suongphale

Hai danh hiệu Quán Tự Tại và Quán Thế Âm là 2 vị khác nhau hay là một ?

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14/12/11
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
Văn: Tức là "Văn huệ", nghĩa là trí huệ của cái "nghe". Cái nghe ấy là gốc của tánh nghe trong căn "lỗ tai", chứ không phải toàn dùng cái thức của tai mà nghe như cái nghe đa văn, và cái nghe như nghe kinh mà rõ nghĩa kìa.

: Tức là "Tư huệ", tức là trí huệ của cái "nghĩ", ấy là gốc cái nghĩ chơn chánh, không cần lưu ý nghĩ tới một chuyện chi cả; chớ không phải cái nghĩ biến thành và cái nghe tà mị.

Tu:: Tức "Tu huệ", nghĩa là trí huệ của cái "tu", cái tu ấy gốc là cái tu chơn chánh, không cần tới sự tạo tác vụ theo hình thức



Kính Thưa Đạo Hữu
Về lối giải thích Văn , Tư , Tu trên thì chưa đủ, theo spl
Vì còn TU cho nên còn là Phàm, mà hể là PHÀM thì văn , tư, tu là nghe, tư duy , tu ,theo trình độ của người đang tu.
Nghĩa là còn sử dụng tai thường để nghe pháp giảng bởi đức Phật
Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Phật giảng về việc ngài đã hỏi thăm hai mươi lăm vị tu chứng , về phương tiện chứng ngộ của chư vị nằm ở CĂN nào .Khi ấy ngài Kiều Trần Như và các vị cùng nhóm đã trả lời là do nơi nhĩ căn , đây là ý nói do nhĩ căn ( lúc ấy chưa chứng đạo vì còn tu khổ hạnh theo ngoại đạo )nghe Phật chuyển pháp luân sau khi Phật thành đạo đã đến với họ , mà chư vị đã bừng sáng, và hợp với sự công phu tu tập đã qua nhiều thời gian ,mà chư vị Kiều Trần Như đã được viên thông ( được đạo )
Trong kinh có đoạn đức Phật đã bảo ông A nan :
[QUOTE] Chẳng phải tôi bảo ông không nhận cái tâm phân biệt suy lường ấy làm tâm của ông ,nhưng ông thử nghĩ coi .Nếu rời tiền trần mà cái tâm ấy không còn thì lấy đâu ông tu chứng vô sanh pháp nhẫn [/QUOTE]

Là đức Phật đã khai thị cho ông A nan về cái tâm vọng có khả năng tu chứng chuyển thành chân tâm .
Nếu còn phải nghe pháp để tư duy và để tu , thì chưa được gọi là viên thông .Và ngài Kiều trần như khi nghe Phật chuyển pháp luân ,là chưa viên thông , và sau khi nghe là ngộ và sau đó thì viên thông (chứng ).Và sau khi chứng viên thông thì ngài Kiều trần như nếu có hạnh dùng nhĩ căn viên thông để cứu giúp chúng sinh thì ngài có thể trở thành một hóa thân của Phật Quán Thế âm.Lúc đó ngài dùng nhĩ căn viên thông để nghe âm thanh của chúng sinh đồng loạt và đồng thời đến với tất cả.
Thật ra ,"nhĩ căn viên thông " là một danh từ ,mà danh từ thì chuyên chở khái niệm ( tưởng , tướng ) về một giác quan nghe siêu việt, đồng thời khái niệm về một phép tu ,khái niệm về một cảnh giới siêu phàm .Còn sự chứng của cảnh giới, thì không có danh từ nào có thể cho người nghe biết về thực tại ấy thế nào .Về phép tu nhĩ căn viên thông thì có nhiều cách , nếu một căn viên thông ( như ý căn ) thì các căn còn lại cũng đều được như vậy .
Về việc tu tập các căn là một điều cần thiết để có thể từ căn phàm để chuyển thành căn thánh .

Trích dẫn :




KINH 282. CHƯ CĂN TU

<EM>Tôi nghe như vầy: <FONT color=black><FONT face=Tahoma><?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com
FONT><A href=
[59]. <o:p></o:p>
Bấy giờ có một niên thiếu tên là Uất-đa-la[60], là đệ tử của Ba-la-xa-na[61], đi đến chỗ Phật, cung kính hỏi thăm, rồi lui ngồi một bên.<o:p></o:p>
Bấy giờ, Đức Thế Tôn hỏi Uất-đa-la:<o:p></o:p>
“Thầy con là Ba-la-xà-na có dạy cho các con tu tập các căn không?”<o:p></o:p>
Uất-đa-la trả lời:<o:p></o:p>
“Bạch Cù-đàm, đã có dạy.”<o:p></o:p>
Đức Phật bảo Uất-đa-la:<o:p></o:p>
“Thầy con dạy tu về các căn như thế nào?”<o:p></o:p>
Uất-đa-la bạch Phật:<o:p></o:p>
“Thầy con nói, mắt không nhìn thấy sắc, tai không nghe tiếng[62]; đó là tu về căn.<o:p></o:p>
Phật bảo Uất-đa-la:<o:p></o:p>
“Nếu như lời thầy con nói thì những người mù tu căn chăng? Vì sao? Vì chỉ có người mù mới không thấy sắc bằng mắt.”<o:p></o:p>
Bấy giờ, Tôn giả A-nan đang đứng phía sau cầm quạt hầu Phật. Tôn giả nói với Uất-đa-la:<o:p></o:p>
“Như lời của Ba-la-xà-na nói, thì người điếc tu căn chăng? Vì sao? Vì chỉ có người điếc tai mới không nghe tiếng.”<o:p></o:p>
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với Tôn giả A-nan:<o:p></o:p>
“Khác sự tu căn vô thượng[63] trong pháp luật của Hiền thánh.”<o:p></o:p>
Tôn giả A-nan bạch Phật:<o:p></o:p>
“Xin Đức Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói về sự tu căn vô thượng trong pháp luật của Hiền thánh, để cho các Tỳ-kheo nghe xong sẽ vâng lời thực hành theo.”<o:p></o:p>
Phật bảo A-nan:<o:p></o:p>
“Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông mà nói. <o:p></o:p>
“Duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh, thấy sắc vừa ý, muốn tu sự nhàm tởm của Như Lai với chánh niệm chánh trí. Do duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh, không vừa ý, muốn tu sự không nhàm tởm của Như Lai với chánh niệm chánh trí. Do duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh, vừa ý không vừa ý, muốn tu sự nhàm tởm không nhàm tởm của Như Lai với chánh niệm chánh trí. Do duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh, không vừa ý vừa ý, muốn tu sự không nhàm tởm của Như Lai với chánh niệm chánh trí. Do duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh, vừa ý không vừa ý, vừa không vừa ý, muốn tu lìa bỏ cả hai, sự nhàm tởm và không nhàm tởm của Như Lai, an trụ xả tâm, với chánh niệm chánh trí.[64]<o:p></o:p>
“Như vậy, A-nan, nếu có người nào đối với năm trường hợp[65] này, tâm khéo điều phục, khéo đóng kín, khéo thủ hộ, khéo nhiếp trì, khéo tu tập, thì đó là ở nơi mắt và sắc mà tu tập căn vô thượng. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý… pháp cũng lại như vậy. <o:p></o:p>
“Này A-nan, đó gọi là tu căn vô thượng trong pháp luật của Hiền thánh.”<o:p></o:p>
Tôn giả A-nan bạch Phật:<o:p></o:p>
“Bạch Thế Tôn, thế nào là sự tu căn của Hiền thánh trong pháp luật của Hiền thánh?”<o:p></o:p>
Phật bảo A-nan: <o:p></o:p>
“Duyên và sắc, nhãn thức sanh; cái đã sanh vừa ý, cái đã sanh không vừa ý, cái đã sanh vừa ý không vừa ý. Thánh đệ tử kia cũng phải biết như thật như vầy: ‘Ta, duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh; cái đã sanh vừa ý, cái đã sanh không vừa ý, cái đã sanh vừa ý không vừa ý. Đây là tịch diệt, đấy là thắng diệu, tức là xả. Khi đã xả, lìa bỏ cả nhàm tởm và không nhàm tởm[66]. Giống như người lực sĩ trong khoảnh khắc khảy móng tay; cũng vậy, duyên mắt và sắc, nhãn thức sanh; sanh vừa ý, sanh không vừa ý, sanh vừa ý không vừa ý, trong chốc lát
(Kinh TẠP A HÀM Tập 11- Kinh 282 )


Lý 12 Nhân Duyên trong đó :
Lục Nhập duyên Lục Xúc,
Xúc duyên Thọ
Thọ duyên Ái

Từ các căn tiếp xúc lục trần cho Lục Nhập
Vì nơi Lục Nhập của phàm phu có XÚC , nên duyên Thọ , Thọ duyên Ái , cho nên có sanh tử của phàm tình .

"Đa số những nhà chú giải Tâm Kinh đều cho "Bồ tát Quán Tự Tại" là Quán Thế Âm Bồ tát. Bảo như thế tôi sợ không đúng lắm, dù rằng tôi công nhận hễ "quán thế âm" được là "quán tự tại" luôn.


Dạ thưa ,cùng một chữ quán nhưng cũng có thể là để chỉ đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi , hay đức Bồ Tát Tu Bồ Đề , theo tư duy của một số người .Vậy nếu chúng ta có thể tìm được một nguồn kinh , luận nào xác định về tên đức Bồ Tát thì chúng ta sẽ ổn định và nhất trí thưa Đạo hữu .
KÍNH
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

cunconmocoi

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
7/5/09
Bài viết
467
Điểm tương tác
106
Điểm
43
Địa chỉ
vn
Kính đạo hữu suongphale !

Cunconmocoi di chuyển ra từ chủ đề "Sự tích và hạnh nguyện đức Quán Thế Âm Bồ tát" được đăng trong box Các bài viết về Phật Học :
http://www.diendanphatphap.com/dien...Sự-Tích-và-Hạnh-Nguyện-Đức-Quán-Thế-Âm-Bồ-Tát

Trong box Các bài viết về Phật học này chúng ta chỉ đăng lại bài của những vị mà ta ái mộ, đồng cảm; còn muốn thảo luận "Ngô hay Khoai ?" thì phải tách riêng ra đặt ở box Thảo Luận Phật Học Phổ Thông.

Kính !
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18/1/13
Bài viết
1,018
Điểm tương tác
290
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">c. Vì là một phương pháp tu hành nên trong đoạn kệ của ngài Văn Thù Sư Lợi có mấy câu:
<p style="padding-left: 56px;">... Các Phật đời quá khứ
Nhờ môn ấy mà thành
Các Bồ tát hiện nay
Những người vào viên minh
Người đời sau tu học
Phải y theo pháp ấy
Ta cũng chứng trong đó
Chẳng những Quán Thế Âm.
</span></span>
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cô suongphale quên đọc đoạn trích dẫn ngắn trong bài kệ của Bồ tát Văn Thù khai thị cho ngài A Nan, nói về pháp quán "nhĩ căn viên thông" rồi. Trong đoạn trên, Bồ tát Văn Thù nói chính ngài cũng từ trong pháp quán đó mà chứng đặng viên minh chánh trí, chứ không riêng gì Bồ tát Quán Thế Âm. Lời của Bồ tát chắc thật như vậy, chẳng lẽ chúng ta không tin, nên đâu cần phải tìm bất cứ kinh, luận nào để chứng minh, vì ngay cái đẳng cấp "Bồ tát" của các ngài đã nói lên điều đó rồi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Giải thích danh từ "Quán Tự Tại":
<p style="padding-left: 56px;">- Quán: là trí năng quán
- Tự tại: kiêm cả cảnh và trí.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nguyên chữ "Quán Tự Tại" tiêu biểu có hai nghĩa: Tự hành và hóa tha.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Tự hành là lấy trí năng quán chiếu cảnh sở quán đặng lý sự vô ngại. Vì "lý" tức là chơn như thuộc về chân đế, "sự" là sanh diệt thuộc về tục đế. Chơn tức tục, nên lý không ngại sự; tục tức chơn nên sự không ngại lý. Quán chiếu viên dung như thế nên gọi là "tự tại".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Hóa tha là quán chiếu cơ duyên của chúng sanh, hiện thân thuyết pháp, cứu độ một cách thong dong, như thuốc nhằm thì bệnh dứt, không chi ngăn ngại nên gọi là "tự tại". Như trong Phổ Môn, Bồ tát Quán Thế Âm tùy cơ cảm của chúng sanh mà hóa thân ứng hiện thân Thinh văn, nhằm chỉ bày chỗ sở chứng "nhân không thiển trí" của hàng Nhị thừa. Ví dụ học trình độ lớp năm thì phải dạy họ đúng trình độ đó, chứ không thể lấy trình độ Đại học mà dạy cho người học lớp năm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đây là thời của các Bồ tát vào <B>"pháp không thâm trí"</B> (rốt ráo) chớ chẳng phải thời các phàm phu, Thanh văn nhị thừa sở chứng pháp <B>"nhân không thiển trí"</B> (cạn cợt), xin đừng lầm lẫn đem đoạn trích trong kinh "282: Chư căn tu" để so sánh với pháp tu của các Bồ tát.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kính.
</span></span>
 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14/12/11
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
Kính thưa các đạo hữu
Kính thưa bác Tuấn Tú
tuấn tú đã viết:
....Lời của Bồ Tát chắc thật như vậy , chẳng lẽ chúng ta không tin....
Cô suongphale quên đọc đoạn trích dẫn ngắn trong bài kệ của Bồ tát Văn Thù khai thị cho ngài A Nan, nói về pháp quán "nhĩ căn viên thông" rồi. Trong đoạn trên, Bồ tát Văn Thù nói chính ngài cũng từ trong pháp quán đó mà chứng đặng viên minh chánh trí, chứ không riêng gì Bồ tát Quán Thế Âm. Lời của Bồ tát chắc thật như vậy, chẳng lẽ chúng ta không tin, nên đâu cần phải tìm bất cứ kinh, luận nào để chứng minh, vì ngay cái đẳng cấp "Bồ tát" của các ngài đã nói lên điều đó rồi



spl không hề nói là không tin lời của Bồ Tát .



Ở đây là bác Tuấn Tú muốn nói việc đức Bồ Tát Văn Thù Sư lợi giảng cho ông A nan hai bài kệ , một là về phép tu tập Căn , hai là về phép "Trở nghe nghe tự tánh "
spl xin lấy mỗi bài vài câu tượng trưng
1- Bài thứ nhất - Đức Bồ Tát Văn Thù khuyên ông A nan
"Dục lậu chẳng sớm trừ
Chứa nghe thành lầm lỗi
Đem nghe giữ Phật Phật
Sao chẳng tự nghe nghe"
Qua mấy câu này đức Văn Thù đã khuyên ông A nan và đại chúng bỏ cái nghe chạy theo thanh trần , vì đó là cái nghe có vừa ý có không vừa ý , có yêu có ghét , đó là nhĩ căn đắm nhiễm trần.Như nghe âm thanh thấy du dương thì thích , nghe tiếng ồ ồ thì không ưa ..v v..Nếu có tâm niệm như vậy thì khó có thể tu tập quán xét Tánh Nghe, và tu tập quán xét Tánh Nghe mà còn song song có tâm niệm chạy theo thanh trần như vậy thì khó tu tập quán xét Tánh Nghe thành công .
2- Bài thứ hai.Vài câu tiêu biểu
"Thử nghe nghe tự tánh
Tánh thành đạo Vô thượng
Viên thông thiệt như vậy
Theo đó vi trần Phật
Một đường đến Niết Bàn"

Tu tập quán xét Tánh Nghe .Việc này chỉ có thể có đối với người đã nhiếp phục được nhĩ căn không chạy theo thanh trần .

Hai bài kệ để song song đó cho thấy có hai pháp theo thứ tự :
1- Không trôi theo vọng bên ngoài của các căn , trong đó có nhĩ căn
2-Trở vào nghe nghe tự tánh (mà thiền sư Thích Thanh Từ gọi là "Phản văn văn tự tánh " )
Là hai pháp mà đức Bồ Tát Văn Thù muốn chỉ dạy cho ông A nan và hàng hậu học như chúng ta .Và để có thể biết và thực hành được hai pháp này , những người sơ phát tâm Bồ Tát đạo , chắc chắn phải dùng tai của mình để nghe biết về hai pháp này .Chư Bồ Tát cũng đi từ giai đoạn sơ phát Bồ Đề tâm .Trong giáo lý đạo Phật có dạy chúng ta về pháp Văn - Tư -Tu ( Nghe- Tư duy - Tu ) gọi nôm na là tu học ( học để tu ).
Chư A la hán , tuy được gọi là hàng Vô Học , nghĩa là không còn phải học gì nữa .Nhưng mà A la hán và Đại Bồ Tát vẫn còn học từ đức Phật , vẫn còn nghe Phật thuyết pháp , vẫn còn thực hành văn - tư- tu , nghĩa là nghe lời thuyết pháp của Phật , tư duy , và tu .Và vì ở lý do này mà nơi chú thích về nghĩa của Văn - Tư- Tu phần trên , spl chỉ nói là chưa đủ , do vì định nghĩa đó không diễn tã được nghĩa của văn , tư, tu dành cho hàng Sơ Phát Tâm .Còn pháp văn- tư- tu của Đại Bồ Tát thì chúng ta không thể biết .Vì chư Đại Bồ Tát ( có Thân BIẾN DỊCH - không phải thân Phần Đoạn )được Phật giảng nói và văn -tư -tu như thế nào chúng ta không trải đến nên không biết .
cho nên chỉ nói về văn- tư- tu của phàm .

tuấn tú đã viết:
Đây là thời của các Bồ tát vào "pháp không thâm trí" (rốt ráo) chớ chẳng phải thời các phàm phu, Thanh văn nhị thừa sở chứng pháp "nhân không thiển trí" (cạn cợt), xin đừng lầm lẫn đem đoạn trích trong kinh "282: Chư căn tu" để so sánh với pháp tu của các Bồ tát.
Xin Hãy đọc lại đoạn kinh Thủ Lăng Nghiêm sau đây :
Khi bấy giờ Bồ tát Quan Thế Âm đứng dậy cung kính chấp tay thưa :
_ Bạch Thế Tôn ! Tôi nhớ hằng hà sa kiếp trước , có đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm và tôi đã phát Bồ Đề tâm thời ấy .Đức Quán Thế Âm dạy tôi phương pháp nghe- suy nghĩ- và tu , để dược thể nhập Tam ma đề .

Bạch Thế Tôn , trước hết tôi sử dụng tánh nghe , nghe động và nghe tĩnh , rồi tôi xóa đi ý niệm động, tĩnh ấy ; từ đó sức tịch tĩnh tăng dần , tôi dứt được năng văn sở văn.

Sức tịch tĩnh không dừng ở đó .Bấy giờ, giác tánh tôi lại hiện ra .Tôi tiếp tục tư duy:" Dù là giác tánh nhưng năng giác , sở giác hãy còn .

Tôi bèn xóa ý niệm về "giác ".Bấy giờ tâm tánh tôi rỗng rang lặng lẽ như hư không .

Tôi lai diệt đi cái giác tri " như hư không" ấy .

Cuối cùng tôi diệt cả cái khái niệm "diệt "

Khi tôi diệt hết khái niệm vi tế về "diệt /sanh , sanh/diệt" bỗng dưng tôi hận thấy toàn thể pháp giới trong mười phương chỉ còn là cảnh giới bất nhị tịch diệt hiện tiền

Tâm tính của tôi viên mãn khắp mười phương , vượt hẳn tầm nhận thức thường tình của thế gian

Tôi được hai món thù thắng , một là tâm tôi hợp với tâm bản giác nhiệm mầu của mười phương Như lai ,đồng một từ tâm hướng về cứu độ chúng sanh .Hai là hợp với tâm của Lục Đạo chúng sanh .
(Trích KINH THỦ LĂNG NGHIÊM - HT Thích Từ Thông - Trực Chỉ Đại Cương - Thư Viện Phật Học Online )

Qua đoạn này chúng ta được biết về các giai đoạn tu hành từ khi sơ -phát- tâm Bồ đề tâm , cho đến khi thành Đại Bồ tát .
Tạm lấy ví dụ
Một quá trình học tập đi từ mẫu giáo đến tốt nghiệp Đại Học thì nếu bất cứ một em nào không học đủ chương trình 12 năm phổ thông vẫn có thể học và tốt nghiệp Đại Học chăng.Những em học đủ chương trình12 năm phổ thông mà không giỏi cũng chưa dễ gì qua nổi kỳ thi tuyển .Chuyện này chúng ta cần suy nghĩ .
Nếu một Phật tử mà ngay đến chưa phòng hộ các căn , để cho các căn chạy theo lục trần , nghĩa là còn cố chấp hay vô tình sống với nhĩ căn buông trôi theo dục ,lại vừa tu tập quán xét Tánh Nghe thì ...
Để kết thúc spl xin mượn lời của Thiền sư Thích Thanh Từ :

thich thanh tu đã viết:
Từ trước đến nay các vị đều tu theo cách "Phản văn văn tự tánh "thường hay lắm mà chình chúng tôi cũng bị lầm .Chúng ta cứ nghĩ nghe lại tự tánh , là nghe làm sao ?Chúng tôi kinh nghiệm nhiều lần, nếu ngồi nghe lại cái mình nghe một lúc sau lỗ tai bắt đầu nhức , có vị nghe trở vô trong về sau bị ran ngực , thổ huyết thành bệnh ...Tu lối phản văn như vậy là một lầm lẫn quá lớn.
Phản văn nghĩa là gì ?Từ trước đến giờ cái nghe của chúng ta theo âm thanh bên ngoài gọi là tùy lực tức trôi theo vọng bên ngoài .Nếu ta không trôi theo vọng bên ngoài , mà chỉ nhớ đến tánh nghe , gọi là "phản văn" tức nhớ lại Tánh Nghe .
Tánh Nghe như thế nào ? Và ở đâu ?Khi nghe nói lại Tánh Nghe chúng ta nghĩ là nghe tại lỗ tai , rồi chúng ta nghe một lúc lâu ,lỗ tai bắt đầu nhức .
Phải nhớ Tánh Nghe trùm khắp mười phương không kẹt ở lỗ tai nên không bị nhức, không sanh bệnh
Phản văn tự tánh tức nhớ Tánh Nghe của mình trùm khắp mười phương , đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng như vậy.Cho đến ngồi thiền cũng như vậy, không nhớ gì khác nữa .Tánh Nghe không có tướng mạo nên nó không bị hạn chế hay ngăn cách .Nó trùm khắp mười phương chúng ta luôn nhớ thẳng Tánh nghe của mình trùm khắp mười phương , gọi đó là "Phản văn tự tánh "

Spl hiểu như vậy xin góp lời
Kính
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Bên trên