Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Sớ quyên mộ tu bổ điện Tam Thánh chùa Thượng Phương Quảng núi Thiên Thai

11. Sớ quyên mộ tu bổ điện Tam Thánh chùa Thượng Phương Quảng núi Thiên Thai

Thiên Thai là đệ nhất danh sơn vùng Đông Nam, Thượng Phương Quảng chính là cổ tự khai sơn bậc nhất của Thiên Thai. Truy nguyên, kể từ khi tôn giả Đàm Du đời Tấn[39] dùng thần thông đạo lực hàng phục sơn thần, khai sơn dựng nên chùa này. Thoạt đầu chùa có tên là Thạch Kiều Tự, do chùa ở gần bên cầu đá. Qua khỏi cầu đá có chùa Phương Quảng, tức là thánh tự của năm trăm bậc Ứng Chân ở nhờ. Nếu không phải là bậc Ứng Chân gần đạo sẽ không thể thấy được. Ngài Đàm Du từng vào chùa này, thọ trai rồi ra, biết đó là sự thị hiện vô ngại của các vị Ứng Chân. Về sau, do hâm mộ thắng tích của những bậc Ứng Chân bèn gọi chùa Thạch Kiều là Phương Quảng.

Chỗ cao nhất trong chùa Phương Quảng là điện Tây Phương Tam Thánh, trước kia là Niệm Phật Đường, ba gian chánh điện thờ tượng Tam Thánh, để làm chỗ lễ niệm. Hai gian hai bên dùng làm chỗ an trụ cho những vị Tăng niệm Phật. Trộm nghĩ pháp môn vô lượng, đều phải đoạn hết Kiến Hoặc mới có thể liễu sanh thoát tử, chỉ riêng pháp Niệm Phật chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha thì đều có thể nương vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Do vậy, những bậc cao nhân lỗi lạc xưa nay không vị nào chẳng chú trọng pháp này, tự hành, dạy người, ngõ hầu hết thảy đồng nhân đều được siêu phàm nhập thánh ngay trong một đời này.

Điện Tam Thánh của chùa Phương Quảng trải qua năm tháng lâu xa, rường cột mục nát, lẽ ra phải trùng tu từ lâu, hiềm rằng trụ trì không đủ tài lực, đành phải đợi thời cơ. Đầu tháng Ba năm nay, có một vị khách Tăng đến trụ nơi đó niệm Phật, khá là siêng năng, khẩn thiết, đến đêm mồng Bốn tháng Tư tự thiêu thân nơi điện Tam Thánh. Đến khi mọi người trong chùa biết được thì ngọn lửa đã cháy to, không cách gì cứu chữa được. Nhưng may là chỉ cháy nơi ấy, những nơi khác không bị ảnh hưởng. Không biết có phải là vị Tăng ấy muốn sửa mới điện ấy nên làm như vậy? Hay là những vị linh thiêng nơi núi ấy muốn tu bổ chùa nên mới xui khiến vị Tăng ấy làm như vậy? Hay là Phật, Bồ Tát, năm trăm vị Ứng Chân muốn hoằng dương pháp môn Tịnh Độ lớn lao để hết thảy các thiện tín bỏ tiền của giúp trùng tu, cùng nhờ vào thiện căn này thoát khỏi cõi khổ Sa Bà, sanh về Cực Lạc thế giới, mà xui khiến vị Tăng ấy làm như thế?

Nay Trụ Trì muốn trùng tu, nhờ Quang viết sớ, thuật chuyện khai sơn dựng chùa và chuyện điện ấy đáng lẽ phải được trùng tu từ lâu, gặp nhân duyên này, bèn mong hết thảy đàn-việt nghĩ đến chỗ mầu nhiệm khế lý khế cơ của pháp môn Tịnh Độ, lòng thành vì pháp tổn thân của vị Tăng ấy, ai nấy đều bỏ ra tịnh tài giúp cho công việc thù thắng này. Công đức ấy chỉ có Phật mới có thể biết được!

--------------------------------
[39] Theo Cao Tăng Truyện, Đàm Du (còn có tên là Pháp Du, Bạch Đạo Du), người xứ Đôn Hoàng, bỏ nhà xuất gia năm 20 tuổi. Sau Ngài xuống miền Giang Đông, trụ tại núi Thạch Thành, khất thực tu hành. Sau Ngài dời đến núi Xích Thành. Ngài vào núi Thiên Thai trong niên hiệu Hưng Ninh (363-365) thời Đông Tấn chuyên tu Thiền Định. Khi Ngài tụng kinh trong hang núi, khoảng mười mấy con hổ vây quanh hang, gầm rú, Sư vẫn an tường tụng kinh. Từng con cọp nằm phục trước hang, Sư cứ tụng kinh mãi không ngừng, mặt trời dần dần xế bóng, cọp ngủ gục trước hang. Sư cầm cây như ý gõ nhẹ vào đầu cọp quở: “Nghiệt chướng! Sao chẳng chịu nghe kinh?” Cọp chồm dậy, Sư lại tụng kinh tiếp. Không lâu sau, từng đàn rắn lớn bò tới quấn quanh cửa hang, ngẩng cổ nhìn. Nghe mãi rắn mệt cũng từ từ bỏ đi. Đến ngày thứ hai, sơn thần hiện thân thưa hỏi:

- Pháp sư oai nghi, phong thái nghiêm túc, đức hạnh khác người, đã đến nơi đây, đệ tử xin dâng nhà cửa! Sư nói:

- Bần tăng ở nhờ núi này, chỉ xin một miếng đất chừng một trượng vuông. Ông đến khiến tôi vui lắm, sao không ở lại?

- Con thì không nói làm gì, nhưng thuộc hạ chưa được đại pháp thuần hóa, rất khó cai quản, Ngài là người từ xa đến, đi ra ngoài khó tránh khỏi bị chúng xâm phạm. Thần và người không cùng một đường, đệ tử không thể thường ở bên thầy được!

- Ông là thần phương nào? Trụ nơi đâu bao lâu rồi? Sẽ dời đi đâu?

- Con vốn là con trai của Hạ Đế, đã sống ở đây hơn hai ngàn năm rồi. Núi Hàn Thạch là chỗ cậu con ở, con sẽ dời sang đó.
Nói xong, thần triệu tập thuộc hạ bay lên mây bỏ đi. Không lâu sau, tiếng tăm Sư lan rộng, người học Thiền tìm đến. Trong núi có cây cầu đá, rêu phủ đầy vừa trơn vừa ướt, vì thế từ không ai dám trèo lên. Sư đến gần khu vực có cầu đá, chợt nghe trên không có tiếng nói: “Biết ngươi lòng tin tưởng kiền thành, chuyên dốc, nhưng hiện thời ngươi chưa qua được, 10 năm nữa hãy lại đến đây!” Lúc đó, trời đã tối, Sư nghỉ lại qua đêm, mơ hồ nghe thấy những âm thanh giống như đang có pháp sự tụng niệm cử hành. Sáng ra, Sư dò dẫm lên đường, đi nửa đường gặp một ông lão tóc lẫn lông mày trắng muốt, hỏi Sư đang đi đâu. Sư thuật đầu đuôi, ông lão nói: “Thầy là người có thân thể hữu sanh hữu tử. Đi tiếp chẳng phải là đón nhận cái chết ư? Ta là sơn thần đến khuyên ngăn thầy!” Đàm Du đành quay về, giữa đường thấy một cái hang đá, bèn vào nghỉ trong ấy, chợt chim ở đâu tụ lại trong hang nhiều vô kể, kêu la ầm ĩ. Sư vẫn thản nhiên, không sợ hãi. Ngày hôm sau, có một người đầu bịt khăn, mặc áo đơn, đến bảo: “Đây là chỗ ở của bỉ nhân, ngày hôm qua vắng nhà khiến thầy bị khuấy nhiễu, thật thẹn hãi sâu xa!” Đàm Du bảo: “Nếu đây là nhà ông, xin hãy dọn đi nơi khác”. Thần nói: “Con đã dọn rồi, xin Sư cứ ở!” Đàm Du ở lại đó mấy ngày. Sư trai giới thanh tịnh mấy ngày, rồi lại đến bên cầu đá, chợt thấy thạch động nứt ra, thấy tinh xá Phương Quảng và các thần tăng, liền tiến đến dâng hương, được họ đãi ăn. Ăn xong, thần tăng bảo: “Mười năm nữa, ông sẽ tự nhiên đến được nơi đây. Bây giờ chưa thể lưu lại được, hãy về đi!” Sư trở ra, nhìn lại đã thành chốn hoang vu như cũ. Năm trăm vị Ứng Chân chính là năm trăm vị La Hán trong ngôi chùa nơi cầu đá.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Sớ quyên mộ tu bổ đại điện Bán Sơn Am ở Phổ Đà Sơn (soạn giùm)

12. Sớ quyên mộ tu bổ đại điện Bán Sơn Am ở Phổ Đà Sơn (soạn giùm)


Viên Thông đại sĩ lưu dấu nơi Phổ Đà, thệ nguyện không ngằn mé, từ bi khôn lường, hoàn toàn không phan duyên mà ứng hiện khắp cả, như một vầng trăng in bóng nơi ngàn con sông, trụ nơi Chân Tế nhưng ứng khắp quần cơ, như một trận mưa thấm khắp vạn loài thảo mộc. Bán Sơn Am là chùa phụ của chùa Pháp Vũ, là biệt viện của Đại Sĩ. Trống khuya chuông sớm, tiếp nối nhịp điệu trong trẻo của chùa Phổ Tế, cầm cành hoa phe phẩy, ngưỡng thừa tông phong chùa Pháp Vũ, phù tá hai chùa, hoằng xiển Nhất Thừa. Do vậy, mới gọi tên là Bán Sơn (lưng chừng núi). Kể từ khi sáng lập đến nay, trải năm tháng đã lâu, sửa cũ dựng mới đời nào cũng có người. Đến nay, mưa dầm, nắng hun, sương ngấm, mây chưng, gần muốn sụp đổ, cần phải sửa chữa gấp. Nạp tăng xuất gia nơi viện ấy, tham phỏng khắp các phương, một buổi nọ đi rách cả giày cỏ, gót chân bết đất. Do vậy, biết mệt quay về, quên duyên vui đạo, hưởng gió trăng nơi cố hương, giữ gìn môn đình của Biệt Am. Trông thấy hình thế của chùa nhức mắt đau lòng, thường sợ kim dung khuất sắc, không tỏ lộ ánh sáng trong tam thiên. Phổ Môn cửa gài, khó thể làm đường nẻo cho hai mươi lăm [pháp Viên Thông].

Muốn triệt để thay đổi để khôi phục diện mạo sẵn có của chùa, hiềm rằng phí tổn lớn lao, bát rỗng, túi không, toan giãi bày tấm lòng thành hèn kém, quyên mộ khắp các đàn-việt, khẩn khoản mong hãy phát Bồ Đề tâm, hành phương tiện sự, bỏ ra của quý báu sẵn có trong nhà để vun bồi công đức chẳng mục nát. Lượng sức tùy duyên, thí tiền quyên thóc, ngõ hầu điện báu thênh thang sớm có ngày thành tựu, mãn nguyệt kim dung thường trụ cả kiếp. Khiến cho hàng truy tố nam tham[40], phường Tăng tục đông thỉnh vào cửa quy mạng, trông thấy hình tướng bèn phát tâm, hiểu rõ các tướng lìa tướng, đích thân chứng diệu tướng Thật Tướng. Môn nào cũng đều là Phổ Môn, vào thẳng pháp môn Vô Môn. Mở mang phong thái huyền diệu vượt ngoài cả kiếp, giúp cho sự bình trị trong cả vũ trụ. Công đức lợi ích ấy há có thể hình dung bằng ngôn ngữ, văn tự được nổi ư?

----------------------------
[40] Nam tham là nhắc đến điển tích Thiện Tài đồng tử từ Phước Thành đi về phía Nam lần lượt tham học với 53 vị thiện tri thức, không rõ Đông Thỉnh muốn nhắc đến điển tích nào, nhưng theo mạch văn đều cùng có nghĩa là đi tham học. Truy là áo có màu thâm, tức là Tăng chúng, Tố là áo trắng, tức người tại gia (xưa kia, cư sĩ tại gia Ấn Độ hay mặc áo trắng).
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Sớ quyên mộ thiết lập đại đạo tràng Phổ Môn Vô Giá[41] Phổ Độ Thắng Hội (viết giùm)

13. Sớ quyên mộ thiết lập đại đạo tràng Phổ Môn Vô Giá[41] Phổ Độ Thắng Hội (viết giùm)


Quán Âm Đại Sĩ nương đại nguyện luân, độ thoát chúng sanh, gọi là Phổ Môn vì pháp nào, sự nào cũng đều quy về Thật Tướng, [do từ] căn nào, trần nào cũng đều chứng Viên Thông, chẳng có pháp nào không thông Niết Bàn, do vậy gọi là Phổ Môn. Lại khiến cho thượng trung hạ căn đều theo đường trở về nhà, thiện, ác, hay trung dung[42], không ai chẳng được bình đẳng nhiếp thọ. Không một ai Bồ Tát chẳng rủ lòng từ cứu vớt, nên gọi là Phổ Môn. Nhưng do chúng sanh ở trong mê, đối với những cảnh Căn, Trần v.v… lầm lạc khởi Hoặc tạo nghiệp, do nghiệp chịu khổ, trải bao kiếp lâu xa, trọn chẳng có lúc ra. Do vậy, thiên tai nhân họa càng ngày càng nổi lên, thủy, hỏa, đao binh, liên tiếp xảy ra. Há phải đâu trời đối xử hung cuồng, bạo ngược với dân, mà là do nghiệp xưa của dân chiêu cảm!

Nếu không quy mạng Đại Sĩ thì khổ quả lại sanh ra khổ nhân. Nếu khẩn cầu nơi tòa sen thì do thiện duyên sẽ đạt thiện báo. Trộm nghĩ vùng chúng ta mấy năm gần đây nhiều lượt bị ôn dịch, lại trải qua nạn đao binh, lại gặp nạn động đất, lụt lội, hạn hán, châu chấu, sâu rầy thình lình xảy ra. Do mấy lẽ ấy, người nghèo túng đến nỗi phải chết đói thật rất nhiều. Dẫu có kẻ may mắn tránh khỏi chưa bị tổn thương, cũng vẫn hoảng sợ, kinh hãi, như nuốt phải gai, như ngồi trên đệm kim, ôm nỗi đau đớn, không cách nào than van.

Những vị tên X…. do vậy kính cẩn phát lòng kiền thành, quy mạng Từ Phụ, mong diệt được tội khiên quá khứ, bồi đắp sẵn nền phước cho tương lai. Tính trong năm đó, tháng đó, sẽ thiết lập đại đạo tràng phổ độ thù thắng Phổ Môn Vô Già bảy ngày bảy đêm tại Pháp Vũ Thiền Tự ở Phổ Đà Sơn. Nhờ nhân tốt đẹp ấy, người mất sẽ được Phật tiếp dẫn, thần thức siêu sanh về cõi trời Cực Lạc, người còn sống sẽ được tắm gội oai lực của pháp, thân hưởng phước khang ninh, túc nghiệp tiêu, đều được giải thoát, mưu cầu mọi chuyện thuận lợi hanh thông, chuyển phiền não bức bách thành tiêu dao tự tại, cha mẹ ông bà đã khuất ai nấy đều được siêu thăng, con cháu đời sau của mọi người thường hưởng cát khánh. Chỉ vì đạo tràng này phí tổn rất nhiều, khẩn cầu những vị thiện tín trong ấp ta cùng phát thiện tâm, cùng giúp cho sự thù thắng thì công đức vô lượng vậy.

----------------------------------------------
[41] Vô Giá (còn đọc là Vô Già) Thắng Hội (Pañcavārsika Maha), còn được phiên âm là Bát Giá Vu Sắt Hội. Gọi là Vô Giá (không ngăn trở) với ngụ ý đây là một pháp hội khoan dung, không ngăn ngại, chẳng phân biệt hiền thánh, đạo tục, quý tiện, bình đẳng bố thí tài thí lẫn pháp thí. Thời cổ, các vua chúa thường cứ năm năm cử hành một lần nên còn gọi là Ngũ Niên Đại Hội. Phong tục này có nguồn gốc từ thời vua A Dục. Ngài Huyền Trang từng tham dự một đại hội Vô Giá tại Khúc Nữ Thành do vua Giới Nhật tổ chức vào thế kỷ thứ 7. Lương Võ Đế từng tổ chức hội Vô Giá tại chùa Đồng Thái vào năm Đại Thông thứ năm (529), quy tụ năm vạn Tăng, tục.

[42] Trung dung ở đây là không thiện, không ác, hay thiện ác xen lẫn.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Sớ khuyên đóng góp cho viện tàn tật ở Thượng Hải

14. Sớ khuyên đóng góp cho viện tàn tật ở Thượng Hải


Hết thảy chúng sanh tâm tánh vốn đồng, nhưng thân tâm thọ dụng, khổ -vui khác biệt vời vợi là do đời trước tu trì không giống nhau nên đến đời này cảm báo khác biệt. Vì thế, kinh dạy: “Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị. Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị” (Tạm dịch: Muốn biết nhân đời trước thì [hãy nhìn vào] những gì phải hưởng trong đời này. Muốn biết quả trong đời sau, hãy nhìn vào những gì đang làm trong đời này). Sách Cảm Ứng Thiên nói: “Họa phước không cửa, chỉ do con người tự chuốc lấy. Thiện báo, ác báo như bóng theo hình. Do vậy, người quân tử vui theo mạng trời, chẳng oán chẳng hờn, chỉ tu đức mình. Chỉ cầu nhiều phước để mong tiêu diệt nghiệp cũ, vun bồi quả báo cho tương lai”.

Kẻ đáng thương xót nhất trong cõi đời không gì bằng kẻ bần cùng không cơm áo, mù lòa, tàn tật. Cùng là con người, người ta mắt sáng, thấy rõ hết thảy, còn những kẻ ấy tuy cùng ở dưới ánh sáng mặt trời rực rỡ, khác gì ở trong nhà tối, hang thẳm. Người ta ai cũng tay chân vẹn toàn, tùy ý làm lụng, còn họ chi thể tàn khuyết, chuyện gì cũng bất tiện. Người như vậy lại còn không có gia đình để nương thân, không cơm áo để nuôi mạng. Bọn họ cùng do cha trời mẹ đất sanh ra, dĩ nhiên họ là ruột thịt của chúng ta. Chúng ta may được cha trời mẹ đất che chở, cảnh ngộ còn khá hơn một chút. Nếu chẳng lập phương cách khiến cho thân họ có chỗ gởi gắm, tâm có chỗ nương tựa, ngõ hầu túc nghiệp tiêu diệt, quả báo đời sau thắng diệu, thì là đã đánh mất cái tâm sanh trưởng bình đẳng của cha trời mẹ đất, lại còn phụ bạc ý niệm cha trời mẹ đất đã ban phước lạc, an vui cho chúng ta. Huống hồ rộng thí giúp đỡ mọi người, yên già, lo trẻ, xem dân như người thân, thi ân chẳng nói, cổ thánh tiên hiền không vị nào chẳng đề xướng tận lực thực hành để hậu thế noi theo. Há có nên chẳng thấu hiểu tâm của thiên địa hiền thánh để hành cái đạo “dùng lòng nhân đối xử với mọi người”, lại coi thường gạt qua một bên ư?

Do vậy, Nhất Hanh Vương cư sĩ riêng phát đại tâm, tụ họp những người cùng chí hướng, lập ra viện tàn tật ở vùng phụ cận trạm xe phía Nam Thượng Hải, cho những người tàn tật không có nhà cửa để quay về ấy được sống yên trong đó, được chu cấp cơm áo cho đến hết đời. Với những người chân tay chẳng vẹn toàn, sẽ phái người chăm sóc. Những người có mắt để nhìn, có tay làm lụng được, bèn tùy theo khả năng của người ấy, cho làm các nghề nghiệp để bù đắp đôi chút vào chi phí. Lại thỉnh người thông đạt Phật pháp, cách vài ngày đến đó vì họ diễn nói pháp sửa lỗi hướng thiện, dứt lòng tà, giữ lòng thành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, ngõ hầu bọn họ hiểu rõ tiền nhân hậu quả, quyết tu đức mình, nhất tâm niệm Phật để cầu vãng sanh hòng vĩnh viễn lìa khỏi cái khổ sanh tử luân hồi trong Sa Bà, thường hưởng niềm vui thường - lạc - ngã - tịnh nơi Tịnh Độ. Vì những người ấy lo toan có thể nói là khẩn thiết, châu đáo đến mức cùng cực không chi hơn được nữa! Nhưng số người thì đông, chi phí quả thật rất nhiều, hoàn toàn cậy vào những người giàu có cùng phát lòng Bi Đồng Thể, quyên ra vô tận bảo tạng giúp cho nỗi lo lắng sanh thành dưỡng dục của thiên địa, bồi đắp Pháp Thân trang nghiêm của chính mình thì thật là may mắn lắm thay!
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Sớ quyên mộ tu bổ Cảnh Đức Thiền Tự núi La Hán, Vĩnh Gia

15. Sớ quyên mộ tu bổ Cảnh Đức Thiền Tự núi La Hán, Vĩnh Gia


Phật pháp thâm diệu, phàm tình chẳng thể suy lường được nổi. Nếu chẳng phải là thánh nhân có đại trí huệ, đại biện tài, đại thần thông mà muốn giáo hóa, dẫn dắt kẻ ngu tục cùng hướng về chánh pháp, bỏ đi kiến giải hèn kém, câu nệ, hư huyễn, mở mang chánh tri kiến sẵn có nơi tánh thì ai nấy đều bỏ tiền của trong nhà để sáng lập phạm-sát ngõ hầu hoằng Tông diễn Giáo, làm đèn sáng trong đêm dài, tập đạo tu tâm, làm chiếc bè to trong biển khổ, thật chẳng phải là chuyện dễ dàng! Chùa Cảnh Đức ở núi La Hán tại Vĩnh Gia do tôn giả Đằng La[43] tạo ra vào thời Đường. Theo tự chí, tôn giả chẳng biết là người như thế nào, vào năm Hội Xương thứ hai (842) đời Đường Võ Tông, cưỡi gỗ vượt biển đến trước ty tuần giản[44] ở Thụy An. Người trong ấp lấy làm lạ, mời Sư lên bờ. Do vậy, dân chúng cả một vùng sùng tín, kính ngưỡng như vị Phật sống. Do vậy, Sư bèn tùy cơ chỉ dạy, khiến họ sanh chánh tín. Sư biết trước chuyện Đường Võ Tông sẽ diệt pháp nên chuyện kiến lập phạm-sát đều tiến hành thong thả, đến khi Trung Tông kế vị, Phật nhật lại sáng, tôn giả mới giáo hóa, chỉ dạy khắp những thôn ấp thuộc Ôn Châu cùng xây dựng phạm-sát gồm mười tám chỗ, có thể nói là đại hoằng pháp hóa, làm phước điền cho chúng sanh. Chùa Cảnh Đức ở núi La Hán là một trong số đó. Núi ấy quanh co, cao ngất, đẹp đẽ, cảnh sắc thanh tịnh, u nhã, là chỗ quan trọng đứng đầu của Vĩnh Gia, là khu vực linh thiêng để tu đạo.

Chùa ấy từ đời Đường đến nay đã hơn một ngàn một trăm năm. Trong thời gian hoằng dương pháp hóa đó, cảnh chùa được sửa sang cố nhiên không biết bao lượt. Nay đã lâu chưa được sửa chữa, Phật điện, tăng liêu đổ nát gần hết. Thánh tích của tôn giả sắp bị tiêu mất. Người trong ấp như các vị Phan Giám Tông, Ngô Bích Hoa, Diệp Kiến Hùng v.v… mấy mươi người lo lắng, cùng bàn tính cách phục hưng. Nhưng vì thời cuộc khó khăn, bèn rút nhỏ quy mô, tính lập năm gian Phật điện, tiền điện ba gian, liêu xá hai bên hơn mười gian để những người đến lễ tụng nghỉ lại đều có nơi chỗ. Mấy vị tỳ-kheo an trụ, cư sĩ tinh tu Tịnh nghiệp thường sống nơi ấy, chuyên tu Niệm Phật tam-muội để mong mình lẫn người cùng thoát Sa Bà, đồng sanh Tịnh Độ, làm đệ tử Phật Di Đà, làm bạn bè tốt nơi Hải Hội.

Nhưng do công trình rộng lớn, sức lực đơn độc khó thành, khẩn cầu những vị thiện tín đàn-việt mười phương phát lòng Bồ Đề, hành phương tiện sự, mở rộng bảo tạng, vun đắp phước điền, khiến cho bảo điện mênh mông sớm có ngày thành công, mãn nguyệt kim dung thường trụ muôn kiếp. Liên xã mở ra, người thấy kẻ nghe đều được lợi ích, Tịnh tông được xiển phát, Tăng - tục minh tâm, ắt thấy Phật trời hộ trì như mây nhóm, cát khánh chen nhau đưa đến. Giàu, thọ, khang, ninh, đời này được ngũ phước kín dầy, quan cao tước cả, con cháu được hưởng trăm điều tốt lành như đã nói trong bài Y Huấn.

--------------------------------------------
[43] Sách Thích Thị Kê Cổ Lược chỉ nói đại khái Ngài tên Vô Dịch, nhằm thời Đường Võ Đế phá hoại Phật pháp, Sư vào ẩn cư trong sơn cốc, kết am tranh thiền định cả mười mấy năm, dây mây quấn kín am Ngài vẫn nghiễm nhiên Thiền Định nên dân chúng gọi là Đằng La Tôn Giả (tôn giả bị dây mây quấn). Sách Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 3 chép hơi khác: Vào cuối thời Đường, tôn giả cưỡi cây gỗ nổi từ ngoài biển vào Thụy An, Ôn Châu (nay là Chiết Giang), kết am tu Thiền Định cả mấy năm trong núi sâu, dây mây phủ kín bốn bề. Một ngày nọ có người thợ săn dẫn chó đi săn, chó chui vào bụi dây mây mãi không ra, bèn dùng rìu chặt mây, thấy bầy chó đang phủ phục trước Sư, chợt kính ngưỡng, xin xuống tóc. Từ đó, lập thành chùa Bản Tịch. Do tôn giả bị dây mây quấn quanh thảo am, nên gọi là Đằng La Tôn Giả.

[44] Tuần giản: Cơ quan giữ nhiệm vụ kiểm soát đường thủy. Thụy An nay là một thị trấn trọng yếu vùng Đông Nam tỉnh Chiết Giang.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Sớ thuật duyên khởi thành lập liên xã chùa Thanh Liên ở Lô Sơn

16. Sớ thuật duyên khởi thành lập liên xã chùa Thanh Liên ở Lô Sơn


Phật pháp rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, nhưng toàn thể đại dụng đều ở trong một niệm tâm của chúng sanh. Chỉ do mê chưa ngộ, nên đến nỗi trong chỗ vốn không có sanh tử lại lầm chịu nỗi khổ luân hồi sanh tử. Vì thế, đức Thích Ca Thế Tôn ta riêng rủ lòng ai mẫn, thị hiện sanh trong thế gian để cứu vớt. Khi đó, Ngài vứt bỏ vinh hoa nơi cõi nước, xuất gia tu đạo, thành Đẳng Chánh Giác dưới cội Bồ Đề, muốn khiến cho hết thảy chúng sanh đều triệt chứng tự tâm, viên thành Phật đạo. Do vậy, Phật bèn tùy cơ thuyết pháp, theo bệnh cho thuốc, để những người thiện căn chín muồi mau chứng Vô Dư Niết Bàn, người thiện căn chưa chín muồi tùy phần đều được lợi ích. Thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh hơn ba trăm hội, tuy là Đại - Tiểu, Quyền - Thật bất đồng, Thiên - Viên, Tiệm - Đốn có khác, nhưng trong tâm Phật, không gì chẳng nhằm truyền dạy thẳng vào giác đạo chính Ngài đã chứng. Chỉ vì căn cơ đa phần chẳng phù hợp, nên không thể không uyển chuyển lập phương tiện để nhiếp thọ, còn bổn hoài xuất thế chưa thể nhanh chóng diễn bày.

Do vậy, ngoài những giáo lý thông thường, Phật mở ra một pháp môn đặc biệt, tức là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, khiến cho chúng sanh dù thánh hay phàm, dù ngu hay trí, đều cùng trong đời này thoát lìa sanh tử, khiến cho những người đã phá vô minh sẽ viên chứng Pháp Thân, người còn đủ Kiến Hoặc cũng lên Bất Thoái. Công huân lợi ích ấy vượt trỗi hết thảy giáo pháp suốt cả một đời, thật có thể gọi là “giáo ngoại biệt truyền chí viên chí đốn”. Do vậy, trong hết thảy kinh Đại Thừa không kinh nào chẳng hiển phát, xiển dương, khen ngợi, chỉ dạy; hết thảy Bồ Tát, tổ sư không vị nào chẳng y giáo phụng hành bởi lẽ pháp này là đại đạo phổ độ chúng sanh của tam thế chư Phật, là diệu pháp để viên chứng Phật Quả của chúng sanh trong chín giới.

Đến khi đại pháp truyền sang Đông, Viễn Công đại sư hoằng dương pháp này đầu tiên tại chùa Đông Lâm ở Lô Sơn. Cao nhân Tăng - tục khi ấy đều như mây nhóm lũ lượt kéo về Lô Sơn ghi danh, pháp Tịnh Độ ai nấy đều kính ngưỡng tu trì. Từ đấy về sau, tất cả Luật, Giáo, Thiền, Mật không ai chẳng lấy việc cầu sanh Tịnh Độ làm bước cuối cùng để phản bổn hoàn nguyên. Do vậy, Liên phong thổi khắp trong nước, ngoài nước, pháp lợi trọn khắp cổ kim. Huống chi lúc này nhằm đúng thời Mạt Pháp, con người căn tánh hèn tệ, càng phải nên chuyên chú nơi pháp này để mong được liễu thoát ngay trong đời này.

Cuộc đất tối thắng ở Lô Sơn nhằm đúng ngay nền chùa Thanh Liên. Chùa ngự cao trên đỉnh núi, hình thế giống như một đóa sen tự nhiên. Vì thế, đại sư Hoàng Cốc đời Tấn tiếp nối chí lớn của Viễn Công, lập chùa nơi đây để xiển dương Liên Tông. Từ đời Tấn đến đời Thanh, hơn một ngàn năm trăm năm, do cao nhân nối tiếp nhau trụ trì nên liên phong thường được chấn hưng mạnh mẽ. Đến cơn biến loạn Hồng Dương[45], đều thành tro bụi. Pháp đạo suy vi, không người khôi phục, đến nỗi đạo tràng tuyển Phật suốt hơn một ngàn năm rốt cục biến thành núi hoang, chẳng đáng buồn ư!

May còn có Diệu Bồi đại sư là cao túc đệ tử của Vi Quân lão nhân, tận lực tuân theo lời thầy dạy, dốc chí tu Tịnh nghiệp, riêng qua Hồng Loa tham học nhiều năm. Mùa Xuân năm nay qua chơi Lô Sơn, đến chỗ nền chùa, thấy hình dáng như đóa hoa sen, trước mặt lại nhìn ra thác nước Tam Điệp, sau lưng dựa vào ngọn núi Ngũ Lão hùng vĩ, hai bên có hai ngọn Sư Tử và Tượng Tỵ (vòi voi) để che chở. Đúng là chốn Tịnh Độ đạo tràng trời xây đất dựng, chẳng nỡ để bị chìm đắm mãi mãi, nên phát nguyện khôi phục để hoằng dương Liên Tông, bèn bàn bạc cùng các đại cư sĩ ở Thượng Hải, trước hết quyên được hơn một ngàn đồng dùng để lập một tòa Niệm Phật Đường, vài gian tăng liêu [làm chỗ] an trú cho vài người chân tâm tu đạo, sáu thời hành đạo, nối tiếp khuôn phép thơm của Viễn Công. Đợi sau này có đại công đức chủ sẽ tùy sức mở rộng ra thêm. Do tài lực khó khăn, tu hành lại là chuyện gấp, nên không thể không tùy phần tùy sức để mong tu trì đạt được lợi ích, chẳng đến nỗi gây trở ngại cho Tịnh nghiệp vậy.

Pháp kết xã thì một là tuân theo quy củ đã thành lập bởi tổ Huệ Viễn, bất luận Tăng - tục đều phải đầy đủ tín nguyện chân thành, quyết định cầu sanh Tây Phương. Ai nấy lại phải giữ trai giới, thanh tịnh thân - khẩu - ý nghiệp, khóa tụng sáng chiều, ba thời niệm Phật, trừ khi có bệnh và có việc chung ra, trọn chẳng được tránh né, kiếm cớ thảnh thơi. Ngoài ra thì tùy ý lễ tụng, tọa thiền, cốt sao đạt được lợi ích nơi đạo mà thôi. Chỉ có điều không được học tập thi văn, xem lung tung sách vở thế tục, cũng như chẳng được chuyện trò tạp nhạp lúc rảnh rỗi kẻo uổng phí quang âm! Xưa Viễn Công kết xã có một trăm hai mươi ba người thảy đều là bậc rường cột trong Phật môn, là Thái Sơn, Bắc Đẩu trong làng Nho. Nay thì căn tánh con người hèn tệ, kém xa xưa kia, nhưng trong tâm vốn có Phật tánh, cố nhiên pháp môn độ khắp ba căn xưa - nay chẳng khác. Như vậy lý “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, sự “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” há chẳng phải do tự mình tu, tự mình chứng hay sao? Vì thế, kính cẩn soạn ra một chương đơn giản để khuyên lơn những người cùng chí hướng.

Lại mong các đại đàn-việt phát Bồ Đề tâm, cùng nhau hộ trì, bỏ tiền, thí gạo, xoay vần khuyên bảo, quyên mộ, khiến cho bảo điện thênh thang sớm có ngày được thành tựu, mãn nguyệt kim dung thường trụ muôn kiếp. Liên xã hưng khởi, tông phong rạng rỡ, chánh pháp thạnh, tai chướng ngầm tiêu, sẽ thấy Phật trời hộ trì như mây nhóm, cát khánh tranh nhau đưa đến, trong đời hiện tại sẽ hưởng ngũ phước, lâm chung cao đăng chín phẩm. Như thế có thể gọi là bậc đại trượng phu thật sự, là đệ tử Phật thật sự, trên chẳng phụ công giáo hóa của chư Phật, dưới chẳng phụ linh tánh của chính mình. Nguyện người thấy, kẻ nghe cùng tu đạo này, để một truyền mười, mười truyền thành trăm, cho đến khắp pháp giới thì thế giới thái bình, nhân dân an lạc, khôn ngăn thơm thảo cầu chúc vậy.

-----------------------------------------
[45] Tức loạn Thái Bình Thiên Quốc (1851-1864), quân phiến loạn do Hồng Tú Toàn và Dương Tú Thanh cầm đầu nên gọi là loạn Hồng Dương. Hồng Tú Toàn (1812-1864) là người cuối đời Thanh, vốn là người huyện Hoa, tỉnh Quảng Đông. Năm Đạo Quang 23 (1843), Hồng Tú Toàn cùng Phùng Vân Sơn lập đạo tại huyện Hoa, Quảng Đông, tự xưng mình được Thượng Đế mặc khải, gọi chúa Jesus là anh cả, vay mượn giáo nghĩa Thiên Chúa Giáo, pha trộn với những mê tín dân gian để truyền đạo với danh xưng Bái Thượng Đế Hội. Năm sau, sang Quảng Tây truyền giáo, tích cực tuyên truyền quyến rũ nông dân. Mùa Xuân năm 1848, Phùng Vân Sơn bị quan nhà Thanh bắt giam. Tháng Bảy năm 1850, Hồng Tú Toàn hô hào dân chúng đứng lên làm loạn, bọn thảo khấu, vô lại tham dự lên đến hai vạn người. Ngày 11 tháng 1 năm 1851, nhân dịp sinh nhật của chính mình, Hồng Tú Toàn tự xưng là Thiên Vương, ra sắc lệnh thiết lập Thái Bình Thiên Quốc, phong cho Dương Tú Thanh làm quân sư, rồi lại phong họ Dương làm Đông Vương. Phùng Vân Sơn tích cực thiết lập quân chế, lễ nghi và tổ chức quân đội cho Thái Bình Thiên Quốc, đặt ra lịch pháp mới. Năm 1852, từ Quảng Đông, quân Thái Bình Thiên Quốc đánh lên Hồ Nam, quân Thanh giữ thành bắn đại pháo chống cự. Phùng Vân Sơn trọng thương, không bao lâu thì chết. Năm 1853, loạn quân chiếm được Nam Kinh, đổi tên thành Thiên Kinh. Không lâu sau các bầy tôi của Hồng Tú Toàn tranh giành quyền lực, hãm hại lẫn nhau. Tháng 9 năm 1856, Bắc Vương Hàn Xương Huy cùng Yên Vương Tần Nhật Võng lén vào thành Nam Kinh, đột kích phủ Đông Vương, giết sạch cả nhà Đông Vương Dương Tú Thanh, thuộc hạ của Đông Vương cũng bị thảm sát trong biến cố này rất nhiều. Do Thạch Đạt Khai phản đối, hai người bèn tấn công luôn Thạch Đạt Khai, giết sạch gia quyến họ Thạch. Họ Thạch phải bỏ thành trốn ra ngoài. Sợ nội loạn sẽ xảy ra vì phe đảng họ Thạch quá đông, Hồng Tú Toàn bèn xử tử Hàn Xương Huy, thâu tóm binh quyền về tay anh em họ Hồng. Tuy nội bộ chia rẽ tàn sát lẫn nhau, thế lực loạn quân vẫn còn rất mạnh, chúng liên tục đốt phá, tấn công đến tận Thượng Hải, mãi đến năm 1864, Tăng Quốc Phiên mới dẹp yên được loạn quân. Do Hồng Tú Toàn chủ trương biến Trung Hoa thành một nước Thiên Chúa Giáo theo kiểu của họ nên ra sức đốt phá chùa chiền, đạo quán, văn miếu cả miền Hoa Nam. Vì họ chống lại quy định cạo nửa đầu, thắt bím đuôi sam của nhà Thanh, cứ để nguyên tóc dài như thời nhà Minh, nên sử thường gọi là Trường Mao Phát Tặc (giặc lông tóc dài).
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Sớ quyên mộ tu bổ điện Thiên Vương và lầu trống chùa Pháp Vũ núi Phổ Đà

17. Sớ quyên mộ tu bổ điện Thiên Vương và lầu trống chùa Pháp Vũ núi Phổ Đà


Phổ Đà danh sơn là cõi đất thù thắng, nơi Đại Sĩ ứng tích. Pháp Vũ Thiền Tự quả thật là đạo tràng cầu phước cho quốc dân. Từ khi được sáng lập đến nay đã trải nhiều năm lâu xa, sửa cũ đổi mới đời nào cũng có người. Hai phen được vua ban tiền[46] [sửa chữa], vào đời Thanh trước kia được hai phen sắc tu, quyên mộ khắp các duyên. Sau cơn loạn lạc lại được tu tạo một lần nữa, khổ là ở giữa biển cả, hơi muối, gió táp, xói mòn các vật. So với nội địa càng bị hư mục nhanh hơn. Nay lầu trống, điện Thiên Vương, kèo cột hư nát, chân cột mục ruỗng. Nếu chẳng sớm lo liệu, ắt sẽ thấy bị sụp đổ rất nhanh.

Tuy mang tên là Thiên Vương Điện[47], nhưng thật ra thờ pháp tướng của đức Di Lặc. Từ tâm của ngài Di Lặc và Quán Âm phù hợp nhau, tùy theo từng loài mà hiện hình, tầm thanh cứu khổ. Lòng Từ lừng lẫy khắp đời này, lòng Bi thấu đến mạt kiếp, làm chỗ nương tựa cho đời hiện tại, làm Thế Tôn cho đời tương lai. Lúc này, vừa nhìn mặt liền cười, để kết duyên hệ châu[48]; trong tương lai ba hội Long Hoa cùng được thọ ký Vô Sanh. Ngài Di Lặc có nhân duyên rất sâu với cõi đời. Nếu chẳng tu bổ làm sao thỏa được lòng thành khẩn đối với bậc thánh linh, tiêu tai họa, dịch lệ, tạo phước cho muôn dân? Nhưng vì công trình to lớn, sức lực đơn độc khó thành; do vậy, giãi bày lòng ngu thành, kính quyên mộ thập phương đàn-việt, khẩn cầu hãy phát Bồ Đề tâm, hành phương tiện sự, mở rộng bảo tạng, vun trồng ruộng phước, khiến cho bảo điện thênh thang sớm ngày thành công, mãn nguyệt kim dung thường trụ vĩnh kiếp. Ngõ hầu hết thảy ai đến đây đều lên địa vị Hoan Hỷ, vào trong cửa lâu các[49], hiện đời khế hợp Phật tâm sâu xa, tương lai cùng viên thành Chủng Trí, sẽ thấy Phật, trời gia hộ như mây nhóm, cát khánh tranh nhau đưa tới, đời này vĩnh viễn hưởng nhiều phước, sự tốt lành thấu mãi đến con cháu.

--------------------------------------------------
[46] Nguyên văn “lưỡng ban nội noa” (hai phen được vua ban tiền). “Nội noa” chính là tiền bạc trong kho riêng của nhà vua, chứ không phải tiền lấy từ quốc khố.

[47] Gọi là điện Thiên Vương vì chính giữa thờ tượng Di Lặc Bồ Tát có bốn vị đại thiên vương hộ thế đứng hầu.

[48] Hệ châu: là buộc viên châu. Đây chính là một thí dụ trong kinh Pháp Hoa: Người cùng tử được người bạn buộc viên châu vào trong chéo áo, nhưng người đó không biết, cứ phải làm thuê làm mướn kiếm ăn khổ cực, sau gặp lại người bạn chỉ cho viên châu trong chéo áo mới biết thụ hưởng. Kết duyên hệ châu chính là kết duyên được Phật Di Lặc tiếp độ trong tương lai.

[49] Trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử được Bồ Tát Di Lặc dẫn vào trong Tỳ Lô Giá Na Lâu Các của Ngài. Thiện Tài nhờ quan sát những cảnh tượng trong ấy bèn chứng Đẳng Giác.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Sớ thuật duyên khởi mở Niệm Phật Đường chuyên tu Tịnh nghiệp tại chùa Chân Như ở Gia Hưng

18. Sớ thuật duyên khởi mở Niệm Phật Đường chuyên tu Tịnh nghiệp tại chùa Chân Như ở Gia Hưng[50]


Phật pháp rộng sâu, khác nào biển cả, dẫu là bậc Pháp Thân đại sĩ vẫn chẳng thể tột nguồn thấu đáy được, huống gì hạng phàm phu sát đất! Nhưng Như Lai do lòng đại từ bi, muốn cho hết thảy dù thánh hay phàm đều cùng trong một đời này thoát lìa sanh tử, nên đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Như kẻ thọt chân yếu ớt, cả ngày khó đi được vài dặm, nếu nương theo Luân Bảo của Chuyển Luân Thánh Vương chưa đầy nửa buổi liền có thể đến khắp bốn đại bộ châu. Hai điều này nhanh - chậm khác biệt một trời một vực!

Phàm phu chưa đoạn Hoặc nghiệp, cố nhiên chẳng thể liễu sanh tử. Nếu dùng tín nguyện niệm Phật, cảm Phật từ bi nhiếp thọ liền ngay trong đời này vãng sanh Tịnh Độ, siêu phàm nhập thánh, vượt lên địa vị Bất Thoái. So với những kẻ chỉ cậy vào tự lực, tu Giới - Định - Huệ để mong nghiệp tận tình không, liễu sanh thoát tử, thì chẳng thể nào thí dụ, diễn giải để hình dung cho được! Do vậy, những bậc cao nhân Tăng - tục các đời không vị nào chẳng dùng pháp này để tự hành, dạy người, lấy pháp này làm môn trọng yếu nhập đạo, làm đường tắt để thành Phật.

Chân Như Thiền Tự từ khi được sáng lập đến nay đã hơn một ngàn mấy trăm năm, đời nào cũng có người hoằng Tông diễn Giáo. Sau cơn binh hỏa, chi dùng ngày càng thiếu hụt, đến nỗi pháp luân gần như ngừng xoay. Do vậy, thầy trụ trì là Niệm Huệ chí muốn khôi phục, nhưng do không có tài lực, tạm thời muốn cho tám vị Tăng giữ giới thanh tịnh được an trụ, suốt năm ngoài hai thời khóa tụng ra, chuyên trì Phật hiệu suốt ba cây hương. Ngoài ra thì tùy ý lễ tụng, mỗi người được cấp tiền chi dụng ba đồng mỗi tháng, những chuyện kinh sám Phật sự đều không làm. Nếu thí chủ đến chùa niệm Phật và đả Phật thất thì chẳng cự tuyệt. Làm như vậy để nhất ý tinh tu, mau đạt được lợi ích thật sự, mà cũng có thể trên là báo bốn ân, giúp khắp tam hữu[51]. Lợi ích ấy cố nhiên hết thảy những cách tu trì thông thường chẳng thể sánh bằng được!

Nhưng do tài sản của chùa ít ỏi, của dành dụm chẳng đủ, nên khẩn cầu những vị đàn-việt hộ trì có sức hãy phát Bồ Đề tâm, thành tựu chuyện thù thắng này, hoặc giúp cho gạo nước, hoặc giúp đỡ đèn, dầu, ngõ hầu đạo tràng niệm Phật này ngày càng mở rộng, khiến cho kẻ thấy người nghe đều cùng hưng khởi, sẽ thấy Phật trời gia hộ như mây nhóm, cát khánh đua nhau đưa đến, lúc sống được hưởng ngũ phước nườm nượp, mất đi dự vào chín phẩm trong ao báu. Chỉ mong chẳng tiếc của cải ngõ hầu ai nấy cùng được gội ân Phật.

-----------------------------------------
[50] Gia Hưng là một thành phố thuộc tỉnh Chiết Giang.

[51] Tam hữu: Ba cõi tức Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới. Hữu có nghĩa là hữu sanh tử, hữu nhân quả báo ứng. Có tam hữu, tứ hữu, thất hữu, cửu hữu, nhị thập ngũ hữu sai khác; nhưng kinh chỉ thường nói đến tam hữu (Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới) và cửu hữu. Cửu Hữu tức là từ tam hữu, phân ra thành chín cõi. Hữu có nghĩa là y báo của chúng sanh trong thế giới.

Từ A Tỳ địa ngục lên đến tầng trời Tha Hóa Tự Tại thuộc về Dục Giới, còn gọi là Ngũ Thú Tạp Cư địa; tức là gồm năm đường: trời, người, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục.

Mười tám tầng trời thuộc Sắc Giới chia làm bốn loại:

a) Ba tầng trời thuộc Sơ Thiền, gọi là Ly Sanh Hoan Hỷ Địa, bởi họ đã khỏi phải tái sanh trong Dục Giới, tâm rất vui mừng, sung sướng.

b) Ba tầng trời thuộc Nhị Thiền, gọi là Định Sanh Hoan Hỷ Địa, bởi họ do Thiền Định mà sanh về cõi này.

c) Ba tầng trời thuộc Tam Thiền, gọi là Ly Hỷ Diệu Lạc Địa, bởi họ đã lìa khỏi những tướng tâm hoan hỷ thô tháp, tâm niệm hoan hỷ rất vi diệu.

d) Chín tầng trời thuộc Tứ Thiền, gọi là Xả Niệm Thanh Tịnh Địa, đã bỏ những tâm niệm vui sướng của ba tầng Thiền Thiên ở dưới, tâm niệm rất thanh tịnh.

Bốn tầng trời thuộc Vô Sắc Giới, chia thành bốn loại:

a) Không Vô Biên Xứ Thiên, còn gọi là Không Biên Xứ Địa
b) Thức Vô Biên Xứ Thiên.
c) Vô Sở Hữu Xứ Thiên.
d) Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên.

Như vậy Dục Giới có một hữu, Sắc Giới có bốn hữu, Vô Sắc Giới có bốn hữu, tổng cộng là chín hữu.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Sớ quyên mộ đúc chuông U Minh chùa Pháp Vân sông Tam Xoa, Nam Kinh

19. Sớ quyên mộ đúc chuông U Minh chùa Pháp Vân sông Tam Xoa, Nam Kinh


Thế giới Sa Bà dùng âm thanh làm Phật sự, pháp khí chốn tùng lâm chỉ có chuông lớn là bậc nhất. Bởi lẽ [tiếng chuông] phát khởi kẻ mù, lay động kẻ điếc, khơi động tai mắt của trời người, thông cõi âm, thấu cõi dương, thật sự cứu giúp cho [những người đang ở trong] đường ác. Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: “Như khi đánh chuông, nguyện cho các sự khổ trong hết thảy ác đạo đều được ngưng nghỉ. Nếu nghe tiếng chuông và kinh chú của Phật, sẽ trừ được trọng tội trong năm trăm ức kiếp sanh tử”. Vì thế, Phó Pháp Truyện[52] có ghi vua Kế Nị Tra[53] do sát hại quá nhiều, chết đi đọa làm con cá có một ngàn đầu, có vầng kiếm xoay quanh thân, chặt đứt đầu này lại mọc ra cái khác. Vị La Hán làm Tăng Duy Na[54] đúng giờ đánh chuông, hễ nghe tiếng chuông, vầng kiếm bèn dừng trên không. Do vậy, cá nhắn lời xin đánh chuông cho lâu, qua bảy ngày liền hết bị chịu khổ. Sách Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập[55] lại chép: Thời Nam Đường, ở huyện Thượng Nguyên có một người dân chết bất ngờ, ba ngày sau sống lại, kể:

- Chết rồi đi vào cõi âm, thấy tiên chúa[56] bị gông xiềng rất ngặt, bảo: “Ta bị Tống Tề Khâu xui dại, giết những người ở Hòa Châu ra hàng hơn một ngàn người, họ oán hận tố cáo nên bị tù ở đây. Hễ nghe tiếng chuông liền tạm dứt khổ. Ngươi về bảo cùng tự quân vì ta đúc một cái chuông, gõ mãi. Nếu nó chẳng tin, lấy bức tượng Thiên Vương bằng ngọc ta giấu ở gối trái tượng Phật chùa Ngõa Quan không ai biết để làm bằng chứng.

Người dân thuật chuyện đầy đủ, kiểm nghiệm đúng thực, vua bèn tạo một quả chuông đặt ở chùa Thanh Lương, khắc bài văn rằng: “Cầu cho liệt tổ Hiếu Cao Hoàng Đế thoát chốn tối tăm, khỏi khổ”. Đấy là duyên do đánh chuông U Minh vậy.

Huống chi chùa Pháp Vân phỏng theo cách thức ngài Vân Thê, niệm Phật, phóng sanh, nuôi dạy cô nhi, là đạo tràng từ thiện bậc nhất ở Giang Nam. Gần đây, sát kiếp quá thảm, hãng Hòa Ký của người Tây Dương ở Nam Kinh lại giết hết thảy những loài trâu, dê, những con vật bay chạy không biết là bao nhiêu. Do vậy, các cư sĩ Phùng Mộng Lão, Ngụy Mai Tôn v.v… nhóm họp mấy vị Tăng tục đề xướng kiêng giết phóng sanh, ăn chay niệm Phật hòng vãn hồi kiếp vận, bèn mua bốn trăm bốn mươi mẫu đất bên sông Tam Xoa, mở ra ao phóng sanh chín khu, chiếm hơn một trăm mẫu. Lại còn lập viện mồ côi nuôi dạy cô nhi, nay đã nuôi được sáu mươi trẻ. Cư sĩ Đặng Phác Quân quyên mộ bốn mươi tám nguyện để dựng đại điện, mỗi nguyện là một ngàn đồng, hiện đã sắp tròn nguyện. Sang năm sẽ kiến tạo. Đại điện dựng xong, sẽ dựa vào tiền bạc sẵn có mà an trụ Tăng chúng, chuyên tu Tịnh nghiệp kiêm giảng diễn. Cư sĩ Thôi Ích Vinh phát tâm quyên mộ đúc hồng chung, tùy lòng tùy sức mỗi người bố thí, một ngàn, một trăm, mười đồng hay một đồng đều được! Nhưng chuông này thường gõ suốt ngày đêm, cho nên phải dùng loại đồng có tiếng vang, cần tối thiểu ba ngàn cân. Loại đồng có tiếng vang khá mắc, mỗi cân giá hơn một đồng. Tính ra vật liệu và công xá phải đến bốn, năm ngàn đồng. Nếu tiền quyên mộ có dư sẽ dùng để đúc báo chung, đại khánh, hô bản[57] mỗi loại một cái. Những thứ này chẳng thể thiếu để làm Phật sự.

Phải biết: Pháp Vân Tự vừa dựng lên, hãng Hòa Ký của người Tây Dương bèn ngừng sát nghiệp, chỉ còn là hãng sản xuất trứng. Mối quan hệ thật chẳng phải nông cạn. Ấy là do tâm thành của mọi người, cảm Tam Bảo ngấm ngầm gia bị nên mới được như thế. Mong rằng các đại đàn-việt thiện tín đều cùng phát thiện tâm, thành tựu việc này. Tất cả công đức có thể dùng để siêu tiến cho tổ tiên đã khuất đều được sanh về Liên Bang, che chở cho quyến thuộc hiện tại ai nấy đều hưởng phước khánh. Tên những người bỏ tiền ra đều được khắc vào một bài vị lớn đặt ở dưới chuông. Quanh thân chuông khắc mọi kinh chú, chỉ ghi tổng cộng có bao nhiêu người thí tiền, thí tất cả bao nhiêu tiền mà thôi! Ví như một giọt gieo vào biển cả cũng liền sâu rộng như biển cả. Nếu ai do lòng tịnh tín hoan hỷ bố thí, liền sẽ khế hợp cùng biển pháp đại giác của Như Lai, công đức ấy há có thể nêu được ư?

-----------------------------------------------
[52] Gọi đủ là Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện, do ngài Cát Ca Dạ và Đàm Diệu cùng dịch vào thời Nguyên Ngụy. Tác phẩm này còn có tên gọi khác là Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Kinh, Phó Pháp Tạng Truyện hay Phó Pháp Tạng Kinh. Sách ghi chép sự tích phó chúc pháp, truyền pháp của hai mươi ba vị tổ Ấn Độ kể từ ngài Ca Diếp trở đi. Vị Tổ cuối cùng là Sư Tử tôn giả bị vua nước Kế Tân là Di La Quật giết hại, nên việc phó pháp bị đoạn tuyệt. Truyền thống Trung Hoa thường nói đến Tây Thiên Tứ Thất (23 vị tổ Ấn Độ), tức là căn cứ theo sách này. Tổ Trí Khải kể thêm vị tổ thứ 24 là ngài Ma Điền Đề. Ngài Đạo Nguyên trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, kể thêm năm vị Bà Tu Mật, Bà Xá Tư Đa, Bất Như Mật Đa, Bát Nhã Đa La, Bồ Đề Đạt Ma, trở thành 28 vị Tổ Ấn Độ của Thiền Tông. Truyền thống Trung Hoa thường theo thuyết của ngài Đạo Nguyên.

[53] Tức vua Ca Sắc Nị Ca (Kaniska), còn phiên âm là Đàn Kế Nị Tra, hay Cát Ni Thi Cát, Ca Nị Sắt Tra v.v… Ông là vua nước Kiền Đà La (Gandhara), tức đời vua thứ ba của vương triều Quý Sương (Kushana). Niên đại của ông có nhiều thuyết khác nhau, nhưng nay đa phần công nhận ông sống nhằm thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên. Đế quốc của ông rất lớn, chiếm trọn miền Bắc Ấn Độ. Trong sử Phật giáo, ông cùng với vua A Dục được gọi là hai vị đại vương hộ trì Phật pháp. Thoạt đầu, vua tôn thờ Tỏa La A Tư Đức giáo (Bái Hỏa Giáo), không tin tội phước, khinh nhục Phật pháp. Về sau được Mã Minh Bồ Tát cảm hóa bèn quy hướng Phật pháp, cực lực hộ trì Phật pháp, kiến lập tự viện. Vua chiêu tập năm trăm vị thánh giả như các vị Hiếp Tôn Giả, Thế Hữu, Pháp Cứu, Giác Thiên v.v… kết tập Tam Tạng tại thành Ca Thấp Di La (Kashmir). Trước khi quy ngưỡng Phật pháp, vua chinh phạt bốn phương giết người quá nhiều nên mới bị ác báo như vậy.

[54] Hai chữ Duy Na vốn là hợp dịch của tiếng Phạn và tiếng Hán. Duy là giềng mối, quản trị, coi sóc. Na là lược âm từ tiếng Phạn Karma-dàna. Karma-dàna có nghĩa là chấp sự, hàm nghĩa người phân phối mọi việc cho đại chúng. Như vậy, Duy Na là người quản trị tăng chúng trong chùa. Theo Thập Tụng Luật, do xưa kia Phật ở Xá Vệ quốc, muốn cho Tăng chúng lần lượt lo liệu mọi việc trong chùa nên lập ra chức Duy Na. Sách Tứ Phần Luật San Phiền Bổ Khuyết Sao giảng: “Thập Tụng Luật nói trong Tăng phường có người biết thời hạn, đến giờ xướng tụng bèn đánh kiền chùy. Lại do không có người quét tước, dọn dẹp giảng đường, nhà ăn, không ai liên tục trông nom giường tòa, dạy người khác làm sạch trùng kiến khỏi trái cây, thức ăn. Lúc ăn uống không có ai lo nước nôi, lúc đại chúng nói chuyện lung tung không có ai khảy ngón tay [nhắc nhở] v.v… nên Phật lập ra chức Duy Na. Thanh Luận phiên là Thứ Đệ, nghĩa là biết thứ tự các việc, còn gọi là Duyệt Chúng (làm cho chúng vui đẹp)”. Như vậy, Duy Na là chức vụ do Phật chế định để cai quản tạp sự trong Tăng chúng. Xưa nay, các đại tự viện lập ra Tam Cương tức Thượng Tọa, Trụ Trì, Duy Na. Trong nhà Thiền, Duy Na là một trong sáu chức tri sự, là chức vụ trọng yếu quản lý oai nghi tăng chúng. Trong các tông phái khác, Duy Na thường là người hướng dẫn, nhắc nhở đại chúng tu hành pháp yếu, kiêm nhiệm việc dẫn xướng trong khi tụng niệm, hồi hướng. Nay chữ Duy Na thường bị hiểu theo nghĩa hẹp chỉ là người giữ chuông, xướng giọng dẫn lễ trong các buổi tụng kinh. Tuy Duyệt Chúng là dịch nghĩa của chữ Duy Na, nhưng nay chữ Duyệt Chúng lại thường được hiểu là người giữ mõ trong khi tụng kinh.

[55] Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập là một bộ từ điển Phạn Hán do ngài Pháp Vân soạn vào đời Tống. Từ năm Thiệu Hưng 13 (1143) đời Tống Cao Tông, Sư thâu thập tài liệu suốt 20 năm, qua nhiều phen chỉnh lý mới hoàn thành. Bộ sách này chú giải 2.040 từ ngữ trọng yếu trong kinh Phật, chia làm 64 thiên theo bộ loại. Với mỗi từ ngữ, nêu đại ý và liệt kê những cách dịch khác nhau cũng như xuất xứ của những từ ngữ ấy.

[56] Tiên chúa: vua đã mất. Tự quân: vua nối ngôi.

[57] Báo chung: Chuông nhỏ thường treo trong thiền đường, hay tăng xá dùng để báo giờ ngồi Thiền, tụng kinh, niệm Phật, hoặc triệu tập đại chúng. Hô bản: Theo Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy, Bản có hình dạng gần như một tấm gỗ phẳng, có nhiều thứ, tùy theo công dụng mà làm bằng gỗ hay kim loại. Trong các Đường có loại gọi là Báo Danh Bản (khi hòa thượng trụ trì vào thiền đường, trực nhật tăng sẽ đánh một tiếng cho đại chúng biết. Khi khách viếng thăm, bước vào khách đường đánh hai tiếng. Vị đứng đầu Đường ấy vào Đường thì đánh ba tiếng). Trong mỗi Đường loại có các loại bản khác như bản để đánh khi chạy hương, bản để đánh khi thắp hương v.v… Mộc Dục Bản treo trong nhà tắm, được đánh lên khi nước nóng đã sẵn sàng. Các loại này đều bằng gỗ. Hô Bản được nói ở đây là loại bản đúc bằng đồng hay sắt treo trước cửa nhà bếp, được đánh lên để báo giờ cơm đã bắt đầu. Đại khánh là chuông gia trì, tức chuông để gõ trong khi tụng kinh.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Sớ quyên mộ thiếp vàng tượng La Hán chùa Pháp Vũ (viết thay)

20. Sớ quyên mộ thiếp vàng tượng La Hán chùa Pháp Vũ (viết thay)


Đấng Đại Giác Pháp Vương xuất hiện trong thế gian, tùy cơ thuyết pháp, độ thoát chúng sanh, ắt phải có Bồ Tát, Thanh Văn phụ giúp giáo hóa thì mới có thể độ khắp mọi loài, khiến đều được lợi ích. Ví như một người ngự trên ngôi báu, trăm quan giúp cai trị, mới có thể rủ áo khoanh tay, ngồi hưởng thái bình. Vì thế, khi có bậc vượt trỗi Thập Địa, đức bằng Đẳng Giác xuất thế thì phải có bậc tam kỳ quả mãn, vạn đức nhân tròn đầy ẩn giấu thật đức, quyền biến thị hiện Tiểu Quả, như kinh Pháp Hoa nói các vị A La Hán bên trong đều ngầm tu hạnh Bồ Tát, ngoài hiện tướng Thanh Văn, nếu chưa đạt đến địa vị Phật nào ai có thể suy lường được nổi!

Hơn nữa, Phật sắc truyền các A La Hán thường trụ thế gian, nhận sự cúng dường của trời người để làm phước điền cho đời như năm trăm vị đại A La Hán. Mười tám vị La Hán[58] là thủ lãnh của họ. Do vậy, tùng lâm, Phật điện đều đắp hình tượng để người chiêm lễ diệt tội tăng phước. Pháp Vũ thường trụ chính là đạo tràng viên thông của Quán Âm Đại Sĩ, được bao triều đại sắc kiến[59], được cả cõi đời tôn sùng. Do vậy, dựng điện bèn tạo tượng chín con rồng quấn quanh, tượng thánh thì đắp hình tượng từ bi của Đại Sĩ. Mười tám vị La Hán chia ra ngồi hai bên, như các ngôi sao chầu về Bắc Đẩu, phụ giúp sự giáo hóa từ bi.

Nhưng do năm tháng đã lâu, sắc vàng tróc rớt, chẳng những là khó coi, mà quả thật còn khó thỏa thánh linh. Lão nạp muốn thếp vàng lại kim thân ngõ hầu được chiếu rọi tam thiên mãi mãi, nếu không nhiều lần kêu gọi góp của làm sao có thể hoàn thành được một hai phần. Dùng lời sớ này để giãi bày trọn vẹn lòng ngu thành, mong cầu thập phương thiện tín tùy duyên vui vẻ giúp cho vàng, tiền, để thánh tượng tự phóng quang minh sáng ngời. Sẽ thấy do nhân như thế, cảm được quả như thế, vị lai cũng sẽ chứng kim sắc thân, làm phước điền cho đời. Còn như trong đời này tai chướng tiêu diệt, phước thọ tăng cao, tiền trình xa lớn, hậu duệ dài lâu chỉ là chuyện nhỏ nhặt mà thôi!

-----------------------------------------
[59] Vua hạ chiếu sai người xây dựng, tu bổ thì gọi là “sắc kiến” hay “sắc tạo”. Chùa được vua công nhận là quốc tự thì gọi là Sắc Tứ.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Sớ quyên mộ xây dựng Như Ý Liêu chùa Pháp Vũ (viết thay)

21. Sớ quyên mộ xây dựng Như Ý Liêu chùa Pháp Vũ (viết thay)

Sanh - lão - bệnh - tử ai nấy đều có. Như Lai thuyết pháp, đầu tiên là trình bày những điều này. Ấy là muốn cho chúng sanh ngộ được đạo trọng yếu để thoát khổ, chứng Phật tánh vốn sẵn đủ; do vậy, vĩnh viễn lìa huyễn khổ, thường hưởng chân lạc. Nhưng trong tứ khổ, bệnh - tử là nặng nề nhất. Tại gia thì có quyến thuộc trông nom, săn sóc; xuất gia chỉ trơ trọi một thân, không nơi nương tựa. Vì thế, từ xưa, cổ đức thể hội lòng từ của Phật, lập ra liêu xá, tuyển người chăm sóc, khiến cho ăn uống, thuốc thang, thảy đều như ý, không kém ngoài đời cho mấy. Đấy chính là cội nguồn của Như Ý Liêu vậy.

Phổ Đà là danh sơn bậc nhất trong thiên hạ, bổn tự lại là một trong ba đại tùng lâm của núi này. Vì thế, nạp tăng mười phương qua lại không ngớt, những người ở lại lâu không đi số đến cả trăm. Thế nhưng Như Ý Liêu chật chội, tù túng, lại thêm sản nghiệp thường trụ ít ỏi, chẳng đủ để phù hợp với thân tâm người bệnh. Lại không đủ sức cung ứng thuốc thang cho người bệnh. Liêu tên Như Ý, nhưng nghĩa chưa tròn!

Kể từ khi lão nạp mới tiếp nhận trụ trì, đã coi chuyện này là nhiệm vụ cấp bách, muốn tạo dựng bảy gian tinh xá riêng, gian giữa thờ thánh tượng Như Lai, gian sau thờ bài vị của những vị Tăng đã mất, khiến cho người bệnh có chỗ lễ tụng, quán cảm dễ khởi. Hai bên phân làm mười hai gian, trừ phòng hương đăng ra, đều dùng làm chốn dưỡng bệnh. Ít thì mỗi người một liêu, nhiều thì hai người ở chung một liêu. Hai bên cách biệt để không sợ bị truyền nhiễm, thân tâm vui sướng, dễ được lành bệnh không cần đến thuốc. Hết bệnh thì mặc tình đi hay ở, mất thì sẽ chôn cất, khiến cho người đến thì sống có chỗ y chỉ, mất thì có chỗ quy túc. Lại để riêng một trăm mẫu ruộng để sau này chi dùng vào quan quách, thuốc men, khắc bia thông cáo rõ, khiến cho vị trụ trì nhậm chức trong tương lai chẳng dám phế bỏ, sửa đổi chuyện này. Khẩn cầu các vị đại hộ pháp, vui vẻ chia hạc bổng, bỏ ra phù nang[60] khiến cho chuyện này chóng được viên thành, ngõ hầu phước báo vĩnh viễn không thiếu sót, sẽ thấy Phật trời gia hộ như mây nhóm, cát khánh đua nhau xảy đến, ngũ phước ùn ùn, điều tốt lành lan đến tận hậu duệ.


Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Quyển thứ hai hết
(Phần 5 hết)


----------------------------
[60] Theo từ điển Từ Hải, “hạc bổng” là bổng lộc của quan chức, phù là một loại côn trùng, vừa có nghĩa là đồng tiền. Như vậy, “phù nang” là túi đựng tiền.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa in tặng tranh Cực Lạc (viết thay)

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Quyển thứ ba
(Phần 1)



IV. Tự

1. Lời tựa in tặng tranh Cực Lạc (viết thay)



Giáo pháp của pháp môn Tịnh Độ lớn lao thay! Tâm này làm Phật, tâm này là Phật, pháp Trực Chỉ Nhân Tâm còn phải nhường phần kỳ đặc (lạ lùng, đặc biệt). [So với cách tu] “dùng ngay cái tâm này niệm Phật, niệm niệm thành Phật” thì lợi ích đạt được do trải bao kiếp tu chứng vẫn phải kém hơn. Độ khắp thượng trung hạ căn, thống nhiếp Luật, Giáo, Thiền Tông, như mưa đúng thời nhuần thấm muôn vật, như biển cả dung nạp các sông. Hết thảy các pháp Thiên, Viên, Đốn, Tiệm, không pháp nào chẳng từ pháp giới này lưu xuất; hết thảy hạnh Đại - Tiểu, Quyền - Thật, không hạnh nào chẳng quy về pháp giới này. Chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà được dự vào Bổ Xứ, ngay trong một đời này viên mãn Bồ Đề. Chúng sanh trong chín pháp giới lìa môn này thì trên chẳng thể viên thành Phật đạo; mười phương chư Phật bỏ pháp này thì dưới chẳng thể lợi khắp quần manh. Do vậy, Hoa Nghiêm hải chúng hết thảy đều tuân theo mười đại nguyện vương. Pháp Hoa xưng niệm một tiếng[1] đều chứng Thật Tướng các pháp.

Hạnh phương tiện tối thắng, ngài Mã Minh dạy trong luận Khởi Tín. Đạo dễ hành chóng đến, ngài Long Thọ xiển dương trong luận Tỳ Bà Sa. Ngài Trí Giả là hậu thân của Phật Thích Ca, nói Thập Nghi Luận, chuyên chí Tây Phương. Ngài Vĩnh Minh là Phật Di Đà thị hiện, soạn Tứ Liệu Giản, suốt đời niệm Phật. Hội tam thừa ngũ tánh[2] cùng chứng chân thường, dẫn thượng thánh hạ phàm cùng lên bờ kia. Vì thế, [pháp này] được chín pháp giới cùng quy về, mười phương cùng khen ngợi. Ngàn kinh cùng xiển dương, vạn luận đều tuyên nói. Thật có thể gọi là lời bàn luận tột cùng trong giáo pháp cả một đời [đức Phật], là đại giáo Nhất Thừa vô thượng vậy! Chẳng gieo cội đức, dù trải bao kiếp vẫn khó thể gặp gỡ. Đã được thấy nghe, hãy nên siêng năng tu tập!

Bất Huệ sanh nhằm đời Mạt, may mắn gặp được môn này, thẹn không có sức tự lợi lợi tha, nhưng hơi có tâm tự lập, lập người, muốn cho sang, hèn, trí, ngu, Tăng, tục, nam, nữ, bỏ nẻo khách trở về nước mình, buông cõi uế sanh về Liên Bang; do vậy, vẽ bức hình y báo chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc để nêu bày cảnh tịnh, nhằm phát sanh lòng tin tưởng. Cạnh bức vẽ ghi Niệm Phật Khởi Chỉ Nghi (nghi thức niệm Phật) và pháp môn Thập Niệm để ai nấy tùy phần tùy sức tu trì hằng ngày. Đầu đời Minh, ở Cẩn Giang có một vị đại thiền sư tên là Diệu Hiệp triệt ngộ Thiền Tông, thông hiểu sâu xa giáo lý, tự hành, dạy người chuyên chú trọng Tịnh Tông. Tác phẩm Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ[3] của Ngài văn lẫn lý đều hay, hay tuyệt xưa nay! Thiên sách luận về y báo, chánh báo Cực Lạc của Ngài trình bày rõ diệu cảnh của Lạc Bang, bao quát các kinh Tịnh Độ, cùng bức tranh Cực Lạc nói trên chiếu rọi lẫn nhau không sót chút nào. Do vậy, bèn y theo nguyên bản, chép lại ở dưới, ngõ hầu người thấy nghe lễ tụng biết đạo trọng yếu để thoát khổ, biết cái nhân thật sự để tu thành Phật. Tín nguyện tùy ý phát sanh, chấp trì Phật hiệu không ngơi.

Từ đây, cùng lìa cõi uế, cùng sanh về nước tịnh, cùng hầu Di Đà nơi chín phẩm sen, cùng viên mãn Chủng Trí trong một niệm. Lợi ích như vậy làm sao diễn tả được nổi? Ấy là dùng Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm (cái tâm để tu nhân) cho nên nhân trùm biển quả, quả thấu nguồn nhân. In thạch bản (lithography) một vạn tấm để kết tịnh duyên. Lại mong thiện tín xoay vần lưu thông để hết thảy hữu tình trong mười phương pháp giới cùng về lại quê nhà sẵn có của chính mình, luôn trụ trong Tịch Quang Tịnh Độ vậy!

------------------------------------------
[1] Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện, có câu: “Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng nam-mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo” (Nếu ai tâm tán loạn, vào trong nơi tháp miếu, niệm mô Phật một tiếng, đều đã thành Phật đạo)

[2] Tam thừa ngũ tánh: Tam thừa là Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát. Ngũ tánh: Theo Hoa Nghiêm Kinh Sớ, chúng sanh có năm chủng tánh thành Phật bất đồng:

1) Bất định tánh: Tức căn tánh không nhất định, gần gũi Thanh Văn thì tu pháp Thanh Văn, gần Duyên Giác bèn tu pháp Duyên Giác v.v…
2) Vô chủng tánh tức hạng người không có chánh tín, thiện căn, bác không nhân quả, chẳng cầu giải thoát.
3) Thanh Văn Tánh.
4) Duyên Giác tánh.
5) Bồ Tát tánh.

Duy Thức Học lại phán định Ngũ Tánh như sau:

1) Bồ Tát Định Tánh
2) Thanh Văn Định Tánh
3) Duyên Giác Định Tánh
4) Tam Thừa Bất Định Tánh
5) Vô Tánh Hữu Tình.

Ba chủng tánh đầu quyết định thành tựu thánh quả, hai chủng tánh sau không nhất định.

[3] Bộ luận này được xếp vào tập 47 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, đánh số 1974. Nội dung gồm hai mươi hai môn, môn đầu tiên chính là phần Y Báo Chánh Báo Cực Lạc được Tổ nhắc đến trong lời tựa trên đây. Quyển thượng gồm chín môn như Cực Lạc Y Chánh, Phá Vọng Hiển Chân, Ha Mậu Giải (quở trách kiến giải sai lầm) v.v… chú trọng về phương diện lý luận, đả phá quan điểm hẹp hòi, chấp trước vào Thiền, vào Lý, biện giải Cực Lạc là cõi chân thật không phải là hóa thành v.v… Quyển thứ hai gồm 13 môn, phân tích tỉ mỉ đường lối, phương pháp, khắc trừ chướng ngại, cũng như lược nêu công hạnh của chư Tổ Tịnh Độ tông. Bài “mười điều tâm niệm” thường thấy trong các tùng lâm Việt Nam được trích từ tác phẩm này.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa in lại Phật Thuyết A Di Đà Kinh (viết thay)

2. Lời tựa in lại Phật Thuyết A Di Đà Kinh (viết thay)

Trộm nghĩ giáo pháp Tịnh Độ được khởi đầu bởi Di Đà đạo sư, được diễn bày bởi Thích Ca Thế Tôn, mười phương chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài tán dương, thánh hiền hai cõi phát tâm Kim Cang lưu truyền. Nói tóm lại, giáo pháp suốt cả một đời đức Phật, trăm ngàn pháp môn, không pháp nào chẳng khiến cho con người dùng Văn Tự Bát Nhã để khởi Quán Chiếu Bát Nhã. Do Quán Chiếu Bát Nhã bèn chứng Thật Tướng Bát Nhã. Đã chứng Thật Tướng Bát Nhã thì “tâm tịnh, cõi tịnh, tình không, cảnh không”, như một vầng trăng in bóng khắp ngàn con sông, như vạn ống tiêu cùng kêu bởi một trận gió. Quang minh, thọ mạng tột cùng chiều ngang, thông thấu chiều dọc, cùng tồn tại lâu dài giống như đức Di Đà Thế Tôn. Như vậy thì kinh nào chẳng phải là kinh Tịnh Độ, hạnh nào chẳng phải là hạnh Tịnh Độ?

Ước trên bề mặt, chỉ có ba kinh Tịnh Độ là chuyên giảng về Tịnh Độ đến tột cùng. Nhưng mở bày rộng lớn nguyện luân, minh thị sâu xa duyên khởi thì chỉ có kinh Vô Lượng Thọ. Chuyên xiển dương pháp quán, dạy thêm về nhân vãng sanh thì chỉ có Thập Lục Quán Kinh. Hai kinh nói trên pháp môn rộng lớn, đế lý tinh vi, kẻ độn căn đời Mạt thật khó được lợi ích. Tìm một bản kinh văn tự đơn giản, nghĩa lý phong phú, chữ nghĩa gọn ghẽ, lý dồi dào, thích hợp khắp ba căn, chín pháp giới cùng tuân phụng, hạ thủ dễ, thành công cao, dùng sức ít mà được hiệu quả nhanh chóng, dốc sức tu một hạnh mà viên thành vạn đức, khiến cho cái tâm tu nhân nhanh chóng khế hợp quả giác thì chỉ có Phật Thuyết A Di Đà Kinh mà thôi! Ấy là vì vừa nghe “y báo, chánh báo trang nghiêm, thượng thiện nhân cùng nhóm hội” thì lòng tin thật sự sẽ nẩy sanh, nguyện thiết tha sẽ phát, ắt sẽ có cái thế cuồn cuộn như sông ngòi không sao ngăn được. Từ đấy, khăng khắng gìn giữ, chấp trì vạn đức hồng danh, niệm đâu chú tâm vào đó cho đến khi nhất tâm bất loạn. Làm được như vậy thì trong đời này đã dự vào dòng thánh, lâm chung theo Phật vãng sanh, khai tri kiến Phật, cùng được thụ dụng như Phật. Do vậy, biết rằng: Một pháp Trì Danh chứa đựng trọn vạn hạnh, toàn sự chính là lý, toàn vọng chính là chân, nhân tột biển quả, quả thấu nguồn nhân, thật có thể gọi là “đường tắt để trở về nguồn, là môn trọng yếu để nhập đạo” vậy! Cổ đức nói: “Học đạo nơi những môn khác như con kiến trèo lên núi cao. Niệm Phật vãng sanh như buồm căng gió thuận nước”, thật có lý!

Tôi túc nghiệp sâu nặng, rất hâm mộ Tịnh tông, tuy không có sức tự lợi lợi tha, nhưng khá có tâm tự lập, lập người, nên in lại kinh này để rộng lưu truyền khiến cho người đọc đến ai nấy đều chấp trì danh hiệu, đều cùng nhất tâm. Vượt khỏi trần thế, tu lên Cực Lạc, dùng nguyện luân “nhiếp thủ chúng sanh” của ngài Pháp Tạng, nương theo cảnh duyên Tịnh Độ tiến thẳng về Phật Quả, ngõ hầu kinh “không ai hỏi, Phật tự nói này” chẳng trở thành giảng xuông, có ai nghe được hạnh này đều thật sự hành, bèn dập đầu nói kệ tụng để kính cẩn khuyên lơn như sau:

Người thấy nghe, tùy hỷ,
Đều phát tâm Bồ Đề,
Hết một báo thân này,
Cùng sanh cõi Cực Lạc.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa khắc lại cuốn Di Đà Lược Giải Viên Trung Sao, khuyên nên thọ trì

3. Lời tựa khắc lại cuốn Di Đà Lược Giải Viên Trung Sao, khuyên nên thọ trì


Một pháp Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ chính là đạo trọng yếu để phổ độ chúng sanh của mười phương chư Phật, là diệu môn để mau chứng Phật quả của chúng sanh trong chín giới. Các kinh Đại Thừa đều dạy về pháp trọng yếu này; nhưng ba kinh Tịnh Độ chuyên giảng pháp này đến cùng tột. Thế gian thường quen thói chẳng suy xét, coi là pháp thiển cận, cho rằng chẳng rộng sâu như biển Giáo, chẳng thẳng chóng như Thiền Tông, thường xiển dương Tông, Giáo, đè nén Tịnh Độ, chuộng tự lực, ghét Phật lực. Thấy việc nhân mà nhường, thấy chuyện nghĩa chẳng làm, đến nỗi bi tâm triệt để của Như Lai bị khuất lấp chẳng thông suốt được, đường tắt thoát khổ của chúng sanh bị bế tắc chẳng thông. Nay chẳng nề hà bị chê trách, nêu chứng cứ đại lược mong sao người thấy nghe tùy hỷ cùng sanh về liên bang. Lúc Như Lai mới thành Chánh Giác, vì bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ diễn giảng kinh Đại Hoa Nghiêm. Đến phẩm Nhập Pháp Giới, Thiện Tài do tâm Thập Tín đã mãn, vâng lời ngài Văn Thù dạy, tham học với khắp các tri thức. Thoạt đầu gặp ngài Đức Vân, vừa được nghe pháp môn Niệm Phật liền chứng Sơ Trụ. Từ đó hễ tham học liền chứng, cho đến chỗ của vị tri thức thứ năm mươi ba là ngài Phổ Hiền. Phổ Hiền dùng oai thần gia bị, ngay lập tức, sở chứng của Thiện Tài bằng với Phổ Hiền, bằng với chư Phật, ngài Phổ Hiền bèn giảng mười đại nguyện vương khuyến khích Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong Quán kinh, hàng Ngũ Nghịch Thập Ác khi tướng địa ngục hiện, niệm Phật mười tiếng liền được vãng sanh. Pháp Thân đại sĩ đều nguyện vãng sanh, A Tỳ tội nhân còn dự vào phẩm chót. Pháp môn rộng sâu, thẳng chóng, có pháp gì hơn được nữa!

Thật có thể gọi là kim chỉ nam trong biển Giáo, là Bắc Cực của Thiền Tông. Hết thảy các pháp, không pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp giới này; hằng sa diệu nghĩa, không nghĩa nào chẳng quy hoàn pháp giới này.

Vì thế, bên Tây Thiên: Văn Thù, Phổ Hiền, Long Thọ, Mã Minh, bên Đông Độ: Viễn Công (tổ Huệ Viễn), Trí Giả, Thiện Đạo, Vĩnh Minh hoặc phát nguyện nói kinh (ngài Văn Thù có kinh phát nguyện, ngài Phổ Hiền nói phẩm Hạnh Nguyện), hoặc chú giải kinh, tạo luận, không vị nào chẳng dùng pháp môn này để tự hành, dạy người, lợi khắp hàm thức. Cổ nhân muốn cho cả cõi đời cùng tu nên đem kinh A Di Đà xếp vào khóa tụng hằng ngày. Do kinh này lời lẽ ngắn gọn, nghĩa lý phong phú, hành giản dị mà hiệu quả nhanh chóng, nên bậc hoằng pháp đại sĩ chú sớ, tán dương, từ xưa đến nay không biết bao nhiêu mà kể! Trong số ấy, tìm lấy bản thật rộng lớn, thật tinh vi thì không gì bằng bộ Sớ Sao của ngài Liên Trì. Còn bản thẳng chóng, quan trọng, hay khéo thì không gì bằng bộ Yếu Giải của ngài Ngẫu Ích. U Khê pháp sư[4] nắm giữ pháp ấn Đế Quán Bất Nhị của Thiên Thai Giáo Quán, soạn bộ Lược Giải Viên Dung Trung Đạo Sao, lý cao sâu nhưng hàng sơ cơ vẫn hiểu được, văn lưu loát, thông đạt, khiến người tu lâu đều khâm phục. Hiềm vì lưu thông đã lâu, bị sai ngoa quá nhiều. Do vậy, tôi giảo chánh, cho khắc ván lại, ngõ hầu khôi phục diện mạo cũ. Kinh Di Đà có được ba bộ sớ giải này thì không pháp gì chẳng hoàn bị, không căn cơ nào chẳng thâu tóm. Tùy ý nghiên cứu một bản nào cũng đều có thể biết chỗ chỉ quy. Đọc trọn cả ba bộ sách ấy mới kham thấu hiểu triệt để điều sâu xa yếu diệu. Từ đấy, phát trọn vẹn ba tâm, chấp trì thánh hiệu, mong thoát khỏi đời ác ngũ trược, mong chứng được Tứ Đức[5] sâu thẳm. Như vậy, đến lúc lâm chung, chắc chắn được Phật Di Đà tiếp dẫn, thánh chúng đều tiếp nghênh, gởi chất nơi thai sen, lìa đường hiểm, ở yên nơi bảo sở[6]. Nghe pháp thọ ký, từ Đồng Cư bèn nhanh chóng chứng Tịch Quang, xắn tay hành ngay, nào ai chẳng có phần. Giãi bày tấm lòng ngu muội dám thưa cùng đồng nhân.

------------------------------------------
[4] Ngài U Khê là một vị cao tăng thuộc tông Thiên Thai. Sanh vào năm 1554 nhằm đời Gia Tĩnh nhà Minh, là người huyện Tây An, phủ Cù Châu, tỉnh Chiết Giang, pháp tự Vô Tận, pháp hiệu Hữu Môn. Lúc nhỏ lễ ngài Hiền Ánh Am thiền sư xin thế độ, sau theo ngài Bách Tùng Chân Giác nghe giảng kinh Pháp Hoa, học Thiên Thai Giáo Quán Tông. Năm 1582, nhân hỏi ngài Bách Tùng về yếu chỉ đại định, bị Sư trừng mắt nhìn, đột nhiên khế ngộ. Ngài Bách Tùng bèn truyền cho kim vân tử ca-sa. Năm Vạn Lịch 15 (1587), về trụ tích tại chùa U Khê Cao Minh trong núi Thiên Thai, giảng dạy học trò, nghiên cứu, tu tập Thiền và Tịnh Độ. Thế gian gọi Ngài là U Khê Đại Sư từ đó. Sư thường tu các pháp sám Pháp Hoa, Đại Từ, Kim Quang Minh, Di Đà, Lăng Nghiêm v.v… Mỗi năm cử hành tu bốn thứ tam-muội, luôn đem thân làm gương đốc suất đại chúng. Khi Ngài đang giảng pháp, đại chúng chợt nghe có tiếng nhạc trời réo rắt, Sư biết đã đến lúc, giảng xong, bèn viết năm chữ “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”, lớn tiếng xướng tựa đề kinh hai lượt, rồi nghiễm nhiên thị tịch, hưởng 75 tuổi. Ngài còn để lại các tác phẩm Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận, Lăng Nghiêm Kinh Huyền Nghĩa, Tánh Thiện Ác Luận, A Di Đà Kinh Lược Giải Viên Trung Sao, Duy Ma Kinh Vô Ngã Sớ, Thiên Thai Truyền Phật Tâm Ấn Ký Chú, Tịnh Độ Pháp Ngữ, Thiên Thai Sơn Phương Ngoại Chí, Quán Kinh Đồ Tụng.

[5] Tứ Đức là thường - lạc - ngã - tịnh.

[6] Bảo sở: Kinh Pháp Hoa, phẩm Hóa Thành có nêu thí dụ một người dẫn đường, khéo thông hiểu phương tiện, dẫn đại chúng đến chỗ có kho báu (bảo sở). Đại chúng đi đường xa, chán mệt, muốn bỏ về, vị hướng đạo bèn hóa ra cái thành cho đại chúng nghỉ ngơi. Khi mọi người đã nghỉ khỏe, liền nói: “Đây chỉ là hóa thành, chưa phải bảo sở chân thật”. Bảo sở ví như Phật quả, hóa thành ví như những địa vị trong tam thừa.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa giảo chánh khắc in lại sách Tùy Tự Ý Tam Muội

4. Lời tựa giảo chánh khắc in lại sách Tùy Tự Ý Tam Muội


Phật pháp rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không. Muốn tu tập nhưng chẳng nắm được chỗ trọng yếu, ắt đến nỗi dõi nhìn biển rộng thở than, sanh ý tưởng lui sụt. Nếu đạt được chỗ trọng yếu, dù có vô lượng pháp môn, vô biên hành tướng, nhưng một khi đã nắm được thì càng rộng càng thấy gọn, càng phức tạp càng thấy giản dị. Tuy Lý tánh rộng lớn cao sâu như trời, như đất, như núi, như biển, nhưng phàm phu sát đất vẫn có thể tiến trên đạo này. Nhờ pháp này bèn đoạn Phiền Hoặc, chứng tam-muội, trọn vẹn phước huệ để chứng Tứ Đức, tiến thẳng đến Quả Giác, thành Vô Thượng Đạo, huống gì thánh nhân đã đạt những địa vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa ư! Chỗ trọng yếu ấy như thế nào? Chính là “thật thể, thật tánh của hết thảy các pháp: Căn, Trần, Thức v.v… đều là không, vô sở hữu”. Hiểu rõ điều này thì bốn tướng vốn là không, tam luân thể không[7]. Vạn pháp sâm la, nhất đạo thanh tịnh. Phàm phu do mê nên pháp gì, chuyện gì cũng đều thành chướng ngại, đối với Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, Thất Đại đều khởi phiền hoặc, tạo nghiệp sanh tử. Thánh nhân do ngộ nên pháp gì, chuyện gì cũng là Chân Như. Đối với Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, Thất Đại đều chứng viên thông, thành đạo Bồ Đề. Mê - ngộ tuy khác, tánh vốn không hai; tánh tuy không hai nhưng khổ - vui thật khác.

Nam Nhạc đại sư[8] thương xót bèn soạn sách Tùy Tự Ý Tam Muội. Trong sáu oai nghi đi - đứng - nằm - ngồi - ăn uống - nói năng, chỗ nào cũng chỉ bày Thật Tướng các pháp. Có nghĩa là: tánh của Căn - Trần - Thức là không, vô sở hữu và tam luân thể không, tứ tướng[9] chẳng hề có được v.v… khiến cho con người đối với một cơ, một cảnh đều tự thấy được Thật Tướng, đều hiểu rõ tự tâm. Đâu đâu cũng chỉ dạy diệu hạnh thù thắng sáu Ba La Mật, khiến cho con người trong mỗi một động tịnh đều có thể thượng cầu hạ hóa, tự lợi, lợi tha. Những chỉ dạy ấy và Ấm, Nhập, Giới, Đại trong kinh Lăng Nghiêm đều là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh, những chuyện như ngôn ngữ, cư xử trong đời, nghề nghiệp mưu sinh… trong kinh Pháp Hoa đều thuận theo chánh pháp, đều chẳng trái nghịch Thật Tướng, những nghĩa lý “chẳng trụ vào đâu để sanh tâm, chẳng trụ vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp để hành bố thí, độ thoát hết thảy chúng sanh, nhưng chẳng thấy kẻ độ, người được độ” trong kinh Kim Cang thảy đều phù hợp khít khao! Đấy chính là đem pháp chính mình đã ngộ đã chứng giãi bày triệt để, phơi trọn hết ra, thí cho khắp hậu thế để mong ai nương theo pháp này mà tu sẽ cùng ngộ cùng chứng đó thôi!

Hơn nữa, Sơ Phát Tâm Bồ Tát được nói trong sách này vốn có hai nghĩa: Một là hàng phàm phu sát đất phát đại tâm; hai là hạng Sơ Phát Tâm Trụ trong Viên Giáo, vừa phá vô minh, thấy được Pháp Tánh. Pháp Tánh chính là tánh của Căn, Trần, Thức là không, vô sở hữu v.v… như vừa mới nói. Nơi địa vị phàm phu muốn hướng đến Phật quả thì trước hết phải ngộ được lý này rồi mới hòng thật chứng. Nếu không, dù có tu trì vẫn thuộc vào hữu lậu, chẳng thành Bồ Đề. Như sách chép: “Trong một niệm, ở trước khắp chư Phật mười phương cúng dường rộng khắp, nhận pháp hóa của Phật; ở trước khắp chúng sanh trong mười phương, tùy loại hiện thân, ứng cơ thuyết pháp, khiến cho khắp ba căn đều được lợi ích” thì chuyện này chỉ có hàng Bồ Tát Sơ Trụ trong Viên Giáo mới có thể làm được. Nếu chẳng biết lý này và sự tu này thông với phàm phu, ắt sẽ mắc lỗi “tuy đề cao thánh cảnh nhưng chính mình lại ở trong địa vị phàm phu”. Nếu không biết hàng Sơ Trụ mới đạt được đại thể đại dụng, ắt sẽ mắc tội khiên “chưa đắc nói là đắc, đem phàm lạm thánh”. Hiểu rõ điều này thì trên kính mộ chư thánh, dưới trọng tánh linh của chính mình. Đã không bị lỗi “đành lòng yên phận phàm ngu”, lại còn chẳng mắc tội lạm thánh, sẽ tiến thẳng trên đường giác, mau đạt đến bảo sở như đưa bằng khoán lấy lại vật cũ, nào có khó khăn gì! Do vậy, [tác phẩm này được] lưu thông khắp trong nước, ngoài nước. Tiếp theo là những nhân duyên được - mất đã được nói đầy đủ trong phần Tự và Bạt của lần in đầu tiên, nên ở đây không nhắc lại nữa.

Ông Từ Úy Như là bậc thế gia ở Chiết Tây, cả mười đời thờ Phật. Từ lúc thơ ấu đã được dạy dỗ chu đáo, lại kiêm học Phật thừa. Gần đây, việc công rảnh rỗi, đọc khắp các nội điển, tìm được bản sách này lưu truyền ở Nhật Bản, lắng lòng nghiên cứu, thấy bị sai ngoa quá nhiều. Do vậy, đem đối chiếu với Đại Tạng Nhật Bản, sửa đúng được mấy mươi chỗ rồi cho khắc ván hòng lợi lạc rộng khắp. Vì coi Lượng[10] tôi là người cùng chí hướng, bèn gởi tặng mấy bản. Do vậy, tôi thắp hương, cung kính đọc. Thấy văn lẫn nghĩa có nhiều chỗ chẳng ổn, như mây che lấp trăng, chẳng thấy được chân tướng. Trộm nghĩ: Sách này lưu truyền đến nay đã hơn một ngàn ba trăm năm, sao không khỏi sai ngoa? Do vậy, bèn dựa theo văn, căn cứ theo nghĩa, bỏ bớt việc để sửa chữa, thật giống như mây tan, trăng hiện, quang minh lẫn thể chất cùng tỏ bày, văn lẫn lý đều thông suốt, khiến tâm mắt người ta đều vui thích. Đem bản này gởi cho ông Từ, được ông thiết tha tán thành, chấp thuận, lập tức khắc in lại ngay.

Ông lại bảo tôi viết lời tựa để thuật duyên khởi. Lượng tôi tuy thô lậu, nhưng vì nghĩa chẳng thể từ tạ được. Phải biết lần khắc in này, tuy sửa chữa nhiều, nhưng thật ra không thay đổi gì. Chẳng qua chỉ là sửa cho đúng những chỗ sao chép bị sai lạc, ngõ hòng khôi phục bản lai diện mục cho trước tác của ngài Nam Nhạc mà thôi. Trong đời có người bệnh, thầy thuốc chẩn mạch còn biết được tạng phủ là hư hay thực, huống chi tác phẩm này văn nghĩa hiển lộ, có thể lấy làm chỗ căn cứ được, há chẳng thể biết được chỗ bị chép sót, sai lầm hay sao? Bậc đại phương gia ắt chẳng cho là Lượng tôi sửa chữa không cẩn thận mà quở trách sâu xa vậy!

--------------------------------------
[7] Lúc bố thí thấy người bố thí, người nhận, vật dùng để bố thí cả ba thứ vốn đều không.

[8] Nam Nhạc Huệ Tư (515-577) là cao tăng thời Nam Bắc Triều, người xứ Vũ Tân (nay thuộc tỉnh Hà Nam), thường được người đời gọi là Nam Nhạc tôn giả, hay Tư Đại Hòa Thượng. Ngài là vị tổ sư đời thứ hai của tông Thiên Thai (có thuyết nói là tam tổ). Ham thích Phật pháp từ nhỏ, rất quý mến kinh Pháp Hoa, từng mang kinh vào nghĩa trang đọc tụng. Ngài đọc kinh, nhỏ lệ ròng ròng. Trong mộng thấy Phổ Hiền Bồ Tát đến xoa đầu. Do vậy, đỉnh đầu nổi lên nhục kế. Sau khi xuất gia Ngài đến tham yết Huệ Văn thiền sư ở Hà Nam, được truyền pháp quán tâm. Có lần do than thở bản thân đã để luống uổng thời gian vẫn chưa chứng ngộ, mệt mỏi dựa mình vào vách, bèn hoát nhiên đại ngộ. Ngài là người đề xướng quan điểm Phật pháp đã bước vào thời kỳ suy vi, cần xác lập tín ngưỡng Tịnh Độ Di Đà và Tịnh Độ Di Lặc. Tuy chú trọng hành Thiền thực tiễn, Sư vẫn quan tâm nghiên cứu nghĩa lý. Năm 554, Sư đến Quang Châu, đi khắp nơi thuyết pháp suốt mười bốn năm. Ngài được ngưỡng vọng cũng lắm, mà bị kẻ đố kỵ phỉ báng cũng nhiều. Tại núi Đại Tô ở phía Nam tỉnh Hà Nam, Sư truyền pháp cho sư Trí Khải là học trò kiệt xuất nhất trong các môn đệ. Năm 568, Sư vào vùng Hành Sơn (Nam Nhạc) tỉnh Hồ Nam, ở lại đó suốt 10 năm thuyết pháp, nên được người đời gọi là Nam Nhạc tôn giả. Sau Tuyên Đế lễ thỉnh Sư hỏi đạo, gọi ngài là Đại Thiền Sư. Năm Thái Bình thứ chín, Sư nghiễm nhiên tọa hóa, thọ sáu mươi ba tuổi. Những trước tác của Ngài đa phần là do môn đồ ghi chép lại, nổi tiếng nhất là các bộ Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Phẩm Nghĩa, Chư Pháp Vô Tranh Tam Muội Pháp Môn, Đại Thừa Chỉ Quán Pháp Môn, Tứ Thập Nhị Tự Môn, Thọ Bồ Tát Giới Nghi.

[9] Tứ tướng là tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả.

[10] Tổ Ấn Quang pháp húy là Thánh Lượng.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa bản thạch ấn Phổ Đà Sơn Chí

5. Lời tựa bản thạch ấn Phổ Đà Sơn Chí

Quán Thế Âm Bồ Tát từ vô lượng kiếp trước thành Phật đạo đã lâu, hiệu là Chánh Pháp Minh, nhưng do ý niệm độ sanh khẩn thiết, tâm cứu khổ ân cần, chẳng lìa Tịch Quang, hiện hình trong sáu nẻo. Trong các cõi Phật nhiều như vi trần ở khắp mười phương, hiện đủ mọi sắc thân độ thoát chúng sanh, chứ nào phải chỉ hiện thân Bồ Tát. Còn Nhị Thừa, lục đạo, không đâu chẳng hiện thân. Kinh Pháp Hoa nói: “Nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy thuyết pháp”. Tuy vào khắp các cõi Phật mười phương, nhưng Ngài có nhân duyên rất sâu với cõi Sa Bà. Tuy hiện thân khắp mười pháp giới, nhưng căn cứ trên sự ứng tích, thế nhân chỉ nói Ngài là Bồ Tát mà thôi. Do Ngài chứng triệt để duy tâm, phô bày trọn vẹn tự tánh nên vận dụng lòng Bi đồng thể, khởi lòng Từ vô duyên. Do Bổn cao, Thể đại nên Tích quảng, Dụng rộng[11]. Tùy loại, tùy hình, theo tiếng cứu khổ. Thị hiện có cảm liền ứng, không nguyện nào chẳng thuận theo, như mặt trăng vằng vặc giữa trời, hiện bóng trong mọi nơi có nước. Không chỉ sông, hồ, rạch, biển đều hiện bóng toàn vẹn, dù chỉ một chước[12], một giọt, không đâu chẳng đều hiện bóng vẹn toàn.

Lại nữa, bóng trăng hiện trong sông, hồ, rạch, biển, một người nhìn vào thì mặt trăng ấy đối trước người đó; trăm ngàn vạn người ở trăm ngàn vạn nơi nhìn vào thì mỗi một người đều thấy trăng đối trước chính mình. Nếu người ấy đi sang Đông, trăng cũng theo sang Đông; nếu đi sang Tây, trăng cũng theo sang Tây. Nếu người ấy ngồi yên chẳng động, trăng cũng chẳng lìa nơi ấy. Từ một người cho đến trăm ngàn vạn người đều như vậy. Trong một niệm, nếu khắp pháp giới cảm, Bồ Tát bèn ứng khắp pháp giới. Cảm ứng đạo giao, không sai khác chút nào! Giống như mặt trăng hiện bóng trong các chỗ có nước, người nào, nơi nào cũng đều thấy trọn vẹn bóng trăng, trọn chẳng sai khác gì! Ấy là do Bồ Tát tâm gồm trọn thái hư, lượng gồm thâu các cõi nhiều như cát. Do lấy tâm chúng sanh làm tâm, do lấy cảnh của chúng sanh làm cảnh, nên chẳng nghĩ tưởng mà hợp, vô duyên bèn ứng. Há thế trí phàm tình hòng tính lường được nổi ư?

Còn nếu như nước đục, mắt lòa, thì trăng chẳng thể hiện, phải đâu trăng không hiện, mà là do lỗi của nước đục, mắt lòa ấy chứ! Xét cảm ứng trên mặt Tích, thì có hiển cảm hiển ứng, minh cảm minh ứng (cảm ngầm, ứng ngầm), minh cảm hiển ứng, hiển cảm minh ứng, vừa hiển vừa ngầm cảm mà lại hiển ứng, vừa ngầm vừa hiển cảm mà lại ngầm ứng… sai khác (“Hiển cảm hiển ứng” là ngay trong đời này dốc lòng thành, cạn lòng kính lễ niệm cúng dường thì sẽ được gia bị, gặp điều hung trở thành điều lành, gặp nạn thành may, và nghiệp tiêu chướng tận, phước tăng, huệ rạng v.v… “Minh cảm minh ứng” là trong đời quá khứ từng tu những hạnh cạn lòng thành, tận lòng kính lễ niệm, đời này tuy chưa tu tập, nhưng do túc nghiệp thiện căn, được Ngài gia bị mà không hay không biết, họa diệt, phước đến, nghiệp tiêu chướng tận v.v… “Minh cảm hiển ứng” là đời trước từng gieo thiện căn, đời này được gia bị. “Hiển cảm minh ứng” là đời này dốc lòng thành, kiệt lòng kính lễ niệm, chẳng thấy được gia bị, âm thầm được từ lực gia bị khiến hung lui, cát (tốt lành) đến, nghiệp tiêu chướng tận v.v… “Vừa hiển vừa ngầm ứng mà được hiển cảm” là đời trước đã từng gieo thiện căn, đời này dốc cạn lòng thành lễ niệm, được gia bị rõ ràng, chuyển họa thành phước v.v… “Vừa ngầm vừa hiển cảm mà được ngầm ứng” là đời trước từng gieo thiện căn, đời này dốc lòng thành lễ niệm, âm thầm được từ lực gia hộ, đạt được các thứ lợi ích. Hiểu rõ điều này sẽ biết công chẳng hư uổng, quả không lãng phí. Dẫu cho trọn đời chẳng thấy dấu hiệu gì được gia bị, cũng chẳng đến nỗi sanh tâm oán vọng, bỏ cuộc giữa đường. Đạo cảm ứng vi diệu khó thể nghĩ suy, tạm ghi đại lược để khơi gợi người sáng suốt trong mai sau).

Sự ứng hiện ấy lớn - nhỏ, hơn - kém là do lòng thành đã đến mức cùng cực hay chưa mà thôi! Dẫu cho tâm không thể tin chắc, chưa chí thành đến cùng cực, nhưng nếu có thể nhất niệm dốc lòng thành ắt cũng được lợi ích. Tùy theo một niệm chí thành của mình mà chia ra hơn - kém tuy lợi ích chẳng thể siêu tuyệt như người dốc cạn lòng thành, tận hết lòng kính. Giống như trăng vẫn hiện bóng trong nước đục, nhưng lờ mờ không rõ. Người mù tuy chẳng thể đích thân thấy được ánh trăng, nhưng có khi nào chẳng được ánh trăng chiếu đến? Bồ Tát đại từ đại bi, làm chỗ nương tựa cho các chúng sanh trong khắp pháp giới. Do vậy, nhân dân cả nước ai nấy đều tín phụng, vì thế mới thường nói “nhà nhà Quán Thế Âm”.

Đạo tràng ứng hóa của Ngài cố nhiên không phải chỉ một chỗ. Như Nam Ngũ Đài Sơn, Đại Hương Sơn ở Thiểm Tây, Thiên Trúc Sơn ở Chiết Giang v.v… là những nơi cảm ứng rõ ràng, hương đèn nhộn nhịp, nhưng chỉ có Nam Hải Phổ Đà Sơn thật là bậc nhất do tên chỗ này được ghi trong kinh Hoa Nghiêm, năm xưa Thiện Tài đích thân tham học [tại đây]. Ân trọn khắp mọi loài, hoàng đế các đời sắc kiến, nên được cả cõi đời sùng kính, các nước ngưỡng mộ. Tưởng nghĩ Bồ Tát ứng hóa cho hàng căn cơ Đại Thừa trong tam thừa thiên tiên, nên trải bao kiếp thường trụ nơi núi này, chứ nào phải chỉ dài lâu như trời như đất. Nhưng về phía thị hiện ứng tích cho phàm phu thì trong năm Trinh Minh thứ hai (916) nhà Châu Lương[13] thời Ngũ Đại, Huệ Ngạc đại sư thỉnh tượng Quán Âm bằng đồng từ núi Ngũ Đài muốn đưa về Nhật Bản. Đi đến đây, thuyền bị ách lại không đi được nữa, mới bèn khai sơn. Đến nay đã hơn một ngàn năm, sự tích, thi văn được biên soạn thành tập với tựa đề là Phổ Đà Sơn Chí. Tôi thường hay bệnh nên đối với những sự - lý cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát thật khó phát huy. Tính đọc khắp Đại Tạng, xem trọn các sách, phàm những sự tích Bồ Tát tùy cơ ứng theo lòng cảm đều ghi chép đầy đủ, khắc bản lưu thông, một là để xiển dương đạo mầu độ sanh của Bồ Tát, hai là khải phát duyên lành thoát khổ cho chúng sanh; nhưng do bệnh mắt chưa lành, chưa thể như nguyện.

Cư sĩ Hà Liêm Thần ở Cối Kê, thấu hiểu tâm tủy đạo Nho, y thuật được xưng là quốc thủ[14], chí hạnh cao khiết, tín tâm thuần chân, từng kêu gọi đồng nhân lập Tang Du Xã[15], với ý nghĩa cảnh chiều tà không còn nhiều, nghĩ cách quay về, đồng tu Tịnh nghiệp, cầu sanh An Dưỡng. Lại do hết thảy chúng sanh đắm chìm trong biển khổ đã lâu, chẳng nương vào pháp lực không cách nào vượt ra được, tính đem những sự tích ứng hóa của Bồ Tát làm thuyền cứu mạng, thả trong biển khổ, vung tay kêu gấp để dẫn dắt những kẻ chìm đắm lên thuyền, ngõ hầu cùng lên được bờ kia, về thẳng quê nhà, vĩnh viễn lìa khỏi các khổ, chỉ hưởng những sự vui. Do vậy, bèn cho in thạch bản cuốn Phổ Đà Sơn Chí để rộng lưu truyền hòng đền ân Đại Sĩ độ sanh, tạo nẻo cho chúng sanh gieo lòng thành. Ông bảo tôi viết lời tựa, khôn ngăn hoan hỷ, quên phứt mình kém hèn, liền đem những chuyện cảm ứng mầu nhiệm của Bồ Tát phát huy đại lược. Những sự tích khác, cố nhiên đã chép trọn vẹn trong sách, cần gì phải dài dòng nữa!

--------------------------------------
[11] Bổn: có thể tạm hiểu Bổn là quả vị chứng đắc thật sự, còn Tích là sự thị hiện. Thể là bản chất, còn Dụng là tác dụng, hoặc Thể là bản tánh, là thật quả, còn Dụng là tác dụng hóa độ, tùy cơ hiện tướng ứng hóa.

[12] Chước là đơn vị đo lường dung tích rất nhỏ.

[13] Nhà Lương thời Ngũ Đại do Châu Ôn sáng lập nên sử gọi là Châu Lương để phân biệt với nhà Tiền Lương của Lương Võ Đế (Tiêu Diễn) thuộc thời Nam Bắc Triều.

[14] Ý nói tài chữa bệnh rất giỏi. Khi xưa, những người giỏi về một tài nghệ nào thường được gọi là quốc thủ, chẳng hạn người đánh cờ vây giỏi cũng được xưng là “vi kỳ quốc thủ”.

[15] Dựa theo ý câu thơ cổ: “Nhật lạc tang du” (mặt trời lặn bên nương dâu) diễn tả cảnh chiều tà. Sau này thơ văn thường dùng chữ “nương dâu” để chỉ tuổi già.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa cho bức khánh đồ (tranh diễn tả chuyện vui mừng) nhà ông Hà Lãng Tiên ở Thiệu Hưng

6. Lời tựa cho bức khánh đồ (tranh diễn tả chuyện vui mừng) nhà ông Hà Lãng Tiên ở Thiệu Hưng

Xuân về trên cõi đất, trăm loài cây cỏ đều được sanh thành, gió lùa trên không, vạn ống sáo đều cùng trỗi tiếng. Trong đời chẳng có quả không nhân, cũng chẳng có cái nhân không quả. Ví như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, thanh hòa thì tiếng vang thuận, hình thẳng thì bóng ngay! Đấy là những điều cả cõi đời đích thân thấy biết, tin tưởng chắc thật không nghi! Hai chữ “nhân quả” bao trùm khắp hết thảy các pháp thế gian xuất thế gian trọn vẹn không còn sót. Thánh nhân thế gian không vị nào chẳng dạy rõ nhân quả, nhưng do các ngài chuyên chú nơi việc đời, muốn cho đạo ấy được tiếp nối, được truyền thừa, nên chỉ hạn cuộc trong đời này và đời cha, đời con, chứ không giảng rõ chuyện trước lúc sanh ra, chuyện sau khi đã chết, và những chuyện từ vô thỉ trước, chuyện tận vị lai sau. Những kẻ hậu học chẳng thể lãnh hội sâu xa ý thánh nhân, bèn cho người và vật được sanh ra là do bẩm thụ khí trời đất, ngẫu nhiên tụ hợp thành hình hài mà thôi! Đến khi chết đi, hình đã mục nát thì hồn cũng phiêu tán. Không nhân, không quả, thành Đoạn Diệt Kiến! Họ cô phụ thánh giáo, mê mất tánh linh của chính mình quá mức! Khổng Tử khen ngợi sách Châu Dịch[16], vừa mở đầu liền nói: “Nhà tích thiện ắt sự vui có thừa. Nhà tích điều bất thiện ắt tai ương có thừa!” Cơ Tử soạn sách Hồng Phạm[17], cuối sách bèn nêu rõ chuyện hưởng dụng ngũ phước, oai dùng lục cực.

Hai là nếu chẳng luận đến tam thế quá khứ, hiện tại, vị lai, thì sự ban tặng của trời đất, ngôn luận của thánh nhân, chánh lệnh của minh quân, phần nhiều sẽ mâu thuẫn nhau (như gian đảng được vinh hoa, phú quý, trung thần bị tru lục, Nhan Uyên đoản mạng, Đạo Chích[18] trường thọ v.v…) Nếu biết tiền nhân hậu quả thì cùng - thông, được - mất đều do ta tự chuốc lấy. Dẫu gặp phải nghịch cảnh, chẳng oán, chẳng hờn, chỉ thẹn đức mình chưa xứng, chẳng thấy lỗi lầm của trời hay người, vui theo mạng trời, không chuyện gì chẳng tự tại tiêu dao. Người ta chỉ thấy ông Hà một nhà từ hiếu, cả bốn đời cùng ở chung một nhà là vui, nhưng chẳng biết nguyên do là vì họ đã nhiều đời vun bồi nên được như vậy.

Phải biết thế giới Sa Bà thọ mạng ngắn ngủi, trăm năm là thượng thọ, nhưng mấy ai đạt được. Nay ông Hà may mắn có mẹ sống thọ đã tròn sáu mươi, nên mở tiệc hoa để mừng thượng thọ. Bày ra đủ loại thi văn để giúp vui cho tiệc chúc thọ. Có thể nói là dốc lòng thờ mẹ, lấy thân mình làm gương. Lại phải biết cái “tột cùng tam thế chẳng dời, chẳng biến, trải muôn đời chẳng giảm, chẳng tăng” mới là thọ lượng chân thật sẵn có nơi tự tâm của lão phu nhân. Bởi một niệm hiện tiền của chúng ta vốn tự linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng[19], quả thật chẳng hai chẳng khác gì với tam thế chư Phật. Nhưng do trái nghịch giác, xuôi theo trần lao, mê tâm chấp cảnh nên đến nỗi vốn chẳng dời, chẳng biến, chẳng tăng, chẳng giảm lại thường bị dời, biến, tăng, giảm, trọn chẳng lúc nào đạt được một niệm thường trụ bất động. Đức Đại Giác Thế Tôn ta thương xót, thị hiện sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, tùy thuận cơ nghi, rộng lưu ngôn giáo, khiến cho khắp hết thảy chúng sanh trái nghịch trần lao, hiệp theo tánh giác, khôi phục tâm tánh vốn có, diệt được huyễn nghiệp vốn chẳng có, hiểu rõ chân tâm vốn sẵn có. Vì vậy, kinh Hoa Nghiêm nói: “Lạ thay! Lạ thay! Hết thảy chúng sanh đều đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp trước nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí liền được hiện tiền”.

Phải biết: Trí huệ - đức tướng và vọng tưởng - chấp trước chỉ là một tâm, vốn không phải là hai vật. Mê thì toàn thể trí huệ - đức tướng liền trở thành vọng tưởng, chấp trước; ngộ thì toàn thể vọng tưởng, chấp trước liền thành trí huệ, đức tướng. Ví như nước đông thành băng, băng tan thành nước; cũng như say thấy nhà xoay, chứ nhà thật sự không xoay. Mê thì cho là phương hướng thay đổi, chứ phương hướng thật sự không đổi dời. Nói “vạn cảnh vốn nhàn, chỉ có tâm tự ồn náo. Một tâm không sanh, vạn pháp đều dứt”, chính là ý này. Lý này ngộ thì dễ, nhưng chứng thật khó. Nếu chẳng phải túc căn chín muồi, ai có thể tự chứng, tự đạt được! Vì thế, đức Thế Tôn ta riêng ban phương tiện, lập ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Bất luận thánh hay phàm, ngu hay trí, cho đến những hàng thiên tiên, Tu La, những loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chỉ cần chí thành phát nguyện trì danh hiệu Phật, thánh thì nhanh chóng thành Phật đạo, những loài khác đều đới nghiệp vãng sanh. Đã được vãng sanh thì Hoặc chẳng mong đoạn mà tự đoạn, đức chẳng mong chứng mà tự chứng. Ví như một mảnh tuyết rớt vào lò lớn, chưa đến nơi đã tan; đã gặp được người có đức thì ý niệm hèn tệ hoàn toàn tiêu.

Con hiếu đối với cha mẹ thì trước hết phải chú trọng cái gốc rồi mới lo đến cái ngọn, phụng dưỡng cái thân nhưng phải hướng dẫn cái tâm. Nếu chỉ biết hầu hạ, phụng dưỡng để cha mẹ được yên thân, lập thân hành đạo để cha mẹ được vẻ vang, chẳng biết dùng đạo vô sanh thường trụ, pháp Niệm Phật vãng sanh để khuyên dụ cha mẹ tu trì, sao cho sống thì niệm Phật hiệu, chết sanh về cõi Phật, từ tạ huyễn khổ sanh tử, hưởng chân lạc thường trụ, hầu hạ Phật Di Đà, dự trong hải chúng, nghe viên âm[20], Tam Hoặc[21] hết sạch, thấy diệu cảnh, tứ trí[22] viên minh, chẳng rời An Dưỡng, vào khắp mười phương, thượng cầu hạ hóa, rộng làm Phật sự, triệt chứng Phật tánh vốn sẵn có nơi tâm, rộng làm thuyền từ độ người trong biển khổ, thì có thể nói là “thấy sự nhỏ quên mất chuyện lớn, được gần bỏ xa, chỉ là cái thấy hạn hẹp của kẻ tầm thường, chẳng phải tầm mắt rộng lớn của bậc thông đạt”.

Nếu có thể làm cho mẹ cùng với mình và gia quyến cùng thoát Sa Bà, cùng sanh về An Dưỡng, cùng chứng vô lượng quang thọ, cùng hưởng pháp lạc tịch diệt, cùng làm pháp vương tử của Phật Di Đà, cùng làm đại đạo sư cho trời - người, thì mới là tận hết lòng từ hiếu, trọn tình nuôi dạy. Từ hiếu, giáo dục như vừa nói đó chẳng phải là từ hiếu giáo dục như thế gian thường nói. Đấy chính là chỗ khởi đầu và kết thúc cùng cực của bức gia khánh đồ này. Nếu chẳng cho lời tôi nói là sai, đợi đến khi cùng sanh về Tịnh Độ xong, sẽ dùng Đại Viên Kính Trí thâu nhiếp lấy hình ảnh trong Liên Trì Hải Hội tặng cho khắp những đồng bào trong biển khổ, tôi cũng sẽ dốc cạn lòng ngu thành viết tựa khen ngợi.

--------------------------------------
[16] Gọi là Châu Dịch vì người Trung Hoa tin rằng từ thời Phục Hy đã có kinh Dịch. Theo truyền thuyết, ngay từ thời nhà Hạ, kinh Dịch đã được chú giải với tên gọi là Liên Sơn Dịch. Qua đời Thương được diễn giải bổ sung thêm, gọi là Quy Tàng Dịch. Các bản này bị thất truyền. Châu Văn Vương là người tinh thông Dịch Lý và diễn giải kinh Dịch một cách có hệ thống, hệ thống này về sau lại được Khổng Tử san định lần nữa, và thường gọi là Châu Dịch.

[17] Theo từ điển Từ Hải, Hồng Phạm là một bộ cổ thư giảng về đại pháp trong thiên hạ.

[18] Đạo Chích là một tên trộm nổi danh thời cổ.

[19] “Linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng”: Đây là tám chữ tổ Liên Trì dùng để giảng về chân tánh. Trong bộ A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, pháp sư Cổ Đức đã giảng như sau: “Linh minh là thuần chân, linh minh chiếu suốt thấu trọn vẹn (đỗng triệt). Bản thể của Chiếu là trọn khắp mười phương. Trạm tịch là Tịch nhưng thường hằng, ý nói: bản thể của Tịch là thông suốt ba đời”. Nói cho dễ hiểu hơn: Tịch là tâm tánh thường tồn, chẳng nhiễm, không bị trần cảnh lay động, còn Chiếu là tác dụng quán sát, nhận biết của tâm nhưng không vướng mắc. Cổ nhân thường ví tâm như gương. Gương trong suốt, không nhơ (đó là Tịch), vật gì đến trước gương đều hiện bóng (đó là Chiếu). Hiện bóng nhưng không giữ lại vật gì (Chiếu mà thường Tịch), không giữ lại vật gì nhưng không gì chẳng hiện bóng trong gương (Tịch mà thường Chiếu).

[20] Viên âm: âm thanh viên mãn. Đức Phật dùng một âm thanh thuyết pháp mà mỗi loài nghe thấy đức Phật nói bằng ngôn ngữ của loài mình. Đức Phật nói một chữ mà tùy theo căn tánh người nghe sẽ hiểu vô lượng nghĩa. Do vậy, gọi âm thanh thuyết pháp của Phật là “viên âm”.

[21] Kiến Hoặc, Tư Hoặc, Trần Sa Vô Minh Hoặc là Tam Hoặc.

[22] Tứ trí: Còn gọi là Tứ Chủng Trí, tức bốn trí nơi Phật quả là Đại Viên Kính Trí, Bình Đẳng Tánh Trí, Diệu Quán Sát Trí, và Thành Sở Tác Trí. Tứ Trí do tám thức chuyển thành; thức thứ tám chuyển thành Đại Viên Kính Trí, thức thứ bảy chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí, thức thứ sáu thành Diệu Quán Sát Trí, và năm thức trước trở thành Thành Sở Tác Trí. Mật Giáo còn đặt thêm một trí nữa là Pháp Giới Thể Tánh và mỗi trí được biểu hiện bằng một vị Phật. Trong Kim Cang Giới, Pháp Giới Thể Tánh Trí là Phật Tỳ Lô Giá Na, Đại Viên Kính Trí là A Súc Bệ Phật (Bất Động Phật), Bình Đẳng Tánh Trí là Bảo Sanh Phật, Diệu Quán Sát Trí là A Di Đà Phật, và Thành Sở Tác Trí là Bất Không Thành Tựu Phật. Trong Thai Tạng Giới, Đại Viên Kính Trí là Bảo Tràng Phật, Bình Đẳng Tánh Trí là Khai Phu Hoa Phật, Diệu Quán Sát Trí là Vô Lượng Thọ Phật, Thành Sở Tác Trí là Thiên Cổ Lôi Âm Phật.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa quyên mộ làm chay cúng dường ngàn vị Tăng

7. Lời tựa quyên mộ làm chay cúng dường ngàn vị Tăng (viết thay cho hàng thiện nhân tại gia)


Rồng đất tuy chẳng thể làm mưa, nhưng cầu mưa ắt phải tế rồng đất. Phàm Tăng tuy chẳng thể giáng phước, nhưng cầu phước phải cúng phàm Tăng. Huống chi Quán Âm đại sĩ hiện thân trong các cõi nước nhiều như bụi trần, theo tiếng cứu khổ, ứng hóa lưu dấu tại Phổ Đà. Do vậy, bao triều đại khâm kính, cả cõi đời tôn sùng. Tăng chúng trong núi ấy và các vị từ mười phương đến đều là đệ tử của Như Lai, là con cháu của Đại Sĩ. Nhằm hội dâng hương, gần như có đến hai ngàn vị. Trong số ấy, thánh - phàm xen lẫn, hạnh - vị khó thể phân biệt. Há chẳng nên nghĩ đến ân Đại Sĩ, vun bồi nhân xuất thế, dùng tâm chí thành, bình đẳng cúng dường ư? Nếu tâm chân thật, thiết tha thì không những các bậc đại A La Hán trụ thế như ngài Tân Đầu Lô Phả La Đọa tôn giả[23] chắc chắn đến nhận cúng dường, ngay cả Đại Sĩ cũng rất có thể thị hiện thân phàm tăng quang lâm pháp hội. Công đức lợi ích ấy sao diễn tả được nổi? Ông X… muốn trong tháng Hai năm sau kiền thành tổ chức đại Trai Tăng một ngàn vị Tăng ở Pháp Vũ Thiền Tự để rộng kết duyên lành, nhưng sức của ông ta yếu kém, thật sự muốn cho người khác làm lành. Do vậy, quyên mộ thiện tín tùy tâm vui vẻ giúp đỡ, vào núi báu chớ trở về tay không, đã tắm gội pháp ai nấy phải báo ân Phật.

------------------------
[23] Tôn giả Tân Đầu Lô Phả La Đọa là một vị đại đệ tử của đức Phật. Do Ngài hiển lộ thần thông tranh tài cùng ngoại đạo nên đức Phật cấm Ngài nhập diệt, phải thường trụ trong thế gian để làm phước điền cho nhân thiên. Những buổi lễ Trai Tăng nếu được tổ chức chí thành, Ngài sẽ thị hiện thân phàm tăng đến thọ cúng.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời tựa khắc in lại sách Hộ Pháp Lục của Tống Văn Hiến Công đời Minh

8. Lời tựa khắc in lại sách Hộ Pháp Lục của Tống Văn Hiến Công đời Minh


Năm Kỷ Mùi, ông Tôn Ngọc Tiên ở Phụng Hóa khắc xong bộ Tống Văn Hiến Công[24] Toàn Tập. Lại đem những trước tác chuyên xiển dương Phật học, cũng như y theo bản Hộ Pháp Lục đã được ngài Liên Trì và ông Mục Trai giảo đính in riêng ngoài Toàn Tập. Có những phần không liên tục, cũng khắc in riêng. Hai tập sách ấy, mỗi thứ đều gởi cho pháp sư Đế Nhàn ở chùa Quán Tông một bộ, Quang đến chùa Quán Tông trông thấy, hoan hỷ khôn cùng, cầu Ngài thỉnh cho mình một bộ Hộ Pháp Lục. Trước kia, ông Tôn tính khắc riêng bộ Hộ Pháp Lục, xin ngài Đế Nhàn viết tựa. Sư do hằng ngày phải diễn giảng giáo nghĩa Thiên Thai cho học chúng nên chẳng rảnh rỗi để viết. Do vậy, bởi Quang thỉnh sách, ông Tôn bèn cầu ngài Đế Nhàn sai Quang gượng viết. Quang tâm như bị nút chặt, kiến giải như nhìn vào vách, sao có thể phát huy đạo của bậc thừa nguyện tái lai, hiện thân tể quan văn chương lừng lẫy, dùng thân - khẩu - ý tam nghiệp để chép Hoa Nghiêm Đại Kinh nhằm hoằng truyền tâm yếu của Phật, Tổ? Nhưng đã được ủy thác, nào dám nại cớ kém hèn để thoái thác! Do vậy, đại lược nêu lên những điều quan trọng liên quan đến mối nghi ngờ bàn luận của cả cõi đời mà thôi. Còn như văn chương của tác giả hùng hồn, biện bác, viên dung, thẳng chóng, phát minh tâm tông của Nho và Phật, vĩnh viễn là con mắt của trời - người, khác nào mặt trời chói ngời giữa hư không, ai có mắt đều thấy, thật chẳng cần đến Quang lấy sự hiểu biết hạn hẹp bàn chen vào nữa!

Lời tựa rằng: A Di Đà Phật chứng Bồ Đề đã lâu, an trụ Thường Tịch Quang Tịnh Độ, thường hưởng pháp lạc tịch diệt, nhưng vì chúng sanh vô tận, nguyện của ta vô tận nên chẳng lìa Tịch Quang Tự Thọ Dụng Độ, vào khắp mười phương vô tận thế giới hiện đủ mọi sắc thân độ thoát chúng sanh, hoặc hiển hiện hay thầm kín, hoặc chiết phục, hoặc nhiếp thọ, ắt sao cho rốt ráo lìa khỏi hai thứ sanh tử mới thôi! Đó gọi là đối với những kẻ thiện căn chưa gieo, chưa chín, chưa thoát liền làm cho họ gieo, chín, thoát, nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy thuyết pháp. Đạo lớn, sự rộng ấy dù dùng hết biển mực cũng chẳng thể viết hết được; đành nhờ vào chuyện của Văn Hiến Công để trình bày đại khái.

Cứ dựa theo lời tựa khen ngợi của ông Văn Hiến đối với việc ngài Thích Huyễn Diệt trích máu chép kinh Hoa Nghiêm, cuối bài ông tự nêu túc nhân như sau: “Vô Tướng cư sĩ (đạo hiệu của Văn Hiến Công) khi chưa ra khỏi thai mẹ, mẹ nằm mộng thấy một ông Tăng lạ lùng, tay viết kinh này, đến bảo với mẹ: ‘Ta chính là Vĩnh Minh Diên Thọ, ở nhờ nhà này để viết cho xong quyển này’. Bà mẹ tỉnh giấc, liền sanh ra cư sĩ. Nay gặp được nhân thù thắng này, chợt nhớ lại chuyện cũ”. Trong các trước tác khác cũng tự thuật sự này, nhưng những kẻ câu nệ, hư giả trong đời thường hay nghi, nói: “Vĩnh Minh chính là hóa thân của Phật Di Đà, hóa thân của Di Đà chưa liễu thoát sanh tử hay sao? Đã vì chép kinh mà ở nhờ nơi nhà người, nhưng xét trong văn tập, chưa hề nhắc nhở đến, chẳng phải là uổng thọ thân này, chẳng thỏa được nguyện cũ hay sao?” Tôi nói: Đây chính là dùng phàm tình để suy lường thánh trí, chẳng những không biết Văn Hiến Công, mà còn là chưa hiểu ngài Vĩnh Minh và Phật Di Đà nữa!

Muốn phát huy đến cùng cực, thẹn chẳng có tài văn chương khéo léo, nhưng lời lẽ cốt đạt được ý, nào ngại bàn thẳng vào chuyện này. Phật Di Đà đã chứng cùng tột pháp giới, đối với mọi chuyện trong pháp giới, không gì Ngài chẳng tùy ý hóa hiện. Chánh báo là thân Phật, thân Bồ Tát, thân Nhị Thừa, thân lục đạo, tùy loại hiện khắp để giáo hóa. Y báo là lầu, đài, điện, gác, thức ăn, y phục. Chỉ cần có lợi ích thì không gì chẳng hóa hiện. Ngài Di Sơn nói: “Đời tật dịch hiện làm dược thảo, lúc đói kém hóa làm thóc gạo”. Do trong cõi Thường Tịch Quang thân và cõi nước chẳng hai, Lý và Trí như một; thân có thể hiện cõi nước, cõi nước có thể hiện thân, thân lại hiện thân, cõi lại hiện cõi. Kinh Di Đà nói: “Các con chim ấy đều do A Di Đà Phật biến hóa ra”. Ngài Duy Ma Cật nói: “Do hết thảy chúng sanh bệnh cho nên ta bệnh”. Phật Di Đà thân và cõi hiện lẫn nhau, nào ngại gì hiện thân Vĩnh Minh rồi lại hiện thân Văn Hiến!

Thêm nữa, ngài Vĩnh Minh hiện thân Văn Hiến chính là nương vào bi nguyện thị hiện hóa sanh, há có nên nói ngài Vĩnh Minh chưa liễu thoát sanh tử, vẫn phải theo nghiệp lực thọ sanh ư? Do chúng sanh bệnh nên Bồ Tát cũng bệnh. Muốn độ thoát chúng sanh nhưng không thuận theo cơ nghi, thị hiện sanh trong thế gian hòa quang đồng sự để hành giáo hóa, thì vì phàm - thánh khác nẻo, không cách gì thí giáo được! Những loài chim nhiều màu kỳ diệu như hạc, chim công v.v… Phật còn chịu biến hóa ra, huống gì hiện thân làm vua trong chốn văn chương, phong nhã, tài hoa, làm bậc thuần Nho chế lễ, soạn nhạc, phù tá thánh chúa mà lại có trở ngại gì ư?

Ngài Vĩnh Minh là Phật Di Đà hóa hiện, Văn Hiến Công do ngài Vĩnh Minh hóa hiện, chính là chứng theo chiều dọc thân lại hiện thân. Những kinh như kinh Vô Lượng Thọ… nói “trong quang minh hóa Phật và các Bồ Tát vô lượng vô biên” chính là gồm thâu trọn khắp hai nghĩa dọc và ngang, vì Phật quang trọn khắp chiều ngang, cùng tột chiều dọc, không lúc nào, không nơi đâu chẳng trọn khắp. Ngài Vĩnh Minh ở nhờ nhà họ Tống để chép kinh Hoa Nghiêm chính là dùng thân để chép, dùng nghĩa để chép; chớ nên câu nệ vào văn tự ngôn ngữ để luận! Phàm những chuyện cả đời Văn Hiến Công đã làm và những gì ông ta trước thuật đều nhằm chép kinh Hoa Nghiêm. Đức hạnh cùng tột, hạnh hay đẹp của ông đã được chép trong Minh Sử nhưng vẫn chỉ là chép đại lược một hai điều, còn bị thiếu sót nhiều lắm; văn ông được truyền tụng trong đời chỉ có bộ Toàn Tập và tập sách này mà thôi! Đọc đến ắt có thể hình dung được đạo đức, tu dưỡng của ông. Bộ Toàn Tập tuy chẳng chuyên nói về Phật pháp, nhưng văn tự thế gian chưa hề chẳng bao gồm tông yếu Phật pháp.

Như trẻ nhỏ bị bệnh chẳng chịu uống thuốc, bèn bôi thuốc lên vú, thì nó không uống cũng thành uống, bệnh liền lành mạnh. Những kẻ không biết Phật pháp, đọc bộ Toàn Tập của Văn Hiến Công, liền khâm phục văn chương lưu loát, rộng lớn của ông, lại khâm phục lý cao sâu, sao không đoạn nghi sanh tín, càng vào càng sâu, hiểu rõ tâm pháp của Nho và Phật, mong thoát khỏi lồng rọ sanh tử ư? Huống chi Phật pháp được phát huy trong sách ấy nhiều hơn một trăm bảy mươi thiên. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Hoặc riêng dùng chú ngữ để nói Tứ Đế, hoặc khéo dùng mật ngữ để nói Tứ Đế, hoặc dùng ngay lời lẽ của con người để nói Tứ Đế, hoặc là dùng mật ngữ của chư Thiên để nói Tứ Đế”, chính là bằng chứng vậy!

Nếu bảo: “Kinh Lăng Nghiêm cấm chẳng tiết lộ mật nhân (nhân thầm kín) của Phật, ông Văn Hiến lại tự nói mình là hậu thân của Vĩnh Minh, không phải là trái nghịch lời răn dạy thanh tịnh của Phật, bày đầu cho bọn cuồng vọng đời sau, tạo thành đầu mối đem phàm lạm thánh ư?” Tôi nói: Đối với bậc xuất cách, chẳng thể dùng cách thức thông thường để phán định! Ông chẳng thấy Phó Đại Sĩ tự xưng là Di Lặc hiện thân ư? Đã chẳng coi chuyện đó là trái nghịch, sao lại chỉ coi chuyện này là trái nghịch? Hơn nữa, cuồng vọng lạm thánh sẽ tự chuốc nhục, như khắc phân người thành hình chiên-đàn, há có thể lẫn lộn cùng chiên-đàn được ư?

Nếu nói: “Như Lai trí đoạn rốt ráo, công đức, trí huệ, thần thông đạo lực chẳng thể nghĩ bàn; Vĩnh Minh tuy cao, còn cách Phật xa lắm, huống gì là Văn Hiến?” Tôi nói: Chắc ông cũng biết chuyện hoàng đế vi hành chớ? Người trí biết là hoàng đế, kẻ ngu coi là bình dân, còn có khi nghi là gián điệp, là đạo tặc nữa kia! Sao lại riêng nghi chuyện trong bí mật, bề ngoài hiện này nọ của Như Lai? Phải biết: Đây chính là phương tiện khéo léo lập cách giáo hóa của Như Lai, ngầm nêu “chúng sanh chính là Phật, Quyền chính là Thật, sanh diệt chính là tịch diệt, Đồng Cư chính là Tịch Quang”, những ngôn ngữ, xử thế, nghề nghiệp mưu sinh v.v… đều thuận theo chánh pháp, đều chẳng trái nghịch ý chỉ Thật Tướng nhỏ nhiệm. Bậc thượng căn thoạt nhìn bèn hiểu, hàng trung - hạ phải do giải thích mới có thể hiểu rõ được.

Do đại từ bi bèn dùng chuyện từ Tích hiển Bổn này để người hiểu biết nông cạn có thể biết được trọn vẹn chuyện hiện khắp các sắc thân chẳng thể nghĩ bàn của bậc Pháp Thân đại sĩ. Như chuyện trong cõi âm, dương gian chẳng biết; nhưng Thượng Đế cực lực mong muốn người đời cải ác tu thiện nên cũng thường đem người dương gian vào cõi âm, chỉ bày ngục trong cõi âm cho dương thế. Phương tiện quyền xảo dạy người của Thượng Đế tình kiến phàm phu còn chưa thể suy lường được, huống chi Bồ Tát thần biến vô phương? Do vậy, tôi nêu ra ngõ hầu ai nấy tuân hành, cùng thoát Sa Bà, cùng sanh Tịnh Độ, hòng thỏa tâm Phật Di Đà đại từ bi bao lượt hiện thân, mà cũng chẳng cô phụ ngài Văn Hiến chép kinh, một phen ông Tôn dốc lòng khắc bản. Phàm con ngựa nào mong được như ngựa Ký thì cũng là hạng ngựa Ký, người mong được như Nhan Uyên thì cũng là hạng như Nhan Uyên. Tôi chưa từng biết mặt ông Tôn. Nếu không phải đời trước ông ta từng được Phật phó chúc, thì cũng phải là đã gội ân sâu của họ Tống, cho nên mới thừa nguyện tái lai, cực lực lưu thông, khiến cho hữu tình hiện tại, vị lai cùng được đượm nhuần pháp lợi không sót. Tốt đẹp thay! Cao quý thay!

-------------------------------
[24] Tống Văn Hiến Công là Tống Liêm (1310-1381), tự Cảnh Liêm, hiệu Tiềm Khê, biệt hiệu Huyền Chân Tử, là người huyện Bồ Giang, tỉnh Chiết Giang, là một đại văn học gia đầu thời Minh. Tuổi thơ bần hàn, nhưng hết sức hiếu học. Từng theo học với các bậc đại danh gia như Ngô Lai, Liễu Quán, Hoàng Tấn v.v... Ông suốt đời cần cù học hành, chưa một ngày nào tay rời sách, từng ba lần đọc hết Đại Tạng Kinh. Ông được Nguyên Thuận Đế vời ra làm Hàn Lâm Viện Biên Tu, nhưng nại cớ còn cha già phải phụng dưỡng để từ tạ. Khi Châu Nguyên Chương diệt Mông Cổ, xưng đế, lập ra nhà Minh, ông được đề cử làm người giảng kinh sách cho nhà vua. Năm Hồng Vũ thứ hai (1369), ông vâng chiếu, chịu trách nhiệm chính biên tập bộ Nguyên Sử. Quan thăng dần đến chức Hàn Lâm Viện Thừa Chỉ, chuyên soạn chiếu chỉ cho nhà vua. Năm Hồng Vũ thứ 10 (1377), cáo quan hồi hưu. Về sau, do con trưởng là Tống Thận dính líu vào vụ án Hồ Duy Dung, toàn gia bị đày đi Mậu Châu. Ông mất trên đường đi lưu đày. Trước tác của ông rất phong phú, còn để lại bộ Tống Học Sĩ Văn Tập (hoặc Tống Văn Hiến Công Toàn Tập) rất đồ sộ. Châu Nguyên Chương từng gọi ông là khai quốc công thần trong giới văn quan. Bộ Hộ Pháp Lục do chính ngài Liên Trì thâu thập những đoạn luận về Phật pháp từ những trước tác của Tống Liêm. Bộ sách này được Tiền Khiêm Ích giảo đính.

Tiền Khiêm Ích tự là Thụ Chi, hiệu Mục Trai, biệt hiệu Đông Giản Di Lão, là một văn gia nổi tiếng vào cuối đời Minh, một trong những lãnh tụ của Đông Lâm Văn Đàn Tế Tửu, ông cùng với Ngô Vĩ Nghiệp và Cung Đỉnh Tư được xưng tụng là Giang Tả Tam Đại Gia. Giang Tả là vùng hạ lưu sông Dương Tử, thuộc địa phận tỉnh Giang Tô ngày nay. Đông Lâm là một học viện lập ra thời Tống gọi là Đông Lâm Thư Viện ở thành phố Vô Tích (nay thuộc Giang Tô). Thời Vạn Lịch nhà Minh, Cố Hiến Thành tu chỉnh lại thư viện này và cùng Cao Phàn Long dạy học tại đây. Vì họ phê bình triều chính nên nhiều sĩ đại phu tụ tập, tham dự vào nhóm này. Khi thái giám Ngụy Trung Hiền thao túng triều chính, rất căm ghét đảng Đông Lâm, ra sức truy bức những lãnh tụ đảng Đông Lâm, nên Tiền Khiêm Ích từng bị đi tù.
 

Thánh_Tri

Registered
Phật tử
Tham gia
20 Thg 3 2007
Bài viết
599
Điểm tương tác
65
Điểm
28
Lời đề từ và tựa bản in lại Long Thư Tịnh Độ Văn

9. Lời đề từ và tựa bản in lại Long Thư Tịnh Độ Văn
(viết thay cho ông Vương Hoằng Nguyện)


Tâm tánh chúng sanh bằng với chư Phật, do mê trái nên luân hồi chẳng ngơi. Như Lai từ mẫn, tùy cơ thuyết pháp, khiến cho khắp hàm thức đều theo đường về nhà. Hiềm rằng căn tánh muôn thứ chẳng giống nhau, nếu không phải người lỗi lạc sẽ khó thể thoát khỏi! Nhân đấy, bèn đặc biệt mở ra một môn Tịnh Độ để nhiếp khắp hết thảy: Thượng trung hạ căn, Ngũ Nghịch, Thập Ác tướng địa ngục hiện, nhất niệm dốc lòng thành, liền lên được bờ kia. Đẳng Giác Bồ Tát đức bằng với Phật, còn phải vãng sanh mới chứng được Bồ Đề. Phàm phu sát đất, đầy đủ phiền não, chẳng chịu niệm Phật, làm sao tốt lành cho được? Nhắn với người đời, cùng sanh tín nguyện, chấp trì Phật hiệu, từ đầu đến cuối không thay đổi, đến lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn, mau ra khỏi Ngũ Trược, lên thẳng chín phẩm, thấy Phật nghe pháp, tự chứng Vô Sanh, nương đại nguyện luân phổ độ hữu tình.

Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn do Như Lai tâm bi triệt để phổ độ chúng sanh, khiến cho những kẻ không có sức đoạn Hoặc, hàng phàm phu sát đất tín nguyện trì danh liễu thoát ngay trong đời này, cùng làm bầu bạn với Quán Âm, Thế Chí. Trên đến Đẳng Giác Bồ Tát địa vị gần với Phật Quả, còn cần phải vãng sanh, mới thành Chánh Giác. Chí viên, chí đốn, thông trên thấu dưới, vượt trội các pháp môn đã được nói trong một đời giáo hóa tại một phương. Vì thế, khi đức Phật giảng kinh Di Đà, sáu phương chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài cùng một giọng khen ngợi, xưng là kinh Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm. Lại khen đức Thích Ca Thế Tôn ta có thể làm được chuyện hy hữu rất khó, đức Thế Tôn ta tự nêu túc nhân rằng: Ta ở trong đời ác Ngũ Trược, làm chuyện khó khăn này, chứng được Bồ Đề, vì hết thảy thế gian nói pháp khó tin này, thật là rất khó, khiến cho người nghe tin nhận phụng hành, diễn bày rốt ráo bổn hoài xuất thế vậy.

Nhưng pháp môn này rất sâu khó lường, dẫu được Bổn Sư và chư Phật cùng khuyên tin tưởng, thế nhưng kẻ nghi trong đời vẫn còn rất nhiều! Chẳng những thế trí phàm tình không tin, ngay cả những hàng tri thức thâm hiểu sâu xa Tông, Giáo vẫn còn nghi hoặc. Không những bậc tri thức không tin mà ngay cả Thanh Văn, Duyên Giác đã chứng Chân Đế, nghiệp tận tình không cũng vẫn còn nghi hoặc! Chẳng những hàng Tiểu Thánh không tin, ngay đến bậc Quyền Vị Bồ Tát hãy còn nghi ngờ! Cho đến ngay cả bậc Pháp Thân đại sĩ tuy có thể tin chắc, nhưng vẫn chưa thể thấu nguồn tột đáy. Ấy là vì pháp môn này lấy Quả Giác làm cái tâm để tu nhân, toàn thể là cảnh giới Phật. Chỉ có Phật với Phật mới có thể rốt ráo thấu hiểu cùng tột, trí của những hạng người kia dễ hòng biết được nổi! Bọn phàm phu chúng ta ngửa tin lời Phật, y giáo phụng hành, tự được lợi ích chân thật. Nếu được nghe pháp môn chẳng thể nghĩ bàn này chính là nhiều kiếp đã trồng sâu thiện căn, huống chi còn tin nhận phụng hành nữa ư?

Truy nguyên, từ khi đại giáo truyền sang Đông, Viễn Công sáng lập Liên Xã. Từ đấy trở đi, bậc cao nhân trong Tông, trong Giáo, không ai chẳng hoằng dương, khen ngợi, như Trí Giả, Từ Ân, Thanh Lương, Vĩnh Minh v.v… vì pháp này là môn trọng yếu nhất để nhập đạo cho người sơ cơ, là bước cuối cùng để thành Phật trong kinh Hoa Nghiêm. Do vậy, hạng phàm phu đầy dẫy phiền não nương theo Phật lực để liễu sanh tử, không thể dùng toán số thí dụ để biết được nổi! Nhằm vào thời Nam Tống, bậc tiên đức trong tông ta có cư sĩ Long Thư, tên là [Vương] Nhật Hưu, tự là Hư Trung, thừa nguyện tái lai, dùng thân thuyết pháp: Tuy sống trong trần tục, nhưng chẳng lập gia đình, tuy đậu quốc học nhưng chẳng làm quan, phát huy tâm tông Nho - Phật, dạy dỗ hàng đệ tử có đủ lòng tin. Lại muốn cho đồng nhân đều cùng sanh Tịnh Độ, nên soạn sách này để hướng dẫn rộng khắp. Lời lẽ đơn giản nhưng mẫu mực, lý lẽ sâu xa nhưng rõ rệt, thuận theo căn cơ kém cỏi, khéo léo dẫn dụ dần dần, dốc lòng đau đáu chiều theo tâm họ, không gì chẳng thấu. Sợ họ ngại khó chẳng vào, nên dùng cách Thập Niệm buổi sáng để làm phương tiện tối thắng nhiếp trọn các căn cơ; đợi đến khi vào sâu dần dần, như được thức ăn ngon lành, đã biết mùi vị, liền đối với những pháp nhật dụng sẽ tự khăng khắng vâng giữ, chỉ nghĩ đến Phật, nào phải chỉ hạn cuộc trong [thời gian niệm Phật chừng bằng] một bữa trà; lấy đó làm nề nếp nhất định! Nếu có thể đầy đủ tín nguyện, cả đời kiên trì Thập Niệm, ắt quyết định vãng sanh. Huống chi lại gia công dụng hạnh!

Chẳng phải chỉ có thế, dù cho hoàn toàn không có tín nguyện, không tu trì, nhưng biết đến thánh hiệu Di Đà thì cũng là thiện căn chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao vậy? Là vì do biết [ Phật hiệu] nên hễ gặp cảnh đụng duyên, sẽ có thể đề khởi. Như Trần Xí bị oán quỷ [là những kẻ từng bị] chính ông ta giết chết, kéo đến bức bách; nhờ niệm Phật, quỷ bèn chẳng hiện nữa. Do vậy, cả đời niệm Phật. Lâm chung vãng sanh lại còn có thể quay trở lại tự thuật tiền nhân, đích thân hiện diệu tướng sanh Tây của chính bản thân. Nếu trước kia, chưa từng được nghe biết [danh hiệu Phật] ắt sẽ bị quỷ đoạt mạng, mãi mãi luân hồi. Do vậy, ba phước trong Quán Kinh thì phước đầu tiên là những điều thiện thế gian, đều có thể dùng để hồi hướng, và trong chín phẩm thì phẩm cuối cùng chính là những kẻ tướng địa ngục đã hiện còn được vãng sanh. Còn những ai nhất tâm bất loạn, diệu quán viên thành, chứng tam-muội mà vãng sanh thì không cần phải bàn đến nữa! Do vậy, biết pháp môn Tịnh Độ nhiếp khắp mọi căn cơ hoàn toàn chẳng bỏ sót ai, tốt lành thay, cao quý thay, lớn lao thay!

Sách ấy lấy lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật, ngay trong đời này quyết định được vãng sanh làm Tông. Đọc kỹ sẽ đoạn nghi sanh tín, khuyên khắp mọi người tu trì. Riêng nêu những sự tích vãng sanh để khuyên lơn, cũng như những việc cả một đời Vương cư sĩ đã làm, cuối sách chỉ rõ: Thượng trung hạ căn không căn nào chẳng được thâu tóm. Ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh không pháp nào chẳng phô bày rõ ràng. Do vậy, bèn khắc in phổ biến rộng khắp để hòng đáp tạ chừng bằng một giọt nước biển trong trần sát[25] “công Phật Thích Ca thuyết pháp, chư Phật chứng minh, liệt tổ truyền đăng, tâm đại từ bi soạn sách của Vương cư sĩ” mà thôi!

----------------------------------
[25] Trần sát là một thuật ngữ trong kinh Hoa Nghiêm, diễn tả số cõi nước Phật nhiều như số vi trần.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên