoạn trừ thì phải niệm niệm giác chiếu, hầu tránh khỏi dùng phàm tình xử sự.

Cha con Pháp Tạng, Hoằng Nhẫn, tuy ngộ xứ cao sâu, nhưng chỉ vì ngã mạn quá đáng đến nỗi hoàn toàn bị vùi lấp trong tình kiến nhân ngã, lại toan muốn làm bậc cao nhân đệ nhất nối tiếp huệ mạng Phật, đến nỗi một phen lầm lẫn vĩnh viễn lầm lạc, không sao quay lại được! Dốc cạn trí lực, chỉ thành thân phận một kẻ tầm thường, chẳng đáng buồn ư? Như Lai biết sâu xa chúng sanh đời mạt Phiền Hoặc khó đoạn nên riêng mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ khiến cho lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn, vãng sanh Tây Phương. Đã được vãng sanh liền siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, hầu cận Di Đà, theo gót hải chúng. Từ đấy phá trọn vô minh, triệt chứng tự tâm, thẳng đến khi thành Phật mới thôi. Nếu như Pháp Tạng, Hoằng Nhẫn biết được điều này, ắt sẽ thượng phẩm thượng sanh, chứng Vô Sanh Nhẫn, hiện đủ mọi sắc thân, rộng độ quần mê. Đâu đến nỗi bóng bẩy, màu mè, mong được hư danh vượt Phật trội Tổ, muốn lưu danh thơm trăm đời! Lúc bị người sáng mắt thấy thấu suốt, bèn lộ tiếng tà ma ngoại đạo, để tiếng xấu muôn năm! Ô hô, buồn thay!



Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Quyển thứ ba
(Phần 1 hết)


--------------------------------------
[55] Nguyên văn: “Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh, duy nhất, doãn chấp quyết trung”. Câu này được hiểu nhiều cách khác nhau, chúng tôi dịch theo cách diễn giải của Thân Hà Vĩnh trong bộ Trung Hoa Văn Hóa Tâm Lý Học Tâm Yếu. Theo ông Thân, Nguy ở đây là những nguy hiểm, thử thách, chẳng hạn như danh dự, lợi lộc, của cải v.v… Đạo tâm là cái tâm tự nhiên, tâm thiên phú, thiên lương v.v… “duy tinh duy nhất” là tập trung tư tưởng, gìn giữ đạo tâm. “Doãn quyết kỳ trung” nghĩa là giữ cho thiên tánh chẳng dời. Như vậy câu này có thể hiểu là: “Tâm con người do bị hoàn cảnh quyến rũ, tâm đạo ngày càng nhỏ đi. Phải tập trung tư tưởng, gìn giữ đạo tâm cho không thay đổi”.

[56] Tức Hán Nguyệt Pháp Tạng, người sống vào cuối đời Minh, viết sách Ngũ Tông Nguyên cực lực đề cao tông Lâm Tế, chỉ trích mạt sát các tông phái Thiền khác, nhất là tông Tào Động, lập ra những dị thuyết, gây nên những tranh luận ồn ào cho đến tận thời Ung Chánh hoàng đế nhà Thanh. Học trò ông ta là Hoằng Nhẫn lại còn viết sách Ngũ Tông Cứu cực đoan hơn nữa, coi bốn phái Thiền còn lại đều là tà ngụy. Phái Thiền của Pháp Tạng chủ trương phá chấp triệt để nên ăn mặn, uống rượu, không giữ giới luật cũng không trở ngại gì, khiến cho các tôn đức tông Lâm Tế cũng phải quở trách.

[57] Mật Vân Viên Ngộ (1566-1642) là vị cao tăng tông Lâm Tế đời Minh. Sư người huyện Nghi Hưng, tỉnh Giang Tô, họ Tương, tự Giác Sơ, hiệu Mật Vân, thụy hiệu Huệ Định thiền sư. Ngài là con nhà nông, nhân đọc Lục Tổ Đàn Kinh liền hâm mộ Thiền Tông. Một ngày nọ nhìn đống củi có chỗ ngộ, bèn xuất gia với ngài Huyễn Hữu Chánh Truyền ở viện Long Trì vào năm 29 tuổi. Năm Vạn Lịch (1602), Chánh Truyền lên kinh đô, Sư được cử làm giám viện chùa Vũ Môn. Một ngày nọ đi qua núi Đồng Quan, hốt nhiên đại ngộ, được ngài Chánh Truyền trao y bát vào năm 39 tuổi. Năm 45 tuổi, được kế nhiệm trụ trì tổ đình Long Trì. Về sau lần lượt trụ tại các chùa Thiên Thai, Hoàng Bá, Thiên Đồng… trước sau 30 năm, đại chấn tông phong, được xưng là Tổ trung hưng tông Lâm Tế. Đệ tử hơn 3 vạn người, nổi tiếng nhất là Đạo Mân, Thông Dung, Pháp Tạng v.v… Tổ Huệ Nguyên của tông Hoàng Bá tại Nhật cũng là đệ tử của ngài Mật Vân. Sư tịch năm Sùng Trinh thứ 15 (1642) tại chùa Thông Huyền, thọ 77 tuổi.

[58] Do viết chữ Hán theo lối Thảo thường bỏ bớt nét và dùng hình thức giả tá (tức là dùng chữ đồng âm, ít nét hơn, để viết cho tiện, cho nhanh). Khi đọc, phải căn cứ theo ngữ cảnh để hiểu tác giả thật sự muốn dùng chữ gì. Điều này đòi hỏi người đọc phải thông hiểu nội dung, thâm hiểu Phật pháp mới viết cho đúng chữ chân phương được.

[59] Ý nói đã ngộ rồi, thì càng phải nghiêm túc tu tập, như con làm đám ma cho cha mẹ, chẳng dám khinh thường, đãi bôi chút nào.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa bản thạch ấn sách Giản Ma Biện Dị Lục

Ấn Quang Văn Sao
Quyển thứ ba
(Phần 2)



21. Lời tựa bản thạch ấn sách Giản Ma Biện Dị Lục

(viết thay cư sĩ Xí Giác Triệu Hy Y)



Từ khi Phật pháp truyền vào Trung Quốc, đế vương các đời không ai chẳng sùng phụng, nhưng có những vị chỉ gieo hạt giống kết duyên, có vị ngộ chứng, đủ mọi hạng bất đồng. Tìm lấy một vị thâm nhập kinh tạng, đạt thẳng nguồn Thiền, chứng diệu tâm Niết Bàn, có chánh nhãn Kim Cang, nhân lúc tu - tề - trị - bình được rảnh rỗi, bèn xiển dương tông chỉ “niêm hoa trực chỉ” (cầm cành hoa giở lên để chỉ thẳng vào tâm)[1] thì chỉ có mình Thanh Thế Tông hoàng đế là bậc nhất. Nếu không phải là bậc Pháp Thân đại sĩ thừa nguyện tái lai, nắm vững cốt lõi đạo Quyền - Thật bất nhị, độ chúng sanh luân hồi không nơi nương tựa thì há có được như vậy hay chăng? Về trước thuật của nhà vua, trong Đại Tạng có Viên Minh Cư Sĩ Ngữ Lục gồm ba quyển (Viên Minh Cư Sĩ là đạo hiệu của Thanh Thế Tông). Ngoài ra, những tự, bạt, truyện, ký, thấy rải rác trong những kinh, luận, ngữ lục, thảy đều khéo léo khế hợp tâm Phật, ngầm hợp ý Tổ. Chữ nào chữ nấy tỏ rõ sự thật, lời nào lời nấy đều quy tông. Như gảy bàn tính, như báu Ma Ni, phàm những ai có đủ con mắt không ai chẳng bội phục!

Vào cuối đời Minh, trong số đồ đệ của sư Mật Vân Viên Ngộ, có Pháp Tạng tự là Hán Nguyệt, thiên tư thông minh, mẫn tiệp, gốc ngã mạn sâu dầy. Sau khi đại ngộ, bèn muốn làm bậc cao nhân thiên cổ độc nhất không ai sánh bằng, vì thế lập bậy chủ kiến, viết sách Ngũ Tông Nguyên, mong muốn vượt trội hết thảy. Chẳng biết Như Lai tâm ấn như vầng trăng trong mát, mây ngã mạn vừa đùn, liền che mất ánh trăng; Chân Như diệu tánh như thái hư không, bụi ngã mạn vừa bay tung, liền bẩn thể chất của Không. Đủ mọi thứ bôi vẽ, trau chuốt, bẹo hình bẹo dạng cuồng vọng, trái nghịch, cầu thăng hóa đọa, biến khéo thành vụng. Mật Vân quở lên, trách xuống, Pháp Tạng cùng với học trò là Hoằng Nhẫn vẫn chấp mê chẳng tỉnh. Sư phải cứu vớt nhiều lần nhưng ông ta lại toan lấn lướt ngài Mật Vân, bảo “ta tự ngộ không cần thầy”, Mật Vân bị ép phải đem mối đạo giao phó. Những ngôn thuyết của Pháp Tạng phần nhiều là dối lập, ít có sự thật. Hàng tri thức thời ấy tuy biết ông ta sai, nhưng thầy ông ta còn chẳng làm gì được; lại thêm môn đình của ông ta quá mạnh, hàng sĩ đại phu đa phần là kẻ ngoại hộ, chỉ sợ vừa phê phán đã khó khỏi mắc họa. Do vậy, họ đều chẳng dám bàn đến nữa.

Đến năm Ung Chánh mười một (1733), Thế Tông xem khắp các ngữ lục của Mật Vân, Pháp Tạng, Hoằng Nhẫn, thấy tri kiến của họ lầm lạc liền chép ra hơn mấy mươi ý kiến phỏng đoán, tà thuyết của họ để biện định chánh - tà một phen. Tính ra đến hơn mười vạn chữ, đặt tên là Ngự Chế Giản Ma Biện Dị Lục, liền cho khắc thành sách để thành bản in của triều đình, lại truyền đưa sách ấy vào Đại Tạng hòng trừ tà thuyết để chánh nhân tâm, chấn hưng Tông phong, sáng tỏ đạo Tổ. Đến năm thứ mười ba (1735) khởi công khắc in Đại Tạng, nhưng xe rồng đã lên làm khách cõi trời. Cao Tông (Càn Long) kế vị, ngày ngày phải lo muôn chuyện, chẳng rảnh rỗi đề xướng, đến nỗi rốt cuộc chẳng được nhập tạng. Sách đã khắc thành bản in chánh thức của triều đình được giữ trong đại nội, chẳng dễ lưu thông. Vì thế, những hàng đại gia Tăng - tục bác học đa văn hiện thời đều chẳng biết đến tựa đề sách này.

Năm Giáp Thìn (1904) đời Quang Tự, bạn tôi là Tử Nhậm tìm được hai bộ sách này ở chợ sách Bắc Kinh, gởi một bộ cho pháp sư Đế Nhàn mong Ngài đề xướng quyên mộ lưu thông, một bộ giao cho ông Dương Nhân Sơn gởi qua Nhật Bản, đưa vào Đại Tạng Kinh bản in mới của Hoằng Giáo Thư Viện. Mùa Xuân năm nay, tôi muốn vượt biển đến đất Hỗ (Thượng Hải) gặp cư sĩ Địch Sở Thanh. Tôi nói: “Ông thích truyền bá những sách cổ, sao không lấy cuốn Giản Ma Biện Dị Lục trong Đại Tạng Kinh của Hoằng Giáo Thư Viện để khắc ván ấn hành? Sách này do Thế Tông đem tâm pháp của Linh Sơn, Tứ Thủy để mở đại quang minh tạng Kim Cang chánh nhãn cho hai đạo Nho, Thích. Nếu sách này được lưu truyền, chẳng những người tham Thiền lập tức biết chỗ quy hướng, ngay cả người đề cao Khổng Mạnh để dò tìm Thành Minh đến cùng cực cũng sẽ như ngồi thuyền gặp được gió thuận, mau đến được bờ kia!” Cư sĩ nói: “Trước kia, ở kinh đô, con tìm được một bộ trong đống đồ cũ nát, cất trong rương sách đã hơn cả năm. Nếu không nhờ thầy nói, chắc là bỏ qua mất rồi!” Liền giao cho nhà in để họ chiếu theo thể thức in thạch bản, in ra một ngàn bộ, xin tôi viết lời tựa. Tôi hết sức vui mừng, quên mình kém cỏi, soạn lời tựa để phô bày cơ duyên ẩn - hiển như vậy.

----------------------
[1] Niêm hoa (còn gọi là “niêm hoa vi tiếu”): Theo truyền thuyết của Thiền Tông, trong pháp hội Linh Sơn, đức Phật giơ cành hoa cho đại chúng xem, đại chúng ngơ ngác, chỉ mình tôn giả Ca Diếp mỉm cười. Đức Thế Tôn bèn nói: “Ta có chánh pháp nhãn tàng, Niết Bàn diệu tâm, Thật Tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, chẳng lập văn tự truyền riêng ngoài giáo, nay giao cho Ma Ha Ca Diếp”. Nhà Thiền bảo sự tích này lấy từ kinh Đại Phạm Thiên Vương Sở Vấn, nhưng hiện thời chưa tìm thấy bản kinh này trong Đại Tạng, ngoại trừ một bản ghi trong Tục Tạng, nhưng cũng bị nghi ngờ tính chân xác. Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, trước khi đức Phật nhập diệt, đã giao phó chánh pháp cho tổ Ca Diếp như sau: “Vô thượng chánh pháp giao phó cho Ma Ha Ca Diếp, Ca Diếp sẽ là chỗ y chỉ lớn lao cho các tỳ-kheo, giống như Như Lai là chỗ y chỉ cho mọi chúng sanh”. Do vậy, các nhà nghiên cứu Phật học hiện thời cho rằng thuyết “niêm hoa vi tiếu” chính là sự thêm thắt, tô vẽ của Thiền Tông Trung Hoa sau thời Thần Hội vào đoạn kinh trên.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa cho sách Tam Thập Nhị Tổ Truyện Tán

22. Lời tựa cho sách Tam Thập Nhị Tổ Truyện Tán

Khởi đầu từ chuyện đức Thế Tôn giơ cành hoa, Ca Diếp mỉm cười, “chánh pháp nhãn tàng, Niết Bàn diệu tâm” liền được phổ biến khắp hoàn vũ. Cho đến khi đại giáo truyền sang Đông, Tổ Đạt Ma từ trời Tây sang, những vị viên ngộ Phật tánh, triệt chứng tự tâm, tiếp nối huệ mạng của Như Lai, làm đạo sư cho trời người, thật rất nhiều. Những vị được Truyền Đăng Lục, Cao Tăng Truyện ghi chép chỉ là mười phần, một phần trong trăm ngàn phần mà thôi. Còn những vị ẩn đức chẳng phô bày, giấu kín chẳng tỏ rõ làm sao kể xiết được?

Thanh Thế Tông Hiến Hoàng Đế (Ung Chánh) đã chứng Pháp Thân từ lâu, thừa nguyện tái lai, dù Tông hay Giáo không gì chẳng thấu nguồn tột đáy. Kể từ khi lên ngôi, trong vòng mười năm, chuyên coi sóc việc chánh trị, chẳng đề xướng Phật pháp vì mong thiên hạ thái bình, phong tục thuần mỹ. Sau đấy mới tuyên bố pháp hóa sẽ dễ được lợi ích, như đồ đựng đã khử chất độc có thể chứa được cam lộ. Đến năm Ung Chánh 11, bèn dùng thân nhân vương (vua trong cõi người) làm chuyện pháp vương, một vai gánh vác cả Phật pháp lẫn thế pháp. Nho giáo, Thích giáo, nhất đạo cùng hành. Lấy tâm pháp Linh Sơn, Tứ Thủy để thuật luân âm truyền tân tục diệm[2], Không - Hữu bất nhị, Chân - Tục viên dung, thật muốn cho nhân dân trong khắp cõi đời đều là con đích thật của đấng Như Lai, hữu tình trong hiện tại lẫn tương lai đều cùng được hưởng cảnh sắc rạng rỡ nơi bổn địa.

Vào mỗi ngày Sóc, Vọng[3], hoặc thánh đản của Phật, Bồ Tát liền trực tiếp bảo ban quần thần nơi triều đình, hoặc truyền chiếu chỉ tới đại thần nơi biên cương cho đến thứ dân, làm cho họ đều hiểu rõ tự tâm, đều hướng đến đạo nghịch trần theo giác, chẳng đến nỗi bỏ uổng Phật tánh, chịu nỗi đau buồn sanh tử luân hồi oan uổng. Hoặc hạ sắc chỉ truyền các tùng lâm trong thiên hạ phải tận lực giữ Thanh Quy, tinh tu phạm hạnh, chân tham thật ngộ, minh tâm kiến tánh, ngõ hầu hoằng dương quang đại pháp đạo, hỗ trợ kế sách của vua. Lại vào những ngày sóc - vọng, ắt đích thân nâng ngọn bút sắc sảo, cung kính vẽ hình một bậc cổ đức. Trích lấy những điều chính yếu trong truyện ký của vị ấy, soạn thành tiểu truyện. Lại làm một bài tán nhằm phát huy nghĩa lý uyên áo, tự chép trên đầu bức vẽ. Cho khắc in thạch bản giữ trong đại nội, ngõ hầu làm bản mẫu dùng in rập hòng được lưu truyền. Bắt đầu từ tháng Hai năm Ung Chánh 11 cho đến tháng Ba năm Ung Chánh 13, vẽ được tổng cộng ba mươi hai vị. Đến tháng Tư, xe rồng lên làm khách cõi trời, khiến cho vô lượng cổ đức chưa tỏa được quang minh sâu thẳm, đáng tiếc lắm!

Đến năm Càn Long thứ 9 (1744), với mục đích trang hoàng, vua đem ba mươi hai cuốn trục bản rập hình Tổ ấy ban cho chùa Lý An ở Vũ Lâm[4]. Về sau, nhà chùa tu chỉnh Tự Chí bèn đem bộ truyện tán ấy đặt vào đầu sách để cảm tạ ân sủng, nhưng bộ truyện tán đó chưa được khắc thành sách. Do vậy, cõi đời chẳng được thấy nghe. Trộm nghĩ đạo phong của cổ đức trời người ngưỡng mộ, như vầng trăng vằng vặc trên không, vạn con sông đều hiện bóng. Quang minh sáng sạch, mở rộng tâm mắt con người, tự có thể đốn khai tâm địa, thấy thấu suốt bầu trời chân tánh. Lại được ngọn bút tài hoa của Thế Tông phát huy, cùng cổ đức chiếu rọi lẫn nhau thấu suốt không tỳ vết. Nếu một phen được xem đến liền thấu cội đạt nguồn, đạt được minh châu nơi chéo áo, phá trần, lìa chấp, mở được kinh quyển đại thiên. Từ đó tâm tâm tương ấn, đăng đăng tương truyền[5], khiến cho mình lẫn người cùng chứng chân thường, khiến cho phàm thánh cùng lên bờ Giác, ngõ hầu chẳng phụ Thế Tông một phen dốc ý soạn truyện. Do vậy, quyên mộ cư sĩ Ưng Quý Trung bỏ tiền khắc bản để làm của chung cho những người cùng chí hướng. Trước mỗi truyện, đặt đề mục, khiến cho vừa xem đến liền hiểu rõ ngay, cũng như chép duyên khởi để bảo cùng những người thông suốt trong tương lai.

--------------------------
[2] Truyền tân tục diệm: Truyền tân là nói tắt của “hỏa truyền tân tận” (lửa truyền củi hết), tục diệm (nối tiếp ngọn lửa) đều có ý nghĩa là kế thừa, phát huy đạo của thầy. Luân Âm có nghĩa là thánh chỉ. Thanh Thế Tông là hoàng đế nên những gì nhà vua viết được gọi là “luân âm”.

[3] Sóc: Ngày mồng Một đầu tháng, Vọng: Ngày Rằm.

[4] Chùa này tên cổ là Pháp Vũ, thuộc nằm trên núi Lý An, thuộc ngoại vi thành Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Thời Tống Lý Tông, nhằm mục đích cầu phước an dân nên đổi tên chùa thành Lý An tự. Càn Long từng sáu lượt đến thăm chùa này.

[5] Ý nói: Tâm pháp được truyền thừa từ đời này sang đời khác không đoạn tuyệt, giống như ngọn đèn này đốt nối qua ngọn đèn khác.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa sách Tịnh Nghiệp Lương Đạo

23. Lời tựa sách Tịnh Nghiệp Lương Đạo


Sa Bà là đường hiểm sanh tử. Cực Lạc là quê nhà thường trụ. Chúng sanh do một niệm bất giác, đi vào trong đường hiểm không thể thoát ra được. Dù có muốn lìa đường hiểm này trở về quê nhà, nhưng chúng sanh không có con mắt huệ chẳng biết hướng về đâu. Nếu không có người hướng dẫn tốt lành, chẳng những đi nhầm vào đường rẽ, rốt cục thành đi sai đường, lại còn phải lo sa hầm sụp hố, táng thân mất mạng nữa! Tịnh Độ ba kinh, một luận cũng như hết thảy kinh luận Đại Thừa đều là đạo sư (người dẫn đường). Nhưng do văn sâu xa, nghĩa uyên áo, kẻ sơ cơ chẳng dễ lãnh hội. Tuy là vô biên diệu nghĩa, đầy đủ không sót gì, nhưng do tâm thức ám độn nên thường nghi ngờ chẳng thể quyết đoán được, tuy có lòng tin nhưng chẳng thể phát sanh. Do vậy, cổ đức các đời đều lưu lại ngôn giáo hòng thích hợp thời tiết, căn cơ. Vì thế, pháp được lưu truyền, không úng tắc, mọi căn cơ đều được lợi lạc, cứu tế.

Cư sĩ Vô Danh tuy chưa tự độ, nhưng chí thiết tha độ người; vì thế, bèn sao lục những câu thích hợp thời cơ trong Lạc Bang Văn Loại và văn tập của các vị Liên Trì, Tử Bách, Hám Sơn, Ngẫu Ích được hơn mấy mươi thiên hòng thích ứng cho những người vừa mới nhập pháp môn. Đợi đến khi đã hiểu được đường lối, sẽ đọc toàn bộ những tác phẩm gốc, ắt biết vị của một giọt nước và vị của biển cả không hai, không khác. Đại sự nhân duyên xuất thế của đức Như Lai chỉ có một pháp Tịnh Độ mới có thể rốt ráo tỏ bày bổn hoài của Phật. Cư sĩ Vô Danh khiêm tốn, chẳng dám tự chuyên, bảo Quang giám định. Do đó, tôi bèn đặt tựa đề là Tịnh Nghiệp Lương Đạo (hướng dẫn tốt lành cho Tịnh nghiệp).
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa sách Phật Học Sơ Giai

24. Lời tựa sách Phật Học Sơ Giai


Phật pháp rộng lớn, chẳng dễ suy lường. Muốn cho đồng nhân đều được tắm gội pháp trạch thì phải do mắt thấy tai nghe sự tích nhân quả báo ứng, luân hồi sanh tử nông cạn để chỉ bảo, dẫn dụ, khiến cho họ bỏ đi cố chấp câu nệ, hư huyễn, thấy được trời đất rộng lớn hòng đoạn nghi sanh tín, càng vào càng sâu, ắt mong triệt ngộ tự tâm, khôi phục cái mình sẵn có và nương vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Lại còn đem những điều ấy giáo hóa mọi người, quyết chẳng chịu trên cô phụ sự giáo hóa của Phật, dưới chẳng phụ tánh linh của chính mình, bao kiếp cam chịu sanh tử luân hồi khổ độc. Cư sĩ Đinh Phước Bảo thệ nguyện hoằng thâm, từ bi rộng lớn, muốn cho dân chúng đều lên được bờ giác; nhân đó, bèn thâu thập những chuyện nhân quả luân hồi, công đức của Tam Bảo, lợi ích của Tịnh Độ từ di tập của các bậc danh hiền Tăng - tục cũng như từ kinh luận của Phật, Tổ, soạn thành sách, đặt tên là Phật Học Sơ Giai (bước đầu học Phật), mong cho độc giả nhân đây bèn tìm cầu, đối với đại pháp chẳng thể nghĩ bàn “đoạn Hoặc chứng Chân, từ phàm thành thánh” đều tự đạt được, thật sự thực hiện được. So với những bộ sách ông đã soạn trước đây như Phật Học Chỉ Nam, Phật Học Khởi Tín Biên, và Lục Đạo Luân Hồi Lục thì tuy chi tiết hay giản lược khác nhau, nhưng cốt yếu đều nhằm tạo bậc thang cho người mới học mà thôi! Nếu là bậc trượng phu quyết liệt, ắt phải đăng phong tạo cực[6], quyết chẳng đến nỗi vạch đất tự hạn chế để hòng được yên ổn chẳng muốn tiến lên nữa!

---------------------------
[6] Đăng phong tạo cực : Đạt đến cảnh giới tuyệt đỉnh
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa sách Thích Giáo Tam Tự Kinh

25. Lời tựa sách Thích Giáo Tam Tự Kinh

(viết thay cho Xuy Vạn Lão Nhân Thích Quảng Chân[7] chùa Tụ Vân ở Trung Châu, Thục Đông, thời Thiên Khải nhà Minh)


Con người có cùng một cái tâm, tâm có cùng một lý ấy, phàm - thánh chẳng hai, chúng sanh và Phật như một, do mê - ngộ sai khác đến nỗi thăng - trầm thật khác biệt. Đại Giác Thế Tôn xót thương, thị hiện thành Chánh Giác, chuyển đại pháp luân. Vốn từ nhất tâm mà tạo dựng bè báu trong bến mê, muốn cho khắp đời vị lai đều lên bờ đạo. Do vậy, đem những gì đã giảng trong Ngũ Thời Giáo[8] và ý chỉ “truyền riêng ngoài Giáo” giao cho các đệ tử, sai lưu thông rộng rãi. Do vậy, chư Tổ các tông nối tiếp nhau hưng khởi, hoằng Tông diễn Giáo, thay Phật hoằng dương, giáo hóa. Đến nay lâu đời nhiều năm, sự nhiều nghĩa rộng, nếu chẳng đọc thấu hiểu Đại Tạng diệu ngộ tự tâm, sẽ không thể nào suy lường đầu mối, nắm được cương yếu. Tôi thường muốn tóm lược đại khái để chỉ bảo hàng hậu tấn, do nghĩ đến tiên sinh Vương Bá Hậu[9] thời Tống Nho soạn sách Tam Tự Kinh để tóm tắt đạo luân thường, xử thế hằng ngày và những chuyện tích thái bình hay loạn lạc của các đời, khiến cho người học trước là biết được đại lược, về sau sẽ dần dần hiểu rộng. Tuổi thơ học đến, lớn lên thực hành, lập thân hành đạo, thờ vua, giúp dân, khôi phục điều thiện sẵn có trong tâm tánh con người.

Do vậy bèn phỏng theo ý đó, thuật đại lược chuyện Như Lai giáng sanh, thành đạo, thuyết pháp độ sanh, chư Tổ tiếp nối huệ mạng Phật, tùy cơ lập giáo, cũng như những lời hay hạnh đẹp tự lợi, lợi người của chư cổ đức, đặt tên là Thích Giáo Tam Tự Kinh, để khi còn làm sa-di[10], đọc tụng, tu tập, biết những nghĩa trọng yếu của kinh Phật, hiểu rõ cương tông của đạo Tổ. Lớn lên, xem khắp Tam Tạng, tham học khắp năm tông, diệu ngộ tự tâm, thầm hợp Phật ý, mới biết: “Sắc núi, tiếng khe đều chỉ bày Đệ Nhất Nghĩa Đế; quạ kêu, sẻ hót cùng nói vô thượng tâm tông”. Chẳng đồng, chẳng khác, chẳng có, chẳng không, vừa là Quyền, vừa là Thật, vừa là Tục, vừa là Chân. Rộng thì tột cùng hư không chẳng thể chứa đựng được, gọn thì tìm lấy một chữ cũng không thể được. Sau đấy, nương đại nguyện luân, xiển dương pháp hóa, khiến cho pháp giới chúng sanh quy y Nhất Thể Tam Bảo, khôi phục mặt mũi vốn có, truyền vô tận tâm đăng. Đấy chính là điều tôi thường mong mỏi hàng hậu tấn phát tâm tu tập vậy!

-------------------------------------
[7] Xuy Vạn Lão Nhân Thích Quảng Chân (1582-1639), pháp hiệu Tụ Vân, người xứ Tứ Xuyên, đắc pháp nơi Thụy Trì Nguyệt hòa thượng, thuộc pháp hệ đời thứ hai mươi tám của ngài Nam Nhạc. Thiên Khải là một niên hiệu của Minh Hy Tông kéo dài từ năm 1621 đến năm 1627.

[8] Ngũ thời giáo là năm giai đoạn thuyết pháp của đức Phật: Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, và Pháp Hoa - Niết Bàn.

[9] Vương Bá Hậu là tên tự của Vương Ứng Lân (1223-1296), hiệu là Thâm Ninh Cư Sĩ. Ông sống vào thời Nam Tống, vốn quê quán tại Khai Phong, sau đổi sang sống tại Khánh Nguyên (nay thuộc Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang), đỗ tiến sĩ, làm đến chức Thái Thường Tự Chủ Bạ, nhưng do nói lời thẳng nên bị cách chức. Sau được bổ làm Thông Phán Thai Châu, rồi làm Thị Giảng kiêm Bí Thư Thiếu Giám. Vì Giả Tự Đạo đố kỵ, ông lại bị đổi đi Huy Châu, đến khi Giả Tự Đạo mất chức mới chuyển về giữ chức Lễ Bộ Thượng Thư kiêm Cấp Sự Trung. Ông rất tinh thông kinh sử, địa lý, thông thuộc các điển chế, khảo cứu tỉ mỉ, tác phẩm có những cuốn nổi tiếng như Ngọc Hải, Ngọc Đường Loại Cảo, Thi Địa Lý Khảo, Thâm Ninh Tập v.v…, nhưng tác phẩm nổi tiếng hơn cả vẫn là Tam Tự Kinh.

[10] Sa-di: Tiếng Phạn là Sramanekara hoặc Sramanera; phiên đủ âm là Thất La Ma Noa Lạc Ca, hoặc Thất La Mạt Ni La. Dịch ý là Cầu Tịch, Pháp Công, Tức Ác (dứt sự ác), Cần Sách (siêng năng, gắng công), nói chung có nghĩa là: Dứt ác, hành thiện, cầu chứng viên tịch. Trong Tăng đoàn, Sa-di là người thọ mười giới, chưa thọ Cụ Túc Giới, ít nhất từ bảy tuổi trở lên. Nữ gọi là Sa-di-ni. Ngoài mười giới căn bản, Sa-di phải vâng giữ 14 sự và 72 oai nghi. Riêng ở Nhật Bản, do giới luật suy bại, còn có cái gọi là “tại gia Sa-di”, tức là kẻ tu hành đã xuống tóc, thọ giới nhưng vẫn có vợ con. Trong một số tông phái như Nhật Liên Tông, Tịnh Độ Chân Tông, những hòa thượng, đại đức của họ thậm chí còn không cạo đầu, không mặc áo tu. Chỉ khi nào làm lễ mới mặc pháp y. Đa số tăng sĩ Nhật Bản có vợ con.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa cho tập Mô Tượng Thi của cư sĩ Lưu Viên Chiếu

26. Lời tựa cho tập Mô Tượng Thi của cư sĩ Lưu Viên Chiếu

(do ông ta khắc con dấu có chữ Chiếu trong vòng tròn nên mở đầu vẽ một hình tròn)


O Một đoạn quang minh này chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải thánh, chẳng phải phàm, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, cổ kim thường hằng, chiếu trời soi đất. Khi Phật chưa xuất thế, lúc Tổ chưa từ trời Tây qua, ai nấy vẫn sẵn đủ, chẳng thiếu chẳng thừa. Hiềm rằng chúng sanh đang mê, ôm của báu mà chịu túng quẫn, ngược ngạo dùng ánh sáng chiếu trời soi đất này để khởi Hoặc tạo nghiệp, luân hồi sáu nẻo. Do vậy, đức Thế Tôn muốn lập cách tế độ, thị hiện thành Chánh Giác, vào lúc cuối đêm thấy sao Mai, hoát nhiên đại ngộ, bèn than thở: “Lạ thay! Lạ thay! Hết thảy chúng sanh có đủ trí huệ, đức tướng của Như Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp trước mà chẳng chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng, chấp trước thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí đều được hiện tiền”. Do vậy, tùy cơ giáo hóa, đối bệnh phát thuốc.

Do chúng sanh căn cơ chẳng giống nhau, nên Ngài nói ra pháp Tiệm hay Đốn, hoặc Thật, hoặc Quyền, đủ mọi thứ bất đồng. Tuy lập ra các phương tiện, nhưng không gì chẳng nhằm uyển chuyển dẫn dụ chúng sanh, khiến cho ai nấy đều triệt chứng tâm quang này, rốt ráo thành Phật mới thôi! Đấy chính là “lời thô, lẽ tế đều quy về Đệ Nhất Nghĩa. Thoạt đầu thì ngàn căn cơ đều vun bồi, cuối cùng thì đồng quy một đạo”. Lại do chúng sanh độn căn nếu chẳng liễu thoát ngay trong một đời này thì luân hồi sanh tử hoàn toàn không thể chấm dứt được. Vì thế, đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật để người chưa đoạn Hoặc nương vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh, người đã đoạn Hoặc nương theo Phật từ lực mau chứng được Pháp Thân; khiến cho khắp thượng trung hạ căn dù thánh hay phàm cùng chứng chân thường, sanh lên bờ kia, phô bày cùng cực bản hoài xuất thế của Như Lai, triệt để đạt được Phật tánh chúng sanh sẵn có. Cao đẹp thay ân Phật, hết kiếp không thể khen ngợi trọn vẹn!

Đến khi đại giáo truyền sang Đông, pháp này bèn được gọi là Liên Tông do pháp này niệm Phật cầu sanh Tây Phương, liên hoa hóa sanh, được dự vào Liên Trì Hải Hội, thân cận Di Đà Thế Tôn và Quán Âm, Thế Chí, các thượng thiện nhân. Về sau, tổ Đạt Ma từ Tây Vực qua truyền Phật tâm ấn, chỉ thẳng tâm người, kiến tánh thành Phật. Nhưng chỗ thấy biết, thành tựu của pháp ấy chính là chỉ ra Phật tánh thiên chân sẵn có trong tâm chúng ta, khiến cho con người trước hết biết được cái gốc thì hết thảy các pháp tu chứng sẽ tự có thể nương theo đó để tiến hướng, cho đến khi tu cái không thể tu, chứng cái không thể chứng mới thôi! Chứ không có nghĩa là hễ ngộ liền được phước huệ đều vẹn toàn, viên mãn Bồ Đề, rốt ráo Phật đạo đâu nhé! Ví như vẽ rồng điểm mắt khiến cho tự được thụ dụng. Do vậy pháp này thạnh hành nơi Chấn Đán, rực rỡ, rạng ngời, đạo “tâm này chính là Phật”, pháp “không phải tâm, không phải Phật” phổ biến khắp hoàn vũ. Người căn cơ thiên bẩm sâu dầy thì đối với mỗi một cơ, một cảnh, hễ biết được đầu mối thì nói lời, thốt lẽ, tự lìa khuôn sáo, vào sanh ra tử trọn chẳng vướng mắc, được đại giải thoát, được đại tự tại vậy! Nếu căn cơ hơi kém, dẫu được đại ngộ, nhưng phiền não tập khí chưa thể đoạn sạch thì vẫn là người trong sanh tử, xuất thai cách ấm, đa phần mê mất. Bậc đại ngộ hãy còn như thế, huống chi kẻ chưa ngộ!

Do đó, hãy nên chuyên tâm dốc chí nơi pháp môn Tịnh Độ cậy vào Phật từ lực mới là kế sách ngàn vạn phần ổn thỏa thích đáng vậy. Cư sĩ Lưu Viên Chiếu túc căn sâu dầy, hiện tu tập tinh thuần, đối với hai tông Thiền - Tịnh đều nắm được yếu chỉ, nhưng coi trọng pháp môn Niệm Phật là đạo tự lợi, lợi người rốt ráo. Mỗi khi có cảm xúc bèn thể hiện qua thi ca, ghi chép lại được 108 bài, đặt tên là Mô Tượng (sờ voi, ý nói chỉ sờ soạng, phỏng đoán, không hiểu rõ hoàn toàn); bởi lẽ đại đạo vô ngằn, há có thể dùng một lời tầm thường để diễn tả trọn vẹn được nổi ư? Bất quá mượn ý để diễn tả đó thôi. Con ông ta và họ hàng muốn cho hậu thế đều được hưởng nhờ, toan đưa thi tập này vào gia phả, nhờ Quang thuật đại ý để bảo cùng người đời sau.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa cho bản đúc kẽm lưu thông cuốn Phật Học Thuật Yếu

27. Lời tựa cho bản đúc kẽm lưu thông cuốn Phật Học Thuật Yếu


Từ khi Phật pháp truyền vào Trung Quốc đã hơn một ngàn tám trăm năm, dù Tăng hay tục, dù nam hay nữ, những người thâm nhập Kinh Tạng, triệt ngộ tự tâm kể sao cho xiết! Ấy là vì Chân Như Phật tánh ai nấy sẵn có, chỉ vì mê không giác, ngay từ đầu chẳng mất, đến khi được nghe ngôn giáo của Như Lai, được hàng tri thức chỉ dạy liền biết hạt châu nơi chéo áo, Phật tánh luôn tồn tại, chẳng lìa đương xứ được đại tự tại, tự lợi, lợi người, thọ dụng vô tận. Thiên Thai Trần Cần Tiên nữ sĩ xưa có huệ căn, đối với các tông Thiên Thai, Thiền, Tánh, Tướng, Tịnh Độ đều biết được chỗ sâu thẳm, nhưng lại riêng khen ngợi Tịnh Độ, mong cho hết thảy những ai chẳng thể triệt ngộ tự tâm, đoạn Hoặc chứng chân sẽ ngay trong một đời này liền đạt lên địa vị A Bệ Bạt Trí. Cũng có thể gọi là “đối với cái rộng rãi nắm được cái chánh yếu, đối với pháp rộng sâu biết được điều quan trọng”, những điều được phát huy đều khế hợp cả lý lẫn căn cơ. Tuy sao lục từ nhiều chỗ tạo thành tác phẩm, nhưng giống như rải tiền trong một nhà, đồng nào đồng nấy dính thành một chuỗi, khiến cho người dùng có thể cầm lấy ngay được. Đối với những ngã ba sông, đường rẽ đều nêu bày tường tận, khiến cho hành giả mạnh mẽ tiến thẳng tới trước, cũng chẳng thể nói là không có công lao gì!

Tiếc rằng con bà là Viên Thọ Tuân căn tánh chẳng được như mẹ! Đối với trước thuật của mẹ hoàn toàn không hiểu biết, muốn sao lục để lưu truyền, nhưng cứ lăm lăm trích yếu rút gọn. Không biết chỗ nào nên rút gọn, chỗ nào không nên rút gọn. Chẳng nên rút gọn mà cứ rút gọn bừa thì có khi bị khuyết điểm ý nghĩa không rõ ràng, phép hành văn không thích hợp. Đã thế lại còn sai ngoa đầy dẫy, đến nỗi có rất nhiều chỗ từ ngữ chẳng thể hiện được ý nghĩa. Đủ thấy đạo này phải có thiện căn mới có thể chứng nhập thù thắng được. Nếu không, dẫu chí thân như mẹ với con, cũng chẳng thể truyền được! Cư sĩ Tôn Ngọc Tiên ở Phụng Hóa muốn đúc bản kẽm lưu thông, ngõ hầu bậc tu mi trượng phu, khuê các anh hiền cùng phát tâm mong được bằng bà ta, cùng chứng Phật tánh vốn có, nên ủy thác Quang giám định. Nhân đó, sửa cho đúng chỗ sai ngoa, bỏ những câu sai chỗ, đặt tựa đề là Phật Học Thuật Yếu vậy!
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa tái bản cuốn Cách Ngôn Liên Bích

28. Lời tựa tái bản cuốn Cách Ngôn Liên Bích


Sở dĩ con người cùng với trời đất xưng là Tam Tài là vì có thể cách vật trí tri, khắc kỷ, giữ lễ để làm sáng tỏ cái Minh Đức, đạt đến chí thiện. Bỏ đi điều này thì chỉ là một phường có huyết khí[11] mà thôi, sao có thể đứng chung với trời đất xưng là Tam Tài cho được? Mạnh Tử cho rằng “Lúc đêm tối không duy trì được đầy đủ những ý niệm trong sạch thì chẳng khác gì cầm thú cho mấy!”[12] Lại còn bảo: “Nguyên do để con người khác với cầm thú rất nhỏ nhặt, kẻ hèn bỏ đi, quân tử giữ lấy”[13]. Do vậy biết rằng: Nếu mặc tình phóng túng làm càn làm quấy thì chẳng qua mang danh con người, chứ chẳng khác gì cầm thú, có thể còn kém hơn!

“Cách vật trí tri” chính là tâm pháp được truyền dạy bởi chư thánh. Coi nhân dục (lòng ham muốn của con người) là vật, bởi nó sanh khởi từ ngoại cảnh, ắt phải cách trừ (trừ khử) cho sạch thì lương tri sẵn có trong tâm tánh mới có thể hiển hiện toàn thể. Lương tri đã có thì đức phải sáng. Cách vật và trí tri đều là nhằm để làm sáng tỏ cái Minh Đức! Minh Đức đã sáng thì chính là dùng ý thành tâm chánh để tu thân vậy. Đây chính là chuyện thất phu thất phụ đều có thể làm được! Nếu hiểu “cách vật trí tri” là “thúc đẩy sự hiểu biết của chúng ta đối với cái lý của mọi sự vật trong khắp cùng thiên hạ đến tận cùng” thì đó chỉ là hiểu nơi cành ngọn, không phải là cội gốc. Tuy là thánh nhân vẫn có những điều không thể làm được. Làm sáng tỏ được Minh Đức thì riêng thân mình thiện. Nếu có địa vị hành đạo thì dùng tiên giác để giác ngộ hậu giác, khiến cho thiên hạ cùng thiện. Chúng ta chưa thể trừ sạch lòng ham muốn của con người, [khiến cho] thiên lý lưu hành thì cần phải học biết nhiều về những lời lẽ hành vi của cổ nhân, dùng đó để hướng dẫn tiền đồ, hằng ngày đọc tụng suy nghĩ, cốt sao lỗi càng ngày càng ít, đức càng ngày càng cao cho đến khi đức thuần không còn lỗi mới thôi.

Tăng Tử lúc lâm chung còn nói: “Dè dặt kinh sợ như vào vực sâu, như đi trên băng mỏng. Từ nay trở đi, ta biết mình mới tránh khỏi được!” Cừ Bá Ngọc năm 50 tuổi, biết 49 năm trước sai trái. Khổng Tử còn buồn bản thân đức chưa tu, học chưa hiểu thấu, nghe được điều nghĩa chưa thể thực hiện, điều bất thiện chưa thể sửa đổi! Đến năm 70 tuổi, còn mong trời cho sống thêm vài năm để học kinh Dịch hòng tránh khỏi lỗi lớn. Tuy nói là dùng thân để thuyết pháp hòng khuyến khích hậu tấn, nhưng thật ra đã thuộc vào công phu cách vật trí tri của thánh hiền, gắng sức không ngơi, không lúc nào nghĩ là đã xong xuôi!

Tiên sinh Kim Lan Sanh ở Sơn Âm[14] thâu thập những câu nói răn nhắc thân tâm của tiên hiền, soạn thành sách Cách Ngôn Liên Bích, khiến cho người học như vào núi báu, tùy ý thu thập. Công ấy quả thật chẳng cạn nhỏ! Cư sĩ Trương Thụy Tăng ở Duy Dương từ nhỏ đã coi sách này là khuôn phép chánh yếu, tiếp đó muốn cho sách được truyền bá rộng rãi cho mọi người, bèn giảo đính tường tận, dùng phương pháp bao biếm khuyên điểm[15], chỉ rõ những điều nào nên bắt chước theo, điều nào nên kiêng tránh, khiến cho người đọc đỡ phí tâm lực vẫn biết được nên chọn lấy và nên bỏ bớt những điều nào. Dụng tâm có thể nói thật là thiết tha. Khắc in xong, nhờ tôi viết lời tựa. Do vậy, tôi bèn lược thuật danh nghĩa của chữ Tam Tài và công phu cách vật trí tri của thánh hiền, nhằm giúp sáng tỏ những điều đã được nói đến trong tập sách này, khiến cho người học nắm được công phu thân thiết để hạ thủ, tiến tu đức chẳng ngơi, đáng sánh cùng trời - đất mới thôi. Người có đủ con mắt ắt chẳng cho lời tôi là trái lẽ, sai bậy vậy!

---------------------------------
[11] Ý nói chỉ là một sinh vật bình thường, không khác gì những động vật khác.

[12] Nguyên văn: “Dạ khí bất túc dĩ tồn giả, vi vi cầm thú bất viễn”. Theo Tứ Thư Bạch Thoại Chú Giải của Thường Thục Châu và Lân Công Chấn thì câu này trích từ thiên Cáo Tử của sách Mạnh Tử. Trong thiên sách này, Mạnh Tử dùng ví dụ: Cây cối ở núi Ngưu gần thành Lâm Truy nước Tề do bị người ta chặt phá, trâu dê ăn lá nên núi trơ trụi. Cũng giống như thế, con người vốn không phải không có tâm nhân nghĩa, nhưng do buông lung nên lương tâm cũng điêu tàn giống như hằng ngày bị rìu búa chặt. Trong cư xử hằng ngày, lúc đêm thanh phải phản tỉnh, khôi phục “thanh khí” (tức những tâm niệm tốt đẹp). Nếu như trong đêm tối không khôi phục lại được thanh khí đầy đủ thì có khác gì loài vật đâu!

[13] Nguyên văn: “Nhân chi sở dĩ dị vu cầm thú giả cơ hy. Thứ dân khứ chi, quân tử tồn chi”. Sách Mạnh Tử Tập Chú của Châu Hy giảng: “Cơ hy là ít ỏi. Con người và loài vật cùng được hưởng lý thiên địa tạo thành tánh, cùng được hưởng khí của thiên địa nên có hình hài. Riêng mình con người được thừa hưởng hình khí chánh đáng, lại có thể toàn vẹn tánh mình. Đấy chính là chỗ khác biệt rất nhỏ nhặt. Tuy là nhỏ nhặt, nhưng con người và loài vật chỉ khác biệt ở chỗ ấy. Kẻ hèn không biết, bỏ qua, nên tuy gọi là người nhưng thật ra chẳng khác gì cầm thú. Quân tử do biết nên vâng giữ. Do kinh sợ dè dặt, cho nên hưởng được toàn vẹn lý vậy!”

[14] Sơn Âm thuộc huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang.

[15] Bao biếm khuyên điểm: Bao là khen ngợi, biếm là chê trách, khuyên là khoanh một vòng tròn, điểm là chấm một chấm bên cạnh. Tức là những chỗ hay dở đều ghi ký hiệu để đánh giá, nhận định.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20/3/07
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa tái bản sách Bất Khả Lục

29. Lời tựa tái bản sách Bất Khả Lục

Cái họa nữ sắc cực kỳ khốc liệt. Từ xưa đến nay do họa này mà nước mất nhà tan, diệt thân tuyệt tự biết là bao nhiêu! Dẫu chưa đến nỗi ấy, nhưng trong số đó, những kẻ thân đang khỏe mạnh trở thành suy nhược, chí đang sáng suốt thành hôn ám, biến tư chất đội trời đạp đất, mong thành thánh thành hiền biến thành hạng tầm thường hèn tệ, không có chí lập thân, làm sao tính kể được nổi? Huống chi những kẻ nghịch thiên lý, loạn nhân luân, sống làm loài cầm thú mặc áo, đội mũ, chết đọa trong tam đồ ác đạo, làm sao có thể thấy hết, biết hết cho được? Ôi! Cái họa nữ sắc sao mà khốc liệt đến mức cùng cực như vậy! Do đó, chư thánh chư hiền đặc biệt từ bi thương xót hoặc dùng lời cứng rắn để răn dạy, hoặc dùng lời nhẹ nhàng để khuyên bảo, ngõ hầu cả cõi đời đều biết được lý “phước thiện họa dâm”. Lại còn nêu ra các sự thực để răn dạy ngõ hầu những ai biết tự ái đọc đến ắt sẽ sợ sệt, kinh hoảng, hiểu ra, cạn dòng lũ nhân dục, khôi phục thiên lương sắp diệt. Từ đấy, hết thảy đồng luân đều hưởng phước giàu thọ khỏe mạnh, bình yên, vĩnh viễn lìa khỏi họa nghèo bệnh, chết yểu. Đây chính là lý do bộ Bất Khả Lục được soạn tập. Cư sĩ Trương Thụy Tăng muốn khắc lại để ấn thí, bảo tôi viết lời tựa nhằm phô bày nghĩa trọng yếu của việc bớt dục.

Phải biết: Đối trước sắc đẹp, dục tâm bừng bừng thì lời lẽ khuyên răn nhân quả báo ứng đều khó thể đoạn tâm ái. Nếu [lúc ấy] có thể quán bất tịnh thì một trận lửa dục sẽ băng tiêu ngay lập tức. Con em đất Trường An ở xứ Tần (Thiểm Tây) của tôi phần nhiều thích chơi dế. Có ba anh em tuổi đã choai choai, đêm trăng đi bắt dế nơi gò mả, chợt thấy một thiếu phụ, nhan sắc tuyệt vời, bèn cùng đuổi theo. Người thiếu phụ ấy khuôn mặt biến đổi, thất khiếu[16] ứa máu, lưỡi thè ra hơn cả thước, ba đứa nó sợ chết ngất. Ngày hôm sau người nhà đi tìm, cứu sống được một đứa, mới biết chuyện ấy. Đứa còn sống bệnh nặng mấy tháng mới khỏi, con cháu nhà ấy chẳng dám đi bắt dế vào ban đêm nữa! Khi thiếu phụ đó chưa biến đổi khuôn mặt thì lòng yêu nhập vào xương tủy, không thỏa lòng dục không xong! Đến khi mặt đã biến đổi thì kinh hãi đến chết, tâm ái chẳng hề còn nữa! Nhưng trong lúc chúng cùng nhau đuổi theo cô ta ấy, đương nhiên chưa thấy máu và lưỡi thè ra. Sao khi máu chưa chảy, lưỡi còn ngậm bèn sanh tâm ái; lúc máu chảy, lưỡi thè ra lại sanh tâm sợ? Hiểu rõ điều này, hễ thấy trang sắc nước hương trời đều tưởng như con quỷ treo cổ thất khiếu tuôn máu, lưỡi thè ra hơn thước, sao đến nỗi bị sắc làm mê, sống chẳng hưởng hết tuổi trời, chết đi bị đọa vĩnh viễn trong đường ác ư?

Do vậy, Như Lai dạy kẻ ái dục nặng nề quán bất tịnh. Quán lâu ngày còn có thể đoạn Hoặc chứng chân, siêu phàm nhập thánh, chứ phải đâu chỉ không phạm tà dâm, tiết dục, gìn giữ sanh mạng mà thôi ư? Nữ nhân nhan sắc xinh đẹp yêu kiều khiến người ta sanh tâm ái, hành dục sự, chẳng qua chỉ là một tấm da mỏng bên ngoài, rực rỡ diễm lệ gây mê hoặc đó thôi! Nếu bóc lớp da mỏng ấy đi thì chẳng những các vật được bọc trong lớp da ấy chẳng thể yêu mến được, mà ngay cả lớp da mỏng ấy cũng tuyệt đối không thể yêu luyến nổi! Nếu lại còn mổ xẻ thân ra thì chỉ thấy máu mủ dầm dề, xương thịt chằng chịt, tạng phủ phân tiểu bầy hầy khắp đất, hôi dơ tanh tưởi, chẳng nỡ thấy nghe. So với hình dáng biến đổi của thiếu phụ trên đây còn đáng sợ hãi, chán ghét hơn trăm ngàn lần!

Dẫu cho giai nhân tuyệt thế nghiêng nước đổ thành thì những vật được chứa trong lớp da mỏng có ai là không như vậy đâu? Sao con người chỉ nhìn cái vẻ bên ngoài, chẳng xét kỹ nội dung? Yêu chút phần sắc đẹp, chẳng tính đến nhiều phần xấu ác? Tôi mong sao thế nhân bỏ vẻ bên ngoài, hãy xem xét nội dung, chán cái “nhiều xấu ác” để bỏ chút vẻ đẹp, hòng cùng thoát biển dục, cùng lên bờ giác. Lại trong lúc dâm dục hừng hực, không thể chế ngự, chỉ nên nghĩ nữ âm[17] như miệng rắn độc, như đem nam căn bỏ vào miệng rắn, tâm thần kinh hoảng, xương tóc run rẩy. Vô biên nhiệt não sẽ nguội lạnh ngay lập tức! Đấy chính là phương pháp diệt dục giản dị nhất vậy!

-----------------------------------------------
[16] Hai mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi và miệng gọi chung là thất khiếu.

[17] Nữ âm: bộ phận sinh dục của người nữ.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

TOP 5 Tài Thí

Bên trên