MỤC LỤC
1. Tâm sự về câu. Sống gửi, thác về” (Sinh ký- Tử quy). Trang 2- 20
2. Nhận thức về Đường lối tu hành Phật dạy trong Kinh Pháp Cú. Trang 21- 61
3. Sơ đồ giải thích Sát na lâm chung Phật tiếp dẫn về Tịnh Độ và tu tiếp thành Phật. Trang 62- 80
TÂM SỰ VỀ CÂU “SỐNG GỬI , THÁC VỀ (Sinh ký- Tử quy).
Người xưa nói: “Sống và chết là hai việc lớn nhất của đời người” (Sinh tử sự đại). Thói thường, con người chỉ chú ý đến việc sống, chỉ chuẩn bị cho việc sống, hết lòng hết sức phục vụ cho cái thân sống già, chết bệnh. Nếu chợt nói đến cái chết, thì cho là gở mồm gở miệng, thảng hoặc có nói đến cái chết thì chỉ mong sao đau một giây chết một giờ, đừng phải ốm đau tốn kém, nằm liệt giường liệt chiếu, khổ mình khổ con cháu. Cầu cho lúc ra đi được thanh thản, mát mẻ…,với tâm lý như thế thì biết sao đến câu “Sống gửi, thác về”. “Sống gửi” thì nhiều người biết, bởi mỗi người đều có một mệnh sống nhất định, dài ngắn khác nhau, đến lúc mệnh hết thì phải chết. Nhà Y có câu “Chữa được bệnh, không chữa được mệnh”. Mỗi người chỉ sống gửi ở thế gian này một thời gian mà thôi! Còn đi đâu? (ra đi). Về đâu? (Sống gửi chết về) là điều cần phải biết.
Thời nay người ta thường cho rằng, chết là hết. Đạo Thiên Chúa cho rằng khi chết sẽ được Đức Chúa cứu rỗi về Thiên Đàng làm con chiên của Chúa hoặc phải đọa mãi nơi địa ngục u tối. Còn đạo Phật (trừ các vị tu đã đắc đạo, hoặc được Phật A Di Đà tiếp dẫn về cõi Tịnh Độ của Ngài) thì chết là luân hồi vào sáu nẻo (lục đạo hay sáu cõi giới).
gồm ba cõi lành: Trời, A tu la, Người và ba cõi ác: Súc sinh, Ngã quỷ, Địa ngục.
Phật nói: “Chúng sinh khi chết, được sinh về cõi lành, ít như đất dính vào móng tay Phật, còn bị đọa vào cõi ác nhiều như đất ở đại địa”.
Bởi thế nên ai nói chết là ra đi chắc hẳn sẽ đi “sống gửi” (luân hồi) vào ba cõi ác là chính. Bởi vì khi sống, mấy ai đã sống vì người (vị tha), thường chỉ sống vì mình (vị kỷ) lợi mình thì làm sao mà tránh làm việc ác được. trong Kinh Phật dạy: Nếu làm việc ác nhiều hơn việc lành, thì khi chết (ra đi) sẽ bị đọa lạc vào cõi ác, hoặc lâm chung (hấp hối) mà khởi niệm (ý nghĩ) quyến luyến tình cảm, thì cũng khó được siêu thoát (sinh về cõi lành), ắt phải đọa lạc vào cõi âm (u minh) trầm luân khổ ải, còn nói chết là hết thì nên nghĩ lại. Vì sao? Tâm linh con người chính là nguồn năng lượng sinh học, Phật pháp gọi là Thần thức. Bát Nhã Tâm Kinh có đoạn “..Tính không của vạn Pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt..” Tính không, chính là tính Phật, là nguồn năng lượng sinh học, là thần thức đó. Nhờ nó mà con người vừa lọt lòng mẹ đã biết thấy, biết nghe, biết ngửi, biết nóng lạnh…những tính này tồn tại thường trực, không thay đổi trong suốt cuộc đời của mỗi con người. Còn hài nhi lớn lên, thể xác thay đổi theo thời gian là do tế bào sinh diệt không ngừng, nhờ vào nguồn thức ăn cung cấp hàng ngày. Lớn lên, tính tình thay đổi, kiến thức sâu rộng, ít nhiều đều nhờ vào sự học hành, trau dồi qua kinh nghiệm sống mà có, lúc nhớ lúc quên, thay đổi không ngừng…Như vậy thì sau cái chết (ra đi), cái gì trong quá trình sống mà sinh diệt thay đổi và có được là do vay mượn thì bị hủy diệt (hết). Còn thần thức là nguồn năng lượng không sinh diệt, cộng với ý chí muốn sống mãnh liệt của con người, nên nó chỉ chuyển từ hình thức sống này(thân này) sang hình thức sống khác (thân khác) mà thôi. Khi sống nếu sống vì người (tạo thiện nghiệp) thần thức sẽ mở rộng (nhẹ) khi chết sẽ đi lên, tức sinh vào các cõi lành. Nếu sống vì mình (tạo ác nghiệp) thì thần thức sẽ co lại (nặng) khi chết sẽ đi xuống, tức sinh vào các cõi ác. Thật đúng với lời dạy của Phật: “Khi chết muôn thứ mang chẳng được, chỉ có nghiệp theo mình” Thế nên nói chết là hết, là điều không chấp nhận được.
Còn nói “Thác về” thì về đâu? Cứ nhìn vào các đám tang, hầu hết các tang chủ (trừ người theo đạo Thiên Chúa), đều nhờ nhà Sư và các vãi, đến nhà tụng Kinh Di Đà, niệm Phật để cầu siêu cho vong được sinh về Tịnh Độ (vãng sinh Tịnh Độ). Người đến viếng cũng cầu siêu cho vong như vậy. Trong 35 hoặc 49 ngày (thất thất lai tuần) cũng nhờ các vãi đến làm các khóa lễ cầu siêu như vậy. Sau 35 ngày hoặc 49 ngày, đưa vong lên chùa, cũng cầu siêu như vậy. Không phải ngày nay, mà tập tục này đã có từ ngàn năm nay. Rõ ràng, ý nghĩa của “thác về” là sinh về Tịnh Độ vậy. Lại nữa, chúng sinh vốn đầy đủ đức năng và trí tuệ như Phật, không hai không khác, nhưng vì khởi niệm (ý nghĩ) mê muội, nên bị tham sân thúc đẩy, gây bao tội lỗi (nghiệp) xấu ác, vì thế mà phải trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, chịu bao nhiêu thống khổ, từ vô lượng kiếp đến nay.
Cầu sinh về Tịnh Độ, là để chấm dứt cảnh “sống gửi” mà sống cùng với Phật “… Ngài cùng nhân dân sống lâu vô cùng không thể kể xiết ..” (Kinh A Di Đà) thì mình là chủ nhân rồi, nên Tịnh Độ là nhà mình vậy. Vì thế nên gọi là “thác về”.
Sinh về Tịnh Độ là sống trong vùng phủ sóng hào quang của Đức Phật A Di Đà, nên được Phật lực bảo hiểm và gia trì mà có các khả năng như: có thân kim sắc như Phật, có sáu thứ thần thông tự tại, lại được sống trong cảnh giới trang nghiêm mỹ lệ, như có : ao thất bảo, có lầu các bằng vàng bạc, pha lê, lưu ly, xà cừ, xích châu, mã não… Lại có Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp, có các chúng Bồ Tát và các chúng Thanh Văn vô lượng vô biên, cho đến cả tiếng chim kêu, gió thổi cũng đều thuyết Pháp nhắc nhở tu hành. Chúng sinh trong cõi đó sống lâu vô cùng, không cần lo việc ăn mặc, không có đàn ông, đàn bà, hàng ngày chỉ biết cúng giàng Tam Bảo, tinh tấn tu hành không bị thoái chuyển, mà tiến dần từ phẩm thấp lên phẩm cao (Tịnh Độ có chín phẩm hoa sen, gồm 3 phẩm hạ, 3 phẩm trung, 3 phẩm thượng). Tự mình tu hành, đạt đến địa vị của Bồ Tát Bất thoái (hạ thượng phẩm) sẽ có khả năng phân thân đi các cõi, hoặc trở lại Ta Bà để độ chúng sinh được vãng sinh Tịnh Độ. Cứ tu tiếp như thế, từ Bồ Tát Bất Thoái trở lên, cho tới đạt quả vị Phật, là trở về với chính mình là Phật, các vị Phật cũng đều từ chúng sinh mà tu thành. Thế nên gọi là “thác về”.
Tập tục cầu siêu nêu ở trên là dẫn chứng để ta hiểu ý nghĩa câu “Sống gửi, thác về” của người xưa mà thôi. Còn có được vãng sinh Tịnh Độ hay không thì lúc sống phải tu hành theo lời chỉ dạy của Đức Phật Thích Ca (Phật Tổ) qua các Kinh luận gọi là Pháp môn Tịnh Độ hay Pháp môn Niệm Phật cầu vãng sinh. Tập tục cầu siêu chỉ là trợ duyên cho vong sớm đi đầu thai, hoặc có thể sinh vào cõi lành, hoặc đỡ bị lầm lạc mà đọa sâu vào các cõi ác. Còn được vãng sinh thì muôn người chưa chắc được một. Cầu siêu còn có tác dụng an ủi người sống, cho họ có thêm cơ hội báo hiếu với người quá cố mà thôi.
Tóm lại “thác về”, là về nhà mình (Tịnh Độ), về với chính mình (là Phật). Nghĩa là được giải thoát khỏi luân hồi sinh tử và tu tiếp thành Phật nhờ lực gia trì của đức Phật A Di Đà.
Nhìn lại cuộc đời đã qua, hầu hết chúng ta đều lo cho việc “sống gửi”, còn chuyện “thác về” thì chẳng chuẩn bị được gì? Nay biết được ý nghĩa của việc “thác về” rồi, thì phải lo chuẩn bị ngay kẻo muộn. Trong Kinh A Di Đà có đoạn Phật Thích Ca nhắc nhở: “…nếu có ai tin thì mau phát nguyện sinh về An Lạc”( Tịnh Độ). Vậy muốn về Tịnh Độ, ta phải lo chuẩn bị những gì ?. Y vào Đại Nguyện tiếp dẫn của Phật A Di Đà. “….nếu chúng sinh nào muốn về nước Ta, một lòng tin ưa, xưng danh hiệu Ta, cho đên mười niệm như không được sinh, Ta không thành Phật.” Phật Thích Ca đã nói Kinh A Di Đà để chỉ dẫn, nói rõ lợi ích của Đại Nguyện và khuyến khích chúng sinh tu hành theo đúng Đại Nguyện để đến sát na (đơn vị thời gian rất nhỏ so với một giây) lâm chung, có đủ điều kiện được Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tịnh Độ. Những điều kiện đó là : Tín, nguyện. hạnh. Các Tổ của Pháp môn Tịnh Độ gọi là ba món tư lương. Hiểu rõ và có đủ ba món tư lương, là điều kiện quan trọng nhất của người tu niệm Phật cầu vãng sinh. Vậy tư lương là gì? Tư lương là những thứ, người tu Tịnh Độ cần phải có và luôn thường trực trong tâm mình, từ khi phát tâm tu cho đến lúc lâm chung, không thoái chuyển. Muốn chắc chắn được vãng sinh thì phải tin sâu, nghĩa là không nghi ngờ gì về chuyện vãng sinh cả. Đã nguyện thì phải nguyện thiết, nghĩa là duy nhất nguyện sinh Tịnh Độ, ngoài ra không có nguyện cầu nào khác (một lòng). Luôn chuyên cần và thường niệm danh hiệu Phật thì gọi là hành chuyên. Như vậy, bất cứ người nào có đủ ba món tư lương cho đến lúc lâm chung thì chắc chắn sẽ được Phật A Di Đà tiếp dẫn mà sinh về Tịnh Độ. Điều này thể hiện rất rõ ở hai đoạn trong Kinh A Di Đà: “…Chỉ có những người một lòng chuyên niệm Phật A Di Đà một ngày, hai ngày, ba ngày….Người này khi nào lâm chung Phật cùng Thánh chúng hiện ra trước mặt, tâm không điên đảo, người ấy liền sinh sang cõi An Lạc của Phật A Di Đà…” đoạn tiếp: “…ai đã nguyện thì đã sinh rồi, ai nay đang nguyện thì nay đang sinh, còn mai mới nguyện thì mai sẽ sinh….” Đối với người niệm Phật, luôn có đủ ba tư lương thì gọi là đang nguyện. Còn đang sinh là đang sinh về Tịnh Độ. Đến sát na lâm chung Phật hiện thì sinh, bởi người niệm Phật luôn đủ ba tư lương, người đó thường nhớ Phật . Khi Phật hiện, người đó tâm không điên đảo, liền thấy Phật nên được Phật phóng quang nhiếp thọ (thu nhận) mà sinh về Quốc Độ Thanh Tịnh của Phật. Khi thấy Phật không phải bằng mắt của mình vì sát na lâm chung nó bị liệt hoại cả rồi. Khi mắt mình còn nhìn được thì chỉ nhìn thấy giả tướng chứ không nhìn thấy thật tướng tức không thấy Phật được (vì thật tướng là vô tướng). Khi niệm Phật bằng miệng là thức niệm, không đồng với tâm Phật, nên quang minh của Phật không nhiếp thọ được. Phải đợi tới sát na lâm chung là một loáng thời gian trước khi chết. Ở thời điểm này, vọng niệm tự dừng, ngũ uẩn không còn ngăn che trí tuệ Phật, cho nên bất cứ người chết nào lúc lâm chung cũng có sát na định tâm, tức sống trong định, sống bằng trí tuệ tâm Phật của mình ( Tâm thanh tịnh ). Chính nhờ cơ hội này mà những người niệm Phật có đủ 3 tư lương, khi Phật hiện thì thấy Phật bằng trí tuệ tâm Phật ( Tâm thanh tịnh ) của mình thì được Phật phóng quang nhiếp thọ (thu nhận) vào vùng phủ sóng hào quang tức là cõi Tịnh Độ của Ngài. Còn những người niệm Phật không đủ 3 tư lương hoặc không muốn quay về với Phật mà trốn chạy(tâm bị điên đảo) thì đúng với lời dạy của đức Phật Thích Ca về pháp Niệm Phật Tam muội (Kinh Lăng Nghiêm chương Đại Thế Chí niệm Phật): “..Ví như hai người, một người chuyênnhớ,một người chuyên quên, hai người như thế dẫu có gặp nhau cũng như chẳng gặp, dù có thấy nhau cũng như chẳng thấy…” “…Mười phương Như Lai, thương nhớ chúng sinh như mẹ thương con. Nếu con trốn chạy,dẫu mẹ có nhớ, không làm gì được. Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, mẹ con đời đời, chẳng dời xa nhau…” Đoạn Kinh này giải thích rõ Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng sinh trong sát na lâm chung vậy.
Điểm thứ 49 trong “Niệm Phật Tông Yếu” của Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân (Sơ Tổ tông Tịnh Độ Nhật Bản) cho biết : “..sát na lâm chung dễ như cắt sợi tơ, điều này người khác không biết được, chỉ có Phật và người niệm Phật biết được mà thôi”. Vậy ai muốn “thác về” hãy “..mau phát nguyện sinh về An Lạc”(Kinh A Di Đà). Khi viết đến đây, tôi liên tưởng đến câu nói của người xưa: “khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”. Tôi hiểu khi mệnh đã hết thì “khôn” hay “dại” cũng thế thôi. Nhưng có thể thắng được mệnh nếu “biết” đến Pháp môn Niệm Phật và chân thật tu hành thì “sống ” mà còn sống mãi. Bởi vì Phật đón ta lúc sát na lâm chung là thời điểm ta chưa chết hẳn, lại đưa về Tịnh Độ để được cùng Phật “..Ngài cùng nhân dân sống lâu vô cùng đến bao nhiêu kiếp, không thể kể xiết” (Kinh A Di Đà). Tôi thấy phù hợp với ý nghĩa câu nói của người xưa kể trên.
Tôi nguyện cầu cho tất cả mọi người đều “biết” đến Pháp môn Niệm Phật cầu vãng sinh (tức Pháp môn Tịnh Độ). Chân thật tu hành để đến sát na lâm chung, thì “sống” mà “không chết”. Đó cũng là ý nghĩa của “Sống gửi, thác về ” và cũng đồng với bản hoài độ sinh của đức Phật Thích Ca vậy.
NHẬN THỨC VỀ ĐƯỜNG LỐI TU HÀNH PHẬT DẠY TRONG KINH PHÁP CÚ.
PHẦN MỞ ĐẦU
Cách đây gần 2600 năm, đức Phật Thích Ca giáng sinh xuống Ấn Độ, thị hiện tu hành thành Phật. Phạm Thiên thỉnh Phật đi giáo hóa chúng sinh: cõi Trời, cõi Người. Phật đồng ý, từ đó mới có đạo Phật gọi là đạo Phật Nhập thế.
Đạo Phật trụ thế được bao nhiêu lâu?
Theo Kinh Ban Chu Tam Muội và Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi: “Đạo Phật trụ thế một vạn, một nghìn, năm trăm năm, gồm ba thời kỳ.
1. Thời kỳ Chính Pháp, năm trăm năm, tu Giới luật được thành tựu.
2. Thời kỳ Tượng pháp, một nghìn năm, tu Thiền định được thành tựu.
3. Thời kỳ Mạt pháp,một vạn năm, tu theo pháp môn Niệm Phật thì thành tựu.
Ở thời kỳ Mạt pháp, các Kinh Phật nói bị chúng ma phá dần, chỉ còn Pháp môn Di Đà trước khi hết thời kỳ Mạt Pháp là một trăm năm. Cuối cùng chỉ còn lại sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật để độ chúng sinh mà thôi”.
Mục đích của đạo Phật nhập thế là gì?
Mục đích của Đạo Phật Nhập thế là để mở đường diệt khổ cho chúng sinh. Giúp chúng sinh giải thoát khỏi sự trói buộc, giam hãm trong biển khổ luân hồi từ vô thủy kiếp đến nay.
Đức Phật nói: “Ta chỉ dạy một điều khổ và diệt khổ”.
Mục đích này của Phật được phân tích trong phần nội dung. Thể hiện trong đường lối tu hành, mà Phật dạy trong Kinh Pháp Cú.
PHẦN NỘI DUNG
A. ĐƯỜNG LỐI TU HÀNH.
Qúa trình giáo hóa chúng sinh, Phật nói tám vạn bốn nghìn pháp môn, chính là “Pháp bảo” .Trong tám vạn bốn nghìn pháp môn, duy nhất chỉ có pháp môn Niệm Phật là pháp môn Tha lực, các pháp môn còn lại đều là tự lực. Tám vạn bốn nghìn pháp môn được thực hiện theo đường lối tu hành mà Phật dạy trong kinh Pháp Cú:
“Không làm những việc ác
Nên làm những việc lành
Thanh tịnh tâm ý mình
Là lời chư Phật dạy”.
Đường lối tu hành này chia làm hai giai đoạn.
I. Giai đoạn hướng thiện tu phúc:
“Không làm những việc ác
Nên làm những việc lành”.
- Ở giai đoạn này, chính là “Quy y Tam Bảo” giữ gìn “Ngũ giới”. Tự lực tu hành theo lời dạy trong Kinh Phật, đến khi chết được sinh lại làm người rồi theo nhân tu, tu nhiều đời nhiều kiếp, tích lũy dần thiện căn phước đức nhân duyên, đến một kiếp làm người nào đó có nhiều thiện căn phúc đức nhân duyên mới tu lên giai đoạn “Thanh tịnh tâm ý mình” được.
- Ở giai đoạn này chỉ là bước đầu học Phật, nó chỉ tương đồng với các đạo khác, nên mới ở mức ngoại đạo, chưa vào sâu Chính Pháp của Phật. Đến như các vị tu Thanh Văn thời Phật còn tại thế, đã chứng quả vị A La Hán, nếu còn chấp không mà ham vui Thiền định không hồi tâm tu tiếp, Phật bảo là vẫn còn mê. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật xếp Thanh văn đạo là ngoại đạo 96, thời Phật tại thế ở Ấn Độ có 95 ngoại đạo.
- Ở giai đoạn này, tu theo pháp môn tự lực, không diệt được khổ. Vì khổ là do ba độc tham, sân, si thúc đẩy mình gây nhân ác, nên phải chịu quả khổ. Ba độc tham, sân, si nó cùng sinh ra với mình, lại theo mình từ vô thủy kiếp đến nay, tự bỏ đi không thể được, cũng khó như ngồi trên ghế, không thể dùng hai tay mình nâng ghế ấy lên được. Trong mười bốn lời răn của Phật, câu đầu tiên: “Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình”.
Tóm lại, ở giai đoạn tu theo pháp môn tự lực chỉ là hướng thiện và tu phúc mà thôi. Còn muốn hướng thượng, tu giải thoát thì phải tu lên giai đoạn hai: “Thanh tịnh tâm ý mình”.
II. Giai đoạn hướng thượng, tu giải thoát.
Muốn “Thanh tịnh tâm ý mình” thì phải tu theo Pháp môn Tha lực, là Pháp môn Niệm Phật.
1. Ý nghĩa của Pháp môn Niệm Phật.
Đức Phật Thích Ca nói Kinh Vô Lượng Thọ và Kinh Quán Vô Lượng Thọ mở ra Pháp môn Tịnh Độ. Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Phật cho chúng sinh biết về Phật A Di Đà và Bốn mươi tám Đại Nguyện lập nên cõi Tịnh Độ của Ngài. Đặc biệt là Nguyện mười tám gọi là Di Đà Bản Nguyện, là Đại Nguyện tiếp dẫn chúng sinh về Tịnh độ. Vì thế Di Đà Bản Nguyện mở ra Pháp môn Tha lực.
Y vào Di Đà Bản Nguyện, Đức Phật Thích Ca nói Kinh A Di Đà mở ra Pháp môn Niệm Phật.(Nó là kinh Khế Cơ của Pháp môn Niệm Phật. Kinh Lăng Nghiêm là kinh Khế Lý của pháp môn Niệm Phật) . Nội dung của Di Đà Bản Nguyện : “Nếu chúng sinh nào muốn về nước Ta, một lòng tin ưa, xưng danh hiệu Ta cho đến mười niệm, như không được sinh, Ta không thành Phật”. Di Đà Bản Nguyện chính là Tôn Chỉ của Pháp môn Niệm Phật, được thâu tóm làm ba điều kiện: Tin Sâu, Nguyện thiết, Niệm Phật chuyên cần. Không nghi ngờ về chuyện vãng sinh thì gọi là tin sâu. Một lòng cầu sinh Tịnh Độ, ngoài ra không còn một thứ mong cầu gì khác, gọi là nguyện thiết. Vậy “…Nếu chúng sinh nào…” không nghi ngờ gì về chuyện vãng sinh (tin sâu)lại một lòng cầu vãng sinh Tịnh Độ (nguyện thiết) mà thường niệm Phật “..đến khi lâm chung, Phật cùng Thánh Chúng hiện ra trước mặt…” nhất định người ấy sẽ thấy Phật ,“..liền sinh sang cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà..” (kinh A Di Đà).
Thấy Phật, không phải bằng mắt của mình, vì sát na lâm chung là một loáng thời gian, giới hạn giữa cái chết của thân trước với cái sinh của thân sau là thân trung ấm. Mắt miệng và các căn khác vừa liệt hoại, khiến năm uẩn đột ngột không ngăn che trí tuệ tâm Phật, tạo ra sát na định tâm, ví như đèn dầu lóe sáng trước khi tắt. Ở trong định, người đó thấy Phật bằng trí tuệ tâm Phật.
Qua phân tích như ở trên thấy, sát na lâm chung chính là sát na nhất tâm bất loạn . Sát na tâm của chúng sinh được thanh tịnh đồng với tâm của Phật, dung thông với tâm của Phật có thế Phật mới phóng quang nhiếp thọ (thu nhận) thần thức và chuyển sinh sang thân kim sắc trong vùng phủ sóng hào quang tức cõi Tịnh độ của Ngài được. Trong Niệm Phật Tông Yếu, tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân (Sơ tổ Tịnh Tông Nhật Bản) là hóa thân của Bồ Tát Đại Thế Chí có câu: “…Sát na lâm chung dễ như cắt sợi tơ, người ngoài không thấy được, chỉ có Phật và người niệm Phật biết được mà thôi”.
Tổ Thiện Đạo, Tổ thứ hai Tịnh Tông Trung Quốc (Hóa thân của Phật A Di Đà) có lời khuyên niệm Phật như sau :
“Chỉ nhớ niệm Phật, không việc khác
Lắng tâm quyết định nguyện về Tây
Lâm chung tự thấy Như Lai đến”
“Niệm Phật trước trừ tâm tham ái
Lâm chung tâm định thấy Di Đà
Tợ trăng sáng tỏ soi đầm biếc”.
(Niệm Phật Cảnh).
Kinh Lăng Nghiêm, chương Đại Thế Chí niệm Phật có đoạn: “…ví như hai người, một người chuyên nhớ một người chuyên quên. Hai người như thế dẫu có gặp nhau cũng như chẳng gặp, dù có thấy nhau, cũng như chẳng thấy…”.Một người chuyên nhớ, dụ cho đức Phật A Di Đà và người niệm Phật đủ ba điều kiện, khi gặp nhau, thấy nhau thì nhận ra ngay, nên trong kinh A Di Đà, Phật Thích Ca bảo là “tâm không điên đảo”. Còn người chuyên quên, dụ cho người không tin, không niệm Phật, đến khi lâm chung, muôn niệm đang duyên theo cảnh trần, Phật đón trước mặt thấy mà như không thấy, đúng là điên đảo, ví như trốn chạy. Nên đoạn tiếp trong kinh Lăng Nghiêm: “..Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sinh, như mẹ thương con, nếu con trốn chạy, dẫu mẹ có nhớ không làm gì được. Nếu con nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, mẹ con đời đời chẳng rời xa nhau..”. Chỉ đến sát na lâm chung, tâm của chúng sinh mới đồng được với tâm của Phật ( tâm thanh tịnh) nên cái nhớ mới “như” nhau được và Phật mới tiếp dẫn thần thức chúng sinh về Quốc độ Thanh Tịnh được.
2. Pháp môn Niệm Phật chính là Pháp môn Tu Tâm Thanh Tịnh.
Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát Đại Thế Chí đã trả lời Phật Thích Ca: “…Phật hỏi đến con, Pháp tu viên thông, con không chọn lựa, con chỉ thu nhiếp tất cả sáu căn, chuyên một Tịnh niệm, nối nhau liền liền, được vào chính định, ấy là đệ nhất.”.Được hiểu là khi chỉ chuyên thu nhiếp tất cả sáu căn vào tha lực niệm Phật, thì niệm tha lực ấy là “Tịnh niệm” tức là niệm thanh tịnh. Vậy khi một lòng cầu vãng sinh mà niệm Phật, tâm ý ta được thanh tịnh trong từng niệm tha lực ấy , cho đến sát na lâm chung (là sát na tâm thanh tịnh ) được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về Quốc độ Thanh Tịnh thì tâm của ta mới hoàn toàn thanh tịnh, vì chúng sinh ở Tịnh độ đều sống ở trong định.
3. Pháp môn Niệm Phật giúp người tu diệt được tám khổ: Khổ Đế, trong bài Pháp Tứ Diệu Đế, Phật nói chúng sinh có tám khổ bao gồm:
Sáu khổ đầu: Sinh, lão, bệnh, tử, ân ái biệt ly, oán tằng hội khổ.
Khổ thứ bẩy: Cầu bất đắc khổ.
Khổ thứ tám: Ngũ ấm xí thịnh khổ.
a/ Diệt khổ thứ tám: Khi ta nhiếp tâm, một lòng niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Tâm của ta được hào quang trí tuệ của Phật chiếu vào, tâm của ta bớt mê một chút. Nguyện thứ 14 trong 48 Đại Nguyện của Phật A Di Đà (cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập) nói: “Nếu có chúng sinh thấy được quang minh chiếu chạm thân mình, đều được an lạc, tâm từ, hành thiện, được sinh về Cực Lạc” Niệm Phật tha lực càng nhiều, sẽ giảm bớt tâm mê, ngũ ấm bớt thịnh dần. Có câu “Nhà tối ngàn năm, mặt trời chợt hiện, ánh sáng có thừa”.Nhưng phải tới sát na lâm chung, Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tịnh Độ thì cái khổ thứ 8 mới diệt được hết, vì ở Tịnh Độ chúng sinh sống trong định, ngũ ấm không còn nữa.
b/ Diệt khổ thứ 7: Người niệm Phật cầu vãng sinh,khi nguyện đã thiết thì tâm chỉ có một mong cầu là cầu sinh Tịnh Độ, ngoài ra không còn một thứ mong cầu nào khác, nên khổ thứ 7 không còn nữa.
c/ Diệt sáu khổ đầu: Người niệm Phật cầu vãng sinh, phải có tâm độ mình và độ người, nhưng nhờ vào tha lực của Phật A Di Đà, tự mình không làm được. Cái khổ thứ 8 giảm dần, nên tham, sân giảm dần. Tham, sân là ác căn, ác căn giảm thì thiện căn tăng “căn lành mỗi ngày thêm lớn” tức là đã độ được mình. Còn độ người thì bằng cách nào? Ta chịu sáu khổ từ vô thủy kiếp đến nay, do ta đã gieo biết bao nhân ác, làm cho chúng sinh bị não hại, nên theo ta để đòi nợ, ta sinh ra cũng là để trả những món nợ đó (thân nghiệp báo). Khi ta nhiếp tâm, một lòng cầu sinh Tịnh Độ mà niệm Phật, thì Quán kinh cho biết: “mỗi câu niệm Phật tiêu trừ tám mươi ức kiếp trọng tội sinh tử, lại được tám mươi ức kiếp công đức vi diệu”. Vì sao lại được như vậy? Vì khi ta niệm Phật, ta đã nhận được công đức của hồng danh, tức là hào quang năng lượng trí tuệ của Phật A Di Đà, ta lại đem hồi hướng công đức ấy cho chúng sinh khắp pháp giới đồng sinh về Tịnh Độ. Chúng sinh nào có duyên nợ với ta, nhận được công đức ấy, họ tỉnh ra và được sinh về các cõi lành, nên tha tội cho ta, ta sẽ bớt khổ đi một chút. Thế nên độ tha cũng chính là tự độ vậy. Trong A Di Đà yếu giải có câu: “Khi ta niệm Phật, chính là lúc ta mang công đức vô lượng của Phật A Di Đà bố thí cho chúng sinh, hết khổ, hết nạn, hết sợ hãi”.
Câu 51 trong Niệm Phật Tông Yếu cho biết: “Vì người chết mà niệm Phật hồi hướng công đức cho họ, thì Phật A Di Đà phóng quang minh soi chiếu địa ngục, ngã quỷ, súc sinh. Kẻ bị chìm đắm trong ba đường dữ chịu khổ sẽ hết khổ, người chết sau khi lâm chung được siêu thoát”. Vì niệm Phật hồi hướng công đức có tác dụng to lớn như thế, mà niệm Phật suốt cả đời, có trả hết được nợ, tức là diệt hết được sáu khổ trong hiện đời hay không?
Trong kinh Phật dạy: “Tội ác của một người gây nên từ vô thủy kiếp đến nay, nếu có hình tướng thì hư không chứa cũng không hết”. Phải đợi đến sát na lâm chung, Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tịnh Độ thì lập tức hết khổ “..Cõi ấy không có những khổ, chỉ hưởng toàn vui..” (Kinh A Di Đà) nhưng nghiệp ác vẫn còn, nên gọi là đới nghiệp vãng sinh.
4. Pháp môn Niệm Phật hợp thời, hợp mọi căn cơ và được chư Phật mười phương hộ niệm.
Câu 1 trong Niệm Phật Tông Yếu, Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân dạy: “Thánh Đạo Môn tuy thâm diệu nhưng thời điểm căn cơ chẳng tương ứng. Tịnh Độ Môn hình như nông cạn nhưng thời điểm và căn cơ đều tương đồng. Thời Mạt pháp một vạn năm, các kinh điển khác đều bị tiêu diệt, chỉ còn pháp môn Di Đà để cứu độ chúng sinh.” Tổ Ấn Quang (Tổ thứ 13 Tịnh Tông Trung Quốc) có đôi câu đối “Chín cõi chúng sinh rời Pháp môn Niệm Phật, trên khó nổi viên thành quả giác. Mười phương chư Phật, bỏ Pháp môn Niệm Phật, dưới không thể độ khắp quần mê”. Kinh A Di Đà có đoạn: “…Này Xá Lợi Phất! Ý ông thế nào? Sao gọi Kinh này là Kinh: Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm? Xá Lợi Phất này! Thiện nam thiện nữ nghe Kinh này thọ trì và nghe danh hiệu chư Phật sáu phương, sẽ được chư Phật hộ niệm, bất thoái Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì thế Xá Lợi Phất , các ông đều nên tin lời Ta và lời chư Phật đã nói”.
5. Pháp môn Niệm Phật cũng là Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa: Bát Nhã Ba La Mật Đa là trí tuệ của chân tâm.
Niệm Phật tha lực, nhận được hào quang trí tuệ của Phật A Di Đà cũng là trí tuệ của chân tâm. Vậy hai pháp đồng là một. Lại nữa khi Phật nói Bát Nhã Tâm Kinh, đối tượng chính được nghe là ông Xá Lợi Phất.
Khi Phật nói kinh A Di Đà, đối tượng chính được nghe cũng là ông Xá lợi Phất. Ông Xá Lợi Phất chính là hóa thân của Bồ Tát Đại Thế Chí, vì thế khi Phật nói kinh về pháp môn Niệm Phật, đối tượng chính được nghe là ông Xá Lợi Phất, để rồi “… nay ở cõi này tiếp người niệm Phật về nơi Tịnh Độ…” (kinh Lăng Nghiêm) là lẽ đương nhiên.
Sở dĩ Phật nói Bát Nhã Tâm Kinh để cho chúng sinh thấy rõ chân tâm là như thế nào, qua đó Phật chỉ cho chúng sinh biết “Trong chân không ” tức là trong chân tâm không có “..nhãn nhĩ tỷ thân thiệt ý…”(không có cảnh giới của phàm phu). “không có vô minh..” (không có cảnh giới của Duyên giác) “không có khổ, Tập, Diệt, Đạo.”(không có cảnh giới của Thanh Văn) “không có trí tuệ..”(không có cảnh giới của Bồ tát). Vì thế tu hành không có chuyện “chứng đắc” gì đâu! Không được gì đâu “vô sở đắc”. Vì “Tính không của vạn Pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt..”. Vậy muốn trở về với trí tuệ chân tâm ấy thì phải nương vào trí tuệ Phật mà tu hành “Ba đời chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa, nên được đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng, Chánh Giác”. Y vào Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng chính là y vào pháp môn Niệm Phật vậy.
6. Pháp môn Niệm Phật là Pháp Nhất Thừa.
Kinh Pháp Hoa có đoạn:
“Trong cõi Phật mười phương
Chỉ có Pháp Nhất thừa
Không hai, cũng không ba
Tùy Phật phương tiện nói”.
Pháp Nhất Thừa là Pháp tu thẳng thành Phật, chính là Pháp môn Niệm Phật. Vì Niệm Phật là nhân, vãng sinh là quả. Trong kinh Niệm Phật Ba La Mật, đức Phật Thích Ca xác quyết
“Vãng sinh là thành Phật”. Thế nên Pháp môn Niệm Phật là Pháp môn Nhất Thừa vậy. “Không hai cũng không ba”. Là không có Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Bồ Tát thừa. Phương tiện mà Phật nói ra thôi (pháp phương tiện).
Muốn hiểu ý này phải biết đến câu nói của Tổ Thiện Đạo trong “Niệm Phật Cảnh”.
Hỏi: Tu hành tự lực (pháp phương tiện) y theo lời dạy trong Kinh Phật bao giờ thành tựu? Tu hành nương theo Tha lực đến bao giờ thành tựu?
Đáp: Tu hành tự lực theo Kinh Phật, từ khi mới phát tâm, trải qua một đại a tăng kỳ kiếp mới đến Sơ địa (ngang với quả vị A La Hán), lại trải qua một đại a tăng kỳ kiếp nữa, mới đến Bát Địa. Đây là tự lực.
Tu hành theo Tha lực là Pháp môn Niệm Phật, mau thì một ngày, chậm thì bẩy ngày, niệm Phật A Di Đà vãng sinh Tịnh Độ, ngang hàng với Bồ Tát Bát Địa. Tại sao? Vì nương sức mạnh Bản Nguyện của Đức Phật A Di Đà. Trong kinh A Di Đà nói: “…Chúng sinh được sinh về Cực Lạc đều là bậc Bất thối chuyển..”, tức là Bồ Tát Bát địa vậy.
Qua lời đáp của Tổ Thiện Đạo, nảy sinh hai ý : Sự so sánh về thời gian tu hành, một lần nữa lại thấy cái “lợi không thể nghĩ bàn” của Pháp môn Niệm Phật. Mặt khác, lại đặt câu hỏi: Tu hành tự lực theo pháp phương tiện lâu đến không tưởng tượng được như thế (còn thêm một đại a tăng kỳ kiếp nữa mới chứng quả vị Phật), thì trong cõi Phật mười phương, có bao nhiêu chúng sinh tu được thành Phật? May thay đã tìm được câu trả lời . Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội, Phật chỉ rõ: “..Tất cả chư Phật quá khứ, vị lai và hiện tại, trong mười phương ba đời, đều học Pháp môn Niệm Phật, mau chứng được đạo Giác Ngộ Vô Thượng”. Kinh A Di Đà cho biết, giáo đoàn của Phật có 1250 vị Đại A La Hán. Việc chứng quả vị A La Hán, lại nhiều và dễ như vậy sao? Như năm anh em Kiều Trần Như chỉ nghe Phật nói xong Pháp Tứ Diệu Đế đều chứng ngay quả vị A La Hán, Ni Đề người gánh phân thuê, Ưu Ba Ly thợ cúp tóc, dâm nữ Ma Đăng Già…được Phật cho nhập giáo đoàn, một thời gian ngắn cũng chứng quả vị A La Hán. Chắc chắn không phải chúng sinh phàm phu tu hành cho đến khi gặp Phật mà chứng được quả vị A La Hán đâu. Các vị đệ tử này đều là những vị Đại Bồ Tát, như ông Xá Lợi Phất là hóa thân của Bồ Tát Đại Thế Chí..giáng sinh xuống thế gian cùng với Phật, để hỗ trợ Phật giáo hóa chúng sinh đó thôi. Phật phương tiện nói ra Pháp Thanh Văn, lại cả nghìn đệ tử thị hiện chứng A La Hán, cũng vì chúng sinh chấp tướng, mê tín hay tin những sự thần bí lạ kỳ. Có vậy mới khiến cho các vị Quốc vương thỉnh Phật đến giáo hóa cho thần dân của nước họ. Về sau, để bảo tồn và chấn hưng Phật pháp ở Trung Quốc, qua các triều đại cũng có nhiều vị Phật hoặc Bồ Tát thị hiện như vậy. Chỉ kể trong 13 vị Tổ của Tịnh Tông, trừ Tổ Thiện Đạo (Nhị Tổ), là hóa thân của đức Phật A Di Đà. Tổ Ấn Quang (Tổ thứ 13) là hóa thân của đức Đại Thế Chí Bồ Tát là hai Tổ tu theo pháp môn Niệm Phật mà chứng được Niệm Phật Tam Muội. Còn lại 11 vị Tổ đều tu Thiền đã khai ngộ. Tổ Vĩnh Minh (Tổ thứ 6) là hóa thân của Phật A Di Đà tu thiền đắc đạo làm Tổ rồi chuyển sang tu Tịnh và hoằng truyền pháp môn Niệm Phật. Các Tổ khác cũng thị hiện như vậy, nhưng chưa để lộ thiên cơ đó thôi.
7. Kết luận.
Đường lối tu hành Phật dạy trong Kinh Pháp Cú thật rõ ràng, minh bạch, khiến người theo Phật, hiểu đúng đức Phật và đạo Phật nhập thế. Là kim chỉ nam giúp chúng sinh không bị lạc đường trong quá trình tu hành tìm đường giải thoát. Mặt khác, lại thấy được sự giống và khác giữa đạo Phật và ngoại đạo. Càng thêm tin tưởng, tự hào là đã có phúc duyên theo Phật từ nhiều kiếp làm người đến nay. Và kiếp này “.. quyết định thấy Phật, cách Phật chẳng xa..”(kinh Lăng nghiêm) để được đền ơn trong muôn một, Đức Bổn Sư Thích Ca chỉ đường, Đức Từ Phụ A Di Đà tiếp dẫn và Chư Phật mười phương hộ niệm.
B. KẾT QUẢ TU HÀNH
Kết quả tu hành là được vãng sinh về Tịnh Độ và tu tiếp thành Phật.
- Người được vãng sinh không còn phải chịu tám khổ nữa “.. chúng sinh cõi ấy, không có những khổ, chỉ hưởng toàn vui, bởi thế cho nên gọi là Cực Lạc…” (kinh A Di Đà).
Ta đang chịu tám khổ, từ vô thủy kiếp đến nay, mà chỉ sau sát na lâm chung Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tịnh Độ, tức cõi Tây Phương Cực Lạc. Ta không còn phải chịu tám khổ nữa. Thế thì cái “lợi ”ấy làm sao mà nghĩ cho hết, bàn cho hết được.
- Cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà có chín phẩm hoa sen (Cửu phẩm liên hoa ). Gồm:
· Ba phẩm hạ : Hạ hạ phẩm, Trung hạ phẩm, Thượng hạ phẩm.
· Ba phẩm trung: Hạ trung phẩm, Trung trung phẩm, Thượng trung phẩm.
· Ba phẩm thượng: Hạ thượng phẩm, Trung thượng phẩm, Thượng thượng phẩm.
Theo Tổ Tri Húc (Tổ thứ 9 Tịnh Tông Trung Quốc): “ Được sinh cùng chăng , toàn do tín nguyện có hay không .Phẩm Sen cao hay thấp , đều do trì danh sâu hoặc cạn .”
· Tin sâu, nguyện thiết nhưng niệm Phật còn nhiều tán loạn, được vãng sinh thì về Hạ hạ phẩm. `
· Tin sâu nguyện thiết, niệm Phật ít tán loạn thì được sinh về Trung hạ phẩm.
· Tin sâu nguyện thiết, niệm Phật không còn tán loạn thì được sinh về Thượng hạ phẩm.
· Chứng Niệm Phật Tam Muội Sự thì về ba Phẩm Trung.
· Chứng Niệm Phật Tam Muội Lý thì về ba Phẩm Thượng.
- “..Chúng sinh được vãng sinh về Cực Lạc,đều là bậc Bất Thối Chuyển” (Kinh A Di Đà) . Sống trong định bằng trí tuệ Thành sở tác trí, muốn thứ gì thứ đó hiện ra, rồi tự biến mất và Diệu quan sát trí đó là Lục thần thông. Vì sống ở Tịnh Độ được sự gia trì của Đức Phật A Di Đà, nên tâm của họ dung thông với tâm của Phật A Di Đà, vì thế Lục thần thông của họ rất vi diệu (Kinh A Di Đà đã nói lên sự vi diệu này).
- Vì được vãng sinh mà nghiệp ác vẫn còn, nên gọi là đới nghiệp vãng sinh. Các chủng tử nghiệp này, còn trong tàng thức. Quá trình tu tiếp ở Tịnh Độ là quá trình chuyển hóa các chủng tử nghiệp của Kiến hoặc, Tư hoặc, Trần sa hoặc và Vô minh hoặc. Chủng tử nghiệp chuyển hóa tới đâu, sẽ được lên phẩm cao tương ứng. Nếu chuyển hóa hết Trần sa hoặc, Mạt na thức sẽ chuyển thành Bình đẳng tính trí, diệt hoàn toàn ngã chấp (vô ngã),chúng sinh đó đã chứng được Lý vô sinh,tức gặp Phật lần thứ 2. Kinh Lăng Nghiêm cho biết: “..Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật, niệm Phật, đời này, đời sau quyết định thấy Phật, cách Phật chẳng xa..”. Cách Phật chẳng xa là đã được sinh về Tịnh Độ. Đời này quyết định thấy Phật, chính là sát na lâm chung, thấy được Ứng thân Phật. Đời sau quyết định thấy Phật, là lúc chứng lý vô sinh ở Tịnh Độ, thấy được Báo thân Phật. Chứng được lý Vô Sinh rồi, thì có khả năng phân thân trở về Ta Bà, hoặc cõi nào khác để hóa độ chúng sinh. Chứng lý Vô Sinh là đã lên Phẩm Thượng, tu tiếp chuyển hóa dần Vô minh hoặc, chuyển hóa Vô minh đến đâu, sẽ chứng dần Pháp thân Phật đến đấy, đoạn Vô minh hoặc là chứng Quả vị Phật. Thật đúng với lời xác quyết của đức Phật Thích Ca trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật: “.. Bởi vậy mà Ta, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn hôm nay trân trọng xác quyết rằng: Vãng sinh đồng ý nghĩa với thành Phật, vì Vãng sinh tức là thành Phật”.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Đạo Phật ở thế gian gọi là đạo giải thoát, giải thoát khỏi sự trói buộc, giam hãm chúng sinh trong biển khổ luân hồi từ vô thủy kiếp đến nay.
Phật nói: “Như nước biển kia duy nhất chỉ có một vị mặn, đạo của Ta duy nhất chỉ có vị giải thoát”. Trong Niệm Phật Tông Yếu, có câu: “..Chúng ta bị kẻ thù tham sân, phiền não, cột trói mà giam hãm trong lồng chậu của Tam giới. Hãy nghĩ tới mẹ hiền Di Đà, dùng thanh Bảo kiếm danh hiệu, chặt đứt dây trói sinh tử, lên con thuyền Bổn Nguyện, sang đến bờ bên kia. Nước mắt hoan hỷ rơi ướt áo, lòng mong mỏi khôn nguôi”.
2. Trong thời kỳ Mạt pháp, chỉ có Pháp môn Niệm Phật mới giúp chúng sinh tu hành để giải thoát khỏi luân hồi sinh tử và tu tiếp thành Phật. Nên Pháp môn Niệm Phật là Chính Pháp của Phật vậy.
Trong Kinh Đại Tập Phật chỉ dạy “.. Thời kỳ Mạt pháp, muôn ức người tu hành, không có lấy một người giải thoát, chỉ nương vào Pháp môn Niệm Phật mà ra khỏi luân hồi”.
3. Tu hành ở giai đoạn I là tu tự lực theo Pháp phương tiện “Ngũ thừa Phật giáo”, tìm đạo ở ngoài tâm, còn gọi là ngoại đạo, chính là tu thức.
Tu hành ở giai đoạn II là tu Tha lực theo Pháp môn Niêm Phật, pháp môn Nhất thừa, pháp môn tu tâm thanh tịnh nên gọi là tu tâm.
4. Phật dạy: “..theo Ta mà không hiểu Ta, là nhạo báng Ta vậy ! ”.
Tổ Sư Ấn Quang đã làm rõ ý này của Phật, trong bức thư gửi cư sỹ Uông Võ Mộc: Pháp môn Niệm Phật là “.. Pháp môn rộng lớn, độ khắp chúng sinh của Như Lai, sẽ bị các hạ vùi sâu đóng kín, không được mở thông, lỗi ấy đồng với tội khinh báng Phật, Pháp, Tăng”.. Thế nên tu hành mà không theo đúng đường lối Phật dạy trong Kinh Pháp Cú là không hiểu Phật vậy!. Tôi viết bài này sau thời gian lập thất chuyên tu Pháp môn Niệm Phật và tâm linh thôi thúc.
Tôi y vào Kinh Phật và lời Tổ để viết bài, coi như văn sao. Cảm nhận rất rõ sự gia hộ của Phật khi nghĩ cũng như khi viết, những mong được đóng góp một phần rất nhỏ bé vào việc hoằng dương Pháp môn Niệm Phật.
Khi viết bài, ý còn nông cạn, lời văn lại thô thiển, không khỏi những chỗ sai lầm. Thỉnh mong chư vị độc giả chỉ bảo cho.
Nếu được chút công đức nào, xin đem hồi hướng cho bốn ân ba cõi, nguyện cùng khắp pháp giới chúng sinh đồng sinh về Cực Lạc.
Ai về Tây Phương, tôi rủ cùng về
Cực Lạc ở xa, là nhà ta đó
Ai về Tây Phương, phải niệm Di Đà
Lâm chung Phật hiện, đến đón chúng ta.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ĐẠI TỪ ĐẠI BI TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT.
BẢN THUYẾT MINH SƠ ĐỒ GIẢI THÍCH SÁT NA LÂM CHUNG PHẬT TIẾP DẪN VỀ TỊNH ĐỘ VÀ TU TIẾP THÀNH PHẬT.
(Bảng sơ đồ ở trang cuối sách).
I. DÒNG : Gồm có 6 dòng.
Dòng 1.
* Phật có ba thân gồm: ứng thân, báo thân, pháp thân.
Là một thể thân hào quang năng lượng nhưng gồm ba mức năng lượng khác nhau bao chùm khắp pháp giới.
- Ứng thân: ở mức năng lượng thấp nhất.
- Báo thân: ở mức năng lượng cao hơn.
- Pháp thân: ở mức năng lượng cao nhất.
* Tùy theo cơ cảm khác nhau mà chúng sinh thấy được thân nào của Phật mà thôi:
- Nếu tu chứng mà đắc quả vị A La Hán, niệm Phật tha lực mà chứng Niệm Phật Tam Muội Sự, hoặc đới nghiệp vãng sinh thì thấy được Ứng thân Phật.
- Nếu tu chứng mà đắc Bát Địa Bồ Tát hoặc ở Tịnh độ mà chứng được Bồ Tát Bất Thoái thì thấy được Báo thân Phật.
-Nếu tu chứng mà đắc Cửu Địa Bồ Tát trở lên hoặc niệm Phật tha lực mà chứng Niệm Phật Tam Muội Lý, và tu tiếp thì dần dần thấy hết được Pháp thân Phật.
* Như vậy thân Phật chỉ là một thể năng lượng luôn luôn hiện tiền, bao chùm khắp pháp giới.
Ví như chiếc đỉnh phải có đủ ba chân, chữ Y phải có đủ 3 gạch, không thể tách rời nhau được.
Dòng 2.
Ứng với ba mức hào quang năng lượng khác nhau (ba thân) mà Phật có bốn trí:
- Thành sở tác trí.
- Diệu quan sát trí
- Bình đẳng tính trí
- Đại viên kính trí (trí bát nhã hay trí tuệ của chân tâm).
* Mức năng lượng thấp nhất (Ứng thân Phật), có trí tuệ Thành sở tác trí và Diệu quan sát trí (Lục thần thông).
* Mức năng lượng cao hơn (Báo thân Phật), có Bình đẳng tính trí.
* Mức năng lượng cao nhất (Pháp thân Phật), có Đại viên kính trí.
Còn thêm Ba minh là :
- Thiên nhãn minh
- Túc mạng minh
- Lậu tận minh
Và năm nhãn là :
- Nhục nhãn
- Thiên nhãn
- Tuệ nhãn
- Pháp nhãn
- Phật nhãn
Dòng 3
Tâm phàm phu gồm :
* Thức tâm phan duyên: do sáu căn (mắt, tai, mũi,lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với sáu trần (Sắc, thanh hương, vị, xúc, pháp) tạo ra sáu thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức). Chúng sinh mê lầm nhận là tự tính. Sáu thức này sinh diệt.
* Thức tinh nguyên minh.
Hay căn bản Bồ Đề chính là nguồn sinh sống của mình mà không tự biết. Duy thức luận gọi là thức thứ 8 là thức A lại da hay là tâm, chính là thần thức vậy.
Dòng 4,5.
* Chúng sinh mê lầm là do năm uẩn ngăn che trí tuệ mà sinh ra năm ấm: Sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm. Là năm lớp mê lầm thuộc về tâm.
* Do tâm mê lầm mà sinh ra phiền não gọi là Lậu hoặc gồm: Kiến hoặc, Tư hoặc, Trần sa hoặc và Vô minh hoặc.
Dòng 6.
* Thần thức theo nghiệp dẫn đi đầu thai vào lục đạo luân hồi, thuộc cảnh giới phàm (Tam giới).
* Thần thức chuyển sinh sang cảnh giới Thánh:- Niết bàn A La Hán.
- Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà.
II. CỘT.
1. Bốn cột thuộc năm dòng trên:
* Cột 1 : Chỉ tâm Phật (giác) . Tâm chúng sinh (mê).
* Cột 2: Chỉ rõ mối quan hệ lưu chuyển giữa tâm Phật (giác). Tâm chúng sinh (mê) thuộc cảnh giới phàm.
* Cột 3 và 4: Chỉ rõ mối quan hệ, lưu chuyển giữa tâm Phật (chân tâm) với Thức tâm nguyên minh (thần thức) thuộc cảnh giới Thánh.
2. Hai cột thuộc dòng thứ 6:
* Cột 1: Cảnh giới Phàm (Tam giới) * Cột 2: Cảnh giới Thánh (Tịnh Độ).
III/ CỬA ẢI VƯỢT LUÂN HỒI SINH TỬ:
Tượng trưng bởi giao điểm của hai dòng kẻ:
1. Dòng kẻ dọc, chia đôi sơ đồ (kể từ dòng kẻ ngang thứ 3 trở xuống), tượng trưng cho đường biên giới của cảnh giới phàm phu và Thánh xuất thế gian.
2. Dòng kẻ ngang, là dòng kẻ thứ 4 kể từ trên xuống. Tượng trưng cho con đường tu hành tự lực hay tha lực.
Khi phá xong: Sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm. Kiến hoặc, Tư hoặc sẽ không còn .
Nhãn thức, Nhĩ thức, Thân thức chuyển thành Thành Sở Tác Trí.
Ý thức chuyển thành Diệu Quan Sát Trí.
Sinh tử luân hồi kết thúc ở tại giao điểm giữa hai dòng kẻ. Cửa ải vượt luân hồi mở tung. Thần thức chuyển sinh sang cảnh giới Thánh (mô tả chi tiết trong sơ đồ dòng 6 cột 2).
3. Giao điểm giữa hai dòng kẻ này cũng tượng trưng cho điểm kết thúc mạng sống của một chúng sinh phàm phu tội chướng, được gọi là sát na lâm chung.
* Sát Na Lâm Chung là một loáng thời gian trước khi chết. Vì ở thời điểm này, sáu căn vừa liệt hoại, khiến cho năm uẩn đột ngột không ngăn che trí tuệ tâm Phật. Và ba ấm : Sắc, Thọ, Tưởng cũng đột ngột bị diệt trong Sát Na Lâm Chung. Nên cửa ải vượt luân hồi sinh tử mở ra trong Sát Na Lâm Chung đó. Nhưng vì chúng sinh tội chướng luôn sống trong mê lầm. lại bị nghiệp lực mạnh mẽ cột chặt, nên tuy có thời cơ của ải vượt luân hồi sinh tử mở, mà tự mình không vượt qua được. Thần thức bị nghiệp lực dẫn đi đầu thai trở lại trong ba cõi (mô tả chi tiết ở dòng 6 cột 1).
IV. THỜI CƠ CỦA CHÚNG SINH PHÀM PHU TỘI CHƯỚNG ĐƯỢC PHẬT A DI ĐÀ TIẾP DẪN VỀ CÕI TỊNH ĐỘ CỦA NGÀI.
Dựa vào đặc điểm của thời cơ cửa ải vượt luân hồi sinh tử mở lúc sát na lâm chung của mỗi chúng sinh phàm phu tội chướng, Đức Phật A Di Đà đã phát Đại Nguyện Tiếp Dẫn chúng sinh về cõi Tịnh Độ của Ngài. Đó là Đại Nguyện thứ mười tám trong Bốn mươi tám Đại nguyện của đức Phật A Di Đà, được gọi là Di Đà Bản Nguyện: “Nếu chúng sinh nào muốn về nước Ta, một lòng tin ưa, xưng danh hiệu Ta cho đến mười niệm, như không được sinh, Ta không thành Phật”. Di Đà Bản Nguyện thâu tóm thành 3 điều kiện: Tin sâu, Nguyện thiết, Niệm Phật chuyên cần.
-Không nghi ngờ về chuyện vãng sinh thì gọi là tin sâu.
- Một lòng cầu sinh Tịnh Độ, ngoài ra không có một mong cầu gì khác, thì gọi là Nguyện thiết.
Vậy nếu chúng sinh nào (người nào) muốn tận dụng thời cơ CỬA ẢI VƯỢT LUÂN HỒI SINH TỬ MỞ lúc sát na lâm chung thì phải tu theo pháp môn Niệm Phật.
Nghĩa là người ấy phải không nghi ngờ gì về chuyện vãng sinh và một lòng cầu sinh Tịnh Độ mà Niệm Phật ( tức niệm Phật Tha Lực) thì đến Sát Na Lâm Chung, Cửa ải Vượt Luân Hồi Sinh Tử mở, người ấy nhất định sẽ thấy Phật bằng trí tuệ tâm Phật. Sẽ được Phật A Di Đà phóng quang nhiếp thọ (thu nhận) thần thức và chuyển sinh sang thân kim sắc trong vùng phủ sóng hào quang, tức cõi Tịnh Độ của Ngài. Trong Niệm Phật Tông Yếu, Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân (Sơ Tổ Tịnh Tông Nhật Bản ) là hóa thân của Bồ Tát Đại Thế Chí có câu: “Sát na lâm chung dễ như cắt sợi tơ, người ngoài không thấy được, chỉ có Phật và người tu niệm Phật mới biết được mà thôi”. Tổ Thiện Đạo (Tổ thứ hai Tịnh Tông Trung Quốc) là hóa thân của Đức Phật A Di Đà có lời khuyên:
“Chỉ nhớ niệm Phật, không việc khác
Lắng tâm quyết định, nguyện về Tây
Lâm chung tự thấy Như Lai đến”.
“Niệm Phật, trước trừ tâm tham ái
Lâm chung tâm định thấy Di Đà
Tợ trăng sáng tỏ soi đầm biếc”.
(Trích Niệm Phật Cảnh).
Kinh Lăng Nghiêm, chương Đại Thế Chí niệm Phật, có đoạn: “..Ví như hai người, một người chuyên nhớ, một người chuyên quên, hai người như thế, dẫu có gặp nhau cũng như chẳng gặp, dù có thấy nhau, cũng như chẳng thấy..”. “.. Một người chuyên nhớ..” dụ cho đức Phật A Di Đà và người niệm Phật có đủ ba điều kiện, khi gặp nhau thấy nhau thì nhận ra ngay, nên trong Kinh A Di Đà, Phật Thích Ca bảo là “..tâm không điên đảo…” còn “người chuyên quên”, dụ cho người không tin pháp môn Niệm Phật, không nhớ Phật niệm Phật, đến khi lâm chung, muôn niệm luôn duyên theo cảnh trần, nên “..Phật đón ở trước mặt. Thấy mà như không thấy”. đúng là điên đảo, ví như “trốn chạy”. Đoạn tiếp trong Kinh Lăng Nghiêm: “..Mười phương Như Lai, thương nhớ chúng sinh như mẹ thương con, nếu con trốn chạy, dẫu mẹ có nhớ, chẳng làm gì được. Nếu con nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, mẹ con đời đời chẳng rời xa nhau..”. Chỉ đến Sát Na Lâm Chung, tâm của chúng sinh mới đồng với tâm của Phật, nên cái nhớ mới “như” nhau được. Có “như” vậy, Phật mới phóng quang tiếp dẫn chúng sinh về cõi Tịnh Độ của Ngài được. Còn “..Nếu con trốn chạy” tức là bỏ lỡ thời cơ cửa ải vượt luân hồi sinh tử mở thì “..dẫu mẹ có nhớ, không làm gì được”. Vậy qua phân tích như ở trên, thấy rõ nếu chúng sinh không có thời cơ của ải vượt luân hồi sinh tử mở ra lúc sát na lâm chung thì Phật A Di Đà cũng không có cơ hội cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ luân hồi được.
V. TU TIẾP THÀNH PHẬT Ở TỊNH ĐỘ.
Chúng sinh tội chướng được Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tịnh Độ, được gọi là đới nghiệp vãng sinh. Các chủng tử nghiệp này còn trong tàng thức. Quá trình tu tiếp ở Tịnh Độ là quá trình chuyển hóa các chủng tử nghiệp của Kiến hoặc, Tư hoặc, Trần sa hoặc và Vô minh hoặc. Các chủng tử nghiệp chuyển hóa tới đâu, sẽ được lên phẩm cao tương ứng. nếu chuyển hóa hết Trần sa hoặc, Mạt na thức sẽ chuyển thành Bình Đẳng Tính Trí, diệt hoàn toàn ngã chấp. chúng sinh đó đã chứng được Lý Vô Sinh, tức gặp Phật lần thứ hai. Kinh Lăng Nghiêm có đoạn: “..nếu tâm chúng sinh nhớ Phật niệm Phật, đời này, đời sau quyết định thấy Phật, cách Phật chẳng xa..”. “..cách Phật chẳng xa” là đã được sinh về Tịnh Độ. “..đời này quyết định thấy Phật..”, chính là sát na lâm chung, thấy được ứng thân Phật. “..đời sau thấy Phật.” là lúc chứng Lý Vô Sinh ở Tịnh Độ, thấy được Báo thân Phật. Chứng Lý Vô Sinh rồi thì có khả năng phân thân trở về Ta Bà hoặc cõi nào khác để hóa độ chúng sinh. Chứng Lý Vô Sinh là đã lên tới Phẩm Thượng, tu tiếp chuyển hóa dần Vô minh hoặc. Chuyển hóa Vô minh hoặc đến đâu, sẽ chứng được Pháp thân Phật đến đấy. Đoạn Vô minh hoặc là chứng quả vị Phật. Tôi mạnh dạn viết ra những điều trên: Bản sơ đồ, Thuyết minh sơ đồ, là do tâm linh thôi thúc, muốn được chia sẻ với các bạn đồng tu về pháp môn Niệm Phật. Đó là kết quả của quá trình chuyên tu pháp môn Niệm Phật của tôi và nhờ sự gia hộ của mười phương chư Phật khi nghĩ cũng như khi viết vậy.
Là những ý nghĩ chủ quan của một người chuyên tu Niệm Phật thời gian còn ngắn, không tránh khỏi những điều nông cạn, thiếu sót hoặc sai lầm. Thỉnh mong Chư vị độc giả chỉ bảo cho.
Nếu được chút công đức nào, xin đem hồi hướng cho Bốn ân, Ba cõi, nguyện cùng khắp pháp giới chúng sinh, đồng sinh về Cực Lạc, đồng trọn thành Phật Đạo.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, đại từ, đại bi, Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
Cư sĩ Như Trụ kính biên soạn và ấn tống.
Thế danh: Dương Nguyễn Thạch
Địa chỉ: 110 dãy B khu tập thể 3 tầng –
Phố Lê Hồng Phong – Quận Hà Đông – TP Hà Nội
ĐT: (04)33511553.
1. Tâm sự về câu. Sống gửi, thác về” (Sinh ký- Tử quy). Trang 2- 20
2. Nhận thức về Đường lối tu hành Phật dạy trong Kinh Pháp Cú. Trang 21- 61
3. Sơ đồ giải thích Sát na lâm chung Phật tiếp dẫn về Tịnh Độ và tu tiếp thành Phật. Trang 62- 80
TÂM SỰ VỀ CÂU “SỐNG GỬI , THÁC VỀ (Sinh ký- Tử quy).
Người xưa nói: “Sống và chết là hai việc lớn nhất của đời người” (Sinh tử sự đại). Thói thường, con người chỉ chú ý đến việc sống, chỉ chuẩn bị cho việc sống, hết lòng hết sức phục vụ cho cái thân sống già, chết bệnh. Nếu chợt nói đến cái chết, thì cho là gở mồm gở miệng, thảng hoặc có nói đến cái chết thì chỉ mong sao đau một giây chết một giờ, đừng phải ốm đau tốn kém, nằm liệt giường liệt chiếu, khổ mình khổ con cháu. Cầu cho lúc ra đi được thanh thản, mát mẻ…,với tâm lý như thế thì biết sao đến câu “Sống gửi, thác về”. “Sống gửi” thì nhiều người biết, bởi mỗi người đều có một mệnh sống nhất định, dài ngắn khác nhau, đến lúc mệnh hết thì phải chết. Nhà Y có câu “Chữa được bệnh, không chữa được mệnh”. Mỗi người chỉ sống gửi ở thế gian này một thời gian mà thôi! Còn đi đâu? (ra đi). Về đâu? (Sống gửi chết về) là điều cần phải biết.
Thời nay người ta thường cho rằng, chết là hết. Đạo Thiên Chúa cho rằng khi chết sẽ được Đức Chúa cứu rỗi về Thiên Đàng làm con chiên của Chúa hoặc phải đọa mãi nơi địa ngục u tối. Còn đạo Phật (trừ các vị tu đã đắc đạo, hoặc được Phật A Di Đà tiếp dẫn về cõi Tịnh Độ của Ngài) thì chết là luân hồi vào sáu nẻo (lục đạo hay sáu cõi giới).
gồm ba cõi lành: Trời, A tu la, Người và ba cõi ác: Súc sinh, Ngã quỷ, Địa ngục.
Phật nói: “Chúng sinh khi chết, được sinh về cõi lành, ít như đất dính vào móng tay Phật, còn bị đọa vào cõi ác nhiều như đất ở đại địa”.
Bởi thế nên ai nói chết là ra đi chắc hẳn sẽ đi “sống gửi” (luân hồi) vào ba cõi ác là chính. Bởi vì khi sống, mấy ai đã sống vì người (vị tha), thường chỉ sống vì mình (vị kỷ) lợi mình thì làm sao mà tránh làm việc ác được. trong Kinh Phật dạy: Nếu làm việc ác nhiều hơn việc lành, thì khi chết (ra đi) sẽ bị đọa lạc vào cõi ác, hoặc lâm chung (hấp hối) mà khởi niệm (ý nghĩ) quyến luyến tình cảm, thì cũng khó được siêu thoát (sinh về cõi lành), ắt phải đọa lạc vào cõi âm (u minh) trầm luân khổ ải, còn nói chết là hết thì nên nghĩ lại. Vì sao? Tâm linh con người chính là nguồn năng lượng sinh học, Phật pháp gọi là Thần thức. Bát Nhã Tâm Kinh có đoạn “..Tính không của vạn Pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt..” Tính không, chính là tính Phật, là nguồn năng lượng sinh học, là thần thức đó. Nhờ nó mà con người vừa lọt lòng mẹ đã biết thấy, biết nghe, biết ngửi, biết nóng lạnh…những tính này tồn tại thường trực, không thay đổi trong suốt cuộc đời của mỗi con người. Còn hài nhi lớn lên, thể xác thay đổi theo thời gian là do tế bào sinh diệt không ngừng, nhờ vào nguồn thức ăn cung cấp hàng ngày. Lớn lên, tính tình thay đổi, kiến thức sâu rộng, ít nhiều đều nhờ vào sự học hành, trau dồi qua kinh nghiệm sống mà có, lúc nhớ lúc quên, thay đổi không ngừng…Như vậy thì sau cái chết (ra đi), cái gì trong quá trình sống mà sinh diệt thay đổi và có được là do vay mượn thì bị hủy diệt (hết). Còn thần thức là nguồn năng lượng không sinh diệt, cộng với ý chí muốn sống mãnh liệt của con người, nên nó chỉ chuyển từ hình thức sống này(thân này) sang hình thức sống khác (thân khác) mà thôi. Khi sống nếu sống vì người (tạo thiện nghiệp) thần thức sẽ mở rộng (nhẹ) khi chết sẽ đi lên, tức sinh vào các cõi lành. Nếu sống vì mình (tạo ác nghiệp) thì thần thức sẽ co lại (nặng) khi chết sẽ đi xuống, tức sinh vào các cõi ác. Thật đúng với lời dạy của Phật: “Khi chết muôn thứ mang chẳng được, chỉ có nghiệp theo mình” Thế nên nói chết là hết, là điều không chấp nhận được.
Còn nói “Thác về” thì về đâu? Cứ nhìn vào các đám tang, hầu hết các tang chủ (trừ người theo đạo Thiên Chúa), đều nhờ nhà Sư và các vãi, đến nhà tụng Kinh Di Đà, niệm Phật để cầu siêu cho vong được sinh về Tịnh Độ (vãng sinh Tịnh Độ). Người đến viếng cũng cầu siêu cho vong như vậy. Trong 35 hoặc 49 ngày (thất thất lai tuần) cũng nhờ các vãi đến làm các khóa lễ cầu siêu như vậy. Sau 35 ngày hoặc 49 ngày, đưa vong lên chùa, cũng cầu siêu như vậy. Không phải ngày nay, mà tập tục này đã có từ ngàn năm nay. Rõ ràng, ý nghĩa của “thác về” là sinh về Tịnh Độ vậy. Lại nữa, chúng sinh vốn đầy đủ đức năng và trí tuệ như Phật, không hai không khác, nhưng vì khởi niệm (ý nghĩ) mê muội, nên bị tham sân thúc đẩy, gây bao tội lỗi (nghiệp) xấu ác, vì thế mà phải trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, chịu bao nhiêu thống khổ, từ vô lượng kiếp đến nay.
Cầu sinh về Tịnh Độ, là để chấm dứt cảnh “sống gửi” mà sống cùng với Phật “… Ngài cùng nhân dân sống lâu vô cùng không thể kể xiết ..” (Kinh A Di Đà) thì mình là chủ nhân rồi, nên Tịnh Độ là nhà mình vậy. Vì thế nên gọi là “thác về”.
Sinh về Tịnh Độ là sống trong vùng phủ sóng hào quang của Đức Phật A Di Đà, nên được Phật lực bảo hiểm và gia trì mà có các khả năng như: có thân kim sắc như Phật, có sáu thứ thần thông tự tại, lại được sống trong cảnh giới trang nghiêm mỹ lệ, như có : ao thất bảo, có lầu các bằng vàng bạc, pha lê, lưu ly, xà cừ, xích châu, mã não… Lại có Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp, có các chúng Bồ Tát và các chúng Thanh Văn vô lượng vô biên, cho đến cả tiếng chim kêu, gió thổi cũng đều thuyết Pháp nhắc nhở tu hành. Chúng sinh trong cõi đó sống lâu vô cùng, không cần lo việc ăn mặc, không có đàn ông, đàn bà, hàng ngày chỉ biết cúng giàng Tam Bảo, tinh tấn tu hành không bị thoái chuyển, mà tiến dần từ phẩm thấp lên phẩm cao (Tịnh Độ có chín phẩm hoa sen, gồm 3 phẩm hạ, 3 phẩm trung, 3 phẩm thượng). Tự mình tu hành, đạt đến địa vị của Bồ Tát Bất thoái (hạ thượng phẩm) sẽ có khả năng phân thân đi các cõi, hoặc trở lại Ta Bà để độ chúng sinh được vãng sinh Tịnh Độ. Cứ tu tiếp như thế, từ Bồ Tát Bất Thoái trở lên, cho tới đạt quả vị Phật, là trở về với chính mình là Phật, các vị Phật cũng đều từ chúng sinh mà tu thành. Thế nên gọi là “thác về”.
Tập tục cầu siêu nêu ở trên là dẫn chứng để ta hiểu ý nghĩa câu “Sống gửi, thác về” của người xưa mà thôi. Còn có được vãng sinh Tịnh Độ hay không thì lúc sống phải tu hành theo lời chỉ dạy của Đức Phật Thích Ca (Phật Tổ) qua các Kinh luận gọi là Pháp môn Tịnh Độ hay Pháp môn Niệm Phật cầu vãng sinh. Tập tục cầu siêu chỉ là trợ duyên cho vong sớm đi đầu thai, hoặc có thể sinh vào cõi lành, hoặc đỡ bị lầm lạc mà đọa sâu vào các cõi ác. Còn được vãng sinh thì muôn người chưa chắc được một. Cầu siêu còn có tác dụng an ủi người sống, cho họ có thêm cơ hội báo hiếu với người quá cố mà thôi.
Tóm lại “thác về”, là về nhà mình (Tịnh Độ), về với chính mình (là Phật). Nghĩa là được giải thoát khỏi luân hồi sinh tử và tu tiếp thành Phật nhờ lực gia trì của đức Phật A Di Đà.
Nhìn lại cuộc đời đã qua, hầu hết chúng ta đều lo cho việc “sống gửi”, còn chuyện “thác về” thì chẳng chuẩn bị được gì? Nay biết được ý nghĩa của việc “thác về” rồi, thì phải lo chuẩn bị ngay kẻo muộn. Trong Kinh A Di Đà có đoạn Phật Thích Ca nhắc nhở: “…nếu có ai tin thì mau phát nguyện sinh về An Lạc”( Tịnh Độ). Vậy muốn về Tịnh Độ, ta phải lo chuẩn bị những gì ?. Y vào Đại Nguyện tiếp dẫn của Phật A Di Đà. “….nếu chúng sinh nào muốn về nước Ta, một lòng tin ưa, xưng danh hiệu Ta, cho đên mười niệm như không được sinh, Ta không thành Phật.” Phật Thích Ca đã nói Kinh A Di Đà để chỉ dẫn, nói rõ lợi ích của Đại Nguyện và khuyến khích chúng sinh tu hành theo đúng Đại Nguyện để đến sát na (đơn vị thời gian rất nhỏ so với một giây) lâm chung, có đủ điều kiện được Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tịnh Độ. Những điều kiện đó là : Tín, nguyện. hạnh. Các Tổ của Pháp môn Tịnh Độ gọi là ba món tư lương. Hiểu rõ và có đủ ba món tư lương, là điều kiện quan trọng nhất của người tu niệm Phật cầu vãng sinh. Vậy tư lương là gì? Tư lương là những thứ, người tu Tịnh Độ cần phải có và luôn thường trực trong tâm mình, từ khi phát tâm tu cho đến lúc lâm chung, không thoái chuyển. Muốn chắc chắn được vãng sinh thì phải tin sâu, nghĩa là không nghi ngờ gì về chuyện vãng sinh cả. Đã nguyện thì phải nguyện thiết, nghĩa là duy nhất nguyện sinh Tịnh Độ, ngoài ra không có nguyện cầu nào khác (một lòng). Luôn chuyên cần và thường niệm danh hiệu Phật thì gọi là hành chuyên. Như vậy, bất cứ người nào có đủ ba món tư lương cho đến lúc lâm chung thì chắc chắn sẽ được Phật A Di Đà tiếp dẫn mà sinh về Tịnh Độ. Điều này thể hiện rất rõ ở hai đoạn trong Kinh A Di Đà: “…Chỉ có những người một lòng chuyên niệm Phật A Di Đà một ngày, hai ngày, ba ngày….Người này khi nào lâm chung Phật cùng Thánh chúng hiện ra trước mặt, tâm không điên đảo, người ấy liền sinh sang cõi An Lạc của Phật A Di Đà…” đoạn tiếp: “…ai đã nguyện thì đã sinh rồi, ai nay đang nguyện thì nay đang sinh, còn mai mới nguyện thì mai sẽ sinh….” Đối với người niệm Phật, luôn có đủ ba tư lương thì gọi là đang nguyện. Còn đang sinh là đang sinh về Tịnh Độ. Đến sát na lâm chung Phật hiện thì sinh, bởi người niệm Phật luôn đủ ba tư lương, người đó thường nhớ Phật . Khi Phật hiện, người đó tâm không điên đảo, liền thấy Phật nên được Phật phóng quang nhiếp thọ (thu nhận) mà sinh về Quốc Độ Thanh Tịnh của Phật. Khi thấy Phật không phải bằng mắt của mình vì sát na lâm chung nó bị liệt hoại cả rồi. Khi mắt mình còn nhìn được thì chỉ nhìn thấy giả tướng chứ không nhìn thấy thật tướng tức không thấy Phật được (vì thật tướng là vô tướng). Khi niệm Phật bằng miệng là thức niệm, không đồng với tâm Phật, nên quang minh của Phật không nhiếp thọ được. Phải đợi tới sát na lâm chung là một loáng thời gian trước khi chết. Ở thời điểm này, vọng niệm tự dừng, ngũ uẩn không còn ngăn che trí tuệ Phật, cho nên bất cứ người chết nào lúc lâm chung cũng có sát na định tâm, tức sống trong định, sống bằng trí tuệ tâm Phật của mình ( Tâm thanh tịnh ). Chính nhờ cơ hội này mà những người niệm Phật có đủ 3 tư lương, khi Phật hiện thì thấy Phật bằng trí tuệ tâm Phật ( Tâm thanh tịnh ) của mình thì được Phật phóng quang nhiếp thọ (thu nhận) vào vùng phủ sóng hào quang tức là cõi Tịnh Độ của Ngài. Còn những người niệm Phật không đủ 3 tư lương hoặc không muốn quay về với Phật mà trốn chạy(tâm bị điên đảo) thì đúng với lời dạy của đức Phật Thích Ca về pháp Niệm Phật Tam muội (Kinh Lăng Nghiêm chương Đại Thế Chí niệm Phật): “..Ví như hai người, một người chuyênnhớ,một người chuyên quên, hai người như thế dẫu có gặp nhau cũng như chẳng gặp, dù có thấy nhau cũng như chẳng thấy…” “…Mười phương Như Lai, thương nhớ chúng sinh như mẹ thương con. Nếu con trốn chạy,dẫu mẹ có nhớ, không làm gì được. Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, mẹ con đời đời, chẳng dời xa nhau…” Đoạn Kinh này giải thích rõ Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng sinh trong sát na lâm chung vậy.
Điểm thứ 49 trong “Niệm Phật Tông Yếu” của Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân (Sơ Tổ tông Tịnh Độ Nhật Bản) cho biết : “..sát na lâm chung dễ như cắt sợi tơ, điều này người khác không biết được, chỉ có Phật và người niệm Phật biết được mà thôi”. Vậy ai muốn “thác về” hãy “..mau phát nguyện sinh về An Lạc”(Kinh A Di Đà). Khi viết đến đây, tôi liên tưởng đến câu nói của người xưa: “khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”. Tôi hiểu khi mệnh đã hết thì “khôn” hay “dại” cũng thế thôi. Nhưng có thể thắng được mệnh nếu “biết” đến Pháp môn Niệm Phật và chân thật tu hành thì “sống ” mà còn sống mãi. Bởi vì Phật đón ta lúc sát na lâm chung là thời điểm ta chưa chết hẳn, lại đưa về Tịnh Độ để được cùng Phật “..Ngài cùng nhân dân sống lâu vô cùng đến bao nhiêu kiếp, không thể kể xiết” (Kinh A Di Đà). Tôi thấy phù hợp với ý nghĩa câu nói của người xưa kể trên.
Tôi nguyện cầu cho tất cả mọi người đều “biết” đến Pháp môn Niệm Phật cầu vãng sinh (tức Pháp môn Tịnh Độ). Chân thật tu hành để đến sát na lâm chung, thì “sống” mà “không chết”. Đó cũng là ý nghĩa của “Sống gửi, thác về ” và cũng đồng với bản hoài độ sinh của đức Phật Thích Ca vậy.
NHẬN THỨC VỀ ĐƯỜNG LỐI TU HÀNH PHẬT DẠY TRONG KINH PHÁP CÚ.
PHẦN MỞ ĐẦU
Cách đây gần 2600 năm, đức Phật Thích Ca giáng sinh xuống Ấn Độ, thị hiện tu hành thành Phật. Phạm Thiên thỉnh Phật đi giáo hóa chúng sinh: cõi Trời, cõi Người. Phật đồng ý, từ đó mới có đạo Phật gọi là đạo Phật Nhập thế.
Đạo Phật trụ thế được bao nhiêu lâu?
Theo Kinh Ban Chu Tam Muội và Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi: “Đạo Phật trụ thế một vạn, một nghìn, năm trăm năm, gồm ba thời kỳ.
1. Thời kỳ Chính Pháp, năm trăm năm, tu Giới luật được thành tựu.
2. Thời kỳ Tượng pháp, một nghìn năm, tu Thiền định được thành tựu.
3. Thời kỳ Mạt pháp,một vạn năm, tu theo pháp môn Niệm Phật thì thành tựu.
Ở thời kỳ Mạt pháp, các Kinh Phật nói bị chúng ma phá dần, chỉ còn Pháp môn Di Đà trước khi hết thời kỳ Mạt Pháp là một trăm năm. Cuối cùng chỉ còn lại sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật để độ chúng sinh mà thôi”.
Mục đích của đạo Phật nhập thế là gì?
Mục đích của Đạo Phật Nhập thế là để mở đường diệt khổ cho chúng sinh. Giúp chúng sinh giải thoát khỏi sự trói buộc, giam hãm trong biển khổ luân hồi từ vô thủy kiếp đến nay.
Đức Phật nói: “Ta chỉ dạy một điều khổ và diệt khổ”.
Mục đích này của Phật được phân tích trong phần nội dung. Thể hiện trong đường lối tu hành, mà Phật dạy trong Kinh Pháp Cú.
PHẦN NỘI DUNG
A. ĐƯỜNG LỐI TU HÀNH.
Qúa trình giáo hóa chúng sinh, Phật nói tám vạn bốn nghìn pháp môn, chính là “Pháp bảo” .Trong tám vạn bốn nghìn pháp môn, duy nhất chỉ có pháp môn Niệm Phật là pháp môn Tha lực, các pháp môn còn lại đều là tự lực. Tám vạn bốn nghìn pháp môn được thực hiện theo đường lối tu hành mà Phật dạy trong kinh Pháp Cú:
“Không làm những việc ác
Nên làm những việc lành
Thanh tịnh tâm ý mình
Là lời chư Phật dạy”.
Đường lối tu hành này chia làm hai giai đoạn.
I. Giai đoạn hướng thiện tu phúc:
“Không làm những việc ác
Nên làm những việc lành”.
- Ở giai đoạn này, chính là “Quy y Tam Bảo” giữ gìn “Ngũ giới”. Tự lực tu hành theo lời dạy trong Kinh Phật, đến khi chết được sinh lại làm người rồi theo nhân tu, tu nhiều đời nhiều kiếp, tích lũy dần thiện căn phước đức nhân duyên, đến một kiếp làm người nào đó có nhiều thiện căn phúc đức nhân duyên mới tu lên giai đoạn “Thanh tịnh tâm ý mình” được.
- Ở giai đoạn này chỉ là bước đầu học Phật, nó chỉ tương đồng với các đạo khác, nên mới ở mức ngoại đạo, chưa vào sâu Chính Pháp của Phật. Đến như các vị tu Thanh Văn thời Phật còn tại thế, đã chứng quả vị A La Hán, nếu còn chấp không mà ham vui Thiền định không hồi tâm tu tiếp, Phật bảo là vẫn còn mê. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật xếp Thanh văn đạo là ngoại đạo 96, thời Phật tại thế ở Ấn Độ có 95 ngoại đạo.
- Ở giai đoạn này, tu theo pháp môn tự lực, không diệt được khổ. Vì khổ là do ba độc tham, sân, si thúc đẩy mình gây nhân ác, nên phải chịu quả khổ. Ba độc tham, sân, si nó cùng sinh ra với mình, lại theo mình từ vô thủy kiếp đến nay, tự bỏ đi không thể được, cũng khó như ngồi trên ghế, không thể dùng hai tay mình nâng ghế ấy lên được. Trong mười bốn lời răn của Phật, câu đầu tiên: “Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình”.
Tóm lại, ở giai đoạn tu theo pháp môn tự lực chỉ là hướng thiện và tu phúc mà thôi. Còn muốn hướng thượng, tu giải thoát thì phải tu lên giai đoạn hai: “Thanh tịnh tâm ý mình”.
II. Giai đoạn hướng thượng, tu giải thoát.
Muốn “Thanh tịnh tâm ý mình” thì phải tu theo Pháp môn Tha lực, là Pháp môn Niệm Phật.
1. Ý nghĩa của Pháp môn Niệm Phật.
Đức Phật Thích Ca nói Kinh Vô Lượng Thọ và Kinh Quán Vô Lượng Thọ mở ra Pháp môn Tịnh Độ. Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Phật cho chúng sinh biết về Phật A Di Đà và Bốn mươi tám Đại Nguyện lập nên cõi Tịnh Độ của Ngài. Đặc biệt là Nguyện mười tám gọi là Di Đà Bản Nguyện, là Đại Nguyện tiếp dẫn chúng sinh về Tịnh độ. Vì thế Di Đà Bản Nguyện mở ra Pháp môn Tha lực.
Y vào Di Đà Bản Nguyện, Đức Phật Thích Ca nói Kinh A Di Đà mở ra Pháp môn Niệm Phật.(Nó là kinh Khế Cơ của Pháp môn Niệm Phật. Kinh Lăng Nghiêm là kinh Khế Lý của pháp môn Niệm Phật) . Nội dung của Di Đà Bản Nguyện : “Nếu chúng sinh nào muốn về nước Ta, một lòng tin ưa, xưng danh hiệu Ta cho đến mười niệm, như không được sinh, Ta không thành Phật”. Di Đà Bản Nguyện chính là Tôn Chỉ của Pháp môn Niệm Phật, được thâu tóm làm ba điều kiện: Tin Sâu, Nguyện thiết, Niệm Phật chuyên cần. Không nghi ngờ về chuyện vãng sinh thì gọi là tin sâu. Một lòng cầu sinh Tịnh Độ, ngoài ra không còn một thứ mong cầu gì khác, gọi là nguyện thiết. Vậy “…Nếu chúng sinh nào…” không nghi ngờ gì về chuyện vãng sinh (tin sâu)lại một lòng cầu vãng sinh Tịnh Độ (nguyện thiết) mà thường niệm Phật “..đến khi lâm chung, Phật cùng Thánh Chúng hiện ra trước mặt…” nhất định người ấy sẽ thấy Phật ,“..liền sinh sang cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà..” (kinh A Di Đà).
Thấy Phật, không phải bằng mắt của mình, vì sát na lâm chung là một loáng thời gian, giới hạn giữa cái chết của thân trước với cái sinh của thân sau là thân trung ấm. Mắt miệng và các căn khác vừa liệt hoại, khiến năm uẩn đột ngột không ngăn che trí tuệ tâm Phật, tạo ra sát na định tâm, ví như đèn dầu lóe sáng trước khi tắt. Ở trong định, người đó thấy Phật bằng trí tuệ tâm Phật.
Qua phân tích như ở trên thấy, sát na lâm chung chính là sát na nhất tâm bất loạn . Sát na tâm của chúng sinh được thanh tịnh đồng với tâm của Phật, dung thông với tâm của Phật có thế Phật mới phóng quang nhiếp thọ (thu nhận) thần thức và chuyển sinh sang thân kim sắc trong vùng phủ sóng hào quang tức cõi Tịnh độ của Ngài được. Trong Niệm Phật Tông Yếu, tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân (Sơ tổ Tịnh Tông Nhật Bản) là hóa thân của Bồ Tát Đại Thế Chí có câu: “…Sát na lâm chung dễ như cắt sợi tơ, người ngoài không thấy được, chỉ có Phật và người niệm Phật biết được mà thôi”.
Tổ Thiện Đạo, Tổ thứ hai Tịnh Tông Trung Quốc (Hóa thân của Phật A Di Đà) có lời khuyên niệm Phật như sau :
“Chỉ nhớ niệm Phật, không việc khác
Lắng tâm quyết định nguyện về Tây
Lâm chung tự thấy Như Lai đến”
“Niệm Phật trước trừ tâm tham ái
Lâm chung tâm định thấy Di Đà
Tợ trăng sáng tỏ soi đầm biếc”.
(Niệm Phật Cảnh).
Kinh Lăng Nghiêm, chương Đại Thế Chí niệm Phật có đoạn: “…ví như hai người, một người chuyên nhớ một người chuyên quên. Hai người như thế dẫu có gặp nhau cũng như chẳng gặp, dù có thấy nhau, cũng như chẳng thấy…”.Một người chuyên nhớ, dụ cho đức Phật A Di Đà và người niệm Phật đủ ba điều kiện, khi gặp nhau, thấy nhau thì nhận ra ngay, nên trong kinh A Di Đà, Phật Thích Ca bảo là “tâm không điên đảo”. Còn người chuyên quên, dụ cho người không tin, không niệm Phật, đến khi lâm chung, muôn niệm đang duyên theo cảnh trần, Phật đón trước mặt thấy mà như không thấy, đúng là điên đảo, ví như trốn chạy. Nên đoạn tiếp trong kinh Lăng Nghiêm: “..Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sinh, như mẹ thương con, nếu con trốn chạy, dẫu mẹ có nhớ không làm gì được. Nếu con nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, mẹ con đời đời chẳng rời xa nhau..”. Chỉ đến sát na lâm chung, tâm của chúng sinh mới đồng được với tâm của Phật ( tâm thanh tịnh) nên cái nhớ mới “như” nhau được và Phật mới tiếp dẫn thần thức chúng sinh về Quốc độ Thanh Tịnh được.
2. Pháp môn Niệm Phật chính là Pháp môn Tu Tâm Thanh Tịnh.
Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát Đại Thế Chí đã trả lời Phật Thích Ca: “…Phật hỏi đến con, Pháp tu viên thông, con không chọn lựa, con chỉ thu nhiếp tất cả sáu căn, chuyên một Tịnh niệm, nối nhau liền liền, được vào chính định, ấy là đệ nhất.”.Được hiểu là khi chỉ chuyên thu nhiếp tất cả sáu căn vào tha lực niệm Phật, thì niệm tha lực ấy là “Tịnh niệm” tức là niệm thanh tịnh. Vậy khi một lòng cầu vãng sinh mà niệm Phật, tâm ý ta được thanh tịnh trong từng niệm tha lực ấy , cho đến sát na lâm chung (là sát na tâm thanh tịnh ) được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về Quốc độ Thanh Tịnh thì tâm của ta mới hoàn toàn thanh tịnh, vì chúng sinh ở Tịnh độ đều sống ở trong định.
3. Pháp môn Niệm Phật giúp người tu diệt được tám khổ: Khổ Đế, trong bài Pháp Tứ Diệu Đế, Phật nói chúng sinh có tám khổ bao gồm:
Sáu khổ đầu: Sinh, lão, bệnh, tử, ân ái biệt ly, oán tằng hội khổ.
Khổ thứ bẩy: Cầu bất đắc khổ.
Khổ thứ tám: Ngũ ấm xí thịnh khổ.
a/ Diệt khổ thứ tám: Khi ta nhiếp tâm, một lòng niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Tâm của ta được hào quang trí tuệ của Phật chiếu vào, tâm của ta bớt mê một chút. Nguyện thứ 14 trong 48 Đại Nguyện của Phật A Di Đà (cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập) nói: “Nếu có chúng sinh thấy được quang minh chiếu chạm thân mình, đều được an lạc, tâm từ, hành thiện, được sinh về Cực Lạc” Niệm Phật tha lực càng nhiều, sẽ giảm bớt tâm mê, ngũ ấm bớt thịnh dần. Có câu “Nhà tối ngàn năm, mặt trời chợt hiện, ánh sáng có thừa”.Nhưng phải tới sát na lâm chung, Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tịnh Độ thì cái khổ thứ 8 mới diệt được hết, vì ở Tịnh Độ chúng sinh sống trong định, ngũ ấm không còn nữa.
b/ Diệt khổ thứ 7: Người niệm Phật cầu vãng sinh,khi nguyện đã thiết thì tâm chỉ có một mong cầu là cầu sinh Tịnh Độ, ngoài ra không còn một thứ mong cầu nào khác, nên khổ thứ 7 không còn nữa.
c/ Diệt sáu khổ đầu: Người niệm Phật cầu vãng sinh, phải có tâm độ mình và độ người, nhưng nhờ vào tha lực của Phật A Di Đà, tự mình không làm được. Cái khổ thứ 8 giảm dần, nên tham, sân giảm dần. Tham, sân là ác căn, ác căn giảm thì thiện căn tăng “căn lành mỗi ngày thêm lớn” tức là đã độ được mình. Còn độ người thì bằng cách nào? Ta chịu sáu khổ từ vô thủy kiếp đến nay, do ta đã gieo biết bao nhân ác, làm cho chúng sinh bị não hại, nên theo ta để đòi nợ, ta sinh ra cũng là để trả những món nợ đó (thân nghiệp báo). Khi ta nhiếp tâm, một lòng cầu sinh Tịnh Độ mà niệm Phật, thì Quán kinh cho biết: “mỗi câu niệm Phật tiêu trừ tám mươi ức kiếp trọng tội sinh tử, lại được tám mươi ức kiếp công đức vi diệu”. Vì sao lại được như vậy? Vì khi ta niệm Phật, ta đã nhận được công đức của hồng danh, tức là hào quang năng lượng trí tuệ của Phật A Di Đà, ta lại đem hồi hướng công đức ấy cho chúng sinh khắp pháp giới đồng sinh về Tịnh Độ. Chúng sinh nào có duyên nợ với ta, nhận được công đức ấy, họ tỉnh ra và được sinh về các cõi lành, nên tha tội cho ta, ta sẽ bớt khổ đi một chút. Thế nên độ tha cũng chính là tự độ vậy. Trong A Di Đà yếu giải có câu: “Khi ta niệm Phật, chính là lúc ta mang công đức vô lượng của Phật A Di Đà bố thí cho chúng sinh, hết khổ, hết nạn, hết sợ hãi”.
Câu 51 trong Niệm Phật Tông Yếu cho biết: “Vì người chết mà niệm Phật hồi hướng công đức cho họ, thì Phật A Di Đà phóng quang minh soi chiếu địa ngục, ngã quỷ, súc sinh. Kẻ bị chìm đắm trong ba đường dữ chịu khổ sẽ hết khổ, người chết sau khi lâm chung được siêu thoát”. Vì niệm Phật hồi hướng công đức có tác dụng to lớn như thế, mà niệm Phật suốt cả đời, có trả hết được nợ, tức là diệt hết được sáu khổ trong hiện đời hay không?
Trong kinh Phật dạy: “Tội ác của một người gây nên từ vô thủy kiếp đến nay, nếu có hình tướng thì hư không chứa cũng không hết”. Phải đợi đến sát na lâm chung, Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tịnh Độ thì lập tức hết khổ “..Cõi ấy không có những khổ, chỉ hưởng toàn vui..” (Kinh A Di Đà) nhưng nghiệp ác vẫn còn, nên gọi là đới nghiệp vãng sinh.
4. Pháp môn Niệm Phật hợp thời, hợp mọi căn cơ và được chư Phật mười phương hộ niệm.
Câu 1 trong Niệm Phật Tông Yếu, Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân dạy: “Thánh Đạo Môn tuy thâm diệu nhưng thời điểm căn cơ chẳng tương ứng. Tịnh Độ Môn hình như nông cạn nhưng thời điểm và căn cơ đều tương đồng. Thời Mạt pháp một vạn năm, các kinh điển khác đều bị tiêu diệt, chỉ còn pháp môn Di Đà để cứu độ chúng sinh.” Tổ Ấn Quang (Tổ thứ 13 Tịnh Tông Trung Quốc) có đôi câu đối “Chín cõi chúng sinh rời Pháp môn Niệm Phật, trên khó nổi viên thành quả giác. Mười phương chư Phật, bỏ Pháp môn Niệm Phật, dưới không thể độ khắp quần mê”. Kinh A Di Đà có đoạn: “…Này Xá Lợi Phất! Ý ông thế nào? Sao gọi Kinh này là Kinh: Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm? Xá Lợi Phất này! Thiện nam thiện nữ nghe Kinh này thọ trì và nghe danh hiệu chư Phật sáu phương, sẽ được chư Phật hộ niệm, bất thoái Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì thế Xá Lợi Phất , các ông đều nên tin lời Ta và lời chư Phật đã nói”.
5. Pháp môn Niệm Phật cũng là Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa: Bát Nhã Ba La Mật Đa là trí tuệ của chân tâm.
Niệm Phật tha lực, nhận được hào quang trí tuệ của Phật A Di Đà cũng là trí tuệ của chân tâm. Vậy hai pháp đồng là một. Lại nữa khi Phật nói Bát Nhã Tâm Kinh, đối tượng chính được nghe là ông Xá Lợi Phất.
Khi Phật nói kinh A Di Đà, đối tượng chính được nghe cũng là ông Xá lợi Phất. Ông Xá Lợi Phất chính là hóa thân của Bồ Tát Đại Thế Chí, vì thế khi Phật nói kinh về pháp môn Niệm Phật, đối tượng chính được nghe là ông Xá Lợi Phất, để rồi “… nay ở cõi này tiếp người niệm Phật về nơi Tịnh Độ…” (kinh Lăng Nghiêm) là lẽ đương nhiên.
Sở dĩ Phật nói Bát Nhã Tâm Kinh để cho chúng sinh thấy rõ chân tâm là như thế nào, qua đó Phật chỉ cho chúng sinh biết “Trong chân không ” tức là trong chân tâm không có “..nhãn nhĩ tỷ thân thiệt ý…”(không có cảnh giới của phàm phu). “không có vô minh..” (không có cảnh giới của Duyên giác) “không có khổ, Tập, Diệt, Đạo.”(không có cảnh giới của Thanh Văn) “không có trí tuệ..”(không có cảnh giới của Bồ tát). Vì thế tu hành không có chuyện “chứng đắc” gì đâu! Không được gì đâu “vô sở đắc”. Vì “Tính không của vạn Pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt..”. Vậy muốn trở về với trí tuệ chân tâm ấy thì phải nương vào trí tuệ Phật mà tu hành “Ba đời chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa, nên được đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng, Chánh Giác”. Y vào Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng chính là y vào pháp môn Niệm Phật vậy.
6. Pháp môn Niệm Phật là Pháp Nhất Thừa.
Kinh Pháp Hoa có đoạn:
“Trong cõi Phật mười phương
Chỉ có Pháp Nhất thừa
Không hai, cũng không ba
Tùy Phật phương tiện nói”.
Pháp Nhất Thừa là Pháp tu thẳng thành Phật, chính là Pháp môn Niệm Phật. Vì Niệm Phật là nhân, vãng sinh là quả. Trong kinh Niệm Phật Ba La Mật, đức Phật Thích Ca xác quyết
“Vãng sinh là thành Phật”. Thế nên Pháp môn Niệm Phật là Pháp môn Nhất Thừa vậy. “Không hai cũng không ba”. Là không có Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Bồ Tát thừa. Phương tiện mà Phật nói ra thôi (pháp phương tiện).
Muốn hiểu ý này phải biết đến câu nói của Tổ Thiện Đạo trong “Niệm Phật Cảnh”.
Hỏi: Tu hành tự lực (pháp phương tiện) y theo lời dạy trong Kinh Phật bao giờ thành tựu? Tu hành nương theo Tha lực đến bao giờ thành tựu?
Đáp: Tu hành tự lực theo Kinh Phật, từ khi mới phát tâm, trải qua một đại a tăng kỳ kiếp mới đến Sơ địa (ngang với quả vị A La Hán), lại trải qua một đại a tăng kỳ kiếp nữa, mới đến Bát Địa. Đây là tự lực.
Tu hành theo Tha lực là Pháp môn Niệm Phật, mau thì một ngày, chậm thì bẩy ngày, niệm Phật A Di Đà vãng sinh Tịnh Độ, ngang hàng với Bồ Tát Bát Địa. Tại sao? Vì nương sức mạnh Bản Nguyện của Đức Phật A Di Đà. Trong kinh A Di Đà nói: “…Chúng sinh được sinh về Cực Lạc đều là bậc Bất thối chuyển..”, tức là Bồ Tát Bát địa vậy.
Qua lời đáp của Tổ Thiện Đạo, nảy sinh hai ý : Sự so sánh về thời gian tu hành, một lần nữa lại thấy cái “lợi không thể nghĩ bàn” của Pháp môn Niệm Phật. Mặt khác, lại đặt câu hỏi: Tu hành tự lực theo pháp phương tiện lâu đến không tưởng tượng được như thế (còn thêm một đại a tăng kỳ kiếp nữa mới chứng quả vị Phật), thì trong cõi Phật mười phương, có bao nhiêu chúng sinh tu được thành Phật? May thay đã tìm được câu trả lời . Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội, Phật chỉ rõ: “..Tất cả chư Phật quá khứ, vị lai và hiện tại, trong mười phương ba đời, đều học Pháp môn Niệm Phật, mau chứng được đạo Giác Ngộ Vô Thượng”. Kinh A Di Đà cho biết, giáo đoàn của Phật có 1250 vị Đại A La Hán. Việc chứng quả vị A La Hán, lại nhiều và dễ như vậy sao? Như năm anh em Kiều Trần Như chỉ nghe Phật nói xong Pháp Tứ Diệu Đế đều chứng ngay quả vị A La Hán, Ni Đề người gánh phân thuê, Ưu Ba Ly thợ cúp tóc, dâm nữ Ma Đăng Già…được Phật cho nhập giáo đoàn, một thời gian ngắn cũng chứng quả vị A La Hán. Chắc chắn không phải chúng sinh phàm phu tu hành cho đến khi gặp Phật mà chứng được quả vị A La Hán đâu. Các vị đệ tử này đều là những vị Đại Bồ Tát, như ông Xá Lợi Phất là hóa thân của Bồ Tát Đại Thế Chí..giáng sinh xuống thế gian cùng với Phật, để hỗ trợ Phật giáo hóa chúng sinh đó thôi. Phật phương tiện nói ra Pháp Thanh Văn, lại cả nghìn đệ tử thị hiện chứng A La Hán, cũng vì chúng sinh chấp tướng, mê tín hay tin những sự thần bí lạ kỳ. Có vậy mới khiến cho các vị Quốc vương thỉnh Phật đến giáo hóa cho thần dân của nước họ. Về sau, để bảo tồn và chấn hưng Phật pháp ở Trung Quốc, qua các triều đại cũng có nhiều vị Phật hoặc Bồ Tát thị hiện như vậy. Chỉ kể trong 13 vị Tổ của Tịnh Tông, trừ Tổ Thiện Đạo (Nhị Tổ), là hóa thân của đức Phật A Di Đà. Tổ Ấn Quang (Tổ thứ 13) là hóa thân của đức Đại Thế Chí Bồ Tát là hai Tổ tu theo pháp môn Niệm Phật mà chứng được Niệm Phật Tam Muội. Còn lại 11 vị Tổ đều tu Thiền đã khai ngộ. Tổ Vĩnh Minh (Tổ thứ 6) là hóa thân của Phật A Di Đà tu thiền đắc đạo làm Tổ rồi chuyển sang tu Tịnh và hoằng truyền pháp môn Niệm Phật. Các Tổ khác cũng thị hiện như vậy, nhưng chưa để lộ thiên cơ đó thôi.
7. Kết luận.
Đường lối tu hành Phật dạy trong Kinh Pháp Cú thật rõ ràng, minh bạch, khiến người theo Phật, hiểu đúng đức Phật và đạo Phật nhập thế. Là kim chỉ nam giúp chúng sinh không bị lạc đường trong quá trình tu hành tìm đường giải thoát. Mặt khác, lại thấy được sự giống và khác giữa đạo Phật và ngoại đạo. Càng thêm tin tưởng, tự hào là đã có phúc duyên theo Phật từ nhiều kiếp làm người đến nay. Và kiếp này “.. quyết định thấy Phật, cách Phật chẳng xa..”(kinh Lăng nghiêm) để được đền ơn trong muôn một, Đức Bổn Sư Thích Ca chỉ đường, Đức Từ Phụ A Di Đà tiếp dẫn và Chư Phật mười phương hộ niệm.
B. KẾT QUẢ TU HÀNH
Kết quả tu hành là được vãng sinh về Tịnh Độ và tu tiếp thành Phật.
- Người được vãng sinh không còn phải chịu tám khổ nữa “.. chúng sinh cõi ấy, không có những khổ, chỉ hưởng toàn vui, bởi thế cho nên gọi là Cực Lạc…” (kinh A Di Đà).
Ta đang chịu tám khổ, từ vô thủy kiếp đến nay, mà chỉ sau sát na lâm chung Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tịnh Độ, tức cõi Tây Phương Cực Lạc. Ta không còn phải chịu tám khổ nữa. Thế thì cái “lợi ”ấy làm sao mà nghĩ cho hết, bàn cho hết được.
- Cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà có chín phẩm hoa sen (Cửu phẩm liên hoa ). Gồm:
· Ba phẩm hạ : Hạ hạ phẩm, Trung hạ phẩm, Thượng hạ phẩm.
· Ba phẩm trung: Hạ trung phẩm, Trung trung phẩm, Thượng trung phẩm.
· Ba phẩm thượng: Hạ thượng phẩm, Trung thượng phẩm, Thượng thượng phẩm.
Theo Tổ Tri Húc (Tổ thứ 9 Tịnh Tông Trung Quốc): “ Được sinh cùng chăng , toàn do tín nguyện có hay không .Phẩm Sen cao hay thấp , đều do trì danh sâu hoặc cạn .”
· Tin sâu, nguyện thiết nhưng niệm Phật còn nhiều tán loạn, được vãng sinh thì về Hạ hạ phẩm. `
· Tin sâu nguyện thiết, niệm Phật ít tán loạn thì được sinh về Trung hạ phẩm.
· Tin sâu nguyện thiết, niệm Phật không còn tán loạn thì được sinh về Thượng hạ phẩm.
· Chứng Niệm Phật Tam Muội Sự thì về ba Phẩm Trung.
· Chứng Niệm Phật Tam Muội Lý thì về ba Phẩm Thượng.
- “..Chúng sinh được vãng sinh về Cực Lạc,đều là bậc Bất Thối Chuyển” (Kinh A Di Đà) . Sống trong định bằng trí tuệ Thành sở tác trí, muốn thứ gì thứ đó hiện ra, rồi tự biến mất và Diệu quan sát trí đó là Lục thần thông. Vì sống ở Tịnh Độ được sự gia trì của Đức Phật A Di Đà, nên tâm của họ dung thông với tâm của Phật A Di Đà, vì thế Lục thần thông của họ rất vi diệu (Kinh A Di Đà đã nói lên sự vi diệu này).
- Vì được vãng sinh mà nghiệp ác vẫn còn, nên gọi là đới nghiệp vãng sinh. Các chủng tử nghiệp này, còn trong tàng thức. Quá trình tu tiếp ở Tịnh Độ là quá trình chuyển hóa các chủng tử nghiệp của Kiến hoặc, Tư hoặc, Trần sa hoặc và Vô minh hoặc. Chủng tử nghiệp chuyển hóa tới đâu, sẽ được lên phẩm cao tương ứng. Nếu chuyển hóa hết Trần sa hoặc, Mạt na thức sẽ chuyển thành Bình đẳng tính trí, diệt hoàn toàn ngã chấp (vô ngã),chúng sinh đó đã chứng được Lý vô sinh,tức gặp Phật lần thứ 2. Kinh Lăng Nghiêm cho biết: “..Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật, niệm Phật, đời này, đời sau quyết định thấy Phật, cách Phật chẳng xa..”. Cách Phật chẳng xa là đã được sinh về Tịnh Độ. Đời này quyết định thấy Phật, chính là sát na lâm chung, thấy được Ứng thân Phật. Đời sau quyết định thấy Phật, là lúc chứng lý vô sinh ở Tịnh Độ, thấy được Báo thân Phật. Chứng được lý Vô Sinh rồi, thì có khả năng phân thân trở về Ta Bà, hoặc cõi nào khác để hóa độ chúng sinh. Chứng lý Vô Sinh là đã lên Phẩm Thượng, tu tiếp chuyển hóa dần Vô minh hoặc, chuyển hóa Vô minh đến đâu, sẽ chứng dần Pháp thân Phật đến đấy, đoạn Vô minh hoặc là chứng Quả vị Phật. Thật đúng với lời xác quyết của đức Phật Thích Ca trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật: “.. Bởi vậy mà Ta, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn hôm nay trân trọng xác quyết rằng: Vãng sinh đồng ý nghĩa với thành Phật, vì Vãng sinh tức là thành Phật”.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Đạo Phật ở thế gian gọi là đạo giải thoát, giải thoát khỏi sự trói buộc, giam hãm chúng sinh trong biển khổ luân hồi từ vô thủy kiếp đến nay.
Phật nói: “Như nước biển kia duy nhất chỉ có một vị mặn, đạo của Ta duy nhất chỉ có vị giải thoát”. Trong Niệm Phật Tông Yếu, có câu: “..Chúng ta bị kẻ thù tham sân, phiền não, cột trói mà giam hãm trong lồng chậu của Tam giới. Hãy nghĩ tới mẹ hiền Di Đà, dùng thanh Bảo kiếm danh hiệu, chặt đứt dây trói sinh tử, lên con thuyền Bổn Nguyện, sang đến bờ bên kia. Nước mắt hoan hỷ rơi ướt áo, lòng mong mỏi khôn nguôi”.
2. Trong thời kỳ Mạt pháp, chỉ có Pháp môn Niệm Phật mới giúp chúng sinh tu hành để giải thoát khỏi luân hồi sinh tử và tu tiếp thành Phật. Nên Pháp môn Niệm Phật là Chính Pháp của Phật vậy.
Trong Kinh Đại Tập Phật chỉ dạy “.. Thời kỳ Mạt pháp, muôn ức người tu hành, không có lấy một người giải thoát, chỉ nương vào Pháp môn Niệm Phật mà ra khỏi luân hồi”.
3. Tu hành ở giai đoạn I là tu tự lực theo Pháp phương tiện “Ngũ thừa Phật giáo”, tìm đạo ở ngoài tâm, còn gọi là ngoại đạo, chính là tu thức.
Tu hành ở giai đoạn II là tu Tha lực theo Pháp môn Niêm Phật, pháp môn Nhất thừa, pháp môn tu tâm thanh tịnh nên gọi là tu tâm.
4. Phật dạy: “..theo Ta mà không hiểu Ta, là nhạo báng Ta vậy ! ”.
Tổ Sư Ấn Quang đã làm rõ ý này của Phật, trong bức thư gửi cư sỹ Uông Võ Mộc: Pháp môn Niệm Phật là “.. Pháp môn rộng lớn, độ khắp chúng sinh của Như Lai, sẽ bị các hạ vùi sâu đóng kín, không được mở thông, lỗi ấy đồng với tội khinh báng Phật, Pháp, Tăng”.. Thế nên tu hành mà không theo đúng đường lối Phật dạy trong Kinh Pháp Cú là không hiểu Phật vậy!. Tôi viết bài này sau thời gian lập thất chuyên tu Pháp môn Niệm Phật và tâm linh thôi thúc.
Tôi y vào Kinh Phật và lời Tổ để viết bài, coi như văn sao. Cảm nhận rất rõ sự gia hộ của Phật khi nghĩ cũng như khi viết, những mong được đóng góp một phần rất nhỏ bé vào việc hoằng dương Pháp môn Niệm Phật.
Khi viết bài, ý còn nông cạn, lời văn lại thô thiển, không khỏi những chỗ sai lầm. Thỉnh mong chư vị độc giả chỉ bảo cho.
Nếu được chút công đức nào, xin đem hồi hướng cho bốn ân ba cõi, nguyện cùng khắp pháp giới chúng sinh đồng sinh về Cực Lạc.
Ai về Tây Phương, tôi rủ cùng về
Cực Lạc ở xa, là nhà ta đó
Ai về Tây Phương, phải niệm Di Đà
Lâm chung Phật hiện, đến đón chúng ta.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI ĐẠI TỪ ĐẠI BI TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT.
BẢN THUYẾT MINH SƠ ĐỒ GIẢI THÍCH SÁT NA LÂM CHUNG PHẬT TIẾP DẪN VỀ TỊNH ĐỘ VÀ TU TIẾP THÀNH PHẬT.
(Bảng sơ đồ ở trang cuối sách).
I. DÒNG : Gồm có 6 dòng.
Dòng 1.
* Phật có ba thân gồm: ứng thân, báo thân, pháp thân.
Là một thể thân hào quang năng lượng nhưng gồm ba mức năng lượng khác nhau bao chùm khắp pháp giới.
- Ứng thân: ở mức năng lượng thấp nhất.
- Báo thân: ở mức năng lượng cao hơn.
- Pháp thân: ở mức năng lượng cao nhất.
* Tùy theo cơ cảm khác nhau mà chúng sinh thấy được thân nào của Phật mà thôi:
- Nếu tu chứng mà đắc quả vị A La Hán, niệm Phật tha lực mà chứng Niệm Phật Tam Muội Sự, hoặc đới nghiệp vãng sinh thì thấy được Ứng thân Phật.
- Nếu tu chứng mà đắc Bát Địa Bồ Tát hoặc ở Tịnh độ mà chứng được Bồ Tát Bất Thoái thì thấy được Báo thân Phật.
-Nếu tu chứng mà đắc Cửu Địa Bồ Tát trở lên hoặc niệm Phật tha lực mà chứng Niệm Phật Tam Muội Lý, và tu tiếp thì dần dần thấy hết được Pháp thân Phật.
* Như vậy thân Phật chỉ là một thể năng lượng luôn luôn hiện tiền, bao chùm khắp pháp giới.
Ví như chiếc đỉnh phải có đủ ba chân, chữ Y phải có đủ 3 gạch, không thể tách rời nhau được.
Dòng 2.
Ứng với ba mức hào quang năng lượng khác nhau (ba thân) mà Phật có bốn trí:
- Thành sở tác trí.
- Diệu quan sát trí
- Bình đẳng tính trí
- Đại viên kính trí (trí bát nhã hay trí tuệ của chân tâm).
* Mức năng lượng thấp nhất (Ứng thân Phật), có trí tuệ Thành sở tác trí và Diệu quan sát trí (Lục thần thông).
* Mức năng lượng cao hơn (Báo thân Phật), có Bình đẳng tính trí.
* Mức năng lượng cao nhất (Pháp thân Phật), có Đại viên kính trí.
Còn thêm Ba minh là :
- Thiên nhãn minh
- Túc mạng minh
- Lậu tận minh
Và năm nhãn là :
- Nhục nhãn
- Thiên nhãn
- Tuệ nhãn
- Pháp nhãn
- Phật nhãn
Dòng 3
Tâm phàm phu gồm :
* Thức tâm phan duyên: do sáu căn (mắt, tai, mũi,lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với sáu trần (Sắc, thanh hương, vị, xúc, pháp) tạo ra sáu thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức). Chúng sinh mê lầm nhận là tự tính. Sáu thức này sinh diệt.
* Thức tinh nguyên minh.
Hay căn bản Bồ Đề chính là nguồn sinh sống của mình mà không tự biết. Duy thức luận gọi là thức thứ 8 là thức A lại da hay là tâm, chính là thần thức vậy.
Dòng 4,5.
* Chúng sinh mê lầm là do năm uẩn ngăn che trí tuệ mà sinh ra năm ấm: Sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm. Là năm lớp mê lầm thuộc về tâm.
* Do tâm mê lầm mà sinh ra phiền não gọi là Lậu hoặc gồm: Kiến hoặc, Tư hoặc, Trần sa hoặc và Vô minh hoặc.
Dòng 6.
* Thần thức theo nghiệp dẫn đi đầu thai vào lục đạo luân hồi, thuộc cảnh giới phàm (Tam giới).
* Thần thức chuyển sinh sang cảnh giới Thánh:- Niết bàn A La Hán.
- Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà.
II. CỘT.
1. Bốn cột thuộc năm dòng trên:
* Cột 1 : Chỉ tâm Phật (giác) . Tâm chúng sinh (mê).
* Cột 2: Chỉ rõ mối quan hệ lưu chuyển giữa tâm Phật (giác). Tâm chúng sinh (mê) thuộc cảnh giới phàm.
* Cột 3 và 4: Chỉ rõ mối quan hệ, lưu chuyển giữa tâm Phật (chân tâm) với Thức tâm nguyên minh (thần thức) thuộc cảnh giới Thánh.
2. Hai cột thuộc dòng thứ 6:
* Cột 1: Cảnh giới Phàm (Tam giới) * Cột 2: Cảnh giới Thánh (Tịnh Độ).
III/ CỬA ẢI VƯỢT LUÂN HỒI SINH TỬ:
Tượng trưng bởi giao điểm của hai dòng kẻ:
1. Dòng kẻ dọc, chia đôi sơ đồ (kể từ dòng kẻ ngang thứ 3 trở xuống), tượng trưng cho đường biên giới của cảnh giới phàm phu và Thánh xuất thế gian.
2. Dòng kẻ ngang, là dòng kẻ thứ 4 kể từ trên xuống. Tượng trưng cho con đường tu hành tự lực hay tha lực.
Khi phá xong: Sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm. Kiến hoặc, Tư hoặc sẽ không còn .
Nhãn thức, Nhĩ thức, Thân thức chuyển thành Thành Sở Tác Trí.
Ý thức chuyển thành Diệu Quan Sát Trí.
Sinh tử luân hồi kết thúc ở tại giao điểm giữa hai dòng kẻ. Cửa ải vượt luân hồi mở tung. Thần thức chuyển sinh sang cảnh giới Thánh (mô tả chi tiết trong sơ đồ dòng 6 cột 2).
3. Giao điểm giữa hai dòng kẻ này cũng tượng trưng cho điểm kết thúc mạng sống của một chúng sinh phàm phu tội chướng, được gọi là sát na lâm chung.
* Sát Na Lâm Chung là một loáng thời gian trước khi chết. Vì ở thời điểm này, sáu căn vừa liệt hoại, khiến cho năm uẩn đột ngột không ngăn che trí tuệ tâm Phật. Và ba ấm : Sắc, Thọ, Tưởng cũng đột ngột bị diệt trong Sát Na Lâm Chung. Nên cửa ải vượt luân hồi sinh tử mở ra trong Sát Na Lâm Chung đó. Nhưng vì chúng sinh tội chướng luôn sống trong mê lầm. lại bị nghiệp lực mạnh mẽ cột chặt, nên tuy có thời cơ của ải vượt luân hồi sinh tử mở, mà tự mình không vượt qua được. Thần thức bị nghiệp lực dẫn đi đầu thai trở lại trong ba cõi (mô tả chi tiết ở dòng 6 cột 1).
IV. THỜI CƠ CỦA CHÚNG SINH PHÀM PHU TỘI CHƯỚNG ĐƯỢC PHẬT A DI ĐÀ TIẾP DẪN VỀ CÕI TỊNH ĐỘ CỦA NGÀI.
Dựa vào đặc điểm của thời cơ cửa ải vượt luân hồi sinh tử mở lúc sát na lâm chung của mỗi chúng sinh phàm phu tội chướng, Đức Phật A Di Đà đã phát Đại Nguyện Tiếp Dẫn chúng sinh về cõi Tịnh Độ của Ngài. Đó là Đại Nguyện thứ mười tám trong Bốn mươi tám Đại nguyện của đức Phật A Di Đà, được gọi là Di Đà Bản Nguyện: “Nếu chúng sinh nào muốn về nước Ta, một lòng tin ưa, xưng danh hiệu Ta cho đến mười niệm, như không được sinh, Ta không thành Phật”. Di Đà Bản Nguyện thâu tóm thành 3 điều kiện: Tin sâu, Nguyện thiết, Niệm Phật chuyên cần.
-Không nghi ngờ về chuyện vãng sinh thì gọi là tin sâu.
- Một lòng cầu sinh Tịnh Độ, ngoài ra không có một mong cầu gì khác, thì gọi là Nguyện thiết.
Vậy nếu chúng sinh nào (người nào) muốn tận dụng thời cơ CỬA ẢI VƯỢT LUÂN HỒI SINH TỬ MỞ lúc sát na lâm chung thì phải tu theo pháp môn Niệm Phật.
Nghĩa là người ấy phải không nghi ngờ gì về chuyện vãng sinh và một lòng cầu sinh Tịnh Độ mà Niệm Phật ( tức niệm Phật Tha Lực) thì đến Sát Na Lâm Chung, Cửa ải Vượt Luân Hồi Sinh Tử mở, người ấy nhất định sẽ thấy Phật bằng trí tuệ tâm Phật. Sẽ được Phật A Di Đà phóng quang nhiếp thọ (thu nhận) thần thức và chuyển sinh sang thân kim sắc trong vùng phủ sóng hào quang, tức cõi Tịnh Độ của Ngài. Trong Niệm Phật Tông Yếu, Tổ Pháp Nhiên Thượng Nhân (Sơ Tổ Tịnh Tông Nhật Bản ) là hóa thân của Bồ Tát Đại Thế Chí có câu: “Sát na lâm chung dễ như cắt sợi tơ, người ngoài không thấy được, chỉ có Phật và người tu niệm Phật mới biết được mà thôi”. Tổ Thiện Đạo (Tổ thứ hai Tịnh Tông Trung Quốc) là hóa thân của Đức Phật A Di Đà có lời khuyên:
“Chỉ nhớ niệm Phật, không việc khác
Lắng tâm quyết định, nguyện về Tây
Lâm chung tự thấy Như Lai đến”.
“Niệm Phật, trước trừ tâm tham ái
Lâm chung tâm định thấy Di Đà
Tợ trăng sáng tỏ soi đầm biếc”.
(Trích Niệm Phật Cảnh).
Kinh Lăng Nghiêm, chương Đại Thế Chí niệm Phật, có đoạn: “..Ví như hai người, một người chuyên nhớ, một người chuyên quên, hai người như thế, dẫu có gặp nhau cũng như chẳng gặp, dù có thấy nhau, cũng như chẳng thấy..”. “.. Một người chuyên nhớ..” dụ cho đức Phật A Di Đà và người niệm Phật có đủ ba điều kiện, khi gặp nhau thấy nhau thì nhận ra ngay, nên trong Kinh A Di Đà, Phật Thích Ca bảo là “..tâm không điên đảo…” còn “người chuyên quên”, dụ cho người không tin pháp môn Niệm Phật, không nhớ Phật niệm Phật, đến khi lâm chung, muôn niệm luôn duyên theo cảnh trần, nên “..Phật đón ở trước mặt. Thấy mà như không thấy”. đúng là điên đảo, ví như “trốn chạy”. Đoạn tiếp trong Kinh Lăng Nghiêm: “..Mười phương Như Lai, thương nhớ chúng sinh như mẹ thương con, nếu con trốn chạy, dẫu mẹ có nhớ, chẳng làm gì được. Nếu con nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, mẹ con đời đời chẳng rời xa nhau..”. Chỉ đến Sát Na Lâm Chung, tâm của chúng sinh mới đồng với tâm của Phật, nên cái nhớ mới “như” nhau được. Có “như” vậy, Phật mới phóng quang tiếp dẫn chúng sinh về cõi Tịnh Độ của Ngài được. Còn “..Nếu con trốn chạy” tức là bỏ lỡ thời cơ cửa ải vượt luân hồi sinh tử mở thì “..dẫu mẹ có nhớ, không làm gì được”. Vậy qua phân tích như ở trên, thấy rõ nếu chúng sinh không có thời cơ của ải vượt luân hồi sinh tử mở ra lúc sát na lâm chung thì Phật A Di Đà cũng không có cơ hội cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ luân hồi được.
V. TU TIẾP THÀNH PHẬT Ở TỊNH ĐỘ.
Chúng sinh tội chướng được Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tịnh Độ, được gọi là đới nghiệp vãng sinh. Các chủng tử nghiệp này còn trong tàng thức. Quá trình tu tiếp ở Tịnh Độ là quá trình chuyển hóa các chủng tử nghiệp của Kiến hoặc, Tư hoặc, Trần sa hoặc và Vô minh hoặc. Các chủng tử nghiệp chuyển hóa tới đâu, sẽ được lên phẩm cao tương ứng. nếu chuyển hóa hết Trần sa hoặc, Mạt na thức sẽ chuyển thành Bình Đẳng Tính Trí, diệt hoàn toàn ngã chấp. chúng sinh đó đã chứng được Lý Vô Sinh, tức gặp Phật lần thứ hai. Kinh Lăng Nghiêm có đoạn: “..nếu tâm chúng sinh nhớ Phật niệm Phật, đời này, đời sau quyết định thấy Phật, cách Phật chẳng xa..”. “..cách Phật chẳng xa” là đã được sinh về Tịnh Độ. “..đời này quyết định thấy Phật..”, chính là sát na lâm chung, thấy được ứng thân Phật. “..đời sau thấy Phật.” là lúc chứng Lý Vô Sinh ở Tịnh Độ, thấy được Báo thân Phật. Chứng Lý Vô Sinh rồi thì có khả năng phân thân trở về Ta Bà hoặc cõi nào khác để hóa độ chúng sinh. Chứng Lý Vô Sinh là đã lên tới Phẩm Thượng, tu tiếp chuyển hóa dần Vô minh hoặc. Chuyển hóa Vô minh hoặc đến đâu, sẽ chứng được Pháp thân Phật đến đấy. Đoạn Vô minh hoặc là chứng quả vị Phật. Tôi mạnh dạn viết ra những điều trên: Bản sơ đồ, Thuyết minh sơ đồ, là do tâm linh thôi thúc, muốn được chia sẻ với các bạn đồng tu về pháp môn Niệm Phật. Đó là kết quả của quá trình chuyên tu pháp môn Niệm Phật của tôi và nhờ sự gia hộ của mười phương chư Phật khi nghĩ cũng như khi viết vậy.
Là những ý nghĩ chủ quan của một người chuyên tu Niệm Phật thời gian còn ngắn, không tránh khỏi những điều nông cạn, thiếu sót hoặc sai lầm. Thỉnh mong Chư vị độc giả chỉ bảo cho.
Nếu được chút công đức nào, xin đem hồi hướng cho Bốn ân, Ba cõi, nguyện cùng khắp pháp giới chúng sinh, đồng sinh về Cực Lạc, đồng trọn thành Phật Đạo.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, đại từ, đại bi, Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
Cư sĩ Như Trụ kính biên soạn và ấn tống.
Thế danh: Dương Nguyễn Thạch
Địa chỉ: 110 dãy B khu tập thể 3 tầng –
Phố Lê Hồng Phong – Quận Hà Đông – TP Hà Nội
ĐT: (04)33511553.