Cư sĩ Như Trụ biên soạn
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP MÔN NIỆM PHẬT THEO KINH PHẬT VÀ LỜI TỔ.
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
PHẬT LỊCH 2559 - 2015
LỜI NÓI ĐẦU
Nhờ y vào lời dạy của tổ Thiện Đạo, tổ pháp Nhiên Thượng Nhân và lập Tịnh thất, Nhập thất chuyên tu Pháp Môn Niệm Phật. Dần dần tôi mới hiểu được ý nghĩa chân thật và khoa học của pháp môn mà thực hành niệm Phật, mới có thể biên soạn thêm bài Hỏi đáp về Pháp Môn Niệm Phật theo kinh Phật và lời Tổ và mới có thêm kiến thức để liên hệ đối chiếu giữa lời dạy của Phật với thành tựu khoa học hiện đại về bảy vầng hào quang bao quanh cơ thể con người để làm sáng tỏ Pháp MônNiệm Phật. Đạo lý nhân quả luân hồi của Phật là chân thật, khách quan và khoa học. Đó là lý do tôi biên soạn thêm bài này, nhằm bổ sung và làm rõ nội dung của bài biên soạn trước, tựa đề là “Nhận thức và tu hành Pháp Môn Niệm Phật theo kinh Phật và lời Tổ”, đã được Nhà xuất bản Tôn giáo cho xuất bản vào quý 4 năm 2014 để đồng cùng chia sẻ với bạn đồng tu về Pháp Môn Niệm Phật vậy.
Nam Mô A Di Đà Phật.
1. HỎI: Cho biết tiểu sử của tổ Thiện Đạo và tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân?
ĐÁP: Xin trích tiểu sử của tổ Thiện Đạo trong quyển Niệm Phật Cảnh và tiểu sử của tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân trong quyển Niệm Phật Tông yếu để trả lời câu hỏi này.
TIỂU SỬ ĐẠI SƯ THIỆN ĐẠO Tổ thứ hai của Liên Tông (613 - 681) Đại sư Thiện Đạo, Tăng đời Đường, người ở Lâm Truy- Sơn Đông.
Họ Chu, hiệu là Đại sư Chung Nam - Ngài là tổ thứ hai của Liên Tông, cũng là người tập hợp và đúc kết được những điều hay trong giáo nghĩa Tịnh độ của phái Đàm Loan, Đạo Xước.Thuở bé lễ pháp sư Minh Thắng ở Mật Châu xuất gia,đọc các kinh Pháp Hoa, Duy Ma... về sau, sư xem kinh Quán vô Lượng Thọ, vui buồn lẫn lộn, bèn tu tập mười sáu pháp quán. Năm thứ 15 hiệu Trinh Quán (641) đời Đường Thái Tông, Sư đến chùa Huyền Trung ở Tây Hà yết kiến Thiền sư Đạo Xước, tu học Phương Đẳng Sám Pháp, lại nghe giảng kinh Vô Lượng Thọ. Sau đó chuyên tâm niệm Phật dốc sức chuyên cần bèn được Niệm Phật Tam Muội. Ở trong định tận mắt thấy cảnh trang nghiêm của Tịnh độ. Về sau Sư vào chùa Quang Minh ở Trường An hoằng truyền Pháp Môn Tịnh Độ. Sư hành trì tinh nghiêm, thường ngài ngồi chắp tay nhất tâm niệm Phật đến khi kiệt sức mới thôi. Hơn ba mươi năm không dời đổi nơi ngủ nghỉ, chẳng ngước mắt nhìn người nữ, cũng không nhận sa di lễ bái, tránh xa danh lợi, chẳng nhận cúng dường, y phục tốt, thức ăn ngon, Sư đều đưa cho nhà chùa để cúng dường đại chúng tự mình dùng thức ăn đạm bạc. Sư đem những tịnh tài được dâng tặng:
- Viết mười vạn quyển kinh A Di Đà, vẽ ba trăm bức tranh Tịnh độ biến tướng.
- Thấy tháp miếu, già lam hư hoại đều tu sửa lại.
- Sư giáo hóa các châu Kinh Hoa, mọi người đều ngưỡng mộ đức hạnh.
- Có người tụng kinh A Di Đà mười vạn lần cho đến ba mươi vạn lần.
- Hoặc có người định thời khóa mỗi ngày xưng danh hiệu Phật một muôn cho đến mười muôn.
- Hoặc có người được Niệm Phật Tam Muội vãng sinh Tịnh Độ.
- Hoặc có người gieo thân từ đỉnh núi, sinh mạng ký thác nơi suối sâu, xả mệnh đốt thân.
Do đó Sư được mọi người gọi là “Di Đà Hóa Thân”. Ngoài ra Sư đã cùng với Pháp sư Kim Cang luận thuyết về sự hơn kém của Pháp Môn Niệm Phật. Thời Cao Tông, ở Long môn tại Lạc Dương đúc tượng Phật Tỳ Lô Giá Na. Sư đảm nhận chức trách trông coi công việc.Ngày 14 tháng 3 năm thứ 2 niên hiệu Vĩnh Long (681), Sư thị tịch, thọ 69 tuổi, an táng ở Thần hòa nguyên phía nam thành Trường An. Đệ tử gồm các vị Hoài Cảm,Hoài Uẩn, Tịnh Nghiệp... Đại sư có trước tác Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh số 4 quyển. Tịnh độ pháp sự tán 2 quyển và Quán Niệm Pháp Môn. Vãng sinh Lễ Tán kệ. Ban Chu Tán, Ngũ chúng Tăng Thượng Duyên Nghĩa... mỗi loại 1 quyển. Sư rất được tông Tịnh độ tôn kính, nhờ sự xiển dương của Sư mà Tông này được xác lập, đặc biệt được gọi là dòng Thiện Đạo. Đây là một trong những đặc sắc của Phật giáo đời Đường, ảnh hưởng rất lớn đối với tông Tịnh độ. Công nguyên 1909, học giả Nhật Bản là Quất Thụy Siêu, ở vùng cận Toyuk (là nền cũ của Cao Xương) phát hiện quyển Vãng Sinh Tán Kệ và những mảnh đứt đoạn của Kinh A Di Đà, phần sau có phụ lục văn phát nguyện của Sư. Đây có lẽ là một trong mười vạn quyển kinh A Di Đà do Sư viết.
Hơn nữa, Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ cũng gọi là Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ. Vào thế kỷ thứ VIII đã được truyền sang Nhật Bản và lưu truyền rất rộng.
Ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân y cứ vào sách này sáng lập tông Tịnh độ của Nhật Bản, đồng thời tôn Đại sư Thiện Đạo là Cao Tổ. (Theo Phật Quang Đại Từ Điển).
TIỂU SỬ NGÀI PHÁP NHIÊN THƯỢNG NHÂN Pháp Nhiên Thượng Nhân là khai tổ của Tông Tịnh độ Nhật Bản. Ngài sinh năm 1133.
Thân phụ của Ngài là một vị quan thời đó. Do đã quá tứ tuần nhưng chưa có con nối dõi, nên cha mẹ Ngài đã trai giới thanh tịnh rồi vào chùa tụng kinh bảy ngày đêm để xin Phật gia hộ. Đến đêm thứ bảy, trong lúc nửa tỉnh nửa mê, mẹ Ngài thấy một lão tăng đưa cho bà một con dao dùng để cạo đầu người xuất gia, bảo bà nuốt. Sau đó bà hoài thai.Cha Ngài đoán bà sẽ sinh con trai và sau này xuất gia làm một Đại sư lỗi lạc. Từ khi mang thai Ngài, thân tâm mẹ Ngài trở nên an lạc lạ thường, bà phát tâm ăn chay trường và thâm tín Tam Bảo. Khi sinh Ngài, có hai luồng hào quang trên không chiếu xuống, tiếng chuông lảnh lót. Đầu Ngài vuông vắn có góc, mắt hai tròng, tướng mạo phi phàm.Năm lên chín, phụ thân Ngài bị quân địch sát hại. Trước khi qua đời, ông kêu Ngài đến bên và dạy: “Này con! Đây là túc nghiệp của cha, con tuyệt đối không nên ôm hận báo thù. Hãy nhớ rằng oán không thể diệt oán! Nếu mang tâm báo thù thì đời đời kiếp kiếp mãi giết hại lẫn nhau không bao giờ dứt. Mình biết đau, người khác cũng biết đau. Ta tiếc mạng sống, kẻ khác cũng biết tiếc mạng sống. Sau này con thành nhân, hãy cầu vãng sinh Cực Lạc, lợi lạc bình đẳng cho người và mình”. Dặn dò xong, ông lớn tiếng niệm Phật mà an ổn qua đời.
Năm 14 tuổi tuân theo di ngôn của thân phụ, Ngài xuất gia với Pháp sư Giác Quán ở chùa Bồ đề tại quê nhà. Ngài huệ giải mẫn tiệp nhất văn thiên ngộ. Pháp sư Giác Quán thấy Ngài khí lượng phi phàm, không lỡ để mai một, nên đưa Ngài lên Tỷ Duệ Sơn, một tự viện nổi tiếng ở kinh đô để tham học với Pháp sư Nguyên Quang.Đến Tỷ Duệ Sơn ở không bao lâu thì Pháp sư Nguyên Quang bảo rằng: “Đây là tuấn mã, không thể để uống phí ở đây!”, rồi đưa Ngài đến A Xà Lê Hoàng Viên, một bậc tông sư của Tông Thiên Thai thời đó. Vừa thấy Ngài, Tổ Hoằng Viên nói rằng: “Hồi hôm ta nằm mộng, thấy một vầng trăng tròn chiếu vào chùa. Phải chăng đây là điều lành báo trước!”, rồi thu nhận Ngài làm đệ tử, bấy giờ Ngài mới 15 tuổi. Chưa đầy ba năm sau, Ngài thấu triệt được tất cả những áo diệu của Giáo Pháp Thiên Thai. Tổ Hoằng Viên có ý trao truyền tổ vị cho Ngài. Do không muốn bị ràng buộc bởi danh lợi nên Ngài quyết tâm ra đi. Năm 28 tuổi, Ngài ẩn tu ở núi Hắc Cốc, tham học với Hòa Thượng Duệ Không, một bậc tông tượng của Mật tông thời đó. Thấy Ngài khí độ phi phàm, tuổi dù nhỏ mà không cần sách lệ, nên đặt pháp hiệu Ngài là Pháp Nhiên (nghĩa là: Pháp vốn như vậy) và Pháp danh là Nguyên Không (lấy chữ “Nguyên” của Đại sư Nguyên Quang và chữ “Không” của Đại sư Duệ Không). Tại đây, Ngài được truyền Viên Thừa Đại Giới và Du già bi pháp. Không những thông tuệ, Ngài còn rất hiếu học. Tất cả kinh luật, luận đều được Ngài duyệt đọc cẩn thận. Ngài còn nghiên cứu tường tận về mọi tông phái. Không những thế, Ngài lại đọc khắp Bách gia của cả Trung Quốc lẫn Nhật Bản. Ngài từng nói rằng: “Bất cứ kinh điển hay sách vở gì, hễ tôi đọc qua vài lần là tự nhiên thấu triệt. Không cần phải suy nghĩ!”. Bởi thế tinh thông mọi tông phái mà không cần phải học với ai. Ngài duyệt đọc Đại tạng cả thảy 5 lần và được đương thời tôn xưng Ngài là trí huệ đệ nhất.
Về phương diện tu hành, Ngài có rất nhiều chứng nghiệm, có lần Ngài nhập thất 21 ngày tu Pháp Hoa Tam Muội, cảm Đức Phổ Hiền cưỡi voi trắng đến chứng minh, Sơn vương Thần Tướng hiện hình thủ hộ. Khi Ngài duyệt đọc kinh Hoa Nghiêm, có con rắn nhỏ màu xanh nằm khoanh trên bàn. Thị giả Tín Không thấy vậy rất sợ hãi, dùng cây gậy đem rắn ra ngoài, khi trở vào lại thấy nằm nguyên chỗ cũ. Đêm đó, Tín Không nằm mộng, thấy một con rồng lớn đến bảo rằng: “Tôi là Long Thần thủ hộ kinh Hoa Nghiêm, xin đừng sợ hãi”.
Mỗi lần Ngài nhập thất tu chân ngôn mật quán liền cảm ứng các điềm lành như liên hoa, bảo châu, Yết ma...hiện ra. Rất nhiều lần Ngài đọc kinh ban đêm mà không cần đốt đèn. Ánh sáng phát ra từ trán Ngài hoặc từ trong thất. Những điều lạ như trên, kể ra không xiết. Dù vậy,
Ngài vẫn còn băn khoăn, chưa thật sự an tâm. Trong cả đại tạng kinh Ngài hâm mộ bộ Quán Kinh Sớ của Tổ Thiện Đạo nhất. Ngài đọc đi đọc lại nhiều lần, bỗng nhiên ngộ được ý chỉ Di Đà Siêu Thế Nguyện. Ngài vô cùng hoan hỷ, chẳng khác gì trong đêm tối gặp được minh đăng. Ngài lập tức xả bỏ tất cả những pháp môn đã và đang tu, rồi nhập thất chuyên tu Tịnh độ, niệm Phật vãng sinh. Trong thời gian ẩn tu niệm Phật, có đêm Ngài nằm mộng thấy Đại sư Thiện Đạo đến bảo với Ngài rằng: “Tôi là Sư Thiện Đạo đời Đường. Ông có thể hoằng dương chuyên tu niệm Phật, nên tôi đến để chứng minh. Từ nay ông có thể hoằng pháp thịnh hóa khắp cả bốn phương!”. Năm 43 tuổi, Ngài rời Hắc Cốc đến trú tích ở Đông Các Thủy và khai sáng tông Tịnh độ. Trước đó, tuy có không ít người Niệm Phật, nhưng chưa có Tông Tịnh độ riêng biệt. Từ đây, tông Tịnh Độ xuất hiện và liên tục truyền thừa cho đến thời hiện đại ở Nhật Bản. Đây là điều đặc sắc cần lưu ý, vì ở Trung Hoa không hề có Tông Tịnh độ, và dĩ nhiên không có sự truyền thừa. Các Đại sư hoằng dương Tịnh độ Trung Hoa có tính cách tự phát và chỉ ở trong đời các Ngài. Từ khi Ngài khai xướng tông Tịnh độ, những cảm ứng linh dị nhiều không kể xiết.
Xin kể đôi điều để tăng lòng kính tin.Đương thời, tể tướng Đằng Nguyên Kiêm Thực rất ngưỡng mộ Thượng Nhân. Có lần thỉnh Ngài vào điện Nguyệt luân để tham vấn Tịnh Tông Yếu Nghĩa. Giảng xong Ngài từ biệt ra về, khi đi đến cây cầu trước điện, tể tướng quỳ lạy dưới đất, không cầm được nước mắt, giây lâu quay lại hỏi các người tùy tùng “Vừa rồi các người có thấy Thượng Nhân trên đầu có hào quang, dưới chân có hoa sen đỡ rời khỏi mặt đất, hình dáng giống đức Đại Thế Chí không?”. Có người thấy, có người không. Từ đó cầu này được đặt tên là cầu Viên Quang. Có lần cử hành niệm Phật thất hai mươi mốt ngày ở chùa Linh Sơn. Vào nửa đêm ngày thứ năm, có vài người thấy đức Đại Thế Chí cùng với đại chúng kinh hành niệm Phật nên vội đảnh lễ. Giây lát ngước lên thì hình đức Đại Thế Chí biến thành hình Thượng Nhân. Do đó mới biết Ngài là hiện thân của đức Đại Thế Chí. Từ khi Thượng Nhân sáng lập Tông Tịnh độ, cơ hóa độ thịnh hành vô cùng. Từ vua chúa công khanh đến hạng dân giã đều quy ngưỡng Ngài. Tất nhiên cũng không ít kẻ ganh ghét. Do lỗi lầm của đệ tử, Ngài bị vu cáo và phải đi đày một thời gian ngắn. Nhưng Ngài vẫn an nhiên dạy đạo cho bất cứ ai đến tham vấn mà không hề phân biệt. Cũng nhờ lần đi đày này mà nhiều người có dịp gặp Ngài và được vãng sinh. Ngài vãng sinh vào lúc giữa trưa ngày 25 tháng 2 năm 80 tuổi (1212). Trước đó vài ngày, Ngài nói với các đệ tử: “Tiền thân của thày là một vị tăng bên Thiên Trúc (Ấn Độ cổ thời), thường tu hạnh đầu đà, nay đến trốn này học Thiên Thai Tông, sau rốt mở Tịnh độ tông hoằng dương niệm Phật”.
Đệ tử Thế Quán hỏi: Thưa thầy! là vị nào? Ngài đáp: Là ông Xá Lợi Phất.
Lại có đệ tử khác hỏi: Thày nay có vãng sinh về thế giới Cực Lạc không? Ngài đáp: Thày vốn là người của Cực Lạc, dĩ nhiên phải trở về Cực Lạc. Các đệ tử thiết trí tượng đức Phật A Di Đà và xin Ngài chiêm ngưỡng. Ngài lấy tay chỉ trên không nói rằng: “Phật hiện chân thân kia, các con có thấy không? Mười mấy năm nay Thầy thường thấy chân thân của Phật, Bồ Tát và Cực Lạc trang nghiêm, nhưng tuyệt đối giữ kín không nói ra với ai. Nay sắp vãng sinh nên không ngại gì mà không nói cho các con biết”. Ngày 22 các đệ tử đều đi nghỉ hết, chỉ còn một mình Thế Quán hầu Ngài. Có một người đàn bà đi xe đến và xin được gặp riêng Thượng Nhân. Hai người đàm đạo rất lâu. Khi bà ra về, Thế Quán lấy làm lạ nên mới đi theo sau, nhưng chẳng bao xa thì bà đột nhiên biến mất. Thế Quán vào hỏi Thượng Nhân, Ngài đáp: “Bà đó là phu nhân Vi Đề Hy”.
Từ ngày 23 cho đến ngày 25, Ngài lớn tiếng niệm Phật cùng đại chúng để kết duyên lần cuối. Đến giữa trưa ngày 25, Ngài đắp y Tăng già lê, đầu bắc mặt tây (nằm nghiêng bên phải, mặt quay về hướng tây).
Tụng bài kệ sau rồi thị tịch, thọ thế 80, tăng lạp 66. “Quang minh biến chiếu Thập phương thế giới Niệm Phật chúng sinh Nhiếp thụ bất xả” (Tạm dịch: Ánh sáng chiếu khắp mười phương thế giới. Thu nhiếp chẳng rời chúng sinh niệm Phật). Trước khi Ngài thị tịch 5 ngày (ngày 20) mây ngũ sắc giống như tranh Phật che phủ chùa, khiến tất cả đại chúng được thấy đều rơi lệ. Các đệ tử nói rằng: “Đã có mây lành hiện ra thì thày sắp vãng sinh rồi!”.
Ngài bảo: “Lành thay! Những người được thấy nghe hẳn sẽ tăng trưởng tín tâm!”.
Sau khi vãng sinh 16 năm, các đệ tử mở tháp đá đựng di thể của Ngài, thấy thân hoàn toàn như cũ, dung mạo từ hòa. Đệ tử tăng tục hơn ngàn người hộ tống di hài Ngài về Tây giao làm lễ trà tỳ. Trong khi làm lễ, mây lành hiện ra, hương thơm phảng phất trên các cây tùng. Từ đó, nơi này có tên Tử Vân Tùng, hiện nay là chùa Quang Minh. Tác phẩm quan trọng nhất của Ngài là Tuyên Trạch Bổn Nguyện niệm Phật (tập 4) đang được chuyển dịch sang Việt ngữ.
2. HỎI: Tại sao trong thời kỳ Mạt Pháp, Pháp Môn Niệm Phật lại là pháp môn duy nhất, Phật cứu chúng sinh tội chướng ra khỏi biển khổ luân hồi sinh tử và tu tiếp thành Phật?
ĐÁP: Xin trích dẫn kinh Phật và lời Tổ để trả lời câu hỏi này.
* Kinh Pháp Hoa có đoạn:
Trong cõi Phật mười phương
Chỉ có pháp Nhất thừa
Không Hai cũng không Ba
Trừ Phật phương tiện nói”.
Pháp Nhất thừa là pháp tu thẳng thành Phật. Pháp Môn Niệm Phật có nhân tu là tha lực niệm Phật, quả tu là vãng sinh Cực Lạc. Trong kinh Niệm Phật Ba la mật Phật Thích Ca xác quyết “Vãng sinh là thành Phật”. Thế nên Pháp Môn Niệm Phật là pháp môn tu thẳng thành Phật, cũng chính là pháp Nhất thừa vậy.
Không Hai là không có Nhị thừa gồm Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa.
Không Ba là không có Tam thừa là Bồ Tát thừa.Vì chúng sinh chấp tướng, nên Phật phải nói ra
các pháp Nhị thừa, Tam thừa làm phương tiện cho chúng sinh căn cơ bậc thượng tu hành trong thời kỳ chính pháp và Tượng pháp đó thôi.
* Kinh Đại tập Phật dạy: “Thời kỳ Mạt pháp muôn ức người tu hành không có lấy một người giải thoát. Phải nương vào Pháp Môn Niệm Phật mà ra khỏi luân hồi”. Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân sơ tổ Tịnh tông Nhật Bản là hóa thân của Bồ tát Đại Thế Chí đã làm rõ đoạn kinh này bằng lời dạy sau: “Thánh đạo môn (gồm Luật tông, Giáo tông, Thiền tông, Mật tông), tuy thâm diệu, nhưng thời điểm và căn cơ chẳng tương ứng. Tịnh độ môn hình như nông cạn, nhưng thời điểm và căn cơ đều tương ứng. Thời Mạt pháp một vạn năm, các kinh điển khác đều bị tiêu diệt, chỉ còn Pháp Môn Niệm Phật để cứu độ chúng sinh”.
* Kinh Tịnh Độ Quyết Nghi Phật chỉ rõ: “Sau khi Phật diệt độ năm trăm năm, trong thời kỳ chính pháp, Trì giới được thành tựu. Một nghìn năm thời Tượng pháp, Thiền định được thành tựu. Một vạn năm thời Mạt pháp Niệm Phật được thành tựu”. Hiện nay đã vào thời kỳ Mạt pháp được hơn một nghìn năm.
* Lời Phật dạy trong Kinh Pháp cú:
“Không làm những việc ác
Nên làm những việc lành
Thanh tịnh tâm ý minh
Là lời chư Phật dạy”.
Con người luôn phải chịu tám khổ từ vô thủy kiếp đến nay mà chưa từng biết.
Tám khổ là: Sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, yêu nhau mà phải xa nhau khổ, oán ghét nhau mà phải sống chung khổ, cầu không được khổ, ngũ ấm si thịnh khổ. Bởi thế Phật mới giáng sinh để mở đường diệt khổ cho chúng sinh. Giúp chúng sinh giải thoát khỏi sự trói buộc giam hãm trong biển khổ luân hồi, từ vô thủy kiếp đến nay. Đức Phật trụ thế 49 năm dạy chúng sinh. Cuối cùng Phật nói:“Ta chỉ dạy một điều khổ và diệt khổ”.Phật dạy con người “Không làm những việc ác. Nên làm những việc lành” để khi chết được sinh lại làm người, khỏi phải đọa lạc vào ác đạo. Nhưng làm lành lánh ác trong thời kỳ Mạt pháp đâu có dễ dàng, vì tâm chúng sinh quá mê lầm sinh ra phiền não tham sân, thúc đẩy thân khẩu gây quá nhiều ác nghiệp, làm sao mà tránh khỏi đọa lạc được. Trong Niệm Phật Tông Yếu, Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân dạy “Làm lành lánh ác là lời răn chung của chư Phật. Nhưng hạng phàm phu thời Mạt pháp chúng ta thường làm ngược lại! Nếu tự mình không nương vào Di Đà Bản nguyện thì e rằng khó ra khỏi luân hồi sinh tử”. Ngài còn dạy: “Tất cả Phật Pháp dùng để chế phục điều ác. Vì hạng phàm phu ngu si không dễ gì làm được, nên khuyên niệm Phật để diệt tội”. Cho dù.
“Không làm những việc ác.
Nên làm những việc lành” được đi nữa cũng chỉ có chút phúc báo sinh lại làm người. Nhưng vẫn bị trói buộc mãi trong biển khổ luân hồi sinh tử mà thôi.
Vậy chúng sinh phàm phu muốn giải thoát khỏi biển khổ luân hồi sinh tử trong thời kỳ Mạt pháp này thì phải thực hiện lời dạy của Phật: “Thanh tịnh tâm ý mình”.Muốn thanh tịnh tâm ý mình thì phải sinh về cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà. Muốn sinh về cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà thì phải tu Pháp Môn Niệm Phật là pháp tha lực.Y vào kinh Phật và lời Tổ dẫn ở trên, rút ra kết luận: Trong thời kỳ Mạt pháp, Pháp môn Niệm Phật là pháp môn duy nhất, Phật cứu chúng sinh thoát khỏi biển khổ luân hồi sinh tử và tu tiếp thành Phật mà thôi.
3. HỎI: Những đại nguyện nào trong 48 đại nguyện của đức Phật A Di Đà đã mở ra Pháp Môn Niệm Phật là pháp tha lực?
ĐÁP: Do Phật A Di Đà phát đại nguyện 13 và 14 mà có Pháp tha lực.
Nội dung của đại nguyện 13 và 14: “Khi tôi thành Phật, quang minh vô lượng chiếu khắp mười phương, vượt hơn quang minh của thảy chư Phật, vượt hơn ánh sáng mặt trời mặt trăng ngàn vạn ức lần. Nếu có chúng sinh thấy được quang minh chiếu chạm thân mình, đều được an lạc, tâm từ, hành thiện. Được sinh nước ta. Nếu không như nguyện, không thành Chính giác”.
Phật là do chúng sinh tu thành. Phải đầy đủ vô lượng quang, vô lượng thọ, vô biên công đức. Mới chứng quả vị Phật. Tuy nhiên nguyện tu hành của Chư Phật có mức độ khác nhau nên nguyện lực cũng khác nhau. Vì muốn độ tận chúng sinh nên đức Phật A Di Đà đã phát đại nguyện 13 và 14 để có nguyện lực lớn, chính là Pháp tha lực. Do có pháp tha lực, Phật A Di Đà mới phát tiếp đại nguyện thứ 18, là đại nguyện tiếp dẫn chúng sinh về Tây Phương Cực Lạc để mở ra Pháp Môn Niệm Phật là pháp tha lực.
Nên ba đại nguyện 13, 14 và 18 đã mở ra Pháp Môn Niệm Phật là pháp tha lực. Ba đại nguyện này được Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân gọi là Di Đà Bản nguyện, còn gọi tắt, viết tắt là đại nguyện 18.
Trong Niệm Phật Tông Yếu, Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân dạy: Kinh Quán Vô Lượng Thọ chép rằng: “Quang minh soi chiếu khắp 10 phương thế giới, thâu nhiếp không rời chúng sinh niệm Phật”. “Quang minh đức Phật A Di Đà chỉ soi chiếu người niệm Phật chẳng soi chiếu người tu các hạnh khác. Bởi thế người cầu sinh sang Cực Lạc phải biết niệm Phật là trọng yếu”. Trong Niệm Phật Cảnh, có người hỏi Tổ Thiện Đạo: “Nói về pháp môn thì vô lượng Pháp nào là tự lực, pháp là tha lực. Tổ đáp: Như Lai nói 84000 pháp môn, nhưng chỉ có một môn Niệm Phật là tha lực. Các môn tu hành khác đều là tự lực”.
Như thường nói, thường viết là: Pháp Môn Niệm Phật, đó là nói tắt viết tắt. Còn nói đủ viết đủ phải là: “Pháp Môn Niệm Phật là pháp tha lực”. Cũng như thế, khi nói hay viết là niệm Phật, đó là nói tắt viết tắt. Còn nói đủ viết đủ phải là: tha lực niệm Phật. Có hiểu như thế mới đúng với ý nghĩa của Pháp Môn Niệm Phật là pháp tha lực vậy.
4. HỎI: Hãy phân tích về nội dung của đại nguyện 18.
ĐÁP: Nội dung của đại nguyện 18: “Nếu chúng sinh nào muốn về nước ta, một lòng tin ưa xưng danh hiệu ta, cho đến mười niệm. Như không được sinh ta không thành Phật”.
Từ nội dung của đại nguyện 18 rút ra ba điều kiện: Muốn về nước ta là cầu vãng sinh.
- Một lòng tin mà cầu vãng sinh hay không nghi ngờ gì về chuyện vãng sinh, gọi là tin sâu (điều kiện 1).
- Một lòng ưa mà cầu vãng sinh hay chỉ một lòng cầu vãng sinh gọi là nguyện thiết (điều kiện 2).
- Xưng danh hiệu ta hay niệm Phật (điều kiện 3).
Trong 3 điều kiện thì tín đứng hàng đầu và mở ra hai điều kiện sau. Bởi vì có tín mới có nguyện. Có nguyện mới xưng danh hiệu ta hay niệm Phật. Nếu tín mà không nguyện thì gọi là tín xuông. Nếu nguyện mà không xưng danh gọi là nguyện hão. Nên khi nói nguyện thiết là đã có tin sâu (gồm 2 điều kiện).
Ba điều kiện này là cần và đủ. Cần là không thể thiếu một điều kiện nào trong 3 điều kiện. Đủ là không cần thêm điều kiện nào nữa vào 3 điều kiện.
Vì đại nguyện 18 mở ra Pháp môn Niệm Phật nên 3 điều kiện này cũng là 3 điều kiện của Pháp Môn Niệm Phật vậy.
5. HỎI: Cho biết ý nghĩa của Di Đà Bản Nguyện hay ý nghĩa của Pháp Môn Niệm Phật qua 3 điều kiện tin sâu, nguyện thiết, xưng danh hiệu ta hay niệm Phật?
ĐÁP: * Trong 3 điều kiện thì 2 điều kiện tin sâu, nguyện thiết thuộc về tâm. Vậy tâm tin sâu nguyện thiết là tâm gì? Là tâm chân thật. Vì sao? Vì tâm con người mong cầu đủ thứ. Nhưng chỉ một lòng cầu vãng sinh (tin sâu, nguyện thiết) là chân thật. Vì cầu vãng sinh là cầu giải thoát và cầu thành Phật. Còn lại, kể cả cầu Phật cũng đều là cầu nhân ngã. Cầu là để thỏa mãn lòng tham của mình mà thôi. Tâm chân thật thì khởi niệm chân thật. Niệm chân thật gọi là chính niệm. Nên hai điều kiện tin sâu, nguyện thiết hay tín nguyện còn gọi là chính niệm vậy.
Trong niệm Phật Cảnh, tổ Thiện Đạo cũng khuyên dạy người tu Pháp Môn Niệm Phật như vậy:
“Luôn luôn niệm Phật phải chân thật
Y theo lời Phật chớ hồ nghi
Điều phục tâm viên đừng phóng dật”.
Còn điều kiện thứ 3 xưng danh hiệu ta hay niệm Phật là hành động của miệng lưỡi thuộc về thân. Nên xưng danh hiệu ta hay niệm Phật chỉ là phương tiện do thân miệng thực hiện để phục vụ cho tâm chân thật (tin sâu nguyện thiết) của người tu Pháp Môn Niệm Phật được vãng sinh Tây Phương Cực Lạc mà thôi.
* Chỉ khi được mang thân con người mới có đủ ba điều kiện tin sâu, nguyện thiết, xưng danh hiệu ta hay niệm Phật để tu Pháp Môn Niệm Phật. Chúng sinh ở các cõi giới khác của lục đạo luân hồi, kể cả người mới chết, thần thức vừa ra khỏi xác thân, cũng đều thiếu điều kiện thứ ba là xưng danh hiệu ta hay niệm Phật. Nên chẳng thể tu hành Pháp Môn Niệm Phật để vãng sinh Tây Phương Cực Lạc được.
* Người tu Pháp Môn Niệm Phật, nếu thực hành thêm các pháp môn như tụng kinh, trì chú, sám hối... là thêm điều kiện vào 3 điều kiện đã đủ, nên là tạp tu. Vì thế tổ Thiện Đạo mới có lời dạy như sau:“Đức Đại thánh (Phật Thích Ca) xót thương, khuyên người tu chuyên xưng danh hiệu Phật (kinh A Di Đà). Vì xưng danh hiệu rất dễ. Nếu có thể niệm niệm nối nhau, lấy một đời làm kỳ hạn, thì mười người tu, mười người vãng sinh. Trăm người tu, trăm người vãng sinh. Vì sao thế? Vì không có duyên tạp nên được chính niệm. Vì cùng với Bản nguyện hợp nhau. Vì không trái với kinh giáo. Vì thuận theo lời Phật. Nếu bỏ chuyên tu mà tạp tu. Trong một trăm người may ra được một, hai người. Trong một nghìn người hi vọng ba, bốn người vãng sinh mà thôi” (Trích Hương quê Cực Lạc).
6. HỎI: Thế nào là tha lực niệm Phật, hay niệm Phật nhận được tha lực của Phật và tác dụng của tha lực đối với người niệm Phật?
ĐÁP: Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân đã y vào Di Đà Bản nguyện dạy về tha lực niệm Phật như sau:
“Chỉ một lòng cầu vãng sinh mà niệm Phật. Đó là tha lực niệm Phật” (Trích Niệm Phật Tông Yếu).Chỉ một lòng cầu vãng sinh là tin sâu, nguyện thiết mà niệm Phật là xưng danh hiệu ta hay niệm Phật. Nên Niệm Phật phải đủ ba điều kiện tin sâu, nguyện thiết, xưng danh hiệu ta hay niệm Phật mới là tha lực niệm Phật, mới nhận được tha lực của Phật A Di Đà.Nguyện 14 trong 48 đại nguyện của đức Phật A Di Đà mà cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập nội dung như sau: “Nếu có chúng sinh thấy được quang minh chiếu chạm thân mình. Đều được an lạc, tâm từ, hành thiện. Được sinh nước ta. Nếu không như nguyện, không thành chính giác”. Nguyện 14 đã chỉ rõ tác dụng của tha lực đối với người niệm Phật vậy.
7. HỎI: Hãy phân tích rõ ý nghĩa và tác dụng của điều kiện thứ 3 là xưng danh hiệu Ta hay niệm Phật?
ĐÁP: Xưng danh hiệu Ta hay niệm Phật chỉ là hành động của miệng lưỡi phát ra âm thanh của sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật hay bốn chữ A Di Đà Phật. Là tín hiệu địa chỉ để quang minh của Phật A Di Đà định hướng chiếu chạm vào người đang niệm Phật đó.Xưng danh hiệu Ta hay niệm Phật còn gọi là chính nghiệp hay chính nghiệp vãng sinh. Vì sao lại gọi là chính nghiệp? Vì khi tu Pháp Môn Niệm Phật, cũng có người tụng kinh, trì chú, sám hối, để hỗ trợ cho niệm Phật. Tụng kinh, trì chú, sám hối cũng là hành động của miệng lưỡi, nên cũng là khẩu nghiệp, vì thế gọi là trợ nghiệp. Cho nên, niệm Phật mới gọi làchính nghiệp.
Trong niệm Phật Tông yếu, có người hỏi tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân: Nếu trí tuệ là cần yếu để vãng sinh, người minh mẫn sẽ theo thày học. Còn nếu chỉ xưng danh là đủ thì không cần gì khác. Xin thày từ bi khai thị, con sẽ tuyệt đối tuân theo như lời Phật dạy.
Tổ trả lời: Chính nghiệp vãng sinh trọng yếu là xưng danh. Rõ ràng chẳng cần phải có trí tuệ hay không. Cần gì phải học cho lắm. Chi bằng cứ lo niệm Phật, sẽ mau được vãng sinh Tịnh độ, gặp mặt Thánh chúng, được nghe pháp màu. Hơn nữa, cõi kia trang nghiêm, ngày đêm thuyết pháp sâu xa, sẽ tự nhiên khai phát thắng giải mà chứng vô sinh nhẫn. Nếu chưa biết ý nghĩa của niệm Phật vãng sinh, thì học cho biết, đơn sơ là đủ. Nếu ham học rộng, biết bao cho vừa. Hãy siêng năng niệm Phật là hơn cả”.
Tổ còn dạy: “Tu Thánh đạo môn (Luật tông, giáo tông, thiền tông, Mật tông) phải tột cùng trí tuệ để lìa sinh tử. Tu Tịnh độ môn, trở lại ngu si để vãng sinh. Bởi thế khi hướng về Thánh đạo môn, thì trau dồi trí tuệ, giữ gìn giới cấm, rèn luyện tâm tính làm tông chỉ. Còn bước vào Tịnh độ môn, chẳng cần dựa vào trí tuệ, chẳng lo tròn đạo hạnh, chẳng cần phải điều hòa tâm tính. Chỉ tự thấy mình là người vô năng, vô tri. Cần nương vào Bản Nguyện để niệm Phật cầu vãng sinh...”.
a) Muốn lìa sinh tử, trong hai loại thắng pháp bỏ qua Thánh đạo môn mà vào Tịnh độ môn.
b) Muốn vào Tịnh độ môn, trong hai hạnh chính tạp. Hãy bỏ các tạp hạnh mà quay về chính hạnh.
c) Muốn tu nơi chính hạnh, trong hai chính trợ nghiệp, chớ vướng vào trợ nghiệp.
d) Chuyên tu chính nghiệp, tức xưng danh Phật, xưng danh tất vãng sinh, bởi do Phật Bổn nguyện.
Có y theo kinh Phật và lời Tổ, mới hiểu đúng ý nghĩa và tác dụng chân thật của điều kiện thứ ba là xưng danh hiệu Ta hay niệm Phật. Cũng chính là hiểu đúng ý nghĩa của nguyện thứ 18 hay Di Đà Bản nguyện và Pháp Môn Niệm Phật. Điều này rất quan trọng. Vì sao? Vì hiện nay, rất nhiều người cho rằng, xưng danh hiệu Ta hay niệm Phật là chính niệm vãng sinh. Sự nhầm lẫn này bắt nguồn từ chữ niệm của Trung Quốc. Niệm nghĩa là nhớ, nên niệm Phật là nhớ Phật, mà nhớ Phật thì thuộc về tâm. Tâm mới khởi niệm nhớ. Vì thế mới cho rằng niệm Phật là chính niệm. Cho nên hiểu niệm Phật là chính niệm, hay niệm Phật phải nhớ Phật thì không liên quan gì đến nguyện thứ 18 hay Di Đà Bản Nguyện cũng như Pháp Môn Niệm Phật là pháp tha lực vậy.
8. HỎI: Niệm Phật như thế nào là tự lực niệm Phật và sự khác nhau giữa tự lực niệm Phật và tha lực niệm Phật?
ĐÁP: Khi niệm Phật, phải đủ ba điều kiện tin sâu, nguyện thiết, xưng danh hiệu Ta (niệm Phật) mới là tha lực niệm Phật.Nếu không đủ ba điều kiện thì gọi là tự lực niệm Phật.
* Thí dụ:
- Cầu tài, cầu lộc, cầu sức khỏe... mà niệm Phật hoặc tin sâu, nguyện thiết mà niệm Phật. Nhưng khi xưng danh hiệu Ta hay niệm Phật, mắt lại nhìn nọ nhìn kia, tai lại nghe nọ nghe kia, ý lại nghĩ này nghĩ khác, những tạp niệm này sẽ che mất chính niệm (tín, nguyện). Nên cả hai trường hợp kể trên đều là tự lực niệm Phật vì đều thiếu mất hai điều kiện là tin sâu, nguyện thiết.
- Tin sâu, nguyện thiết mà niệm Phật trong ý gọi là ý niệm niệm Phật hoặc chỉ nghe tiếng niệm Phật mà tiếng niệm Phật ấy không phải do miệng mình niệm. Cả hai trường hợp này đều thiếu điều kiện thứ 3 là xưng danh hiệu ta. Vì thế tất cả những trường hợp xưng danh hiệu Ta hay niệm Phật kể trên do thiếu điều kiện trong ba điều kiện nên đều là tự lực niệm Phật.
* Tự lực niệm Phật ví như lấy đá đề cỏ. Cỏ dụ cho vọng tâm hay tâm tán loạn. Nên chỉ được phúc báo mang đi luân hồi mà thôi. Còn tha lực niệm Phật ví như nhổ cỏ, diệt cỏ. Sẽ làm giảm bớt được tâm đầy tán loạn xuống tâm còn nhiều tán loạn, mới có thể vãng sinh được. Vì thế người tu Pháp Môn Niệm Phật phải gắng sức xưng danh hiệu Ta hay niệm Phật sao cho có nhiều câu niệm Phật là tha lực niệm Phật vậy.
9. HỎI: Niệm Phật như thế nào mới nhận được quang minh hay tha lực của Phật chiếu chạm?
ĐÁP: Xin giới thiệu cách nhiếp tâm giữa niệm nghe đếm nhịp nhàng theo hơi thở để bạn đồng tu cùng tham khảo.
Một hơi thở niệm nghe đếm được 10 câu.
Hít hơi vào thật sâu, thở ra niệm, nghe, đếm từ câu 1 đến câu thứ 10. Rồi lại quay vòng như vậy. Hoặc hít vào sâu, niệm nghe đếm từ câu 1 đến câu thứ 3. Thở ra niệm nghe đếm tiếp từ câu thứ 4 đến câu thứ 10.
Hai hơi thở, niệm nghe đếm được 10 câu.
Hơi thứ nhất: hít vào sâu, thở ra niệm nghe đếm từ câu 1 đến câu thứ 5. Hơi thứ hai: hít vào sâu, thở ra, niệm, nghe, đếm tiếp từ câu thứ sau đến câu thứ 10. Rồi lại quay vòng thở niệm đếm như vậy. Hoặc cách thứ hai: Hơi thứ nhất: hít vào sâu, niệm nghe đếm một câu. Thở ra niệm nghe đếm từ câu 2 đến câu 5. Hơi thứ hai: thở niệm nghe đếm như hơi thứ nhất và đếm nốt từ câu 6 đến câu 10. Hai cách thở niệm nghe đếm như trên dễ dẹp được tán loạn, đè được vọng niệm. Thực hiện ngay vào đầu khóa niệm Phật. Nhưng chóng mệt. Nếu thấy nhiếp tâm được rồi hay thấy mệt thì chuyển xuống cách thứ ba.
Ba hơi thở, niệm nghe đếm được 10 câu.
Hơi thở 1: Hít vào niệm một câu, thở ra niệm 2 câu, nghe đếm từ 1 đến câu 3. Hơi thở 2: cũng như hơi thở 1 đếm tiếp từ câu 4 đến câu 6. Hơi thứ 3: hít vào niệm 1 câu thở ra niệm ba câu, nghe đếm tiếp từ câu 7 đến câu thứ 10.Cách thứ ba này vừa sức, niệm được lâu và cũng dễ nhiếp tâm. Nhưng niệm lâu lại thấy vọng niệm sinh khởi nhiều thì quay lại thực hành theo hai cách trên. Tóm lại cứ tùy duyên mà thực hành theo cả 3 cách hay 2 cách và thay đổi như thế nào mà dẹp được vọng niệm là được.Đã áp dụng 3 cách nhiếp tâm niệm Phật như trên lại thêm một cách nữa là tập trung tâm ý vào một điểm mà đếm câu niệm Phật thì nhiếp tâm lại càng cao. Vậy làm thế nào để tập trung tâm ý vào một điểm?
Thí dụ, mắt không nhìn xuống bàn chân, lại thấy được lòng bàn chân, là đã tập trung tâm ý xuống lòng bàn chân rồi vậy. Nên tập trung tâm ý vào điểm ở giữa trán sẽ dễ thấy quang minh của Phật chiếu chạm.Có thể ngồi nhiếp tâm niệm Phật vào bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào. Miễn là nơi đó, lúc đó quang đãng, sạch sẽ vắng vẻ, ít tiếng động và phù hợp với hoàn cảnh của mình là được. Niệm Kim cương là niệm mấp máy môi bốn tiếng A Mi Đà Phật. Phát âm tiếng Mi được nhanh, nhẹ và đỡ mệt hơn. Mỗi thời khóa niệm Phật là 15 phút, 30 phút hay dài hơn là tùy hoàn cảnh, tùy khả năng của mỗi người.
Tổ Ấn Quang dạy:“Có một bí quyết khẩn thiết bảo nhau. Niệm Phật phải chí thành cung kính. Nhiệm màu, rất nhiệm màu”.
Chí thành cung kính là thành kính cao độ. Khi niệm Phật mà thành kính cao độ thì rất dễ nhiếp tâm. Lại thực hành cách phối hợp nhiếp tâm như trình bày ở trên, thì nhất định sớm hay muộn sẽ có được và ngày càng nhiều câu niệm Phật là tha lực niệm Phật đúng như lời Tổ dạy là: “nhiệm màu, rất nhiệm màu”.
10. HỎI: Điều kiện để được Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc là gì?
ĐÁP: Kinh A Di Đà và lời Tổ nói về điều kiện này như sau: Kinh A Di Đà: “... Chỉ có những người một lòng chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà... người ấy khi nào lâm chung, Phật cùng Thánh chúng hiện ra trước mặt. Tâm không điên đảo, liền sinh sang thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà...”. Đoạn tiếp “... Ai đã nguyện thì đã sinh rồi. Ai nay mới nguyện thì nay được sinh, còn mai mới nguyện thì mai sẽ sinh. Bởi thế cho nên, này Xá Lợi Phất! Thiện nam, Thiện nữ, hễ có ai tin thì nên phát nguyện sinh về Cực Lạc” Tổ Tri Húc, tổ thứ 9 Tịnh tông Trung Quốc đã y vào đoạn kinh này của Phật mà có lời dạy như sau: “Được sinh cùng chăng là do tín nguyện có hay không. Về phẩm thấp cao đều do niệm Phật sâu hay cạn”. Tổ Ấn Quang, tổ thứ 13 Tịnh tông Trung Quốc đã khẳng định lời dạy này của Tổ Tru Húc: “Đây là luận án thép, nghìn Phật ra đời cũng không thay đổi”.
Trong Niệm Phật Tông Yếu, tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân dạy: “Người niệm Phật có lòng cầu vãng sinh và không nghi ngờ Di Đà Bản Nguyện, khi lâm chung không bị điên đảo Sở dĩ được vậy là nhờ Phật lai nghinh. Phật lai nghinh để người tu niệm Phật cầu vãng sinh lúc lâm chung được chính niệm, không phải lúc lâm chung cần phải chính niệm niệm Phật Phật mới lai nghinh. Kiến giải như vậy là không tin vào Phật nguyện và không hiểu kinh văn nữa”.
Tổ Thiện Đạo dạy: “Chỉ nhớ niệm Phật không việc khác Lắng tâm quyết định nguyện về Tây Lâm chung tự thấy Như Lai đến”.
Kinh Phật và lời Tổ dẫn ở trên đã chỉ rõ điều kiện để được Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc là hai điều kiện Tín và Nguyện vậy.
11. HỎI: Tác dụng của 3 điều kiện tín, nguyện, niệm Phật và tam học giới, định, tuệ là giống nhau hay khác nhau?
ĐÁP: Ba điều kiện tín, nguyện, niệm Phật rút ra từ Di Đà Bản nguyện, là ba điều kiện cần và đủ để người tu Pháp Môn Niệm Phật được vãng sinh Tây Phương Cực Lạc. Thuộc về pháp tha lực. Còn tam học giới, định, tuệ là 3 điều kiện cần và đủ để người tu thiền định, chứng được chính định là diệt tận định đạt quả vị A La hán để thoát khỏi biển khổ luân hồi. Thuộc về pháp tu tự lực. Vậy tác dụng của ba điều kiện tín nguyện, niệm Phật và tam học là khác nhau.
Lời dạy của Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân trong Niệm Phật Tông Yếu cũng cho thấy sự khác nhau này: “Tuy tam học giới định tuệ hoàn toàn đầy đủ, nhưng nếu không tu Bổn nguyện niệm Phật sẽ không được vãng sinh. Tuy không có giới định tuệ nhưng một mực xưng danh, chắc chắn được vãng sinh”.
12. HỎI: Hãy phân tích rõ lời dạy của tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân: “Niệm Phật là việc mình làm. Vãng sinh là việc Phật làm. Vãng sinh là do Phật lực ban cho, mà còn cứ tính toán trong tâm mình. Đó là tự lực”.
ĐÁP: Xin phân tích lời dạy của Tổ qua ba ý sau:
1. Niệm Phật là việc mình làm.
Niệm Phật gồm có tự lực niệm Phật và tha lực niệm Phật. Phàm phu tội chướng thời kỳ Mạt pháp như hiện nay tâm đầy tán loạn, luôn bị tà niệm che mất chính niệm (tín, nguyện), nên niệm Phật thường là tự lực niệm Phật. Vì thế phải gắng sức nhiếp tâm niệm Phật để có nhiều câu niệm Phật là tha lực niệm Phật giúp cho tâm đầy tán loạn chuyển xuống còn nhiều tán loạn mới có thể giữ được chính niệm (tín nguyện) để được Chư phật mười phương hộ niệm cho đến trước khi lâm chung. Có thế mới hoàn tất “niệm Phật là việc mình làm” được.
2. Vãng sinh là việc Phật làm.
Việc Phật làm gồm có việc làm của Phật A Di Đà và việc làm của chư Phật mười phương.
- Việc làm của Phật A Di Đà là chiếu quang minh giúp người tu pháp Môn Niệm Phật chuyển được tâm mình khi tha lực niệm Phật và tiếp người niệm Phật giữ được chính niệm (tín, nguyện) trước khi lâm chung, để khi lâm chung tâm họ không bị điên đảo (vẫn giữ được chính niệm). Đến sát na lâm chung là một loáng thời gian trước khi chết, Phật phóng quang dẫn họ về Tây Phương Cực Lạc.
- Việc làm của Chư Phật mười phương là hộ niệm cho người tu Pháp Môn Niệm Phật giữ được chính niệm khi niệm Phật và giữ được chính niệm (tín, nguyện) cho đến trước khi lâm chung, để được Phật A Di Đà tiếp dẫn họ về Tây Phương Cực Lạc.
3. Vãng sinh là do Phật lực ban cho, mà còn cứ tính toán trong tâm của mình. Đó là tự lực.
Vãng sinh là việc Phật làm, mà còn cứ tính toán trong tâm của mình là không tin Phật. Không tin Phật là thiếu mất hai điều kiện tín, nguyện. Niệm Phật đó là tự lực niệm Phật. Tự lực niệm Phật thì không thể vãng sinh Tây Phương Cực Lạc được.
13. HỎI: Nhân duyên quả của Pháp Môn Niệm Phật là gì?
ĐÁP: Nói nhân quả là nói tắt. Nói đủ phải là nhân duyên quả. Bởi vì có nhân mà không có duyên thì không sinh quả được. Tu Pháp Môn Niệm Phật, thực hành qua hai giai đoạn liên tiếp gồm giai đoạn tu hành và giai đoạn vãng sinh. Giai đoạn tu hành kể từ khi mới phát tâm tu cho đến trước khi lâm chung. Giai đoạn vãng sinh xảy ra trong phút lâm chung. Giai đoạn nào cũng đều có nhân, duyên, quả.
1. Giai đoạn tu hành gồm.
- Nhân tu hành: Nhân tu hành là tha lực niệm Phật.Khi người tu thực hành tha lực niệm Phật liền được quang minh hay tha lực của Phật A Di Đà chiếu chạm, làm cho người tu tăng thêm nghiệp nhân thiện.
- Duyên tu hành: Duyên tu hành là chư Phật mười Phương hộ niệm. Khi người tu thực hành tha lực niệm Phật liền được chư Phật mười phương hộ niệm, hỗ trợ duyên thiện.
- Quả tu hành: Do nhân thiện tăng khiến cho nghiệp chướng tiêu trừ căn lành thêm lớn. Nên “đều được an lạc, tâm từ, hành thiện”.
Nhân thiện tăng tức thiện căn tăng. Thiện căn tăng thì ác căn giảm. Ác căn là tham sân si giảm, làm tâm người niệm Phật bớt đi tán loạn nên dễ có câu niệm Phật là tha lực niệm Phật.
Tham sân si là nội ma giảm nên dễ giữ được chính niệm (tin nguyện) cho đến trước khi lâm chung. Chính là nhân vãng sinh.Do chư Phật mười phương hỗ trợ duyên thiện làm cho nhân thiện tăng biến thành quả phúc hiện tiền là hay gặp nhiều may mắn trong cuộc sống đời thường và cuộc sống tu hành.Do chư Phật mười phương hỗ trợ duyên thiện đã hạn chế ngoại ma trợ ác duyên để phá hay cản trở người tu.Do chư Phật mười phương hộ niệm nên người tu giữ được chính niệm cho đến trước khi lâm chung đợi Phật A Di Đà hiện ra tiếp dẫn.
2. Giai đoạn vãng sinh.
Có giai đoạn tu hành, mới có giai đoạn vãng sinh gồm:
- Nhân vãng sinh: Nhân vãng sinh là một lòng cầu vãng sinh hay chính niệm vãng sinh (tín nguyện).
- Duyên vãng sinh: Chư Phật mười phương hộ niệm.
- Quả vãng sinh: Do quả tu hành là tham sân si giảm mà tham sân si là nội ma bớt quấy phá nên người tu giữ được chính niệm, liền được chư Phật mười phương hộ niệm. Chư Phật mười phương hộ niệm ngoại ma không quấy phá được khiến cho người tu giữ được chính niệm cho đến trước khi lâm chung. Đến khi lâm chung Phật và Thánh chúng hiện ra để tiếp. Người tu tâm không điên đảo mà giữ được chính niệm là tâm chân thật. Đến sát na lâm chung là một loáng thời gian trước khi chết. Tâm chân thật chuyển thành tâm thanh tịnh liền được Phật A Di Đà phóng quang đón về cõi Tịnh độ hay Tây Phương Cực Lạc của Phật.
Tuy nhiên cũng có trường hợp người gây tội thập ác, thậm chí tội ngũ nghịch. Nhưng đến trước khi lâm chung tự nhiên thấy sợ hãi hối hận về những tội ác mình đã làm, lại gặp được Thiện trí thức giáo hóa. Người đó liền phát tâm mạnh mẽ chí nguyện vãng sinh mà niệm Phật, thì đến khi lâm chung cũng được Phật cùng Thánh chúng hiện ra tiếp dẫn. Trường hợp này là rất hãn hữu, muôn ức người may ra có một. Và nếu có cũng là do nhân tu pháp Môn Niệm Phật từ những kiếp trước, đến trước khi lâm chung của kiếp này mới chín muồi nên được như thế mà thôi.
14. HỎI: Có người nói: Pháp môn niệm Phật là nhị lực pháp môn, đúng hay sai?
ĐÁP: Khi xưng danh hiệu Phật hay niệm Phật, phải dùng lực của mình (tự lực) để niệm, nhưng so sánh làm sao được với lực chiếu chạm tiếp dẫn của Phật A Di Đà và lực của chư Phật mười
phương hộ niệm (tha lực). Kinh Quán Vô Lượng Thọ cho biết: “Một câu niệm Phật, tiêu trừ tám mươi ức kiếp trọng tội sinh tử, lại được tám mươi kiếp công đức vi diệu”.
Đây là lực của Phật mới được như vậy, còn lực của mình bỏ ra để xưng danh hiệu Phật hay niệm Phật thì quá nhỏ bé, không đáng cộng thêm vào lực của Phật. Trong toán học, những số thập phân sau những số lớn cho phép được bỏ qua gọi là làm tròn số hay trong phép đo lường của Vật lý học những lượng rất nhỏ cũng bỏ qua không tính vào kết quả vì cho phép được sai số. Thế nên Pháp Môn Niệm Phật là pháp tha lực, không phải nhị lực pháp môn là như vậy.
15. HỎI: Pháp nào mới gọi là nhị lực pháp môn?
ĐÁP: Pháp môn Tịnh độ có 3 hạnh tu là quán tưởng, quán tượng, quán thật tướng. Quán tưởng là y theo kinh Thập Lục Quán mà quán tưởng. Quán tượng là đối trước hình tượng Phật tưởng tượng hào quang minh. Quán thật tướng Phật. Thật tướng là vô tướng là không có hình tướng. Pháp này chỉ có các vị thượng căn đã chứng đạo mới có thể quán được.
Trong ba pháp quán này, người tu tự lực thực hành cho đến khi lâm chung mới nương vào tha lực của Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc. Vì thế mới gọi là nhị lực pháp môn.
Pháp tu gọi là nhị lực pháp môn này, phàm phu tội chướng không thực hành nổi.
16. HỎI: Tại sao người tu pháp môn niệm Phật lại phải không được sợ chết?
ĐÁP: Con người ta khi bệnh sắp dẫn đến cái chết thì các niệm tham sống sợ chết, tham luyến tình cảm, tham tiếc của cải khởi lên rất mạnh, sẽ che mất chính niệm của người tu Pháp môn niệm Phật trước khi lâm chung làm cho Phật A Di Đà cùng Thánh chúng không hiện ra để tiếp dẫn được. Nhưng trong ba niệm sai lầm này thì niệm tham sống sợ chết là mạnh nhất. Nếu người tu niệm Phật mà không sợ chết thì các niệm sai lầm còn lại sẽ không vượt qua nó được. Nên trước khi lâm chung mới giữ được chính niệm (tín nguyện) để đợi Phật A Di Đà đến tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc. Lời dạy của Tổ Thiện Đạo làm cho ta thấy rõ tầm quan trọng dẫn đến tác hại của các niệm sai lầm này trước khi lâm chung.
“Việc luân hồi sinh tử rất lớn lao. Phải tự mình gắng sức mới được. Nếu một niệm sai lầm để luống qua thì nhiều kiếp chịu khổ. Có ai thay thế cho mình. Nên suy nghĩ kỹ, nên suy nghĩ kỹ!”. Thế nên người tu pháp môn niệm Phật cần phải không được sự chết là như vậy.
17. HỎI: Thế gian thì ai cũng sợ chết. Chỉ có những người tu Pháp môn niệm Phật mới có thể không sợ chết mà thôi. Vì sao?
ĐÁP: Có ba lý do khiến cho người tu Pháp môn niệm Phật có thể không sợ chết:
1- Phật A Di Đà đón ta lúc sát na lâm chung là một loáng thời gian trước khi chết lại đưa ta về Tây Phương Cực Lạc để cùng Phật sống lâu vô cùng tới bao nhiêu kiếp không thể kể xiết (kinh A Di Đà). Thế thì người tu Pháp Môn Niệm Phật sẽ không có chết, nên mới không sợ chết là như vậy.
2- Khi ta tha lực niệm Phật sẽ được quang minh của Phật chiếu chạm. Tâm thiện được tăng, tâm tham sẽ giảm. Tâm tham có giảm thì mới có thể không tham sống sợ chết được.
3- Tin vào nhân quả của Pháp môn niệm Phật là có tha lực niệm Phật sẽ có quả vãng sinh. Và trong cuộc sống đời thường và tu hành luôn tâm niệm không có gì ngoài nhân quả. Nên khi gặp chướng ngại sẽ không sinh phiền não, khi gặp phúc báo cũng không quá vui mừng. An nhiên tự tại gắng sức tu hành nhất định sẽ vãng sinh Tây Phương Cực Lạc. Vì thế mà có thể không sợ chết.
Từ ba lý do trên dẫn đến kết luận: Chỉ có những người tu Pháp Môn Niệm Phật mới có thể thực sự không sợ chết mà thôi.
18. HỎI: Đường tu thì chỉ có hai, một là tu tâm, hai là tu thức. Vậy thế nào là tu tâm, thế nào là tu thức?
ĐÁP: Nếu dùng cái tâm chân thật, nương vào tha lực mà tu hành thì nhất định được vãng sinh Tây Phương Cực Lạc và tu tiếp thành Phật nên gọi là tu tâm. Còn dùng cái tâm thức mà tự lực tu hành thì chỉ được phúc báo mang đi luân hồi nên gọi là tu thức.
19. HỎI: Tại sao đại nguyện 13, 14 và 18 lại gọi là Di Đà Bản nguyện.
ĐÁP: Đại nguyện 13, 14 và 18 mở ra Pháp Môn Niệm Phật là pháp tha lực. Nếu chúng sinh chân thật tu hành theo Pháp Môn Niệm Phật là pháp tha lực sẽ được vãng sinh Tây Phương Cực Lạc. Khi được vãng sinh thì ba đại nguyện 13, 14 và 18 được thành tựu. Các đại nguyện còn lại của bốn mươi tám đại nguyện nhờ vào ba nguyện 13,14, 18 cũng được thành tựu. Nên ba đại nguyện 13, 14 và 18 là các đại nguyện gốc rễ hay các đại nguyện căn bản sinh ra các đại nguyện còn lại. Vì thế gọi ba đại nguyện là Di Đà bản nguyện vậy.
20. HỎI: Hãy giải thích rõ câu: Pháp Môn Niệm Phật là pháp môn độ tận chúng sinh của Như Lai?
ĐÁP: Khi ta tha lực niệm Phật, sẽ nhận được quang minh hay tha lực của Phật chiếu chạm. Tâm của ta thiện hơn một chút, như nguyện 14 Phật dạy: Nếu có chúng sinh thấy được quang minh chiếu chạm thân mình. Đều được an lạc, tâm từ, hành thiện. Được sinh nước ta, nếu không như nguyện không thành Chính Giác”. Tâm có thiện mới hay làm điều thiện. Vì thế trong kinh A Di Đà, Phật Thích Ca gọi người chuyên tu Pháp Môn Niệm Phật là Thiện nam tử, Thiện nữ nhân. Vậy, nếu một đất nước hay quốc độ mà người người chuyên tu Pháp Môn Niệm Phật, nhà nhà chuyên tu Pháp Môn Niệm Phật, thì đất nước hay quốc độ ấy sẽ chuyển từ uế độ thành thiện độ và nhờ tha lực của Phật. Từ Thiện độ, dân nước ấy sẽ được chuyển sinh về cõi Tịnh độ hay Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.Thế mới là Pháp môn độ tận chúng sinh của Như Lai vậy.
21. HỎI: Trong kinh A Di Đà Phật Thích Ca ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà và công đức chẳng thể nghĩ bàn của Chư Phật mười phương. Vậy công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn ấy là những gì?
ĐÁP: - Công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà là công đức tu hành thành Phật do đã hoàn mãn bốn mươi tám đại nguyện xây dựng nên cõi Tây Phương Cực Lạc hay cõi Tịnh độ của Phật.Lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà là đã và đang độ tận chúng sinh để được sinh về Tây Phương Cực Lạc và tu tiếp thành Phật.
- Công đức chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật mười phương là công đức tu hành thành Phật. Công đức khuyên chúng sinh tin kinh A Di Đà và công đức hộ niệm cho chúng sinh tu hành Pháp Môn Niệm Phật.
- Chư Phật mười phương lại khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật Thích Ca là ở trong cõi đời có năm ác trược mà đã chứng được đạo giác ngộ vô thượng lại vì chúng sinh nói ra Pháp Môn Niệm Phật là Pháp môn thế gian khó tin.
Vậy chỉ có Phật A Di Đà vừa có công đức chẳng thể nghĩ bàn, lại có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Còn Chư Phật mười phương, kể cả đức Phật Thích Ca cũng chỉ có công đức chẳng thể nghĩ bàn mà thôi.
22. HỎI: Trong kinh A Di Đà, Phật Thích Ca nói Pháp Môn Niệm Phật là pháp môn thế gian khó tin. Xin làm rõ ý này của Phật?
ĐÁP: Pháp Môn Niệm Phật là pháp khó tin vì cõi Tây Phương Cực Lạc là cõi Bất thoái chuyển. Chỉ có Bồ Tát Bát địa là Bồ tát bất thoái trở lên mới thấy được. Các Đại đệ tử của Phật không thấy được cõi Tây Phương Cực Lạc.Vì sao? Vì quả vị A La Hán chỉ tương đương với Sơ địa Bồ Tát hay Nhất địa Bồ Tát mà thôi. Do không thấy nên không biết, không hiểu. Vì thế mà khó tin. Cũng vì thế, kinh A Di Đà là kinh duy nhất, Phật tự nói ra mà không có người thưa thỉnh là như vậy.Các vị A La Hán còn khó tin, huống chi phàm phu tội chướng. Vì chúng sinh tin Phật, nên Phật nói kinh rồi, chúng sinh tin nhận mà thực hành đó thôi.
23. HỎI: Trong các tổ hoằng dương Pháp Môn Niệm Phật ở Trung Quốc và Nhật Bản. Tổ nào đã chứng được niệm Phật tam muội và tác dụng của việc chứng được niệm Phật tam muội?
ĐÁP: Trong các Tổ hoằng dương Pháp Môn Niệm Phật ở Trung Quốc, dựa vào tiểu sử thì chỉ có tổ ThiệnĐạo tổ thứ 2 Tịnh tông Trung Quốc là hóa thân của đức Phật A Di Đà “Chuyên tu niệm Phật, dốc sức chuyên cần bèn được niệm Phật tam muội. Ở trong định thấy rõ cảnh trang nghiêm của Tịnh độ”. (Trích tiểu sử ghi trong Niệm Phật Cảnh).
Ở Nhật Bản có Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân. Sơ tổ Tịnh tông Nhật Bản, là hóa thân của Bồ tát Đại Thế Chí cũng chứng được Niệm Phật tam muội. Trong lời khai thị cho đệ tử trước khi vãng sinh: “Thày mười mấy năm nay thường thấy chân thân của Phật, Bồ Tát và Cực Lạc trang nghiêm, nhưng tuyệt đối không nói với ai. Nay sắp vãng sinh nên không ngại gì mà không nói ra cho các con biết”. (Trích Niệm Phật Tông Yếu).
Có chứng được Niệm Phật tam muội mới thấy được cõi Tây Phương Cực Lạc. Có thấy được cõi Tây Phương Cực Lạc mới biết và hiểu đúng ý nghĩa khế lý, ý nghĩa cao siêu, ý nghĩa về chân lý tuyệt đối của nguyện 13, 14 và 18 của kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà thì việc hoằng dương Pháp Môn Niệm Phật mới giúp người tu hiểu đúng ý nghĩa của Pháp môn mà thực hành niệm Phật, mới có thể vãng sinh Tây Phương Cực Lạc ở thời kỳ Mạt pháp như hiện nay và sau này được.
24. HỎI: Có người hỏi tổ Bách Trượng là tổ thứ 9 Thiền tông Trung Quốc. Thày của Ngài là ai? Tổ đáp: là chư Phật mười phương. Lại hỏi tiếp: Thày của chư Phật mười phương là ai? Tổ đáp: Phật A Di Đà, Phật A Di Đà. Vậy tổ Bách Trượng đã căn cứ vào đâu mà trả lời như thế?
ĐÁP: Tổ Bách Trượng đã căn cứ vào đại nguyện thứ 13 trong 48 đại nguyện của đức Phật A Di Đà trong kinh Vô Lượng Thọ do cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập. “Khi tôi thành Phật. Quang minh Vô lượng chiếu khắp mười phương. Vượt hơn quang minh của thảy chư Phật. Vượt hơn ánh sáng mặt trời, mặt trăng ngàn vạn ức lần...”.
Quang minh là hào quang trí tuệ. Trí tuệ của Phật A Di Đà vượt hơn trí tuệ của chư Phật mười phương nên Phật A Di Đà là thày của chư Phật mười phương là như vậy.
25. HỎI: Hãy phân tích kỹ, tại sao người tu Pháp môn niệm Phật lại cần phải ăn chay?
ĐÁP: Do ba độc tham, sân, si thúc đẩy mà con người đã tạo ra các nghiệp ác là sát, đạo, dâm, vọng. Sát là giết hại chúng sinh. Đạo là trộm cắp. Dâm là dâm dục bất chính. Vọng là dối trá. Trong bốn thứ ác này thì giết hại chúng sinh là ác nhất.
Chúng sinh bị giết hại bao gồm bốn loại. Một là thực vật gồm cây cối, hoa quả rau cỏ, ngũ cốc. Hai là vi sinh vật là những thực vật, động vật vô cùng nhỏ bé, mắt nhìn khó thấy, không thấy như nấm men, vi khuẩn, vi trùng. Chúng sống trong đất, trên mặt đất, sống trong và trên thân của các động vật, thực vật lớn kể cả con người, sống trong nước. Phật nói mỗi chén nước có tới 84000 con trùng. Sống lơ lửng trong không khí. Chúng vô cùng nhỏ bé và yếu ớt nên khi đi đứng nằm ngồi làm chúng bị chết không biết bao nhiêu mà kể. Vì thế trong kinh Phật có câu: “Dơ chân cất bước tội đã ngang mày”. Ba là,động vật bậc thấp như ốc hến, tôm cua cá, ếch nhái, rắn, rùa... Bốn là động vật bậc cao như chim thú, bao gồm chim thú hoang dã sống ở trên trời, trong rừng sâu và chim thú được thuần hóa, nuôi ở trong nhà, là những gia súc gia cầm. Ban đầu chỉ để dùng làm sức kéo thay cho người, dùng làm thức ăn, làm vật trao đổi... Vô tình đã tạo ra cảnh giới luân hồi gọi là cảnh giới súc sinh để cho những người khi sống tạo nhân “ngu si, biếng nhác, dối gạt, móc biêu” đến khi chết, thọ nhận thân của gia súc, gia cầm nào tương ứng với nghiệp của mình đã tạo khi còn sống mà “Trả nợ cho người”.
Trong suốt cả cuộc đời của mỗi con người, đã giết hại và ăn thịt chúng sinh là vi sinh vật, thực vật và động vật bậc thấp với con số lớn không thể tính đếm. Nhưng là để duy trì mạng sống thuộc về bản năng sinh tồn nên tội ác tuy lớn nhưng không thể so sánh được với tội ác mà con người đã giết hại và ăn thịt chúng sinh là gia súc, gia cầm thuộc cảnh giới súc sinh. Vì sao? Vì người giết hại ăn thịt súc sinh lâu ngày dần bị nhiễm, dễ khởi sát cơ, đao binh. Vì thế có câu “Muốn biết đao binh trong cõi thế, lò mổ xin nghe tiếng nửa đêm”. Lại vì chúng sinh thuộc cảnh giới súc sinh chính là cha mẹ và quyến thuộc nhiều đời nhiều kiếp của mình, nên đã mắc tội ác lớn nhất trong những tội ác là giết hại chúng sinh, lại còn mắc tội bất hiếu. Vì thế trong mười bốn lời răn của Phật Thích Ca, có câu “Tội lỗi lớn nhất đời người là bất hiếu”. Tội ác giết hại và ăn thịt súc sinh là gia súc gia cầm là do tâm tham (tham ăn), thuộc về ba độc tham, sân, si. Người tu tự lực theo pháp phương tiện như Thanh văn thừa, muốn ra khỏi luân hồi sinh tử, phải tận diệt ba độc tham sân si này. Cho thấy muốn ra khỏi luân hồi thì phải trả xong hay hóa giải hết món nợ giết hại ăn thịt chúng sinh là gia súc, gia cầm.
Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân dạy: “Chúng ta bị kẻ thù tham, sân phiền não cột trói mà giam hãm trong lồng chậu Tam giới (lục đạo luân hồi). Hãy nghĩ tới mẹ hiền Di Đà, dùng thanh bảo kiếm danh hiệu, chặt đứt dây trói sinh tử lên thuyền Bản Nguyện, vượt biển sinh tử sang tới bờ bên kia. Nước mắt hoan hỷ rơi ướt áo, lòng mong mỏi không nguôi”.
Còn tội ác giết hại ăn thịt chúng sinh là thực vật, vi sinh vật, động vật bậc thấp, chim thú hoang dã, thì sau khi ra khỏi luân hồi, tu tiếp mới hóa giải tiếp.Từ những phân tích trên, liên hệ với những người tu Pháp Môn Niệm Phật thấy cần phải ăn chay, là không ăn thịt gia súc gia cầm. Vì ăn thịt là tâm còn tham nhiều.Tham sân si là nội ma của mình. Nội ma mạnh sẽ quấy phá khiến cho tâm đày tán loạn không thể tha lực niệm Phật và không thể thường xuyên đi đứng nằm ngồi mà niệm Phật được. Mặt khác ăn thịt là giết hại cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp của mình, là mắc tội ác lớn, lại tạo ra oan gia trái chủ là những ngoại ma luôn theo mình đòi nợ, quấy phá làm cho mình gặp nhiều chướng ngại trong cuộc sống đời thường và tu hành. Nhất là quấy phá làm cho mình không giữ được chính niệm (tín, nguyện) trước khi lâm chung, khiến cho mình không thể vãng sinh được. Vì thế người tu Pháp Môn Niệm Phật cần phải ăn chay là như vậy.
26. HỎI: Ăn chay trường là việc rất khó. Vậy khi chưa ăn chay trường thì có tu Pháp Môn Niệm Phật được hay không?
ĐÁP: Ăn chay trường là không tham ăn. Tham ăn là một trong năm thứ tham có trong ba độc tham sân si. Ba độc tham sân si nó theo mình từ vô thỉ kiếp đến nay lại cùng sinh ra với mình. Tự bỏ đi không thể được - Khó như đang ngồi trên ghế, không thể lấy tay mình nâng chiếc ghế ấy lên được. Vì thế nếu phải ăn chay trường rồi mới tu Pháp Môn Niệm Phật thì quả là rất khó vậy! Nhưng vì không tự ăn chay trường được mới phải tu Pháp Môn Niệm Phật để ăn chay trường, vì sao? Vì Pháp Môn Niệm Phật là pháp tha lực. Nguyện 14 trong 48 đại nguyện của Phật A Di Đà dạy:“Nếu có chúng sinh thấy được quang minh chiếu chạm thân mình. Đều được an lạc, tâm từ, hành thiện. Được sinh nước ta. Nếu không như nguyện, không thành Chính Giác”. Vì thế cứ gắng sức nhiếp tâm niệm Phật để có câu niệm Phật nhận được quang minh của Phật chiếu chạm. Sẽ có tâm từ bi thương sót con vật bị giết. Lại thích làm thiện là do thiện căn tăng. Thiện căn tăng, ác căn sẽ giảm. Ác căn là tham sân si giảm sẽ bớt tham ăn, mới ăn chay trường được. Cho nên nhờ niệm Phật nhận được quang minh của Phật chiếu chạm hay tha lực niệm Phật mới ăn chay trường được. Vậy khi chưa ăn chay trường bạn cứ phát tâm tu Pháp Môn Niệm Phật, nhất định bạn sẽ ăn chay niệm Phật để được vãng sinh Tây Phương Cực Lạc. Để thoát khỏi biển khổ luân hồi và tu tiếp thành Phật.
27. HỎI: Khi đã ăn chay trường rồi, nhưng vì phải nấu ăn thịt gia súc gia cầm phục vụ gia đình thì có mắc tội sát sinh không?
ĐÁP: Đức Phật Thích Ca đã dạy đệ tử của Ngài về 3 thứ tịnh nhục (thịt thanh tịnh). Một là không phải vì mình mà con vật đó bị giết. Hai là không nhìn thấy con vật đang bị giết. Ba là không nghe thấy tiếng kêu của con vật đang bị giết. Vậy Phật tử đã ăn chay trường thì thịt mua ở chợ về hay thịt của con vật khi bị giết mổ mà mắt mình không nhìn thấy, tai mình không nghe thấy tiếng kêu của nó thì việc thái chặt, nấu nướng những thứ thịt đó không phải mắc tội sát sinh. Nếu vừa làm lại vừa thầm niệm Phật để hồi hương công đức cho những người chết phải mang thân con vật có những miếng thịt đó thì họ sẽ được lợi lạc là nghiệp chướng tiêu trừ, căn lành thêm lớn, sớm được sinh lại làm người. Thế thì có gì phải lo sợ vậy.
28. HỎI: Tại sao từ xưa đến nay, người ta thường phải tránh xa người chết, trừ con cháu. Nhưng con cháu chỉ đến gần và túc trực ngày đêm khi người chết đó đã được nhập quan?
ĐÁP: Thân người toàn thể là nhơ nhớp. Dưới lớp da mỏng chỗ nào cũng là máu mủ đồ dơ. Đặc biệt từ thân thể có chín thứ lỗ thông ra ngoài như hậu môn, miệng, mắt, mũi, tai, lỗ chân lông... Khi còn sống, các lỗ thông này đều có van điều tiết. Nhưng khi chết các van này mở tung khiến cho các chất cặn bã, những mùi hôi thối, những chất độc hại, những vi khuẩn vi trùng... tự do tuôn ra ngoài qua chín thứ lỗ đó mà người ta gọi là tử khí. Vì thế theo tập quán của ông cha, khi trong nhà có người chết, lấy tờ giấy bản đậy lên mặt, buông màn dắt thật kỹ, canh chừng mèo chuột, đợi giờ nhập quan. Khi nhập quan, cho vào quan tài vài tập giấy bản, mấy cân chè khô... rồi đậy nắp lại. Những thứ cho vào áo quan này là để hút những tử khí. Khiến cho con cháu túc trực bên linh cữu không bị độc hại vậy.
29. HỎI: Khi người vừa mới chết nằm đấy có còn thấy nghe hay biết gì nữa không?
ĐÁP: Con người sở dĩ thấy nghe hay biết được cảnh ngoài là do sáu căn, sáu trần và sáu thức. Sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi thân ý thuộc về thân. Sáu trần là sắc thanh hương vị, xúc pháp thuộc về cảnh. Sáu thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức thuộc về tâm. Sáu thức là do thức A lại da hay thức thứ tám gọi là thần thức sinh ra để con người biết được cảnh ngoài.
Sáu căn có duyên theo cảnh ngoài, mới thấy nghe, hay. Sáu căn có thấy nghe hay thì sáu thức mới nhận biết được những cái thấy nghe hay ấy. Vậy con người vừa mới chết nằm đấy, sáu căn bị liệt hoại không còn duyên theo cảnh ngoài được nữa. Sáu căn không còn thấy nghe hay gì được nữa, nên sáu thức cũng không còn nhận biết gì được nữa. Thế nên người mới chết nằm đấy không còn thấy nghe hay biết gì nữa là như vậy.
30. HỎI: Những điều gì sẽ xảy ra đối với người vừa mới chết, khi thần thức rời khỏi xác thân?
ĐÁP: Người không đủ điều kiện để được Phật A Di Đà tiếp dẫn thần thức về Tây Phương Cực lạc, lúc sát na lâm chung là một loáng thời gian trước khi chết, thì người đó liền bị chết (thần thức vẫn còn ở trong xác thân).Sau khi chết, thần thức rời khỏi xác thân sẽ có hai điều xảy ra:
Điều 1: Theo kinh Phật dạy: “Con người khi chết.
Muôn thứ mang chẳng được. Chỉ có nghiệp theo mình”.
Nghiệp là gì? Những điều thiện, điều ác do thân làm miệng nói, ý nghĩ ra thì gọi là nghiệp. Vậy khi thần thức rời khỏi xác thân liền bị nghiệp lực dẫn đi nhận thân mới ở cảnh giới nào đó của lục đạo luân hồi tương ứng với nghiệp nhân thiện ác mà người đó tạo ra khi còn sống và những nghiệp nhân thiện ác của quá khứ.
Lời dạy về nhân quả luân hồi của Phật đã thể hiện rất rõ trên bản đồ mười pháp giới được lập thành bảng như sau:
Qua bảng trên thấy: Khi sống gieo nghiệp nhân thiện khi chết luân hồi vào ba cõi giới lành là người, Atula, trời để hưởng phúc báo. Nếu gieo nghiệp nhân ác bị đọa vào ba ác đạo súc sinh ngạ quỷ địa ngục để chịu khổ báo.Không hề sai khác.Xin kể câu chuyện để làm rõ mọi sự mọi việc ở thế gian này xảy ra đều không ngoài nhân quả: Ngày xưa ở một vùng núi bên Trung Quốc, người ta thường truyền lại nhiều đời kể về một con chồn thành tinh ở trong hang núi. Do một nhân duyên nào đó mà tổ Bách Trượng, tổ thứ chín Thiền tông Trung Quốc đến đấy lập chùa. Một đêm Tổ đang ngồi thì có một người đến phủ phục trước ngài và nói: Xin Tổ cứu con.
Tổ hỏi: Ông làm sao mà phải xin tôi cứu? Người đó kể: Cách đây 300 năm, con là một vị tăng trụ trì một ngôi chùa. Một hôm có một người đến hỏi: Một thiền sư tu hành đã ngộ đạo, có còn phải chịu nhân quả nữa hay không? Con trả lời là không phải chịu nhân quả. Thế là khi chết con phải mang thân chồn cho đến ngày nay. Tổ bảo người đó: Ông hãy hỏi tôi như người đó hỏi ông đi? Người đó hỏi Tổ như vậy.
Tổ trả lời: không ngoài nhân quả. Người đó liền khai ngộ và xin Tổ một điều: Sáng mai xin Tổ cho người vào hang núi, nếu thấy con chồn chết, xin Tổ cho mang về chôn cất theo nghi thức của một vị Tăng. Sáng hôm sau Tổ cho người vào núi mang xác con chồn về và làm đám tang đúng như lời thỉnh cầu của người đó.Nói sai nhân quả đối với một người, còn phải chịu quả báo lớn lao như vậy, huống chi nói sai nhân quả đối với nhiều người!
Điều 2: Thần thức còn trong xác thân, bị tế bào thần kinh của hệ thần kinh và lớp da bọc ngoài của xác thân ngăn che nên không thông ra ngoài được. Khi thần thức rời khỏi xác thân mới có thể thông ra ngoài gọi là thần thông trí tuệ. Nhờ có thần thông trí tuệ mới có thấy nghe biết. Thần thông trí tuệ gồm có: Túc mạng thông là trí tuệ biết được mạng sống của mình, của người nhiều kiếp về quá khứ. Tha tâm thông là trí tuệ biết được ý nghĩ của người khác. Thiên nhãn thông là trí tuệ thấy biết rất xa, xuyên qua tường vách, thấy biết được cảnh giới hữu hình và vô hình, biết được những việc sẽ xảy ra trong tương lai. Thiên nhĩ thông là trí tuệ nghe biết thấu suốt xa gần. Thần túc thông là trí tuệ tạo ra thần lực, khả năng đằng vân, phân thân, biến hóa khôn lường.Thần thông trí tuệ do đâu mà có? Do phúc báo mới có thần thông. Phúc báo là quả báo của nghiệp nhân thiện mà con người đã tạo ra khi còn sống. Vậy thần thông trí tuệ thấy nghe biết sau khi thần thức rời khỏi xác thân có hay không, mạnh hay yếu. Quyết định bởi khi sống có tạo nghiệp nhân thiện hay không, nhiều hay ít.
* Nếu khi sống tạo thuần nghiệp nhân thiện của thân, miệng, ý thì thần thông trí tuệ của họ là mạnh nhất. Thần thông trí tuệ của các vị trời. Nên mới gọi là Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông.
* Nếu khi sống tạo nghiệp nhân thuần thiện nhưng đức lại kém vơi thì thần thông trí tuệ sẽ yếu hơn thần thông của các vị Trời. Đó là thần thông trí tuệ của các vị thần Atula linh thiêng.
* Nếu khi sống tạo nhiều nghiệp nhân thiện do “Giữ gìn ngũ giới nhiều” thì thần thông trí tuệ của họ vẫn mạnh. Nên mới có câu “sống khôn, chết thiêng”.
* Nếu khi sống tạo ít nghiệp nhân thiện “giữ gìn ngũ giới ít” thì thần thông trí tuệ của họ yếu hay rất yếu. Nên chết không thiêng.
* Nếu khi sống tạo quá ít nghiệp nhân thiện do “ngu si biếng nhác, dối gạt móc biêu” thì thần thông trí tuệ quá yếu. Gần như không nghe thấy biết cảnh ngoài. Nên phải thọ nhận thân của súc sinh là gia súc gia cầm để thấy nghe hay qua năm giác quan của súc sinh đó và lấy thân súc sinh đó để trả nợ cho người do khi sống đã tạo ra những nghiệp nhân ác về thân, miệng.
* Nếu khi sống không tạo một chút nghiệp nhân thiện nào thì sẽ không có thần thông trí tuệ. Nên không có một chút thấy nghe biết nào đối với cảnh ngoài, hoàn toàn tối tắt mờ mịt. Chỉ còn tâm luôn hiện ra những cơn ác mộng triền miên về đòi khát (cảnh giới Ngạ quỷ). Hay những cơn ác mộng triền miên về những cảnh bị tra tấn cực hình (cảnh giới của Địa ngục). Để trả quả báo về những nghiệp nhân ý nghiệp ác tạo ra khi còn sống.
- Những chuyện gì sẽ xảy ra đối với người mới chết khi thần thức vừa rời khỏi xác thân mà họ có thần thông trí tuệ, nhất là thần thông trí tuệ mạnh?
Do họ có trí tuệ thiên nhãn thông mà cùng một lúc họ thấy cả hai cảnh giới hữu hình và cảnh giới vô hình.Cảnh giới hữu hình là cảnh giới của con người đang sống. Họ nhìn thấy xác thân của họ đang còn nằm trên giường hay trong quan tài. Chung quanh quan tài có những ai. Họ thấy mọi người đang tất bật chuẩn bị cho đám tang của họ. Nếu con của họ ở tận nước ngoài chưa về kịp, thì một loáng là họ ở bên con của họ vì họ có thần túc thông. Họ biết được con cái người nào thương sót họ nhiều, đám tang của họ bao giờ thì tổ chức, chôn cất ở đâu...
Vì họ đọc được ý nghĩ của con cái họ và của những người đứng ra tổ chức đám tang của họ. Có một điều họ rất khổ tâm là muốn tiếp xúc chuyện trò bàn bạc với người thân, con cháu nhưng chẳng ai để ý đến họ. Tất nhiên họ cũng có thể tham gia ý kiến với mọi người bằng cách gửi thông tin, hoặc nhập vào người khác để nói hộ ý kiến của mình... Còn đối với cảnh giới vô hình, là cảnh giới của những người đã chết trước họ mà có thần thông, thế gian thường gọi là vong, ngày nay gọi là người âm. Những người âm quyến thuộc này có thần thông trí tuệ thiên nhãn thông nên biết trước được ngày giờ chết của họ và đến túc trực để đón họ. Vì thế sau khi chết, thần thức rời khỏi xác thân mà có thần thông trí tuệ thì vừa thấy, nghe biết cảnh giới hữu hình kể ở trên, lại thấy nghe biết ngay cảnh giới vô hình là gặp được những người âm quyến thuộc đang đợi đón mình, người âm này có thể là chồng, là vợ, là bố, là mẹ đã chết trước hoặc xa hơn như ông, bà, cụ, kỵ và họ hàng nội ngoại, họ cũng nhận ra được vì họ có trí tuệ túc mạng thông. Đối với người âm thì họ chuyện trò tiếp xúc được qua ý nghĩ. Vì họ có tha tâm thông nên nhận biết được ý nghĩ của nhau. Việc gặp lại được người âm làm họ bớt khổ rất nhiều và nương dựa vào những người âm quyến thuộc linh thiêng.
Nhưng cũng có khi họ chẳng gặp được người âm nào đến đón vì những quyến thuộc chết trước đều bị đọa vào ác đạo. Do họ có thần thông trí tuệ là túc mạng thông và thiên nhãn thông mà họ có thể biết được quyến thuộc chết trước họ đang bị đọa vào cảnh giới nào. Súc sinh, Ngạ quỷ hay Địa ngục. Có khi họ lại gặp người âm mà khi còn sống có thù hằn nhau, sẽ bị người âm chết trước kia não hại họ. Nên mới có câu “Ma cũ bắt nạt ma mới” là như vậy chăng!?
Nếu họ có thần thông trí tuệ mạnh họ sẽ dùng thần thông để phù hộ cho con cháu. Do có trí tuệ thiên nhãn thông nên họ biết trước được những sự việc tốt, xấu sẽ xảy ra đối với con cháu, họ sẽ gửi thông tin qua người khác, hoặc nhập vào người khác để nói hộ báo trước. Hoặc khi sự việc xấu xảy ra đối với người thân như bị tai nạn, họ sẽ dùng thần lực của thần túc thông giúp người thân tai qua nạn khỏi, nên mới có câu “phúc to như cái đình”...
Tóm lại, qua những vấn đề trình bày ở trên về thần thức sau khi rời khỏi xác thân, mới thấy được tác dụng của việc tạo nghiệp nhân thiện (làm thiện) khi còn sống là vô cùng to lớn và mới biết làm thiện thì được sinh về cõi lành làm ác thì phải đọa vào ác đạo không hề sai khác vậy.
31. HỎI: Điều kiện để người chết được sinh lại làm người là gì?
ĐÁP: Muốn được sinh lại làm người thì người chết đó phải thỏa mãn hai điều kiện sau:
* Điều kiện 1: Khi sống phải tạo nhân sinh lại làm người ghi trong bản đồ Mười pháp giới:
“Giữ gìn ngũ giới
Dù ít dù nhiều
Sang hèn thọ yểu
Theo nghiệp cảm chiêu”.
Ngũ giới là năm điều luật Phật đề ra cho Phật tử tại gia thực hành ngăn chặn làm điều ác, gồm: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không dối trá, không uống rượu.
Nếu giữ gìn ngũ giới nhiều tức là tạo nhiều nghiệp nhân thiện sẽ được sinh vào gia đình mà cha mẹ sống đạo đức giàu có, tương ứng với nghiệp nhân thiện mà mình đã tạo ra ở kiếp sống trước. Để được hưởng phúc báo ngay khi còn trong bụng mẹ, cho đến sinh ra thành đứa trẻ xinh đẹp, ngoan ngoãn, thông minh học giỏi. Trưởng thành vào đời lại nhờ phúc báo do nghiệp nhân thiện mình tạo ra ở kiếp trước nên được giàu có lại có địa vị, vì thế mà giàu sang phú quý, mạnh khỏe, sống lâu.
Nếu giữ gìn ngũ giới ít tức là tạo ra ít nghiệp nhân thiện thì khi sinh lại làm người sẽ ngược lại với trường hợp trên và trưởng thành sẽ phải chịu cuộc sống nghèo hèn bệnh tật chết sớm.
Nếu không có điều kiện 1 này thì phải đọa vào 3 đường ác. Còn có điều kiện 1 này mà muốn sinh lại làm người thì cần phải có thêm điều kiện thứ 2 là gặp duyên cha mẹ.
* Điều kiện 2: Gặp duyên cha mẹ.
Kinh Phật dạy: “Phi ân oán, bất thành phụ tử”.
Nếu kiếp trước không có ân (ơn), oán nhau thì kiếp sau không thể trở thành bố mẹ, con cái của nhau được.Nếu có ơn thì sinh vào làm con để đền ơn, sẽ trở thành người con có hiếu. Ngay từ khi còn trong bụng mẹ, đã làm cho mẹ không phải đau đớn vất vả. Sinh ra dễ dàng mẹ tròn con vuông. Nuôi nấng cũng dễ dàng, mau ăn chóng lớn. Khi bé ngoan ngoãn chăm học, chăm làm. Lớn lên vào đời chịu khó làm ăn để có điều kiện báo hiếu đền ơn cho cha mẹ.
Nếu có oán thì sinh vào làm con để báo oán sẽ trở thành đứa con bất hiếu, ngỗ nghịch. Sinh ra khó khăn, nuôi nấng vất vả. Lớn lên phá tán của cải, là do kiếp trước nợ nần nhau về mặt kinh tế. Hoặc thường quát mắng lại cha mẹ hay gây ra tội ác đối với người khiến cha mẹ bị liên lụy là do kiếp trước đã não hại nhau về mặt tinh thần, tình cảm...
Vậy muốn được sinh lại làm người thì phải thỏa mãn cả hai điều kiện, mà điều kiện một đã là rất khó. Phật dạy: “Chúng sinh khi chết, được sinh về cõi lành, ít như đất dính vào móng tay Phật, còn bị đọa vào cõi ác nhiều như đất ở đại địa”. Còn điều kiện thứ hai là phải gặp duyên cha mẹ. Cũng có thể gặp duyên cha mẹ ngay sau khi mới chết.
Phúc duyên này thật là hãn hữu.Bởi muốn sinh vào làm con thì phải có nhân ân, oán với cả cha lẫn mẹ, thế thì sẽ xảy ra rất nhiều trường hợp: Có duyên ân oán với 2 người nhưng họ lại không lấy nhau thành vợ thành chồng, hoặc một người sinh lại làm người nhưng người kia vẫn bị đọa trong ác đạo, hay cả hai người vẫn đọa trong ác đạo. Có thể cả hai người đã sinh lại làm người và lấy nhau, nhưng đã già, quá thì sinh đẻ hay bị bệnh sinh lý mà không sinh đẻ được hay họ còn sinh đẻ được lại bị người chết khác có nhân ân oán mạnh hơn, phúc duyên lại lớn hơn, sẽ đầu thai trước v.v... Qua hai điều xảy ra khi thần thức rời khỏi xác thân và hai điều kiện để người chết được sinh lại làm người, mới thấy thấm thía lời dạy của Tổ Thiện Đạo đối với người tu Pháp Môn Niệm Phật. Xin ghi lại để các bạn đồng tu chúng ta cùng ghi nhớ“Việc luân hồi sinh tử rất lớn lao. Phải tự mình gắng sức mới được. Nếu một niệm sai lầm để luống qua, thì nhiều kiếp chịu khổ. Có ai thay thế cho mình. Nên suy nghĩ kỹ, nên suy nghĩ kỹ!”.
PHẦN PHỤ LỤC.
Phần phụ lục bao gồm: Một là, Thành tựu khoa học hiện đại về bảy vầng hào quang bao quanh cơ thể con người.Hai là, Vận dụng, liên hệ, đối chiếu giữa kiến thức Phật pháp, kiến thức khoa học và thành tựu khoa học hiện đại về bảy vầng hào quang bao quanh cơ thể con người để lý giải lời dạy của Phật:Năm uẩn ngăn che trí tuệ, sinh ra năm ấm .
Ba là, Vận dụng kiến thức đã lý giải ở mục II và kiến thức về bản chất sóng năng lượng sinh học để làm sáng tỏđại nguyện 13, 14 và 18 hay Pháp Môn Niệm Phật. Làm sáng tỏ về hồi hướng công đức niệm Phật. Làm sáng tỏ về thấy có quang minh chiếu chạm của đại nguyện 14. Làm sáng tỏ thần thức rời khỏi xác thân người chết mới có thể có thần thông trí tuệ thấy nghe biết là chân thật khách quan và khoa học.
I. Thành tựu khoa học hiện đại về bảy vầng hào quang bao quanh cơ thể con người.
Trích sách Hướng dẫn ứng dụng năng lượng sinh học. Tác giả: Nguyễn Đình Phư, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin phát hành tháng 8/1995 từ trang 138 đến trang 143.
Cấu trúc và chức năng của hào quang.
1. Cấu trúc và chức năng của hào quang.
Hệ thống hào quang được nhìn nhận từ xưa đến nay có những khác biệt về tên gọi, màu sắc, số vầng... Hào quang có thể cao 2,5m và rộng 1m bao quanh thân người. Hình dạng hào quang giống như một quả trứng. Trường hào quang là nơi giao tiếp năng lượng và thông tin của cơ thể sống với môi trường xung quanh. Hào quang được phân ra nhiều vầng khác nhau. Các vầng lẻ 1, 3, 5, 7 có màu rõ rệt còn các vầng chẵn hơi mờ.
2. Cấu trúc cụ thể.
Năng lượng sinh học bao quanh con người tạo ra bảy vầng hào quang khác nhau. Đặc thù của mỗi vầng quyết định hình thái của cơ thể sống. Trong phạm vi nghiên cứu một cách phổ cập, chúng ta quan sát bảy vầng hào quang theo thứ tự:
1- Vầng cảm giác.
a) Vị trí: Từ da ra 2,5cm, bao sát thân thể, có hình dáng như thân thể. Giữ vai trò như một “cái khung” gồm những vạch năng lượng để tế bào dựa vào tồn tại và sinh sôi phát triển.
b) Màu sắc: Màu xanh trong, nhạt, có khi xanh xám.
c) Đặc trưng: Cảm giác thể chất, hoạt động thể chất.
2- Vầng cảm xúc.
a) Vị trí: Cách da 2,5 - 7,5cm.
b) Màu sắc: Màu thay đổi từ sáng chói đến sám sịt nhưng lại chứa tất cả màu của cầu vồng.
c) Đặc trưng: Cảm xúc, cảm nghĩ.
3- Vầng tâm thần.
a) Vị trí: Cách da 7,5cm - 20,5cm.
b) Màu sắc: Màu vàng chói.
c) Đặc trưng: Đời sống tư duy.
4- Vầng tinh tú.
a) Vị trí: Cách da 15cm - 25cm.
b) Màu sắc: Màu hồng là chủ yếu.
c) Đặc trưng: Tình cảm yêu thương.
5- Vầng hình thái bổ sung.
a) Vị trí: Cách da 15cm - 60cm.
b) Màu sắc: Màu trong suốt trên nền xanh cô ban.
c) Đặc trưng: Thái độ, lời nói, trách nhiệm.
6- Vầng thượng giới.
a) Vị trí: Cách da 60cm - 82cm
b) Màu sắc: Màu hồng phấn là chủ yếu
c) Đặc trưng: Trí tưởng tượng, suy đoán vượt qua giới hạn hữu hình.
7- Vầng nhân quả.
a) Vị trí: tiếp nối với vầng hình thái bổ sung kích thước tùy theo bản thể.
Vầng có vỏ bọc (ngoài) dày từ 0,6 - 1,3cm. Là nơi giao tiếp và phòng vệ năng lượng của bản thể với năng lượng của môi trường. Có tần số rung động lớn.
b) Màu sắc: Gồm những sợi tơ vàng - bạc lấp lánh.
c) Đặc trưng: Bản thể vật chất và đời sống tâm linh.
Là nơi chứa đựng sơ đồ cuộc sống trải nghiệm trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Đóng vai trò như một màn hình display để trình chiếu các cuốn băng video tế bào ghi trải nghiệm cuộc sống.
Như vậy, hào quang của con người phân thành bảy vầng, luôn biểu hiện cảm giác, cảm xúc, ý nghĩ, ký ức.
Những trải nghiệm cuộc đời, bộc lộ tính cách đặc trưng và trạng thái sức khỏe... của người đó. Hào quang hình thành lớp vỏ giao tiếp và phòng vệ năng lượng cho bản thể.
Hào quang và luân xa.
Các sóng năng lượng sinh học tồn tại trong hào quang.
Theo các nhà nghiên cứu thì các sóng này là sóng đứng, chúng đan chéo nhau, giao thoa tạo ra điểm hút năng lượng. Mối quan hệ giữa sóng năng lượng và hệ thống luân xa được mô tả như sau:
1. Luân xa chính.
Là giao thoa của 21 sóng năng lượng sinh học, chúng nằm trên dòng chảy lớn theo mạch nhâm về mạch đốc.
2. Luân xa phụ.
Là giao thoa của 14 sóng năng lượng sinh học Luân xa phụ nằm trên hai lòng bàn tay và bàn chân.
3. Các huyệt châm cứu.
Là giao thoa của n (n < 7) sóng năng lượng sinh học. Chúng có đến một ngàn điểm nằm rải rác trên mặt da khắp cơ thể.
Luân xa là cửa ngõ, nơi giao tiếp năng lượng của cơ thể của con người với môi trường. Chính tại mỗi luân xa, vầng vật chất tự phát sóng. Mỗi luân xa liên quan đến một vầng hào quang và có chức năng riêng trong sự thu nhận, điều chỉnh bảo vệ sức khỏe...
4. Mối quan hệ giữa luân xa và các vầng hào quang.
Quan hệ giữa luân xa và các vầng hào quang được kiểm nhận qua trải nghiệm tập luyện và quan sát thực tiễn:
a) Vầng cảm giác liên quan đến luân xa 1
b) Vầng cảm xúc liên quan đến luân xa 2
c) Vầng tâm thần liên quan đến luân xa 3
d) Vầng tinh tú liên quan đến luân xa 4
e) Vầng hình thái bổ sung liên quan đến luân xa 5
g) Vầng thượng giới liên quan đến luân xa 6
h) Vầng nhân quả liên quan đến luân xa 7
Mức độ năng lượng sinh học ở mỗi luân xa liên quan đến độ sáng, màu sắc và kích thước của mỗi vầng hào quang. Vấn đề này chúng ta sẽ có dịp làm quen trong các bài giảng về bản chất ánh sáng của năng lượng sinh học.
Sơ đồ bảy vầng hào quang bao quanh cơ thể con người
II. Vận dụng, liên hệ, đối chiếu giữa kiến thức Phật pháp, kiến thức khoa học và thành tựu khoa học hiện đại về 7 vầng hào quang bao quanh cơ thể con người để lý giải lời dạy của Phật: “Năm uẩn ngăn che trí tuệ, sinh ra năm ấm” dẫn đến kết luận: sáu vầng hào quang bức xạ từ luân xa 1 đến luân xa 6 chính là 5 lớp mê sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm:
1- Lý giải về năm uẩn.
Thân thể con người do năm uẩn tạo nên. Uẩn là chứa nhóm. Vậy thân thể con người gồm năm nhóm vật chất là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.
Trong năm nhóm vật chất này thì sắc uẩn là thân thịt xương da máu mủ. Bốn uẩn còn lại chính là phần còn lại của thân thể là hệ thần kinh. Hệ thần kinh là do hơn hai tỷ tế bào thần kinh tạo nên. Hơn hai tỷ tế bào thần kinh này tích chứa hay tiềm ẩn năng lượng trí tuệ của con người, chia thành bốn nhóm. Nhóm tế bào thần kinh tích chứa hay tiềm ẩn năng lượng trí tuệ thuộc về thọ (cảm giác, cảm xúc khổ vui). Nhóm thuộc về tưởng (tư duy, tình cảm). Nhóm thuộc về hành (thiện, ác). Nhóm thuộc về thức (nhận biết).
2. Lý giải về ngăn che trí tuệ.
* Trí tuệ: Trí tuệ của con người chính là năng lượng của thức A lại da hay thức thứ 8 còn gọi là thần thức: Năng lượng trí tuệ thần thức này tích chứa hay tiềm ẩn trong hơn hai tỷ tế bào thần kinh chia làm bốn nhóm thọ tưởng hành thức.Có thể ví mỗi tế bào thần kinh của hệ thần kinh như một chiếc pin. Pin thường thì nạp bằng năng lượng của dòng điện một chiều (năng lượng vật lý). Còn pin tế bào thì nạp năng lượng trí tuệ thần thức (năng lượng tâm linh). Pin thường dùng hết điện năng thì bỏ hoặc nạp lại, còn pin tế bào nạp năng lượng một lần khi thần thức nhập thai, sử dụng cho đến khi chết. Thần thức rời khỏi xác thân lại rút năng lượng trí tuệ thần thức ra khỏi pin tế bào của hệ thần kinh xác thân này. Đến khi nhập thai lại nạp năng lượng trí tuệ thần thức vào pin tế bào hệ thần kinh của thân mới.
* Ngăn che trí tuệ: Do bị năm uẩn ngăn che trí tuệ. Cụ thể là hơn hai tỷ tế bào thần kinh của hệ thần kinh (bốn uẩn thọ, tưởng, hành, thức) và lớp da bọc ngoài của thân thịt xương da máu (sắc uẩn) ngăn che. Nên con người không sống bằng tâm trí tuệ thần thức được, mà phải sống bằng tâm mê do trí tuệ thần thức bị năm uẩn ngăn che mà sinh ra. Đó là năm ấm: sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm.
3. Lý giải về năm ấm.
Tâm con người vốn là trí tuệ thần thức, thấy nghe biết bằng thần thông trí tuệ rất vi diệu. Nhưng vì bị năm uẩn ngăn che sinh ra năm ấm là sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Là năm lớp mê lầm mà con người đã nhận năm lớp mê lầm năm ấm này là tâm tính của mình. Nhận cái thân thịt xương da máu hôi tanh là thể xác của mình (sắc ấm). Cả ngày tôi khổ tôi vui, nhận thọ ấm là mình. Tôi yêu tôi ghét, nhận tưởng ấm là mình. Tôi thiện tôi ác, nhận hành ấm là mình. Tôi nhận tôi biết, nhận thức ấm là mình. Cái xác thân thịt xương da máu mủ nó có sáu căn là mắt tai mũi lưỡi thân ý. Sáu căn này duyên theo sáu trần là sắc thanh hương vị xúc pháp nên có thấy nghe hay. Do sáu căn có thấy nghe hay mà sáu thức trong lớp mê thức ấm mới nhận biết được những cái thấy nghe hay ấy của 6 căn đối với cảnh ngoài. Vì thế kinh Lăng Nghiêm mới gọi cái tâm mê lầm năm ấm là thức tâm phan duyên, chính là vọng tâm của con người vậy.
So sánh đối chiếu giữa sáu vầng hào quang từ vầng 1 đến vầng 6 bao quanh cơ thể con người với năm lớp mê năm ấm thấy chúng đều từ các tế bào thần kinh có trong thần kinh hệ hay các tế bào thần kinh của bốn nhóm thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn bức xạ ra hay sinh ra. Cùng với sự giống nhau giữa đặc trưng của sáu vầng với đặc trưng của 5 lớp mê năm ấm. Rút ra kết luận: sáu vầng hào quang từ 1 đến 6 chính là 5 lớp mê năm ấm.
Từ những lý giải ở trên thì sáu vầng hào quang năm ấm, bức xạ ra từ thần kinh hệ. Còn vầng hào quang nhân quả từ đâu bức xạ ra qua luân xa bảy?
4. Lý giải về vầng hào quang nhân quả.
Vọng tâm con người lúc thiện lúc ác là do đặc trưng tâm của vầng hào quang hình thái bổ sung hành ấm. Khi đặc trưng tâm của vầng hào quang hình thái bổ sung hành ấm khởi ý nghiệp thiện thì thân, khẩu (miệng) liền hành thân, khẩu nghiệp thiện. Khi đặc trưng tâm của vầng hào quang hính thái bổ sung hành ấm khởi ý nghiệp ác, thì thân, khẩu liền hành thân, khẩu nghiệp ác.
Năng lượng thông tin của nghiệp nhân thân khẩu nghiệp thiện ác liền được giữ lại trong nhân của tế bào xác thân thịt xương máu mủ chính là sắc uẩn. Phật pháp gọi năng lượng nghiệp nhân thiện ác của thân khẩu này là chủng tử nghiệp. Chủng tử nghiệp thiện ác này liền liên kết với gen di truyền có trong phân tử AND trong nhân tế bào để tạo thành gen tốt, đẹp hay gen xấu kém. Gen di truyền nào liên kết với chủng tử nghiệp thiện là gen tốt, đẹp. Gen di truyền nào liên kết với chủng tử nghiệp ác là gen xấu, kém. Năng lượng của nghiệp nhân thiện ác của thân khẩu từ gen di truyền tốt, xấu này bức xạ ra ngoài qua luân xa bảy tạo thành vầng hào quang nhân quả.
Vị trí của vầng hào quang nhân quả tiếp nối với vầng hào quang hình thái bổ sung hành ấm. Vì sao lại tiếp nối với vầng hào quang hình thái bổ sung hành ấm? Vì năng lượng của vầng hào quang hình thái bổ sung hành ấm là năng lượng của nghiệp nhân ý nghiệp thiện ác. Khi năng lượng của nghiệp nhân ý nghiệp thiện tăng thì năng lượng của nghiệp nhân thân khẩu cũng tăng. Vầng hào quang hình thái bổ sung hành ấm dãn ra xa thân thì vầng hào quang nhân quả cũng dãn xa thân và ngược lại, vầng hào quang hình thái bổ sung hành ấm co lại thì vầng hào quang nhân quả cũng co lại. Vậy hai vầng khác nhau tuy là hai, chính lại là một: vầng hào quang của nghiệp nhân thân khẩu ý nghiệp thiện ác vậy.
Vầng hào quang nhân quả có vỏ bọc dày từ 0,6cm đến1,3cm. Có tần số dao động lớn. Là nơi giao tiếp và phòng vệ năng lượng thông tin của bản thể và năng lượng thông tin của môi trường. Vầng hào quang nhân quả bao bọc sáu vầng hào quang năm ấm. Thành tựu khoa học này làm sáng tỏ Phật pháp là: Tâm mê năm ấm của con người đã gây nghiệp nhân thiện ác.
Chính nghiệp nhân thiện ác này lại trói buộc, giam hãm con người phải trôi lăn mãi trong biển khổ luân hồi sinh tử.Vị trí xa thân và kích thước bề dày của vầng hào quang nhân quả được xác định như sau: Khi vị trí xa thân nhất của vầng hào quang hình thái bổ sung hành ấm là 60cm. Vầng hào quang nhân quả tiếp nối với vầng hào quang hình thái bổ sung hành ấm ở vị trí là 60cm. Nên bề dày của vầng là: 100cm - 60cm = 40cm.100cm là vị trí xa thân nhất của bảy vầng hào quang, mà vầng hào quang nhân quả là vầng ngoài cùng, nên cũng là vị trí xa thân nhất của vầng hào quang nhân quả. Kích thước bề dày này là không thay đổi vì vầng được tạo bởi năng lượng nghiệp nhân thiện ác của thân khẩu nghiệp thiện ác, từ gen di truyền xấu tốt trong nhân tế bào bức xạ ra. Khi năng lượng nghiệp nhân thân khẩu thiện tăng thì năng lượng nghiệp nhân thân khẩu ác giảm và ngược lại. Nên tổng số vẫn là như thế.
Khi vầng hào quang nhân quả tiếp nối với vầng hào quang hình thái bổ sung hành ấm ở vị trí xa thân nhất là 60cm. Vầng chứa thuần nghiệp nhân thiện của thân khẩu nghiệp thiện. Kích thước vỏ bọc của vầng là mỏng nhất và bằng 0,6cm.
Khi 2 vầng hào quang hình thái bổ sung hành ấm và vầng hào quang nhân quả co lại gần thân thì năng lượng của nghiệp nhân thiện của vầng giảm dần, vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả dày thêm dần. Co tới vị trí gần thân nhất là 15cm thì kích thước vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả là dày nhất và bằng 1,3cm.
Qua mục II, lý giải về lời dạy của Phật ở trên cho thấy: Thành tựu khoa học hiện đại về bảy vầng hào quang bao quanh cơ thể con người đã làm sáng tỏ lời dạy của Phật Thích Ca cách đây gần 2600 năm là chân thật, khách quan và khoa học. Chính vì vậy mà nhà bác học vĩ đại Anhxtanh đã phát biểu: “Khoa học hiện đại phát triển tới đâu. Ở đấy đã có đạo Phật” là như vậy.
III. Vận dụng kiến thức đã lý giải ở mục II và kiến thức về bản chất sóng năng lượng sinh học để làm sáng tỏ đại nguyện 13, 14 và 18 hay Pháp Môn Niệm Phật. Làm sáng tỏ hồi hướng công đức niệm Phật. Làm sáng tỏ về thấy được quang minh chiếu chạm của đại nguyện 14. Làm sáng tỏ thần thức rời khỏi xác thân người chết có thể có thần thông trí tuệ thấy nghe biết là chân thật, khách quan và khoa học.
Bản chất sóng năng lượng sinh học.
(trích trang 202 - 203 sách Hướng dẫn ứng dụng năng lượng sinh học - Tác giả Nguyễn Đình Phư).
- Sóng năng lượng sinh học định hướng và mang thông tin: Khi bức xạ năng lượng đủ mạnh. Chủ nhân có thể phát thông tin kèm theo và định hướng cho sự lan truyền sóng. Khoảng cách như thu hẹp lại, đối tượng dù ở đâu cũng lọt vào vùng bức xạ của sóng năng lượng sinh học, vật cản hoàn toàn biến mất.
- Sóng năng lượng tương tác lên các vật chất, đặc biệt mạnh đối với cơ thể sống. Trường năng lượng sinh học như nhau thì cộng hưởng, khác nhau thì chinh phục.
- Ít bị tiêu hao: Truyền và nhận sóng không phụ thuộc vào không gian ba chiều và thời gian tuyến tính một chiều. Lan truyền sóng năng lượng sinh học phụ thuộc vào nguồn mạnh yếu và việc định hướng năng lượng cho sóng.Năng lượng thần thức chính là năng lượng trí tuệ Phật, do mê nên mức năng lượng giảm đi quá nhiều. Con người là chúng sinh nên năng lượng thần thức cũng chính là năng lượng sinh học vậy.
1. Làm sáng tỏ đại nguyện 13, 14, 18 hay Pháp Môn Niệm Phật là pháp môn khoa học về hào quang năng lượng trí tuệ Phật Khi ta xưng danh hiệu Phật hay niệm Phật là ta đã phát tín hiệu địa chỉ khiến cho năng lượng thông tin Bản nguyện của Phật định hướng về phía ta.
Nếu năng lượng thần thức của ta mang thông tin là một lòng cầu vãng sinh hay tín nguyện thì đồng với năng lượng thông tin Bản nguyện của Phật, nên vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả cho giao tiếp. Chính là chiếu chạm vào vầng hào quang nhân quả. Vì vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả là nơi giao tiếp năng lượng thông tin của bản thể với năng lượng thông tin của môi trường. Khi vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả cho năng lượng thông tin Bản nguyện của Phật giao tiếp với năng lượng thông tin của ta phát từ năng lượng thần thức. Năng lượng thông tin Bản nguyện của Phật cực mạnh nên chinh phục năng lượng thông tin thần thức của ta khiến cho năng lượng thông tin thần thức bức xạ năng lượng mạnh thêm qua sáu luân xa, làm cho các vầng hào quang dãn ra xa thân. Năng lượng nghiệp nhân ý nghiệp thiện của vầng hào quang hình thái bổ sung hành ấm tăng. Vầng hào quang nhân quả nối tiếp với vầng hào quang hình thái bổ sung hành ấm cũng dãn xa thân khiến cho nghiệp nhân thiện của thân khẩu nghiệp thiện tăng thêm, vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả mỏng thêm. Vì thế khi ta tha lực niệm Phật sẽ được Phật A Di Đà hỗ trợ nghiệp nhân thiện thân khẩu ý cho ta là như vậy.
2. Làm sáng tỏ về hồi hướng công đức niệm Phật là chân thật.
Khi ta tha lực niệm Phật. Năng lượng thông tin Bản nguyện của Phật cực mạnh đã chinh phục năng lượng thông tin thần thức của ta, làm cho trường hào quang năng lượng của ta mạnh thêm. Nhờ có trường hào quang mạnh thêm này, ta định hướng về những chúng sinh để chinh phục trường hào quang năng lượng của họ, làm cho trường hào quang năng lượng của họ mạnh thêm, kích thước của các vầng hào quang dãn ra xa thân, vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả mỏng thêm. Chính là ta đã hồi hướng công đức niệm Phật cho họ.
Nếu chúng sinh đó còn đang sống. Nghiệp nhân thân khẩu ý của họ tăng, khiến cho nghiệp chướng tiêu trừ làm bớt đi những chướng ngại trong cuộc sống đời thường. Thiện căn lại thêm lớn giúp họ gặp nhiều may mắn để được hưởng thêm phúc báo...
Nếu chúng sinh đó đang ở cõi âm. Do vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả mỏng thêm mà thần thông của họ mạnh thêm. Họ sẽ bớt khổ hơn, lại có thể phù hộ được cho con cháu. Và sớm gặp duyên cha mẹ để được sinh lại làm người.
Nếu chúng sinh đó đang phải đọa vào ác đạo, sẽ giúp cho họ trả ác nghiệp nhanh hơn. Trường hào quang của họ mạnh dần lên và rồi họ sẽ chuyển dần từ cảnh giới thấp địa ngục lên các cảnh giới cao hơn là ngạ quỷ, súc sinh, để rồi từ những cảnh giới ác đạo đó chuyển lên thành người âm và đợi duyên cha mẹ để được sinh lại làm người. Có câu “Một người tu bảy họ được nhờ”. Chắc là nói về người tu Pháp Môn Niệm Phật vậy.
Những điều trình bày ở trên cho thấy tác dụng của việc hồi hướng công đức niệm Phật là chân thật khách quan và khoa học.
3. Làm sáng tỏ về thấy được quang minh chiếu chạm thân mình của đại nguyện 14.
Khi vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả cho giao tiếp. Năng lượng thông tin bản nguyện của Phật chạm vào vỏ bọc của vầng. Thần thức bức xạ năng lượng mạnh thêm qua 6 luân xa. Vậy người niệm Phật “thấy được quang minh chiếu chạm thân mình” không phải thấy ở vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả mà thấy có cảm giác chiếu chạm ở sáu luân xa trên mặt da của thân mình. Vì vầng hào quang thượng giới thức ấm xa thân nhất, nên năng lượng thần thức bức xạ qua luân xa 6 là mạnh nhất. Vì thế người niệm Phật dễ thấy được cảm giác quang minh chiếu chạm ở luân xa sáu là điểm ở giữa trán là như vậy.
4. Làm sáng tỏ về thần thức sau khi rời khỏi xác thân người chết mới có thể thấy nghe biết bằng thần thông trí tuệ (câu hỏi đáp số 30).
Thần thức khi còn ở trong xác thân, bị năm uẩn ngăn che. Chính là bị các tế bào thần kinh của hệ thần kinh và lớp da bọc ngoài của xác thân thịt xương máu da ngăn che, chỉ cho bức xạ ra ngoài qua sáu luân xa thành sáu vầng hào quang năm ấm. Khi rời khỏi xác thân, thần thức nhận vầng hào quang sắc ấm làm thân, bị vầng hào quang nhân quả có vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả ngăn che. Vì chỉ còn bị vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả ngăn che nên năng lượng thần thức mới có thể thông được qua vỏ bọc của vầng gọi là thần thông (thần thức thông ra ngoài). Năng lượng thần thức thông được qua vỏ bọc mạnh hay yếu, có hay không quyết định bởi vỏ bọc mỏng hay dày.
Nếu vỏ bọc là mỏng nhất 0,6cm, năng lượng thần thức thông được ra ngoài là mạnh nhất, nên thần thông trí tuệ là mạnh nhất. Thần thông của các vị Trời (cõi giới Trời).
Vỏ bọc dầy dần, năng lượng thần thức thông được ra ngoài yếu dần nên thần thông trí tuệ yếu dần (các cảnh giới thấp hơn).
Vỏ bọc là dày nhất 1,3cm. Năng lượng thần thức không thông ra ngoài được nữa nên không có thần thông trí tuệ (cảnh giới ngã quỷ, địa ngục).
Vỏ bọc của vầng hào quang nhân quả là mỏng nhất, dày dần hay dầy nhất quyết định bởi năng lượng nghiệp nhân thiện của thân khẩu có trong vầng hào quang nhân quả là nhiều nhất (thuần thiện) hay ít dần hoặc không có nghiệp nhân thiện nào của thân khẩu (thuần ác).
Năng lượng nghiệp nhân thiện có trong vầng hào quang nhân quả là do khi còn sống tạo ra mà có vậy. Những điều nêu ở trên về thần thức rời khỏi xác thân người chết đã làm sáng tỏ đạo lý nhân quả luân hồi của Phật Thích Ca là chân thật, khách quan và khoa học.
MỤC LỤC.
Ảnh bìa 1: Hình ảnh Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân.
Lời nói đầu.
1. Cho biết tiểu sử của tổ Thiện Đạo và tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân?
2. Tại sao trong thời kỳ Mạt Pháp, Pháp Môn Niệm Phật lại là pháp môn duy nhất, Phật cứu chúng sinh tội chướng ra khỏi biển khổ luân hồi sinh tử và tu tiếp thành Phật?
3. Những đại nguyện nào trong 48 đại nguyện của đức Phật A Di Đà đã mở ra Pháp Môn Niệm Phật là pháp tha lực?
4. Hãy phân tích về nội dung của đại nguyện 18
5. Cho biết ý nghĩa của Di Đà Bản Nguyện hay ý nghĩa của Pháp Môn Niệm Phật qua 3 điều kiện tin sâu, nguyện thiết, xưng danh hiệu ta hay niệm Phật?
6. Thế nào là tha lực niệm Phật, hay niệm Phật nhận được tha lực của Phật và tác dụng của tha lực đối với người niệm Phật?
7. Hãy phân tích rõ ý nghĩa và tác dụng của điều kiện thứ 3 là xưng danh hiệu Ta hay niệm Phật?
8. Niệm Phật như thế nào là tự lực niệm Phật và sự khác nhau giữa tự lực niệm Phật và tha lực niệm Phật?.
9. Niệm Phật như thế nào mới nhận được quang minh hay tha lực của Phật chiếu chạm?.
10. Điều kiện để được Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tây
Phương Cực Lạc là gì?.
11. Tác dụng của 3 điều kiện tín, nguyện, niệm Phật và tam học giới, định, tuệ là giống nhau hay khác nhau?.28
12. Hãy phân tích rõ lời dạy của tổ Pháp Nhiên ThượngNhân: “Niệm Phật là việc mình làm. Vãng sinh là việc Phật làm. Vãng sinh là do Phật lực ban cho, mà còn cứ tính toán trong tâm mình. Đó là tự lực” .
13. Nhân duyên quả của Pháp Môn Niệm Phật là gì?
14. Có người nói: Pháp môn niệm Phật là nhị lực pháp môn, đúng hay sai?
15. Pháp nào mới gọi là nhị lực pháp môn?
16. Tại sao người tu pháp môn niệm Phật lại phải không được sợ chết?.
17. Thế gian thì ai cũng sợ chết. Chỉ có những người tu Pháp môn niệm Phật mới có thể không sợ chết mà thôi. Vì sao?
18. Đường tu thì chỉ có hai, một là tu tâm, hai là tu thức. Vậy thế nào là tu tâm, thế nào là tu thức?.
19. Tại sao đại nguyện 13, 14 và 18 lại gọi là Di Đà Bản nguyện.
20. Hãy giải thích rõ câu: Pháp Môn Niệm Phật là pháp môn độ tận chúng sinh của Như Lai?
21. Trong kinh A Di Đà Phật Thích Ca ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà và công đức chẳng thể nghĩ bàn của Chư Phật mười phương. Vậy công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn ấy là những gì?
22. Trong kinh A Di Đà, Phật Thích Ca nói Pháp Môn Niệm Phật là pháp môn thế gian khó tin. Xin làm rõ ý này của Phật?
23. Trong các tổ hoằng dương Pháp Môn Niệm Phật ở Trung Quốc và Nhật Bản. Tổ nào đã chứng được niệm Phật tam muội và tác dụng của việc chứng được niệm Phật tam muội?
24. Có người hỏi tổ Bách Trượng là tổ thứ 9 Thiền tông Trung Quốc. Thày của Ngài là ai? Tổ đáp: là chư Phật mười phương. Lại hỏi tiếp: Thày của chư Phật mười phương là ai? Tổ đáp: Phật A Di Đà, Phật A Di Đà. Vậy tổ Bách Trượng đã căn cứ vào đâu mà trả lời như thế?....
25. Hãy phân tích kỹ, tại sao người tu Pháp môn niệm Phật lại cần phải ăn chay?
26. Ăn chay trường là việc rất khó. Vậy khi chưa ăn chay trường thì có tu Pháp Môn Niệm Phật được hay không?.
27. Khi đã ăn chay trường rồi, nhưng vì phải nấu ăn thịt gia súc gia cầm phục vụ gia đình thì có mắc tội sát sinh không?
28. Tại sao từ xưa đến nay, người ta thường phải tránh xa người chết, trừ con cháu. Nhưng con cháu chỉ đến gần và túc trực ngày đêm khi người chết đó đã được nhập quan?
29. Khi người vừa mới chết nằm đấy có còn thấy nghe hay biết gì nữa không?.
30. Những điều gì sẽ xảy ra đối với người vừa mới chết, khi thần thức rời khỏi xác thân?
31. Điều kiện để người chết được sinh lại làm người là gì?
Phần phụ lục bao gồm:
Một là, Thành tựu khoa học hiện đại về bảy vầng hào quang bao quanh cơ thể con người.
Hai là, Vận dụng, liên hệ, đối chiếu giữa kiến thức Phật pháp, kiến thức khoa học và thành tựu khoa học hiện đại về bảy vầng hào quang bao quanh cơ thể con người để lý giải lời dạy của Phật: “Năm uẩn ngăn che trí tuệ, sinh ra năm ấm”.
Ba là, Vận dụng kiến thức đã lý giải ở mục II và kiến thức về bản chất sóng năng lượng sinh học để làm sáng tỏ đại nguyện 13, 14 và 18 hay Pháp Môn Niệm Phật. Làm sáng tỏ về hồi hướng công đức niệm Phật. Làm sáng tỏ về quang minh chiếu chạm của đại nguyện 14. Làm sáng tỏ thần thức rời khỏi xác thân người chết mới có thể có thần thông trí tuệ thấy nghe biết là chân thật khách quan và khoa học.
Cư sĩ Như Trụ kính biên soạn Thế danh Dương Nguyễn Thạch
Đ/c: 110B khu 3 tầng phố Lê Hồng Phong Quận Hà Đông - Hà Nội
ĐT: 04.33511.553
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP MÔN NIỆM PHẬT THEO KINH PHẬT VÀ LỜI TỔ.
Cư sĩ Như Trụ (Biên soạn).
Nhà xuất bản Tôn giáo.
53 Tràng Thi - Hà Nội
ĐT: (04) 37822845 - Fax: (04) 37822841
CHỊU TRÁCH NHIỆM XUẤT BẢN
Giám đốc - Tổng Biên tập
Nguyễn Công Oánh
BIÊN TẬP
Lê Hồng Sơn
Sửa bản in
Cư sĩ Như Trụ
Trình bày
Chơn Diệu Định
ĐƠN VỊ LIÊN KẾT
Ông Dương Nguyễn Thạch
Địa chỉ: Số nhà 110 dãy B khu tập thể 3 tầng phố Lê Hồng Phong, quận Hà Đông, Hà Nội
SÁCH ẤN TỐNG KHÔNG BÁN.
In: 1.000 bản, khổ 14,5 x 20,5cm. In tại Công ty TNHH in TM&DV Nguyễn Lâm, 352 đường Giải Phóng, Hà Nội
Số ĐKXB: 928-2015/CXBIPH/07-69/TG
Mã ISBN: 978-604-61-2291-3
QĐXB: 243/QĐ-NXBTG ngày 13 tháng 5 năm 2015 In xong và nộp lưu chiểu Quý II năm 2015