Nghiên cứu và đàm luận triệt để về tánh không và niết bàn

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

vấn_đạo

Registered
Phật tử
Tham gia
24 Tháng 5 2011
Bài viết
28
Điểm tương tác
0
Điểm
1
Tâm gồm có 2 phần : Thể và dụng.
Tâm thể thì trống không
Nhưng dụng của nó là tánh biết.
Tánh là biết nhưng thể của tánh vốn không nên gọi là "Tánh không"
Niết bàn là một trạng thái của tâm, hay Tánh không.
Trong trạng thái tuyệt đối, không khởi niệm, không chấp trước thì gọi là "Vô dư Niết Bàn"
Trong trạng thái không khởi niệm, nhưng vẫn còn chấp pháp thì gọi là "Hữu dư Niết Bàn".

Chư Phật chứng Vô Dư Niết Bàn
A La Hán thì chứng Hữu Dư Niết Bàn

****************************


Dạ kính thưa thầy bình , và quý thầy cô , cùng các đh trẻ tuổi , nhiệt huyết, sáng suốt , đáng yêu, thân mến , con rất vui khi nhận được sự trả lởi nhiệt tình của thầy bình và thầy đã rất từ bi hoan hỉ dạy rõ ràng chu đáo , dạ con xin đảnh lễ thầy và tất cả đại chúng ạ, dạ sau đây cho phép con thưa trình với thầy ạ:

1./bài trả lời trước thầy ngụ ý rằng rằng niết bàn = tánh không , con sợ diễn giải sai ý thầy nên con thưa hỏi lại nhằm để hiểu rõ ý thầy dạy , sau đó thầy dạy tiếp và giảng rõ hơn về thể và dụng và thầy xác định lại 1 lần nữa qua câu "Niết bàn là một trạng thái của tâm, hay Tánh không." rất rõ ràng dạ con xin chân thành đảnh lể thầy.

2./bây giờ con xin giải bày những điều con học qua kinh luật luận về tánh không , nếu có chổ nào sai sót, chỗ nào hiểu còn nông cạn, lời trích từ kinh điển nào là sai, lời phật dạy chỗ nào cần phải sửa lại, kính mong thầy bìnhvà toàn thể đại chúng châm chước cho con, hoan hỉ uốn nắn dạy dỗ con ạ , dạ con xin đảnh lễ mọi người ạ :)

Đầu tiên con xin các đạo chúng sơ cơ như con lướt qua các khái niệm về không và phật thích ca để lại trong kinh điển ạ:

a./Bài Kinh tiểu không thuộc trung bộ kinh ( Link tham khảo http://www.viet.net/anson/uni/u-kinh-trungbo/trung121.htm )



Đoạn này con mong đạo chúng lưu ý cụm từ "Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều. "

b./Đây là đoạn đối thoại giữa Mogharaja và phật trong kinh tập, con xin trích xuất từ tác phẩm Pháp môn không phải là ngã của thiền sư thanissaro cho đạo chúng tham khảo ( link tham khảo http://thienviennguyenthuy.wordpress.com/2009/04/15/the-not-self-strategy-by-thanissaro/ ):


Các đạo chúng lưu ý cụm từ "Vì vậy nói rằng thế giới là không, là trống rỗng" và so sánh , suy nghĩ vì sao trí tuệ của phật lại không dùng từ niết bàn trong đây ?

3./Trong kinh tương ưng có dạy rất rõ về tà kiến có và không , con xin trích xuất lời dạy đó từ tác phẩm này của thầy Thích chơn thiện cho đạo chúng tham khảo (link tham khảo http://www.quangduc.com/xahoi/05hatsuong08.html"


Dạ các đạo chúng sơ cơ lưu ý cụm từ "Này Kaccayana, thế giới này phần lớn y chỉ vào hai cực đoan: có và không có" và cụm từ quan trọng "Xa lìa hai cực đoan ấy, Như Lai thuyết trung đạo: "Vô minh duyên hành, hành duyên thức..." Như vậy là toàn bộ khổ uẩn tập khởi. Nhưng do ly tham, đoạn hết vô minh nên hành diệt, do hành diệt nên thức diệt... thủ diệt....". Như vậy là toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt." "

4./Dạ giờ đây con trích thêm về lời dạy của phật phân biệt tà kiến nổi lên do có những suy nghĩ và tác ý sai lầm , đáng lẽ con trích thẳng kinh tất cả các lậu hoặc nhưng con thấy trong tác phẩm này giảng dạy rất rõ , rất thích hợp cho đạo chúng sơ cơ nên con trích ra từ tác phẩm này (link tham khảo http://www.viet.net/anson/uni/u-dtlh/dtlh-01.htm )


dạ các đạo chúng để ý cụm từ "tác ý" và suy ngẫm về những tà kiến phật dạy .

Dạ tới đây còn 1 số kiến thức nằm rải rác trong 5 bộ kinh nhưng con không trích xuất nữa , con mong các đạo chúng sơ cơ hãy vào đây http://www.viet.net/anson/uni/index.htm có rất nhiều sách quý và kho tàng giáo lý đều nằm trong đây hy vọng đạo chúng tham khảo thấy cái gì hay hợp logic , mong đạo chúng hoan hỉ chỉ dạy lại cho con dạ con xin đảnh lễ đạo chúng ạ :)

Dạ giờ con xin giải bày sau khi trình lên cho thầy bình và đạo chúng thấy những kinh điển phật dạy về "KHông" ạ:

1./Như con đã trình bày , khi phật đắc đạo thành phật phật xác nhận rằng tâm đạt bất động là giải thoát, là niết bàn trích "Tâm giải thoát bất động chính là mục đích của Phạm hạnh, là lõi cây, là mục tiêu cuối cùng của Phạm hạnh." trong tác phẩm http://www.quangduc.com/coban-2/03daoducpg20.html chứ con chưa thấy trong kinh điển lời nào người dạy không là niết bàn là giải thoát , đó là 1 điểm thứ 1

2./Bất cứ kiến nào khởi lên cho rằng có và không tự ngã thì do chính người đó đang rơi vào sai lạc tà kiến điên đảo trên ta bà này. Đó là điểm thứ 2

3./Trong kinh ca chiên diên phật nhấn mạnh "Này Kaccayana, thế giới này phần lớn y chỉ vào hai cực đoan: có và không có." -> là tà kiến là cực đoan khi khởi lên các kiến có và không về thề giới này . đạo chúng hãy đọc đi đọc lại bộ kinh này sẽ thấy cái tuyệt diệu mà thế tôn muốn chúng ta cảm nhận .

4./ do đó nếu như theo lời dạy của thầy bình niết bàn = tánh không , và lời dạy của phật niết bàn = tâm bất động , và không là chỉ trạng thái 1 thế giới trống rỗng, VÀO ĐƯỢC TRẠNG THÁI NÀY CHỈ LÀ AN TRÚ RẤT NHIỀU CHỨ PHẬT KHÔNG BAO GIỜ GỌI ĐÓ LÀ GIẢI THOÁT VÌ ĐỐI CHỨNG VỚI BÀI KINH LÕI CÂY PHẬT DẠY RẤT RÕ PHẢI LÀM GÌ MỚI CÓ THỂ LÀ PHẠM HẠNH, và điều này được đức phật giảng rất dễ hiểu qua cách nhận biết KHÔNG VÔ BIÊN XỨ TƯỞNG "HƯ KHÔNG LÀ VÔ BIÊN".

Tóm lại nếu con và đạo chúng sơ cơ chấp nhận quan điểm niết bàn = tánh không theo thầy bình thì phật dạy sai (nếu như chúng ta theo quan điểm thầy bình) còn nếu chúng con theo quan điểm phật thì thầy bình lại không đúng ? Dạ lại quá bối rối vì giữa thầy bình và phật thật sự con cũng không biết nhận xét thế nào vì nói cho cùng con chỉ là 1 phàm phu, thật là đau khổ và bối rối quá , kính mong các quý thầy cô, các đạo chúng thân yêu ai có tri kiến sáng suốt , dùng lời ái ngữ dạy dỗ cho con, chỉ bảo cho con, và các đạo chúng sơ cơ về điều này không ?

Nếu như trong PHẠM VI DIỄN ĐÀN NÀY chúng con chấp nhận theo quan điểm thầy bình thì theo quý thầy cô mình có làm sai lời phật dạy không (NẾU PHẬT SAI LẦM CON KÍNH MONG THẦY BÌNH DẠY RÕ CHỔ NÀO PHẬT SAI ĐỂ CHÚNG CON RÚT KINH NGHIỆM , NẾU NHƯ CÓ) ? Nếu lời phật dạy đúng thì trong phạm vi diễn đàn này chúng con có được dùng quan điểm niết bàn không phải là tánh không không ?

Dạ kính mong quý thầy cô , các đạo chúng thân mến, với lòng tư bi bác ái công tâm bình đẳng ái ngữ , hãy dang tay, ôm ấp, thương yêu danh sách bé bỏng của con và các đạo chúng khác , hãy chỉ dạy uốn nắn, chúng con tri kiến sớm ngày giải thoát, dạ con vô cùng hân hoan, hoan hỉ đảnh lễ tất cả mọi người ạ :)



*******************************


Dạ thưa thầy bình và quý thầy cô, và các đh thân yêu con cám ơn thầy bình đã hướng dẫn cho con ạ , con xin đảnh lễ thầy ạ :)

1./Dạ thầy dạy niết bàn = trạng thái tâm = tánh không

2./Phật dạy niết bàn = trạng thái tâm = tâm bất động ( nó bất động chứ không phải là không )

Đó là điểm mấu chốt con cực kỳ bối rối thầy ạ, nếu chấp nhận tánh không = niết bàn thì khác gì đạo lão ???

Và vì sao phật dạy rõ ràng là tâm bất động = niết bàn mà giờ này với sự giác ngộ của các tổ sau này lại phát hiện thêm niết bàn = tánh không ? thật là quá bối rối , thật là đau khổ cho chúng con :)

Ngay cả cái khái niệm bất động = không cũng là ý nghĩa rất khác xa nhau không thể nói như nhau được thưa thầy ? Con ví dụ :1 người ngồi đó bất động khác xa 1 người không có ngồi đó chứ thầy ?

Dạ thưa thầy bình chính vì con học không đâu vào đâu hết nên khi so kinh luật luận lại có nhiều chỗ rất khó hiểu ví dụ như chỗ con và thầy đang đàm đạo , dạ chính vì vậy vậy mà con quyết 1 lòng cầu đạo ạ , nhất định phải đạt tới niết bàn thầy ạ, không thể tới chỗ thiền tưởng hư không vô biên được ạ, con vô đây thưa hỏi là vì con biết cái hiểu con còn mập mờ chưa đúng nên con xin các thầy cô, các đh nào có tri kiến hơn con chỉ bảo uốn nắn cho con ạ, Dạ con xin đảnh lễ thầy bình và tất cả mọi người ạ :)

Dạ nếu thầy không còn hoa hỉ chỉ con nữa, thì con xin đảnh lễ thầy và xin thầy cho con biết các điều con hỏi mà thầy v/q đưa ra công đường đã được các thầy thống nhất chưa ạ, nếu có xin cho con lời hướng dẫn ạ, riêng topic này nếu thầy và con không cùng đứng trên 1 khái niệm để hiểu nhau thì con xin phép lập lại toic này đưa vô các mục thảo luận con học tiếp ạ :) Dạ con xin đảnh lễ thầy và tất cả đại chúng ạ :)

dạ kính thưa các quý thầy cô, các đh mến yêu thân thương , dạ con và thầy bình đã đàm đạo tìm hiểu về tánh không đến mức độ khá là sâu , nhưng tới khi so sánh kết luận thì con và thầy bình hiểu khác nhau, con hiểu giống phật thầy bình hiểu theo suy nghĩ của thầy bình. Dạ do đó thầy bình tạm ngưng chỉ dẫn cho con, dạ con vô cùng chân thành và đội ơn tấm lòng từ bi chân thành của thầy , dạ con cảm nhận được điều đó ạ. Nay con xin trích ra đoạn đàm luận để hầu cho các đạo chúng sơ cơ có dịp học giống con và các quý thầy cô, quý đh thân mến trí tuệ ,sáng suốt ai thấy, biết đuợc chỗ sai lầm trong cái hiểu của con ( con hiểu theo phật ạ) dạ xin cứ chỉ dạy cho con, chỗ nào nhận thức sai , chỗ nào là nhận thức lầm lạc ạ ( dạ phật dạy sao con chỉ hiểu y vậy),

dạ hiện tại ban điều hành chưa ra thông báo ngăn cấm con thảo luận hay lập topic hỏi về các vấn đề phật học , và cũng không ngăn cấm trích dẫn kinh điển trưởng lão bộ trong đàm luận ạ.Dạ đây là topic nghiên cứu triệt để , thấu đáo về tánh không, không hề đụng chạm đến luận nào cả ạ :), xin những ai có ác tâm, ác ngữ, ác kiến hãy từ bi thương xót con , 1 danh sắc bé bỏng đang ngụp lặn trong cõi ta bà đầy khổ đau này , dạ hãy để các thiện tri thức hướng dẫn, chỉ dạy con và các đạo chúng sơ cơ sớm ngày được giải thoát ạ . dạ con xin đảnh lễ thầy bình, và quý thầy cô và tất cả mọi người ạ :).
Dạ nếu các mod box này cũng khóa bài , khóa nick con thì xin các mod hãy thương xót con , cho con biết vì sao lại hành xử như thế :) chúng ta là phật tử với nhau, ăn cơm phải có canh , tu hành kiếm bạn mà hỏi , vì cớ sao liên tục khóa bài, liên tục dùng ác ngữ , hù dọa, làm tâm con đau xót vô cùng, nhưng các thầy ơi thân này 1 lòng đã quyết cầu đạo dù tan nick nơi đây con cũng sẽ hỏi tới cùng để sớm ngày giải thoát lên thẳng niết bàn các thầy ạ, con mà lên lộn nát bàn là chết con, uổng cả 1 kiếp người các thầy ơi.Mong các thầy với tư cách, phẩm hạnh, màu áo tu sĩ khoát trên người , hãy hành xử như 1 con người có học phật , có đạo đức, có ái ngữ, được giáo dục bởi các chư đại sư . Dạ con mong mọi người hãy thật sự hành động 1 cách từ bi , xin hãy thương xót cho con và các đạo chúng sơ cơ ngày đêm cầu đạo. dạ con cảm ơn các quý thầy cô, các đh thân yêu, chúc mọi người luôn an lạc ạ :)
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
KHÁI NIỆM KHÔNG
TRONG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

Thích Hạnh Bình



Thông thường khi đề cập đến khái niệm ‘không’ là chúng ta nghĩ đến hệ thống triết học ‘không’ (§ènyatˆ) của Long Thọ (NŒgŒrjuna), là hệ tư tưởng Bát Nhã (Pra-j��apˆramitˆ) của Phật giáo Đại thừa. Nếu đứng từ góc độ lịch sử Phật giáo mà nhìn, khái niệm ‘không’ này không phải là khái niệm riêng của Phật giáo Đại thừa, nó còn là khái niệm đã được đức Phật đề cập khá sớm trong các kinh tạng Nikˆya hay A hàm (îgama) của thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, không những chỉ có thế mà ngay cả thời kỳ Phật giáo Bộ phái cũng đề cập, cho đến thời kỳ Phật giáo truyền đến Trung Quốc cũng đề cập khái niệm này. Tuy nhiên, mỗi thời kỳ lịch sử khái niệm không này cũng mang ý nghĩa khác nhau. Sự khác nhau đó nói lên quá trình diễn biến và phát triển của Phật giáo, nhưng điều đó không đồng nghĩa chúng mâu thuẫn lẫn nhau, phải nói rằng khái niệm ´không´ trong Phật giáo có chung nguồn gốc, được xây dựng trên cơ sở của đạo lý Duyên khởi (S. prat´tya-samutpŒda, P. paÊcca-samuppˆda), tùy theo mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, cách lý giải về khái niệm´ không ´cũng khác nhau, nhấn mạnh mặt này hay mặt khác.

Nội dung chính của bài viết này, tác giả không nhằm mục đích phân tích so sánh các khái niệm´ không´ của từng giai đoạn lịch sử Phật giáo, vì nó đã được khái quát trình bày trong các đề mục khác, ở đây chỉ phân tích về ý nghĩa chữ ‘không’ trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy.

Nếu khái niệm ‘không’ (§ùngyatˆ) của thời kỳ Phật giáo Đại thừa Bồ tát Long Thọ dựa vào lý thuyết duyên sinh (prat´tya-samutpŒda), đi đến kết luận bản chất của các pháp vốn không tự tánh (svabhŒva), nhưng khái niệm ‘không’ thật này không đồng nghĩa là không có; chúng có nhưng không thật có, cho nên gọi là giả có (giả danh), như vậy, chúng đồng nghĩa là không; không chấp không, cũng không cực đoan chấp có, cho nên gọi là ‘trung đạo’ (madhyamŒ-pratipad). Đây là khái niệm không của Phật giáo Đại thừa. Thế thì khái niệm ´ không´ của thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy được mô tả một cách đơn giản, không mang tính triết lý,´ không´chỉ là trạng thái tâm tư của vị xuất gia không còn những phiền não về đời sống gia đình, như không có cái khổ về vợ con, trâu bò, ruộng vườn.v.v…cho nên gọi là không, hoặc bản chất của các pháp vốn là vô thường, sự sinh diệt của chúng quá mau chóng, cho nên gọi là không.

Nhằm làm sáng tỏ những ý nghĩa´ không´ này của thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, cho nên người viết chủ yếu dựa vào hai nguồn tư liệu A hàm hoặc Nikˆya để phân tích ý nghĩa này.

1. Không chỉ cho trạng thái tâm của người xuất gia không còn phiền lụy về cuộc sống gia đình

Theo Phật giáo Nguyên thủy, mục đích chính của việc từ bỏ cuộc sống gia đình, xuất gia học đạo là tìm cầu giác ngộ và giải thoát, không giống như Phật giáo Đại thừa lấy việc hoằng pháp lợi sinh làm chính. Từ nhu cầu thực tế này, hệ thống giáo dục của đức Thế Tôn cũng dựa trên cơ sở này thiết lập, đây chính là lý do tạo sao Phật giáo Nguyên thủy lấy 37 phẩm trợ đạo làm pháp môn tu tập cho người xuất gia. Ngược lại, Phật giáo Đại thừa lại đề cao tinh thần tu tập Bồ tát hạnh, lấy Tứ nhiếp pháp, Tứ vô lượng tâm, Sáu ba la mật làm phương tiện tu tập.

Xuất gia vì mục đích tìm cầu sự giải thóat, điều đó mang ý nghĩa xác định đang có đau khổ phiền não, muốn thoát khỏi sự phiền não đó, cho nên mới quyết tâm xuất gia. Như vậy, xuất gia với mục đích tìm sự giải thoát cho mình là chính, không phải vì sự giải thoát cho người khác là chính. Tại sao phải sống đời sống xuất gia mới có giải thoát, trong đời sống tại gia không có giải thoát sao ? Thật ra, trạng thái giải thoát trong Phật giáo không giới hạn ở hình tướng xuất gia hay không xuất gia, nó tùy thuộc vào sự giác ngộ. Đặc tính giác ngộ và giải thoát có trong tất cả mọi người, nó cũng không phân biệt màu da chủng tộc, nhưng làm thế nào để cho sự giác ngộ đó thắp sáng trong cuộc sống của mọi người, trừ đức Phật là người vô sư tự ngộ, còn chúng ta thì đòi hỏi phải có người thầy trực tiếp chỉ dạy, hay ít nhất cũng phải học tập gián tiếp từ phương tiện sách vở. Thế nhưng ở thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, cách giáo dục mang tính truyền thống thầy trực tiếp đem kinh nghiệm truyền trao cho trò, thân giáo và khẩu giáo là cách giáo dục duy nhất, chưa có kinh sách băng từ.v.v… Hơn nữa, vào thời bấy giớ đức Phật và đoàn thể Tăng già đều sống trong rừng núi, là những nơi xa vắng làng xóm thành thị. Trong điều kiện sống như vậy, thật khó cho người tại gia sống ở gia đình có cơ hội học tập Phật pháp. Nhân của giải thoát là giác ngộ, tức ngang qua sự học tập Phật pháp, thế nhưng vào thời bấy giờ người Phật tử không có cơ hội học Phật pháp (Phật pháp nan văn), không hiểu Phật pháp thì làm sao có sự giác ngộ, không có giác ngộ thì làm thế nào có giải thoát. Đây chính là lý do tại sao trong các kinh điển A hàm hay Nikˆya không thấy người tại gia chứng quả A la hán, đây cũng chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến đức Phật khuyên những ai muốn cầu đạo giác ngộ giải thoát, nên từ bỏ cuộc sống gia đình sống đời sống xuất gia. Ngoài lý do này, tất nhiên còn có ý nghĩa khác nữa. Ví dụ, sống ở gia đình là môi trường sống tự do, dễ dàng tiếp cận với các miếng mồi của ngũ dục, lại không có người đồng hành trợ giúp cảnh tỉnh khi gặp phải nghịch duyên, trong khi đó đời sống xuất gia có giới luật ràng buột, đồng thời sống với môi trường là những người phạm hạnh, cho nên nếu tâm của hành giả có ý buông lung cũng không dễ dàng, vì được những người đồng phạm hạnh cùng nhau cảnh tỉnh nhắc nhở. Có lẽ đây chính là ý nghĩa mà tục ngữ người Việt Nam có câu: Thứ nhứt tu gia, thứ nhì tu chợ và thứ ba tu chùa. Ý muốn nói, khó nhất là tu ở nhà, thứ hai là tu ở chợ, tu ở chùa là dễ nhất, vì nơi đây là môi trường sống chỉ dành cho những người xuất gia. Đây chính là sự khác biệt giữa hai đời sống xuất gia và tại gia của thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy hay nói đúng hơn là thời kỳ đức Phật còn tại thế, tất nhiên sau đó nhất là ở đời sống trong xã hội hôm nay, điều kiện sống và phương tiện hoằng pháp có khá nhiều điểm khác biệt, do vậy quan điểm tu tập chứng ngộ cũng theo đó diễn biến, vai trò cư sĩ cũng được đề cao. Vì dụ trong “Pháp Uẩn Túc Luận” (阿毗達磨法蘊足論 Abhidharma-dharma-skandha-pŒda)1 đề cập 4 hạng người xuất gia: 1. Thân xuất gia nhưng tâm không xuất gia, 2. Thân và tâm đều xuất gia, 3. Tâm xuất gia nhưng thân không xuất gia, 4. Tâm và thân đều không xuất gia. Trong 4 hạng người này đức Phật tán than hạng người thứ 2 và 3, không chấp nhận tán thán 2 hạng người còn lại, đáng trách nhất là hạng người thứ nhất. Trong 4 trường hợp này hạng người thứ thứ 3 là: Tâm xuất gia nhưng thân không xuất gia là hạng với hình tướng là người cư sĩ, không phải là người xuất gia. Từ điểm này cho thấy, Phật giáo đến giai đoạn này đã thay đổi về mặt nhận thức, về mặt hình tướng bên ngoài không còn xem trọng nữa. Đây là một ví dụ điển hình để chúng ta nhận thức vấn đề tư tưởng của con người có mối quan hệ từ đời sống xã hội. Điều đó cũng nói lên quan điểm rằng, chúng ta muốn tìm hiểu tại sao đức Phật đề cao vai trò người xuất gia và chỉ có người xuất gia mới có thể chứng quả A la hán (Arhant), nó có liên hệ đến đời sống của Tăng già lúc bấy giờ. Đây là điểm cần được chú ý và nghiên cứu.

Trở lại chủ đề chính mà chúng ta đang thảo luận. Liên quan đến quan điểm ‘không’ trong Phật giáo nguyên thủy, trước nhất chúng ta thấy ‘Kinh Tiểu Không’ trong “Kinh Trung Bộ” tập 3, được mô tả như sau:

“Một thời, bạch Thế Tôn, Thế Tôn trú giữa các Sakka (Thích-ca). Nagaraka là tên một thị trấn của các Sakka. Tại đấy, bạch Thế Tôn, con được nghe trước mặt Thế Tôn, con được ghi nhớ trước mặt (Thế Tôn) như sau: "Này Ananda, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều". Phải chăng, bạch Thế Tôn, điều con đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng?

Thật vậy, này Ananda, điều Ông đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng. Thuở xưa và nay, này Ananda, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều.

Ví như lâu đài Lộc Mẫu này không có voi, bò, ngựa, ngựa cái, không có vàng và bạc, không có đàn bà, đàn ông tụ hội, và chỉ có một cái không phải không, tức là sự nhất trí (ekattam) do duyên chúng Tỷ-kheo; cũng vậy, này Ananda, Tỷ-kheo không tác ý thôn tưởng, không tác ý nhơn tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí, do duyên lâm tưởng. Tâm của vị ấy được thích thú hân hoan, an trú, hướng đến lâm tưởng. Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên thôn tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên lâm tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có thôn tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có nhân tưởng". Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí (ekattam) do duyên lâm tưởng". Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Như vậy, này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh.”2

Qua nội dung đoạn kinh vừa dẫn, nói lên quan điểm ‘không’ trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy. Khái niệm ‘không’ này có nguồn gốc từ tiếng Pˆli là su––a có nghĩa là không, hay su––atˆ không tánh. Khái niệm này được mô tả với ý nghĩa là: không có voi, bò, ngựa, ngựa cái, không có vàng và bạc, không có đàn bà, đàn ông tụ hội.v.v… vì đây là môi trường sống của người xuất gia, là những người từ bỏ cuộc sống gia đình, chuyên tâm tu tập với mục đích duy nhất truy tìm sự giác ngộ và giải thoát, cho nên không có những loại này. Đời sống đó về mặt nhu cầu vật chất như y phục, ẩm thực, thuốc men, sàn tọa, để duy trì mạng sống đã có người tại gia cư sĩ hộ trì, cho nên người xuất gia không còn phải bận tâm, dành hết mọi thì giờ vào việc tu học Phật pháp. Từ điểm này chúng ta thử so sánh đời sống của một người xuất gia của thời nay như thế nào, từ bỏ gia đình xuất gia với mục đích tìm cầu giác ngộ giải thoát, nhưng sau khi xuất gia lại không muốn học Phật pháp, cho rằng càng học càng loạn tâm, càng cống cao ngã mạn. Thử hỏi thông hiểu Tam tạng, tường tận Phật pháp lại sinh loạn tâm sao ? Nói không đúng với tinh thần Phật pháp bị chỉnh sửa góp ý là công cao ngã mạn sao ? Xuất gia từ bỏ đời sống gia đình để giải thoát, nhưng chúng ta lại thành lập một gia đình to hơn lớn hơn, suốt ngày chỉ biết tự viện và Phật tử, không còn thời gian tu học cho chính bản thân mình. Thử hỏi lấy gì để hoằng dương Phật pháp ? Nếu như căn cứ vào những điều kiện xuất gia dưới thời đức Phật, chúng ta sẽ dễ dàng cảm nhận được cảm giác của một người cư sĩ khi từ bỏ đời sống gia đình để sống đời sống xuất gia vô gia đình.

 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Lội ngược dòng lịch sử Ấn Độ, cách đây hơn 2500 năm, vào thời đại đức Phật, chúng ta thử hình dung đời sống con người trong xã hội ấy như thế nào, nhất là tầng lớp của hai giai cấp Phệ xá và Thủ đà la là 2 giai cấp tạo của cải vật chất và làm nô lệ cho hai giai cấp trên (Bà la môn và Sát Đế lợi), nổi khổ đó nếu so với nổi khổ của giới người nghèo ở xã hội ngày nay ắt hẳn gấp bội phần, họ không chỉ khổ về sự thiết hụt cơm ăn áo mặt nhà ở vợ con…mà còn có một nổi khổ lớn hơn nữa, đó là nổi khổ của chế độ phân chia giai cấp, làm thân phận người nô lệ. Những người này bổn phận và trách nhiệm của họ không chỉ có kiếm vật thực cho riêng mình, còn phải nuôi dưỡng vợ con và ngay cả giai cấp thống trị, không những chỉ có thế mà còn phải chịu hành hạ chưởi mắng của giai cấp trên. Quả thật, nổi khổ này chồng lên nổi khổ khác, cho nên đức Phật gọi là ‘khổ khổ’, cái khổ đó là phản ánh một thực trạng xã hội đương thời. Nói chung, nổi khổ của con người bao gồm hai loại loại khổ về tự nhiên và nổi khổ về tinh thần được tôn giả Xá lợi Phất (ŚŒriputra) diễn đạt bằng 8 loại khổ3 hoặc 3 khổ: Khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.

Thử nghĩ, con người đứng trước nổi khổ như vậy, nếu ai đó giúp người ấy thoát khỏi những nổi khổ này thì niềm vui sướng của họ như thế nào, khó có thể diễn tả cho trọn niềm vui đó ! Đời sống xuất gia không những chỉ giải quyết vấn đề cơm áo, sự phiền lụy của đời sống gia đình mà còn giúp cho con người thoát khỏi cảnh phân biệt giai cấp, sống đời sống trong Tăng già là xã hội bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không có sự kỳ thị, biết thương yêu nhau và giúp đỡ lẫn nhau. Đây chính là trạng thái giải thoát đầu tiên của người xuất gia khi từ bỏ đời sống gia đình. Cũng kể từ đây, người ấy sẽ không còn những âu lo phiền lụy về vợ con, ruộng vườn, bò trâu, nhà cửa, thôn xóm… mà trước đây vị ấy phải âu lo từng ngày từng giờ. Trạng thái tâm tư không còn ưu tư phiền lụy này được gợi là ‘không’ (su––atˆ). Khái niệm´ không ´này là không còn âu lo phiền lụy về cuộc sống của gia đình, nó không mang ý nghĩa triết lý sâu xa, như được Long Thọ phân tích trong “Trung Luận”. Đây chính là khái niệm ‘không’ của thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy. Quan điểm này cũng phù hợp với tinh thần ´không´ bàn về những triêt học siêu hình của ‘Kinh Tiễn Dụ’ trong “Kinh Trung A hàm” hay ‘Tiểu Kinh Malunkya’ trong “Kinh Trung Bộ”.
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
2. Không chỉ cho các pháp vốn là sự giả hợp

Ngoài khái niệm ‘không’ vừa đề cập ở trên, trong các kinh điển A hàm hay Nikaya có nhiều kinh với nội dung mô tả khái niệm ´không´ mang ý nghĩa chỉ cho các pháp vốn là vô thường là sự giả hợp, giống như những bọt nước trôi trên dòng sông. Như trong “Kinh Tương Ưng” (Sa×yuttanikŒya) đức Phật dạy các Tỷ kheo như sau:

“Ví như, này các Tỷ-kheo, sông Hằng này chảy mang theo đống bọt nước lớn. Người có mắt nhìn đống bọt nước ấy, chuyên chú, như lý quán sát. Do nhìn chuyên chú, như lý quán sát nó, đống bọt nước ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong đống bọt nước được? Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; vị Tỷ-kheo thấy sắc, chuyên chú, như lý quán sát sắc. Do vị Tỷ-kheo nhìn chuyên chú, như lý quán sát sắc, sắc ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong sắc được?…Ví như, này các Tỷ-kheo, trong tháng cuối mùa hạ, vào đúng giữa trưa đứng bóng, một ráng mặt trời rung động hiện lên. Một người có mắt nhìn chuyên chú, như lý quán sát nó. Do người ấy nhìn chuyên chú, như lý quán sát, nên ráng mặt trời ấy hiện rõ ra là trống không, rỗng không, không có lõi cứng... Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong ráng mặt trời được?”4

Nội dung và ý nghĩa của đoạn kinh vừa dẫn, đức Phật đã mượn hình ảnh những bọt nước trôi trên dòng sông Hằng để mô tả về sự tồn tại các pháp trong thế gian cũng chẳng khác nào như thế, thật ngắn ngũi mong manh. Nếu như sự tồn tại và hình thành của những bọt nước trôi trên sông là ảo ảnh không bền chắc, sự tồn tại của chúng chỉ trong phút giây, có rồi không, sinh rồi lại diệt, vô thường mau chóng thì con người và mọi vật trên thế gian này cũng chẳng khác nào như thế, nếu chúng ta so với thời gian vô cùng, phải chăng mạng sống con người chẳng khác nào như con phù du trước ngọn đèn, sống và chết chỉ trong cái nháy mắt. Đây chính là ý nghĩa đức Phật mượn những bọt nước sông Hằng để ví dụ cho thọ mạng của con người và vạn vật, nếu như tướng trạng của bọt nước có rồi không thì con mạng sống con người cũng chẳng khác mấy, nếu có khác đi chăng nữa.

Những giọt nước mắt còn đọng ước đôi mi, những nổi buồn đau vì thương yêu mà phải chia lìa từ biệt, những âu lo buồn khổ vì sự nghiệp….phải chăng chúng đều bắt nguồn từ sự vô thường và kết quả là sự trống không ấy ? Người thân thương của mình mới ngày hôm qua nói cười đó, thế mà hôm nay đã trở thành người thiên cổ, chia cách nghìn trùng ! cảm giác thật cô liêu và trống không !

Hiện tượng vô thường và cảm giác trống không đó, không phải chỉ có ở thế gian mà không có ở những người xuất gia tu tập. Thật ra, qui luật vô thường đó không loại trừ bất cứ ai, ai còn là thân Ngũ uấn (pa–ca-skandha), người ấy phải chịu qui luật vô thường biến hoại, khi sống bên nhau, thì khi thân Ngũ uẩn trả về cát bụi trên mặt tình cảm vẫn có cảm giác trống không trước sự ly biệt, dù đó là người giác ngộ. Quan điểm này, chúng ta thấy trong “Kinh Tạp A hàm” kinh số 639 ghi lại tình cảm của Thế Tôn đối với Xá lợi Phất và Mục Kiền Liên như sau:

“Ta nhìn đại chúng, thấy đã trống không, vì Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đã vào Niết-bàn”5

Đây là lời nói của đức Phật, trong lúc làm lễ Bố tát (po•adha) khi Ngài nhìn xuống đại chúng không thấy tôn giả Xá lợi Phật và Mục Kiền Liên (MahŒmaudgalyŒyana) là hai trong 10 đại đệ tử của Ngài. Cảm giác trống không biểu thị tình cảm của Thế Tôn đối với Xá lợi Phật và Mục Kiền Liên thật thâm sâu. Cảm giác đó là cảm giác tự nhiên thuộc trái tim của con người, là cơ sở để phát triển lòng từ bi, Thế Tôn tuy đã chứng quả A la hán, nhưng không phải trái tim không còn rung động, trơ lì như đất đá, trái tim của Ngài cũng có rung động trước sự ra đi của đệ tử và chúng sinh, nhưng không vì vậy mà có thái độ tiếc nuối, cố chấp mà sinh khổ đau.

Qua sự kiện đó cũng gợi ý cho chúng ta thấy rằng, mặc dù Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên là hai vị đã chứng quả A la hán nhưng hai Ngài cũng bị luật vô thường, thân Ngũ uẩn cũng bị tan rã. Nếu có còn gì đi chăng nữa, chỉ còn pháp thân, tức trí tuệ và đức hạnh của các Ngài. Các Ngài là những người đã giác ngộ giải thoát còn phải chịu qui luật này huống gì là chúng ta, cho nên chúng ta phải từ bỏ thái độ cố chấp luyến tiếc khi nó đã vô thường. Đây chính là lý do tại sao đức Phật mượn bọt nước nói về nghĩa trống không, mượn nó để cảnh tỉnh và khuyên chúng ta xuất gia tu tập. Xuất gia tu tập không phải là người thoát khỏi qui luật vô thường, sinh lão bịnh tử mà xuất gia tu tập để thấu rõ qui luật vô thường trống không, để tránh khỏi nổi khổ về sinh lão bịnh tử, vì sự cố chấp của con người, có nghĩa là khi con người già bịnh… mà không chấp nhận sự già bịnh của mình cho nên sinh ra khổ.

Đây chính là lý do tại sao đức Phật mượn tướng trạng vô thường trống không của những bọt nước trôi dạt trên sông Hằng để nói lên bản chất của các pháp cũng như thế, tất cả đều bị vô thường rồi cũng sẽ trống không như bọt nước. Bản chất của các pháp là như vậy, nếu con người không thấy rõ không chấp nhận chúng, ngược lại sinh ra thái độ cố chấp , ắt hẳn phát sinh đau khổ. Đây là khái niệm ´không´ được trình bày trong kinh này.

Ở đây, chúng ta cần chú ý, nội dung và ý nghĩa đoạn kinh vừa dẫn, đức Phật lấy hình tượng bọt nước để mô tả về tính mong manh ngắn ngủi của vạn vật, nó là cơ sở để hình thành và phát triển thành tư tưởng không của Phật giáo đại thừa. Cụ thể là “Kinh Kim Cang” có bài kệ nói về các pháp như bọt nước:

一切有為法,

如夢幻泡影,

如露亦如電,  

應作如是觀.6

Nhứt thiết hữu vi pháp,

Như mộng huyễn bào ảnh,

Như lộ diệc như điển.

Ưng tác như thị quán.

Thật ra nội dung và ý nghĩa bài kệ này là kế thừa và phát triển từ bài kinh vừa dẫn ở trên. Từ điểm này cho thấy, tư tưởng Phật giáo Đại thừa có nguồn gốc từ các kinh điển A hàm và Nikˆya. Đây là điểm chúng ta cần chú ý và nghiên cứu.
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
3. ‘Đệ nhất nghĩa không’ là cơ sở để phát triển thành tư tưởng ‘Không’ của Phật giáo Đại thừa

Ngoài 2 ý nghĩa không vừa đề cập ở phần 1 và 2, trong kinh A hàm còn có khái niệm ´không´ được định nghĩa là ‘Đệ nhất nghĩa không’, cách lý giải của khái niệm này có liên hệ mật thiết đến cách lý luận của Phật giáo Đại thừa về sau. Do vậy, nơi đây chúng ta cũng phân tích và tìm hiểu. Khái niệm không này được “Kinh Tạp A hàm” Kinh số 335 ghi như sau:

“Thế nào là kinh Đệ nhất nghĩa không ? Này các Tỳ-kheo, khi mắt sanh thì nó không có chỗ đến; lúc diệt thì nó không có chỗ đi. Như vậy mắt chẳng thật sanh, sanh rồi diệt mất; có nghiệp báo mà không tác giả. Ấm này diệt rồi, ấm khác tương tục, trừ pháp tục số. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng nói như vậy, trừ pháp tục số.

Pháp tục số, tức là nói, cái này có thì cái kia có, cái này khởi thì cái kia khởi, như vô minh duyên hành, hành duyên thức, nói chi tiết đầy đủ cho đến thuần một khối khổ lớn tập khởi. Lại nữa, cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia diệt, vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt. Như vậy, nói rộng cho đến thuần một khối khổ lớn tụ diệt. Này các Tỳ-kheo, đó gọi là kinh Đệ nhất nghĩa không.”7

Đệ nhất nghĩa không được kinh này giải thích: “Mắt sanh thì nó không có chỗ đến; lúc diệt thì nó không có chỗ đi. Như vậy mắt chẳng thật sanh, sanh rồi diệt mất; có nghiệp báo mà không tác giả. Ấm này diệt rồi, ấm khác tương tục…”. Khái niệm ‘mắt’ (P.cakkkhu) được đem ra phân tích ở đây chính là Nhãn xứ trong 12 xứ (S. dvŒda§a-Œyatana), bao gồm 6 nội xứ: 1. Nhãn (cak•u), 2. Nhĩ (§rotra), 3. Tỷ (ghrŒöa), 4. Thiệt (jihvŒ), 5. Thân (kŒya), 6. Ý (manas) và 6 ngoại xứ : 1. Sắc (rèpa), 2. Thinh (§abda), 3. Hương (gandha), 4. Vị (rasa), 5. Xúc (spar§a), 6. Pháp (dhamma). Trong hệ thống triết lý nhà Phật 12 xứ mang ý nghĩa nói lên sự quan hệ giữa con người và thế giới, hay nói một cách dễ hiểu hơn, là cách nhận thức của con người đối với thế giới khách quan, ngang qua 6 cơ quan khác nhau để nhận thức 6 cảnh giới khác nhau về thế giới, như mắt chỉ có thể nhận thức được hình tướng màu sắc, nhưng mắt không thể nghe được âm thinh, các cơ quan khác cũng thế. 12 xứ này còn mang ý nghĩa bao hàm tất cả pháp trên thế gian, không một pháp nào ngoài nó, do vậy chúng là tất cả pháp. Như vậy thảo luận 12 xứ này cũng có nghĩa là thảo luận tất cả pháp. Do vậy, trong trong kinh này lấy Nhãn là xứ đầu tiên trong 12 xứ để thảo luận, cũng hàm ý thảo luận đến 12 xứ.

Ở đây, đức Phật giải thích ‘Đệ nhất nghĩa không’ là ‘Mắt sanh thì nó không có chỗ đến; lúc diệt thì nó không có chỗ đi’(眼生時無有來處,滅時無有去處,如是眼不實而生). Trong câu này có 4 khái niệm, chúng ta cần chú ý : sinh (生) diệt (滅) đến (來) và đi (去) là 4 trong 8 khái niệm (bát bất) mà Long Thọ phủ định trong bài đệ tổng luận của mình. Như trong “Trung Luận” ghi rằng :

不生亦不滅  不常亦不斷

不一亦不異  不來亦不出8

Không sanh cũng chẳng diệt,

Chẳng thường cũng chẳng đoạn,

Chẳng một cũng phải khác,

Chẳng đến cũng chẳng đi.

Bài kệ này là tóm tắt lập trường và quan điểm của Long Thọ, đề ra chủ trương ‘Bát bất’ (八不), bao gồm : 1. bất sinh, 2. bất diệt, 3. bất thường, 4. bất đoạn, 5. bất nhứt, 6. bất dị, 7. bất lai, 8. bất khứ. Trong bát bất này, 4 bất (sinh diệt đến đi) được thấy chúng trong đoạn kinh vừa dẫn. Từ điểm này, chúng ta có thể nói tư tưởng của Phật giáo Đại thừa cũng đều xuất phát từ kinh điển A hàm hay Nikˆya. Tất nhiên mỗi thời kỳ Phật giáo cách lý giải khác nhau, hoặc cũng cố thêm phần lý luận. Đây là điểm mà chúng ta cần chú ý và tiến hành nghiên cứu.

Trở lại vấn đề. Câu ‘Mắt sanh thì nó không có chỗ đến; lúc diệt thì nó không có chỗ đi’ mang ý nghĩa đức Phật muốn phân tích vấn đề : bản chất hiện tượng của các pháp. Nếu chúng ta đứng từ mặt hiện tượng của các pháp mà nhìn, sự xuất hiện của một pháp nào đó ta gọi cho rằng pháp ấy sinh, pháp ấy tan rã, hình tướng ấy không còn, ta gọi nó là diệt. Khái niệm sinh và diệt này, là sự cắt xén thời gian để nói rằng pháp này sinh pháp kia diệt, có nghĩa là khái niệm sinh diệt này dựa vào thời gian và không gian mà nói, nếu như chúng ta tách khái niệm thời gian và không gian khỏi sự vật, hay nới rộng thời gian vô cùng vô tận thì khái niệm sinh và diệt này không còn nữa. Ví dụ câu chuyện trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng, nếu chúng ta tách khái niệm thời gian và không gian ra khỏi gà hay trứng, thì gà sinh ra trứng hay trứng sinh ra gà không có câu trả lời. Cũng vậy, khái niệm đêm và ngày cái nào có trước và sau cũng không thể trả lời được, nếu chúng ta không lấy móc thời gian để hiểu vấn đề.

Nếu đứng từ góc độ thời gian vô cùng vô tận đó để hiểu về các pháp, thì sự xuất hiện của các pháp cũng không phải là sinh, sự biến mất hiện tượng của pháp nào cũng không thể là diệt, vì các pháp xưa và nay vẫn tồn tại như thế. Các pháp đã không sinh không diệt thì khái niệm đến và đi cũng không có, nếu như khái niệm không gian mở rộng đến vô cùng vô tận, như con kiến bò lanh quanh trên bàn, với con mắt chúng ta không có khái niệm đến và đi.

Đứng từ nguyên tắc nào mà cho rằng các pháp không sinh không diệt không đến không đi ? chính là đạo lý Duyên khởi (S. prat´tya-samutpŒda, P. paÊcca-samuppˆda), tức cái này có cho nên cái kia có, cái này diệt cho nên cái kia diệt. Tướng trạng sinh diệt diệt sinh đó là thường pháp là qui luật của thế gian, tất cả các pháp trong thế gian phải y vào đạo lý này mà tồn tại sinh diệt. Trước hiện tượng sinh diệt diệt sinh, mất còn còn mất đó, với kẻ phàm phu cảm thấy âu lo buồn phiền, nhưng với người giác ngộ đã thấy rõ qui luật duyên khởi này, cho nên không vì hiện tượng sinh diệt đó mà lo buồn.

Nếu như đời người sống một trăm năm. Lúc con người sinh ra thì chúng ta gọi là sinh, trải qua trăm năm chấm dứt cuộc sống gọi là tử. Cảm nhận thông thường của con người, sinh thì vui mất thì buồn. Hiện tượng sinh và tử đó trên mặt hình thức kéo dài 100 năm, nhưng phân tích cho cùng trong khoảng thời gian 100 năm đó, có biết bao lần sinh diệt (tử) diệt sinh, có thể nói sự sinh diệt của chúng từng sát na. Sự sinh diệt đó chính là quá trình sinh trưởng của con người, nếu không có sinh diệt thì làm sao con người trưởng thành. Ngay cả mặt nhận thức cũng thế, nếu không có sự sinh diệt diệt sinh của khái niệm thì mặt nhận thức của con người không có sự thay đổi, và sẽ trơ lì như đất đá, chính vì sự sinh diệt diệt sinh này mà con người trưởng thành và khôn lớn, cũng chính nhờ sự sinh diệt biến đổi này mà mới khuyên con người tu tập bỏ việc ác làm việc lành. Trong chuổi dài sinh diệt diệt sinh của các pháp đó, thử hỏi chúng ta căn cứ từ điểm nào để nói pháp này sinh pháp kia diệt ? Chính tướng trạng sinh diệt diệt sinh không ngừng này, đức Phật gọi nó là ‘không’ hay ‘không tướng’. Thấu triệt được đạo lý Duyên sinh này được gọi là ‘Đệ nhất nghĩa không’. Tôi cho rằng, khái niệm ‘Đệ nhất nghĩa không’ này là cơ sở lý luận cho hệ thống triết học tánh không của Phật giáo Đại thừa, cũng là tư tưởng tiền thân của Phật giáo Đại thừa.

4. Kết luận

Không (S. §ènyata, P. Su––atˆ) là một khái niệm quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Phật giáo. Tuy nhiên khái niệm ‘không’ này trải qua mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, cho nên nó cũng mang ý nghĩa khác nhau. Sự khác nhau đó được biểu thị qua cách giải thích khác nhau, nhưng nguyên tắc chung khái niệm này được xây dựng vào đạo lý của pháp duyên khởi (S. prat´tya-samutpŒda, P. paÊcca-samuppˆda). Sự khác nhau của nó có thể là nhấn mạnh góc độ tâm không hay pháp không, hoặc cách lý giải vấn đề, tựu trung đều gọi là không.

Ngang qua các bản kinh A hàm và Nikˆya để tìm hiểu khái niệm ´không´ của thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy. Khái niệm ´không´ được mô tả dưới 3 ý nghĩa. Thứ nhất, khái niệm ´không´ được mô tả như là sự chấm dứt phiền não của tâm, như người tại gia khi từ bỏ đời sống gia đình, sống đời sống xuất gia, không còn các phiền lụy về gia đình. Thứ hai, khái niệm ´không´ được mô tả như những bọt nước, sự tồn tại của chúng thật mong manh, còn và mất chỉ trong sát na. Sự mong manh này được gọi là không. Có thể nói, đây chính là khái niệm ´không´ của thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy.

Ngoài hai khái niệm không này, còn có khái niệm ‘không’ mang nặng tính phân tích triết lý, cách phân tích lý luận ‘không’ này có liên hệ phong cách lý luận của Phật giáo Đại thừa. Khái niệm không này được xây dựng trên đạo lý Duyên khởi : Cái này có cho nên cái kia có, cái này diệt cho nên cái kia diệt. Sự sinh diệt đó không chỉ là thời kỳ sinh diệt mà sát na sinh diệt. Trước sự kiện sát na sinh diệt diệt sinh, thì các pháp không có tướng nhất định, như vậy đồng nghĩa là không. Đây là ý nghĩa thứ 3 trong thời kỳ Phật giáo nguyên thủy. Tôi cho rằng, cách lý giải về khái niệm ´không´ này là cơ sở để hình thành tư tưởng ‘không’ trong hệ thống triết học của Long Thọ.


Taipei ngày 03 tháng 12 năm 2007

_________________________

KINH SÁCH THAM KHẢO

- Thích Đức Thắng dịch, “Kinh Tạp A hàm” Hội Văn hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản, 2000 (“Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh” tập 5).

- Thích Tuệ Sỹ dịch, “Kinh Trung A hàm” Hội Văn hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản, 2000 (“Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh” tập 2).

- HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng” tập 3, Viện NCPHVN ấn hành 1993.

- HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 3, Viện NCPHVN ấn hành 2001.

- HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 1992.

-《阿毘達磨法蘊足論》卷6〈靜慮品〉(CBETA, T26, no. 1537).

- 《中論》卷1〈觀因緣品〉(CBETA, T30, no. 1564).

.

1 《阿毘達磨法蘊足論》卷6〈11 靜慮品〉:(CBETA, T26, no. 1537, p. 482, c10-25).

2 HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 3, Viện NCPHVN ấn hành 2001, trang 291~293.

3 HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 1, ‘Kinh Phân Biệt Thánh Đế’, Viện NCPHVN ấn hành 1992, trang 291~293. Tương đương “Kinh Trung A hàm” số 141 ‘Kinh Phật Biệt về Sự Thật’.

4 HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng” tập 3, Viện NCPHVN ấn hành 1993, trang 252~253.

5 Thích Đức Thắng dịch, “Kinh Tạp A hàm” kinh số 639, Hội Văn hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản, 2000 (“Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh” tập 6, trang 335.).

6 《金剛般若波羅蜜經》卷1:(CBETA, T08, no. 235, p. 752, b28-29).

7 Thích Đức Thắng dịch, “Kinh Tạp A hàm” kinh số 335, Hội Văn hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản, 2000 (“Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh” tập 5, trang 995~996.).

8 《中論》卷1〈1 觀因緣品〉(CBETA, T30, no. 1564, p. 1, b14-15).
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
<center> Nghĩa chữ "Không" theo Đạo Phật Nguyên Thủy

</center> <center> HT Thích Minh Châu

</center> <center>oOo</center> Thường thường Đạo Phật được xem là đạo Sắc Sắc Không Không, nhất là đối với Việt Nam ta, chữ Sắc-Không trở thành chữ đầu môi chót lưỡi để diễn tả đạo Phật. Không những vậy các câu ca dao tục ngữ, các bài thơ của các vị thiền sư, các văn nhân thi sĩ cũng dùng danh từ "sắc sắc không không" để nói đến Đạo Phật. Do vậy để tránh những hiểu lầm về định nghĩa Đạo Phật, để hiểu rõ hơn danh từ Không -- tức là Sunnata -- được Đức Phật giải thích và quan niệm như thế nào chúng tôi xin trình bày sau đây "Nghĩa Chữ Không Theo Đạo Phật Nguyên Thủy", dựa trên hai Kinh Pàli Cùlasunnatasuttam (Tiểu Không kinh, Trung bộ 3, số 121, trang 252) và Kinh Mahàsunnatasuttam (Đại Không kinh, Trung bộ III, số 122, trang 260), được hai kinh chữ Hán tương đương -- Tiểu Không Kinh, Trung A Hàm, số 190, Đại I, 736c; và Đại Không Kinh, Trung A Hàm, số 191, Đại I, 738a -- xác chứng. Trong kinh Tiểu Không (Pàli), Đức Phật xác nhận nhờ an trú "Không" nên đã an trú rất nhiều, và ngài giảng kinh này để khích lệ vị Tỷ kheo nên hành trì "không tánh" một cách chơn thực không điên đảo.
Vị tỷ kheo tại trú xứ nào, những gì tại trú xứ ấy không có, thời phải quán là không có. Nhưng những gì tại trú xứ ấy thực có, thời phải quán là thực có.
Tại thiền chứng nào chứng được, những gì thiền chứng ấy không có, thời phải quán là không có, nhưng những gì Thiền chứng ấy có, thời phải quán là thực có.
Như vị Tỷ kheo đến trụ tại một tịnh xá ở làng tại đấy "không có voi, bò, ngựa, ngựa cái, không có vàng và bạc, không có đàn ông đàn bà tụ hội", thời phải quán những sự vật ấy là không. Nhưng có cái không phải không, là sự hiện diện của chúng Tăng ở trong tịnh xá, thời phải quán chúng Tăng là có, nói cho rõ hơn, thôn tưởng không có nhưng nhơn tưởng thì có.
Nay vị ấy từ bỏ tịnh xá trong làng, vào ngôi rừng tu hành một mình. Tại ngôi rừng không có làng, không có Tỷ kheo chúng, nên vị Tỷ kheo không tác ý thôn tưởng, không tác ý nhơn tưởng, nhưng vị đó ở trong rừng, rừng là thực có, nếu tác ý lâm tưởng, vị ấy tuệ trí, các ưu phiền do duyên thôn tưởng, do duyên nhơn tưởng không có hiện hữu, nhưng các ưu phiền do duyên lâm tưởng thật sự có mặt ở đây. Cái gì không có mặt, vị ấy xem là không có mặt. Cái gì có mặt, vị ấy xem như vậy là thật có. Hành trì như vậy được gọi là hành trì "không tánh".
Vượt qua các thiền chứng về Vô sắc giới, vị ấy không tác ý Vô sở hữu xứ tưởng, không có tác ý Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chỉ tác ý sự nhất trí do vô tướng tâm định. Nghĩa là vị này chứng được tâm định nhờ dùng một đối tượng không có tướng nên gọi là "vô tướng tâm định".
Vị Tỷ kheo quán vô tướng tâm định này thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên chịu như vậy là vô thường, chịu sự đoạn diệt. Do quán như vậy, vị ấy được giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Như vậy vị ấy tuệ tri: "Các ưu phiền do duyên dục lậu ... do duyên hữu lậu ... do duyên minh lậu không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này tức là sáu nhập (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) duyên mạng, duyên với thân này".
Nói một cách khác, khi vị Tỷ kheo chứng quả giải thoát, vị ấy tuệ tri các dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu không có mặt, đã được đoạn tận. Nhưng vị ấy vẫn còn cái thân, sáu nhập duyên với mạng sống. Do vậy, đối với vị ấy, "chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này. Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại ở đây, vị ấy biết cái kia có, cái này có. Cái này đối với vị ấy là như vậy, là thật có, không điên đảo, sự thực hiện là "không tánh" hoàn toàn thanh tịnh".
Như vậy với đoạn kinh trên, đối với vị Tỷ kheo tu hành, tùy theo trú xứ, hoặc ở làng, hoặc ở rừng, hoặc tu đông người, hoặc tu một mình, những gì tại trú xứ ấy không có, vị Tỷ kheo quán là không. Còn những gì tại trú xứ ấy có, thời quán là thực có. Còn tại thiền chứng nào, như khi chứng quả Niết Bàn giải thoát, thời vị ấy tuệ tri được các lậu hoặc là không có, vì đã được đoạn trừ, nhưng vì còn cái thân hữu dư y, cái thân sáu nhập duyên mạng, thời thân ấy vẫn thật có. Thân đã có, thời có những ưu phiền do thân ấy gây nên, nên đã có thân, thời có già, có bệnh, có chết. Nhưng vì vị này đã giải thoát, nên không có sầu bi khổ ưu não, dầu thân có bệnh, có già, có chết.
Như vậy kinh này định nghĩa chữ Không, tùy thuộc trú xứ, tùy thuộc Thiền chứng, những gì thật không có thời quán là không có. Còn những gì thực sự là có, thời quán thật sự là có.


Kinh Đại Không đề cập đến nghĩa chữ Không một cách rộng rãi hơn. Đức Phật xác nhận một Tỷ Kheo thích thú hân hoan trong hội chúng của mình, trong hội chúng của người, thích thú hội họp, thời vị ấy không chói sáng trong Pháp và luật này, không có chứng đắc tùy theo ý muốn viễn ly lạc, độc cư lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc, không có chứng đắc bốn thiền sắc giới và bốn thiền vô sắc giới, không có chứng đắc bốn đạo, bốn quả. Rồi Đức Phật kể lại kinh nghiệm bản thân của mình, nhờ an trú "nội không", nên dầu phải tiếp xúc với Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, quốc vương, đại thần ngoại đạo, đệ tử ngoại đạo, tâm ngài hướng về viễn ly, độc cư, ly dục, đoạn tận các Pháp khiến cho các lậu hoặc khởi lên, chỉ dùng những lời khích lệ thuần túy, đối với mọi người Ngài tiếp xúc. Như vậy, Đức Phật an trú nội không, không bị thế sự uể nhiễm.
Rồi Đức Phật khuyên các Tỷ kheo nên an trú "nội không", "ngoại không" và "bất động", và trước khi an trú như vậy cần phải an tịnh nội tâm, tức là tu chứng sơ thiền cho đến thiền thứ tư.

Sau khi chứng bốn thiền, vị Tỷ kheo tu tập an trú nội không, ngoại không, nội ngoại không, an trú bất động. Nếu khi an trú, tâm chưa được hân hoan, thích thú, thời tu tập cho tâm thật hân hoan, thích thú trong khi an trú nội không, ngoại không, nội ngoại không, bất động. Vị Tỷ kheo trong khi an trú như vậy, nếu có đi đứng ngồi nằm phải chú ý đừng cho các tham ưu, bất thiện pháp khởi lên. Nếu có nói, không nói đến các vấn đề hạ liệt, đê tiện, phàm phu, chỉ nói đến những lời nhàm chán, ly tham đoạn diệt, an tịnh thắng trí, giác ngộ Niết Bàn. Nếu có suy tầm, suy tư điều gì, thì không suy tầm, suy tư đến dục tầm, sân tầm, hại tầm, những tâm tư hạ liệt đê tiện; mà chỉ suy tầm, suy tư đến ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm, những tâm tư đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh thắng trí, giác ngộ Niết Bàn.
Đối với năm dục trưởng dưỡng, tức là sắc đẹp, tiếng hay hương thơm, vị ngọt, xúc êm dịu, vị Tỷ kheo phải ý thức mình có ái dục đối với năm dục trưởng dưỡng ấy hay không, nếu có thời phải lo đoạn diệt ái dục ấy, làm cho năm ái dục ấy không có hiện hữu.
Đối với năm thủ uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức, khi vị ấy tùy quán năm thủ uẩn ấy, sự tập khởi và sự đoạn diệt của chúng, vị Tỷ kheo phải tìm hiểu mình có ngã mạn (asminmàno) gì đối với năm uẩn hay không, nếu có, thời phải lo đoạn trừ ngã mạn ấy. Như vậy gọi là vị Tỷ kheo tác ý nội không, ngoại không, nội ngoại không, tác ý bất động, và nhờ vậy vị Tỷ kheo tiến dần đến giác ngộ, giải thoát nhờ an trú nội không.

Tóm lại, Đại Không Kinh xem an trú nội không, ngoại không, nội ngoại không, bất động là pháp môn vị Tỷ kheo tu tập để trong khi đi đứng ngồi nằm, không cho tham ưu, bất thiện pháp chạy vào trong tâm, chỉ nói, chỉ suy tư những gì đi đến giác ngộ Niết Bàn. Còn đối với năm dục trưởng dưỡng, tuyệt đối đoạn trừ ái dục, và đối với năm thủ uẩn, nhổ tận gốc ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên.
Với hai kinh trên, nghĩa chữ Không theo Đạo Phật nguyên thủy được trình bày cũng đã khá rõ ràng và cặn kẽ. Để kết thúc, chúng tôi xin nói thêm, trong Kinh điển nguyên thủy, khi nói ba pháp ấn, chỉ nói có ba vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta), không xem Không (sunnatà) như là pháp ấn thứ tư.
=======

Đọc thêm - luận thêm:
http://cusi.free.fr/diendan/tanhkhong/ddtanhkhong1.htm
 

vấn_đạo

Registered
Phật tử
Tham gia
24 Tháng 5 2011
Bài viết
28
Điểm tương tác
0
Điểm
1
Dạ kính thưa thầy tanphuqm, và các quý thầy cô, các đh mến yêu, con và đạo chúng sơ cơ luôn mong muốn được các quý thầy cô quan tâm và dạy dỗ , kính mong thầy vì lòng từ bi vì chánh pháp , hãy dành ít thì giờ trả lời dạy dỗ chúng con như trên ạ, chân thành kính nhận lời dạy của thầy, rất ý nghĩa , rất hay , 1 lần nữa con chân thành đảnh lễ thầy ạ :)
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 3 2010
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
Chào bạn vấn_đạo,
d/đ xin được trình bày chỗ hiểu của d/đ về những điều Bạn hỏi - để Bạn tham khảo nhe !

<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> Trước hết là đoạn kinh Phật giảng :

Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Một thời, bạch Thế Tôn, Thế Tôn trú giữa các Sakka (Thích-ca). Nagaraka là tên một thị trấn của các Sakka. Tại đấy, bạch Thế Tôn, con được nghe trước mặt Thế Tôn, con được ghi nhớ trước mặt Thế Tôn như sau: "Này Ananda, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều". Phải chăng, bạch Thế Tôn, điều con đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng?

-- Thật vậy, này Ananda, điều Ông đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng. Thuở xưa và nay,
này Ananda, Ta nhờ an trú _ không, nên nay an trú _ rất nhiều.

http://www.viet.net/anson/uni/u-kinh-trungbo/trung121.htm
Và đức Phật dùng ẩn dụ sau đây để giảng - thế nào là “an trú _ không” :

Ví như lâu đài Lộc Mẫu này - không có voi, bò, ngựa, ngựa cái, không có vàng và bạc, không có đàn bà, đàn ông tụ hội, và chỉ có một cái _ “không phải không”, tức là sự nhất trí (ekattam) do duyên chúng Tỷ-kheo;

cũng vậy, này Ananda, Tỷ-kheo _ không tác ý thôn tưởng, không tác ý nhơn tưởng _ chỉ tác ý sự nhất trí, do duyên lâm tưởng.
Tâm của vị ấy _ được thích thú hân hoan, an trú, hướng đến lâm tưởng.

Vị ấy tuệ tri như sau: "Các ưu phiền do duyên thôn tưởng không có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên lâm tưởng".

Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có thôn tưởng".
Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có nhân tưởng". Và chỉ có một cái này _ “không phải không”, tức là sự nhất trí (ekattam) do duyên lâm tưởng".
Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có.

Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có".
Như vậy, này Ananda, cái này (_tức là cái “không phải không”…) đối với vị ấy _ là như vậy ;, thật có, không điên đảo ; sự thực hiện hoàn toàn _ thanh tịnh, không tánh.
Vì d/đ đọc theo cách ngắt câu như vậy – cho nên d/đ hiểu - đoạn kinh này đức Phật giảng về tuệ tri của các vị Tỳ kheo khi thực hiện _ để hướng đến cái _ không phải không”

Và vì Phật bảo : “cái này (_tức “cái _ tuệ tri”…) đối với vị Tỳ kheo thực hiện để hướng đến cái _ không phải không” _ thật có, không điên đảo ; sự thực hiện hoàn toàn _ thanh tịnh, không tánh”.


Cho nên, “không tánh” đức Phật nói trong đoạn kinh này là _ chỉ sự tuệ tri ; chứ không phải giảng về _ không tánh của Niết Bàn - bác Bình nói.

Và d/đ hiểu lời Phật nói : Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều".
Là ý cho chúng ta biết – do tâm Ngài an trú nơi “không phải không”, nên nay Ngài an trú rất nhiều … nơi _ chỗ nào Ngài an trú cũng được

Chỗ hiểu của d/đ là như vậy. Nhưng vì Bạn cũng có thể đọc theo cách ngắt câu theo chỗ hiểu của Bạn. Do đó, nếu Bạn có cách đọc khác thì xin chia sẻ để d/đ tham khảo.


Còn Bạn nói :

b./Đây là đoạn đối thoại giữa Mogharaja và phật trong kinh tập, con xin trích xuất từ tác phẩm Pháp môn không phải là ngã của thiền sư thanissaro cho đạo chúng tham khảo

(link tham khảo http://thienviennguyenthuy.wordpress...by-thanissaro/ ):

Các đạo chúng lưu ý cụm từ "Vì vậy nói rằng thế giới là không, là trống rỗng" và so sánh , suy nghĩ vì sao trí tuệ của phật lại không dùng từ niết bàn trong đây ?
thì có phải Bạn muốn nói _ đoạn kinh :

Ananda: Bạch Thế Tôn, nói rằng thế giới là trống rỗng, thế giới là không. Về phương diện nào mà nói rằng thế giới là không, là trống rỗng?
Bụt đáp: Vì trống rỗng, không có Ngã hay cái gắn liền với Ngã (ngã sở.) Do đó nói rằng thế giới là không, là trống rỗng. Những gì là trống không, không có Ngã hay Ngã Sở? Con mắt trống một cái Ngã hay một cái gì gắn liền với Ngã. Sắc … nhãn thức … nhãn xúc (sự tiếp xúc giữa nhãn căn và sắc trần) trống một cái ngã hay một cái gì gắn liền với ngã.
Tai …Mũi …Lưỡi …Thân …
Trí năng (ý căn) không có ngã hay một cái gì gắn liền với Ngã. ý niệm (pháp) … ý thức … ý xúc (sự tiếp xúc giữa ý căn và pháp trần) không có ngã hay một cái gì gắn liền với ngã.
Vì vậy nói rằng thế giới là không, là trống rỗng.
Nếu phải thì kỳ sau d/đ sẽ trình bày tiếp chỗ hiểu của d/đ về đoạn kinh này. Còn nếu không phải _ hay _ còn có thêm đoạn kinh nào nữa - xin Bạn trích dẫn dùm
Thân
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 3 2010
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
Chào các bạn,
d/đ xin trình bày tiếp chỗ hiểu của d/đ về đoạn kinh bạn vấn_đạo dẫn chứng

<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
Ananda: Bạch Thế Tôn, nói rằng thế giới là trống rỗng, thế giới là không. Về phương diện nào mà nói rằng thế giới là không, là trống rỗng?
Bụt đáp: Vì trống rỗng, không có Ngã hay cái gắn liền với Ngã (ngã sở.) Do đó nói rằng thế giới là không, là trống rỗng. Những gì là trống không, không có Ngã hay Ngã Sở? Con mắt trống một cái Ngã hay một cái gì gắn liền với Ngã. Sắc … nhãn thức … nhãn xúc (sự tiếp xúc giữa nhãn căn và sắc trần) trống một cái ngã hay một cái gì gắn liền với ngã.
Tai …Mũi …Lưỡi …Thân …
Trí năng (ý căn) không có ngã hay một cái gì gắn liền với Ngã. ý niệm (pháp) … ý thức … ý xúc (sự tiếp xúc giữa ý căn và pháp trần) không có ngã hay một cái gì gắn liền với ngã.
Vì vậy nói rằng thế giới là không, là trống rỗng.

http://thienviennguyenthuy.wordpress.com/2009/04/15/the-not-self-strategy-by-thanissaro/
Đoạn kinh này - nếu ngắt câu theo chỗ hiểu của d/đ thì sẽ đọc là :

Ananda: Bạch Thế Tôn, nói rằng thế giới là trống rỗng, thế giới là không. Về phương diện nào mà nói rằng _ thế giới là không, là trống rỗng?

Bụt đáp: Vì trống rỗng, không có Ngã - hay cái gắn liền với Ngã (ngã sở…). Do đó nói rằng - thế giới _ là không, là trống rỗng.

Những gì là trống không _ không có Ngã hay Ngã Sở?

Con mắt trống _ (_không là…) một cái Ngã - hay một cái gì gắn liền với Ngã .
Sắc … nhãn thức … nhãn xúc trống (_không là…) _ một cái ngã - hay một cái gì gắn liền với ngã.
Tai …Mũi …Lưỡi …Thân …

Trí năng (_cũng…) không có ngã - hay một cái gì gắn liền với Ngã.
ý niệm … ý thức … ý xúc (_cũng…) không có ngã - hay một cái gì gắn liền với ngã.

Vì vậy nói rằng - thế giới _ là không, là trống rỗng.
Cho nên, d/đ hiểu - đức Phật nói thế giới _ là không, là trống rỗng ; là về phương diện thế giới _ không có Ngã - hay cái _ gắn liền với Ngã.
Và thế giới được thiết lập - là do trạng thái tâm _ chạy theo vọng tưởng.

Trong khi, cả bác Bình và bạn vấn_đạo đều hiểu lời Phật dạy : Niết Bàn = trạng thái tâm.
Cho nên, Niết Bàn và thế giới đều = trạng thái tâm. Nghĩa là Niết Bàn cũng _ là không, là trống rỗng.

Do đó, nếu bác Bình nói : Niết Bàn = trạng thái tâm = tánh không (_hiểu theo nghĩa – không có Ngã…) thì sẽ thông.
Vì nếu Niết Bàn = trạng thái tâm ; thì đương nhiên là “không có Ngã – hay cái _ gắn liền với Ngã”.

Cho nên, d/đ mới hiểu : Niết Bàn = tánh không (_không có Ngã…)

Còn bạn vấn_đạo hiểu : Niết Bàn = trạng thái tâm = tâm bất động.
Thì lại có nghĩa là :

Khi tâm ở trạng thái bất động = Niết Bàn

Còn khi tâm ở trạng thái _ chạy theo vọng tưởng = thế giới
Do đó, đối với d/đ thì cả hai câu :

1./bác Bình nói : niết bàn = trạng thái tâm = tánh không

2./Phật dạy : niết bàn = trạng thái tâm = tâm bất động
đều là đúng cả. Và khi d/đ rút gọn lại _ thì là :

Niết Bàn = trạng thái tâm bất động = tánh không (_không có Ngã…)
Vả lại, nếu chúng ta hiểu _ Niết Bàn = tánh không (_không có Ngã…) _ tức là Niết Bàn không phải tự có.

Vì vậy, Niết Bàn không phải là nơi có sẵn để những ai đạt được tâm bất động _ vào đó _ hưởng vui an lạc.

Điều này, còn giải thích cho chúng ta biết ; sở dĩ Ðức Phật luôn nhắc nhở chúng ta - hãy nương tựa nơi chính bản thân mình…
Là vì - nếu muốn được Niết Bàn - sanh vào cõi của chư Phật ; thì chúng ta phải đạt được tâm bất động.

Và điều này cũng gián tiếp cho chúng ta biết - đức Phật Thích Ca - không bao giờ dạy chúng ta _ hãy nguyện cầu - và niệm hồng danh của Phật _ thì sẽ được tiếp dẫn về cõi Phật.

Còn đối với 48 lời nguyện của đức Phật A-Di-Đà - thì vì lời nói của các đức Như Lai rất thâm sâu. Cho nên, lời nguyện của đức Phật A-Di-Đà cũng thâm sâu – làm cho chúng ta hiểu lầm. Điều này, chúng ta cũng nên nghĩ đến.

d/đ hiểu như vậy – xin chia sẻ…
Thân chào
 

Phithuydu

Registered
Phật tử
Tham gia
8 Thg 8 2008
Bài viết
754
Điểm tương tác
179
Điểm
43
Địa chỉ
Việt Nam
Các đạo hữu kính
Mình xin có ý kiến . Nếu các bạn thấy không hợp , xin bỏ qua và đừng phiền mình nhé.

ptd đồng ý với đh d/đ về :




HTML:
"Do đó, nếu bác Bình nói : Niết Bàn = trạng thái tâm = tánh không (_hiểu theo nghĩa – không có Ngã…) thì sẽ thông. 
Vì nếu Niết Bàn = trạng thái tâm ; thì đương nhiên là “không có Ngã – hay cái _ gắn liền với Ngã”. 
 
Cho nên, d/đ mới hiểu : Niết Bàn = tánh không (_không có Ngã…) "


Trong Kinh Tiểu Không :

"Này A nanda, phàm có những sa môn hay Bà La Môn nào trong quá khứ sau khi chứng đạt đều chỉ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh ( Suna tam ). Tất cả những vị ấy sau khi chứng đạt đều chỉ an trú cứu cánh vô thượng Không tánh .Này A nan da , phàm có những sa môn hay Bà la môn nào trong hiện tại sau khi chứng đạt, đã an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh . Tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt đều chỉ an trụ cứu cánh vô thượng Không tánh . Này A nan da, phàm có những sa môn hay Bà la môn nảo trong tương lai sau khi chứng đạt đều chỉ an trú cứu cánh vô thượng Không tánh . Tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt đều chỉ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh

Do vậy , A nan da, sau khi chứng đạt ta sẽ an trụ cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh

Như vậy , A nan da , các ông cần phải học tập "


Trước khi nói đến Tánh Không , chúng ta xem lại Lý Vô Ngã :

_ Tất cả pháp không tự tánh : không có pháp hữu vi nào có thể tự một mình nó có mặt.Các pháp nương nhau có mặt.
_ Tất cả các pháp chỉ do nhân duyên sanh ,và do nhân duyên diệt, chúng hiện hữu nhưng không có sự tồn tại thật bất biến
_ Ý nghĩa của sự có mặt của các pháp không nhất định


Từ sự thật vô ngã này , đức Phật dạy chúng ta hãy nhìn thẳng vào sự thật của các pháp hiện hữu với tính cách như là : giấc mộng huyễn , giọt sương buổi sáng , bóng dưới nước , ánh chớp lóe lên .... để thấy tính Vô thường của các pháp ,dẫn theo khổ và bất tịnh.Nhận thức và quán chiếu tánh vô ngã này , chúng ta biết vô ngã , dẫn đến vô thường . Khi quán chiếu thấy sự thật này , không phải là để biết rồi bỏ qua . Đức Phật dạy chúng ta thoát khổ ngay tại đó . Muốn như thế , chúng ta nên buông bỏ các tham dục , tìm cầu , để an trú tâm bất động trong trạng thái gọi là Niết Bàn .

Kinh Pháp Ấn dạy những điều mà các tông phái Phật giáo đều chấp nhận những gì họ được biết như là ba dấu ấn :

1- Tất cả các pháp đều vô thường , các pháp hữu vi đều khổ và bất tịnh
2- Tất cả các pháp đều trống rỗng và vô ngã.
3- Niết Bàn là an vui , tịnh lạc


Ba dấu ấn này đi lên với nhau không thể thiếu một . Đó cũng là tánh Không được diễn tả trọn vẹn : thường quán chiếu về hai tính chất đầu : Tính Vô Thường ,khổ , bất tịnh , tính Vô ngã rỗng không , người tu sẽ biết lìa tham dục , tìm cầu và an trú tâm bất động, là thể nghiệm được trọn vẹn Tánh Không

Thiết nghĩ , đó cũng là ý nghĩa của :
NIẾT BÀN = (sự thể nghiệm ) TÁNH KHÔNG

Vâng , đây là sự an trú tâm rất nhiều, mà không là cái Không tà kiến , là như Niết Bàn là tánh Không là không có gì cả..

Thí như , THUỐC CẢM không phải là SỰ TRỊ BỆNH CẢM , mà SỰ UỐNG THUỐC CẢM mới là SỰ TRỊ BỆNH CẢM. Nhưng đôi khi chúng ta dùng lẫn lộn.

Đó là sự hiểu của ptd.
 

Bình Đẳng Giác

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
4 Thg 10 2015
Bài viết
522
Điểm tương tác
221
Điểm
43
kính

Bảo niết bàn=tánh không thì không có sai

Theo Phật giáo nguyên thủy thì bất động là giải thoát tức niết bàn
Theo đại thừa thì biết bàn = vô vi tuy cách dùng từ khác nhau nhưng ý nghĩa thì giống nhau cả (ko làm với bất động thì giống nhau cả thôi)cái quan trọng là phải hiểu thế nào là không làm,thế nào là bất động
Ở đây cái vô vi và bất động được hiểu là vô trụ,vô tướng và vô tác.tức đối tướng tâm không khởi tác ý,đã không khởi tác ý thì ko có dính mắc,không trói buộc dẫn đến tâm vô trụ mà Vô trụ rồi thì làm gì có cái gì để động hay làm gì có cái gì mà làm tự nhiên khác vô vi khác bất động thôi.nó là 1vòng tuần hoàn(vô trụ thì vô tướng,vô tướng thì vô tác~vô tác lại vô tướng,vô tướng lại vô trụ).đây cũng gọi là tánh không,vô quái ngại vô sợ hãi mới ở được nhiều nơi đi được nhiều chỗ
 

Thiên Không

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
19 Thg 4 2018
Bài viết
783
Điểm tương tác
211
Điểm
43
tranh%20phat%20thich%20ca%20dep%20(10).jpg
 
Tình trạng
Không mở trả lời sau này.
Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên