SỬ 33 VỊ TỔ THIỀN TÔNG

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
21 – TỔ BÀ-TU BÀN-ĐẦU

21 – TỔ BÀ-TU BÀN-ĐẦU

Tổ Bà-Tu Bàn-Đầu là vị tổ thứ 21 của Ấn Độ.Ngài là người thành La Phiệt, giòng họ Tỳ-Bà-Già Thân phị ngài là Quang Cái, thân mẫu là Nghiêm Nhất. Năm 15 tuổi ngài yết kiến vị La Hán tên là Quang Độ để cầu xin xuất gia. Ngài cảm được Bồ-Tát Tỳ-Bà-Ha thụ giới cụ túc cho.
Ngài đi đến nước Na-Đề để hành đạo. Vua nước ấy là Thường Tụ Tại hỏi ngài rằng :
- Phong độ thành La Phiệt cũng giống như thế này hay có chỗ nào khác chăng?
Ngài đáp :
- Ở thành kia có ba Đức Phật ra đời mà nay quốc vương có lại vị đại sư hóa đạo.
- Hai bậc đại sư hóa đạo ấy là ai?
- Đức Phật thụ ký rằng : Năm trăm năm thứ hai có một vị đại sĩ xuất gia để nối dõi Phật chủng. Vị đó là con thứ của nhà vua tên là Noa-Na
- Nếu thật đúng như lời Tôn Giả nói thì tôi sẽ cho người con đó xuất gia làm sa môn.
Tôn Giả nói :
- Nếu đại vương làm được như thế thì thật là quí hóa.
Và nhà vua đã theo đúng như lời Phật dạy, ưng thuận cho hoàng tử đi xuất gia. Tôn Giả bèn cho thụ giới cụ túc, cùng trao truyền tâm pháp. Rồi ngài nói kệ rằng:

Bào huyễn đồng vô ngại
Như hà bất liễu ngộ
Đạt pháp tại kỳ trung
Phi kim diệt phi cổ.

Dịch
Bọt bèo, dối trá ngại chi thay
Bởi tại sao không liễu ngộ ngay
Pháp pháp hiểu rồi trong đó cả
Chẳng xưa cũng chẳng phải là nay.

Đại ý bài kệ nói: Sự giả dối với cái rỗng không có khác chi đâu? Những sự việc như thế, tại sao ta không chịu liễu ngộ ? Nếu ta liễu ngộ mọi sự, mọi vât đều là huyễn ảo cả thì tất cả hiện tượng chỉ là giả danh mà thôi, không có cái gì xưa mà cũng không có cái gì là nay.

(HT Tuệ Hải)

Nghĩa :
Bào ảnh, huyễn hóa cũng chẳng ngại
Như thế mà sao không liễu ngộ ?
Trong cái giả dối đó mà đạt được pháp
Thì chẳng có xưa mà cũng chẳng có nay.

Ngài nói pháp xong liền hiện thân lên trên không trung cao nửa do tuần ,an trụ trong hư không. Bốn chúng chiêm ngưỡng rồi, kính thỉnh ngài về trở về ngồi nơi tòa cũ. Ngài ngồi xếp bằng mà thị tịch . lễ trà tỳ xong các đệ tử thu nhặt xá lợi xây tháp. Năm đó là năm Đinh Tỵ đời vua Thương Đế nhà Hậu Hán.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
22 – TỔ MA-NOA-LA

22 – TỔ MA-NOA-LA

Tổ Ma-Noa-La là vị tổ thứ 22 của Ấn Độ, Ngài là người nước Ma-Đề, con vua Thường-Tự-Tại .Năm 30 tuổi ngài gặp tôn giả Bà-Tu rồi cầu xin xuất gia, và được trao truyền chính pháp. Ngài chu du đến xứ Tây Ấn để hóa đạo cho nhân gian. Ngài gặp quốc vương tên Đắc Độ xin qui y theo Phật.

Một hôm ngài đang hành đạo ở nơi thường ngày thì bỗng hiện ra một ngôi tháp nhỏ, ngài muốn đem ngôi tháp này đi để cúng dường , nhưng hết thảy mọi người đều không thể mang nổi, và muốn hỏi rõ sự đó. Tôn giả vì nhà vua mà nói rõ nguyên nhân. Tháp này vốn của vua A Dục xây, sở dĩ ngày nay hiện ra là do phúc lực của nhà vua đã đến. Khi vua nghe xong liền bạch rằng :
- Bậc chí thánh thật là khó gặp, còn sự vui thú ở đời có được bao lâu. Vì vậy mà nhà vua truyền ngôi báu cho thái tử rồi theo Tôn Giả xuất gia, sau bảy ngày thì chứng được tứ quả.
Một hôm Tôn Giả nói :
- Ông hãy ở lại nước này, dùng phương tiện khéo, độ cho người. Còn ta đến nước Nguyệt Thị, ở đó có người tên là Hạc-Lặc-Na là bậc đại pháp khí.
Khi bấy giờ ngài Ma-Noa-La đến nước kia giảng nói cính pháp nhiệm màu để độ người. Một hôm ông Hạc-Nặc-Na bạch rằng
- Bạch Tôn Giả! Ngài có phương tiện gì để độ cho lũ chúng con ?
Ngài bảo :
- Tôi chỉ có “ Pháp Bảo Vô Thượng” nay đem giao phó cho ông, vậy ông hãy vâng giữ lấy và nghe kệ tôi đây:

Tâm tùy vạn cảnh chuyển
Chuyển xứ thật năng u
Tùy lưu nhận đắc tính
Vô hỷ diệt vô ưu.

Dịch
Tâm tùy muôn cảnh đổi thay
Chuyển nơi tăm tối ra ngay sáng ngời
Tùy dòng nhận tính chơi vơi
Như như tự tại không nơi vui buồn.

Đại ý bài kệ nói: Tâm kia tùy theo hoàn cảnh mà thay đổi, có thể chuyển từ chỗ tối tăm đến chỗ sáng suốt, chuyển mê thành ngộ. tức là tùy theo dòng mà nhận được chân tính. Bản lai chân tâm vẫn hồn nhiên như vậy thì làm gì có vui có buồn.
(TT.Tuệ Hải)

Nghĩa
Tâm theo vạn cảnh chuyển
Chỗ chuyển thật thâm sâu
Theo dòng mà nhận tính
Không vui cũng không buồn
.

Bấy giờ Hạc chúng được nghe bài kệ rồi cất tiếng kêu rồi bay đi. Tôn Giả liền ngồi kiết già mà hóa. Đại chúng cùng nhau xây dựng bảo tháp cúng dường
Ngài thị tịch năm Ất Tỵ, đời vua Hoan Đế nhà Hậu Hán.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
23 – Tổ Hạc-Lặc-Na

Tổ Hạc-Lặc-Na là vị tổ thứ 23 của Ấn Độ. Ngài người nước Nguyệt Thị, thuộc dòng họ Bà-La-Môn. Thân phụ ngài là Thiện Thắng, thân mẫu là Kim Quang. Năm 22 tuổi ngài xuất gia, năm 30 tuổi thì gặp Tôn Giả Ma-Noa-La .
Sau khi được trao truyền “Chính Pháp Nhãn Tạng” ngài đi đến Trung Ấn để giáo hóa nhân gian. Một hôm ngài gặp ông Sư Tử hỏi ngài rằng
- Tôi muốn cầu đạo thì phải dùng tâm như thế nào ?
Ngài bảo:
- Không phải dùng tâm như thế nào cả.
- Đã không phải dùng tâm thì lấy gì mà làm Phật sự ?
- Nếu ông chấp tâm tức là không có công đức, còn nếu không làm thì tức đó là Phật sự.
Ông Sư Tử nghe ngài nói như thế rồi thì liền ngộ nhập được trí tuệ của Phật.
Một hôm Tôn Giả bảo
- Sau khi tôi diệt độ năm mươi năm, sẽ có tai nạn bất kỳ xẩy đến mà chính ông phải hứng chịu lấy, còn tôi thì sắp chết rồi. Vậy chính pháp này tôi giao phó cho ông, ông nên giữ gìn lấy và nghe bài kệ của tôi đây:

Nhận đắc tâm tính thời
Bất thuyết, bất tư nghị
Liễu liễu vô khả đắc
Đắc thời bất thuyết tri.

Dịch
Một khi đã nhận được tâm tính
Không nói năng cũng chẳng nghĩ bàn
Liễu ngộ rồi coi như chưa liễu
Chứng được rồi chẳng nói năng chi.

Đại ý bài kệ : Khi đã nhận rõ được chân tâm rồi thì không cần phải nói năng , nghĩ bàn gì nữa. Liếu đạt được đến chỗ vô khả đắc rồi thì cái được kia không cần nói là biết hay không biết. Tức là đã đến chỗ diệu dụng của nó vậy.
(TT.Tuệ Hải)
Nghĩa
Khi đã nhận được tâm tánh
Chẳng nói, chẳng nghĩ bàn.
Hiểu được liễu ngộ không thể đắc
Đắc rồi chẳng nói điều mình biết.


Ông Sư Tử nghe ngài nói bài kệ đó rồi, vui mừng hớn hở khôn xiết, nhưng vẫn còn chưa hiểu tai nạn là gì. Tôn Giả hiểu được ý đó liền mật bảo cho rồi ngài vào cõi viên tịch. Các đệ tử làm hỏa đàn , cùng nhau phân chia xá lợi đưa về các nơi, xây tháp cúng dường. Tôn Giả ở trên không trung thấy thế , nói kệ rằng :

Nhất pháp nhất thiết pháp
Nhất thiết nhất pháp tiếp
Ngô thân phi hữu vô
Hà phân nhất thiết tháp ?

Dịch
Một là tất cả pháp màu
Tất cả là một có đâu pháp gì.
Thân này chẳng có, không chi
Cớ sao tháp phải phân chia ra nhiều.

Đại ý bài kệ : Pháp ở thế gian tuy nhiều vô số nhưng cung qui chỉ là một pháp thôi. Một pháp đó có thể hòa đồng với vạn vật, vũ trụ nối tiếp diễn biến cho nên nói một là tất cả, tất cả là một. Hiểu rốt ráo được như thế thì cái thân giả hợp của ta đây làm gì có cái hữu, cái vô nữa mà các ông cần gì phải phân chia ra nhiều tháp như vậy ?
(TT.Tuệ Hải)
Nghĩa
Một pháp, hết thảy pháp
Hết thảy, một pháp theo
Thân ta chẳng có, không
Sao phải phân mọi tháp ?

Mọi người nghe trên không nói bài kệ đó rồi thì không quân phân nữa, cùng nhau đều đưa về đạo tràng ở đất Đà-Đô để kiến lập bảo tháp.
Ngài viên tịch năm thứ 20 đời vua Hiến Tông Nhà Hậu Hán, năm Kỷ Sửu
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
24 – TỔ SƯ TỬ TỲ KHƯU

24 – TỔ SƯ TỬ TỲ KHƯU

Tổ Sư Tử Tỳ Khưu là vị tổ tứ 24 của Ấn Độ. Ngài người nước Trung Ấn, dòng họ Bà-La-Môn. Khi được chân truyền giáo pháp rồi, ngài đi hóa đạo ở nước Kế Tân. Một hôm ngài gặp người trưởng giả, dẫn con lại hỏi rằng :
- Bạch ngài, con tôi tên là Tư Đa, khi cháu mới sinh ra đến khi khôn lớn, bàn tay bên hữu vẫn nắm chặt lại, không chịu xòe ra. Không hiểu vì lý do gì. Kính xin ngài chỉ dạy cho về duyên do đời trước của cháu.
Tổ lại gần xem xong rồi cầm lấy tay nói :
- Trả lại ngọc châu cho ta
Tức thì đồng tử liền xòe tay ra, đưa viên ngọc châu cho ngài. Bấy giờ ai nấy đều lấy làm lạ và rất đỗi ngạc nhiên. Ông trưởng giả thấy thế liền xin ngài cho đồng tử xuất gia. Ngài liền thế độ, và cho thụ giới cụ túc .

Tôn giả nói :
- Xưa kia thầy ta có dùng lời mật ngữ huyền ký cho ta rằng : Thời gian không bao lâu nữa ta sẽ mắc nạn. Nay Chính Pháp Nhãn Tạng của đức Như Lai xưa kia , ta truyền trao lại cho ngươi ngươi nên giữ lấy và nghe kệ của ta đây.

Chính thuyết tri kiến thời
Tri kiến câu thị tâm
Đương tâm tức tri kiến
Tri kiến tức vu kim.

Dịch
Khi thấy biết, nói năng ngay thẳng
Thấy biết đều há chẳng phải tâm
Ngay tâm thấy biết khôn nhầm
Giờ đây thấy biết nơi tâm rõ ràng .

Đại ý bài kệ nói: Khi nói ra sự thấy biết, thì chính cái thấy biết ấy đều là tâm cả. Cái tâm kia ở ngay chỗ thấy biết. Sự thấy biết ấy đến ngày nay mới thấy được một cách rõ ràng (Chỉ vào sự liễu ngộ và cũng chỉ vào sự ngộ nạn vậy)
(TT.Tuệ Hải)
Nghĩa
Nói cho đúng về cái thấy biết
Thấy biết tức là tâm
Tâm này là cái thấy biết
Thấy biết ngay hiện tại


Ngài nói bài kệ xong liền mật truyền cho ngài Tư Đa đi sang nước khác, vì ngài biết tai nạn kia xẩy đến bất kỳ, không sao tránh khỏi, nên chỉ một mình ngài lưu lại nước Kế Tân mà thôi.

Bấy giờ ở nước này có bọn ngoại đạo, một người tên là Ma-Mục-Đa, một người tên là Đô-Lạc-Già, thường học các phép tà thuật, mong hại ngài. Vị vua nước này cũng theo bọn chúng. Vì mong trừ khử dòng dõi họ Thích , một hôm vua hỏi ngài :
- Tôn Giả ngũ uẩn đã không chưa ?
- Đã không rồi.
Vua bèn vung gươm chém đứt đầu Tôn Giả. Một dòng máu trắng như sữa phun ra, bắn vào cánh tay nhà vua. Vua nhiễm bệnh, được bảy ngày thì chết. Thái tử thấy thế than rằng
- Phụ vương ta vì lẽ gì lại chuốc lấy tai vạ vào mình ?
Rồi đem báo thân của Tôn Giả, tôn trí vào một nơi để xây tháp cúng dàng.
Năm đó là năm Kỷ Mão, năm thứ 20 đời Tề Vương nhà Ngụy.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
25 – TỔ BÀ-XÁ TƯ-ĐA

25 – TỔ BÀ-XÁ TƯ-ĐA

Tổ Bà-Xá Tư-Đa là vị tổ thứ 25 của Ấn Độ. Ngài người nước Kế Tân, dòng họ Bà-La-Môn. Thân phụ ngài là Tịnh Hạnh, thân mẫu là Thường An Lạc. Lúc đầu ngài gặp tổ Sư-Tử Tôn-Giả, khi ngài được chân truyền giáo pháp rồi, ngài đi giáo hóa ở xứ Trung Ấn. Ngài gặp bọn ngoại đạo ngầm bỏ thuốc độc vào thức ăn của ngài, Ngài biết nhưng vẫn cứ ăn. Kết cuộc là bọn bỏ thuốc độc kia phải hứng lấy tai vạ, và xin theo ngài xuất gia. Ngài liền chấp thuận, cho qui y và cho thụ giới cụ túc.
Về sau vua Đắc Thắng lên ngôi thì ngài mắc nạn. Thái tử Mật Đa can gián thì bị vua bắt cầm tù. Một hôm nhà vua hỏi ngài rằng
- Những người trí thức, học thuật ở nước ta, Thày học tông nào ?
- Tôi học được tông của Phật.
- Đức Phật diệt độ đã lâu, một nghìn hai trăm năm nay, vậy thày theo ai mà học được?
- Tôi theo thày tôi là Tôn-Giả Sư-Tử.
- Ta nghe nói Sư-Tử Tôn-Giả đã không tránh khỏi hình phạt vậy ai là người truyền pháp cho thày?
- Thày tôi trao truyền áo, pháp cho tôi khi chưa ngộ nạn.
Nhà vua hỏi
- Áo thày để đâu ?
- Tôi để ở trong túi.
Nhà vua sai người đem áo ra đốt, nhưng lạ thay, củi cháy hết mà áo vẫn còn y nguyên. Bấy giờ nhà vua kịp thời hối lỗi vội vàng đi đến lễ tạ ngài và bạch rằng
- Thầy là người sáng suốt, thật xứng đáng là người kế thừa tổ Sư-Tử.
Rồi nhà vua sai ân xá cho Thái Tử. Khi Thái-Tử được ân xá , bèn cầu xin xuất gia và ròng rã sáu năm giữ chức thị giả. Mõi khi có những buổi yết ma thì khắp đất rung động , và có rất nhiều những điều linh dị lạ thường.
Một hôm ngài nói :
- Ta không thể ở lại cõi đời bao lâu nữa. Chính Pháp Nhãn Tạng của đức Như Lai nay ta giao phó cho ông. Ông nên giữ gìn lấy và nghe ta nói kệ sau:

Thánh Nhân thuyết tri kiến
Đương cảnh vô thị phi
Ngã kim ngộ chân tính
Vô đạo diệt vô lý.

Dịch
Chỗ thấy biết thánh nhân nói đó
Ngay cảnh kia không có thị, phi
Tính chân ta đã ngộ thì
Không đạo, không lý thị, phi thói thường.

Đại ý bài kệ nói : bậc thánh nhân nói ra sự thấy biết , tức ở ngay trong đối cảnh thấy biết đó , không có gì là phải với không phải cả. Một khi đã liễu ngộ bản tính chân như rồi thì danh từ đạo với lý cũng không còn nữa, tức là đã đến chỗ đạo, lý viên dung vậy.

(TT.Tuệ Hải)
Nghĩa
Bậc thánh nói về việc thấy, biết
Cảnh trước mắt chẳng phải có, chẳng phải không
Nay ta ngộ chân tính
Không đạo cũng không lý.


Ngài nói bài kệ xong liền hiện thần, biến tướng , rồi lại trở về tòa ngồi hóa thành lửa tam muội tự thiêu đốt mình ở ngay nơi bình địa, còn xá lợi bỗng cao lên một thước. Vua Đắc Thắng xây dựng bảo tháp thờ ngài. Năm đó là năm Ất Dậu đời vua Minh Đế nhà Đông Tấn.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
26 – TỔ BẤT-NHƯ MẬT-ĐA

26 – TỔ BẤT-NHƯ MẬT-ĐA

Tổ Bất-Như Mật-Đa là tổ thứ 26 của Ấn Độ. Ngài là thái tử, con vua Đắc Thắng nam Ấn Độ. Khi đắc pháp rồi, ngài đi đến xứ Đông Ấn đêm cính pháp giáo hóa cho nhân gian. Vị vua cai trị nước này tên là Kiên Cố. Ngài liền vì vua mà diễn nói pháp yếu, rồi tâu với vua rằng :
- Ở nước này sẽ có một vị thánh nhân xuất hiện ra đời để kế tiếp sự nghiệp của tôi truyền bá đạo màu.
Bấy giờ trong nước có một người đồng tử thuộc dòng Bà-La-Môn, đã 20 tuổi. Vì cha mẹ mất sớm bởi vậy không biết họ hàng là gì.
Một hôm vua cùng Tôn-Giả ngồi chung một cỗ xe, đi ra ngoài, Xe đang đi bỗng ngừng lại. Nhìn ra phía trước , thấy một đồng tử đang đứng cúi đầu trước xe. Tôn-Giả hỏi :
- Ngươi có nhớ những việc trước kia không ?
- Thưa Tôn-Giả, tôi vẫn còn nhớ, ngày xưa tôi với ngài cùng ở chung với nhau. Bấy lâu xa cách, mãi đến nay mới lại được hội ngộ.
Tôn-Giả nói với vua rằng :
- Người đó tức là Bồ-Tát Đại-Thế-Chí, nay thánh tích mới giáng ở nơi đây vậy.

Bấy giờ đồng tử liền xin xuất gia. Tôn –Giả liền thế phát, qui y cho thụ giới cụ túc, và đặt tên cho là Bát-Nhã Đa-La. Đồng thời lúc đó ngài liền truyền trao Chính Pháp Nhãn Tạng cho và nói kệ rằng:

Chân tính tâm địa tàng
Vô đầu diệt vô vỹ
Ứng duyên nhi hóa vật
Phương tiện hô vi trí

Dịch
Tâm địa tính chân dấu kín hoài
Không đầu, không cuối mấy ai hay
Ứng duyên hóa vật tùy thời hiện
Phương tiên kêu tên trí-tuệ này

Đại ý bài kệ nói: Thể tính chân như bình đẳng tiềm ẩn nơi tâm địa. Chân tính đó không đầu cũng không cuối. Nó chì tùy cơ duyên để thể hiện, hóa độ chúng sinh. Vì thế nên phương tiện gọi là trí-tuệ.
(TT.Tuệ Hải)
Ngài nói kệ xong liền bảo nhà vua rằng :
- Đối với đạo Tối-Thượng-Thừa, xin bệ hạ luôn luôn ngoại hộ cho, đừng lúc nào để lãng quên.
Rồi ngài ngồi kết già phu vào cõi viên tịch. Lại hóa ra lửa để tự thiêu đốt mình. Vua thu thập lấy xá lợi rồi xây tháp cúng dàng
Năm đó là năm Mậu Tý, niên hiệu Thái Nguyên , đời vua Hiếu Vũ nhà Đông Tấn.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
27 – TỔ BÁT-NHÃ ĐA-LA

27 – TỔ BÁT-NHÃ ĐA-LA

Tổ Bát–Nhã Đa-La là vị tổ thứ 27 của Ấn Độ. Ngài người xứ Đông Ấn. Khi được trao truyền chính pháp rồi, ngài liền đi giáo hóa ở xứ Nam Ấn Độ. Vị vua cai trị nước này tên là Hương Chí, là người tôn sùng đạo Phật, đem dâng ngài một viên ngọc vô giá.

Nhà vua có ba người con. Một hôm Tôn-Giả hỏi thử ba người con kia rằng
- Ngọc châu này là vật quí giá, tròn đầy, trong sáng, vậy có vật nào có thể sánh kịp với ngọc châu này chăng ?
Người con thứ nhất và thứ hai đều nói rằng :
- Đối với hàng thất bảo thì viên ngọc vô giá này là quí hơn cả, như vây thì cố nhiên không vật nào có thể sánh kịp được.
Người con thứ ba là Bồ-Đề Đa-La thưa rằng
- Đây là ngọc báu của thế gian thì chưa phải là ngọc quí hơn cả. Nếu đem so với tất cả trong hàng châu báu thì chỉ có Pháp Bảo mới là quí hơn cả.
Ngài lại hỏi :
- Trong tất cả các vật,vật gì là lớn hơn cả?
- Chỉ có Pháp Tính mới là lớn hơn cả.
Tôn Giả biết người này khả dĩ là pháp khí, nhưng vì thời cơ chưa đến nên ngài lặng yên, để nguyên cho lẫn lộn đi . Mãi đến khi vua Hương Chí chán đời thì Thái tử bồ-Đề Đa-La mới xin đi xuất gia., và thụ giới cụ túc.
Một hôm Tôn Giả bảo rằng :
- Chính Pháp Nhãn Tạng của đức Như Lai nay tôi giao phó cho ông, ông nên gìn giữ lấy để truyền bá cho rộng ra, và nghe kệ tôi sau đây:

Tâm địa sinh chư chủng
Nhân sự phục sinh lý
Quả mãn Bồ-Đề viên
Hoa khai thế giới khởi.

Dịch
Tâm địa sinh mọi giống lành
Nhân vì có sự mới thành lý nay
Quả Bồ-Đề kết tròn đầy
Hoa nở thơm ngát khắp đầy trần gian.

Đại ý bài kệ nói : Hết thảy mọi hạt giống đều do nơi tâm địa sinh ra, khi đủ mọi duyên thì đâm chồi nẩy lộc. Nghĩa là nhân có sự mới ra có lý, nếu sự không thì lý cũng không. Người tu đạo một khi đã liễu ngộ hoàn toàn , tức là quả Bồ-Đề được viên mãn thành tựu, cũng ví như hoa Ưu Đàm , hương thơm tỏa ngát cả đại thiên thế giới.
(TT. Tuệ Hải)

Nghĩa
Tâm địa sinh mọi giống
Vì có sự mới sinh ra lý.
Khi quả đã tròn đầy thì Bồ-Đề cũng thành tựu
Như hoa khai thì thế giới bừng dậy.
(Liên Hoa nở ra thì hành giả bước vào thế giới Phật Di-Đà)


Ngài nói bài kệ xong , phóng ra luồng hào quang lớn sáng rực rỡ, rồi bỗng nhiên hiện thân lên hư không cao bằng bảy cây Đa-La , lại hóa ra lửa tự thiêu đốt mình. Xá-Lợi của ngài ở trên hư không rơi xuống như mưa. Các hàng đệ tử thu nhặt lấy ngọc Xá-Lợi tôn trí vào một nơi , xây tháp cúng dàng.
Năm ấy là năm Đinh Dậu , niên hiệu Đại Minh năm đầu đời vua Hiếu Vũ Đế đời Tống.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
28 – TỔ BỒ-ĐỀ ĐẠT-MA

28 – TỔ BỒ-ĐỀ ĐẠT-MA

Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma là vị tổ thứ 28 của Ấn Độ., và là vị sơ tổ ở Trung Hoa. Ngài người nước Nam Thiên Trúc , dòng Sát đế lợi, là con thứ ba vua Hương Chí. Ngài được tổ Bát-Nhã Đa-La trao truyền tâm ấn. Sau khi ngài đắc pháp rồi, vào khoảng niên hiệu phổ thông năm tứ 7 đời nhà Lương. Ngài đem giáo pháp truyền sang đất Nam Hải (Trung Hoa) .
Một hôm vua Lương Vũ Đế hỏi ngài rằng
- Đệ Nhất Nghĩa Đế là thế nào ?
Ngài đáp :
- Quách nhiên vô thánh ( Rộng lớn , chẳng có thánh gì cả )
Vua hỏi :
- Người đối diện với trẫm là ai ?
- Không biết.

Nhà vua không khế ngộ được nên ngài liền sang đò, đi đến chùa Thiếu Lâm ở rặng Tung Sơn. Ngài ngồi quay mặt vào vách ròng rã chín năm. Về sau có ngài Thần Quang (tức Huệ Khả) lại tham học, cầu pháp, đứng ngoài trời tuyết lạnh suốt đêm, tuyết ngập đến đầu gối. Tổ dùng lời khai thị cho.

Một hôm tổ bảo
- Ông đã nhận được những cái tinh túy nơi ta.
Và tổ nói :
- Chính Pháp Nhãn Tạng của đức Như Lai xưa kia phó chúc co ngài Ca Diếp. dần dà truyền đến tôi. Nay tôi giao phó cho ông, ông hãy giữ gìn cho khéo, và nghe bài kệ sau :

Ngô bản lai tư độ
Phó Pháp cứu mê tình
Nhất hoa khai ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành.

Dịch
Nguyên lai ta đến cõi này
Trao truyền chánh Pháp cứu rày kẻ mê
Một hoa năm cánh xum xuê
Tự nhiên kết quả Bồ-Đề ngát hương.

Đại ý bài kệ nói: Mục đích ta đến cõi này là để trao truyền Chánh Pháp của Phật , dùng giáo pháp ấy cứu người mê. Năm vị tổ nối tiếp nhau truyền thừa, làm cho cây Thiền ngày thêm tươi tốt.

HT Tuệ Hải

Nghĩa
Ta đến cõi này
Truyền Pháp cứu người mê
Một hoa năm cánh nở
Kết quả tự nhiên thành.


Ngài nói bài kệ ấy rồi liền hiện thần, biến tướng, rồi trở về tòa ngồi mà thị tịch. Nhà vua dùng Kim quan đựng ngọc thể của ngài , an táng ở núi Hùng Nhĩ. Ba năm sau, ông Chu Vân nhà ngụy phụng chỉ đi sứ, khi trở về thì gặp tổ mang một chiếc giày đi ở núi Thông Lĩnh. Ông hỏi Tổ về đâu? Tổ đáp “ Tôi đi về cõi Tây Thiên” . Ông Chu Vân về triều, đem sự kiện ấy ra tâu lại. Nhà vua sai người phá tháp ra xem thì thấy chỉ còn lưu lại một chiếc giày mà thôi. Vua ban chiếu cúng dàng ngài ở chùa Thiếu Lâm.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
29 – TỔ HUỆ KHẢ

29 – TỔ HUỆ KHẢ

Hòa thượng Huệ Khả là vị tổ thứ hai của Trung Hoa. Ngài họ Cơ,ở đất Vũ lao. Thân phụ ngài tên là Tịch. Khi sinh ngài có điềm sáng lạ thường nên thân phụ ngài đặt tên cho ngài là Thần Quang. Khi lớn lên, ngài xuất gia với hòa thượng Bảo Tịnh. Năm 33 tuổi, ngài trở về núi Hương Sơn ngồi lặng lẽ tám năm. Sau ngài tới chùa Thiếu Lâm cầu pháp và tham học với Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma ở nơi Thiếu Thất Diện bích. Bởi vậy nên chưa từng được nghe một lời giáo huấn, khuyên dạy.
Một hôm vào đêm khuya, ngài đứng ngoài cửa đông Thiếu Thất, gặp lúc mưa tuyết rất lớn, ngài vẫn đứng y nguyên một chỗ không hề nhúc nhích, đến nỗi tuyết đọng lại lên đến quá đầu gối. Tổ thấy vậy thương hại hỏi rằng :
- Ông đến đây muốn cầu việc gì ?
Ngài sụt sùi bạch rằng :
- Cúi xin Hòa-Thượng mở rộng cửa Cam Lộ, cứu độ cho lũ quần sinh chúng con.
Tổ bảo :
- Đạo pháp cao siêu màu nhiệm của chư Phật , phải siêng năng, tinh tấn nhiều kiếp, phải làm được những việc người đời khó làm. Há phải những người đức nhỏ, trí mọn mà mong cầu được đạo chân thừa ? Như vậy chỉ luống thêm sự khổ cực mệt nhọc mà không có ích gì.
Ngài nghe tổ chỉ giáo, khuyên răn như thế liền lấy lưỡi dao sắc bén tự cắt cánh tay hữu của mình, rồi đem để ở trước tổ. Tổ thấy vậy, biết người này là bậc pháp khí, liền đổi tên cho là Huệ Khả.
Ngài bạch Tổ rằng :
- Pháp ấn của chư Phật, con có thể được nghe chăng ?
Tổ bảo :
- Pháp ấn của chư Phật không phải do nơi người mà được.
Ngài bạch :
- Nay tâm con chưa được yên, xin Tổ hãy yên tâm cho con.
Tổ bảo :
- Hãy đem tâm ra đây ta yên cho.
Ngài yên lặng giây lâu rồi bạch :
- Con tìm tâm mãi , song không thể được.
Tổ bảo :
- Ta đã an tâm cho ông rồi đấy.

Khi ngài đắc pháp rồi, về sau ngài trao truyền cho ngài Tăng Sáng và nói kệ rằng

Mai dựng ngọc, Thiếu Lâm xuân
Lập tuyết không giai thái khổ tân
Phật Pháp nhược tòng đoạn tý đắc
Tây Thiên, Đông Độ một toàn nhân.

Dịch
Thiếu Lâm ngọc nảy chồi mai đẹp
Mỏi gót, thềm không tuyết phủ đầy
Nếu cắt cánh tay mà chứng đạo
Toàn nhân Trung, Ấn mấy người nay ?

Đại ý bài kệ nói :Chùa Thiếu Lâm có nhành mai nẩy chồi ngọc tốt tươi. Người vì đạo cầu pháp, dù có gian nan rét mướt, khổ cực, chồn chân mỏi gối ở trước thềm không vắng vẻ cũng không sờn lòng, nản chí. Để vì đạo quên mình, ngài cắt đứt cánh tay. Nhưng không phải do cắt đứt cánh tay mà được đạo. Mà cốt ở nơi nhất tâm, cho nên nói : Nếu do chỗ cắt cánh tay mà được đạo Thì Trung Hoa và Ấn Độ không một người.

(TT.Tuệ Hải)
Nghĩa
Xuân đến Thiếu Lâm, mai nảy chồi ngọc
Thềm không, đứng tuyết đắng cay.
Nếu cắt cánh tay mà được pháp
Trung Hoa, Ấn Độ chẳng một người (đắc đạo).


Ngài nói bài kệ xong thì thị tịch. Đại chúng đệ tử làm lễ an táng, xây tháp kỷ niệm ở đất Từ Châu, thuộc huyện Phủ Dương, Đời vua Văn Đế nhà Tùy , niên hiệu Khải Hoàng năm thứ 13 . Đến năm niên hiệu Đức Tông nhà Đường thì sắc phong đổi hiệu ngài là Đại Tổ Thuyền Sư.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
30 – HÒA THƯỢNG GIÁM-TRÍ TĂNG-SÁN

30 – HÒA THƯỢNG GIÁM-TRÍ TĂNG-SÁN .

Hòa thượng Giám Trí Tăng –Sán là vị tổ thứ ba của Trung Hoa. Ngài người đất Từ Châu. Khi còn là cư sĩ ngài đã lên ngôi Thiếu Thất lễ tổ, bạch rằng
- Đệ tử không may bị bịnh phong cùi, cúi xin hòa thượng sám hối tội lỗi cho con.
Tổ bảo :
- đem tội lại ta sám hối cho ông
Cư sĩ bạch :
- Con tìm tội mãi nhưng không thể được.
Tổ bảo :
- Sám hối tội xong rồi đây.
Cư sĩ bạch:
- Nay con thấy hòa thượng là bậc Tăng Bảo mà còn chưa biết thế nào là Phật, Pháp.
- Tâm là Phật, Tâm cũng là Pháp. Phật với Pháp không hai thì ngôi Tăng Bảo cũng vậy.
- Nay con mới biết về tội tính, nó không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa. Nếu Tâm được như thế thì Phật Pháp vốn không hai vậy.

Tổ ngầm hiểu rằng người này là bậc pháp khí, nên liền cho thế phát, qui y , thụ giới cụ túc và bảo rằng “ Đây là Pháp bảo của ta “. Vì thế mới gọi ngài là Tăng-Sán vậy.
Trải qua thời gian hai năm, Ngài làm người thị kinh , về sau bệnh phong khỏi dần, khả dĩ có thể là người kham nhẫn để nối đèn tuệ, nên tổ bèn trao truyền y bát cho và nói bài kệ rằng :

Hoa chủng tuy nhân địa
Tòng địa chủng hoa sinh
Nhược vô nhân hạ chủng
Hoa địa tận vô sinh.

Dịch
Hoa nhân nơi đất gieo trồng
Cũng do nơi đất nẩy mầm nở hoa
Nếu không gieo hạt giống ra
Hoa tàn , đất rữa quyết là không sinh.

Đại ý bài kệ nói: Hoa kia tuy trồng nơi đất, nhưng cũng nhờ mọi duyên mới đâm chồi nẩy lộc. Nếu không có đất, và hạt giống cũng không gieo , thì quyết định không thể phát sinh được. Người tu đạo cũng phải gieo trồng mọi nhân lành, và làm đầy đủ mọi duyên tốt, thì hoa trí tuệ , quả Bồ-Đề mới có thể phát sinh được.

TT.Tuệ Hải

Nghĩa
Giống hoa tuy nhờ đất
Từ đất giống hoa sinh
Nếu không người gieo giống
Hoa, đất đều chẳng sinh
.

Ngài nói xong bài kệ liền vào thị tịch. Năm đó là năm niên hiệu vua Dạng Đế nhà Tùy. Tháp ngài xây ở đất Thư-Châu. Về sau một mình nhà vua ngự giá ra xem , được ngọc xá-lợi ba trăm hạt, đem chia cho khắp nơi để tôn trí cúng dàng. Đến đời vua Huyền Tông nhà Đường sắc phong hiệu ngài là Giám-Trí Đại Thuyền Sư.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
31 – TỔ ĐẠO TÍN

Hòa Thượng Đạo Tín là vị tổ thứ tư của Trung Hoa. Ngài dòng họ Tư Mã, người đất Châu Kỳ. Ngài là người xuất chúng, phi thường. Thuở thơ ấu đã hâm mộ đạo Phật. Các môn giải thoát, ngài đều tỏ rõ như người đã học từ trước. Khi được thừa kế Tổ Tăng Sáng, ngài thu nhiếp thân, tâm và chưa từng ngủ nghỉ, hơn 60 năm sườn không bén chiếu.
Ngài người gốc ở Hà Nội, sau mới trở về núi Phá Đầu, đất Ký Châu mở trường giảng dạy đồ chúng. Đạo pháp ngày càng thêm sâu rộng, làm cho hoa trìu, cảnh mến , danh thơm vang khắp chốn Thần phong.
Năm Quí Mão, niên hiệu Trinh Quán, vua Thái Tông triệu ngài phó kinh, Ngài khiêm tốn dâng sớ từ tạ, trước sau hai ba lần. Vua thấy thế nổi giận hạ lệnh sai sứ giả đưa chiếu chỉ đi. Lần này nếu ngài không phó kinh thì cắt lấy đầu mang về. Sứ giả tới nơi đưa chỉ dụ, ngài liền kề cổ tới sát lưỡi gươm mà thần sắc vẫn nghiễm nhiên tự tại. Sư giả thấy thế lấy làm lạ, liền làm trạng tâu về kinh. Vua nghe biết sự việc như thế , bừng tỉnh ngộ liền khen ngợi, ban tặng châu báu, lụa là cho ngài và để cho ngài được tùy ý.
Một hôm ngài bảo môn nhân là ngài Hoằng Nhẫn rằng:
- Ta có áo, pháp xưa kia tổ trao truyền cho, nay ta giao phó cho ông, ông hãy gìn giữ lấy, và nghe tôi nói kệ sau:

Hoa chủng hữu sinh tính
Nhân địa hoa sinh sinh
Đại duyên dữ tính hợp
Đương sinh, sinh bất sinh

Dịch
Gieo trồng hoa có tính sinh
Hoa nhân địa vẫn phát sinh đời đời
Đại duyên với tính hợp rồi
Hoa kia sinh nở đời đời bất sinh
.
(TT.Tuệ Hải)
Nghĩa
Giống hoa có tính sinh
Nhờ đất hoa sinh sôi
Tứ đại hợp với tính
Ngay khi sinh tức bất sinh.


Ngài phó pháp, nói kệ xong thì liền vào thị tịch. Tháp ngài xây ở núi Phá Đầu, sau này vô cớ tự nhiên cửa tháp mở ra, hình dáng của ngài vẫn như lúc còn sống. Các đệ tử thấy thế, không dám đóng cửa tháp lại, chỉ kính lễ rồi để y nguyên như vậy. Đến đời vua Đại Tông nhà Đường , thì pháp hiệu của ngài đỏi là Đại Y thiền sư.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
32 – TỔ ĐẠI-MÃN HOẰNG-NHẪN

Ngài là vị tổ thứ năm của Trung Hoa. Ngài họ Chu, người đất Kỳ Châu, thuộc uyện Hoàng Mai .
Thuở còn thơ ấu ngài đã có cốt các thanh kỳ, tuấn tú, đĩnh ngộ, khác hẳn với bọn nhi đồn. Khi được gặp đệ tứ tổ Đạo-Tín, tô hỏi ngài rằng :
- Ông danh tánh gì ?
- Tánh con là Phi thường.
- Phi thường là họ gì ?
- Là Phật tánh.
- Ông không có họ sao ?
- Là tánh không, vô cố.
Tổ biết là Pháp khí nên cho làm thị giả, rồi tổ đến cỗ thân mẫu của ngài, xin cho ngài xuất gia. Thân mẫu ngài vì những sự vô cố trước kia nên cũng không dám luyến tiếc mà liền cho làm đệ tử. Khi cơ duyên đã đến, Tổ liền đem Chính Pháp Nhãn Tạng giao phó co ngài và nói kệ rằng :

Hữu tình lai hạ chủng
Nhân địa quả hoàn sinh
Vô tình ký vô chủng
Vô tính diệt vô sinh.

Dịch
Hữu tình gieo lại mầm non
Nhân do nơi đất, quả còn tiếp theo
Vô tình giống đã không gieo
Tính kia không có, quả nào phát sinh.

(TT.Tuệ Hải)
Nghĩa
Có tình ( ý ) mà tạo nghiệp
Nhân các duyên mà sinh ra quả
Vô tình (ý ) không tạo nghiệp
Tánh không, sinh cũng không
.

Ngài nói kệ xong, sau đó bốn năm thì ngài thị tịch. Các đệ tử xây tháp ngài ở núi Hoàng Mai. Giáo pháp ngài lưu truyền lại về sau thành lập hai Tông: Ngài Huệ Năng truyền về Nam Tông. Ngài Thần Tú truyền về Bắc Tông. Phật pháp thời đó rất thịnh hành. Về sau vua Đại Tông nhà Đường suy tôn pháp thụy của ngài là Đại Mãn thiền sư.
 

binh

Registered
Phật tử
Tham gia
29 Thg 11 2006
Bài viết
665
Điểm tương tác
35
Điểm
28
Địa chỉ
HCM
33 – TỔ ĐẠI-GIÁM HUỆ-NĂNG

Hòa thượng Đại-Giám Huệ-Năng là Tổ thứ sáu Trung Hoa. Ngài họ Lư. Thân phụ là Hạnh-Thao, thân mẫu là Lý Thị, người đất Tân Châu, thuộc Lĩnh Nam (Phạm Dương). Cha mất sớm, lớn lên Ngài đi kiếm củi nuôi mẹ, sau ngài xin qui y thụ pháp với Tổ Hoằng Nhẫn. Lúc mới tới tham học , Tổ hỏi rằng
- Ông từ đâu tới đây ?
- Con từ đất Lĩnh Nam tới đây.
- Ông muốn cầu việc gì ?
- Con muốn cầu làm Phật.
- Người man rợ sao có thể làm Phật được ?
Ngài bạch:
- Con người thì có Bắc, Nam còn Phật tính há lại cũng như vậy sao? Tuy thân con là man rợ không giống với Hòa Thượng, còn Phật tính thì làm gì có sai khác vậy.
Tổ bảo :
- Thôi đi theo chúng nhân mà làm việc.
- Tổ dạy con làm việc gì ?
- Hãy đi xuống tàu xưởng.
Ngài xuống xưởng, giã gạo hơn tám tháng. Một hôm Tổ gọi các đệ tử lên bảo
- Mỗi người các ông làm cho ta một bài kệ xem ai là người khả dĩ ta có thể trao truyền chính pháp.
Ngài Thần Tú liền làm trước:

Thân thị Bồ-Đề thụ
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức
Vật xử nhạ trần ai.

Dịch
Thân này tựa cội Bồ-Đè
Tâm như minh kính sáng ngời lâng lâng
Thời thời phất thức chuyên cần
Không cho một chút bụi trần bám vô
.

Nghĩa
Thân như cây Bồ-Đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn chuyên cần phủi bụi
Làm gì bụi bám vô


Tổ Huệ Năng họa nguyên vận:

Bồ-Đề bổn vô thụ
Minh cảnh diệt phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai.

Dịch
Bồ –Đề kia vốn không cây
Đài gương sáng ấy há rày có nao ?
Xưa nay không một vật nào
Bụi trần kia dễ bám vào nơi đâu
?

Tổ xem xong bài kệ này thì thâm hiểu rằng đây là bậc Pháp khí , liền đem y bát truyền trao cho ngài.
Ngài được chân truyền y bát rồi liền đi thuyết pháp hóa độ chúng sinh, thời gian hơn 40 năm. Giáo pháp của ngài truyền bá lập thành hai chi :
- Một chi truyền cho ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng
- Một chi truyền cho ngài Thanh Nguyên Hành Tư
Mỗi vị đều làm Tông chủ một nơi.
Ngài dạy “Các ông ai nấy đều phải y vào giáo pháp của ta mà hóa độ nhân gian , và hãy nghe ta nói kệ sau

Tâm địa hàm chư chủng
Phổ vũ tất giai manh
Đốn ngộ hoa tình dĩ
Bồ-Đề quả tự thành

Dịch
Nơi tâm địa chứa đầy hạt giống
Mưa chan hòa nẩy mộng tốt tươi
Hữu tình hoa đốn ngộ rồi
Tự thành đạo quả, chứng ngôi Bồ-Đề.


Ngài nói bài kệ xong liền trở về chùa Quốc Ân, đát Tân Châu ngồi kết-già-phu thị-tịch. Lúc đó bỗng có cầu vồng bạch sáng soi khắp đất, chung quanh nơi ngài mùi thơm lạ thường. Năm đó niên hiệu Tiên Thiên năm thứ hai, xây tháp kỷ niệm Ngài Sau vua Thái Tổ nhà Tống ngự giá xây lại thành tháp miếu. Về sau vua Thái Tông lên ngôi thì chiếu chỉ xây tháp bảy từng và gia phong pháp hiệu của Ngài là Đại-Giám Chân-Không Thiền Sư, Thái-Bình Hưng Quốc tháp.

Kệ Tổng Luận
Thống vị tham tầm thiết yếu tri
Ty hào tài động tức tương vi
Kim cương thấu hạp thùy năng dụng
Duy hữu Na Tra đệ nhất ky
Cử mục tiện linh tam giới tĩnh
Trấn linh hoàn xử cửu thiên qui
Chánh trung diệu hiệp thông hồ hộ
Nghĩ nghị phong mang thất khước nghi.

Tạm dịch
Tựu vị tìm xét nghĩa huyền
Mảy may động niệm tức liền trái ngay
Kim cương hiểu thấu, hợp đem dùng ?
Chỉ có Na Tra đệ nhất cơ.
Ngước mắt khiến tam giới tịnh
Rung chuông cho chín tầng trời qui đầu
Chính trong đó mà diệu hiệp, thì thông cõi Phật
(Hồ hộ : nhà của Tổ Bồ Đề Đạt Ma)
Nếu nghĩ nghị là mất
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên