Tứ thập nhị chương kinh !

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> Chúng ta tạm dừng ở đây, và sẻ tiếp tục học Tứ Thập Nhị Chương Kinh do HT.Thích Phước Tịnh giảng giải sau hai ba hôm nửa! Bây giờ đây chúng ta cùng nghe Thầy trả lời vài câu hỏi của các vị Phật Tử (là Việt Kiều ở Mỹ). Hy vọng chúng ta sẻ được thư giản chút ít.

<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/KDuyMaCat-PPhatQuoc05.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="100" width="425"></center>
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/KDuyMaCat-PPhatQuoc06.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="100" width="425"></center>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Hý Luận

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 10 2011
Bài viết
98
Điểm tương tác
20
Điểm
8
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XXIX [/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]PHONG CÁCH SA MÔN
HT.Thích Phước Tịnh_Giảng Giải
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hai chữ “phong cách” trong chủ đề chương hai mươi chín có nghĩa là biểu hiện ra bên ngoài trong cách hành xử của Sa môn. Nó không những biểu hiện của hình thể mà còn toát ra năng lượng đời sống bên trong tâm thức. Cho nên Phong Cách Sa Môn là tên gọi của chương Kinh nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chương Kinh hai mươi chín nầy Đức Phật dạy người tu phải thận trọng khi tiếp xúc với người khác phái. Cái nhìn của ta biểu hiện được phong cách của một người tu. Tuy nhiên người tu chúng ta không phải chỉ nhìn, mà còn nói năng hành xử, không những chỉ với người khác phái mà chúng ta còn tiếp xúc với bao nhiêu điều trong nhiều lãnh vực khác nhau làm thành phong cách người tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi đọc lên để quí vị thấy văn học Kinh điển từ kho tàng Hán tạng nhuốm ít nhiều màu sắc kỳ thị trong đây:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Thận vật nữ sắc. Diệc mạc cộng kỳ ngữ. Nhược dữ ngữ giả, chánh tâm tư niệm: “Ngã vi sa môn, xử ư trược thế, đương như liên hoa, bật vị nê ô. Tưởng kỳ lão giả như mẫu, trưởng giả như tỷ, thiếu giả như muội, trĩ giả như tử, sanh độ thoát tâm, tức diệt ác niệm.”:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Cẩn thận chớ có nhìn người khác phái, cũng đừng có nói chuyện. Nếu phải nói chuyện thì tâm ý phải chính trực, phải quán chiếu rằng: Ta là vị Sa môn, ở cõi đời uế trược phải như hoa sen, không bị nhiễm bùn lầy. Khi tiếp xúc với người khác phái như người nữ già hãy xem đó như mẹ. Người lớn tuổi hơn phải xem như chị, và người nhỏ như mình thì xem như em gái, bé hơn mình thì xem như con và phát tâm độ thoát họ tức diệt hết những tâm niệm ô uế.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phải thận trọng quán chiếu khi giao tiếp với người khác phái hầu thành tựu và biểu hiện được phạm hạnh thanh khiết của vị Sa môn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta sẽ đi vào từng vấn đề sau đây: Nam nữ trong đạo Phật. Phạm hạnh của Sa môn. Tiếp xúc và quán chiếu. Công huân thành tựu phạm hạnh và độ sanh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Nam nữ trong đạo Phật Nguyên Thủy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta thấy ngày xưa trong Tăng đoàn Nguyên Thủy vấn đề kỳ thị rất lớn. “Thận vật thị nữ sắc” cẩn thận không nhìn nữ sắc, làm như tất cả mọi tội lỗi trên cuộc đời nầy đều do phái nữ gây ra, các thầy không gây tội. Và trong kinh điển hầu như các vị nữ khất sĩ ít được nhắc tới. Trong thời Phật giáo phát triển có một vài bộ kinh phái nữ cũng được quan tâm như Kinh Thắng Man hay Thắng Man Phu Nhân Kinh... Tuy nhiên số lượng không đáng kể.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong truyền thống Nguyên Thủy các quốc gia Nam phương Phật giáo cũng chưa hề quan tâm đến điều nầy, chỉ có duy nhất Nhật Bản họ quan tâm đến Kinh Thắng Man Phu Nhân và Thánh Đức Thiên Hoàng chú giải Kinh nầy xem nó như quốc bảo. Điều nầy có ít nhiều liên hệ đến văn hóa Nhật Bản. Người Nhật xem Thái Dương Thần Nữ là Tổ Mẫu đất nước họ, nên tinh thần mẫu hệ tôn trọng phái nữ có mặt trong văn hóa Nhật Bản, và chúng ta vẫn thường nghe người ta gọi dân Nhật là con cháu của Thái Dương Thần Nữ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ điều nầy qui chiếu lại các quốc gia có văn hóa bắt nguồn từ mẫu hệ thì thấy nơi đó tính kỳ thị rất ít. Những quốc gia mà văn hóa bắt nguồn từ phụ hệ thì tính kỳ thị nữ phái rất nặng nề.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Tính kỳ thị nữ giới trong các nền văn hóa Đông Tây.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trước Công nguyên người ta hình như ít kỳ thị, nhưng sau khi Ki Tô giáo trở thành quốc giáo bởi Hoàng Đế Constantine La Mã, thì tôn giáo nầy tiêu diệt hết tất cả những tôn giáo có văn hóa mẫu hệ. Vì vậy nền văn hóa Tây phương được hình thành trên nền tảng căn bản rất kỳ thị nữ giới. Điều nầy đã được biểu hiện trong mọi truyền thống tôn giáo, xã hội và trong mọi lãnh vực chịu ảnh hưởng của tín lý Ki Tô. Điển hình là cho đến nay vẫn chưa có một Mục Sư, hay Linh Mục nữ trong Ki Tô hay Tin Lành. Do vậy, tâm thức con người đông cứng trong vấn đề kỳ thị, nhu yếu bình đẳng nam nữ không thể xẩy ra trong xã hội với truyền thống Ki Tô giáo làm nền trên hai mươi thế kỷ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhìn lại Đông phương cũng chẳng khá gì hơn. Từ ngày Bà La Môn có mặt trên đất Ấn trước kỷ nguyên 700 năm, cho đến sau nầy Hồi Giáo xâm nhập vào lưu vực Ấn hà vào thế kỷ 13 thì tính kỳ thị không những dành riêng cho nữ giới mà còn đè nặng lên xã hội. Cho đến hiện tại đời sống con người hầu như không thể vẫy vùng để vượt thoát được tập tính nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hơn nữa, Đông phương được hình thành bằng hai nền văn hóa lớn là Ấn Độ và Trung Hoa. Phương Bắc Trung Hoa người ta tôn trọng đàn ông; văn minh miền Bắc là loại văn minh du mục, trọng thị sức mạnh săn bắt, chiến đấu để duy trì và bảo tồn sự sống nên hình thành chế độ phụ hệ, trong khi phương Nam người ta theo mẫu hệ. Và nền văn minh Trung Hoa được hội tụ từ sông Hoàng Hà miền Bắc và sông Trường Giang miền Nam nên từ bên trong tính kỳ thị có nhẹ hơn đôi chút. Tuy nhiên, từ hai nền văn minh Ấn Hoa nầy phối hợp đã hình thành đặc tính kỳ thị nam nữ nghiêm trọng trong văn hóa, xã hội và dẫn vào lãnh vực tôn giáo rất dễ dàng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Tính kỳ thị nam nữ trong tôn giáo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bước vào lãnh vực tôn giáo chúng ta thử nhìn sâu vào Đạo Phật. Sử liệu ghi lúc đầu Đức Phật cũng không cho người nữ xuất gia. Tại sao, và có phải kỳ thị không? Thưa không, vì văn hóa xã hội quy định đời sống tôn giáo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta hãy nhìn lại trước thời Đức Thế Tôn chưa có một dòng tu nào có người nữ xuất gia, chưa từng có Ni đoàn Tỳ kheo. Nhưng Đức Thế Tôn đã làm một cuộc cách mạng rất lớn là cho một số người nữ xuất gia, gầy dựng một Tăng Đoàn Nữ đầu tiên trong lịch sử tôn giáo; một điều chưa từng có trong xã hội văn minh Đông phương lẫn Tây phương.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tuy nhiên, không may mắn là sau khi Đức Phật nhập diệt không lâu, theo sự phát triển của đạo Phật, giáo đoàn Tỳ Kheo Ni dần dần suy thoái do vì áp lực văn hóa của xã hội đè nặng nên khả năng tồn tại không kéo dài. Đến khi Hồi giáo xâm lăng, chiếm Ấn Độ vào thế kỷ mười hai, mười ba, chùa chiền, tự viện tăng ni bị sát hại, tiêu diệt. Cho đến nay đã bảy, tám trăm năm trôi qua, giáo đoàn Tỳ Kheo Ni biến mất trên quê hương Ấn Độ, ngay trên chiếc nôi mình đã được sinh ra và ngay cả trong vùng Phật giáo Nam Tông cực thịnh như những quốc gia Miến Điện, Tích Lan... giáo đoàn Tỳ Kheo Ni vẫn chưa có mặt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, tôi chỉ chia xẻ rất khái quát điều nầy để chúng ta thấy rằng văn hóa và áp lực xã hội đè nặng lên tâm thức con người khó vùng vẫy để làm được một cuộc cách mạng. Đức Thế Tôn tuy đã gầy dựng Ni đoàn bằng một pháp chế nhân bản, mở rộng cánh cửa phương tiện cho người nữ bước vào. Thế nhưng ngày tháng đi qua, áp lực của văn hóa bào mòn. Đến nay các quốc gia Đông phương như Nhật Bản, Việt Nam tương đối Ni đoàn khất sĩ vẫn còn, nhưng Trung Hoa vì khả năng kỳ thị tích tụ từ nền văn hóa phụ hệ, vấn đề trọng nam, khinh nữ đã thành truyền thống ăn sâu vào tâm thức xã hội nên hầu như Ni giới vẫn chưa phát triển đáng kể.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ ngày xưa, Đức Phật đã nhìn rõ vấn đề giới tính. Ngài từng tuyên bố một câu đầy nhân bản, bình đẳng là “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh.”: “Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật.” Và rõ ràng là trong tự thân mỗi sinh linh đều có khả năng thành Phật. Điển hình nhất là trong thời của Ngài có rất nhiều vị Tỳ Kheo Ni đã chứng quả A La Hán và thần thông không kém gì các Ngài Mục Kiền Liên như bà Liên Hoa Sắc, đức hạnh như bà Đại Ái Đạo Tỳ Kheo Ni và bà Da Du cũng nhập Niết Bàn trước Đức Thế Tôn. Và nhiều bài kệ chứng đạo của các vị ấy còn lưu lại trong Trưởng Lão Ni kệ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, trong chiều hướng phát triển của xã hội hiện tại chúng ta phải thay đổi tư duy, làm mới lại cái nhìn của chúng ta đối với vấn đề nam nữ. Đạo Phật muốn tồn tại trong thế giới Tây phương, muốn trở thành một tôn giáo nhân bản, (bản chất thực sự vốn có của nó từ ngàn xưa như Đức Phật đã tuyên bố.), vấn đề nầy phải được chúng ta quán chiếu, nhận diện. Chúng ta phải đọc, tham khảo những văn bản cổ đối chiếu với khuynh hướng phát triển của xã hội hiện tại và tương lai hầu đưa ra những bài viết, những buổi nói chuyện về vấn đề kỳ thị nầy để loại đi tâm thức kiêu mạn, phân biệt nơi những con người thuộc truyền thống văn hóa phụ hệ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Phạm hạnh của Sa môn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đạo Phật có mặt ngày hôm nay và để làm nên giá trị của mình không phải chỉ một mình Đức Thế Tôn xây dựng mà còn do các vị Thầy qua nhiều thế hệ kế thừa nhau trao truyền dòng tuệ giác của Đức Phật. Chúng ta có thể nói Đức Thế Tôn là mạch nước đầu nguồn của dòng sông, và dòng sông chảy cho tới hôm nay là do sự đóng góp của nhiều thế hệ đệ tử Đức Như Lai giữ gìn phạm hạnh. Và trên con đường dòng sông chảy qua thành trường giang mênh mông như hiện tại đã có biết bao nhiêu dòng phụ lưu đổ vào. Nếu những phụ lưu kia đổ toàn nước thải từ cống rãnh thì sẽ làm thành dòng nước giết người, làm sao có thể có một sinh vật nào sống được, tồn tại được trong dòng sông ấy. Nhưng may mắn thay, trường giang đã được những phụ lưu tinh sạch, trong ngọt tạo thành dòng nước mát.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ hình ảnh nầy, chúng ta có thể nhìn lại tăng đoàn của Đức Thế Tôn ngày xưa được hình thành và duy trì được như hôm nay là do từng thế hệ Thầy tu có phẩm chất, có đời sống đạo thanh cao tiếp nối. Thế nên, phạm hạnh của vị Sa môn quyết định cho sự sống còn của đạo Phật. Ngay trong những bản Kinh, luận, luật đầu tiên đều nói đến giá trị rạng ngời của những vị Sa môn. Và mười đức tính đặc biệt khi chúng ta phát nguyện xuất gia tu hành cho chúng ta mười lợi ích lớn như sau:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Nhiếp thủ ư tăng: khi đã nhận giới pháp là đã trở thành một thành viên của gia đình đạo Phật, trở thành hạt giống Thánh của dòng dõi giải thoát.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Linh tăng hoan hỷ: là làm cho tăng vui. Niềm vui do vì có người tiếp nối và kế thừa dòng chảy tâm linh, dòng chảy trí tuệ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Linh tăng an lạc: sự có mặt và tu tập phạm hạnh của ta trong tăng đoàn mang đến năng lực hùng tráng làm cho gia đình đạo Phật thêm hạnh phúc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Chiết phục cao tâm: bẻ gãy tâm thức cao mạn, vì khi bước vào trong tăng đoàn tất cả đều trở thành ông thầy tu ôm bát khất thực như nhau, bình đẳng thọ nhận giáo pháp như nhau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Hữu tàm quí giả đắc an lạc: làm cho người có tâm mặc cảm thua thiệt khi vào tu nếm được hương vị an lạc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Linh vị tín giả đắc tín: làm cho người không tin phát khởi niềm tin vào Tam Bảo, do vì chiêm ngưỡng đời sống phạm hạnh cao khiết và uy nghi của Tăng đoàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Dĩ tín giả linh tăng trưởng: làm cho người có niềm tin rồi phát sinh lòng kính trọng tam bảo ngày càng lớn mạnh, vững chắc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Đoạn hiện tại hữu lậu: đoạn dứt phiền não khổ đau hiện tại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Đoạn vị lai hữu lậu: đoạn dứt tất cả phiền não hữu lậu trong tương lai.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Linh chánh pháp cửu trụ: Đời sống phạm hạnh của những vị Sa môn làm cho chánh pháp có mặt trong cuộc đời lâu dài.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, thời nào mà chư tăng thiếu tu, thiếu học, thiếu phạm hạnh thì thời đó chánh pháp bị suy vong. Thời nào mà chư Tăng tu học tinh tấn, thanh tịnh và đức hạnh thì dù không có Chùa lớn, Tự viện không nguy nga, Tăng chúng không đông nhưng hứa hẹn chánh pháp sáng chói và bền vững trong nhân gian.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin kể câu chuyện của một vị Thầy đã gây dựng lại truyền thống Phật giáo Tích Lan hưng thịnh như hiện tại. Ấy là ngài Tát la nan Ca la. Ngài sinh năm 1699 và xuất gia rất sớm nhưng mãi cho đến năm 16 tuổi mới được thọ giới Sa di không chính thức. Rồi phải đợi đến 55 tuổi mới thọ được giới Tỳ khưu, do vì đất nước Tích lan bao trăm năm bị ngoại xâm, nội loạn, xã hội tan tác tiêu trầm, Đạo Phật dường như bị đào thải tận gốc. Ấy vậy mà khi điều kiện thuận lợi đến, một Tăng sĩ phạm hạnh đủ hùng lực thuyết phục Chính phủ cử Sứ đoàn đi Thái Lan để thỉnh Tam Sư Thất Chứng về Đảo quốc khai Đại giới đàn truyền Tỳ Kheo giới cho ông. Nhưng thật không may cho Sứ đoàn là khi đi thì không sao, nhưng ngày về gần đến Tích Lan thì bão giông nhận chìm thuyền làm chết hết cả đoàn sư Thái Lan. Và lận đận tới lui ba lượt xuất ngoại thỉnh sư, ba lần tai nạn xảy ra như vậy; cho đến lúc xây dựng được Tăng đoàn Tỳ Kheo Tích lan thì Ngài Tát la nan Ca la đã gần bảy mươi tuổi. Do vậy, Đảo sử ghi rằng: “Phật giáo Tích Lan vượt qua bao nỗi khó khăn để sống còn và rực rỡ như hôm nay là từ trái tim thương Đạo của một Sa di phạm hạnh chói sáng.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên thưa đại chúng, chỉ cần một người tu mà giữ gìn phạm hạnh, có lòng yêu thương đạo rất lớn thì sẽ làm cho chánh pháp có mặt bền vững trong nhân gian. Và phẩm hạnh của một người tu là điều cực kỳ quan trọng đối với sự tồn tại của đạo Phật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Phẩm chất thực sự của Sa Môn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú: “Người được gọi Trưởng Lão trong Tăng giới không có nghĩa là người đó sống lâu trong đạo, hạ lạp cao; mà người được gọi Trưởng lão là người phải có đức hạnh.” Quy định trong pháp chế nhà Phật hạ lạp nhiều tuy quan trọng, nhưng quan trọng hơn vẫn là phẩm chất tu hành bên trong của một vị Tăng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Phẩm chất thực của Sa môn được biểu hiện qua hai mặt. Mặt cạn bên ngoài là cách hành xử; ăn nói, đi, đứng... Mặt bên trong sâu sắc hơn là đời sống tâm chứng của vị ấy, khả năng thể ngộ đạo, khả năng tuệ giác bên trong tâm thức. Hai điều nầy cùng có mặt tạo thành phẩm chất của Sa môn. Nếu chỉ có bên ngoài hình thức thầy tu hiền hòa, cư xử khéo léo, ăn nói đầy nghệ thuật thuyết phục nhân tâm nhưng bên trong tâm thức ô uế còn đầy thì sớm muộn gì cũng biểu hiện rõ bản chất thật của mình làm người ta phát sinh sự nhàm chán. Ngược lại, nếu chỉ có bên trong thôi cũng không đủ vì thông thường hình thức là phần biểu hiện của nội dung. Nếu chúng ta đã có phẩm chất, đạo[/SIZE][/FONT][FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1] hạnh, tuệ giác từ bên trong mà không thể hiện ra bên ngoài thì chưa hoàn thiện được phẩm hạnh, phẩm chất thực sự của Sa môn. [/SIZE][/FONT]
[MP3]http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_4/Phong_Cach_Sa_Mon_01.mp3[/MP3]
 

Hý Luận

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 10 2011
Bài viết
98
Điểm tương tác
20
Điểm
8
[FONT=Arial,Helvetica](tiếp theo)...
[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_4/Phong_Cach_Sa_Mon_02.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="1" showcontrols="1" width="425" height="80"></embed></center>


[FONT=Arial,Helvetica]3. Tiếp xúc và quán chiếu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, tiếp xúc là một nhu yếu tất nhiên. Không hề có một sinh vật nào trên cuộc đời khước từ sự tiếp xúc mà tồn tại được. Như mắt để tiếp xúc với màu sắc, tai tiếp xúc với tiếng...và bốn thứ nuôi dưỡng như “đoạn thực, xúc thực, tư niệm thực, thức thực” làm thành thọ mạng con người từ cạn vào sâu. Tùy theo khả năng thực tập, chúng ta có thể chuyển hóa bốn loại thức ăn nầy trở thành bổ dưỡng hay trở thành độc dược. Cố nhiên, sẽ có cơ hội chúng ta đi sâu vào giải thích năng lực bảo trì thọ mạng, nuôi dưỡng và kéo dài dòng chảy tử sinh của bốn loại thức ăn. Ở đây, điều cần hiểu là làm thế nào chúng ta có thể tiếp xúc mà vẫn tu được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có hai tầng tiếp xúc cạn và sâu. Tiếp xúc cạn là tiếp xúc bên ngoài như nhìn, nghe, giao tiếp với người. Trong cách tiếp xúc nầy chúng ta hãy làm một việc là khéo quán chiếu và quay trở về để nuôi dưỡng phạm hạnh hay cũng từ tiếp xúc này chúng ta thả trôi cho đời nhuộm ô uế mình bằng danh lợi, của cải do thí chủ cúng dâng. Vì vậy, ở mức độ cạn khi tiếp xúc bên ngoài chúng ta phải rất cẩn trọng. Trong tiếp xúc chúng ta có thể làm cho Phật tử phát được tín tâm với Tam Bảo, thương đạo, nhưng cũng từ tiếp xúc nhiều lúc chúng ta làm cho người ta quay lại và miệt thị Tăng già. Một khi họ đã bất kính Tăng là họ bất kính luôn cả Phật và Pháp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi chúng ta nói đến tiếp xúc bên trong, không chỉ có nghĩa là bên trong nội bộ đoàn thể Tăng giới tu tập của chúng ta mà bên trong còn có nghĩa là bên trong hình hài nầy, sắc thân nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ bên trong tăng giới có điều khó cho chúng ta như sự tiếp xúc giữa tu sĩ nam và nữ tu sĩ. Nếu sự tiếp xúc của chúng ta không khéo cẩn trọng sẽ phát sinh ra vấn đề vướng mắc, vấn đề ái nhiễm vì tâm ta chưa thuần tịnh, ái nghiệp vẫn còn. Hơn nữa chúng ta không thể loại trừ tăng đoàn khất sĩ Ni ra ngoài, chúng ta cũng không thể tách riêng họ một nơi vì sự bảo hộ của quý thầy đối với quý cô rất cần thiết. Pháp chế của Đức Phật dạy là nơi nào Tỳ Kheo Ni an cư mà không có chư Tăng chỉ định, không có chư Tăng đến thuyết giới thì không được quyền an cư. Cho nên vấn đề đặt ra là không được gần mà cũng không được xa, vì phải giữ khoảng cách gần xa cần thiết để nuôi dưỡng, yểm trợ làm lớn mạnh đời sống đạo hạnh và thọ mạng dòng tu cho nhau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhưng điều quan trọng hơn là sự tiếp xúc bên trong của tự thân vì nó hình thành phẩm chất, phạm hạnh của chúng ta. Một Tăng sĩ phải tự mình thực tập như thế nào để có được một phong cách rất là quan trọng; để một đôi dép, ngồi đọc một trang Kinh, mặc áo, ăn cơm, cầm cái ly... đều biểu lộ tư cách trang nghiêm, phong thái từ hòa, điềm đạm... của một ông thầy tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu một người đến với mình dù chưa tiếp xúc qua ngôn ngữ, chỉ cần nhìn chúng ta đi đứng, nói cười là người ta đã cảm nhận năng lượng tịch tĩnh an bình toát ra từ chúng ta rồi. Có những tia nhìn toát ra từ đôi mắt có thể gây tổn thương cho người đối diện, chưa cần chạm tay vào người ta nhưng mắt nhìn cũng là chạm vào da người ta vậy. Chỉ cần một tia nhìn thôi cũng đủ biểu lộ tính cách tu sĩ của chúng ta rồi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Những điều rất nhỏ như vậy đều làm thành phẩm chất một ông thầy tu, làm thành phạm hạnh một vị Sa môn. Không phải mở miệng ra nói Kinh, nói pháp như nước chảy, mây trôi mới là làm công trình giáo hóa. Đời sống chúng ta biểu hiện trong từng ngày, từng giờ, từng hơi thở là có thể làm cho giáo pháp cửu trụ hay không.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Một tiếp xúc sâu sắc hơn là tiếp xúc với tầng cảm thọ của tâm hành.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta nếu tu giỏi thì những cảm thọ vừa khởi lên ta nhận diện được ngay và liền ngay lúc nhận diện là ta đã và đang loại trừ. Nếu không một lần khởi, hai lần, ba lần từ từ những cảm thọ khởi lên trong ta liên tục mà ta không nhận diện được tức chúng ta đã tự làm cho đời sống đạo hạnh mình bị bào mòn dần. Vì vậy, chúng ta phải vận dụng năng lực quán chiếu nhận diện mọi tiếp xúc dù chỉ thoáng đến với chúng ta như một làn gió nhẹ. Từ cái nhìn, nói, nghe hay mọi tư duy... khởi lên bời bời chúng ta không nhận diện được, tâm thức sẽ bị cuốn trôi vào ô uế của cuộc sống thế gian. Và càng tu chúng ta càng hư hỏng vì không nuôi dưỡng được gì cho chính mình, ngược lại còn đóng góp cho gia tài đạo Phật thêm suy kiệt, phá hoại dòng tuệ giác của Đức Phật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, lần học trước trước tôi đã chia xẻ cùng quí vị về đức tính cùng mười lợi ích của giới pháp Đức Phật chế và những điều nầy làm tăng trưởng phong cách của người tu rất lớn. Khi đã hiểu rõ những điều nầy thì niềm tin của chúng ta đối với giới pháp của Phật rất vững bền.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Hôm nay trước khi chúng ta đi sâu vào sự tiếp xúc và quán chiếu của chúng ta đối với bên ngoài cho đến tự bên trong chính thân tâm ta, tôi muốn lưu ý quí vị đoạn kinh ngắn nầy với câu: “Chánh tâm tư niệm” và hai chữ cuối là “ác niệm”. Chữ “ác” nầy chúng ta có thể đọc là“ố”. Ác với nghĩa thứ nhất là nói đến tâm không hiền thiện, nhưng khi đọc“ố” thì có nghĩa ô uế của tâm thức. Chúng ta khởi quán chiếu và độ thoát để diệt trừ cùng một lúc tâm ô uế và bất thiện.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Tiếp xúc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Xa lìa đời sống nhân gian bước vào đạo nhiều khi chúng ta nghĩ đi tu là phải lánh xa tất cả mọi thứ trên đời, trốn trong hang động nào đó hoặc đóng cửa nhập thất năm bảy, năm nhưng những điều đó chưa chắc mang lại sự thành công hay tâm thức được chuyển hóa. Nên điều quan trọng không phải là đóng lại sáu căn của giác quan mà phải biết tiếp xúc thế nào để có thể nuôi dưỡng và chuyển hóa tâm thức mới là điều để chúng ta thực tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong truyền thống Nguyên Thủy, Đức Thế Tôn đã từng bài bác con đường tu cực đoan. Ngài đã từng trải qua sự cực đoan nhưng thấy không có ích lợi gì nên Ngài đã chọn đi vào con đường Trung Đạo. Thế nên, điều kiện tu học tốt lành nhất cho chúng ta là không khước từ phố thị mà cũng không gần phố thị. Đời sống tu hành của chúng ta vừa tiếp xúc được với người mà vẫn có không gian riêng để chúng ta tu tập, vẫn có khoảng trống yên bình của mình để bảo vệ đời sống phạm hạnh. Đó là điều tuyệt vời nhất để chúng ta không rơi vào một cực đoan nào cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, chúng ta thường xuyên tiếp xúc với những môi trường, điều kiện như sau:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica] Sự tiếp xúc với cư gia Phật tử bên ngoài bằng cách hành xử thế nào đó mà chúng ta kích phát được niềm tin của Phật tử đối với Tam Bảo. Cách hành xử bên ngoài của chúng ta đôi khi chỉ một câu nói, một lời hỏi han chăm sóc nhẹ nhàng tạo cho người ta sự an lạc, nhưng đôi khi sự tiếp xúc của chúng ta lại đưa đến sự đổ vỡ niềm tin của Phật tử. Cũng bằng một nụ cười, một câu nói, nhưng lời cợt đùa có thể đánh vỡ niềm tin của người ta đã có từ lâu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngày xưa Đức Phật dạy các Tỳ Kheo khi đi khất thực hãy như những con ong lấy một chút mật đủ sống mà không làm tổn hại đến bông hoa. Tỳ Kheo sống trong cuộc đời cũng thế. Nhu yếu về vật chất chúng ta là đạm bạc chỉ vừa đủ nuôi hình hài nầy mà thôi. Khi sống một cuộc đời thanh khiết như vậy tự nhiên biểu hiện được phạm hạnh của chúng ta và Phật tử càng tiếp xúc càng quí kính người tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có hai điều dễ gây dị ứng với cư gia Phật tử là vấn đề vật chất và tâm thức ái nhiễm của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica] Một thầy tu hay một sư cô mà biểu lộ sự ham muốn vật chất là điều vụng về đáng chê trách nhất. Nhưng phần lớn người tu hiện tại chỉ được nuôi dưỡng tri thức Phật học mà không được nuôi dưỡng đạo hạnh nên có xu hướng thiên trọng lợi danh, chạy theo và thủ đắc vật chất. Họ chạy theo của tiền và đôi khi làm tiền Phật tử một cách trắng trợn. Không những trái với tinh thần “tam thường bất túc” của đạo Phật, mà điều đáng tội nghiệp hơn nữa là Chùa chiền, Tự viện đã trở thành gia sản riêng tư của mỗi Thầy, mỗi Cô. Họ cố tình đánh mất giá trị và ý nghĩa cao quí của vị Sa môn mà nhiều thế hệ Tăng già gầy dựng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta cũng biết các cư gia Phật tử làm ra đồng tiền không phải dễ. Đó là mồ hôi nước mắt của họ đã đổ vào, họ dành dụm để cúng dường, để hỗ trợ chúng ta trong công việc hoằng dương chánh pháp, nếu cách hành xử của chúng ta không trong sáng, lợi dụng của Già lam cho tham dục riêng tư thì niềm tin Đạo của Phật tử sụp đổ ngay. Tuy nhiên, đó chỉ là mặt cạn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica] Điều tinh nhạy hơn là tâm thức ái nhiễm của chúng ta. Chỉ từ cái nhìn, người đối diện có thể đánh giá phẩm chất tâm hồn của ta như thế nào không khó. Nếu người tu mà nhìn láo liên, ánh mắt biểu lộ sự thèm khát vẫn đục tức khắc đánh vỡ niềm tin nơi Phật tử đang tiếp xúc với chúng ta rất dễ, và chỉ một hai lần thôi chắc chắn đủ làm cho người sợ sệt lánh xa ngay.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa, để chuyển hóa nghiệp thức ái nhiễm biểu hiện ra qua đôi mắt nhìn, không phải chỉ do khả năng luyện tập bên ngoài mà do từ sự thực tập, tôi luyện bên trong. Đi vào chiều sâu tâm thức, chúng ta nên nhớ nhiều khi một đời tu cũng không thể làm cạn sạch nghiệp thức ái dục tích tụ bao nhiêu đời. Có những người cũng muốn thực tập làm sao cho con mắt họ định tĩnh, trong sáng nhưng không tập được. Trong tướng học phân định mắt chúng ta có cái nhìn một là thẳng thắn, chính trực, trong sáng hoặc là nhìn trộm, láo liên. Nếu tâm hồn không trong sáng, khả năng chánh niệm không được trui rèn, công phu thiền định không có mặt, lòng từ ái không được nuôi dưỡng, khi nhìn sẽ không biểu lộ được phẩm chất của một người tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Người thế gian có chút ít trải nghiệm đời sống, chỉ cần nhìn vào mắt người là biết rõ sự nghiệp cuộc đời và tâm hồn cá tánh của người ấy. Người tu chúng ta cũng không ngoại lệ. Có thể từ ánh mắt đủ đánh giá sự nghiệp và đạo hạnh của một người tu. Do vậy, chúng ta phải vô cùng cẩn trọng trên con đường tu tập để chuyển hóa nghiệp thức ái nhiễm từ vô thỉ kiếp. Để trở thành một thầy tu có phạm hạnh có phẩm chất thực sự không phải chỉ một đời, mà nhiều lúc phải trải qua nhiều đời mới có được phong cách vững chãi của một vị Sa môn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tôi kể câu chuyện chứng minh về đôi mắt.[bubble] Lần ấy tôn giả Mục Kiền Liên lên cõi trời thỉnh Đức Thế Tôn về vì thính chúng nhớ Ngài quá. Thế tôn đã trú ở Thiên cung dạy đạo cho các Thiên đế trong mùa an cư thứ bảy sau ngày thành đạo. Khi lên đến cõi trời, Mục Kiền Liên nhìn không ra ai là Phật của mình để mời về. Lúc ấy vì Đức Thế Tôn đã hiện tướng như là Thiên Đế, mũ áo... chỗ ngồi cũng giống như vậy nên Tôn giả đành trở về Tịnh xá vấn kế sư huynh Xá Lợi Phất. Xá Lợi Phất nói: “Tại sư huynh không để ý, chứ có một điều rất khác biệt là đôi mắt của Như Lai không ai bắt chước được. Mắt của Thiên Đế khi nhìn vào sẽ thấy còn xao động bất an, còn mắt của Đức Phật thì trong sáng, tĩnh lặng từ ái mênh mông và bất động.” Mục Kiền Liên trở lại Thiên Cung và để ý thì nhận ra được sự khác nhau giữa hai đôi mắt của hai vị Thiên Đế đang đối diện nhau. Ngài biết ai là Phật của mình nên thỉnh Đức Thế Tôn về.[/bubble]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Quán chiếu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thông thường sự tiếp xúc bên trong nội bộ Tăng đoàn chúng ta dễ sinh tâm ái nhiễm giữa người tu với nhau nhiều hơn là chúng ta với cư sĩ. Tại sao? Thưa không phải chúng ta sống gần nhau mà vì chúng ta cùng cung bậc tâm hồn như nhau. Chung một lý tưởng, chung một thiện nghiệp nên từ sự gần gũi vô hình, sâu xa nầy quí Thầy, quí Cô cùng bỏ đạo trở lại đời sống thế tục, chứ ít khi có chuyện một Thầy, Cô ra đời với một vị cư sĩ. Và điều đặc biệt từ xưa không có tình trạng đẩy rời chư Ni ra nơi khác hay ngược lại. Tăng đoàn Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni như là một cơ thể của đạo Phật nên phải có sự tiếp xúc. Vì vậy, trong sự tiếp xúc của chúng ta với nhau Đức Phật dạy những điều quán chiếu rất là căn bản. Trong mỗi cơ hội tiếp xúc đều phải quán chiếu và luôn khởi phát sự kính trọng, sự thương yêu để nuôi dưỡng mình và nuôi dưỡng người; những người tu cùng phái hay khác phái. Sự tiếp xúc giữa Tăng Ni cũng làm cân bằng sinh tâm lý của mỗi người và đây là nhu yếu tự nhiên. Chúng ta tiếp xúc với nhau một cách rất bình thường, và nếu được nuôi dưỡng bằng chánh niệm thì đây là điều cần thiết làm phát triển và lớn mạnh tăng đoàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tuy nhiên chúng ta phải thật cẩn trọng trong sự tiếp xúc, chúng ta phải biết xử dụng năng lượng quán chiếu trong lúc tiếp xúc để vừa nâng đỡ vừa nuôi dưỡng tâm Bồ Đề của ta và của bạn đồng phạm hạnh.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người tu chúng ta nếu thực tập giỏi thì khi tiếp xúc với những cảm thọ bên trong của mình chúng ta nhận diện được ngay và không làm tổn thương đời sống phạm hạnh của tự thân. Nếu chúng ta thả trôi theo dòng cảm thọ sinh khởi liên tục, dần dần sẽ tạo thành cơn bão hủy diệt tâm thức mình. Sự thất bại nầy không phải đến ngay tức khắc mà từng chút, từng chút một đẩy đến sự đổ vỡ lúc nào chúng ta không hay.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ví dụ như khi chúng ta tiếp xúc với một đối tượng khác phái, và từ từ dẫn đến tình trạng vướng mắc không phải là một bất chợt tình cờ mà nó đến dịu dàng và rất nhẹ làm chúng ta lậm sâu vào hướng tiêu cực lúc nào không hay. Đầu tiên ta cảm thấy nhớ nhung, lưu ý đến một giọng nói, một nụ cười, một ánh mắt thân tình, một lời hát, một cử chỉ chăm sóc... Ý thức ta mời gọi ký ức cất chứa về người kia hiện lên để cho lòng không trống trải cô đơn, và đồng thời thưởng thức các cảm thọ ngọt ngào của luyến ái mang đến. Dần dần sự vướng mắc thực sự xảy ra nhận chìm chúng ta trong nhớ nhung, sầu khổ không thoát ra được. Thế nên lời Kinh chương hai mươi chín Đức Phật dạy: “Sanh độ thoát tâm, tức diệt ác niệm.” cũng có nghĩa là mời năng lực chánh niệm có mặt để nhận diện, quán chiếu các cảm thọ, các ý nghĩ hiện khởi trong tâm thức.Và khởi tâm từ ái, quí kính mong muốn giúp người vượt thoát nẻo khổ tử sinh. Từ cách thực tập ấy ta sẽ loại trừ tận gốc tất cả những vấn đề tiêu cực phát sinh trong tâm thức.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Để làm được điều nầy chúng ta cần phải thực tập khi tiếp xúc với mọi hiện hữu bên ngoài. Đức Phật đã trao cho chúng ta cách thực tập tuyệt vời là nhìn lại cách ta tiếp xúc, và nhìn lại chính thân tâm ta. Ta hãy nhìn lại từng sát na bằng năng lượng chánh niệm có mặt mọi lúc trong ngày, trong mọi trường hợp thật cẩn trọng.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
4. Thành tựu phạm hạnh và độ sanh.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin lưu ý quí vị, từ phạm hạnh nầy phát xuất từ Bà La Môn chứ không phải của đạo Phật. Phạm hạnh có đến hai từ đồng nghĩa là tịnh hạnh và phạm chí. Có hai đặc tính trong chữ phạm hạnh nầy. Thứ nhất là tỏa ra trong nhân dáng, cách thế, dung mạo rất đoan chính, trang nghiêm. Thứ hai là tâm hồn rất trong sạch, cao khiết. Khi nhìn vào con người nầy chúng ta thấy biểu lộ rõ sự thuần nhã, đoan nghiêm, chính trực. Khi tiếp xúc sâu hơn chúng ta thấy tâm hồn họ rất trong sáng, cao quí. Hai điều nầy có mặt thì được gọi là người có phạm hạnh. Hai từ nầy được Đức Thế Tôn chỉ cho Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni trong Tăng đoàn của Ngài có đời sống thật sự thanh cao.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa đại chúng, chúng ta đừng nghĩ khi vào tu, thọ giới rồi thì chúng ta đã là người phạm hạnh. Con đường thành tựu phạm hạnh nầy là một tiến trình không dừng nơi mỗi người tu. Đời sống chúng ta muốn thể hiện được sự trang nghiêm, khiêm tốn của một thầy tu không phải chỉ một ngày thực tập đơn giản mà xong, có khi cần cả một đời người hoặc nhiều hơn một đời. Chúng ta hãy nhìn lại có những lúc mình hành xử rất vụng về, thiếu chánh niệm ấy là lúc chúng ta đã phạm phải những lỗi lầm dù rất nhỏ từ bên ngoài hay trong tự tâm của chúng ta.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Người thực tập thành tựu phạm hạnh mặt cạn là bên ngoài, và thành tựu sâu sắc là thành tựu bên trong. Thưa quí vị, bên ngoài, bên trong hỗ trợ cho nhau. Nếu sự thực tập chánh niệm của chúng ta càng ngày càng vững chãi và hùng hậu thì tâm thức của chúng ta trong sạch, an tịnh. Hai điều nầy làm nền tảng phát sinh tuệ giác. Khi đã thành tựu phạm hạnh như thế thì đời sống người đó tự tỏa ngát hương đức hạnh. Khả năng giáo hóa của họ đến với người một cách vô cầu, họ không cần ai đến với họ. Họ cũng không cần làm cho người khác biết mình. Tuy nhiên ai đã một lần tiếp xúc với họ là cảm nhận được sự an bình, từ ái mênh mông và định lực sâu lắng từ nơi họ. Đó là năng lực tỏa hương của người tu thành tựu phạm hạnh.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chưa cần là một thầy tu có học hàm, học vị, chủ trì Tự viện, Già lam to lớn nầy nọ... chỉ là một ông thầy tu giản dị nhưng thành đạt phạm hạnh bên ngoài, thành đạt phạm hạnh bên trong thì đã là rường cột cho đạo Phật. Là chỗ tựa cho ngàn vạn Phật tử, tín đồ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Dĩ nhiên, khi chưa thành tựu phạm hạnh trọn vẹn nhưng nếu sự thực tập ta vững chãi, năng lực chánh niệm có mặt thì ta có thể tiếp tăng độ chúng bằng con đường giáo hóa bình thường rồi. Các vị rót cho người ta một ly nước, tụng cho người ta một thời Kinh, khuyên người ta vài lời đằm thắm, nhẹ nhàng là đã có khả năng đánh động tâm thức họ rất sâu. Nhưng khi mà chất phạm hạnh đã thành tựu sâu sắc bên trong rồi thì thưa quí vị, năng lượng đời sống của chúng ta rất giàu có, sức mạnh tâm linh rất lớn; lúc bấy giờ mới khả dĩ đóng góp được cho công trình độ sinh của ba đời chư Phật.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tóm lại, sự thực tập chánh niệm của chúng ta quan trọng vô cùng. Nó là nền tảng để ta thành tựu phạm hạnh bên trong; biểu hiện, hoàn thiện phong cách một Sa môn ra bên ngoài. Và sâu hơn nữa, con đường thực tập chánh niệm có năng lực đoạn đứt lậu nghiệp, chứng nghiệm Niết Bàn. Tuy nhiên, ở mức độ đời thường khi phẩm chất tu của chúng ta đã sâu tức phạm hạnh bên trong thành tựu thì cho dù mặc áo gì người ta cũng nghĩ chúng ta là người tu. Chúng ta nên nhớ phạm hạnh không phải là những gì biểu hiện ra bên ngoài để lòe nhau, để thu phục lòng người. Phong cách tự hữu từ bên trong sinh khởi mới thực sự bền bỉ và khả năng giáo hóa của chúng ta mới sâu sắc.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chính sự thực tập làm nên phạm hạnh, và xây dựng phong cách của chúng ta càng ngày càng vững vàng. Người tu thành tựu được vậy không những nuôi dưỡng chính mình mà còn nuôi dưỡng Tăng đoàn, nuôi dưỡng tín đồ. Đức Thế Tôn đã hằng hà sa kiếp tu tập để thành tựu phạm hạnh. Chúng ta hãy phát nguyện cả đời tu học và nghiêm trì pháp chế của Đức Phật để góp phần của chúng ta vào dòng thọ mạng đạo Phật hầu đền ơn Tam Bảo.
[/FONT]
 

Hý Luận

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 10 2011
Bài viết
98
Điểm tương tác
20
Điểm
8
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XXX [/SIZE][/FONT]
ĐOẠN CÁC DUYÊN SINH KHỞI ÁI DỤC
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]HT>Thượng Phước Hạ Tịnh_Giảng Giải
[/SIZE]
[/FONT]​
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chủ đề của chương ba mươi chúng ta đi vào hôm nay là Đoạn Các Duyên Sinh Khởi Ái Dục. Đây là vấn đề được Đức Phật lưu ý nhiều nhất, nó chiếm đến một phần ba nội dung bốn mươi hai chương Kinh và chúng ta đã gặp nhiều lần trong những kỳ học trước.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Với thông số như thế chúng ta có thể nhận thức được rằng Đức Thế Tôn đương thời rất quan tâm đến sinh hoạt tu học của các Tỳ kheo. Và rõ ràng ái dục là vấn đề quan trọng nhất làm trở ngại con đường thực tập, hoặc giúp chúng ta thăng tiến trên con đường tâm linh tùy vào sự thông minh nhận diện và biết cách chuyển hóa của chúng ta. Ái dục thô là sinh hoạt dục bình thường của nhân gian, nhưng với những người tu thì chúng ta quán chiếu vào tầng sâu thẳm của ái dục chứ không phải ở ngoài mặt thô cạn của ái dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bước vào đời sống xuất gia là chúng ta đã xả ly gia đình, người thân, sống độc thân. Bên ngoài biểu hiện sự thanh tịnh là xả ly dục ái nhưng quan trọng trong Kinh Bốn Mươi Hai Chương Phật dạy chúng ta loại trừ ái nhiễm, dục lậu trong tâm thức mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong chương nầy chúng ta sẽ khai thác những duyên tạo thành sự vướng mắc, đắm nhiễm và nổi chìm. Chúng ta cũng khai thác tận gốc rễ của nó tức hạt nhân chính yếu của vấn đề ái dục. Hai điều nầy nằm trong chương ba mươi và ba mươi mốt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chương ba mươi có nội dung là loại trừ những tập nhân, những yếu tố phụ thuộc tác động sinh khởi ái dục trong tâm ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Phù vi đạo giả, như bị càn thảo, hỏa lai tu tỵ. Đạo nhân kiến dục, tất đương viễn chi.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Người tu hành như người mang cỏ khô, lửa đến phải tránh. Người tu chúng ta thấy đối tượng ái dục ắt phải lánh xa.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người tu hãy tinh tế nhận diện và đoạn trừ các duyên sinh khởi ái dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Các loại nhân và duyên dẫn khởi ái dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, ái dục là hạt mầm làm cho chúng ta có mặt trên cuộc đời. Chưa có ai là Thánh, nên người thông minh là người biết ngăn chận những duyên tác động sinh khởi ái dục. Chờ khi ái dục thành lửa cháy mạnh trong tâm thức, ta mới trị liệu thì đã muộn rồi, như thân ta khi bị bệnh không nhận biết để kịp thời chữa trị sẽ phát sinh trầm trọng chữa trị không dễ. Tâm thức chúng ta không giống như thân vật lý; thương tật nơi hình thể vật lý trị lành cũng cần thời gian vết sẹo mới liền được, huống hồ tâm thức tật bệnh cho dù có chửa lành thì vẫn còn những ấn tượng, kỷ niệm thành những vết hằn vô hình khó xóa vô cùng. Bởi lẽ những gì càng tinh tế bao nhiêu thì sức tàn phá của nó lớn bấy nhiêu. Chúng ta hãy ngăn chận từ khi hạt mầm còn rất nhỏ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta lần lượt đi vào bốn duyên và sáu nhân sau đây rồi qui chiếu vào các duyên và nhân làm phát sinh ái dục:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Nhân duyên: là những điều kiện hay những yếu tố trực tiếp đưa đến kết quả. Ví dụ tâm chúng ta đầy ái nhiễm là nhân ở bên trong nhưng không có điều kiện trực tiếp bên ngoài làm phát sinh thì không thể phát sinh được. Ví dụ như một bông hoa, một cảnh vật, một con người, một bản nhạc... tác động làm tâm thức ta vướng vào thì duyên trực tiếp đó gọi là nhân duyên.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Đẳng vô gián duyên: Nếu duyên chỉ xuất hiện một lần, rồi dừng lại và biến mất thì không tạo điều kiện phát sinh ra ái nhiễm. Nhưng nếu duyên nầy nó tái hiện đi, tái hiện lại rất nhiều lần không chịu ra đi gọi là đẳng vô gián duyên. Ví dụ như khi chúng ta phát sinh tâm vướng mắc với một đối tượng nào đó, nhưng đối tượng ấy nửa tháng mới đến một lần thì duyên đó không tạo thành sự vướng mắc. Xuất hiện rồi biến mất, nhạt nhòa đi gọi là “gián duyên” tức duyên đứt quãng, ngăn cách. Nhưng duyên ấy lại có mặt rất thường, đi ra đi vào đều gặp mặt phát sinh ái nhiễm trong ta thì gọi là đẳng vô gián duyên.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phân tích như vậy để thấy rằng chúng ta loại trừ rất dễ duyên sinh khởi của tâm vướng mắc với đối tượng nào đó. Và khi biết rõ mặt tiêu cực của các duyên hình thành chất liệu chìm đắm đọa đày, thì cũng từ những duyên nầy chúng ta có thể chủ động tiếp xúc, chuyển hóa, giúp mình tăng trưởng, phát triển, nuôi lớn tâm Bồ Đề từng ngày là mặt tích cực.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dĩ nhiên không có pháp hữu lậu nào không chịu tác động liên tục mà hiện hữu. Tất cả mọi con đường phiền não đều đi vào từ duyên thứ nhất và duyên thứ hai nầy mà thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Sở duyên duyên: là những điều kiện phụ thuộc vào duyên. Ví dụ như một bông hoa, một người khác phái là duyên chính, nhưng một yếu tố chính chưa đủ làm nên cớ sự, nên phải có nhiều yếu tố phụ đi vào. Những yếu tố phụ ấy giúp cho duyên chính trưởng thành gọi là sở duyên duyên.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Tăng thượng duyên: Là duyên được nuôi lớn từng ngày không dừng lại, ngày càng trưởng thành trong tâm thức. Những yếu tố nuôi lớn phiền não, nuôi lớn tâm thức ái nhiễm của chúng ta thúc đẩy chúng ta đi vào hướng tiêu cực gọi là tăng thượng duyên.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Xin các vị lưu ý bốn duyên nầy có mặt rất rộng, hay nói cách khác là những yếu tố làm duyên sinh khởi ái dục có mặt và phát triển rất dễ. Nếu năng lực chánh niệm ta yếu, hoặc sự quán chiếu lơ là không nhận diện được thì nó mỗi ngày càng lớn mạnh, và dẫn ta lạc nẻo lúc nào không hay.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trên con đường tu, chúng ta tiến đạo ở bình diện thường như cúng bái, lễ lạc, làm lành lánh dữ, giảng dạy giáo lý, làm từ thiện rất dễ. Nhưng đi vào chiều sâu hướng nội loại trừ ô uế của tâm, chuyển hóa nhận thức của ta, làm cho đời sống mỗi ngày mỗi thăng hoa chúng ta phải vận dụng trí tuệ chứ không có con đường nào khác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đạo Phật là đạo trí tuệ, con đường tu chỉ dành cho những con người có tâm thức tinh tế, bén nhạy, nên Đức Phật đã nói: “Giáo lý của ta là giáo lý giác ngộ. Hãy để cho người có trí đến để tự mình chứng nghiệm.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, ngoài bốn duyên chúng ta còn có sáu nhân:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Năng tác nhân: là năng lực phát sinh tự hữu của hạt mầm. Ví dụ như hạt mầm của cây thông sinh ra cây thông rất tự nhiên, và hạt mầm của con người thì có khuynh hướng đi tìm kết hợp với một người để sự sống được kế thừa. Cái nhân chính bên trong hạt mầm thúc đẩy gọi là năng tác nhân. Năng tác nhân là động lực tự hữu trong hạt mầm và năng tác nhân không bị tính chất ngăn trở làm chướng ngại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Câu hữu nhân: Là những nhân cùng có mặt với năng tác nhân. Nó thôi thúc yểm trợ nhau làm thành vạn hữu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ như hành tinh nầy sức mạnh tự hữu của nó là sinh ra mặt đất, và không gian mênh mông nầy nó cũng có sức mạnh tự hữu là khoảng không nên không chướng ngại cho bất cứ sinh vật nào có mặt. Thế nên nhân nầy còn có tên là cộng sinh nhân. Là những nhân cùng sinh ra trong một lần.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Đồng loại nhân: nhân cùng có một chủng loại. Ví dụ như trong tâm thức của ta có ba loại hạt giống là lành, trung tính và bất thiện. Ba loại hạt giống nầy tương ưng với những duyên nào hợp với nó bên ngoài để phát sinh. Gọi là đồng loại nhân.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Tương ưng nhân: ta có chữ đồng loại là cùng một thể loại. Nhưng tương ưng nhân là khác thể loại mà lại yểm trợ nhau sinh khởi. Do năng lực của hạt mầm nầy rất mạnh lôi kéo kẻ khác giống cùng sinh khởi. Hay nói cách khác là những nhân nào tuy khác với nó nhưng sức mạnh yếu hơn thì nó có thể khuyến dụ làm bạn bè trôi theo hướng với nó để tương ưng cùng nó, gọi là tương ưng nhân.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Biến hành nhân: khác với đồng loại nhân, khác với tương ưng nhân là nó đi cùng khắp nhưng chỉ ở trong lãnh vực phiền não, nhiễm ô, nghi ngờ, sầu khổ, giận hờn, bạo động để liên kết nhau lại gọi là biến hành nhân.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Dị thục nhân: Hạt nhân nầy có khả năng duy trì làm cho những hạt mầm tiêu cực từ đời nầy truyền qua nhiều đời trở thành quả sầu khổ trong tương lai. Có những hạt nhân phát triển hiện tại cho ta quả hiện tại, nhưng có những hạt nhân gieo từ bây giờ phải trải dài qua nhiều kiếp ta mới gặt được quả. Dị thục nhân là trải qua khác thời, khác xứ mà thành thục và kết quả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]2. Từ “nhận biết sáng chói” đoạn trừ cội gốc ái dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta hãy nhận diện đối tượng chính của sáu căn là sáu trần.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có một thiền sinh hỏi vị thầy của mình là một Thiền sư: “Thưa thầy, làm sao con có thể giải thoát để không vướng mắc, không sầu khổ, không bất an?” Vị Thầy bảo: “Tâm không dính với cảnh thì giải thoát.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, khi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý tiếp xúc với các đối tượng, sự tiếp xúc ấy gọi là lục nhập. Năm căn đầu khi tiếp xúc với năm trần thì chúng ta rất dễ nhận diện, nhưng ý nằm sâu bên trong làm chủ phần lục nhập nầy. Và ý còn có trách nhiệm là tổng hợp phần tiếp xúc của năm căn, trần. Cho nên lục nhập qua xúc, qua thọ đó chỉ là tiếp xúc của năm tầng cạn đưa ra sự định danh, phân loại và làm phát sinh cảm thọ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi quán chiếu vào bình diện sâu hơn ta sẽ thấy rằng sự có mặt của xúc và thọ là do ý thức chen vào làm sinh khởi và dẫn dắt. Ví dụ như mắt khi chạm với sắc màu thì mới chỉ là tiếp xúc đơn thuần ở bình diện nhận biết, chưa phát sinh ái nhiễm gì trong tâm chúng ta cả. Từ lục nhập đến xúc nầy chỉ là sát na rất ngắn; chưa đủ phát sinh điều gì để cho chúng ta ngăn chận, loại trừ. Nhưng khi ý đi vào và vận động thì chỉ tích tắc là tâm thức ta bắt đầu hoạt động rất mạnh phát sinh một tràng dài vui, buồn, sầu não, bất an... Tất nhiên khi các cảm thọ sinh khởi thì những gì vui, hạnh phúc chúng ta muốn giữ lại, những gì khó chịu chúng ta muốn loại trừ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thế là từ cảm thọ đi đến ái, thủ và hữu rồi chìm đắm vào sầu, bi khổ, ưu, não chỉ một bước rất ngắn mà thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, giải thoát không tìm ở đâu ra, không phải tìm ở phương trời nào không có bóng người, không có sắc màu, không có âm thanh. Giải thoát hay không, vướng mắc hay không là ngay nơi đây chúng ta nhận diện tất cả sắc màu trước mắt chúng ta, chánh niệm khi nhận biết. Sâu xa hơn nữa là dừng lại ngay nơi sự nhận biết tỉnh sáng hiện tiền, vô ngôn bất động mà đừng để cho tâm thức chúng ta chạy vào, chạy ra, lục lọi khai báo, chạy về quá khứ, hướng đến tương lai thì đó là cách chúng ta cắt được dòng chảy nhân duyên.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường tu chỉ có một điều duy nhất rất nhỏ cho chúng ta thực tập là làm thế nào để mời gọi năng lượng nhận biết tỉnh sáng, vô ngôn bất động lúc tiếp xúc với tất cả sự vật, mà không để cho ý thức phát sinh tiếng nói thì thầm, độc thoại, đối thoại bên trong là chúng ta an trụ được tâm ngay sát na hiện tiền.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đây là phương pháp loại trừ tất cả những vướng mắc, đắm chìm vào các đối tượng chúng ta tiếp xúc. Khi làm được điều nầy tức khắc ta đoạn được nhân duyên sinh khởi ái dục. Cũng có nghĩa là đoạn được con đường dẫn ta đi vào ba cõi sáu đường ngay trong kiếp hiện tại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vào khoảng thế kỷ thứ bảy, thứ tám tại Hàn Quốc có một nhà sư rất lỗi lạc là Ngài Nguyên Hiểu. Nhận thấy tình trạng đạo Phật của đất nước đang hồi suy thoái, nên Ngài phát tâm qua Trung Hoa học đạo, mong rằng mang giáo lý Thiền Tông nhiệm mầu về để chấn hưng Phật pháp.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trên con đường lang thang đến Trung Hoa, đi qua quãng đường dài vắng vẻ Ngài khát nước vô cùng nhưng không có nhà ai để xin nước uống. Trong lúc quá mỏi mệt thì may mắn thay giữa vùng ánh trăng sáng ông thấy một vũng nước bèn vội vàng gục đầu xuống uống, và cảm nhận từng ngụm nước thanh lương mát ngọt như nước Cam Lồ thấm vào thân tâm làm tiêu tán khổ nhọc mệt mỏi bao ngày. Ông nghĩ chắc đây là nước Cam Lồ tịnh thủy mà Bồ tát Quan Thế Âm ban tặng cho mình nên cúi đầu lễ tạ. Rồi bên cạnh tàng cây ông dừng lại ngủ qua đêm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sáng mai thức dậy, nhìn quanh thấy vũng nước mình vừa uống tối hôm qua ông giật mình kinh khiếp, lợm giọng; thì ra đó là nước của nửa cái đầu lâu còn đọng lại, chứ không phải nước tinh khiết như mình nghĩ. Ông móc cổ muốn ụa ra nhưng đã qua một đêm đâu còn gì nữa. Ngay khi đó ông ngộ ra được một điều là tâm thức của mình có khả năng kỳ diệu phát sanh được mọi thứ. Và cũng bừng sáng một điều nữa là mọi vật đều do duyên sinh, đều do tâm sinh khởi: Cũng một loại nước mà ông đã uống trong đêm qua thì nghĩ là nước Cam Lồ, sáng đến nhìn thấy nó từ cái đầu lâu thì ông nghĩ nước rất ô uế, dơ bẩn muốn nôn mửa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, trong sinh hoạt tu tập ở cấp độ cạn nhất cũng là căn bản nhất, ấy là nếu chúng ta đem năng lượng chánh niệm rọi sáng mọi tiếp xúc bên ngoài (màu sắc, âm thanh, mùi vị...) thì ta sẽ không bị nhiễu loạn bởi phiền não, lo âu, sầu đau... Và khi lòng chúng ta đã vững, năng lượng chánh niệm hùng hậu thì những duyên phát sinh ái dục không thể sinh khởi được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người xưa có thể an trú giữa phố chợ xôn xao mà tâm vẫn bất động, đi vào thương trường làm những doanh nhân mà không đam mê tiền bạc, sống trong cõi dục mà lòng vô nhiễm, thanh tịnh. Cho nên những lời Kinh nầy do Đức Phật răn dạy để chúng ta tu tập đoạn trừ nhân duyên phát sinh ái dục trong giai đoạn tâm thức còn yếu. Dĩ nhiên chúng ta cần phải tạo nhiều cơ duyên thuận lợi để an trú tâm, để sống với chánh niệm từng phút giây. Nhưng khi chúng ta đã có nội lực tu hùng mạnh thì mọi duyên bên ngoài đều trở thành thắng duyên cho các vị làm đạo. Nếu chúng ta tu tập vững vàng thì dù sống trong rừng hoang, sống giữa hàng ngàn đại chúng, sống giữa phố chợ xôn xao, giữa già lam, tự viện.. cũng không có gì trở ngại, ở đâu cũng tốt giống nhau thôi. Nếu luyện được nội lực thâm hậu, chúng ta sẽ làm chủ mình trong từng hơi thở vào ra, trong từng sát na hiện tiền.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người xưa có những phương pháp thử nghiệm nội lực của họ có vững hay không. Ví dụ như khi bị lâm vào cơn bệnh rất nặng, lúc đó chính là cơ hội cho họ thử nghiệm lòng mình xem có giữ được chánh niệm vững vàng hay không. Cơn đau bất ngờ đổ ập xuống mà ta vẫn an nhiên không mất chánh niệm. Ta vẫn bình yên, tĩnh tại nhìn cái đau đến với thân ta. Tức là cái đau của ta mà không phải ta đau, thì người đó có nội lực vững mạnh. Khi an trú tâm được nơi vùng trời nhận biết sáng chói ấy là lúc ta có thể thách thức được với tử thần rồi.[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_2/Doan_Duyen_Sinh_Khoi_Ai.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" width="425" height="340"></embed></center>
 

Hý Luận

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 10 2011
Bài viết
98
Điểm tương tác
20
Điểm
8
<center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XXXIII[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]MẶC GIÁP TINH TẤN[/FONT]</center> Thưa đại chúng,



Chúng ta sẽ đi vào chương ba mươi ba Phật dạy như sau.


A. CHÁNH VĂN.
Âm Hán văn của chương Kinh ba mươi ba nầy rất mạnh, tôi xin đọc và dịch nghĩa để quí vị cùng nghe và thấy cái hay của Kinh văn:


Phật ngôn: “Phù vi đạo giả, thí như nhất nhân dữ vạn nhân chiến. Quải khải xuất môn, ý hoặc khiếp nhược, hoặc bán lộ nhi thối, hoặc cách đấu nhi tử, hoặc đắc thắng nhi hoàn. Sa môn học Đạo, ưng đương kiên trì kỳ tâm, tinh tấn dũng nhuệ, bất úy tiền cảnh, phá diệt chúng ma, nhi đắc Đạo quả.”


Đức Phật dạy: “Người tu hành theo Đạo giống như một người chiến đấu với vạn người. Khoác áo giáp vào người đi ra cửa. Hoặc có ý khiếp nhược sinh sợ hãi, hoặc là rút lui, hoặc chiến đấu cho tới chết, hoặc là đắc thắng trở về. Các thầy Sa môn học Đạo nên phát tâm cứng rắn tiến tới mạnh mẽ, không sợ bất cứ một khó khăn nào trước mặt, đánh dẹp hết các loài ma, thành tựu đạo quả giải thoát.


B. ĐẠI Ý.
Đoạn kinh này Phật dạy con đường thực tập của các vị Sa môn đòi hỏi phải tiến bước bền bỉ, kiên cường mới có thể thành tựu đạo nghiệp.


C. NỘI DUNG.
1. Mặc giáp tinh tấn.
Thưa quý vị, có những ý chính Đức Phật nêu ra cho chúng ta đi vững vàng trên con đường học đạo. Ấy là: Kiên trì, giữ tâm Bồ Đề cứng chắc, tinh tấn tiến tới không bao giờ thối lui, không sợ bất cứ gian lao nào, và phá giặc phiền não để thành tựu đạo nghiệp.


Để đi vào nội dung bài này chúng ta chia xẻ vấn đề thuận nghịch của đời tu. Và từ tinh thần lời Phật dạy chúng ta sẽ khai thác sự cần thiết của tinh tấn để vượt qua những điều làm trở ngại chắn lối đi của chúng ta.


Một điều dễ hiểu là tâm người tu chúng ta nếu có tinh tấn mà không đi kèm sự bền bỉ thì tinh tấn ấy cũng không thể vượt đường dài phiền não chấm dứt tử sinh được. Và tinh tấn mà không có chất kiên cường thì không thể đi ngang qua những thử thách, chướng nạn từ ngoại cảnh đến nội tâm để thành tựu giải thoát.


Sự thành tựu đạo nghiệp cũng phải trải qua nhiều tầng lớp. Ví dụ các vị thiền sinh cư sĩ bên ngoài với mơ ước rất bình thường là thực tập thế nào để thuần hóa được tâm giải trừ bớt lo âu, giận tức, sầu khổ, bất an để cho đời sống gia đình hạnh phúc, an vui nhưng nếu các vị không tinh tấn thực tập thì không hưởng được hương vị của pháp.


Người tu chúng ta đi trên con đường thực tập mà không tinh tấn hành trì thì đạo nghiệp cạn nhất chúng ta cũng không thành tựu; tức là không thể trở thành một Thầy tu giỏi, không thành bóng mát của Già lam, không thể làm chỗ nương cho Phật tử tín đồ khởi phát niềm tin vào Tam bảo.


Chúng ta không phạm hạnh đoan trang, không có chút ít tuệ giác do vì có thói quen thả trôi cuộc đời trong sinh tử, khi đi tu lại thả trôi cuộc sống bồng bềnh trong đạo để cho ngày lụn, tháng qua thì không thành cái gì cả.


Hẳn nhiên tu là để thành ông thầy tu giỏi, đàng hoàng, bằng không như vậy thì thà rằng trả áo tu về đời lập gia đình để trở thành người cha tốt trong thế gian, người công dân tốt trong xã hội. Nếu tu mà cứ lửng lơ như diều đứt cánh thì khả năng đóng góp của mình cho đời không có, và cũng không tròn trách nhiệm của một ông thầy tu đối với Đạo. Người tu mà không có phẩm chất tức là chúng ta không hoàn thiện giá trị vai trò một ông thầy, làm chiếc áo tu của mình bị ô uế. Là mình có tội với chính mình, với cha mẹ, người thân, với thập phương Tam bảo và cũng có tội với xã hội loài người.


Thế nên, để thành tựu đạo nghiệp trung bình của người tu là phải có phẩm chất thực sự. Thành tựu đạo nghiệp cuối cùng là chúng chấm dứt khổ đau phiền não, lậu hoặc. Ngay nơi hiện đời dõng dạc tuyên bố câu của người xưa: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, không còn trở lại thân này nữa.”


Người tu giống như chiến sĩ ra trận, trước khi lên đường cũng phải mặc áo giáp. Chiếc áo tu tuy mỏng manh về mặt vật lý, nhưng rất nặng và có hồn ở bên trong. Đây là chiếc áo truyền thống đã có bề dày hai mươi sáu thế kỷ. Mỗi thế hệ mỗi vị Thầy đã bỏ vào chiếc áo này phạm hạnh, tuệ giác của các ngài. Và trong lịch sử tiến đạo quý Ngài phải vô cùng cực khổ lao đao để bảo vệ nó. Mặc áo giáp này là chúng ta đã phát nguyện đi vào đời sống tâm linh, và trong bốn pháp tựa nương thì hai pháp tựa nương đầu của Sa môn là nương vào bình bát, ca sa. Hai pháp khí rất quý Đức Phật đã ban cho đệ tử của Ngài để có thể sống bất cứ nơi đâu trên hành tinh này. Khi mặc chiếc áo này, chúng ta đã hứa trước Đức Thế Tôn là đi vào Niết Bàn thành Phật chứ không phải làm ông thầy tu dở dở ương ương.


Nếu chiến sĩ với chiếc áo giáp bảo vệ được họ khỏi tên đạn, vượt ngang qua khói lửa chiến tranh, giữ gìn mạng sống để thắng trận khải hoàn, thì chiếc áo của người tu cũng bảo vệ họ có thể đi vào lửa phiền não không chết cháy, đi trong đám bùn lầy của nhân gian mà không ô nhiễm, không nổi chìm trong ngũ dục, không bị danh lợi bé nhỏ của cuộc đời mua chuộc. Mặc áo giáp người tu là pháp y của Phật, là chiếc áo khi xưa Ngài đã thành tựu quả Bồ Đề, chúng ta hãy tự hào chiếc áo đẹp nhất của người tu.


Chúng ta đã nhiều kiếp gieo hạt mầm với Phật pháp nên kiếp nầy được làm đệ tử Đức Như Lai, được khoác pháp phục, được cọng trú trong Già lam, Tự viện. Thế mà qua khoảng thời gian ngắn tự nhiên khởi phát trong lòng nhiều nỗi lo sợ. Nếu tâm lo sợ khó khăn về hoàn cảnh, khó khăn về vật chất thì lòng tu chưa đủ vững vàng.


2. Vượt qua nỗi sợ.
Đệ tử Đức Điều Ngự là người phải có chí khí ngất trời. Đã phát nguyện một đời làm người tu là thề bỏ cuộc đời mình cho đạo. Sống này là sống cho đạo, chết nầy là chết cho đạo không thối lui vì những ngăn trở nhỏ nhoi phàm thường.


Cho nên một tu viện mà những người tu kèn cựa, lục đục nhau vì cái ăn cái mặc, vì việc làm nặng nhẹ, Phật tử ghét thương, khó chịu vì những lặt vặt rất tầm thường thì đời sống tâm linh của tập thể chúng nơi ấy còn rất thấp. Chúng ta hãy nhìn vấn đề cho rõ và xác định ta vào Đạo, ta đi tu để làm gì hầu nâng cao phẩm chất người tu. Đến với Đạo không thể vươn cao ý chí thành đạt Thánh hạnh mà đến vì nhu yếu ăn mặc, lợi danh, tình cảm thì ta không thể trưởng thành đời sống tâm linh.


Chúng ta đến với đời tu không phải vì sợ cô đơn, sợ thương, sợ ghét... Đi tu không phải là tìm chỗ yên ấm của đời sống tình cảm, cần được thầy thương, bạn thương. Đến với thầy học pháp của thầy chứ không phải đến để làm cái ổ tròn tròn rồi ngủ yên trong tình cảm che chở, yêu thương của thầy.


Phẩm chất thật sự của người tu trong đó có sự kiêu hùng, không phải là phẩm chất của sự tựa nương, ỷ lại nơi thầy. Ngay với Đức Thế Tôn cũng vậy, chúng ta học pháp của Ngài để quay lại tự thân thành tựu vị Phật nơi chính mình chứ không phải chạy theo làm tôi tớ cho Đức Thế Tôn.


Thưa quý vị, khi tâm ý chúng ta còn đi tìm sự tựa nương ở bất cứ ai thì sự sợ sệt phát sinh ngay. Càng về lâu nỗi sợ hãi càng đầy làm cho ta trở thành khiếp nhược, nên điều quan trọng của người tu chúng ta là phải đứng vững trên đôi chân của mình. Niềm tri ân của chúng ta đối với Thầy rất lớn nhưng ta không phải là bản sao của ông thầy. Tất cả những gì của thầy là của thầy, mình là mình. Chúng ta nên nhớ nếu bắt chước bất cứ cái gì của người khác sẽ tự mình chuốc lấy nỗi phiền muộn, bất an, tự mình xem thường mình và dìm chết cuộc đời mình. Quá khứ các bậc Thầy cũng chưa hề bắt chước nhau và hành đạo cũng không giống như nhau. Chúng ta cũng thế, không thể máng cuộc đời ta vào một vị Thầy nào được cả. Hãy thắp lên trong tim lửa hùng khí của người tu là xây dựng được nền tảng vững chắc cho “tinh tấn lực.”


Không phải chúng ta đi tu để kiếm một chút yên bình đời sống tình cảm dù là thầy, dù là bạn, dù là Phật tử kính quý, thương yêu. Thưa không phải như vậy. Con đường Niết Bàn là con đường độc hành độc bộ. Một mình mình đi, một mình đối diện với chính mình, một mình loại trừ phiền não của chính mình, một mình ta vươn thẳng lên cao để thành tựu Phật quả, chứ không phải nương tựa vào ai cả. Điều này rất rõ, nếu chúng ta có được điều này trong trái tim thì không có nỗi bất an, lo lắng gì có mặt trong ta. Tuy nhiên trên con đường dụng công tu tập; nỗi sợ lớn nhất của chúng ta là nỗi sợ chết.


[bubble]Đối với nỗi sợ hãi nầy, nếu có dịp đọc vào những lời dạy của thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc sẽ nghe ông phê phán rất nặng: “Thiền tông Trung Hoa cực thịnh vào thời Đường nhưng đến cuối thời Tống, các thầy không có niềm tin vững vào pháp môn nên bày thêm “Thiền Tịnh song tu.” Phải niệm Phật đề phòng vì lỡ tu không nên thân thì có Đức A Di Đà đón mình về cõi Cực lạc. Đó là thời suy hoại tinh thần tu tập. Nếu chúng ta thật sự tu tập, có niềm tin thì không có chuyện hai chân trên hai chiếc thuyền. Chúng ta phải có niềm tin vững chắc đặt vào một pháp môn và năng lực tập trung một điểm mới mong đột phá vô minh, đoạn đứt tử sinh.”[/bubble]


Tuy nhiên, nếu đời này mình chưa sáng đạo, chưa chứng được Thánh quả, chắc chắn hạt nhân của sự tu tập hùng hậu không hề mất. Kiếp sau nếu chúng ta trở lại trong nhân gian vừa có mặt thì tâm tu bật sáng tức khắc là mình sẽ đi lại con đường cũ cực nhanh. Người xưa dùng câu nói “Nhất văn thiên ngộ”: một nghe nghìn hiểu để chỉ trường hợp tái lai nầy.


3. Bồ Đề tâm vững chắc.
Có những trường hợp sự thực tập chúng ta không đi tới có nghĩa là chúng ta đang thối lui. Nếu chúng ta tu mà không nếm được niềm vui của sự tu tập, có nghĩa là đang lửng lơ không phát triển được đời sống tâm linh.


Bước đầu vào đạo ta rất hăng hái, niềm vui rất lớn, đến năm thứ hai ta thấy hơi ngao ngán, đến năm thứ ba chúng ta thả cuộc đời mình bập bềnh như lục bình lên xuống theo con nước nổi trôi, dạng đó là dạng thối lui, tu cho qua ngày, đoạn tháng. Chưa nói đến chuyện bị ngũ dục nhân gian lượm mất sinh mạng, chưa nói tới chuyện ta cởi áo về đời. Chỉ cần tu không tiến đã là sự thất bại rồi.


Khi tâm ta chưa sáng đạo mà dừng lại không có tinh thần cầu học để phát triển là thụt lùi. Sâu hơn một tầng nữa là ta thấy được con đường đi, nhận ra được đạo nhưng chưa làm chủ được tâm thức mình, chưa liễu ngộ được chuyện tử sinh vẫn là người dừng lại.


4. Chiến đấu tới chết.
Thưa. Nơi chiến trường một mũi tên bay, một nhát kiếm xẹt mà ta không đỡ kịp là mất mạng như chơi. Trong đường tu cũng vậy, từ con đường tử sinh mênh mông bước vào cõi Niết Bàn lồng lộng cũng trong đường tơ kẽ tóc. Mình đi trọn đời trên đường tu, hay nửa chừng rơi rụng cũng trong một khởi niệm của ý thức sinh diệt mà thôi. Một niệm buồn chán, ân hận, lo lắng... mà không khéo nhận diện thì nó đưa chúng ta đang từ cõi thanh lương, yên ổn của đời sống trong đạo bước vào con đường gập ghềnh của thế trần chỉ trong tích tắc.


Cho nên điều đầu tiên chúng ta nên nhớ biên giới giữa chết và sống của người chiến sĩ như thế nào thì biên giới của người tu trên con đường thẳng đến Niết Bàn và con đường rớt vào cõi tử sinh cũng như thế. Rất gần nhau. Và phước để đi trọn đời tu thành tựu đạo nghiệp phải khá dày. Dĩ nhiên phước nghiệp nầy được sinh khởi từ trái tim từ ái, vị tha của chúng ta.


Câu Kinh Phật dạy: “Chiến đấu tới chết.” có hàm nghĩa phát dũng lực tinh tấn, kiên cường. Khi trong lòng ý niệm tinh tấn như trường giang cuồn cuộn hẳn nhiên tạo thành tính cách mạnh mẽ nuôi dưỡng được chính mình, và giúp đỡ yểm trợ cho “tinh tấn lực” nầy sẽ bộc phát cực mạnh trong kiếp lai sinh, và đưa ta vào quả vị nhanh như Đức Thế Tôn đã từng tu tinh tấn hạnh.


4. Đắc thắng trở về.
Trong Kinh Pháp Cú Đức Phật đã nói lên điều đắc thắng của mình như sau: “Hỡi người làm nhà kia, ta đã thấy mi rồi. Kèo cột mi đã gãy, rui mè ngươi bị phá tan, ngươi không còn có khả năng cất được nhà cho ta nữa. Tâm ta đã đạt được tịch diệt, ái nhiễm đã đứt đoạn không còn dính dáng gì.” Đó là tuyên ngôn của người đắc thắng trở về nhà.


Tôi nghĩ là chúng ta tu thế nào để có thể nói lên được những câu như người xưa đã nói đó là người đắc thắng đã trở về.


Tất nhiên con đường tu tập của chúng ta có mở ra rộng hay không, có thênh thang đến cuối đường cho ta đi trọn hay không, điều quan trọng là trong ta có kiên cường giữ tâm rắn chắc và lòng tu có độ bền như kim cương hay không. Nếu chúng ta chỉ có sự tinh tấn mà không giữ lòng vững bền thì con đường tu hành cũng khó thành công. Có những người tu phát tâm rất lành, rất mạnh, rất tinh tấn nhưng trên con đường dài không đi trọn được kiếp tu.


5. Những thuận nghịch trên con đường tu.
Chúng ta có thể vượt qua được những khó khăn của ngoại cảnh, vượt qua được đời sống vật chất và hoàn cảnh xã hội khó khăn hoặc sung túc mời gọi. Nhưng để vượt được những thuận cảnh, nghịch cảnh tình cảm rất khó. Thuận, nghịch cảnh này có nhiều hướng đi vào, nhiều cách đánh phá chúng ta. Ví dụ như trong đời sống Tăng đoàn cùng là bạn đồng tu với nhau mà chúng ta thương, hay ghét đặc biệt một người nào cũng là một loại thuận, nghịch cảnh đặt ra sự thử thách cho ta.


Trong đời sống tình cảm người tu liên hệ nhau đặt ra nhiều khó khăn, mà đôi khi trong đời sống gia đình giữa bố, mẹ, anh, chị, em cũng đặt ra nhiều thuận, nghịch cảnh gây ra những khó khăn cho chúng ta thực tập. Cho nên chúng ta làm thế nào tiến được từng ngày, làm thế nào tâm mình an trú trong đạo ngày càng lớn, càng vững mạnh không phải là điều đơn giản.


Đôi khi, trở ngại lớn của người tu không phải là chuyện bên ngoài mà do chính tự thân quí vị. Sức khỏe không tốt là một trở ngại; nhiều lúc không phải ta làm biếng, nhưng sức khỏe không có nên sinh hoạt của đoàn thể ta không theo được nên mình cảm thấy bị lạc lõng, bị bỏ rơi. Thân bệnh cũng làm cho chúng ta đôi khi trở nên mặc cảm, buồn tủi nên ảnh hưởng đến đời sống tu của chúng ta vô cùng.


Ngoài ngăn trở của tự thân phải vượt qua, chúng ta còn phải vượt qua những vui buồn phát sinh từ tâm thức nó tạo thành mạng lưới giam nhốt và quấn chặt ta; những mạng lưới bất an, sầu khổ ngăn trở sự tiến đạo và ngăn trở sự thành đạt. Trên con đường tu có những thành đạt tất yếu như thành đạt cạn nhất là chúng ta được thầy thương bạn quí, được Phật tử tín đồ trọng vọng cũng là sự ngăn trở cần phải vượt qua. Nếu chúng ta dừng lại ở đó và nghĩ rằng đủ rồi, yên ổn rồi thì đời sống tâm linh của chúng ta không phát triển được.


Con đường tu của chúng ta càng lên cao thì sự khó khăn cùng mức độ dụ dẫn quyến rũ của thuận cảnh, nghịch cảnh sinh khởi càng nhiều. Làm một vị thầy lớn chưa hẳn là thuận duyên nhiều hơn một vị thầy nhỏ. Tại sao? Thưa, chúng ta phải chịu trách nhiệm về nhiều vấn đề, nếu không khéo thì niệm lợi, niệm danh và ít nhiều vô minh sinh khởi trong ta. Nhiều khi làm một thầy tu nhỏ sống giữa lòng đại chúng không ai biết đến mà thảnh thơi và hạnh phúc hơn nhiều, “Không có danh gì với núi sông.”, nhưng trên đường tu chúng ta không bị những quán trọ, những bến bờ gọi mời ta dừng lại.


Chỉ làm một thầy tu bình thường, chưa phải vị thầy giỏi, chưa có danh phận chi, khả năng tinh tấn của chúng ta rất mạnh. Nhưng đến khi làm vị thầy lớn sức mạnh tinh tấn của ta từ từ mất dần. Vì vậy, phải khéo lắm chúng ta mới nuôi dưỡng được mình.


6. Những bước tinh tấn.
Có hai loại tinh tấn: tinh tấn về mặt lý là mặt hiểu biết lý giải. Tinh tấn trong lúc hành trì, dụng công tức là đi vào sự thực tập trong đời sống hàng ngày. Hay nói cách khác là Hạnh và Giải tương ưng nhau. Sự hiểu biết và công phu hành trì phải song hành thăng tiến liên tục không gián đoạn.


Chúng ta có thể hiểu sâu hơn sự tương tức của lục độ Ba La Mật. Ấy là khi tinh tấn thực sự có mặt là có mặt của nhẫn nhục, trí tuệ, định lực... Tức là tu một Ba La Mật là có mặt các Ba La Mật khác. Người mà không có trí tuệ, không có định lực, không có khả năng nhẫn nhục thì người đó không thể tinh tấn được. Sự tiến đạo đòi hỏi rất nhiều yếu tố hội tụ mới có thể tiến vững trên con đường tu.


Thưa đại chúng, sự tinh tấn dụng công trong tu tập có hai cấp độ: cấp độ cạn là tinh tấn thông thường và cấp độ sâu là tinh tấn mà rất thong dong.
– Tinh tấn thông thường là sự biểu hiện ra bên ngoài sức cần mẫn, cố gắng tu tập thời khóa trong sinh hoạt mỗi ngày ai cũng thấy và tự thân ta cũng cảm thấy là mình tinh tấn.
– Tinh tấn thong dong có mặt nơi những hành giả đã thâm ngộ và có công phu hành trì thuần thục. Tinh tấn thực sự nhưng không thể hiện ra bên ngoài. Bên trong tâm thức người đó việc sống với chánh niệm tỉnh thức, việc an trú tâm nơi sự “nhận biết vô ngôn” là điều bình thường giống như hơi thở, tự nhiên không cần dụng công gì cả. Thong dong mà đến, thảnh thơi mà đi, “nhậm vận tùy duyên” như mây trời nhẹ trôi, như nước chảy về nguồn. An nhiên, thường tại.


Phân ra hai cấp độ như vậy để nhận diện và biết chúng ta đang tu trong tình trạng nào, cấp độ nào. Dĩ nhiên nếu không có sự tinh tấn ở mức độ cạn thì chúng ta không thể leo lên đến mức độ tinh tấn thong dong, tu mà như không tu được.


Chúng ta nhìn lại Đức Thế Tôn với sáu năm khổ hạnh, tu tập trong rừng già là Ngài thực hành tinh tấn một cách thông thường. Tuy Ngài đã làm chủ được hoàn toàn những cảm thọ của mình nhưng Ngài nhận thấy sáu năm qua con đường nầy không dẫn đến tuệ giác, chưa có thể đưa mình đến thành tựu giác ngộ, giải thoát cho nên Ngài bắt đầu thọ nhận chút thức ăn là bát sữa của nàng Sujata dâng cúng.


Ngài chọn cho chính mình một con đường tu tinh tấn rất thong dong là an trú trong thiền định bốn mươi chín ngày đêm, thành tựu quả chánh giác bên cội cây Bồ Đề khi sao mai vừa mọc.


Chúng ta tu tinh tấn thông thường có khi phải bỏ công, khó nhọc điều phục thân tâm, nhiều khi kéo dài đến mười, hai mươi năm. Vượt qua giai đoạn nầy chúng ta đến được giai đoạn tinh tấn thong dong thì sự tu tập của chúng ta rất tự nhiên, thong thả. Đến giai đoạn mà chúng ta thấy tu như chơi, rất nhẹ nhàng không bỏ một chút công sức nào cả. Và đây là giai đoạn hành giả đang thả trôi mình vào biển Niết Bàn.


Thưa đại chúng, có hai điều quan trọng chúng ta cần ghi nhận là nếu không có con đường thực tập sự dụng công nghiêm cẩn, thì sẽ không thể có giai đoạn chúng ta thong dong.


Trong sự dụng công thực tập chúng ta phải thông minh làm thế nào để sự tu tập của mình càng gần với tự nhiên, càng nhẹ nhàng càng tốt. Chúng ta cố gắng nhiều quá sẽ đưa đến tình trạng căng thẳng làm thương tổn thân và suy sụp tinh thần, không hợp với Đạo và cũng không đưa đến kết quả.
Tinh tấn nhưng không gấp gáp, không cố sức; hãy buông lỏng thân tâm và vận dụng sự trung hòa cho hệ đối giao cảm thần kinh có mặt thường xuyên là cách thực tập tốt nhất. Và không có gì tuyệt vời bằng sự thực tập mà gần gũi với tự nhiên. Không ai có thể truyền đạt được phương pháp thực tập cho chúng ta, ngoài chính chúng ta khéo thông minh để chọn cách thực tập riêng của mình mà thôi.

Thưa quí vị, chắc chắn một điều là con đường tu không phải dành cho người ít trí tuệ, không phải dành cho người có chút ít niềm tin thôi mà đủ, nó đòi hỏi sự bén nhạy, tinh tế của tâm thức. Cho nên chúng ta phải thông minh khi mặc chiếc giáp tinh tấn như lời Kinh Đức Phật dạy ở chương ba mươi ba nầy.


 

Hý Luận

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 10 2011
Bài viết
98
Điểm tương tác
20
Điểm
8
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_2/Mac_Ao_Tinh_Tan.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="1" showcontrols="1" width="425" height="340"></embed></center>
 

Hý Luận

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 10 2011
Bài viết
98
Điểm tương tác
20
Điểm
8
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XXXIV [/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_2/Con_Duong_Trung_Dao.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" width="425" height="100"></embed></center>
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hôm nay chúng ta bước vào Con Đường Trung Đạo, và cũng là chủ đề của chương Kinh ba mươi bốn nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]A CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Sa Môn dạ tụng Ca Diếp Phật Di giáo kinh. Kỳ thanh bi khẩn, tư hối dục thối. Phật vấn chi viết: “Nhữ tích tại gia, tằng vi hà nghiệp? Đối viết: Ái đàn cầm.” Phật ngôn: “Huyền hỗn như hà? Đối viết: Bất minh hỷ.” “Huyền cấp như hà? Đối viết: Thanh tuyệt hỷ.” “Cấp hỗn đắc trung như hà? Đối viết: Chư âm phổ hỷ.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Sa Môn học đạo diệc nhiên. Tâm nhược điều thích, Đạo khả đắc hỷ. Ư đạo nhược bạo, bạo tức thân bì. Kỳ thân nhược bì, ý tức sanh não. Ý nhược sanh não, hạnh tức thối hỷ. Kỳ hạnh ký thối, tội tất gia hỷ. Đản thanh tịnh an lạc, đạo bất thất hỷ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có một thầy Sa môn ban đêm tụng Kinh Di Giáo của Đức Phật Ca Diếp, tiếng ông ấy nghe rất buồn bã như tiếc nuối thối lui. Đức Phật hỏi: “Xưa kia, khi ở nhà ông thường làm nghề gì? Đáp rằng: “Thích chơi đàn cầm.” Phật hỏi: “Khi dây đàn chùng thì sao? Đáp rằng: “Không kêu được.” Đức Phật hỏi: “Khi dây đàn căng quá thì sao”? Đáp rằng: “Tiếng bị mất.” Đức Phật hỏi: “Không căng cũng không chùng thì sao?” Thầy ấy đáp: “Các âm thanh đầy đủ dễ nghe.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật liền dạy: “Người Sa môn học đạo cũng như vậy, tâm lý được quân bình thì mới có thể đắc Đạo. Đối với sự tu tập mà căng thẳng quá thì làm cho thân mệt mỏi, khi thân mệt mỏi thì tâm ý sẽ sinh phiền não. Tâm ý đã sinh phiền não thì công hạnh sẽ thối lui. Khi công hạnh đã thối lui thì tội lỗi tăng trưởng. Chỉ có sự thanh tịnh và an lạc Đạo mới không mất được.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người tu học phải điều tiết thân tâm theo con đường trung đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Khéo thể nghiệm con đường trung đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chương Kinh ba mươi bốn nầy có hai câu rất quan trọng tôi dẫn ra đây xin các vị lưu ý. Phật ngôn: “Sa môn học Đạo, tâm nhược điều thích, Đạo khả đắc hỷ. Đản thanh tịnh an lạc, Đạo bất thất hỷ”: “Các thầy hay những người đam mê con đường thực tập, mà nếu điều tiết được thân và tâm một cách thích đáng, chừng mực, hợp lý thì có thể chứng nghiệm được sự an lạc, hạnh phúc hoặc giải thoát trong hiện đời. Chỉ cần có sự thanh thản, an bình, trong sáng vui tươi của tâm thức thì có thể chứng được Đạo.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, tâm thức chúng ta khi mới vào đạo thường rất tinh tấn, nếu quá tinh tấn thì sẽ lạc vào cực đoạn của sự căng thẳng, và rồi một thời gian sau chúng ta sẽ lạc vào sự buông trôi. Khi nghiêng về bên nầy, khi nghiêng về bên kia ấy là chúng ta không chọn được con đường trung đạo để đi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường trung đạo là con đường thành tựu đạo nghiệp mà các bậc Thánh quá khứ từ Đức Thế Tôn, các vị Thiền sư cho đến các vị Thầy cận đại đều đi. Nhưng con đường trung đạo không đơn giản khi áp dụng vào thực tế.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi muốn chia xẻ để chúng ta làm thế nào đừng lạc vào trạng thái căng thẳng của tinh tấn, cũng đừng lạc vào trạng thái của sự buông lung. Hai điều nầy khó cho chúng ta điều tiết tâm thức mình, khó thực tập đều đặn để đi vào con đường trung đạo. Đường tu thì rất là dài, mà sinh tâm lý chúng ta lại thay đổi từng ngày một; nay vui, mai buồn, khi khỏe, khi bệnh... nên đưa tâm ý chúng ta đi vào con đường trung đạo trên lý thuyết rất dễ, nhưng để áp dụng vào thực tế thì đi trọn con đường tu, không chán nản cực kỳ khó khăn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]2. Hãy học cách dạy đệ tử của Đức Phật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nội dung đoạn Kinh cho chúng ta thấy là Đức Phật đã thể hiện cách chăm sóc, nuôi dạy đệ tử rất chu đáo. Ngài đã vận dụng mọi cơ hội, mọi điều kiện để cho chúng ta những lời dạy áp dụng vào sự thực tập mà không đi vào phù phiếm của lý luận. Ta cũng thấy Đức Thế Tôn đã chăm sóc Thầy tỳ kheo khi nghe tiếng thầy tụng kinh rất buồn, Ngài đã đến thăm hỏi và nương vào cơ hội Thầy tỳ kheo là người thiện nghệ về gảy đàn, Ngài dạy cho cách gảy đàn thế nào để có âm thanh tao nhã, âm thanh hay và từ đó ứng dụng vào sự tu tập. Những cơ hội khác như trên đường đi gặp một khúc gỗ trôi trên sông, gặp một gò mối, gặp hòn đảo, gặp người bắt rắn... Ngài đều vận dụng, qui chiếu vào sự thực tập, dạy dỗ các tỳ kheo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều đáng nhớ nhất là trong Phật giáo Nguyên Thủy chúng ta không tìm thấy các loại ngôn ngữ, triết lý gì cao siêu, trừu tượng. Phần nhiều lời dạy đồ đệ được Đức Phật xử dụng bằng tiếng địa phương rất gần gũi nhân tình và dẫn dụ rất cụ thể, giản dị.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngoài khả năng vận dụng cơ hội và lời dạy áp dụng vào sự thực tập, Đức Phật còn có đời sống thân cận, chăm sóc, thương yêu và chờ đợi. Chúng ta cần phải học hỏi tất cả điều nầy, học để nuôi dưỡng chính mình, để giúp đỡ người khác. Nếu không kiên nhẫn, không có sự đợi chờ thì chúng ta đánh mất cơ hội nếm được vị ngọt của trái cây đến độ chín muồi. Làm một vị Thầy lớn mà không có khả năng chờ đợi, kiên nhẫn có thể sẽ làm đổ vỡ đời tu người đệ tử mà mình nuôi dạy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong cộng đồng Tăng chúng tâm thức của mỗi người đều rất khác biệt; có những người tuy lớn nhưng khi ta nói một lời họ tiếp nhận rất dễ, thì cũng có những người do môi trường sống tích tụ thành tính khí, tình cảm và sự cố chấp từ tuổi còn thơ nên khó nói một lời đến với họ. Thêm vào đó còn có vấn đề tâm sinh lý con người đột biến khôn lường, khi thì dịu dàng, ngoan ngỗn, khi thì ngang bướng lì lợm, khó dạy vô cùng cho nên sự kiên nhẫn đợi chờ rất quan trọng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta nhìn lại chính mình trên con đường tu phải biết thương yêu chính mình, phải kiên nhẫn với chính mình nếu không con đường tinh tấn của mình thụt lùi, con đường tu mình không đi hết được. Chúng ta tu mà cứ năm ba bữa bỏ truyền thống này nhảy qua truyền thống khác, thay đổi từ pháp môn này qua pháp môn nọ, điều này rất dễ xảy ra trong tâm thức của những người tu thiếu kiên nhẫn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta không cần phải học ai bằng học Đức Thế Tôn. Ngài chờ đợi đến một cơ hội nào đó có thể được mới dạy, và đọc vào lịch sử để thấy nhiều chuyện khó khăn xảy ra trong tăng đoàn ngày xưa nhưng Thế Tôn đã điều phục được bằng sự kiên nhẫn tột cùng của Ngài. Chúng ta là đệ tử của Ngài phải học điều này, không những chỉ đối xử với bên ngoài mà còn phải kiên nhẫn với chính mình. Và có được sự kiên nhẫn thì con đường trung đạo chúng ta mới đi được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]3. Quân bình thân và tâm khi thực tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, Đức Phật từng nói đến con đường trung đạo trong Kinh đầu tiên Ngài thuyết là Kinh Chuyển Pháp Luân. Đây là kinh nghiệm đầy gian truân của Ngài.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trải qua sáu năm khổ hạnh, tu hành đến kiệt sức trong rừng già không thấy kết quả, Ngài xả bỏ và khám phá một điều con đường thiền định không phải là con đường hành hạ thân xác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi chứng ngộ sau bốn mươi chín ngày đêm thiền định, điều đầu tiên Ngài nói có hai cực đoan nên tránh: cực đoan thứ nhất là thả trôi theo cuộc sống dục lạc thế gian, cực đoan thứ hai là hành hạ ép xác theo các truyền thống tu tập khổ hạnh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin lưu ý, người tu chúng ta phải rất thông minh, vì con đường trung đạo tùy theo cơ chế của từng hình hài. Ta phải sống thế nào để thích ứng với sức khỏe, tinh thần của chúng ta khi áp dụng con đường trung đạo nầy. Không có một tiêu chuẩn, định hướng chung nào cho mọi người vì căn bản quan trọng của người tu đặt ra là khi nào cũng phải đi con đường trung đạo của chính thân tâm, nghiệp thức, trí tuệ của từng cá nhân.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đi vào thực tế đời sống để thực tập, dụng công người tu chúng ta cũng như vậy, phải thông minh. Khuynh hướng đầu của ta là hay dễ dãi với chính mình. Chỉ cần một lần dễ dãi thôi là lần sau nó có cơ hội lập lại và từ từ sẽ trở thành thói quen. Tâm thức chúng ta thường hay lừa gạt mình và chúng ta lại hay chìu chuộng theo nó để đi vào con đường giãi đãi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường này dễ đi nhưng là con đường cực đoan, tác hại lên thân rất lớn về lâu về dài và khi đi vào công phu điều phục tâm thì chúng ta sẽ theo con đường lười biếng này. Hai con đường cực đoan: giãi đãi, lười biếng và ép xác khổ hạnh đều dẫn đến kết quả rất thiệt thòi là suốt một đời thực tập của chúng ta không đi đến đâu, không nếm được hương vị thật sự của pháp lạc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngày nay, Đạo Phật đã có mặt ở vùng đất Tây phương. Đã có người Tây phương làm Tăng sĩ nhưng nhìn chung Tăng sĩ bản địa vẫn chưa thực sự bắt rễ sâu vào lòng Đạo Phật. Dĩ nhiên hòa nhập vào một tôn giáo sinh ra từ một nền văn hóa khác biệt với nền tảng văn hóa dân tộc mình không phải đòi hỏi chỉ trong một sớm, một chiều mà phải cần có thời gian và tuệ giác của cả hai phía; tùy theo mức độ đề kháng, kỳ thị tự nội và mức độ thâm nhập thông minh của tôn giáo xa lạ kia. Nên để áp dụng sự trung dung hay con đường trung đạo của đạo Phật vào tâm thức, đời sống người Tây phương là một điều rất khó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta đều biết tâm thức của người Tây phương rất thực tiễn và duy lý, điều gì cũng được họ tính bằng con số, và sự thành đạt cũng phải được tính toán rõ ràng bằng lý trí. Điều này là một trở ngại lớn đối với đời sống người tu, vì tâm thức duy lý thực tiễn, tính toán này chỉ để chinh phục thiên nhiên, vũ trụ, khoa học hay thành đạt học vị bên ngoài. Trong khi con đường tu là con đường quay ngược vào bên trong; càng đi vào trong ta phải càng loại bỏ chứ không có thành đạt thêm gì cả. Từ chỗ có đi đến chỗ không. Đây là điều khó thuyết phục cho niềm tin của họ và là một trong những nguyên nhân mà đạo Phật chưa cắm rễ sâu vào vùng đất này dù rằng các bậc Thầy cố gắng đem đạo Phật làm quà tặng tâm linh hiến dâng cho đất nước họ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường tu là con đường trở vào chinh phục chính mình, là sự rũ bỏ để trở về tự thể vô ngã. Và khó khăn nhất cho người Tây phương là không nắm được thế nào là sự thành đạt cụ thể nên không có gì để nuôi lớn niềm tự hào cho bản ngã kiêu mạn của mình. Càng tu tính cách cá nhân của mình càng mất đi, không còn nữa. Do vậy, nên khó thuyết phục họ đi sâu vào đời sống tâm linh vô ngã để phát triển Phật pháp ở nơi đây.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, sự khác biệt của hai nền văn hóa Đông phương và Tây phương cũng rất lớn nên không dễ khắc phục. Nuôi dưỡng một Thầy hoặc một Cô người Tây phương để thành một Cao tăng là điều khó vô cùng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tự thân giáo lý đạo Phật là một đối nghịch với tâm thức của người Tây phương. Hai điều nghịch lý là giáo lý đạo Phật dạy cho con người quay trở lại bên trong, trong khi xã hội Tây phương dạy con người hướng ra ngoài chinh phục mọi lãnh vực.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và điều quan trọng nhất là trở ngại của sự thực tập, cho dù mọi truyền thống đạo Phật như: Nhật Bản, Tây Tạng, Thái Lan, Tích Lan, Trung Hoa... đều cố gắng thành lập những trung tâm tu học nhưng vẫn chưa đưa được giáo lý tỉnh thức vào tâm thức người Tây phương một cách sâu sắc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Yếu tố tâm lý của họ là một trở ngại lớn. Và quý Thầy của truyền thống Phật giáo Đông phương cũng không làm thế nào để chế tác những phương pháp thực tập giản dị, có màu sắc thực tế thích hợp với tâm thức, khẩu vị của họ để quý Thầy, Cô người Tây phương trẻ tiếp nhận đạo Phật vào trong trái tim mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin chia xẻ chút ít cảm nghĩ và cái nhìn của mình, mong rằng quí Thầy, Cô người Tây phương phải chính mình hết lòng thực tập, hành trì. Đồng thời, với sự nỗ lực tinh tấn học hỏi, hiểu biết sâu rộng mọi truyền thống Phật giáo mà không hạn hẹp trong một truyền thống nào để có kinh nghiệm chứng ngộ sâu sắc hầu truyền đạt cho thế hệ tương lai, làm giàu có cho văn hóa phương Tây. Và giới thiệu đạo Phật đến với quê hương mình, cống hiến được tuệ giác, giáo lý chân thật mầu nhiệm cho mọi người trên miền đất màu mỡ nầy.[/FONT]
 

Hý Luận

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 10 2011
Bài viết
98
Điểm tương tác
20
Điểm
8
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XXXVII [/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]THÂN CẬN BÊN PHẬT[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]HT.Thượng Phước Hạ Tịnh[/FONT]​
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chương Kinh nầy có chủ đề là Thân Cận Bên Phật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Phật tử ly ngô sổ thiên lý, ức niệm ngô giới, tất đắc Đạo quả. Tại ngô tả hữu, tuy thường kiến ngô, bất thuận ngô giới, chung bất đắc Đạo.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Đệ tử của ta tuy ở xa ta vài nghìn dặm, nhưng nếu nhớ nghĩ, hành trì giáo pháp của Ta tất sẽ đắc Đạo. Ở bên cạnh ta tuy thường ngày gặp gỡ Đức Thế Tôn nhưng không hành trì và tu tập giới pháp của thì cuối cùng cũng không đắc được Đạo.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đại ý của đoạn Kinh nầy dạy rằng: “Người thọ nhận và hành trì giới pháp của Phật là đang thân cận bên Phật.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Ta đang ở đâu và đang làm gì?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ta hãy nhìn lại mình mà đừng than thân trách phận. Các truyền thống Phật giáo thường than phiền chúng ta là những người sinh vào thời mạt pháp, không sinh vào thời có Phật tức xa Phật pháp mấy ngàn năm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong thực tế, chúng ta nên ghi nhận là dù cách xa Đức Thế Tôn về thời gian, không gian nhưng không phải đó là điều quan trọng, mà quan trọng là chúng ta có hành trì, tu tập giới pháp của Ngài không? Hơn nữa hiện tại giáo pháp của Ngài vẫn còn, các bậc Thầy lớn, các bậc Đạo sư lớn vẫn còn, nên chúng ta hãy nhìn lại để thấy tự hào về phúc duyên của đời sống của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hiện nay trên đất Mỹ các truyền thống Phật giáo hầu như đều có mặt, nhất là truyền thống Mật Thừa hiện rất thịnh hành và truyền thống thiền *** cũng đang có chiều hướng phát triển, lan rộng ở các nước phương Tây.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đôi khi chúng ta tự hỏi tại sao Mật thừa có cùng những sắc thái hình thức giống như các truyền thống tôn giáo khác ở đây nhưng lại đi vào lòng người Tây phương dễ như vậy? Và hình như Phật tử Việt Nam cũng rất thích truyền thống nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, có rất nhiều yếu tố để đưa đến thành công trong việc hoằng pháp của quí thầy Tây Tạng. Tôi chỉ xin chia xẻ một khía cạnh nhỏ nhưng quan trọng để quí vị lưu ý. Điều thành công dễ nhận biết của họ là trong sự truyền tãi đạo Phật vào Tây phương họ tổ chức thành những sứ đoàn thể hiện được tinh thần tập thể vô tham, họ không đặt nặng vấn đề kêu gọi Phật tử đầu tư tài chánh vào cho công việc xây dựng tự viện riêng lẻ, cá nhân hay những sinh hoạt tư lợi hoằng pháp. Thế nên nhìn vào thấy đẹp và thanh cao, dễ kích phát niềm tin nơi người cư gia Phật tử.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Các Ngài bằng trí tuệ của mình đã đem giáo lý nhân bản, thực tiễn và khoa học của Đức Thế Tôn triển khai đúng đường lối, tầm mức để có thể tương hợp với tâm thức của người Tây phương vốn thực tế và ít có niềm tin để họ có thể tiếp nhận một tôn giáo khác dễ dàng mà không dị ứng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong khi đó chúng ta hãy nhìn vào chùa chiền và tự viện của người Việt Nam ở đây để thấy mình đã làm cho Phật tử rất ngần ngại khi đến chùa. Điều dễ thấy là chùa chiền mọc vô tội vạ. Công trình nào cũng gõ vào túi tiền Phật tử kêu gọi cúng dường tiền bạc, công sức để phát triển tự viện cá nhân mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chữ tự viện cá nhân chúng ta dùng ở đây không sai mấy. Nguyên ủy chùa vốn thuộc công hữu. Nhưng trên đất nước nầy hay ở Việt Nam hiện tại phần nhiều đang đi dần vào con đường tư hữu. Những mỹ từ ban đầu dùng cho công trình xây dựng như; đây là nơi gìn giữ truyền thống văn hóa Việt Nam, đạo Phật Việt Nam, nơi quê hương tâm linh truyền bá giáo lý nuôi dưỡng đạo đức... dần dần đổi chiều ngược lại. Nhiều vấn đề tiêu cực phát sinh như tiêu chuẩn sinh hoạt cộng đồng hay tu tập không có, phân hóa tăng đoàn ra thành từng mảnh nhỏ, không có điều kiện thì giờ tu học. Cuối cùng một ông thầy là một ông vua của Già lam và có đời sống tha hóa, nặng nề vật chất thế gian, chạy theo danh lợi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên chúng ta nên ý thức một điều là chúng ta may mắn còn có vài bậc Thầy cố gìn giữ đạo, có đời sống phạm hạnh, gầy dựng Tăng đoàn truyền bá giáo pháp của Phật để cho mọi người nếm được hương vị chánh pháp tu tập. Tuy bên cạnh vẫn có bao nhiêu điều tiêu cực làm cho đạo Phật thuộc truyền thống Việt Nam khó phát triển.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thứ nữa sự chuyển vùng văn hóa của tôn giáo hay sự hành đạo tùy thuộc vào đặc tính của vùng đất mới. Đạo Phật qua bao lần suy thoái ở Ấn Độ, đến Trung Hoa qua Nhật Bản là từng chặng đường do bảo thủ không chịu thay đổi, học hỏi để phát triển. Điều nầy quá khứ đã có mặt ở Đông phương cho đến hôm nay lại có mặt ở Tây phương. Đây là nét tiêu cực làm cho Phật giáo Việt nam chậm cắm rễ vào tâm thức người dân ở nơi nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Văn hóa trên miền đất mới phương Tây cũng như tâm thức, tinh thần của người dân bản địa là điều chúng ta cần tìm đến, học hỏi tư duy tường tận mới hy vọng có khả năng làm cho đạo Phật sống còn. Chúng ta không phải làm cho đạo Phật chỉ phát triển cơ sở vật chất là đủ. Quan trọng là chúng ta phải làm cho cây giác ngộ bám rễ sâu vào lòng đất Tây phương, vươn cành lá, cho hoa trái và cống hiến vị ngọt giáo pháp Đức Thế Tôn. Nói thế có nghĩa là đạo Phật phải thực sự thấm vào trái tim của những người bản xứ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]2. Các tầng tiếp xúc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, đi sâu vào nội dung bài Kinh nầy chúng ta có hai tầng tiếp xúc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tuy nhiên hai chữ tiếp xúc nầy không đạt được vào chiều sâu ý nghĩa của sự thẩm thấu, chan hòa bên trong. Tiếp xúc có nghĩa là chỉ chạm bên ngoài thôi, trong khi đến với đạo Phật không phải là chạm vào mà nó đòi hỏi sự thâm đạt, sự thấm vào bên trong. Ở cấp độ vừa phải như khi ta cảm thông với một người nào đó, thì đòi hỏi có cùng một cung bậc tâm hồn chan hòa năng lượng đan xen với nhau tạo thành sự cảm thông. Thưa, không phải chúng ta chạm nhau mà tạo thành sự cảm thông được. Do vậy ta nên hiểu nội hàm chữ tiếp xúc là sự thẩm thấu vào chiều sâu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Tầng cạn đầu tiên của sự tiếp xúc là tầng vật lý. Trong chúng ta mỗi con người đều có hai tầng; hình hài là tầng thô, tình cảm là tầng tinh tế. Nếu chúng ta chỉ tiếp xúc vào phần thô của hình hài nầy thì sự cảm thông không bền, không gây sự lưu luyến lâu dài. Cho nên sự tiếp xúc đi vào chiều sâu bao nhiêu thì quà tặng hạnh phúc lớn bấy nhiêu làm cho đời sống tâm thức được nâng lên cao.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người ta có một thử nghiệm rằng đời sống con người là những biểu lộ độ rung, tức là những tầng sóng rung động. Không có một loại vật lý nào trên hành tinh nầy mà không biểu lộ đời sống của nó bằng sự rung động. Và có những truyền thống tâm linh cho rằng sự có mặt con người là do kết tinh từ âm thanh, có truyền thống thì cho rằng bằng ánh sáng. Điều nầy, nếu có điều kiện đi sâu vào lãnh vực khoa học vật lý thì chúng ta thấy có phần đúng của nó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thông thường chúng ta cảm thông với nhau qua khả năng diễn đạt ngôn ngữ, nhưng ngôn ngữ là một dạng sóng âm thanh có biên độ rung ở tầng thô. Âm thanh của ngôn ngữ là đặc trưng của sự tiếp xúc, trao đổi, cảm thông và truyền đạt ý tưởng trên hành tinh chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Tiếp xúc sâu hơn là tiếp xúc của ánh sáng. Thưa ánh sáng làm sao tiếp xúc? Ánh sáng không đi theo đường thẳng như chúng ta nghĩ mà đi theo đường cong. Và trong thế giới vật lý chúng ta thì mọi vật chất đều do năng lượng cô đặc lại, và khi vật chất tan lỗng ra thì thành năng lượng. Vì thế không có một hiện tượng nào trên thế gian nầy không đi theo qui trình đó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có những bậc thầy bên ngoài dáng vẻ rất bình thường, không có gì khác biệt, ăn nói cũng không hay ho gì tức cả hai điều cạn của vật lý thô là thân và tầng âm thanh ngôn ngữ đều không có gì để ta khi tiếp xúc cảm nhận, gây ấn tượng. Thế nhưng bên trong họ có năng lượng của tâm, tâm từ rất lớn tự nhiên đó là một loại ánh sáng vô hình tác động lên thân tâm. Nếu chúng ta có dịp tiếp xúc, sống gần tự nhiên tâm thức mình bị đánh động và chuyển hóa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong đời sống thường nếu chúng ta khéo tu tập, chuyển từ bên trong tâm mình có được năng lượng lành, năng lượng giác ngộ tức khắc chúng ta tạo được môi trường lành thiện chung quanh. Chúng ta vẫn sống bình thường không có gì thay đổi nhưng khả năng rất lớn có thể giúp được người mà không cần phải nói nhiều.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong khả năng giáo hóa của người tu, thân giáo cực kỳ quan trọng, mà thân giáo tác động ảnh hưởng lớn đến tâm thức chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta khi làm đệ tử của một vị thầy nếu vụng về thì mình chỉ tiếp xúc ở mức độ cạn hình hài, hơn một chút là âm thanh từ ngôn ngữ ông diễn đạt. Nhưng nếu tâm thức được đẩy lên một tầng cao hơn thì ta tiếp xúc được với ánh sáng giác ngộ từ trong trái tim vị thầy tỏa ra.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thông thường chúng ta chỉ tiếp xúc với các Thầy ở mức độ rất cạn, mà cạn chừng nào thì phù du chừng ấy, dễ chán chừng ấy. Và trong đời người nếu chỉ đến với nhau, cảm thông với nhau qua tầng cạn của vật lý thì rất mong manh, không vững bền. Qua tầng ngôn ngữ tuy cao hơn nhưng nếu tiếp xúc được tầng thâm sâu của tâm thức nhau thì điều nầy mang đến lợi lạc và hạnh phúc vô cùng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, chúng ta vừa đi ngang qua những tầng cao thấp để tự mình có thể chọn cho mình cách tiếp xúc thông minh làm thăng hoa trong đời sống tu tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][bubble] Ngày xưa, Đức Thế Tôn sau ba tháng giáo hóa ở cung trời Đao lợi, khi Ngài sắp về lại nhân gian. Bấy giờ Tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc muốn đón Thế Tôn nhưng nghĩ vì pháp chế Bát Kỉnh Pháp các Cô phải đứng sau quí thầy thiệt thòi quá nên lần nầy mình phải đứng trước để đón Phật, và Cô xử dụng thần thông hiện làm vua trời lên đứng chen lẫn vào các vị Thiên đảnh lễ Đức Phật. (Liên Hoa Sắc Tỳ kheo Ni thần thông đệ nhất không thua gì Ngài Mục Kiền Liên). Đức Thế Tôn thấy liền bảo: “Nầy, Liên Hoa Sắc con không được đứng trước đại Tăng, con tưởng con đứng như vậy là đón Như Lai trước? Tu Bồ Đề đã đón ta trước con rồi.” Liên Hoa Sắc rất ngạc nhiên thưa: “Tu Bồ Đề còn đang tọa thiền ở trong rừng mà.” Đức Thế Tôn nói: “Nhưng Tu Bồ Đề đã ở trong định đón ta.”[/bubble][/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi kể câu chuyện trên để chia xẻ cùng các vị là khi chúng ta tiếp xúc ở mức độ cạn thì vẫn còn hạn chế, tiếp xúc ở mức độ trung bình tuy có gần hơn với Đạo nhưng vẫn chưa. Người tu chúng ta phải làm thế nào đẩy tâm thức lên một tầng cao hơn nữa tức là tâm thức phải tương ưng với Đạo. Có như vậy chúng ta mới xứng đáng là con của Đức Thế Tôn, nếu không chúng ta chỉ là tôi tớ của Ngài theo đuôi làm kẻ ăn xin. Yêu cầu của Đức Thế Tôn không phải như vậy, Ngài muốn chúng ta là những người con xứng đứng kế thừa gia nghiệp của Ngài, lãnh phần trân bảo Giác ngộ của Ngài.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]3. Hãy thực tập để chứng nghiệm Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bây giờ chúng ta trở lại đoạn đầu của chương Kinh ba mươi bảy: “Phật tử ly ngô số thiên lý, ức niệm ngô giới, tất đắc đạo quả” Ba chữ “Đắc đạo quả.” cuối câu rất mạnh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Phật dạy những người tu chúng ta dù có xa Phật ngoài ngàn dặm nhưng luôn nhớ nghĩ, thực tập, hành trì giáo pháp của Ngài dạy chắc chắn chứng được đạo quả, chứng được Niết Bàn.” Chúng ta ở cạnh bên Ngài, sáng, trưa, chiều, tối tuy gần bên Ngài nhưng không thực tập những lời Ngài dạy, không quay lại chính mình để chuyển hóa, gột rửa thân tâm thì cuối cùng cũng không chứng được Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Câu Kinh chủ yếu là yêu cầu chúng ta tu tập để chứng nhập Niết Bàn hiện tiền.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta may mắn làm con của Phật, dù là con trai hay con gái chúng ta phải làm một việc quan trọng là tu tập được cho chính bản thân mình. Đó là món quà rất lớn để ban tặng niềm vui, hạnh phúc cho mình cũng là ban tặng cho mọi loài trên trần gian nầy. Nói cho người ta nghe, mình muốn người nầy tu, kẻ khác tu khó hơn là chúng ta tự tu. Dễ dàng nhất và cao quí nhất là tự mình tu. Tự mình tu là đã cúng dường Tam Bảo rồi, tự mình tu là món quà rất làm lớn cho Phật pháp trường tồn, là món quà đẹp và ý nghĩa nhất cho gia đình, người thân, cho bạn bè. Thưa điều nầy chúng ta làm được trong tầm tay vì đời mình do mình làm chủ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật đã từng nói: “Như Lai không phải là hình thể ngũ uẩn, các ông đừng tìm Như Lai qua sự biểu hiện của ngũ uẩn.” Thế nên quí vị muốn thực sự thân cận bên Phật thì hãy làm người nhận ra được Đạo, thể nghiệm được Đạo. Tôi lập lại như vậy để lưu ý quí vị; khi muốn gần Phật không cần phải gần hình hài của Ngài, không cần phải là sinh cùng thời với Ngài mà gần Phật là chúng ta phải từ giáo pháp trong trái tim của Ngài đưa nó vào trong trái tim mình để sống.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta hành trì, giữ gìn thế nào để trong cách hành xử, nói cười, đi đứng... đều biểu lộ một đời sống thấm nhuần giáo lý của Đức Thế Tôn ra bên ngoài. Đó mới chỉ là mức độ cạn, thâm sâu hơn là làm cho chính mình trở thành Phật, làm cho nguồn tuệ giác tuôn trào là điều quan trọng đúng với ý nghĩa là thân cận Phật và để tự hào là con Phật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, người ta thường chia nghệ thuật sống ra làm ba tầng:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thứ nhất là có khả năng thưởng lãm cái đẹp, cảm nhận được cái đẹp của tạo hóa, đất trời. Thứ hai là chúng ta tiếp xúc thẳng với người sinh ra cái đẹp. Nhưng vẫn chưa đủ, bước vào tầng thứ ba chúng ta phải chính là người sản sinh ra cái đẹp, tuôn chảy ra tất cả cái đẹp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tu tập giáo lý của Đức Phật cũng như thế.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta tu là từ tầng cạn lặn vào chiều thâm sâu. Có nghĩa bước đầu chúng ta tiếp xúc với giáo lý, bước thứ hai đem giáo lý của Đức Phật vào trái tim của mình, bước cuối cùng lúc bấy giờ giáo lý đã thành máu thịt, xương tủy của mình, thành chính bản thân mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và chúng ta có thể tiếp xúc với Đức Thế Tôn qua những câu thơ rất hay của Ngài Huyền Giác tôi xin đọc ra đây:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thường độc hành, thường độc bộ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đạt giả thường du Niết Bàn lộ,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điệu cổ thần thanh phong tự cao[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Mạo tụy cốt can nhân bất cố.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trúc Thiên dịch:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thường một mình, thường tản bộ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đạt giả lại qua Niết bàn lộ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điệu xưa thần nhẹ dáng thanh thanh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Xương cứng thân gầy ai chiếu cố?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dĩ nhiên người thấu đạt được đạo là những người đi trên con đường Niết Bàn. Dù đi một mình, dù ngồi một mình, hay sống giữa ngàn vạn người cũng vậy. Phong cách thần thái người ấy thanh thản biểu lộ được phẩm chất cao quí. Dáng dấp không sang trọng nhưng khí phách hiên ngang vượt lên trên thế nhân.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta nếu nhận biết được con đường đạo thì sự thực tập của chúng ta rất dễ, vì năng lực liễu tri (thường biết) của chúng ta luôn hiện tiền. Sự nhận biết ai cũng có và đó là điều tự nhiên. Chúng ta an trú được trong năng lượng nhận biết tỉnh sáng tức đang an trụ trong Niết Bàn, lúc bấy giờ chúng ta không phải là người theo chân Phật nữa mà tự thân đã tỏa ngát hương đức hạnh, xứng với tên gọi Trưởng tử đức Như lai.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hình hài chúng ta là loại vật chất thô, vui buồn cảm thọ là một loại mịn hơn. Ngôn ngữ là một loại sóng âm thanh cũng thuộc loại thô và ý thức thì thầm là một loại sóng âm thanh cực mịn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ý thức của ta thì thầm làm một dòng âm thanh có biên độ rung của sóng, mà những vui buồn là những cực âm thanh nổi gợn lên trên dòng nhạc ý thức của chúng ta. Tất cả những điều đó là pháp hữu vi sinh diệt, thô và mịn mà thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sâu hơn ở phần tinh thần mà chúng ta có thể thực tập được là dùng năng lượng sự nhận biết. Đó là một loại ánh sáng. Nếu ánh sáng của vật lý bên ngoài có tốc độ hai trăm tám mươi nghìn dặm một giây thì ánh sáng tâm thức của chúng ta nó lớn và nhanh không còn thời lượng. Những gì mà vượt qua ngưỡng cửa tốc độ ánh sáng thì nó vượt thời gian, nên khi chúng ta an trú trong vùng trời nhận biết của tự tánh hẳn nhiên vượt cả không gian, thời gian và như thế tức không sinh không diệt, vượt được tầng sinh diệt hữu vi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta thực tập giỏi, luôn sống trong ánh sáng nhận biết; bấy giờ là ta đang an trú trong ánh sáng của tâm Phật bất động rạng ngời tỏa chiếu của chính mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta tu vụng về thì làm tôi tớ cho Đức Thế Tôn. Tuy nhiên với tâm
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]hồn chân chất tu tập vẫn đáng kính quí hơn biết bao lần so với những đệ tử lanh lợi, thông minh theo kiểu đem Thế Tôn để mua danh, bán lợi. Chúng ta đem Ngài ra bán đấu giá để kiếm tiền xây chùa, xây Tháp, đem bán Ngài để kiếm tiền xài.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đệ tử Đức Thế Tôn giỏi tu và thương Đạo chắc sẽ không làm như vậy. Có lẽ đây là hiện tình chung của sinh hoạt Phật giáo rất nhiều nơi trên hành tinh nầy. Xin các vị đừng làm người lanh lợi. Hãy làm người thật thà, thâm nhập vào lời dạy của Đức Thế Tôn, dâng hết trái tim mình cho Đạo. Hãy lấy những lời Ngài dạy để làm giàu cho đời sống bên trong của chính mình. Giỏi hơn nữa thì ta là người đoạn sạch lậu hoặc hiện đời, thể nghiệm được Đạo, chứng nghiệm Niết Bàn hiện tiền.[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_2/Than_Can_Ben_Phat.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" width="425" height="100"></embed></center>
 

Hý Luận

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 10 2011
Bài viết
98
Điểm tương tác
20
Điểm
8
<center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XXXVIII[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]NGƯỜI HIỂU ĐẠO
HT.Thượng Phước Hạ Tịnh
[/FONT]</center> [FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người Hiểu Đạo là chủ đề của chương ba mươi tám nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật vấn Sa Môn: “Nhân mạng tại kỷ gian? Đối viết: Sổ nhật gian.” Phật ngôn: “Tử vị tri đạo.” Phục vấn nhất Sa Môn: “Nhân mạng tại kỷ gian? Đối viết: Phạn thực gian.” Phật ngôn: “Tử vị tri đạo.” Phục vấn nhất Sa Môn: “Nhân mạng tại kỷ gian? Đối viết: Hô hấp gian.” Phật ngôn: “Thiện tai. Tử tri đạo hỷ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật hỏi: “Mạng sống con người được bao lâu? Vị Sa môn đáp: “Được vài ngày.” Đức Phật dạy: “Ông chưa hiểu Đạo”. Phật hỏi vị Sa môn khác: “Mạng người sống được bao lâu?” Thầy ấy đáp: “Trong một bữa ăn.” Phật bảo: “Ông cũng chưa biết Đạo.” Đức Thế Tôn lại hỏi một vị Sa môn khác nữa giống như vậy. Thầy nầy đáp: “Mạng sống con người trong một hơi thở.” Phật nói: “Hay thay, ông mới là người hiểu Đạo.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đại ý của đoạn Kinh trên là nhận biết vô thường sống chánh niệm tỉnh giác từng hơi thở được Đức Thế Tôn cho là người hiểu Đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, để hiểu được Đạo không dễ, vì chúng ta thường có bệnh hay quên và nghĩ rằng chúng ta sống rất lâu. Do vậy, hiểu Đạo rất dễ mà cũng rất khó. Chúng ta nhận biết mình đang sống trong từng hơi thở là người hiểu Đạo, và nếu nghĩ rằng đời sống chúng ta dài hơn hơi thở là người chưa hiểu Đạo. Đó là điều rất gần mà cũng rất xa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Phát sanh tuệ giác vô thường.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta khởi phát được tuệ giác về vô thường là bước dẫn đầu vào con đường chứng quả. Trong thiền Phật giáo Nguyên Thủy thực tập khởi phát tuệ giác vô thường được gọi là chứng tầng tuệ đầu tiên. Điều đầu tiên của những người thực tập thiền là phải chứng được tầng tuệ này. Đây là tầng tuệ căn bản. Họ phân thành tầng tuệ đầu tiên là chứng nghiệm vô thường, hai là chứng nghiệm cận định và ba là chứng nghiệm được định. Do vậy, tầng tuệ đầu tiên này rất quan trọng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dĩ nhiên, hai chữ vô thường chỉ ở trên đầu lưỡi của chúng ta, nhưng ta chưa bao giờ thực sự cảm nghiệm được vô thường. Vì vậy, chứng nghiệm được vô thường không đơn giản, không phải từ nghe, từ hiểu hay suy tư mà phải được thể nghiệm bằng tự thân, bằng quán chiếu. Đôi khi chúng ta có kinh nghiệm về điều này, rồi sau đó lại quên đi thì cũng chưa thể gọi là chứng nghiệm vô thường. Ví như khi chúng ta có người thân bị bệnh mất, hoặc chính bản thân chúng ta bị bệnh rất nặng cái chết đến bên mình, mình đã chạm tay vào nó nhưng may mắn mình vượt qua được và sống lại thì những ngày kề cận cái chết là giây phút hiếm hoi để ta chứng nghiệm vô thường.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ta có thể nhìn đất trời, nhìn hình hài mình cảm nghiệm được vô thường nhưng rất nhạt nhòa. Có những trường hợp con người chìm vào nỗi bất hạnh, sắp chết nhưng hồi phục lại được. Tuy nhiên, họ không đủ duyên may gặp Phật pháp để giác ngộ nên khi sống cuộc sống mới họ bị chìm đắm, bị cuốn hút vào những lao xao, sầu khổ, lo lắng bất an. Trong trường hợp này họ đã chạm tay vào vô thường của cái chết, nhưng chưa cho họ kinh nghiệm được tầng tuệ vô thường. Đây chỉ là những biến cố đời sống tình cờ nó đến và có thể mở ra được một chút ý niệm tỉnh giác cho con người nhưng chưa phải là người chứng nghiệm tầng tuệ đầu tiên như Đức Phật dạy. Cho nên phát sanh tuệ giác vô thường không phải là dịp tình cờ đến với ta mà là công phu hành trì của sự thực tập và thiền quán.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong quá khứ, Đức Thế Tôn từng dạy cho Tỳ kheo Châu Lợi Bàn Đà chứng nghiệm được vô thường. Vị tỳ kheo này rất đần độn, học mãi một bài kệ bốn câu không thuộc, học trước quên sau. Qua nhiều năm như vậy anh của thầy là thầy Châu Lợi, đuổi về nhà. Châu Lợi Bàn Đà rất buồn đi ra ngoài rừng ngồi khóc. Lòng thì ham tu nhưng phải tội không có trí nhớ. Đức Thế Tôn thấy duyên để chứng nghiệm tuệ vô thường đã đến với Châu Lợi Bàn Đà nên dạy cho vị Tỳ Kheo chỉ một điều; Ngài đưa khăn cho ông và bảo: “Ông hãy lấy khăn này, lau tay rồi đưa lên nhìn xuyên qua ánh mặt trời. Ông chỉ làm chừng ấy việc thôi.” Châu Lợi Bàn Đà làm theo lời Đức Phật dạy, vì không cần phải học gì cả nên ông làm được. Và do vì phước của ông đã có từ rất nhiều đời nên ông giác ngộ liền: Khăn này rất trắng, mình lau xong đưa lên thấy đen. Đó là chứng nghiệm đầu tiên về sạch dơ của khăn. Khi đưa lên ánh sáng thì soi thấy rõ ràng. Ông chứng nghiệm thêm tầng tuệ chánh niệm nhận biết, và cứ thế từng lớp vô minh nghiệp thức vỡ ra, ánh sáng giác ngộ tràn về tâm ông bừng sáng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta có thể khảo chứng rất nhiều trường hợp các vị A La Hán thời Thế Tôn tại tiền chứng đạo thông qua tầng tuệ vô thường trong văn học A Hàm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dĩ nhiên đây chỉ là bước đầu rất căn bản để bước vào những tầng tuệ sâu hơn. Người tu tập truyền thống Thiền *** là phải ý thức được hơi thở đi vào, đi ra và ý thức như thế nào để bắt đầu làm thêm một việc sâu hơn là ý thức được cảm thọ vui, buồn hiện ra trong tâm thức ta, rồi nó lại ra đi. Phải nhận diện rõ như vậy và nhận diện được một cách sâu sắc là chứng nghiệm tầng tuệ vô thường đầu tiên từ thân hành, từ hơi thở đến cảm thọ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quý vị, ở cấp độ cạn chứng nghiệm được vô thường của cuộc đời cũng đã làm cho ta phát sinh tâm Bồ Đề. Và hạt giống giác ngộ này phải được nuôi từ chứng nghiệm nỗi khổ của nhân gian, của bản thân mọi sự sống. Như Đức Thế Tôn trước khi xuất gia đã nhìn thấy, đã cảm nghiệm được nỗi khổ của cuộc đời rất lớn, và từ nền tảng này Ngài phát “Đại Bi nguyện” vượt thoát.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong giáo lý đạo Phật, Tứ thánh đế Phật dạy Thánh đế đầu tiên chúng ta phải thể nghiệm là Khổ đế và trong Tam giải thoát môn quý vị phải đi ngang qua là Vô thường, Vô ngã, Niết bàn. Do vậy, từ tầng tuệ Vô thường chúng ta chứng nghiệm Vô ngã, sau đó mới thành tựu được Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu không đi vào cửa ngõ vô thường, chúng ta không thể thành tựu tuệ giác vô ngã để loại sạch hạt giống phiền não, khổ đau và chủng tử, nghiệp thức bao nhiêu đời để chứng nghiệm Niết Bàn. Bước đầu, chúng ta chưa chứng nghiệm được vô thường thì chưa thể khởi phát trong tâm thức ý niệm ham tu, không thể làm cho ý niệm tu hành vững chắc trong trái tim. Chứng nghiệm vô thường phạm vi nó rất rộng. Vô thường bên ngoài là khả năng tỉnh thức, nhận diện của mình về đời sống nhưng chưa đủ sâu. Phải chứng nghiệm vô thường trong hình hài này, những đến đi, mất còn, những suy hoại của thân, những khổ đau đày đọa của kiếp người chúng ta mới khởi phát được niềm tỉnh giác, và thắp lên ngọn lửa đam mê trong lòng để thực tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chứng nghiệm được vô thường chúng ta mới loại trừ bệnh triển hạn của ta với thời gian. Chúng ta thường có bệnh hứa hẹn ngày mai, hay hứa hẹn chút xíu nữa. Chúng ta triển hạn tháng ngày, giờ giấc thực tập. Đối với một việc nhỏ mà chúng ta hứa hẹn chút xíu nữa là chúng ta đã thối lui, ngừng lại đời tu của chính mình, kiếp sau mới bắt đầu làm lại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên trên con đường tu chúng ta lưu ý là chớ nên triển hạn thời gian mà hãy làm ngay tức khắc. Khi có yếu tố thời gian đi vào là có khả năng cho bản ngã triển khai con đường vui buồn, khổ lụy, tử sinh. Ta triển hạn thời gian, hứa hẹn đến hơi thở sau sẽ sống chánh niệm có nghĩa là ta hứa hẹn đánh mất một đời này chứ không phải chỉ mất một giờ. Và khi sự khất lần có mặt tức là chúng ta đang thả trôi cuộc sống của mình chìm nổi trong vô thường, chìm nổi trong luân hồi sáu nẻo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]2. Trú tâm tỉnh giác trong từng hơi thở.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong “Lâm gian lục của Thiền sư Huệ Hồng (1071-1128) thời Tống ghi câu chuyện của một vị Sư từ Ấn Độ sang Trung Hoa và tọa thiền trong một bọng cây. Vì cây càng ngày càng lớn nên bọng cây bị khép lại; ông chìm trong đó cho đến khi cây trở thành cổ thụ. Vào bảy trăm năm sau người ta phá rừng đem cây ra cưa thì thấy một vị sư còn nguyên vẹn với râu tóc, móng tay dài nhưng không biết làm sao đánh thức ông dậy. Một vị sư đến chỉ cách đem chuông thỉnh gần tai ông, thỉnh một hồi lâu ông mới tỉnh dậy. Hỏi ra thì được biết ông đã đến Trung Hoa vào thời tiền Tấn (351-385) của Nam Bắc triều. Sau đó ít lâu ông nhập Niết Bàn. Khi người địa phương đưa nhục thể ông thiêu xong thì thấy còn lại bộ xương dính vào nhau như vàng ròng, gõ vào tiếng kêu rất thanh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chuyện trên cho chúng ta biết về các tầng định cạn sâu của các bậc Thánh ngày xưa. Các Ngài có thể an trú trong định lâu dài hay ngắn hạn tùy sự tác ý xả định lúc đầu hoặc chờ người đánh thức.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thông thường tâm được điều phục, khi tọa thiền hơi thở càng về sau càng nhẹ, như có như không. Vì thế, các vị thiền sư khi vào định hơi thở ở mũi dừng hẳn. Thiền sử ghi đã có những trường hợp bị hiểu lầm là sư đã nhập diệt như chuyện của Ngài Vô Căn được ghi trong “Thiền thoại.” Tuy nhiên điều chúng ta chia xẻ ở đây là mọi con đường thiền tập đều đi vào bằng cửa ngõ hơi thở. Người nào nắm được hơi thở thì dễ điều phục tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, để có thể an trú tâm tỉnh giác trong từng hơi thở chúng ta thử đi qua ba tầng thực tập sau đây: thứ nhất mang tâm về đặt ngay nơi hơi thở, thứ hai là nhận biết hơi thở, và cuối cùng là nhận biết sự nhận biết hay an trú trong sự nhận biết.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Trong bài Kinh chúng ta nhận thấy Đức Thế Tôn đặt nặng trọng tâm về hơi thở. Ngài dạy cho các Tỳ kheo là phải chú tâm vào hơi thở, căn cứ trên hơi thở mà thực tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hơi thở là đặc trưng của niệm thân hành, trong mọi động tác đều đem ý thức về dừng lại trong thân nầy, dễ nhất là đem ý thức đặt vào hơi thở. Thông thường tâm chúng ta không bao giờ dừng lại, tâm chúng ta có khuynh hướng là đi tới, đi lui. Mỗi lần nó ra đi là đã tạo ra quãng cách của thời gian và không gian trong tâm thức chúng ta rồi. Tại sao như vậy? Khi một ý niệm sinh khởi nó luôn lui về quá khứ hoặc hướng đến tương lai; ấy là yếu tố thời gian đi vào. Và hai hướng đi nầy có mặt là mọi trạng thái tâm hành lo lắng, vui buồn, sầu khổ bất an... sinh khởi làm tràn đầy, chật chội tâm thức ta, ấy là yếu tố không gian có mặt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên hơi thở mà vắng ý thức, tức là không có sự nhận biết của ý thức là hơi thở không có chánh niệm. Chánh niệm đặt vào bất cứ sự vật nào là nơi đó phát sáng tuệ giác. Ví thử chúng ta đặt tay vào người thân mà không có chánh niệm là cái đặt tay ta rất hờ hững. Ngồi với người thân mà không có chánh niệm tức sự nhận biết mình không dừng lại, không có mặt ngay đây thì lúc ấy mình chỉ ngồi với cái xác mà hồn thì đang dạo chơi ở phương xa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đem tâm thức về đặt lại ngay nơi thân, làm cho tâm dừng lại nơi thân ở mức độ cạn nhất là đặt tâm vào ngay hơi thở. Chúng ta mãi là thiền sinh, là người đi học thiền mà không phải là Thiền sư vì chúng ta không thể làm được một điều là mang tâm về đặt lại trong thân bất cứ lúc nào, nơi nào.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thiền sư hay Đức Thế Tôn cũng như chúng ta, cũng sinh hoạt như chúng ta nhưng gọi là Thiền sư hay Đức Thế Tôn vì từng phút, từng giây trong đời sống tâm của các Ngài luôn ở với thân mà không chạy chơi lang thang. Chúng ta phải thực tập cho được tầng rất cạn nầy và nếu thực tập được thì mọi việc làm của quí vị đều được ý thức soi sáng. Chỉ làm được chừng nầy thôi thì quí vị đủ là người thông minh rồi, không có gì vụng về, thất thố, quên lãng trong thân hành.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, làm được những điều rất cạn là làm được những gì rất sâu, làm được những gì rất nhỏ sẽ làm nên những gì rất lớn và những gì vô hình làm thành những cái hữu hình. Muôn ngàn vị Thánh cũng từ những cái bé nhỏ mà làm thành. Thánh nhân cũng là người bình thường như chúng ta thôi, nhưng lúc nào cũng làm chủ được thân hành của họ trong từng sát na.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Chúng ta đem tâm lang thang về được lại với thân, nhưng chúng ta phải làm thế nào khi tâm thức của mình vừa phóng đi mà chúng ta nhận biết ngay, đem nó về an trú trong từng pháp mình đang sinh hoạt như đi đứng, nói cười, ăn cơm, uống nước... đồng thời chúng ta phải làm cho sự có mặt của tâm luôn nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào. Làm được điều nầy là chúng ta đã bắt đầu đi vào tầng sâu hơn trong sự thực tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Thực tập vào tầng thâm sâu hơn là ta không nhận biết hơi thở nữa mà luôn ý thức sự nhận biết. Nói cách khác là luôn an trú tâm ngay nơi sự nhận biết. Tức là nhận biết sự nhận biết cái gì. Lúc bấy giờ cái nhận biết hiện tiền rỗng lặng, tỏa chiếu bát ngát bao trùm; không phải là nhận biết đối tượng nữa (hơi thở), mà an trú ngay trong tự thân của chính nó. Ta gọi tầng nầy là tầng thâm sâu nhất trong pháp thực tập trú tâm tỉnh giác trong từng hơi thở.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]3. Nhận biết được thường trong vô thường.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều nầy có thể hơi khó hiểu và trong đạo Phật có những từ trùng lập chồng lên nhau làm cho chúng ta không thông hiểu tường tận được. Như trong văn học Kinh điển Đại thừa hay nói: những điều gì rất lớn nằm trong cái nhỏ tí và cái nhỏ tí thì bao trùm chứa đựng cái rất lớn, làm khó hiểu cho chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người tu chúng ta thực tập là khám phá cái thường trong thân vô thường và chúng ta dừng chân được trong cái thường thì mới cắt được dòng chảy khổ não tử sinh. Ví dụ trong thời gian trôi chảy vô tận nầy mà chúng ta dừng lại ngay cái điểm không trôi chảy. Dòng thời gian cuồn cuộn nhận chìm hết mọi thứ mà chúng ta dừng lại được trong sát na hiện tại thắp sáng hiện hữu, thắp sáng chánh niệm nhận biết hiện tiền là chúng ta khám phá được diện mục thường trong vô thường của đời sống sinh diệt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngay bên trong hình hài vật lý nầy vô thường thể hiện rất rõ. Thời gian qua
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]làm cho ta thay đổi, biến chúng ta từ trẻ thành già, bệnh chết... đó là vô thường của hình hài. Thế nhưng có cái thường trong hình hài vô thường nầy. Ở mức độ cạn chúng ta dễ cảm nhận nhất là cái nhìn, cái nghe, cái thấy... luôn thường có trong ta từ trẻ cho đến già không mất và nó có trong mắt, tai, mũi, lưỡi...[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sâu hơn nữa của tầng tâm thức chúng ta cũng nhận ra được những tầng thô và mịn của vô thường; là những cảm thọ vui buồn sầu khổ, là những suy nghĩ, đến đi liên tục. Nhưng có một cái không mất và luôn bất động đó là sự nhận biết của ta. Đây là chánh niệm tỉnh giác tỏa sáng nhận biết không có tiếng nói thì thầm. Nó chính là cái thường nhiên bất động, bất diệt và vô sinh. Thông minh thì chính ngay trong thân thể vật lý nầy chúng ta nhận ra những tầng sâu của thường nằm trong vô thường.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa. Càng đi vào sâu, chúng ta càng gần với Đạo. Chuyện tu hành, thực tập của chúng ta chỉ làm một điều là tìm cho ra thường trong vô thường, tìm cho ra cái không sinh diệt trong hình hài sinh diệt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta đều có ước mơ chung là cắt được khổ não của kiếp người, chấm dứt được sinh tử nối dài qua nhiều kiếp. Điều nầy không phải tìm kiếm bên ngoài mà chúng ta phải quay lại tìm ngay trong thân tâm của chính ta; nhận biết được cái thường tại bất động nơi mình, có niềm tin vững chắc và bắt đầu sống liên tục được với nó thì chúng ta chứng nghiệm được trạng thái Niết Bàn hiện đời.
[/FONT]<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_2/Nguoi_Hieu_Dao.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" width="425" height="100"></embed></center>
 

Hý Luận

Registered
Phật tử
Tham gia
3 Thg 10 2011
Bài viết
98
Điểm tương tác
20
Điểm
8
<center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XXXIX[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=+1] NHẤT VỊ PHÁP [/SIZE][/FONT]</center> [FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Giáo pháp của Đức Thế Tôn chỉ có một vị, đó là vị Giải Thoát.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ ngày xưa cho đến bây giờ đã hai mươi sáu thế kỷ, dù trải qua nhiều vùng đất khác nhau, thâm nhập vào nhiều nền văn hóa khác nhau và đệ tử của Đức Thế Tôn cũng chia ra nhiều Tông phái nhưng giáo pháp của Ngài duy nhất chỉ một vị giải thoát.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong chương Kinh ba mươi chín Đức Phật chỉ dạy một đoạn ngắn nhưng rất hay:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Học Phật đạo giả, Phật sở ngôn thuyết, giai ưng tín thuận. Thí như thực mật, trung biên giai điềm. Ngô Kinh diệc nhĩ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Người tu học Phật pháp thì những lời giáo huấn của Phật truyền đạt ta phải nên tin tưởng và thực tập. Ví như ăn mật, giữa chén mật và chung quanh chén mật đều ngọt. Lời dạy của ta, giáo pháp của ta cũng giống như vậy.” (tức là ngọt từ đầu tới cuối, từ ngoài vào trong). Nên Nhất Vị Pháp là tên của chương Kinh ba mươi chín nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đại ý chương nầy muốn nói giáo lý Đức Phật hoàn thiện tuyệt đối xứng đáng cho Chư Thiên và loài người phát khởi niềm tin bất hoại để tu học.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật được gọi là đấng cha lành của Trời, Người và các cảnh giới thấp hơn cõi người. Sự có mặt của Ngài không phải chỉ đem đến niềm vui cho loài người mà còn đem đến hạnh phúc, an lạc cho cõi Trời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đi vào nội dung của bài Kinh chúng ta có năm phần.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Giáo pháp của Đức Thế Tôn dù qua thời gian hay không gian vẫn không bị đào thải.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Giáo pháp của Đức Thế Tôn đáp ứng được tâm thức của con người mọi thời đại[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]3. Giáo pháp của Ngài chỉ có một vị giải thoát.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]4. Con đường thực tập.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]5. Phát khởi niềm tin bất hoại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]1. Tồn tại qua bao cuộc biển dâu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hiện tại trong xã hội chúng ta bạo động có mặt khắp mọi nơi trên hành tinh nầy. Thù hận, chiến tranh, hoạn họa cách đây năm mươi năm đều phát sinh từ ý thức hệ. Những xung đột, bạo lực, khủng bố hủy diệt xảy ra hiện tại là do vấn đề va chạm, tranh chấp giữa các nền văn minh, và tất cả những nền văn minh đều có gốc rễ từ tôn giáo. Cố nhiên, ở một mặt nào đó tôn giáo cũng là một trong những yếu tố rất quan trọng trong sự phát triển, đóng góp cho nền văn minh hòa bình của nhân loại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sự phát triển vượt bực về mọi lãnh vực trên thế giới đã nâng cao đời sống văn minh vật chất hiện đại, nhưng lại dễ đưa đến tình trạng khủng hoảng xã hội, khủng hoảng chính trị, kinh tế toàn cầu... và đời sống tâm linh bị tha hóa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên ngày nay đã đến lúc tâm thức con người có nhu yếu tìm về sự hòa điệu trong cuộc sống chung, tìm về hạnh phúc, tìm về an lạc. Và đạo Phật với sự góp phần của mình cho nền hòa bình, văn minh trên hành tinh nầy qua giáo lý Từ Bi của đức Phật hơn hai ngàn năm trước vẫn còn mới, vẫn không thay đổi, vẫn còn hợp với tất cả mọi thời đại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Xu thế của con người là yêu thương và muốn được sống trong yêu thương, muốn loại trừ hận thù, loại trừ niềm tin cuồng tín, và điều nầy chỉ là một mặt rất nhỏ trong kho tàng giáo điển của Phật trao cho chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đạo Phật loại trừ tính chất thần linh được đặt trên nền tảng tôn thờ, suy tôn, cuồng tín đức Giáo chủ. Người ta thường cho rằng không có tôn giáo nào “phi thần linh” như đạo Phật và chính Đức Phật từng tuyên bố Ngài chỉ là vị Thầy. Giáo lý của Ngài chỉ có công năng soi đường cho con người nương vào lời dạy của Ngài để tự thanh lọc thân tâm. Ngài cũng tuyên bố một điều rất nhân bản là mọi người đều có khả năng thành Phật. Mỗi con người đều có chất Phật bên trong nếu khéo quay về đào xới vùng tâm thức, gạn lọc những ô nhiễm thì chúng ta là Thánh thần, là Chúa của chính mình. Là Thượng Đế của chính mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều quan trọng hơn nữa là giáo lý đạo Phật dù trải qua hai mươi sáu thế kỷ nhưng chưa bao giờ lạc hậu, lỗi thời, cần phải củng cố, cần phải sửa sai, chỉnh lý. Những lời Đức Phật dạy vẫn đáp ứng được tâm thức con người qua mọi thời đại, qua mọi lãnh vực mặc cho hành tinh nầy có đưa nhân loại đến tầng cao văn minh nào đi nữa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, sự truyền bá của đạo Phật được lan rộng một cách tự nhiên, từ con đường tơ lụa băng qua sa mạc Gobi vào Trung Hoa. Và cũng từ phương Nam theo các thuyền buôn người Ấn đến Việt Nam, Thái Lan... Chúng ta thấy rõ đoạn đường dài từ Ấn Độ qua Trung Hoa đến Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật Bản và đến vùng Đông Nam Á đạo Phật chưa bao giờ làm đổ một giọt máu nào, hủy diệt một sinh linh nào cũng như chưa bao giờ phá hoại hay làm tổn thương văn hóa, môi sinh của bất cứ vùng đất nào mà Đạo Phật đặt chân đến.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi đến Trung Hoa đạo Phật mang đến cho đất nước nầy một kho tàng văn hóa thâm áo, giàu có. Khối lượng Kinh điển bát ngát được dịch ra tiếng Trung Hoa đã làm giàu cho Trung Hoa rất nhiều mặt; văn tự, chữ nghĩa, truyện ký, đạo đức, xã hội... phát triển rất lớn cho đến hiện tại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đi vào Tây Tạng cũng vậy, đạo Phật đã đóng góp, dựng nên một sắc thái đặc biệt đậm nét cho Tây Tạng. Không những niềm tin của dân bản địa không bị hủy diệt, mà đạo Phật đã đưa chánh pháp vào trong niềm tin địa phương, tô đậm thêm nét đặc thù Mật Thừa rất riêng của Phật giáo Tây Tạng ngày nay.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và khi đến với Nhật Bản, đạo Phật là quà tặng rất lớn, rất nhiều mặt cho xứ sở trải dài với ba nghìn hòn đảo lớn, nhỏ trên Thái Bình Bương.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Một điều rất đặc biệt, là từ nền tảng Từ Bi Trí Tuệ của Phật giáo nên dù hiện tại là một quốc gia tiến bộ vượt bực về kỹ thuật hiện đại trên thế giới, nhưng người dân Nhật vừa thông minh vừa có tinh thần rất từ hòa, và biết thưởng lãm cái đẹp của thiên nhiên ban tặng. Đời sống của họ cũng lao xao mua bán, kinh doanh nhưng về lại nhà, ngôi nhà họ là một vùng thiên nhiên thu nhỏ. Họ biết làm cho tâm nhẹ nhàng, dịu lại, đặc biệt là chất Thiền thấm đẫm trong từng sinh hoạt của họ. Tất cả mọi sinh hoạt dù tầm thường, nhỏ nhặt cũng trở thành một nghệ thuật sống đầy thiền vị. Tao nhã, thanh khiết trong đời sống hầu như là bản chất, và qua các bộ môn như: bắn cung, cắm hoa, uống trà, đấu kiếm... đều đậm màu Thiền của Đạo Phật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ những điều tôi chia xẻ trên chứng minh cho chúng ta thấy là khi đạo Phật thâm nhập vào vùng văn hóa nào thì làm cho nền văn hóa nơi đó được nâng cao, thăng hoa, có phẩm chất vượt trội.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta thử nhìn lại trong quá khứ từ khi đạo Phật có mặt trong xã hội Ấn Độ thì nơi đây rất nhiều tôn giáo như Kỳ Na giáo đã có từ mấy trăm năm, Bà La Môn giáo cũng có mặt trước đó. Nhưng khi đạo Phật xuất hiện, Đức Phật đã làm một cuộc chuyển hóa vĩ đại trong đời sống tâm linh con người cũng như xã hội chỉ một thời gian rất ngắn. Điều nầy chứng minh đương thời những phương pháp Ngài dạy đã giúp người chứng nghiệm an lạc từ nguồn tuệ giác thâm sâu của Ngài.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong cuộc đời của Đức Thế Tôn lúc bấy giờ Ngài đã mang hòa bình đến cho rất nhiều tiểu quốc trên lưu vực sông Hằng. Bằng tự thân giáo lý của Ngài, bằng sự hiện thân của một Tăng đoàn hòa bình và bằng những lời dạy thực tiễn đầy trí tuệ, Ngài đã giúp cho những vương quốc đương thời thiết lập được đời sống yên ổn cho dân tộc mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đặc biệt nhất là giáo lý bình đẳng của Ngài đã san bằng tính chất kỳ thị giai cấp nặng nề trong xã hội Ấn Độ. Con người sinh ra đời đều chịu cùng nỗi khổ như nhau và cùng có nhu cầu hạnh phúc như nhau. Điều nầy từ xưa chỉ có một mình Ngài đáp ứng được tâm thức con người, đến bây giờ và mãi cho đến tương lai.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, Đức Phật dạy con người hãy đứng ngay thân phận mình, tự giải quyết niềm đau, nỗi khổ của mình. Chúng ta không là gạch nối của ai cả, con người là chủ của dòng sinh mệnh mình, nắm trong tay hạnh phúc hoặc đau khổ của mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Giá trị của con người ở ngay nơi họ, trong chính đời sống họ. Sinh ra để sống cho họ, hoàn thiện tự thân họ; mà không phải được sinh ra từ ý muốn của Thần linh. Do vậy, họ có trọn vẹn chủ quyền về đời sống của chính họ. Họ không bị bắt buộc phải phục vụ thần linh và cũng không cần lệ thuộc vào tôn giáo hay một tổ chức nào.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Đức Phật đến với chúng ta để thuyết minh về sự khổ và con đường thoát khổ. Nói về nỗi khổ thì tôn giáo nào cũng đều nói đến, nhưng để dạy con đường thoát khổ thì khác biệt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có những tôn giáo người ta dạy tín đồ, đệ tử muốn thoát khổ chỉ đến gửi niềm tin của mình cho vị giáo chủ hay Thần linh và ta chỉ cần nhờ một người trung gian thay ta làm hết mọi việc. Nhưng trong đạo Phật con đường giải thoát nằm trong bàn tay chúng ta, chúng ta là chủ nhân của bản thân mình. Niềm vui, nỗi khổ là của chính chúng ta, không ai có thể gột rửa, làm mất đi dùm chúng ta được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Qua vài nét đặc thù ấy đủ chứng minh sự tồn tại của giáo pháp Đức Thế Tôn giữa dòng đời sinh diệt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]2. Giáo pháp của đức Phật đáp ứng được tâm thức con người mọi thời đại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tuệ giác của Đức Phật khám phá được chân lý tối hậu, và tất cả những điều Ngài dạy đều mang đặc tính khế cơ, khế lý và khế thời đáp ứng được tâm thức mọi người, mọi thời và mọi nơi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta có trình độ hiểu biết, khi đến với đạo Phật và thấy giá trị đạo Phật đáp ứng được nhu cầu tri thức của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu khi chúng ta có niềm tin đơn sơ, giản dị của người không tri thức thì khi đến với đạo Phật, chúng ta cũng tiếp nhận được những điều đơn giản, bình thường đạo Phật tặng cho chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu ta là một người có khuynh hướng thích suy tư, triết lý thì trong giáo lý đạo Phật có những điều Đức Thế Tôn dạy đáp ứng được nhu cầu tư duy, triết lý của ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu tâm hồn chúng ta thuần phác, muốn đi thẳng vào pháp môn thực tập thì trong kho tàng đạo Phật vẫn có những pháp môn cho chúng ta thực tập; nghĩa là đạo Phật đáp ứng được mọi căn cơ của mỗi người, trong mọi thời và từng cấp độ tri thức đều đáp ứng được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Do vậy chúng ta xác định được một điều là trong tự thân đạo Phật chỉ có một vị giải thoát. Tùy căn cơ, trình độ tri thức, từng loại chúng sanh mà tất cả đều có thể nếm hương vị giải thoát ấy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Giáo lý đạo Phật không bao giờ trái với chân lý đời thường. Nền tảng nhất của chân lý đời thường là niềm tin nhân quả. Và từ nền tảng nầy làm cho người đến với đạo Phật ban đầu làm quen với giáo lý để thực tập đều phải giữ gìn năm giới, và năm giới nầy không bao giờ lỗi thời với xã hội nào cả. Từ mức độ thấp nhất đến mức độ tri thức cao nhất, nếu chúng ta muốn đi vào để làm hạnh phúc cho chính bản thân thì chúng ta phải đi vào cửa ngõ của năm giới. Khế lý là như vậy. Nó luôn là chân lý của mọi nơi, mọi thời và đặc tính của nó đáp ứng được mọi căn cơ không bao giờ bị đào thải. Dù cho thời gian trải qua bao nhiêu thế kỷ thì những điều Đức Thế Tôn dạy vẫn thích ứng một cách linh động trên hành tinh nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]3. Giáo pháp của Đức Thế Tôn chỉ có một vị.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, Đức Thế Tôn Ngài đã từng nói: “Giáo pháp của ta hoàn thiện ở phần đầu, hoàn thiện ở phần giữa, và hoàn thiện ở phần cuối.” Câu nầy Đấng Đạo Sư đã nói trong Kinh Chuyển Pháp Luân hay Vô Ngã Tướng, và bài Kinh ba mươi chín trong Tứ Thập Nhị Chương mà chúng ta đang học đây rất giống câu tuyên ngôn đầu tiên nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cuộc đời của Đức Thế Tôn từ lúc chuyển pháp luân cho tới lúc Ngài nhập Niết Bàn lời nói của Ngài trước sau như một không hề có sự thay đổi mâu thuẫn phía trước, phía sau gì cả mà chỉ có một vị. Đó là vị Giải Thoát.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Suốt chiều dài đạo Phật tồn tại, phát triển khắp nơi, phân chia ra nhiều Tông, Phái nhưng chưa có một trường phái đạo Phật nào sinh ra từ giáo lý Ngài chống trái lại lời dạy đầy hương vị giải thoát của Ngài. Đời sống Tăng đoàn từ hai ngàn sáu trăm năm qua cho đến bây giờ mà lòng từ bi, trí tuệ, hương vị giải thoát vẫn không hề mai một, luôn gắn chặt vào từng hơi thở của các người con Phật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta đọc trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có câu chuyện Đức Phật dạy A Nan trong giờ khất thực. Một hôm gần tới giờ khất thực Đức Phật gọi: “A Nan! giờ thọ thực đã đến, ông hãy mang bát theo ta vào thành.” Ngài A Nan: “Dạ.” Khi A Nan bưng bát lên, Đức Thế Tôn dạy thêm: “Nếu ôm bát đi thì phải y nghi thức của bảy Đức Phật quá khứ” A Nan hỏi: “Bạch Đức Thế Tôn. Nghi thức của bảy Đức Phật quá khứ như thế nào?” Đức Thế Tôn nói: “A Nan.” A Nan: “Dạ.” Đức Phật dạy: “Hãy bưng bát.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đây là một đoạn khá lý thú, nó gần như một công án thiền. Chúng ta hãy đọc kỹ và chiêm nghiệm để thấy đạo lý Thiền được dấu kín nơi đây. Tuy nhiên ở mức độ cạn ta có thể hiểu rằng: đó là Đức Thế Tôn dạy A Nan pháp khất thực trong chánh niệm. Chúng ta đọc Kinh Kim Cang trong phần mở đầu có nói đến cách sinh hoạt của Đức Thế Tôn như sau: “Đức Thế Tôn tới giờ khất thực Ngài đắp y, mang bát tuần tự đi vào thôn trang, dừng lại từng nhà, thí chủ cúng dường đầy bát, Ngài ôm bát về, thọ thực xong, rửa bát, xếp y, tọa thiền.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi nhìn Đức Phật, Ngài Tu Bồ Đề đã phủ phục xuống và bạch: “Lành thay Đức Thế Tôn đã hộ niệm các vị Bồ Tát làm cho các vị Bồ Tát an trú trong tâm Bồ Đề.” Thưa quí vị, chuyện nầy rất bình thường trong sinh hoạt một ngày của Đức Phật, có gì đặc biệt trong đó mà Ngài Tu Bồ Đề nói Đức Thế Tôn khéo hộ niệm như vậy?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa, mỗi bước đi, mỗi việc làm của Phật đều an trụ trong tự tánh định tức là an trụ trong năng lực chánh niệm hiện tiền. Chúng ta dụng công tu hành mỗi ngày cũng là chỉ để làm việc nầy mà thôi. Chúng ta phải thực tập thế nào trong từng sinh hoạt, mỗi bước đi, hơi thở, việc làm luôn an trú trong vùng trời chánh niệm. Làm được điều nầy là chúng ta đang thực tập con đường ngắn nhất của Đức Phật đã dạy ngày xưa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ ngày xưa cho đến bây giờ dù cho có nhiều truyền thống thiền như Thiền ***, Thiền Thoại đầu, Thiền Mặc Chiếu... đều cũng chỉ đi một con đường chánh niệm tỉnh giác. Có thể có những sắc độ đậm nhạt khác nhau khi các dòng thiền khai triển niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhưng chưa có pháp hành nào vượt ngoài “Tứ niệm xứ” của đức Thế Tôn dạy. Thế nên chúng ta gọi giáo pháp của Đức Phật chỉ có một vị là như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]4. Ngay con đường là Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, khi chúng ta muốn đi xuống phố thì con đường từ đây đến phố đòi hỏi thời gian và xe của chúng ta phải đi ngang qua không gian mới đến phố được. Nhưng con đường tu không như thế, Đức Phật dạy là trong lúc ta có niềm tin, và ngay khi bắt đầu thực tập là tức khắc chứng nghiệm được an lạc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều nầy không phải khó cảm nghiệm. Ví như khi một niềm vui, hay nỗi bất an, sự ganh tị... có trong tâm thức, chúng ta chỉ cần nhận biết nó đang có mặt, mà ta không phải là nó. Ta là người đứng nhìn cảm thọ đến đi mà không phải là những cảm thọ đến đi đang có mặt trong tâm thức. Rõ ràng ta không phải là những đối tượng đó mà là trạng thái nhận biết, là chủ thể nhận biết. Thế thì ngay trong lúc nhận biết, ngay trong lúc thực tập chúng ta đã chứng nghiệm an tịnh Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngay trong lúc giác ngộ được một điều chúng ta không phải là những cảm thọ là chúng ta đã vượt thoát được cảm thọ. Niềm tin trong sạch bất hoại của người con Phật tức thì phát khởi mà không cần phải đi qua giai đoạn học hỏi giáo lý để hiểu, để khơi mở từ từ. Đôi lúc có những người có duyên lớn với Đạo, không học bao nhiêu nhưng người ta chứng nghiệm được ngay, nếm được hương vị Pháp và có những người ở trong cảnh đau khổ, khốn khó cùng cực người ta giác ngộ. Chúng ta là những người tu, có duyên xuất gia học đạo, chúng ta phải làm thế nào để chứng nghiệm giây phút Niết Bàn của tự tâm, từ đó chúng ta khởi niềm tin bất hoại vào Đạo Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ dễ chán, khó đi suốt đoạn đường tâm linh hoặc đi lạc vào nẻo khác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]5. Phát khởi niềm tin bất hoại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, khi đã nếm được hương vị của Pháp, chúng ta phải tạo điều kiện nuôi dưỡng chúng ta hàng ngày như một thời lễ Phật, một thời thiền tọa, đọc một trang Kinh, một đoạn Luận, một giờ thiền hành trong ngày... Và đôi lúc chúng ta phải tiếp xúc ngay trong ta những khổ đau, những bất an, xao động... Từ những tâm hành tiêu cực nầy nếu khéo thực tập thì nó chính là đối lực tích cực giúp chúng ta chiêm nghiệm đời sống vô thường để phát triển, củng cố niềm tin bất hoại. Khi đã có niềm tin vững chắc trong ta thì con đường hành trì mới mở ra. Hai điều nầy hỗ tương nhau; từ chứng nghiệm niềm vui và hiệu quả của sự thực tập đi đến sự củng cố công trình tu nầy rất là gần.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Bằng niềm đam mê thực tập rất sâu trong lòng, mình mới nếm được hương vị của pháp. Và chỉ cần không gian tâm thức hé mở một lần thì không có gì đánh đổi được con đường tu; con đường tuyệt vời nhất của chúng ta.
[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://matthuongnhindoi.net/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_2/Nhat_Vi_Phap.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" width="425" height="100"></embed></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
CHƯƠNG XL
THÂN TÂM NHẤT NHƯ

<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://matthuongnhindoi.net/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_2/Than_Tam_Nhat_Nhu.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" width="425" height="100"></embed></center>

Thưa đại chúng,
Thân Tâm Nhất Như là tên của chương Kinh bốn mươi nầy. Tôi đọc âm Hán văn để quí vị cùng nghe:

A. CHÁNH VĂN.

Phật ngôn: “Sa môn hành Đạo, vô như ma ngưu, thân tuy hành Đạo, tâm Đạo bất hành. Tâm Đạo nhược hành, hà dụng hành Đạo.”

Phật ngôn: “Sa môn hành Đạo, vô như ma ngưu, thân tuy hành Đạo, tâm Đạo bất hành. Tâm Đạo nhược hành, hà dụng hành Đạo.”

Đức Phật dạy: “Sa môn tu tập đừng như con trâu kéo xe. Thân tuy tu tập mà tâm không tu tập. Tâm nếu tu tập thì đâu cần phải thân tu tập.”

Đoạn Kinh nầy ngắn nhưng hàm ý rất sâu sắc.

Ý thứ nhất là người tu chúng ta hành đạo mà tâm không hành đạo thì cũng giống như con trâu xay lúa đi lòng vòng có nghĩa là đi không tới đâu cả. Cũng tọa thiền, cũng lạy Phật, cũng tụng Kinh... như mọi người nhưng tâm chúng ta buông lung, không có ý thức tu tập gì cả nên không chuyển hóa được tâm và an lạc giải thoát không có mặt

Ý thứ hai là nếu tâm chúng ta luôn tu tập một cách nghiêm túc thì những khổ hạnh, ép xác không còn cần thiết nữa. Tự nhiên phẩm chất an bình tịnh lạc bên trong tràn đầy tỏa hương mà không cần biểu hiện ra hình thức. Tuy nhiên quí vị phải hiểu sâu điều nầy, không phải tâm tu rồi thì hình thức không cần thiết.

B. ĐẠI Ý.

Đại ý đoạn Kinh là những đệ tử Như Lai phải sống với đạo trọn vẹn cả thân và tâm.

C. NỘI DUNG.

Chúng ta có năm vấn đề cần chia xẻ sau đây:

1. Từ nhân quả biểu hiện thân tâm.
2. Thân và tâm trong tiến trình tu.
3. Thân tâm nhất như của hành giả.
4. Sự tu tập trong tâm.
5. Con đường thực tập và chứng nghiệm thân tâm nhất như.

1.Từ nhân quả biểu hiện thân tâm.

Thưa quí vị, có hai yếu tố để nhìn vào sự liên hệ nầy.

Chúng ta đều biết là tướng từ tâm sinh, tức là từ tâm thức biểu hiện nên hình hài nầy. Đó là kết quả tất nhiên của nghiệp quá khứ. Nên điều kiện cùng hoàn cảnh sống của chúng ta cũng là những biểu hiện từ tâm thức. Tâm thức ta như thế nào thì chiêu cảm bạn bè, người thân, đời sống như thế ấy.

Ví dụ như khi tâm ta bất an, khổ đau thì biểu hiện ra bên ngoài mặt mày cau có, bồn chồn. Đức Phật đã dùng một danh từ rất dễ nhận biết là trạo cử. Đó là từ tâm lý phát ra bên ngoài hình hài. Hơn nữa nghiệp thức tự hữu của quá khứ có khả năng đẩy chúng ta rơi vào thai mẹ. Hình hài nầy được cấu tạo bởi sáu yếu tố: đất, nước, gió, lửa, không gian, tâm thức, chứ không phải chỉ có bốn Đại là địa, thủy, hỏa, phong như chúng ta thường nghe nói tới.

Hình hài chúng ta nếu chỉ có năm đại thì không thể làm thành sự sống. Nó phải có thần thức ghé vào, mà thần thức luôn đi liền với tập nghiệp đã gieo. Thế nên thân tâm là kết quả hiển nhiên của nghiệp.

Khi thần thức rời hình hài tứ đại, có hai loại nghiệp đưa con người tái sinh vào đời sống kế tiếp; một là tích tập nghiệp tức là nghiệp chúng ta huân tập cả một đời, hai là cận tử nghiệp tức là nghiệp lúc gần chết. Hai loại nghiệp nầy đẩy chúng ta đi đầu thai.

Theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng lý giải thì quá trình tái sanh của chúng ta có hai điều xẩy ra: một là: Khi vừa dứt hơi thở trong tích tắc (sát na) là thọ sanh liền. Đó là những trường hợp định nghiệp (nghiệp định sẵn; rất ác hay rất lành). Thứ hai: Bất định nghiệp, tức lành dữ can bằng hoặc chưa đủ nặng để quyết định thọ sanh thì thần thức gá vào thân trung ấm lửng lơ giữa không gian. Giai đoạn nầy rất cần sự yểm trợ của người thân.

– Từ lúc ban đầu thọ sanh hình hài nầy là do nghiệp dẫn và do nghiệp biểu hiện. Thế nên, nếu chúng ta tạo những điều lành, tâm thức được luyện lọc và có định lực chắc chắn chúng ta làm chủ được mình, muốn ghé vào nơi nào thuận duyên thì ghé. Chúng ta cũng nên biết năng lượng lành của thần thức chiêu cảm năng lượng lành của bố mẹ tương lai để mình thọ sanh. Còn năng lượng xấu ác đen tối do chính chúng ta sân si thù hận tham dục... phát ra lúc cận tử, cũng sẽ tìm vùng năng lượng đen tối khốn khổ để biểu hiện.

Cho nên từ nơi tâm thức hiện tại biểu hiện ra tướng, và nghiệp thức của chúng ta từ quá khứ cũng biểu hiện ra tướng. Do vậy khi nhìn chính mình hiện tại chúng ta biết trong quá khứ mình vụng về thế nào, hoặc khéo tu như thế nào.

Chúng ta tu tập không khéo, một đời nghiệp thức không chuyển được bao nhiêu, vì nghiệp quá khứ của chúng ta đã gây không phải dễ chuyển. Nếu đó là định nghiệp thì trong kiếp nầy chúng ta phải tu thật giỏi mới mong chuyển được nghiệp. Hãy nhìn tính cách của ta là loại tập nghiệp cạn của kiếp nầy, thế mà sửa đổi đã không dễ; huống chi những hạt giống phiền não, lo sợ, bất an, giận hờn, tham đắm...tự chiều sâu của thức tâm hẳn nhiên sẽ khó chuyển vô cùng. Nếu chúng ta không nỗ lực, thiết tha chuyện tu, cả một đời thả trôi bồng bềnh, ngày đoạn tháng qua thì nghiệp vẫn còn đeo đẳng mãi.

– Nếu ý chí ta bền vững, nguyện lực lớn và niềm thiết tha tu hành rất mạnh, thì mới mong chuyển được nghiệp của mình, chuyển được hoàn cảnh sống của mình. Có trường hợp những ông thầy Tướng số đoán rất đúng cho người thế gian nhưng đến với người tu họ đoán không đúng. Vì chỉ dựa vào nhân tướng, dịch lý, âm dương, ngũ hành họ đoán rất chuẩn mực. Nhưng đối với những người tu tâm thức đã chuyển thì họ chuyển được nghiệp của tự thân, chuyển được hoàn cảnh sống của họ. Điều nầy rất rõ ràng đối với người tâm thức đã tu tập giỏi.

Ngoài sự biểu hiện ra bên ngoài của tướng thì khả năng tâm thức còn tạo được những tướng ẩn, và điều gì làm nên ẩn tướng của con người?

Thưa, đôi lúc chúng ta thấy những con người bên ngoài nhìn rất tầm thường nhưng bên trong họ hàm chứa một loại năng lượng tích cực quí báu, chỉ có thể cảm nhận bằng trực giác mà khó diễn tả bằng lời. Cái quý đó phát sinh từ bên trong tâm thức họ. Ví dụ như có những người mình phải sống với họ rất lâu mới cảm nhận được tất cả đức hạnh tuyệt vời từ nơi họ. Có những bậc Thiện trí thức chúng ta gặp mà không biết, chúng ta phải tinh tế lắm mới nhận ra được.

2. Thân và tâm trong tiến trình tu.

– Thân tu mà tâm không tu.

Chúng ta thường có bệnh khi mới vào chùa rất hăng hái, nhưng tu càng lâu chức quyền càng lớn, địa vị càng cao thì càng buông trôi. Giữ được hình thức mà không để hết tâm vào chuyện tu. Phần lớn trong Già lam sự rơi rụng không ở trong các vị Sa di hay tân Tỳ kheo mà các thầy có địa vị cao trọng, uy tín lớn lại dễ rơi vào dòng chảy ngũ dục nhân gian. Thế nên nhiều khi sống trong Đạo lâu chúng ta càng lơ là với việc tu. Có thể thân vẫn còn tu mà tâm tu đã mất. Có thể mỗi ngày có hai buổi tọa thiền, ta đi thiền hành như bao người nhưng trong tâm chưa hề cùng làm một việc như thân, do nhiệt tình tu đã nguội. Dĩ nhiên, tập khí nghiệp thức của mình thường đi theo con đường không tỉnh thức. Chúng ta phải khéo giữ gìn, phải làm thế nào nuôi dưỡng mình, mỗi một ngày sự thiết tha tu tập mỗi lớn và nếu một ngày đi qua mà tâm chúng ta thấy hờ hững với chuyện tu, để thân tu mà tâm không chịu tu thì sự đổ vỡ đang tới. Có những đổ vỡ chúng ta không thấy vì nó ở tận bên trong. Cũng giống như chúng ta thấy có những cây cột nhà còn nguyên vẹn đứng yên như vậy nhưng mối đã ăn rỗng ruột bên trong rồi.

Trường hợp người tu chúng ta giống như thế thì hứa hẹn một ngày nào cũng mục rữa mà thôi. Tuy nhiên, vẫn còn khá hơn là tâm đã không tu mà thân cũng không tu thì đại họa cho nhân gian.

– Tâm tu mà thân không tu.

Thân không tu mà tâm tu, thưa quí vị chỉ có những vị Bồ Tát tái lai mới biểu hiện điều nầy. Các vị cũng sống đời thường như chúng ta, không thể nào biết được và họ cũng muốn dấu thân phận của mình nhưng tâm các Ngài là tâm Thánh hiện trong tướng phàm phu. Cũng có những vị Thầy rất giỏi trong nhân gian nhưng muốn ẩn mình để có thì giờ, điều kiện nuôi dưỡng năng lượng giác ngộ, nuôi dưỡng đạo tâm hoàn thành Thánh hạnh giải thoát, nên họ không ra giáo hóa và không bao giờ nói ra đạo lý. Điều đặc biệt có thể minh chứng là những con người càng giỏi trong cuộc đời thì càng ít phô trương. Như những người thực sự giàu có ít khi ai biết họ giàu vì họ không phô trương. Và thường những người trí thức thực sự họ nói rất ít, họ lặng lẽ nhiều hơn.

Từ lãnh vực rất cạn, thấp của thân phận con người nhìn đến xã hội, đến một trung tâm tu học hay một tự viện cũng giống như thế. Một trung tâm nào còn giữ được nét giản dị, đơn sơ, thanh đạm trong đời sống thì trung tâm ấy cả phẩm và lượng rất giàu có vì đã được nuôi dưỡng từ bên trong.

Một đạo tràng, hay một dòng tu nào mà hình thức bên ngoài phô trương hào nhoáng, đẹp đẽ thì xem chừng đời sống bên trong của họ đang trên đà tuột dốc, suy thoái. Thông thường sự phô trương, khoe khoang hình thức bên ngoài đem đến thiệt thòi nhiều hơn là có lợi, nó bào mòn phẩm chất tu tập mà chúng ta không thấy bởi màn vô minh phủ trùm lên tâm thức chúng ta.

Dĩ nhiên, trường hợp những phàm Tăng như chúng ta, tâm tu mà thân không tu đưa đến những điều bất lợi. Trong đời sống thông thường những Phật tử, cư sĩ hay để ý đến hình thức bên ngoài trước khi thăm dò vào nội tâm, và họ cũng đâu có thì giờ để tiếp cận nhiều mà nhìn vào nội tâm người tu chúng ta; cho nên nếu đời sống bên ngoài làm cho họ nghi ngờ tức khắc những gì tốt đẹp của chúng ta có mặt, cho dù chứng nghiệm tuệ giác thực sự đi nữa cũng đổ vỡ, họ không còn tin chúng ta nữa. Chúng ta không thể nói tu tại tâm được, không thể nói tôi tu tôi biết, hình thức không quan trọng. Chúng ta tu là phải làm hai điều nầy cùng một lúc, thân tâm phải luôn là một.

Thông thường khi nói đến tâm tu, thân không tu là chúng ta chỉ nhìn ở bình diện cạn. Cũng câu nói đó nhưng tâm thực sự có phẩm chất tu ở bình diện sâu nhất là ngộ được lý và từ chuyên môn gọi là “kiến đế.” Trong nhà Thiền gọi là người thấy được tánh: “kiến tánh khởi tu.”Ấy là trường hợp người đã đi vào được tầng thâm sâu của tâm tu thấy được tánh nên không cần hình thức nữa.

Chúng ta nhớ là sau khi thọ Tỳ kheo giới, năm năm học luật, tức là năm năm học Tỳ Ni Tạng để làm cho thân và tâm thuần nhất. Thế nên trong tất cả mọi sinh hoạt, oai nghi của một ngày chúng ta phải luôn làm chủ được mình. Tâm không được chạy ra ngoài mà luôn an trú trong thân hành và niệm tỉnh giác luôn có mặt.

Sau năm năm học như thế thì được cho đi du phương, có thể đến đạo tràng này đạo tràng khác, tham vấn cho đến bao giờ duyên đạo sáng, quay về nhận được tâm Phật của chính ta, có niềm tin vững chắc thì đó là người “thấy tánh.” Người nhận được tâm Phật rồi lúc ấy mới tìm một nơi nào đó để ẩn cư, tâm thực sự an trú trong định từng sát na không rời nên bây giờ mới không cần hình thức. Có thể người ấy sống lang thang phiêu bồng, khoác áo ăn mày vào phố thị, sống trộn lẫn trong nhân gian. Đây là những bậc đang luyện tâm, đang mài dũa tâm và họ là người thực sự nắm được tâm. Họ đã đạt đến tầng thâm sâu của người tu tâm nên không cần thiết đến hình thức nữa.

3. Thân tâm nhất như của hành giả.

Thưa quý vị, chúng ta có thể thử đi vào sự thực tập cạn của thân tâm nhất như. Kinh ghi: Bồ Tát có hạnh tu là “Anh Nhi Hạnh”. Anh nhi hạnh là hạnh bé thơ.

Khảo sát của y học hiện đại cho ta thấy giai đoạn bé thơ là giai đoạn của thân tâm nhất như. Đây là vấn đề dễ kiểm nhận.

Thưa, không có một đứa bé nào đang nằm trong nôi mà khi nghe âm thanh mặt nó không rạng rỡ, đưa một món đồ chơi đầy màu sắc mà mắt của nó không sáng bừng như một thiên thần. Nhìn nó ta thấy cả thân và tâm nó rất sống động. Nó chưa hề có sự phân mảnh của tâm thức, không hề có chuyện mắt nhìn đồ chơi mà ý nghĩ chỗ khác. Trạng thái nầy rất giống với tâm ban sơ của “Anh Nhi Hạnh”. Càng lớn lên thì quá trình phân hai của thân tâm bắt đầu có mặt. Đến già thì tâm thức của chúng ta càng đi hoang nhiều hơn lúc trẻ, và muốn giữ tâm lại với thân, điều này rất là khó. Lòng ta nếu không nhớ đến quá khứ thì cũng lo lắng chuyện tương lai, và nếu hai điều này không có mặt trong tâm thức thì ta cảm thấy trống trải, cô liêu, hoảng sợ vô cùng.

Tôi chia xẻ điều này để quý vị cảm nhận nếu không khéo, đến già chúng ta sẽ lâm vào tình trạng như vậy. Nghiệp thức đẩy chúng ta khó khống chế cho nên đời sống người tu là phải làm thế nào đi ngược dòng trở lại vào giai đoạn đầu đời như bé thơ để làm cho tâm có mặt ngay nơi thân. Tuy chúng ta tu chưa đủ giỏi, nhưng làm được tâm luôn có mặt nơi thân. Dừng tâm được ngay đây, giờ phút nầy là đủ thấy hạnh phúc nhiều gấp bội so với cuộc sống đời thường.

Điều chúng ta thử hỏi tại sao giai đoạn bé thơ tâm hồn nó thánh thiện như vậy? Đến khi lớn tâm hồn bị phân mảnh như vậy? Thưa gốc tâm hồn bị phân mảnh là do tiếng nói của tâm thức. Ý thức là gì, là tiếng nói thì thầm, ký ức là gì, cũng là tiếng nói về hình ảnh ta lưu trữ. Tất cả những gì mà ta gọi là vọng thức chẳng có gì lạ chỉ là tiếng nói thì thầm. Và tiếng nói thì thầm là nền tảng phát sinh mọi vui buồn, mọi cảm thọ và xa hơn nữa phát sinh phiền não khổ đau. Đó là hạt nhân chính dẫn chúng ta tái sinh vào ba cõi, sáu đường.

Chúng ta tu tập chánh niệm, là mời năng lượng nhận biết tỏa sáng trong khi tiếp xúc. Là chúng ta làm thế nào cho tiếng nói thì thầm trong tâm thức vắng mặt trong cái nhìn của chúng ta lúc tiếp xúc trực tiếp với sắc mầu, với âm thanh ngay sát na hiện tiền. Làm điều này được là chúng ta triệt tiêu nghiệp thức quá khứ, triệt tiêu vọng thức vừa sinh khởi. Ngay nơi đây ta triệt tiêu luôn hạt mầm của tâm thức dẫn dắt vào nỗi khổ, niềm đau. Làm được điều này là thân tâm chúng ta hợp lại làm một. Đây là bước đầu thực tập “Anh Nhi Hạnh” để đi vào trạng thái “thân tâm nhất như.”

4. Sự tu tập trong tâm.

Những bước chuẩn mực của thiền tập được đặt trên bốn pháp hành do Đức Phật chế tác cho người tu nếu không đi vào thì không thể thành công là: niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp. Tôi đoan chắc rằng chưa có một truyền thống Thiền nào từ Đạo Phật mà vượt ngoài bốn pháp hành nầy cả.

Con đường để chúng ta thực tập dễ dàng nhất là đi vào cửa ngõ niệm thân. Ngay từ ngày đầu tiên làm Sa di là chúng ta đã phải làm điều này. Trong mọi động tác của thân hành chúng ta đều dùng ý thức soi sáng, kéo tâm về lại nơi thân và con đường này đã trao ngay cho chúng ta an bình, hạnh phúc trong lúc thực tập.

Nếu không đi vào con đường này, dù chỉ ở mức độ cạn nhất, thì chúng ta không thành tựu oai nghi của người tu. Oai nghi không có thì phạm hạnh không thể phát sinh. Người tu ra đường mà lăng xăng nói cười, đi đứng không đoan nghiêm thì còn gì là phong cách của người tu nữa.

Đôi khi chúng ta rất khó chịu khi thấy các vị thầy lớn bỏ quên điều nầy. Họ nghĩ những người tu giỏi là những người tham gia vào nhiều lãnh vực này nọ và trở thành người lịch lãm trong nhân gian. Điều này không đúng. Người tu giỏi là những người vụng về giao tiếp với nhân gian, mà chỉ cần rất giỏi với chuyện niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, và niệm pháp. Chúng ta không cần lịch sự với đời, không cần thù tiếp dễ thương với Phật tử, lấy lòng Phật tử; điều đó không cần thiết. Vấn đề chính yếu của người tu là thực tập bốn pháp hành này.

Từ nền tảng của Tứ Niệm Xứ chúng ta thâm nhập vào Đạo, và có thể dùng lăng kính này rọi vào kinh điển Đại Thừa, kinh điển Nguyên Thủy thì những ẩn dụ của Đức Phật dạy hay của các bậc Thầy sẽ bừng sáng. Ta cũng có thể dùng nó rọi vào những bài pháp thoại của các vị để thấy chất tu có mặt hay không? Hay chỉ toàn là ngôn ngữ như sấm động nhưng trong đó không có thực chất. Chất tu nếu không đặt trên căn bản bốn pháp hành này để kiến tạo thì con đường truyền đạt chỉ là pháp học mà thôi. Chúng ta có thể khẳng định điều như vậy vì phẩm chất tu chưa trải nghiệm hẳn nhiên sẽ dẫn người ta đi vào mênh mông chữ nghĩa.

Tu tập, thực hành Tứ Niệm Xứ là những điều rất bình thường như ăn cơm, mặc áo, nó gắn liền với mình như hơi thở và nó là pháp hành căn bản nhất. Nếu chúng ta thực tập giỏi một trong bốn pháp thì không những làm cho phiền não, khổ đau rơi rụng mà còn đoạn đứt sinh tử luân hồi trong hiện đời. Chứng nghiệm được Niết Bàn An Lạc bằng con đường Tứ Niệm Xứ.

5. Con đường thực tập và chứng nghiệm.

Con đường thực tập để người tu kinh qua và chứng nghiệm có bốn tầng: Đem tâm về lại với thân. Làm chủ được thân. Thân chỉ là sở hữu. Sinh tử tự tại.

– Thưa quý vị từ mọi lãnh vực bên ngoài cũng như bên trong chúng ta có mặt thực sự thì mới điều động được, làm chủ được. Ví dụ chúng ta là chủ nhà mà không có mặt trong nhà thường xuyên, không có mặt thực sự trực tiếp điều động công việc trong nhà thì ngôi nhà đó là ngôi nhà hoang. Chúng ta không có mặt nơi đó thì chúng ta không có thể làm chủ được nơi đó. Và nhìn vào bản thân người tu chúng ta nếu đem tâm về được với thân thì chúng ta làm chủ thân được. Bước đầu căn bản của người tu là làm chủ được thân.

Ngày xưa Đức Thế Tôn làm được điều này phải mất sáu năm. Ngài phải có ý chí rất mạnh mới làm chủ hoàn hoàn toàn thân Ngài. Chủ động hoàn toàn thân hành của mình. Và bước đầu của sự thực tập là đem tâm hoàn toàn an trú nơi thân. Không một người tu nào mà thân tâm trạo cử.

Ở mức độ cạn trong đời sống bình thường, chưa phải là người tu giỏi nhưng có ý chí mạnh thì cũng làm chủ được thân mình. Có một lần Ngài Suzuki, trong một buổi giảng ở Hoa Kỳ, đang ngồi bất thần một làn gió phất qua những trang giấy trên bàn tung lên. Mặc dù đang chú tâm để giảng dạy Ngài vẫn đưa tay lên bắt lại được, và điều này chứng minh khi những người tu mà tâm họ an trú trong thân thì tất cả những điều nhỏ nhặt xẩy ra nơi thân cho đến bên ngoài họ đều rất tinh tường. Người ta không cần theo dõi sự tu hành của chúng ta giỏi như thế nào, họ chỉ cần nhìn những cử chỉ, hành động nơi thân là biết được người đó có đem tâm về lại với thân thành một mối hay không. Thân hành an tịnh là biểu hiệu đời sống tâm thức chúng ta điều phục được hay chưa.

Những chuyện nhiều khi rất nhỏ nhưng nói lên những điều rất lớn. Nghe một người nói một câu chúng ta biết được tâm thức của họ như thế nào. Cũng như khi nhìn việc làm rất nhỏ của họ chúng ta có thể biết được thân và tâm họ có an trú từng sát na trong chánh niệm hay không.

– Xin lưu ý quý vị bước đầu là thân và tâm phải một nơi để chúng ta bước được bước thứ hai là làm chủ được thân. Và chúng ta sẽ thấy thân chỉ là vật sở hữu của tâm, mà không phải thân là ta. Để rồi cuối cùng làm chủ được tử sinh. Tuy nhiên, dù chưa đạt được vào tầng thâm sâu nhất, Thiền nhân cũng có khả năng vận dụng dòng năng lượng tự hữu từ tâm thức để làm thư giãn thân, khắc phục được bệnh tật. Cho nên chúng ta biết có những người sống trong rừng sâu hoang dã hay trên núi cao thuốc men không có, y sĩ cũng không có, vậy mà họ lướt qua được bệnh tật, lướt qua được sự khắc nghiệt của thời tiết một cách nhẹ nhàng. Bởi họ làm được công việc ban đầu là làm chủ được thân.

– Khi thấy được thân này là sở hữu của mình tức thì bước thêm vào một tầng sâu hơn nữa là nhận biết những cảm thọ vui buồn đến đi sinh diệt bị ta nhận diện; nó cũng không phải là ta mà là sở hữu của ta. Thế thì ta là gì? Ta chính là năng lượng nhận biết lặng lẽ, tỉnh sáng, hiện tiền. Năng lượng chánh niệm tỉnh sáng và nhận biết này bất động và khi đi sâu vào tầng này thì ta có khả năng rời hình hài tứ đại, sống chết tự tại.

– Thưa đại chúng, có những thiền nhân có thể chết được theo ý muốn nhưng vì chưa loại trừ sạch lậu hoặc nghiệp thức, nên còn đoạn cuối cùng của con đường Niết Bàn nữa. Chúng ta phải thể ngộ tâm Phật bản nhiên của chính mình khi đó mới có thể đoạn tuyệt luôn hạt giống tử sinh.

Vượt qua mỗi tầng như thế, công phu thực tập hành trì của chúng ta dày bao nhiêu thì chúng ta chứng nghiệm được hạnh phúc tự thân lớn bấy nhiêu. Khi ta an trú vững chãi trong trạng thái tâm nhận biết tỉnh sáng sâu sắc, ta thấy thân chỉ là sở hữu mà không phải là ta thì những buồn vui, đau khổ, giận hờn, tuyệt vọng... có đến nhưng rất ít và ta lặng lẽ, bình thản nhìn, nó sẽ nhẹ nhàng ra đi. Thưa, càng bước vào chiều sâu tự tâm bao nhiêu thì chúng ta càng hạnh phúc bấy nhiêu.
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
Nỗi sợ tử sinh.HT_Thích Phước Tịnh

<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://matthuongnhindoi.net/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_3/Noi_Soi_Tu_Sinh_01.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" width="425" height="100"></embed></center>

Thưa đại chúng,
Hôm nay chúng ta đi vào chương bốn mươi mốt có chủ đề Nỗi Sợ Tử Sinh.

A. CHÁNH VĂN.

Phật ngôn: “Phù vi đạo giả, như ngưu phụ trọng, hành thâm nê trung. Bì cực bất cảm tả hữu cố thị. Xuất ly ứ nê, nãi khả tô tức. Sa môn đương quán tình dục, thậm ư ứ nê, trực tâm niệm Đạo, khả miễn khổ hỷ.”

Đức Phật dạy: “Người tu tập giống như con trâu kéo xe, chở rất nặng đi trong chốn bùn lầy. Cho dù mỏi mệt vô cùng cũng không dám nhìn qua hai bên. Bao giờ ra khỏi chốn bùn lầy kia mới dám nghỉ ngơi. Các vị Sa môn phải quán chiếu tình dục như bùn lầy, một lòng chuyên chú nhớ đến Đạo mới có thể vượt thoát cảnh khổ.”

B. ĐẠI Ý.

Đại ý chương bốn mươi mốt này là chúng ta hãy tỉnh giác, tinh cần luôn quán chiếu nguồn gốc và nỗi khổ tử sinh để cầu thoát sinh tử.

Trong chương Kinh này ở câu đầu Đức Phật nói ví dụ: “Như trâu kéo nặng đi qua vùng bùn lầy rất mỏi mệt cũng không nhìn ngó hai bên, khi nào ra khỏi mới dám nghỉ ngơi.” Đây là Ngài chỉ ví dụ để đưa đến câu quan trọng hơn: “Sa môn quán chiếu tình dục như bùn lầy rất đáng sợ.”

Thưa đại chúng, chúng ta đang đi trên con đường vượt thoát bùn lầy nên mắt phải nhìn thẳng tới trước. Với ý chí dũng mãnh nhìn thẳng tới trước mới mong vượt thoát nỗi khổ sinh tử, luân hồi. Nếu không thì chúng ta ghé lại bên đường ngồi chơi, rồi nằm dài ra ngủ luôn. Trên con đường dài người lữ hành chốn nhân gian làm như thế, đôi khi người tu chúng ta cũng làm như vậy. Một là chúng ta dừng lại do những phù hoa giả tạo trên con đường đi lôi mình, hai là trên đường tu khi chúng ta đạt được một chút an lạc rồi dừng lại nơi đó. Trong khi một hành giả, một Thiền nhân thực sự thì không bao giờ như vậy. Chúng ta phải thành tựu Niết Bàn chứng Phật quả chứ không an trú trong thành đạt nửa vời.

C. NỘI DUNG.

Chúng ta sẽ khai thác kỷ ba phần chính của bài Kinh: Hình ảnh, ẩn dụ của kinh điển. Sa môn quán chiếu tình dục và trực tâm niệm đạo.

1. Hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển:

Thứ nhất là hình ảnh ẩn dụ trong A Hàm. Thứ hai là hình ảnh ẩn dụ trong văn học Đại thừa, và hình ảnh ẩn dụ trong văn học Thiền.

– Đặc biệt trong kinh văn của đức Phật Ngài dẫn dụng rất nhiều ví dụ dễ hiểu, gần gũi nhân tình làm cho chủ đề trình bày rất sáng và làm tâm thức người nghe không chán. Các vị thầy lớn cũng thường đưa ra ví dụ và ẩn dụ trong Kinh văn để giải minh về đoạn đường sinh tử, nỗi nhọc nhằn, và nỗi lo sợ của chúng ta phải làm thế nào vượt thoát.

Trong chương Kinh thứ hai mươi bảy Đức Phật từng trưng ra cụ thể những ẩn dụ: khúc củi trôi sông nếu không bị tấp vào bờ, không tấp vào cồn đảo không bị chìm, không bị người ta vớt thì nhất định nó trôi ra đến biển. Và chương nầy Đức Phật ví dụ như con trâu kéo xe trở nặng đi trên con đường bùn lầy... đó là những ẩn dụ trong văn học A Hàm được tuyển dụng. Và tôi xin kể thêm một ẩn dụ nữa là có một tên tử tù bị dẫn ra pháp trường sửa soạn chém thì may mắn thay anh thoát được. Lúc đó nhà vua thả bốn con voi rượt theo. Tên tử tù chạy đến bờ giếng nắm sợi dây để nhảy qua nhưng dây quá ngắn, không đưa đủ qua bờ giếng bên kia nên đành theo dây thả người xuống dưới. Nhìn xuống thì thấy đám rồng lửa, nhìn quanh thì thấy bốn con rắn độc, nhìn lên trên thì hai con chuột trắng, đen đang gặm sợi dây anh đang nắm. May mắn thay có một bầy ong mật đi ngang qua làm rớt năm giọt mật ngay đúng môi anh. Mật ngọt quá làm anh quên hết mọi nguy hiểm, quên cái chết đang kề cận ba bên bốn phía.

Đây là một hình ảnh ẩn dụ rất hay. Chúng ta cũng đang nắm lấy sợi dây thọ mạng của mình như chàng tử tù kia. Ngày tháng đi qua gậm mòn sợi dây thọ mạng mỏng manh ta đang nắm, tứ đại trong thân bức ngặt gây nên tật bệnh đang rập rình ba bên, bốn bề. Phía dưới tam độc tham, sân, si đang phun lửa. Bất an, phiền não đốt cháy tâm can. Thân tâm và đời sống bên ngoài bên trong luôn bức bách chưa phút nào dừng. Thế mà chỉ cần năm, ba giọt mật của ngũ dục làm ta quên hết sự sống chết đang đến với ta.

Một điều để chúng ta cần lưu ý trong văn học A Hàm Đức Phật đã dùng rất nhiều ẩn dụ để răn dạy nhắc nhở, khích lệ cho chúng ta biết sợ nỗi khổ tử sinh đang rượt đuổi mình, sợ cái chết đến trong từng ngày, trong từng hơi thở như trong chương ba mươi tám Phật đã dạy: “Mạng sống của con người chỉ bằng hơi thở vào, hơi thở ra mà thôi.”

Nỗi khổ trong nhiều kiếp luân hồi rất đáng sợ, duyên đạo ta không khéo gieo, sự tu tập không giỏi thì chắc chắn chúng ta rớt lại trong ba cõi sáu đường nên trong văn học A Hàm Đức Phật nhấn mạnh về con đường nguy hiểm, đáng sợ hãi của nỗi khổ tử sinh.

– Trong văn học kinh điển Đại Thừa, Đức Phật không vận dụng đưa ra những ví dụ để đệ tử của Ngài kinh sợ tử sinh nhiều như văn học A Hàm.

Sự khác biệt giữa văn học A Hàm và văn học Đại thừa là một bên đặc biệt chú trọng người tu phải thoát khỏi con đường sinh tử, một bên nhấn mạnh phát Bồ Đề tâm hành Bồ Tát Đạo. Các vị Bồ Tát phải ngay trong cuộc đời thọ nhận sáu pháp Ba La Mật rồi lăn lộn ở cõi nhân gian giáo hóa muôn loài để thành tựu quả Phật. Chứng A La Hán, chưa phải là thành tựu cuối cùng của văn học Đại thừa muốn nói đến.

Trong văn học Niết Bàn cũng cho chúng ta biết Đức Phật dạy các thầy Tỳ kheo rằng con đường giải thoát sinh tử vẫn là con đường tạm thời chưa phải con đường viên mãn của người tu. Viên mãn của người tu là đạt đến Phật quả.

Như thế văn học Phật giáo phát triển có điều khác gì biệt với văn học Phật giáo Nguyên thủy? Thưa, họ chỉ cho chúng ta biết quả chứng của các vị Tỳ kheo ngày xưa chỉ là quả vị nửa chừng. Đoạn được kiến hoặc, tư hoặc, chứng nghiệm được Tịch diệt ở mức độ cạn chưa thực sự thành tựu bản hoài của người tu, chưa đi trọn con đường vượt thoát thân phận con người. Chúng ta phải thành tựu Phật quả mới thực sự giải thoát.

Chúng ta bước vào văn học Bát Nhã cũng nằm trong hệ Đại thừa, khai triển Như Lai Tạng và tự tánh Như Lai, cho rằng chất Phật nằm ở trong phiền não. Phiền não dày đặc bề bộn bên ngoài nhưng có Phật ở trong.

Hình ảnh ẩn dụ cho chúng ta dễ thể nhận nhất là tổ mật ong. Mật ong ngon ngọt nằm giữa, nhưng bên ngoài thì những con ong bâu quanh, đậu đen nghịt kín mít. Chúng ta chỉ thấy những con ong bao vây thật dễ sợ, nhưng thực tế bên trong đầy mật rất ngọt. Giống như phiền não, khổ đau, nghiệp chướng bao quanh rất là dày trong tâm thức con người, nhưng bên trong mỗi con người đều có vị Phật ở đó.

Một ví dụ nữa như hạt gạo thơm nàng hương chợ Đào chất vị của nó rất thơm ngon nhưng bên ngoài là lớp vỏ lúa thô cứng bao quanh và một lớp cám mỏng bám chắc khó cạo gọt. Như tự thân con người ai cũng có tâm Phật bên trong nhưng bên ngoài là lớp vô minh, ngoài lớp vô minh là phiền não, ganh tị, giận hờn, lo sợ... cũng là lớp trấu bên ngoài.

Hay tôi có thể lấy ví dụ khuôn đúc tượng bằng đất, vì chỉ có đất mới chịu nổi sức nóng hàng ngàn độ của đồng. Và khi đúc xong một tượng Phật, một cái chuông, chúng ta thấy duy nhất một khối đất đen xù xì, nhưng đập vỡ lớp đất bên ngoài tức thì một ông Phật bằng vàng hay chuông bằng vàng hiện ra. Sau đó người ta mang ra đánh bóng, hình Phật lộ ra phát quang sáng ngời, tôn trí lên bàn thờ thiên hạ ai cũng lạy.

Chính từ những ví dụ trong văn hệ Niết Bàn hay Bát Nhã cho chúng ta biết là trong bản thân chúng ta, tự trong mỗi hình hài của sinh linh nầy đều có chất Phật. Chúng ta đều có khả năng thành Phật mà cứ nghĩ mình là lớp đất sét bên ngoài tượng Phật, là vỏ lúa, là lớp cám. Không biết rằng mình chính là ông Phật bằng vàng bên trong.

– Cánh cửa của Thiền nhân.

Từ văn học Phật giáo Đại thừa, chúng ta bước vào văn học nhà Thiền sẽ thấy các vị Thiền sư rất tuyệt vời. Khi chúng ta hỏi các Ngài Phật ở đâu ông chỉ liền mà không vận dụng văn học kinh điển để ta kịp suy nghĩ, tư duy gì cả. Ông chỉ ngay cái gì là Phật đang ngự trong hình hài nầy.

Thế nên ta có thể nói văn học Thiền kế thừa được tinh thần Phật giáo Đại Thừa rất nguyên vẹn, làm cho tinh hoa Phật giáo Đại Thừa hiển lộ rạng ngời.

Ví dụ một hôm có vị Tăng đến hỏi Ngài Cảnh Thanh: “Bạch Thầy, con là kẻ mới vào tùng lâm, tu chưa được bao lâu xin Ngài từ bi mở cho con một lối vào đạo.” Ngài Cảnh Thanh bảo: “Ông có nghe mưa rơi ngoài hiên không?” “Dạ thưa có.” “Ngay chỗ đó vào, ngay chỗ đó vào.” Đó là con đường vào bằng tai.

Đi vào bằng con đường của mắt có câu chuyện như sau: Ngài Vô Nghiệp đi vào đảnh lễ Mã Tổ: “Thế nào là Phật?” Mã Tổ nói: “Cái đồ ngốc, vác Phật đi tìm Phật.” Ngài Vô Nghiệp không hiểu gì hết đảnh lễ tạ từ. Khi ra về Mã Tổ thấy thương nên tiễn ra ngoài cổng. Đang đi thì Ngài vỗ vào vai Vô Nghiệp, Vô Nghiệp quay ngó lại, ngơ ngác. “Đâu không phải là Phật đang phóng quang.” Mã Tổ nói. Ngay lúc đó Vô Nghiệp nhận ra được con đường vào bằng mắt.

Thưa quí vị, chúng ta ai cũng có sự nhận biết khi nhìn, khi thấy, khi nghe, và cái biết nầy trực tiếp. Nhưng thông thường khi nhận biết rồi chúng ta còn thêm vào nhận biết ấy những thì thầm và những thì thầm nầy kéo dài thành những phiền não, khổ đau, vui buồn của cảm thọ. Trong khi chính chúng ta chỉ là cái biết sáng rỡ, hiện tiền vô niệm và đó là Như Lai Bất Động. Nó nằm ngay trong phiền não bời bời nầy, chỉ cần quay lại nhận ra mình chính là Như Lai Bất Động, tức khắc mọi phiền não, khổ đau của trần gian rơi rụng: ngay nơi đó là đường vào. Người xưa tu, khi an trú được trong vùng đất nầy họ nói: “Nhất niệm thiên thu, thiên thu nhất niệm.” là như vậy.

Cho nên những hình ảnh ẩn dụ từ văn học A Hàm, văn học Đại thừa, văn học Thiền... tuy chia ra làm ba để giải thích nhưng không có biên giới rõ ràng cho những vấn đề khác biệt về bản chất.

Trong văn học A Hàm Đức Thế Tôn cũng chỉ dạy cho chúng ta biết quay về tự thể tâm Niết Bàn để an trụ, trong văn học Phật giáo Phát triển cũng vậy, tuy nói lên nhiều ví dụ nhưng cũng để qui chiếu lại tự tâm ta vốn là Phật đã thành, đã có từ muôn vạn kiếp. Hay dùng một từ gần nhất để diễn đạt là cái “nhận biết bất động đã có sẵn nơi anh, không phải tu rồi mới có sự nhận biết ấy.”

Dĩ nhiên, trong văn học Thiền đặc biệt các Thiền sư khai triển trực tiếp những điều nầy. Tuy có nhiều thể loại, cách thức, ngữ cú và hình ảnh khác nhau nhưng ý sâu xa nhất đều có chung con đường quay trở lại khéo nhận ra trong sinh diệt của hình hài ngũ uẩn nầy có cái không sinh diệt.

Ngoài ra văn học Thiền có thể chia ra ba tầng: tầng đầu là đi vào qua ngôn ngữ, thứ hai là con đường thực tập, thứ ba là chứng nghiệm sự nhận biết tâm Phật tự có của chúng ta.

Chúng ta vừa bước qua phần đầu của chia xẻ ngôn ngữ, văn tự. Thứ hai là con đường chúng ta thực tập cho được. Và điều khó hơn là chúng ta chứng nghiệm sự liễu ngộ.

Liễu ngộ hay thể nhận là một việc, có niềm tin là một việc nhưng làm thế nào để sống liên tục trong từng phút giây, điều nầy không đơn giản. Nhận ra đường đi chưa phải là xong, người xưa có khi ngồi rách bảy cái bồ đoàn. Chúng ta nếu tinh tấn thì công phu hàm dưỡng nhiều khi phải mất mấy chục năm. Ngài Quốc Sư Huệ Trung ngộ đạo rồi lên núi bốn mươi năm. Ngài Triệu Châu ngộ đạo rồi hành cước cho đến tám mươi tuổi.

Người xưa có câu: “Chưa ngộ đạo thì lòng khăng khăng như đưa ma mẹ, ngộ đạo rồi thì lòng cũng khăng khăng như đưa ma mẹ.” Câu ấy nói gì? Thưa, khi mới vào đạo lòng tu chúng ta thiết tha, chăm chú lo lắng như nhà có tang mẹ, và ngộ đạo rồi nắm được đường đi, lòng cũng miệt mài không lơi lỏng; ba trăm sáu mươi đốt xương của hình hài nầy mình đầu tư vào một chuyện tu mà thôi. Khi đã thảnh thơi, phàm Thánh đều rũ sạch, sinh tử đều như mộng rồi, lúc bấy giờ chúng ta mới có quyền thênh thang tự tại.

Đến lúc nầy thì sinh tử, luân hồi, lục đạo không có gì nắm được chân người tu nên có người hỏi Ngài Qui Sơn sau khi chết rồi Ngài về đâu, Ngài cười bảo: “Sau khi chết ta xuống dưới núi đầu thai làm một con trâu, hông bên tả viết bốn chữ Qui Sơn Linh Hựu lúc đó ông gọi Qui Sơn Linh Hựu hay là con trâu?”

Thưa quí vị, thường khi nghe câu hỏi của người hay chính mình đặt câu hỏi là tâm thức ta liền khởi ý suy nghĩ lung tung, vận dụng ý thức sinh diệt đoán nầy, đoán nọ. Đâu biết rằng mình đang bị người ta lừa gạt.

Vì khi chúng ta cất tiếng hỏi là đã lạc vào vùng trời của vọng thức lao xao, khởi ý phàm Thánh và ở đây khi nghe Qui Sơn trả lời thì trong chúng ta lại khởi lên hình ảnh con trâu, dòng chữ rồi tính toán phải trả lời thế nào thì ngay chính lúc đó chúng ta đã đánh mất Bất Động Trí của Như Lai.

Người tu chúng ta an trú tâm được nơi Đạo không phải là người khoác y đỏ, mặc áo lễ phục vàng, đội mũ quốc sư. Không phải đi đứng khệ nệ, cũng không phải là người ngồi thiền suốt ngày mà được đánh giá là người sống được với Đạo. Người sống được với Đạo là người từng sát na không được rời Như Lai Bất Động Trí, lúc nào cũng an trụ trong sự nhận biết vô ngôn sáng ngời, tĩnh lặng.

2. Cách ấm là mê.

Thưa đại chúng, nỗi sợ lớn nhất của đời người là chết và sống mà thông thường chúng ta không thấy đó là nỗi sợ. Chúng ta hay lo sợ về những điều vu vơ không đâu. Trong đời sống chúng ta thường có những dự tính không làm được vì không lường được cái chết, và cái chết đến rất bất ngờ vậy mà chúng ta vẫn tưởng thọ mạng mình lâu dài, bất tận.

Và hai điều cho người tu thấy rõ hơn, là chúng ta càng già năng lực càng yếu vì nghiệp thức tích tụ rất dày, nên tạo thành đời sống với nghiệp quá nặng rất khó tu tập. Vì thế phải có những bậc thầy giỏi mới có khả năng điều hợp, mới có đức độ giúp cho những người lớn tuổi chuyển hóa nghiệp thức. Những kiêu ngạo về kinh nghiệm, sự từng trải trong đời và những chứng tật rất dễ làm nên những bức xúc, khó sống hài hòa trong chúng. Đến một lúc nào đó cơ thể đã yếu, khả năng thực tập của chúng ta sút giảm, lý trí không đủ mạnh để khống chế những cơn giận phát tác mà lúc trẻ chúng ta kềm hãm được là ta cảm thấy lo sợ; sợ bệnh, sợ cô đơn và một nỗi sợ lớn dần trong ta là nỗi sợ chết.

Công phu tu tập của chúng ta đã có nay vì sức khỏe yếu kém chỉ còn một phần không như lúc còn trẻ, và con đường bệnh tật sẽ đến trong một ngày không xa, do vậy sinh tử là nỗi sợ lớn nhất ám ảnh chúng ta suốt đời. Bệnh không đáng sợ, nghèo không đáng sợ, tất cả những khó khăn của hoàn cảnh đưa đến đều không đáng sợ nhưng chết sống là nỗi sợ lớn nhất.

Chúng ta tu mà dở dở, ương ương có khi là đại họa cho nhiều kiếp. Tại sao? Nhờ sự tu hành trong kiếp nầy, kiếp sau chúng ta trở thành người có phước được ở trong điều kiện sang trọng, giàu có nên con đường vật chất phù hoa lôi kéo làm mình quên tu. Kinh văn nói: “Cách ấm là mê” có nghĩa là khi rời thân ngũ ấm để thọ nhận một thân xác mới thì thần thức chìm rất sâu trong vùng đen tối hôn mê. Chắc hẳn đây là cơ hội làm mới lại hình hài, làm mới luôn tâm thức của ta. Tuy nhiên, điều sẽ xẩy ra là ta quên đi ít nhiều nguyện lực trong quá khứ. Thế nên không khéo tu hành, hay tu mà giãi đãi thì một kiếp nầy gieo họa cho nhiều kiếp trong tương lai, mà sinh tử là điều đáng sợ nhất của một kiếp sống.
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
Nỗi sợ tử sinh.(tt) HT_Thích Phước Tịnh

<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://matthuongnhindoi.net/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_3/Noi_Soi_Tu_Sinh_02.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" width="425" height="100"></embed></center>

3. Con đường tử sinh qua cái nhìn của Đại thừa, Tiểu thừa

Thưa đại chúng, có một điều tế nhị chúng ta bàn nơi đây là cách dùng từ của chúng ta. Hai từ Đại thừa và Tiểu thừa tuy thông dụng nhưng không ổn lắm.

Thứ nhất ngầm ý khinh thường Phật giáo Nam Truyền, thứ hai là ngầm tính kiêu ngạo trong tự thân của nó gây sự chia rẽ, kỳ thị trong Phật giáo giữa Nam và Bắc ngày càng sâu hơn. Cho nên hiện tại người ta ít dùng từ Đại Thừa hay Tiểu Thừa vì đó là từ rất xúc phạm. Chúng ta nên hiểu rõ điều nầy để dùng từ cho đúng với tính cách lịch sử là Phật giáo Nguyên Thủy hay Nam Tông, hầu lấy đi sự phân hóa không cần thiết.

Đối với cái nhìn của các thầy lớn truyền thống Bắc Tông, thì tâm thức kỳ thị và xem thường Phật giáo Nguyên Thủy còn rất nặng. Tất cả các Kinh điển của Đức Thế Tôn được kiết tập trong văn học A Hàm ngày xưa họ đều xem là kinh Tiểu Thừa. Điều nầy rất là lầm lẫn. Trong khi đó Kinh văn A Hàm là nền tảng cho văn học Phật giáo Phát triển và Đại thừa. Thứ nữa, năng lực đóng góp thực sự của Phật giáo Nguyên Thủy hiện tại vô cùng to lớn. Ngay trên đất Mỹ đã có nhiều trung tâm dạy Thiền Vipssana rất thành công. Khả năng đóng góp của Phật giáo Nguyên Thủy rất lớn chứ không như chúng ta tưởng. Và với tâm thức ảnh hưởng nặng nề văn học Hán tạng Trung Hoa cho nên chúng ta bài bác, xem nhẹ Truyền Thống Nguyên Thủy. Điều nầy đem đến sự phân hóa, kỳ thị trong tâm thức người Việt rất phi lý và không có trí tuệ.

Chúng ta có thể đi vào nhiều truyền thống tâm linh, và với tâm ham tu gặp chùa nào cũng ghé nhưng rất tội nghiệp cho chúng ta là Chùa và Phật giống nhau nhưng không phải nơi nào cũng có chánh pháp. Cơ duyên gặp Đạo rất hiếm, và cơ duyên gặp được chánh pháp cũng không dễ. Nếu không có duyên lành đôi khi vào chùa, chúng ta lại chạy lạc vào nẻo lợi danh hướng ngoại, chạy vào nẻo học thuật, chạy trên văn tự chữ nghĩa nuôi lớn bản ngã và lòng kiêu ngạo hay tự hào.

Con đường quay trở về để nhận được gì là Phật nơi chính mình, là tâm Bồ Đề chân chánh nơi chính mình không dễ tìm. Tâm thức chúng ta đổi thay liên tục, nay thương, mai ghét nên khi may mắn gặp được chánh pháp khởi phát ý muốn tu hành, nhiệt tình tu tập đang lên, chúng ta hãy lợi dụng từng giờ của cuộc sống đừng để một đời trôi qua hoang phí.

Trong đoạn Kinh nầy có câu: “Sa môn đương quán tình dục, thậm ư ứ nê”. Đức Thế Tôn đưa ra hình ảnh con trâu kéo xe đi qua vũng bùn lầy không dám dừng lại vì dừng lại sẽ bị lún sâu không có cách gì vượt được để ví người tu chúng ta cũng như thế.

Người thọ giới Pháp của Phật thành Sa môn thì hãy nhìn ái dục nguy hiểm giống như vũng bùn lầy xe mình phải vượt qua. Công phu tu tập của chúng ta phải thẳng một đường, tâm Bồ Đề luôn kiên cố, vững bền không được rời một phút giây nào cả thì mới có khả năng vượt thoát tử sinh. Tâm chúng ta không vững thì đường tu chúng ta không đi trọn và đau lòng nhất cho người tu chúng ta là bị gãy đổ ở tuổi lớn, gãy lúc ta đã có danh vọng lớn, lúc có thể cống hiến nhiều nhất cho Đạo. Điều nầy thật ra dễ hiểu vì danh đưa đến lợi, và khi lợi có mặt sẽ dẫn theo nhiều sự thối đọa khác. Và không khéo tu càng có danh thì càng có điều kiện tha hóa. Chúng ta cần lưu ý.

Mũi nhọn đánh phá người tu rơi rụng nhiều nhất là ái dục nhân gian. Tiền và danh vướng vào có thể cứu vãn được. Nhưng khi vướng vào ái dục thì uy tín không còn để làm đạo, đức hạnh không còn để nhiếp chúng. Công phu tu dù có dày bao nhiêu, tài ba hay giỏi bao nhiêu nhưng vướng vào con đường nầy thì mất luôn một đời không đứng lên được. Vì thế Đức Phật dùng ví dụ nầy để nói lên khó khăn của người tu khi gặp phải vấn đề nầy. Khó khăn thứ hai là làm thế nào chúng ta giữ được Đạo, làm cho tâm Bồ Đề luôn sáng rỡ tròn đầy.

Kinh văn A Hàm Đức Thế Tôn dạy cho các vị Tỳ kheo quán chiếu nỗi khổ sinh tử, và làm thế nào trong một đời vượt thoát. Với câu kinh “Độc cư thiền tịnh”, các thầy miệt mài trong công phu tu tập cho đến khi thành tựu Niết Bàn mới thở phào nhẹ nhõm. Các Ngài thường tuyên bố: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc đáng làm đã làm không còn trở lại hình hài nầy nữa.” Và các Ngài an nhiên nhập Niết Bàn.

Tuy nhiên, văn học Phật giáo Phát triển với những ẩn dụ trong Kinh điển cho chúng ta thấy rõ một điều là các vị Bồ Tát chẳng những không kinh sợ sinh tử mà còn tái sinh hà sa kiếp trong cõi tử sinh. Tại sao?

Thưa, nguyên nhân đầu là các Ngài quan niệm trong hình hài của mỗi loại sinh linh đều có sẵn tâm Phật chiếu sáng. Có thể người kia bị chìm nổi trong luân hồi, lục đạo cũng giống như tượng Phật bằng vàng dù ném vào chốn bùn lầy, chôn dưới đất nhưng chất vàng bên trong vẫn là vàng, không có điều gì làm cho ô uế, làm mất phẩm chất vàng bên trong của tượng Phật được. Chỉ vì mỗi sinh linh còn nổi chìm trong vô minh, sinh tử nên chưa nhận ra được tâm Phật của chính mình. Rồi sẽ có lúc trong họ bừng sáng đời sống tâm linh, tự nhiên mở được con đường đi vào cõi Niết Bàn. Cho nên đối với văn học Phật giáo Bắc Truyền các Ngài xem nhẹ sinh tử, xem sinh tử như một trò chơi

Thứ hai, “Tâm, Phật, chúng sanh tam vô sai biệt.” Tâm, Phật, chúng sanh chỉ là một. Thành tựu viên mãn quả Phật tự thân là thành tựu Phật quả cho chúng sanh.

Thứ ba, ta và người cùng pháp tánh uyên nguyên vô sinh bất diệt như nhau. Do vậy một niệm phát Bồ Đề tâm là chấn động mười phương hư không. Bồ Tát khởi Đại Bi tâm vận vô duyên từ lăn lộn trong ba cõi sáu đường, sinh tử xuống lên để độ sinh là lẽ tự nhiên thôi.

4. Thiền sư nhìn cuộc tử sinh.

Như quí vị đã biết văn học Thiền Tông là một nền văn học được kết hợp từ văn học Nguyên Thủy và văn học Phát triển. Nó là tinh hoa của đạo Phật Trung Hoa, được phối ngẫu từ một nền văn hóa có bề dày bốn ngàn năm đã làm nên phẩm chất Thiền Tông Trung Quốc có sức hấp dẫn rất lớn cho Phật giáo thế giới. Gia tài Thiền Tông đồ sộ được hình thành và phát triển từ hai truyền thống Phật giáo Nam và Bắc nên dòng chảy của nó rất mênh mông.

Do vậy những ẩn dụ và hình ảnh nỗi sợ sinh tử trong Thiền Tông sẽ được giải minh từ truyện ký nhà Thiền. Chúng ta có thể phân biệt hai điều có mặt trong gia tài Thiền là sợ sinh tử và không sợ sinh tử.

Có những vị Thiền sư khắc trên trán một chữ Tử để hứa với lòng trong một đời phải giải quyết xong chuyện tử sinh.

Thiền sử kể chuyện một vị Thầy đưa cho đệ tử một trái bầu đầy nước bỏ muối vào xong bảo đệ tử làm cho tan. Người đệ tử loay hoay không biết làm sao cho muối tan được. Vị thầy bảo: “Con đổ nước ra cho nó lưng bớt đi một chút để có thể quậy được, cầm lắc được thì muối mới tan.”

Trong lãnh vực tu hành cũng vậy, căng thẳng không phải là điều tốt để tiến đạo và sự nôn nóng cũng vậy; nôn nóng không bao giờ thành công, nhất là muốn cắt đứt dòng sinh tử trong một đời. Người tu giỏi là người biết thực tập thong thả, từ từ không chạy nước rút. Sợ sinh tử là tự nhiên, nhưng không phải là kinh hoảng, vội vàng.

Những người tu chúng ta ít có ai mà không sợ sinh tử nhưng có những vị thiền sư không sợ sinh tử. Họ là những người có duyên may lớn gặp được vị Thầy chỉ cho cách tu tập, mở ra con mắt pháp; đó là kiến tánh khởi tu và không sợ sinh tử. Kiến tánh là quay lại nhận ra được thể không sinh, không diệt, nhận ra được tâm Phật của chính mình. Khởi tu là đã lên đường trôi vào biển giải thoát. Khi chúng ta nhận ra được điều nầy, có niềm tin thật vững chắc thì chúng ta là người tu rất thảnh thơi, thong dong không còn sợ tử sinh.

Chỉ một lần bước vào cửa thôi thì mọi việc đổi thay! Bước vào được thì người xưa bảo “Bước qua khỏi cửa mới gọi là nam tử hán.” Khi chưa vào được cửa nhà Thiền tức chưa nhận ra bộ mặt thật của chính mình thì chúng ta vẫn còn là người sợ tử sinh.

Thưa quí vị, trong tinh thần Bồ Tát thì các Ngài không sợ tử sinh, các Ngài luôn giữ lại một chút mê lầm làm hạt nhân để có cơ hội trở lại cõi đời độ sinh gọi là “lưu hoặc nhuận sanh.” Trong Kinh Duy Ma Cật nói câu nầy: “Bồ Tát lưu hoặc nhuận sanh.” Vị Bồ Tát đoạn hết mê lầm phiền não trần sa và vô minh hoặc thì chứng quả Niết Bàn như con diều đứt dây, không còn dính một chút gì đến trần thế nữa thì không còn trở lại. Vì vậy Bồ Tát thường lưu lại một chút mê lầm, một chút ái kiến để trở lại nhân gian. Đây là hình ảnh rất đẹp của Bồ tát hạnh, cũng là phong cách của các Thiền sư sau khi triệt ngộ cất bước vào đời độ sinh, như làm cuộc rong chơi cợt cười cùng sinh tử.

5. Sa môn quán chiếu tình dục.

Chúng ta hãy đọc lại đoạn sau của bài Kinh bốn mươi mốt. Phật dạy: “Các vị Sa môn phải quán chiếu tình dục như bùn lầy, một lòng chuyên chú nhớ đến Đạo mới có thể vượt thoát cảnh khổ.”

Ở mức độ thường trong tâm thức người tu chúng ta rất sợ tình dục, sợ ái dục. Điều nầy trong truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy chúng ta thấy rất nhiều. Có một lần A Nan hỏi Đức Thế Tôn là: “Con phải làm thế nào để tiếp xúc với người khác giới.” Đức Thế Tôn bảo: “Đừng tiếp xúc với họ.” A Nan thưa thêm: “Phải tiếp xúc với họ thì sao?” “Thì đừng nói chuyện với họ.” “Phải nói chuyện với họ thì sao?” “Thì đừng cười với họ.” Ngài đã trả lời một tràng dài khuyến tấn các tỳ kheo phải cẩn trọng khi đối diện với người khác phái. Điều nầy nói lên nỗi sợ tiếp xúc phát sinh những ái nhiễm tình cảm là nỗi sợ ngàn đời của thế giới người tu.

Nếu chúng ta dùng lăng kính tâm lý mà nhìn về vấn đề nầy thì thưa các vị tại sao chúng ta sợ? Có một điều rất ngược là khi càng sợ, và nỗi sợ càng lớn thì người ta càng tò mò, càng khát khao về vấn đề đó lớn bấy nhiêu. Cho nên khống chế không phải là vấn đề an toàn đối với người tu chúng ta. Sợ sệt, trấn áp biểu lộ một tâm thức bất an, xung động. Trong khi đó chúng ta sinh hoạt một cách bình thường, tiếp xử một cách thản nhiên thì vấn đề khó khăn không phát sinh, vướng mắc không phát sinh. Trái lại nếu chúng ta đề kháng thì nó có tác dụng trái ngược. Ví dụ khi thấy một Thầy và một Cô thân nhau, đồng cảm với nhau thì ta gọi là vướng mắc. Thực sự thì chưa có gì để gọi là vướng mắc, nhưng khi biết bao con mắt đổ dồn vào, buộc tội vướng mắc, cảnh báo đối tượng ấy phải xa lánh, đề phòng là tự nhiên tạo ấn tượng để họ có cơ hội trở thành vướng mắc thiệt.

Có những môi trường sống cho thấy rõ ràng khoảng cách giữa Tăng đoàn nam và nữ, nên sự vướng mắc giữa hai phái khó phát sinh, nhưng đôi khi có tình trạng vướng mắc giữa người đồng tính. Chúng ta đều biết dù tu nhưng chúng ta cũng có bạn tu thân hay không thân với nhau. Khi mà cùng một cung điệu tâm hồn, một cảm nhận, hiểu biết tương đồng thì chúng ta mới có thể nói chuyện với nhau nhiều được và thân nhau rất dễ. Thân nhau đâu phải là vướng mắc. Đời sống chúng ta nếu luôn sống trong đề phòng lo sợ, không dám kết bạn với ai, vô tình chúng ta làm đời sống mình ngày càng trở thành héo úa, lạnh lùng. Quí vị nên lưu ý điều nầy, để đừng quá khắt khe với những trường hợp các bạn đồng tu trân trọng nhau, chăm sóc nhau. Nếu mình nghĩ họ vướng mắc là đổ tội lên người khác, vô tình đẩy người ta vào ngõ cụt của đời tu.

Điều thứ hai chúng ta phải rất tinh tế nhận diện những cảm thọ, khởi ý từ tâm thức ta. Tâm thức chúng ta cực kỳ thông minh, có ngàn vạn đường để lừa gạt và biểu hiện tính chất ái dục mà mình không lường được. Ví dụ như khi có cảm tình với một người nào đó, ý thức có vô vàn cách thế để mình biểu lộ. Thế nên lòng ta phải đủ bén nhạy để nhận diện và dừng lại ngay khi niệm ái dục còn trong trứng nước. Hãy nhớ rằng chúng ta được sinh ra từ ái dục cho nên bên trong hình hài nầy, tâm thức nầy chất ái dục làm thành sự sống, làm thành chuỗi luân hồi nên sự có mặt của mỗi con người đều mang theo quá khứ rất dày của ái dục. Và bước đầu tiên trên con đường của người tu chúng ta là phải quán chiếu vấn đề nầy rất cẩn thận. Chúng ta đề phòng, cẩn trọng với ái dục nhưng không xem nó là kẻ thù phải loại trừ và hủy diệt; vì ngoài mặt tiêu cực tàn phá thân tâm, nó còn là một năng lượng có mặt tích cực vô cùng nếu chúng ta biết chuyển hóa dòng chảy ái dục vươn lên đỉnh cao đời sống tâm linh.

– Quán chiếu sự sinh khởi và tắt ngấm của tình dục.

Tình dục là một vấn đề rất nhạy cảm đối với người tu. Một người tu mà tham tiền người ta còn tha thứ được. Nhưng một người tu đôi mắt nhìn biểu lộ sự thèm khát, nhìn đâu ái tính cũng phát tiết rất mạnh thì không ai có thể tha thứ cho họ cả. Sở dĩ gọi là nhạy cảm vì người đời họ sống trong đó, nên khi ta nhìn họ mà mắt thể hiện một chút gì không trong sáng là họ biết ngay. Chúng ta có sự liên hệ với một người nào đó mà biểu lộ tình cảm, ái tính của ta thì họ biết liền. Nên điều quan trọng là người tu hãy nhận diện ái dục cho thật rõ qua hai vấn đề cực kỳ nhạy cảm nầy. Không ai biết mình bằng mình. Chúng ta khi nhìn một ai mà tâm sinh khởi ái nhiễm, người ngoài có thể đoán được do vì năng lượng ái dục bên trong ta mạnh. Nhưng khi sơ phát, lúc nó chỉ mới khởi như tia nắng ban đầu của mặt trời vừa mới ửng thì chỉ riêng mình biết mà thôi. Do vậy người tu phải quán chiếu tận gốc của ái dục hầu tịnh hóa được tâm.

Quán chiếu vấn đề tình dục, chúng ta phải quán chiếu từ căn bản của dòng chảy ý thức. Nếu đợi đến khi nó cuồn cuộn như sóng trường giang mới chận thì đã muộn. Cho nên ngay sự sinh khởi ý thức chúng ta nhận diện cho rõ thì làm cho năng lượng tình dục tiêu cực tắt ngấm không còn bóng dáng. Và ngay khi nhận diện được sự sinh khởi cũng là lúc chúng ta làm cho sóng ý niệm bốc khói bay đi.

Chúng ta nhận diện được từ gốc, từ căn bản thì chúng ta có khả năng làm Điều ngự tử, có khả năng làm người con giỏi của Đức Thế Tôn. Nếu chưa làm được điều nầy thì chúng ta chỉ là kẻ chạy theo ý thức, để nó dẫn đi đâu mình theo tới đó và chìm đắm trong sinh tử.

Thưa đại chúng, đành rằng người tu chúng ta sợ ái dục nhưng nếu đi theo con đường muốn hủy diệt, loại trừ, muốn khống chế thì không thể thành công được. Chúng ta có một cách loại trừ gốc của tình dục tuyệt vời hơn là không cần quán chiếu gì cả mà chỉ cần an trú tâm trong vùng trời nhận biết tỉnh sáng hiện tiền, tức khắc những ý niệm nầy sinh khởi bồng bềnh như mây nổi, không có gốc nên nó sẽ tự tan biến trong bầu trời tâm rỗng lặng của chúng ta.

6. Trực tâm niệm đạo.

Có hai cấp độ đi vào pháp hành “Trực tâm niệm đạo.”

Ở cấp độ cạn, khi tâm thức chưa quen an trú trong sát na hiện tiền, chúng ta cho phép mình khởi quán. Khởi quán là gì? Là vận dụng ý thức để nói thì thầm về một đối tượng mà mình muốn cắt đứt hoặc loại trừ. Tất nhiên có những thì thầm độc thoại làm sinh khởi niềm vui, nỗi buồn cùng những cảm thọ tiêu cực phá hoại đời sống ta nếu ta để mặc tình cho nó dẫn dắt. Giờ ta làm ngược lại. Ta khởi ý thức chủ động theo hướng tích cực mà mình muốn. Ngôn từ Phật học gọi là “như lý tác ý.” Tức là khởi quán theo chiều thuận với chân lý, dùng ý thức dẫn dắt cảm thọ nuôi dưỡng niềm vui, hạnh phúc, lòng vị tha, tâm yêu thương... và phát triển Bồ Đề tâm. Dĩ nhiên ở giai đoạn nầy có sự tác ý nên sẽ có người quán, pháp quán và đối tượng để quán. Ta có quyền để cho ý thức thì thầm nhưng chỉ được độc thoại và đối thoại theo chiều hướng tích cực.

Phương pháp chúng ta thực tập ban đầu là an trú tâm trong niệm lành, luôn luôn làm phát sáng tâm thức bằng hướng tích cực như vậy là trực tâm niệm đạo. Đây chỉ là mức độ cạn của trực tâm niệm đạo.

Tầng thâm sâu hơn là dừng tâm lại ngay nơi na sát na hiện tiền, lúc nào cũng đem tâm về an trú, dừng lại ngay nơi đây và giờ phút nầy làm cho sự nhận biết luôn có mặt gọi là trực tâm niệm đạo. Chúng ta phải luôn sống không hề rời sự nhận biết như cá sống trong nước, bơi lội, dạo chơi, ăn ngủ trong nước. Lúc nào cũng an trú trong sự nhận biết là đang ở trong tâm Phật chiếu sáng. Dừng tâm lại ngay nơi đây có nghĩa là dừng tâm nơi sự nhận biết sáng ngời. Nếu chúng ta làm được điều nầy thì chúng ta đâu cần khởi quán. Và ngay nơi đây, ta an trụ trong vùng trời tâm thể không sinh, không diệt thì cơ hội của những ô nhiễm ái dục làm sao có điều kiện phát sinh và chúng ta làm được vô vàn điều kỳ diệu cho Đạo.
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
Nhìn bằng đôi mắt Phật_ HT. Thích Phước Tịnh.

Đây là những câu cực kỳ hay của Kinh Bốn Mươi Hai Chương.
Thưa đại chúng,
“Nhìn Bằng Đôi Mắt Phật” là chủ đề cuối cùng của văn bản Kinh nầy.
Đức Thế Tôn dạy cho ta cái nhìn về hai lãnh vực, pháp thế gian và xuất thế gian. Nếu có được một phần của cái nhìn này thì chúng ta sẽ an lạc suốt một đời tu.

A. CHÁNH VĂN.

Phật ngôn: “Ngô thị vương hầu chi vị như quá khích trần. Thị kim ngọc chi bảo như ngõa lịch. Thị hoàn tố chi phục như tệ bạch. Thị đại thiên giới như nhất ha tử. Thị A Nậu trì thủy như đồ túc du. Thị phương tiện môn như hóa bảo tụ. Thị vô thượng thừa như mộng kim bạch. Thị Phật Đạo như nhãn tiền hoa. Thị thiền định như Tu Di trụ. Thị Niết Bàn như trú tịch ngụ. Thị đảo chánh như lục long vũ. Thị bình đẳng như Nhất chân địa. Thị hưng hóa như tứ thời mộc.”

Tôi đọc phần dịch nghĩa nói về cái nhìn của Như Lai về pháp thế gian như sau: “Ta nhìn địa vị công hầu khanh tướng như bụi bay qua khe cửa. Ta xem vàng ngọc châu báu như ngói gạch. Ta xem y phục tơ lụa như giẻ rách. Xem đại thiên thế giới như hạt cải. Xem nước A Nậu trì thủy như giọt dầu xoa chân.”

Và đây là cái nhìn về pháp xuất thế gian: “Ta xem cửa phương tiện như báu vật hóa hiện. Xem quả vô thượng như mộng thấy vàng lụa. Xem quả vị Phật như hoa đốm trước mắt. Xem thiền định như núi Tu di. Xem Niết Bàn giống như ngày đêm thức giấc. Xem phải quấy như sáu con rồng múa. Xem pháp bình đẳng như nhất chân địa. Xem sự thịnh suy như cây bốn mùa.”

B. ĐẠI Ý.

Đại ý bài nầy Đức Thế Tôn dạy chúng ta khi nhìn vạn pháp phải nhìn bằng đôi mắt Phật. Chữ vạn pháp chỉ ra hai thể loại. Một là pháp thế gian, hai là pháp xuất thế gian.

Chúng ta lưu ý sẽ thấy ở đây mười ba cái nhìn của Đức Phật, chỉ có hai câu thứ chín và mười hai là xác định còn toàn bộ đều phủ định. Trong đây có hai chữ “khích trần” là bụi bay qua khe cửa, và ví dụ nầy được đức Phật nói trong Kinh Lăng Nghiêm. Từ “đại thiên sa giới” chỉ cho số lượng hành tinh rất nhiều gồm có đại thiên, trung thiên, và tiểu thiên.

Trong Kinh Bốn Mươi Hai Chương ta thấy nhiều từ Đức Phật xử dụng có nguồn gốc từ văn học Bà La Môn (Vệ Đà) để giải thích thế giới quan, nhân sinh quan và làm cho giáo lý phù hợp với căn cơ đương đại.

“A Nậu trì thủy” trì có nghĩa là ao hồ. Hồ A Nậu là một trong những hồ lớn nhất thời đó nằm ở Nam Thiệm Bộ Châu.

“Lục long vũ”õ là sáu con rồng múa.

“Nhất chân địa” là nhất chân pháp giới. Nhất tâm pháp giới chỉ cho bản thể uyên nguyên sinh ra vạn hữu, là suối nguồn đầu tiên sinh ra không gian, thời gian cũng có nghĩa là Phật của chính mình, bản thể bất sinh bất diệt của tự tâm.

“Hưng hóa” là sự đổi thay, vươn lên.

“Tu Di sơn trụ” tên một ngọn núi được lấy trong văn học Vệ Đà. Tu Di Sơn còn có tên là Diệu Cao Sơn hay Diệu Cao Phong. Núi nầy có rất nhiều châu báu ngọc ngà...

C. NỘI DUNG.

Thưa quí vị, nội dung của đoạn kinh này chia ra ba chủ đề lớn. Thứ nhất là hai cánh cửa nghe và nhìn đối với đạo. Thứ hai là nhìn các pháp bằng mắt Phật. Thứ ba là cái nhìn của hành giả trên tiến trình tu.

1. Nghe và nhìn trong đạo.

Chúng ta có từ “Thị” ở đây có nghĩa là nhìn, là thấy. Trong đạo cũng như trong thế gian,“thị” có rất nhiều nghĩa, được dùng thay đổi tùy trường hợp, tùy hoàn cảnh. Tuy chưa phải người tu nhưng trong nhân gian cũng có cái hiểu rất linh động, chung nhất. Khi nhìn ra ngoài thì xác định là nhìn, nhưng khi để diễn tả một điều gì cảm nhận ở bên trong nhiều khi đó là nghe, là ngửi, là nhận biết, họ cũng hay sử dụng từ “thấy” chỉ cho những cảm nhận của ý thức. Do vậy, mỗi chữ không nhất định là một nghĩa như nhau.

Sau đây tôi chia xẻ những khái niệm về nghe và nhìn.

– Nhìn và nghe trong nhân gian tạo thành vạn nỗi đắng cay trong đời sống con người. Nếu khéo một chút thì từ “nghe và nhìn” này tạo cho ta hạnh phúc an lạc, nếu vụng về thì nó gieo khổ lụy cho chúng ta; và nhân gian thường nhìn, nghe bằng tri giác sai lầm. Dĩ nhiên, với người không tu tập mà nghe và nhìn sai lầm thì còn tha thứ được, nhưng nếu người tu mà có cái nhìn và nghe sai lầm thì gây đổ vỡ, chướng ngại cho việc tu trong nội bộ rất lớn.

Ở mức độ cạn nhất thì cái nhìn được biểu hiện từ bên trong tâm thức. Ví dụ nhiều khi chúng ta nghĩ luyện tập được cái nhìn qua con mắt của mình nhưng thưa rất khó, phải tập từ bên trong tâm thức. Người mà có định lực tự nhiên có cái nhìn trầm tĩnh, an định. Người có tâm hồn trong sáng thì cái nhìn tinh anh như trẻ thơ. Hai điều nghe và nhìn này có khi chúng ta luyện tập cả đời người cũng chưa thành tựu. Những người mà tâm thức xao động bất an, chắc hẳn họ không thể nào làm cho con mắt nhìn vững chãi.

Tôi muốn nói cùng quí vị về sự vụng về của người tu là đôi mắt. Người ta dễ cảm nhận nhất là đôi mắt thèm khát tiền, thèm khát tình. Hai điều này thường được biểu lộ trong ánh mắt của tâm hồn còn đầy ái nhiễm. Người có kinh nghiệm họ sẽ nhìn ra ngay.

Trong thế giới người tu hành, khi có những vướng mắc về tình cảm nhiều lúc chúng ta đổi thừa tại người ta, nhưng thực sự chính là do mình.

Ví dụ như khi có người nào thương ta, chúng ta không thể đổ thừa người đó mà nên nhận trách nhiệm về mình. Tại mình chất ái dục còn nhiều nên người ta mới thương.

Tôi có biết những vị xuất gia, Thầy rất dễ thương, xử sự rất thân tình với người nhưng chưa hề có một chuyện vướng mắc tình cảm nào phát sinh nơi ông cả. Người ta thấy nơi Thầy là cả khối tinh sạch, sáng ngời và nhìn vào Thầy người ta khởi tâm quí trọng chứ không dám thương và không dám nghĩ tới những chuyện vẩn vơ.

Chúng ta cũng vậy, nếu tâm thức sạch nghiệp ái thì như bàn tay không thương tích, chúng ta có thể nhúng nó vào trong thuốc độc mà chất độc không thấm vào da. Cho nên luyện đôi mắt làm cho cái nhìn thành “thuấn mục” có nghĩa là “rất đẹp” phải luyện từ bên trong, từ trái tim. Trái tim chúng ta sạch hết nghiệp thức ái dục thì tự nhiên cái nhìn của chúng ta rất trong và lặng. Bên trong mà có năng lượng của định thì cái nhìn của chúng ta định tĩnh. Định và Tuệ có mặt cùng lúc thì cái nhìn sẽ trong sáng đẹp đẽ. Cho nên hai cánh cửa rất quan trọng trong Kinh nói đến là “nhìn và nghe.”

2. Tập nhìn từ bên trong.

Người tu chúng ta từ hai cánh của nhìn và nghe để đi vào Đạo, cũng từ nhìn và nghe mà đi vào con đường hoằng hóa độ sinh.

Trong Kinh Lăng Nghiêm có câu: “Thử phương chân giáo thể, thanh tịnh tại âm văn, dục đắc tam ma đề, đương tùng văn trung nhập.”: Giáo lý mầu nhiệm nhất trong quốc độ này là từ nơi cái nghe làm cho thanh tịnh tâm thức. Muốn chứng đắc được chánh định thì phải từ cái nghe mà đi vào.

Thưa quí vị chúng ta biết rằng vấn đề nhìn và nghe ở thế gian đã gây ra bao nỗi khổ đau, hiểu lầm, nghi kỵ và những bất hạnh trong đời sống. Do vậy, người tu tập mà không khéo luyện được tâm thì từ cái nhìn, nghe của mình đủ tố cáo sự thất bại của đời sống tu hành.

Ở cấp độ xử thế đối nhân nếu ta là một vị Thầy có uy tín, chùa to Phật lớn nhưng cách nói năng hành xử, cách nghe nhìn của ta còn vẫn đục người có kinh nghiệm thấy ra họ đủ lánh xa. Và nếu ta khéo vận dụng thủ thuật thù tiếp lịch sự cũng có thể làm cho người ta đến với mình nhưng sẽ không bền, và sớm muộn gì cũng phát giác điều tàng ẩn ở bên trong tâm thức của ta, họ đổ vỡ niềm tin và sự nghiệp làm đạo của mình tan nát. Muốn làm đạo bền vững trong nhân gian chúng ta phải luyện từ bên trong tâm để có cái nhìn, cái nghe trở thành trong sáng thì con đường làm đạo mới vững bền được.

Ở cấp độ tu, các vị Thiền sư thường khai triển hai cửa này để đưa chúng ta vào đạo. Trong một ngày, qua sự tiếp cận với các sinh hoạt chúng ta xử dụng hai cánh cửa nghe và nhìn nhiều nhất so với các giác quan khác. Đó là hai giác quan đầu tiên của lục căn đi vào tâm thức chúng ta rất dễ, và nó cũng dẫn dắt tâm chúng ta bước lạc ra bên ngoài nhiều nhất.

Chúng ta có thói quen nghe thì bị dẫn dắt, bị đắm chìm trong tiếng, thấy thì bị dẫn dắt, chìm đắm trong sắc màu. Điều này trong Kinh Lăng Nghiêm Đức Thế Tôn đã dùng những ví dụ nghe có tiếng cùng không tiếng là chuyện bên ngoài. Điều chúng ta phải làm cho được là mời gọi tánh nghe, tánh thấy luôn có mặt. Hay nói cho dễ hiểu là ta hãy mời sự nhận biết của tâm Phật sáng chói luôn hiển hiện thì đó là chúng ta đang tu Lăng Nghiêm Tam Muội, đang an trú trong định bất động của mười phương chư Phật.

3. Mở cánh cửa vào.

Bây giờ chúng ta thử đi vào phần đầu của chương Kinh bốn mươi hai. Và chỉ cần học được vài câu trong đoạn Kinh này như: “Thị vương hầu tri vị như quá khích trần, thị kim ngọc chi bảo như ngõa lịch”, cũng đủ làm một ông Tăng, làm một Ni Cô phẩm chất cao khiết tỏa sáng và làm cho đạo pháp hưng thịnh.

Chương Kinh này rất thâm thúy, sâu sắc, quí vị học thuộc để làm cho những điều nầy trở thành tính cách của mình. Đây là nền tảng để có cái nhìn về pháp thế gian và pháp xuất thế gian.


<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_3/Nhin_Bang_Mat_Phat_01.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" width="425" height="100"></embed></center>

Thông thường chương Kinh cuối bao giờ cũng quan trọng, và trong những văn bản Kinh chương cuối mang đặc tính tổng kết của bộ Kinh.

Có hai phần quan trọng trong mỗi bộ Kinh. Phần đầu được xem như phẩm đầu mang tính cách tổng quát, giới thiệu nội dung của bộ Kinh. Phần cuối là kết thúc bộ Kinh. Những người chú giảng ngày xưa họ phân định ra đây là phần lưu thông, phần đức Phật kêu các vị Bồ Tát lại phó chúc, làm thế nào để bảo trì để phổ biến, đó là tinh thần văn học kinh.

Tuy nhiên có vài điều trong Kinh Bốn Mươi Hai Chương rất là khác biệt vì Kinh này không phải là Kinh bộ như văn học Phật giáo Nguyên Thủy hay Đại Thừa. Nên chương bốn mươi hai nầy không mang tính cách lưu thông. Đức Phật không dặn dò phải phổ biến gì cả mà nó được tổng kết cái nhìn của Đức Phật đối với vạn pháp. Do vậy, chúng ta có tên của chương kinh này là “Nhìn Bằng Đôi Mắt Phật.”

Thưa quí vị, tôi xin ôn lại chữ quan trọng của bài Kinh nầy là chữ “Thị” mà chúng ta đã chia xẻ lần trước. Thị nghĩa là xem, tuy nhiên chữ “Thị” nơi đây không phải là nhìn ở bên ngoài mà là nội quán. Là nhìn bằng con mắt quán chiếu bên trong.

Hai cánh cửa chúng ta đi vào đạo cũng như đi vào đời, đi vào Niết Bàn cũng như đi vào phiền não là “nhìn và nghe.” Chúng ta nghe như thế nào đó mà lòng đầy phiền não, và nghe như thế nào đó mà làm cho mình an lạc. Cũng như thế; nhìn mà lòng đầy phiền não, nhìn mà lòng giải thoát thảnh thơi. Tất cả cũng từ cái nghe và cái nhìn.

Trong đời sống bình thường nếu chúng ta là người có tâm hồn thoáng đãng, có trái tim đầy nhân ái thì khi mọi chuyện phiền não, khổ đau đến mình chuyển hóa rất dễ vì chúng ta nhìn bằng mắt thương yêu, nghe bằng sự cảm thông. Có những lời nói làm cho chúng ta khó chịu nhưng vì lòng từ bi nên mình là giòng suối mát ngọt tưới lên dập tắt ngọn lửa phiền não của đối tượng nói với mình, đó là cách tu cạn nhất trong đời sống.

Sâu hơn chúng ta học Phật pháp để có thể chuyển hóa tâm thức mình bằng con đường nghe, và giáo lý mầu nhiệm của Đức Thế Tôn truyền đạt tới tâm ta cũng bằng con đường nghe đi vào.

Và cấp độ cao nhất của nghe để đi vào Đạo là khi nghe nhưng không chạy ra ngoài chìm mất vào âm thanh, mà biết quay vào bên trong nhận được chúng ta có cái nghe tĩnh tại thường hằng vốn vô sinh. Từ cái nghe trở về nguồn cội của tâm, đạt đến tâm Phật của chính mình đó là tầng thâm sâu nhất.

Cái thấy cũng vậy, thông thường chúng ta thấy chỉ biết một điều là nhận ra sự có mặt của sắc màu bên ngoài, và từ cái thấy hướng ngoại như vậy chúng ta để cho ý thức bồng bềnh nổi trôi nghĩ suy. Khi ý thức mình sinh khởi, có nghĩa là tất cả vui buồn của cảm thọ sẽ phát sinh trong trái tim mình.

Nếu người tu chúng ta thông minh thì từ cái thấy mình quay về an trú tâm ngay nơi sự nhận biết lúc chưa có tiếng thì thầm độc thoại, đối thoại của ý thức sinh khởi thì gọi là người thiền tập giỏi. Cũng từ nơi đó chúng ta đột nhập thẳng vào trái tim của Đạo. Từ đó mở bung cánh cửa Thiền đi vào vùng trời tâm giải thoát của chính mình, an trú trong tâm Phật bất sinh của mình ở cấp độ cạn, cấp độ sâu đều từ con đường nầy cả.

4. Hãy nhìn vào nhân gian bằng mắt Phật.

Nhìn vào nhân gian là nhìn vào thế pháp: “Ta xem địa vị vương hầu như bụi bay qua khe hở. Ta xem vàng ngọc quý giá như ngói gạch. Ta xem y phục, tơ lụa như giẻ rách. Ta xem đại thiên thế giới như hạt cải. Ta nhìn nước hồ A Nậu như giọt dầu xoa chân.” Ba câu đầu là nhìn về nhân giới hai câu cuối là nhìn về ngoại giới.

Sang, quí là những điều mơ ước muôn thuở của con người. Khi chúng ta chưa có địa vị, chưa có danh vọng trong cuộc đời thì được nổi danh, có chức vị là một mơ ước rất lớn. Hai thứ nầy nó có sức hút rất mạnh nhưng khi đã có danh vị rồi thì vô cùng phiền não.

Chưa cần làm minh tinh màn bạc nổi tiếng, chỉ cần làm một ông thầy tu giỏi có chút danh được nhiều người thương quí, ai cũng tiếp xử đầy kính trọng thì điều đầu tiên là chúng ta không có thì giờ tu tập. Ngày nào người cũng đến thăm, hay gọi điện thoại nói mười lăm phút thôi nhưng cứ nhiều người như vậy thì đâu còn thì giờ cho ta tu.

Lúc mới vào chùa chúng ta mong được thầy thương, bạn quí nhưng nếu thầy thương quá thì cũng khổ. Lúc nào thầy cũng gọi lên trình diện thì rất khốn đốn cho mình chứ không sung sướng gì. Cho nên từ cạn vào sâu, địa vị càng cao càng làm cho mình phiền muộn trong đời sống, không có gì lý thú cả.

Có những điều vô lý và phù du trong niềm mơ ước của chúng ta. Khi chưa được thì ta ham muốn, theo đuổi miệt mài như danh vọng, địa vị, tiền của, tình yêu thương... nhưng khi đạt được rồi thì tất cả đều nhạt nhẽo, chóng tàn và trôi qua rất nhanh. Một nhà văn đã nói: “Công danh địa vị như cái niền Kim cô của Tôn Hành Giả, lúc chưa đội được thì thèm muốn, đến khi đội lên đầu xong thì nó bóp thắt lại khốn khổ đau nhức vô cùng nhưng gỡ ra không được.”

Chúng ta đi theo con đường tâm linh mà xem trọng vật chất phù hoa thì không thể tiến xa được. Không có gì kỳ cục bằng người tu mà tham tiền, thích se sua theo lối sống của thế nhân. Nếu Đức Phật không có những pháp chế cấm những điều này, thì tự nhiên phẩm chất người tu cũng bắt chúng ta xa lìa đời sống phù phiếm, giả tạm.

Có một nguyên tắc chung là những người thiên trọng đời sống vật chất thì sẽ nhẹ về đời sống tinh thần, và trình độ trí thức người ta càng lên cao thì đời sống vật chất càng nhẹ. Đó là tri thức nhân gian.

Nếu ta tu tập phát triển được tuệ giác thì những điều này không có gì quan trọng. Tuy chưa chứng nghiệm những gì sâu sắc trong đạo, chỉ cần một chút tuệ giác lập tức những thứ phù hoa nầy được xả ly rất dễ.

Những người thực tu có đời sống tâm linh cao, khi đến gần họ chúng ta thấy họ rất khiêm tốn, họ muốn dạy chúng ta điều gì có khi chúng ta không biết, họ dạy rất nhẹ nhàng, không lộ rõ cho ta thấy được trình độ hiểu biết của họ. Thánh nhân ngày xưa sống thanh đạm, giản dị như một người dốt. Trí tuệ càng cao thì ngôn ngữ của họ càng chất trực, không hoa mỹ cầu kỳ.

Ở đây câu Kinh: “Ta xem đại thiên sa giới như một hạt cải” chúng ta có thể hiểu rằng; Thành tựu tuệ giác thì chúng ta cũng có cái nhìn như Đức Phật. Dù thế giới mênh mông bao la thì cũng chỉ bé nhỏ như hạt cải và những cái lớn vô cùng nó nằm trong những cái rất nhỏ. Ngày xưa điều này cực kỳ khó hiểu, nhưng bây giờ thì người ta bắt đầu hiểu được là thế giới này đan xen trùng trùng như vậy. Nếu nhìn hạt bụi dưới kính hiển vi và khám phá rõ về nó thì chúng ta biết được rõ ràng tường tận cấu trúc của hành tinh. Nếu chúng ta biết một tế bào thật chính xác thì sẽ biết được cấu trúc của con người. Khoa học rọi ánh sáng vào giáo lý đạo Phật để thấy đạo Phật và khoa học càng ngày càng đến gần qua cái nhìn tuệ giác của Đức Phật. Nếu người ta nhìn hạt cải tường tận thì nó có mặt từ một vẫn thạch, cách nay nhiều triệu năm trước đáp xuống tinh cầu này và trong nó có chứa hà sa thế giới.

Thưa quí vị, bước đầu của người học Đạo nếu chúng ta không có con mắt nhìn về nhân thế với các tầng quán chiếu và biểu đạt như vậy thì tu càng lâu chúng ta càng dễ đi lạc. Đã có những trường hợp quí thầy càng tu càng lạc nẻo. Mới tu thì tâm Bồ Đề phát rất mạnh, niềm khao khát đến với con đường tâm linh như gió bão, nhưng tu ít lâu điều này bị bỏ quên và đi vào nẻo thành tựu tiền, thành tựu danh. Đi lạc vào nẻo này quí Thầy tự mình làm cháy mất tín tâm của mình và cũng làm cho Phật tử có niềm tin kính Tam Bảo chán nản và sợ đạo Phật. Cho nên điều này gây tai họa vô cùng cho thế giới người tu chúng ta. Chúng ta phải thực tập quán chiếu các pháp như điều Phật dạy để biết loại trừ sự hư hỏng tâm thức ngay từ gốc.
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
Nhìn bằng đôi mắt Phật .tt. HT.Thích Phước Tịnh.


<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_3/Nhin_Bang_Mat_Phat_02.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" width="350" height="80"></embed></center>




5. Thử thực tập xả ly.
Để làm được bước cạn của người tu chúng ta phải thực tập xả ly. Xả ly dễ nhất là xả ly của cải vật chất chung quanh. Điều dễ nhất này chúng ta chưa làm được thì chúng ta không thể nào xả ly được bản ngã, tình cảm và nhất là xả ly những sinh diệt tâm thức quậy phá chúng ta.


Có một lần nhà vua rước Quốc sư Huệ Trung từ núi Bạch Nhai về triều đình, nhà vua hỏi: “Thưa, bốn mươi năm trên núi Bạch nhai Ngài chứng được quả vị gì?” Huệ Trung xứng đáng là vị thầy của Hoàng Đế, ông chỉ lên trời nói: “Mây trắng trên trời do ai đóng đinh mà dính trên không gian vậy?” Nhà vua trả lời: “Không có ai đóng cả, nó tự vậy thôi.” Quốc sư nói: “Ta cũng thế, ta không có quả để chứng, ta là người bình thường, là một ông tăng trên xó núi thảnh thơi thôi, ta không bị buộc vào gì cả.”


Chúng ta thực tập xả ly ở mức độ cạn là xem nhẹ vật chất của thế gian, đi vào chùa tu chúng ta làm thêm một điều nữa là xem nhẹ địa vị lợi danh trong đạo. Chúng ta hãy sống một đời sống của ông Tăng bình thường vô danh trong chốn Già lam. Không cần gì cả. Từ chiều cạn cho đến chiều sâu tâm thức chúng ta xả ly được thì mới có thể làm đạo được, nếu không chỉ một miếng mồi bé nhỏ của trần gian cũng làm chúng ta mất Đạo. Người tu hãy nhìn vào nhân gian bằng đôi mắt Phật như thế.

6.“Ta xem cửa phương tiện như vật hóa hiện...”
Thưa đại chúng cửa phương tiện hay phương tiện môn là một trong “Thập độ” của Bồ Tát Đạo. Chúng ta đã biết sáu độ là các pháp hành của Bồ Tát, nhưng trong văn học Hoa Nghiêm ngoài sáu độ có thêm bốn độ nữa chứ không phải chỉ có sáu độ. Con đường tu của các vị Bồ Tát nhập thế là vận dụng các điều kiện của nhân gian để làm Đạo.


Ngày xưa các thầy độc cư thiền tịnh nhưng đến thời Phật giáo phát triển thì các thầy bước vào đời lập chùa độ tăng, phiên dịch kinh điển. Và nếu rộng hơn thì có thể làm ông nhà giàu, vị Quốc vương để yểm trợ đạo. Tất cả đều là cửa phương tiện. Tôi đọc lên quí vị cùng nghe những câu tán Quan Thế Âm sau đây:


Phù thử thủy dã năng phương, năng viên,
ủy khúc tùy hình...
Hạo hạo hề diệu nguyên mạc trắc.
Thao thao hề linh phái nan cùng.
Bích giản tàng long, hàn đàm tẩm nguyệt.
Hoặc tại quân vương, long bút hạ tán tác ân ba.
Hoặc tại Bồ Tát liễu chi đầu sái chi Cam Lộ.



“Nước trong bình có thể vuông, tròn tùy theo đồ chứa... Mênh mông chừ nguồn linh khôn tận. Bát ngát chừ dòng nhiệm khôn cùng. Khe biếc rồng ẩn, đầm lạnh trăng soi. Hoặc ở nơi ngọn bút đấng quân vương, ban ân trạch cho khắp thần dân. Hoặc ở đầu cành liễu đức Bồ Tát rưới Cam Lộ đến mọi miền nhân thế.”


Lời tán nầy mở ra cho ta thấy các vị Bồ Tát mở rộng cửa phương tiện trên con đường độ sinh đến vô cùng. Xử dụng mọi hình thức, mọi điều kiện thuận nghịch... để ban vui cứu khổ và kích phát Bồ Đề tâm cho tất cả loài hữu tình. Thế nhưng với Đức Phật thì “Thị phương tiện môn như hóa bảo tụ”: Ta xem cửa phương tiện như vật báu hóa hiện.


Thông thường với chúng ta thì chùa mình phải thật lớn, phải khang trang. Phật tử tín đồ phải ngày càng nhiều, giáo hội nầy là duy nhất, đạo Phật mình đang theo đây phải bất diệt... Nhưng nếu nhìn bằng con mắt Bồ Tát thì tất cả cánh cửa phương tiện này đều chỉ để làm đạo mà thôi. Và nhìn bằng con mắt Phật thì rõ ràng mọi phương tiện đều hư phù như vật báu hóa hiện, chỉ tạm hiện hữu trong phút chốc cho vui. Bản chất của nó vốn không thật.


Từ cái nhìn của Đức Thế Tôn đối với con đường độ sinh chỉ là phương tiện vì người, chúng ta hãy qui chiếu cách thức đạo Phật đến với người Tây phương để thấy bao điều cần làm mới lại.
Điều làm mới đầu tiên là nên mang tuệ giác Đạo Phật tặng cho người Tây phương mà không hề khởi ý niệm muốn họ theo Đạo Phật. Chúng ta đủ thông minh để làm thế nào lồng được giáo lý đạo Phật vào tâm thức người dân bản xứ mới quan trọng chứ không phải bằng hình thức. Và nên lưu ý khi làm đạo ở vùng đất Tây Phương nầy ta phải biết họ không mặn nồng với tôn giáo. Hình ảnh người tu đôi lúc làm họ dị ứng. Quá khứ tôn giáo của họ đã xây dựng quyền hành cho người lãnh đạo tôn giáo rất lớn và họ đã mất niềm tin với cách hành xử của người lãnh đạo tinh thần. Do vậy chúng ta phải thay đổi, làm mới sinh hoạt hình thức của tôn giáo mình để đáp ứng nhu cầu tâm thức của con người thời đại mới thì chúng ta mới làm đạo ở nơi đây được.


Tóm lại, cánh cửa phương tiện mở ra độ sinh phải linh động được xem như là của cải, vàng bạc do nhà thuật sĩ làm phép cho nó xuất hiện, nên chúng ta đừng chấp chặt vào bất cứ phương tiện nào. Người tu chúng ta nhìn vào con đường thực tập cho thật kỹ; như các pháp thiền của các dòng tu cũng chỉ là phương tiện mà không phải thực pháp. Điều quan trọng là nắm được cái hồn của sự thực tập mà mọi hình thức chỉ là phương tiện. Làm được như thế là chúng ta loại trừ được sự chấp trước vào công phu thực tập của mình. Biết nắm lấy pháp hành căn bản thực tập, mục đích làm cho tâm chúng ta an lạc nhẹ nhàng, đó là cách của người tu giỏi. Nếu để mình kẹt vào cánh cửa phương tiện, chấp chặt vào cách thực tập duy nhất thì khó cho ta vươn lên tiến đạo.

7. Nhìn các pháp xuất thế gian.
“Xem quả vô thượng như mộng thấy vàng lụa.” lời Kinh nầy cho ta cái nhìn vào pháp Vô Thượng Thừa, quả Niết Bàn hay chứng nghiệm Đạo quả nó không phải ở bên ngoài mà nó tự có sẵn trong ta. Như hạnh phúc niềm vui là ta tự có. Ví như vàng thực sự không có trong quặng thì dù cho con người có giỏi bao nhiêu, luyện lọc cách gì cũng không kiếm ra được. Cho nên không có gì bên ngoài để chúng ta chạy đi tìm cầu chứng nghiệm. Đều cần chứng nghiệm là quay về tâm thức của chúng ta, Phật pháp nằm ngay trong hình hài của chúng ta và người thực tập giỏi là người biết quay về.


Thưa đại chúng, Thiền nhân nhìn vào pháp xuất thế thì nào là cửa phương tiện độ sinh, nào là pháp Thượng thừa, nào là chúng nghiệm Phật đạo. Bằng cái nhìn thông đạt thì thấy đó chỉ là hoa đốm trước mắt. Dĩ nhiên, bước đầu ta phải thực tập quán chiếu mọi pháp thế gian đều hư ảo để chuyển hóa tâm. Chúng ta chưa có thể phát sinh trí tuệ thì hãy nương vào cái nhìn của Đức Thế Tôn dạy để có cái nhìn như Ngài, và giúp cho mình khơi mở tâm thức.


Nguồn của sự an lạc, niềm vui hoặc giải thoát, Niết Bàn cũng bắt đầu bằng sự nhận thức của chúng ta. Nhận thức chúng ta chuyển thì bên ngoài chuyển theo. Nếu mình có tâm từ thì mọi điều đến với mắt mình đều trở thành đối tượng cho chúng ta rải lòng từ. Niềm vui hạnh phúc đến từ bên trong trái tim đầy thương yêu của chúng ta. Con đường tu dù xa bao nhiêu nhưng nếu chúng ta biết chuyển hóa nhận thức của mình, chính là chúng ta đang đi vào con đường Thánh.


Chúng ta hãy đọc tiếp vào đoạn cái nhìn của Đức Phật về các pháp xuất thế gian.“Ta xem quả Vô thượng như mộng thấy vàng lụa, xem quả vị Phật như hoa đốm trước mắt, xem Thiền định như núi Tu Di, xem Niết Bàn như ngày đêm thức giấc, xem phải quấy như sáu con rồng múa, xem pháp bình đẳng như Nhất Chân địa, xem sự thịnh suy như cây bốn mùa.”


Đầu tiên Đức Phật nhìn quả vị Ngài chứng như giấc mộng thấy được vàng bạc, xem quả vị Phật Ngài đã thành tựu do trải qua hà sa kiếp tu khổ hạnh giống như hoa đốm trước mắt, và xem trạng thái Niết Bàn Ngài chứng nghiệm giống như người ta tỉnh giấc ngủ...


Ngay trong đoạn cái nhìn phủ định của Đức Thế Tôn chúng ta thấy có hai điều xác định là Ngài nhìn những pháp môn Thiền định như núi Tu Di và nhìn pháp bình đẳng như Nhất Chân Địa, nhưng Nhất Chân địa là gì? Ấy là khi tâm ta an tịnh trong trạng thái vô niệm thì đạt đến trạng thái Nhất Nhân Địa.


Thưa đại chúng, chỉ trong một đoạn ngắn đây thể hiện rõ hai đặc tính phủ định và xác định. Hãy đi vào tầng xác định ở mức độ cạn, ví dụ năm nền tảng làm thành sức mạnh cho sự thực tập Thiền quán là Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ. Chúng ta thấy trong ngũ lực thì Tín đứng đầu; do đây xác định pháp môn chắc thật và khởi phát niềm tin kiên cố để hành giả tiến trên con đường tu.


Chúng ta đến với bất cứ vị thầy nào mà niềm tin của chúng ta không đặt vào vị thầy, chúng ta không tu được. Trong tâm thức có niệm khinh thường, không nghe lời dạy, không tuân thủ thực tập, không sống hài hòa trong tập thể Già lam thì chúng ta bị loại. Cho nên niềm tin ở bước đầu rất quan trọng.


Khi đã bước được những bước dài trong đạo, đã liễu đạt tự tâm, chứng nghiệm trạng thái vô ngã thì mới nói đến phủ định pháp Niết Bàn. Nhưng trước khi phủ định con đường thực chứng, chúng ta hãy quay về nhìn vào trong; có nghĩa là ta quán chiếu mọi pháp trong nhân gian sinh diệt, vô thường đều là phù hoa bọt bóng. Tự thân ngũ uẩn nầy cũng vậy. Rồi từ pháp quán vô thường, vô ngã ta quay lại để nhận ra được tự tánh vô sinh diệt của chính mình và chứng được tự thể vô niệm. Sống được với tự thể tâm vô niệm mới hưng khởi Đại Bi Tâm để lòng thương yêu mở rộng, khi ấy mới vận vô duyên từ, bình đẳng độ sinh. Bấy giờ mắt lành nhìn vạn loại không thấy có kẻ ghét người thương, kẻ sang, người hèn, nam nữ gì cả. Hành xử như Đức Thế Tôn mỗi ban mai rải tâm từ thấm nhuần đại địa. Nếu chúng ta không an trú trong tự thể tâm vô niệm này thì trong bước độ sinh chúng ta không thể hiện được Tâm Đại Bi.


Văn học Đại thừa khai triển rằng: chứng nghiệm được “Trí bất đắc hữu vô.” Là thành tựu tuệ giác “nhất thiết pháp không” của Bát Nhã mới hưng khởi được Tâm Đại Bi.


Và sau đây là đoạn cuối của bài kệ trong Kinh Lăng Già mà tôi muốn chia xẻ:


Nhất thiết vô Niết Bàn.
Vô hữu Niết Bàn Phật.
Vô hữu Phật Niết Bàn.
Viễn ly giác sở giác.
Nhược hữu nhược vô hữu.
Thị nhất thiết câu ly.
Mâu Ni tịch tĩnh quán.
Thị tắc viễn ly sanh.
Thị danh vi bất thủ.
Kim thế hậu thế tịnh.



Tạm dịch:
Tất cả không Niết bàn.
Không Niết Bàn của Phật.
Không có Phật Niết Bàn.
Xa lìa giác sở giác.
Hoặc có hoặc không có.
Cả hai đều xa lìa.
Quán Mâu Ni tịch tĩnh.
Thế là xa lìa sanh.
Ấy gọi là chẳng thủ.
Đời nầy đời sau tịnh.



“Không có gì gọi là Niết Bàn. Không có Niết bàn Phật, Không có Đức Phật chứng nghiệm Niết Bàn.”
Phủ nhận toàn bộ, phủ nhận trạng thái Niết Bàn chứng đắc, phủ nhận luôn con người chứng nghiệm trạng thái Niết Bàn. Xa lìa cả người giác ngộ lẫn quả vị giác ngộ. Có và không cả hai đều xả ly, an trú nơi pháp quán Mâu Ni tịch tĩnh thì xa lìa được tất cả pháp sinh diệt. Đó là người không chấp thủ nơi pháp thì đời nầy, đời sau đều được an lạc.”


Đoạn kệ phủ định này trùng lập với câu Đức Thế Tôn nhìn “Pháp Vô thượng thừa như mộng, xem Phật đạo như hoa đốm, xem Niết Bàn như ngày đêm, xem pháp bình đẳng như Nhất Chân Địa.” Và chúng ta thử hỏi tại sao có phủ định như thế này?


Đức Thế Tôn cần khổ từ bao nhiêu kiếp tu Bồ Tát đạo. Ngài từng thí thân cho cọp đói, róc xương thịt trả hiếu cho mẹ cha, gieo mình trên lửa để cúng dường các vị tiên nhân... và Ngài còn nói đại địa này nếu cắm một cây kim xuống bất cứ nơi nào đều có xương thịt ta hành Bồ Tát đạo để thành tựu quả Niết Bàn. Niềm đam mê tu tập lớn như thế, hy sinh hà sa thân để chứng nghiệm Niết Bàn, vậy mà khi chứng nghiệm được Niết Bàn rồi, thì Ngài lại bảo không có Niết Bàn, không có người chứng quả Niết Bàn?

8. Xác quyết niềm tin.
Thưa đại chúng, trước khi muốn hiểu được thâm nghĩa của tầng phủ định ta hãy đi vào tầng nghĩa cạn của tầng xác định. Hành giả sơ phát tâm tu muốn thành đạt con đường tâm linh, điều quan trọng nhất là phải xác quyết niềm tin kiên định, nuôi dưỡng tâm Bồ Đề ngày mỗi lớn và làm cho niềm đam mê tu tập rực cháy mới có thể đi trọn trên con đường tu. Do vậy trước khi chúng ta muốn trở thành người xả ly bản ngã, chúng ta phải có bản ngã. Ta phải thành đạt điều này điều kia, rồi mới bước đến giai đoạn loại bỏ tất cả thành đạt ra một bên. Cho nên sự xác định đầu tiên là yếu tố niềm tin rất cần thiết cho tiến trình tu của chúng ta.


Trên con đường Bồ Tát đạo cũng thế, địa vị đầu tiên trong năm mươi hai quả vị thì Tín cũng đứng đầu gồm có: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác và Diệu giác.
Bước đầu để làm một vị cư sĩ tu học Phật pháp cũng phải có niềm tin bất hoại như câu chuyện kể về ông Cấp Cô Độc. Ông là người đã cúng dường cho Đức Thế Tôn tất cả tài sản, nhưng đến ngày thất bại trong công việc doanh thương đến khánh kiệt, trở thành nghèo đói. Vậy mà ông vẫn để dành cúng dường đức Phật một bát cháo chua nhỏ mỗi ngày.


Trước cổng nhà ông có một con quỷ Dạ Xoa trú ẩn từ lâu, khi thấy Tăng đoàn của Phật không đến khất thực tại nhà ông nữa, nó bèn dùng mưu mẹo dụ dỗ ông bằng một kho tàng đầy vàng bạc, châu báu với một điều kiện là khi ông lấy được kho tàng, trở thành giàu có thì phải quay lưng lại không làm đệ tử của Đức Phật nữa. Ông liền điểm mặt quỷ Dạ Xoa: “Ngươi không được xúc phạm Đức Thế Tôn, ta dù nghèo có rớt xuống tám tầng địa ngục thì ta vẫn là đệ tử của Đức Phật.” Và ông không cho nó ở trước vòm cổng nhà ông nữa. Con quỷ đến cầu xin Tứ Thiên Vương năn nỉ giúp nhưng vẫn không được chấp thuận cho ở lại chỗ cũ. Mãi tới khi quỷ dạ xoa bằng lòng sám hối trước Đức Phật những lời hắn từng xúc phạm, ông mới cho trú lại vòm cổng trước nhà.


Câu chuyện cho chúng ta thấy niềm tin của Cấp Cô Độc vào Tam Bảo là niềm tin bất hoại như kim cương.


Niềm tin của cư sĩ khi đã phát tâm đối với Tam Bảo còn như vậy, thì người tu chúng ta cũng phải như thế. Nếu không có niềm tin vững chắc vào tâm Bồ Đề của mình thì chúng ta không thể tiến đạo, không thể tin chúng ta có khả năng thành Phật. Do vậy, nhu yếu đầu tiên là hãy xác định niềm tin, và hầu hết các pháp môn tu theo giáo lý đạo Phật đều xác định niềm tin nầy. Nó là điều kiện để người nhân gian thành đạt địa vị, thành đạt công danh, sự nghiệp. Đối với đạo niềm tin là nền tảng căn bản của đời tu chúng ta, nếu không có niềm tin thì ta không thể bước vào quả vị Phật.

9. Viên mãn Phật quả bằng con đường thiền định.
Thưa quí vị, khi đã an trụ trong tầng xác định vững chãi rồi, chúng ta mới bước vào tầng phủ định. Phủ định không phải tính cách của người đi qua sông rồi bội ân với người lái đò đã đưa mình qua được bên kia bờ. Chúng ta bỏ lại con đò, bỏ lại người lái đò để hướng cuộc đời mình đến nẻo xa hơn là tính cách phải có của hành giả.


Niềm tri ân của chúng ta đối với vị Thầy dạy chúng ta học bài học vỡ lòng không phải không có, nhưng không có nghĩa là mình phải dính chặt vào Thầy không dám bước lên những cấp cao hơn. Niềm hiếu kính với vị Thầy đầu đời rất lớn nhưng không phải là một mực tôn sùng Thầy để không mở mắt nhìn ra nơi đâu cả. Nếu như thế, chúng ta sẽ chết chìm trong quả vị chứng được ở mức độ còn rất cạn vì cho rằng đã đủ, không muốn rời bỏ, không còn muốn vươn lên. Trong khi giáo lý Đức Phật dạy chúng ta trên con đường tu hãy như người lột bỏ bẹ chuối, lột đến bao giờ không còn gì để lột nữa mới thôi. Với con đường dài tu tập chúng ta phải loại trừ rất nhiều chặng đường thành đạt mới mong bước vào quả vị cuối cùng là Phật quả.


Trong kinh Lăng Già có những câu Ngài Đại Huệ tán thán Đức Thế Tôn như sau:


Thế gian ly sinh diệt,
Do như hư không hoa,
Trí bất đắc hữu vô,
Nhi hưng Đại Bi Tâm.



Tạm dịch:
Lìa sanh diệt thế gian,
Như hoa đốm hư không,
Trí chẳng thấy hữu, vô
Mà khởi tâm Đại Bi.



Chúng ta nhìn các pháp sinh diệt thế gian như hoa đốm giữa hư không và thành tựu trí bất động, xả ly các chấp trước có và không, chứng nghiệm tự tánh Bát Nhã mà khởi tâm Đại Bi.
Những điều gì nhận biết ở mặt cạn, những điều gì thành đạt ở bên ngoài thì gọi là được, là đắc và tất cả đều là pháp hữu vi. Trong khi chứng nghiệm trạng thái Niết Bàn là quay vào bên trong với cái mình đã tự có thì không thể gọi là được, là đắc gì cả.


Quay vào tầng thâm sâu hơn, trả tâm về bản thể là trở về nguồn cội, trở về tự tánh thanh tịnh của nó cho nên tất cả những câu phủ định của Đức Thế Tôn là loại trừ tất cả những gì Ngài đã thành đạt, kể cả quả Niết Bàn Vô Thượng.


Thưa, không có con đường nào thành đạt tự tâm, chứng nghiệm pháp thân Phật của chính ta bằng con đường Thiền định. Dù chúng ta có tu Pháp môn gì: Mật, Tịnh, Pháp tướng, Pháp tánh... đều phải đi vào con đường Thiền định.


Pháp cạn nhất là pháp học của chúng ta. Trong khi học chữ nghĩa, văn tự, kinh kệ mắt chúng ta để ở đây nhưng ý thức đang rong ruổi ngoài đường chắc chắn chúng ta không học thuộc được một câu kinh, huống nữa trên con đường tu. Và điều quan trọng nhất Đức Thế Tôn đã xác định là tất cả mọi con đường dẫn vào quả vị Niết Bàn đều đi bằng con đường Thiền Định.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên