- Tham gia
- 23/8/10
- Bài viết
- 3,967
- Điểm tương tác
- 784
- Điểm
- 113
Trước hết, xin mời quý bạn đọc Kinh điển: Kinh Đại Bát Niết Bàn - Phẩm Tứ Điên Đảo.
thuvienhoasen.org
11. PHẨM TỨ ĐẢO THỨ MƯỜI MỘT
(Hán bộ phần sau quyển thứ bảy)
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-tát : “ Nầy thiện-nam-tử ! Thế nào là Tứ-Đảo ? (bốn điều điên đảo ) “ Nơi chẳng phải khổ tưởng cho là khổ”, gọi là điên đảo. Chẳng phải khổ chỉ cho Như-Lai.
Tưởng cho là khổ, tức là cho rằng Như-Lai là vô thường biến đổi.
Nếu có người nói Như-Lai là vô thường, đây gọi là tội khổ rất lớn.
Nếu nói Như-Lai khi xả thân khổ nầy để nhập Niết-bàn như củi hết lửa tắt, đây gọi là chẳng phải khổ mà tưởng cho là khổ. Chính đó là điên đảo.
Nếu ta nói rằng : Như-Lai là thường thời là chấp ngã, vì chấp ngã nên có vô lượng tội, thế nên phải nói Như-Lai là vô thường, nói như thế thời ta vui thích.
Như-Lai là vô thường chính đó là khổ, nếu đã là khổ thế nào sanh vui. Bởi ở trong khổ tưởng cho là vui nên gọi là điên đảo.
Nơi vui tưởng cho là khổ, gọi đó là điên đảo. Vui tức là Như-Lai. Khổ tức là Như- Lai vô thường. Nếu nói Như-Lai là vô thường đây gọi là nơi vui tưởng cho là khổ.
Như-Lai thường trụ, gọi là vui.
Nếu ta nói rằng : Như-Lai là thường, sao lại nhập nơi Niết-bàn. Nếu nói Như-Lai chẳng phải là khổ, sao lại bỏ thân mà diệt độ. Bởi ở trong vui tưởng cho là khổ nên gọi đó là điên đảo. Các điều tưởng lầm như trên gọi là sự điên đảo thứ nhứt.
“ Vô-thường tưởng là thường, thường tưởng là vô-thường”, đây gọi là điên đảo.
Vô thường chỉ chẳng tu pháp không. Vì chẳng tu pháp không nên thọ mạng ngắn ngủi.
Nếu có người cho rằng chẳng tu pháp không tịch thời đặng trường thọ. Quan niệm đó gọi là điên đảo. Đây là sự điên đảo thứ hai.
“ Vô-ngã tưởng là ngã, ngã tưởng là vô-ngã”, đây là điên đảo.
Người đời cũng nói có ngã, trong Phật pháp cũng nói có ngã.
Người đời dầu nói có ngã nhưng không có Phật tánh, đây thời gọi là nơi vô-ngã mà tưởng là ngã gọi đó là điên đảo.
Phật pháp nói có ngã tức là Phật tánh. Người đời lại nói Phật pháp không ngã, đây gọi là nơi ngã tưởng là vô ngã. Nếu nói Phật pháp quyết định vô ngã nên đức Như-Lai dạy hàng đệ tử tu tập pháp vô ngã. Lời trên đây là điên đảo. Đây là điều điên đảo thứ ba.
Tịnh tưởng là bất tịnh, bất tịnh tưởng là tịnh, đây gọi là điên đảo.
Tịnh chính là Như-Lai thường trụ, chẳng phải thân tạp thực, chẳng phải thân phiền não, chẳng phải thân thịt, chẳng phải là thân gân xương ràng rịt.
Nếu có người nói rằng Như-Lai là vô thường, là thân tạp thực, là thân thịt, là thân gân xương ràng rịt, cũng cho rằng Pháp, Tăng, Giải thoát đều là diệt tận, đó gọi là những quan niệm điên đảo vì tịnh mà cho là bất tịnh.
Bất tịnh tưởng cho là tịnh, gọi đó là điên đảo.
Nếu có người nói rằng trong thân của ta đây không có một pháp nào là bất tịnh cả, bởi không có bất tịnh nên quyết định sẽ đặng vào nơi chỗ thanh tịnh. Thuyết tu bất tịnh quán của Như-Lai là thuyết hư-vọng.
Trên đây là quan niệm điên đảo. Đó gọi là điều điên đảo thứ tư”.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật rằng : “ Thế-Tôn ! Từ nay tôi mới đặng chánh kiến. Bạch thế-Tôn, trước đây chúng tôi đều là người tà kiến cả.
Đoạn kinh này, Đức Bổn Sư dạy về bốn thứ tâm niệm điên đảo.
Loại điên đảo thứ ba: “ Vô-ngã tưởng là ngã, ngã tưởng là vô-ngã”.
Đức Bổn Sư dạy rằng:
"Người đời cũng nói có ngã, trong Phật pháp cũng nói có ngã.
Người đời dầu nói có ngã nhưng không có Phật tánh, đây thời gọi là nơi vô-ngã mà tưởng là ngã gọi đó là điên đảo.
Phật pháp nói có ngã tức là Phật tánh. Người đời lại nói Phật pháp không ngã, đây gọi là nơi ngã tưởng là vô ngã. Nếu nói Phật pháp quyết định vô ngã nên đức Như-Lai dạy hàng đệ tử tu tập pháp vô ngã. Lời trên đây là điên đảo. Đây là điều điên đảo thứ ba."
=> Nghĩa là:
+ Nói có ngã nhưng không phải là Phật Tánh thì đó đại ngã, tiểu ngã, trung ngã,.... của ngoại đạo, gọi chung là chấp ngã tướng hay lập "tướng" của ngã. Đó chính là tà kiến.
+ Nói Phật Pháp chỉ dạy tu Vô Ngã, không có cái gì gọi là Ngã thì đó là tà kiến.
Và Đức Phật dạy rõ: Ngã trong Phật pháp chính là Phật Tánh. Chính vì Phật Tánh là cái Thật là mình nên khi điên đảo vọng tưởng tan biến thì cái tánh thật sẵn có ấy hiển lộ ra nơi tâm niệm của mình. Do vậy, bảo rằng không có cái gì thật là Mình thì đó là điên đảo.
Nên biết rằng: Phật dạy về Vô Ngã là phương tiện để phá bỏ các kiến chấp sai lầm về Ngã (Phật Tánh) chứ không phải phủ nhận sự tồn tại của Ngã (Phật Tánh).
Mỗi chúng sanh đều có Phật Tánh hay Phật tánh chính là cá nhân thật là mình nhưng do các thứ phiền não che đậy và lại không gần gủi thiện tri thức nên không biết được, mãi cứ nhận lầm khách trần, dụng tướng là mình nên phải chịu sự lưu chuyển không ngừng. Nếu như các phiền não vọng tưởng điên đảo đều tan biến hết thì lập tức mình được hiển lộ với bản tánh nguyên thủy vốn có là mình.
Thí dụ như cục vàng vùi chôn trong cát thì do sự che đậy của lớp cát nên vàng chẳng thể hiển lộ nguyên vẹn bản tánh ra ngoài, nếu bỏ sạch lớp cát thì cục vàng sẽ hiện ra trọn vẹn là nó. Cục vàng ấy dụ cho Phật Tánh hay là Mình Thật, còn lớp cát là thí dụ cho phiền não che đậy. Muốn dọn sạch lớp cát thì cần phải có sự trợ duyên của Thiện Tri thức bên ngoài chỉ cho phương pháp Trung Đạo, Bát Nhã, Vô Sở Đắc, đủ duyên thì phiền não tự biến mất và bản tánh thật vốn có phóng thích ra thành sự thanh tịnh sáng suốt không ngăn ngại.
"
thuvienhoasen.org
11. PHẨM TỨ ĐẢO THỨ MƯỜI MỘT
(Hán bộ phần sau quyển thứ bảy)
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-tát : “ Nầy thiện-nam-tử ! Thế nào là Tứ-Đảo ? (bốn điều điên đảo ) “ Nơi chẳng phải khổ tưởng cho là khổ”, gọi là điên đảo. Chẳng phải khổ chỉ cho Như-Lai.
Tưởng cho là khổ, tức là cho rằng Như-Lai là vô thường biến đổi.
Nếu có người nói Như-Lai là vô thường, đây gọi là tội khổ rất lớn.
Nếu nói Như-Lai khi xả thân khổ nầy để nhập Niết-bàn như củi hết lửa tắt, đây gọi là chẳng phải khổ mà tưởng cho là khổ. Chính đó là điên đảo.
Nếu ta nói rằng : Như-Lai là thường thời là chấp ngã, vì chấp ngã nên có vô lượng tội, thế nên phải nói Như-Lai là vô thường, nói như thế thời ta vui thích.
Như-Lai là vô thường chính đó là khổ, nếu đã là khổ thế nào sanh vui. Bởi ở trong khổ tưởng cho là vui nên gọi là điên đảo.
Nơi vui tưởng cho là khổ, gọi đó là điên đảo. Vui tức là Như-Lai. Khổ tức là Như- Lai vô thường. Nếu nói Như-Lai là vô thường đây gọi là nơi vui tưởng cho là khổ.
Như-Lai thường trụ, gọi là vui.
Nếu ta nói rằng : Như-Lai là thường, sao lại nhập nơi Niết-bàn. Nếu nói Như-Lai chẳng phải là khổ, sao lại bỏ thân mà diệt độ. Bởi ở trong vui tưởng cho là khổ nên gọi đó là điên đảo. Các điều tưởng lầm như trên gọi là sự điên đảo thứ nhứt.
“ Vô-thường tưởng là thường, thường tưởng là vô-thường”, đây gọi là điên đảo.
Vô thường chỉ chẳng tu pháp không. Vì chẳng tu pháp không nên thọ mạng ngắn ngủi.
Nếu có người cho rằng chẳng tu pháp không tịch thời đặng trường thọ. Quan niệm đó gọi là điên đảo. Đây là sự điên đảo thứ hai.
“ Vô-ngã tưởng là ngã, ngã tưởng là vô-ngã”, đây là điên đảo.
Người đời cũng nói có ngã, trong Phật pháp cũng nói có ngã.
Người đời dầu nói có ngã nhưng không có Phật tánh, đây thời gọi là nơi vô-ngã mà tưởng là ngã gọi đó là điên đảo.
Phật pháp nói có ngã tức là Phật tánh. Người đời lại nói Phật pháp không ngã, đây gọi là nơi ngã tưởng là vô ngã. Nếu nói Phật pháp quyết định vô ngã nên đức Như-Lai dạy hàng đệ tử tu tập pháp vô ngã. Lời trên đây là điên đảo. Đây là điều điên đảo thứ ba.
Tịnh tưởng là bất tịnh, bất tịnh tưởng là tịnh, đây gọi là điên đảo.
Tịnh chính là Như-Lai thường trụ, chẳng phải thân tạp thực, chẳng phải thân phiền não, chẳng phải thân thịt, chẳng phải là thân gân xương ràng rịt.
Nếu có người nói rằng Như-Lai là vô thường, là thân tạp thực, là thân thịt, là thân gân xương ràng rịt, cũng cho rằng Pháp, Tăng, Giải thoát đều là diệt tận, đó gọi là những quan niệm điên đảo vì tịnh mà cho là bất tịnh.
Bất tịnh tưởng cho là tịnh, gọi đó là điên đảo.
Nếu có người nói rằng trong thân của ta đây không có một pháp nào là bất tịnh cả, bởi không có bất tịnh nên quyết định sẽ đặng vào nơi chỗ thanh tịnh. Thuyết tu bất tịnh quán của Như-Lai là thuyết hư-vọng.
Trên đây là quan niệm điên đảo. Đó gọi là điều điên đảo thứ tư”.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật rằng : “ Thế-Tôn ! Từ nay tôi mới đặng chánh kiến. Bạch thế-Tôn, trước đây chúng tôi đều là người tà kiến cả.
Đoạn kinh này, Đức Bổn Sư dạy về bốn thứ tâm niệm điên đảo.
Loại điên đảo thứ ba: “ Vô-ngã tưởng là ngã, ngã tưởng là vô-ngã”.
Đức Bổn Sư dạy rằng:
"Người đời cũng nói có ngã, trong Phật pháp cũng nói có ngã.
Người đời dầu nói có ngã nhưng không có Phật tánh, đây thời gọi là nơi vô-ngã mà tưởng là ngã gọi đó là điên đảo.
Phật pháp nói có ngã tức là Phật tánh. Người đời lại nói Phật pháp không ngã, đây gọi là nơi ngã tưởng là vô ngã. Nếu nói Phật pháp quyết định vô ngã nên đức Như-Lai dạy hàng đệ tử tu tập pháp vô ngã. Lời trên đây là điên đảo. Đây là điều điên đảo thứ ba."
=> Nghĩa là:
+ Nói có ngã nhưng không phải là Phật Tánh thì đó đại ngã, tiểu ngã, trung ngã,.... của ngoại đạo, gọi chung là chấp ngã tướng hay lập "tướng" của ngã. Đó chính là tà kiến.
+ Nói Phật Pháp chỉ dạy tu Vô Ngã, không có cái gì gọi là Ngã thì đó là tà kiến.
Và Đức Phật dạy rõ: Ngã trong Phật pháp chính là Phật Tánh. Chính vì Phật Tánh là cái Thật là mình nên khi điên đảo vọng tưởng tan biến thì cái tánh thật sẵn có ấy hiển lộ ra nơi tâm niệm của mình. Do vậy, bảo rằng không có cái gì thật là Mình thì đó là điên đảo.
Nên biết rằng: Phật dạy về Vô Ngã là phương tiện để phá bỏ các kiến chấp sai lầm về Ngã (Phật Tánh) chứ không phải phủ nhận sự tồn tại của Ngã (Phật Tánh).
Mỗi chúng sanh đều có Phật Tánh hay Phật tánh chính là cá nhân thật là mình nhưng do các thứ phiền não che đậy và lại không gần gủi thiện tri thức nên không biết được, mãi cứ nhận lầm khách trần, dụng tướng là mình nên phải chịu sự lưu chuyển không ngừng. Nếu như các phiền não vọng tưởng điên đảo đều tan biến hết thì lập tức mình được hiển lộ với bản tánh nguyên thủy vốn có là mình.
Thí dụ như cục vàng vùi chôn trong cát thì do sự che đậy của lớp cát nên vàng chẳng thể hiển lộ nguyên vẹn bản tánh ra ngoài, nếu bỏ sạch lớp cát thì cục vàng sẽ hiện ra trọn vẹn là nó. Cục vàng ấy dụ cho Phật Tánh hay là Mình Thật, còn lớp cát là thí dụ cho phiền não che đậy. Muốn dọn sạch lớp cát thì cần phải có sự trợ duyên của Thiện Tri thức bên ngoài chỉ cho phương pháp Trung Đạo, Bát Nhã, Vô Sở Đắc, đủ duyên thì phiền não tự biến mất và bản tánh thật vốn có phóng thích ra thành sự thanh tịnh sáng suốt không ngăn ngại.
"