Tứ thập nhị chương kinh !

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XIII[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]TỊNH TÂM THỦ CHÍ
HT.Thích Phước Tịnh_Thuyết Giảng (tiếp theo)
[/FONT]​
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]
[/SIZE]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]
[/SIZE]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]2. Một bước nhảy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở đoạn Kinh nầy chúng ta nghe Đức Phật nhắc tới hai chữ “đoạn dục”. Dục nầy có rất nhiều tầng; tầng cạn, tầng vừa và tầng thâm sâu tinh tế tùy theo trình độ tâm thức của con người mà đam mê, ham muốn được nâng cấp dần dần.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ trong cuộc sống bình thường, những người tham đắm tiền tài, ngũ dục là những người đang chìm vào đam mê của thế tục, gọi là dục ở mức độ cạn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở mức độ trung bình là khi người ta đã no đầy về đời sống ngũ dục, sự tham đắm năm món dục thế gian như vật chất, dục lạc, sắc hương vơi đi thì tham đắm danh trở thành sâu nặng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta nên nhớ một điều đam mê bóng sắc, hương vị là loại đam mê thô, dễ chán. Như khi ta thèm ăn, nếu được ăn no ta không còn thèm nữa. Nếu ham muốn sắc dục và được thỏa mãn khi lao vào con đường nầy thì sau đó cũng chán, chẳng còn gì thích thú nữa. Cho nên tất cả những đam mê thuộc về lãnh vực thô của vật lý đều rất dễ làm cho ta chán, có thể khước từ, chối bỏ không khó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhưng niềm đam mê không thuộc về vật lý như đam mê danh rất khó bỏ. Danh không bóng hình, không sắc màu nhưng lại dẫn con người say trong cảm giác hưng phấn của thỏa mãn bản ngã cao ngạo. Và càng đi vào đam mê của tâm thức, của danh thì mức độ cuốn hút của nó mạnh vô cùng, không chán được. Không một người nào đam mê danh mà chán cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, chúng ta rời danh lợi thế gian đi vào đạo, nhiều lúc chúng ta lập lại y những điều ở thế gian mà ngày xưa chúng ta đã từng đam mê vậy. Người rời bỏ cuộc đời thường đến với đạo là đã phát nguyện đi trên con đường phát triển chiều hướng tâm linh. Thế nhưng khi bước vào chốn già lam, có duyên may và phước lành sống trong đời sống tiện nghi, vật chất đầy đủ do Phật tử, tín đồ quý trọng cung hiến, nhiều khi làm ta đắm chìm trong đó. Những gì mà ta đã nguyện rời bỏ thì bây giờ bắt đầu tái hiện trong tâm thức ta. Dần dần ta thành người tham tiền của nặng nề còn hơn khi chưa vào đạo. Đây là điều có thật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi tuổi của chúng ta lớn đến một chừng mức nào đó thì những điều kiện vật chất không còn sức hút bao nhiêu, nhưng bấy giờ mãnh lực cuốn hút ta quay cuồng nhất là danh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ai mà chạm đến uy tín mình, đụng đến tôn giáo mình, trường phái tu của mình là chúng ta không chấp nhận được. Đây chỉ là mức độ trung bình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở mức độ sâu hơn, tham rất là vi tế. Vi tế đi vào đến chữ tu. Tu mà ham muốn mau thành đạt cũng là một loại tham.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có một vị Phật tử hỏi tôi sao ở trong pháp đường con nghe Thầy dạy, con rất là thích. Con có cảm tưởng tu rất là dễ. Nhưng khi học xong, ra về con có cảm tưởng đâu cũng vào đấy. Lòng con vẫn lao xao, vẫn bất an. Tôi bảo là do mình khởi tâm tham nên mình thấy tu rất khó. Vị Phật tử rất ngạc nhiên.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhưng thưa quí vị, nếu bình tâm lại thì chúng ta thấy điều nầy rất rõ. Khi chưa từng biết đạo, tâm thức chúng ta thường lao vào hướng của phiền não, lo âu, bất an... nhưng khi hiểu biết chút ít đạo lý, chúng ta nghĩ phải làm thế nào để tải trọng tâm thức mau nhẹ cho sự phục hồi năng lượng chánh niệm của mình có mặt ngay. Thế là chúng ta vội vàng tìm cách làm thế nào để chuyển tải, loại trừ những lo âu, phiền não, bất an... đang đè nặng trên tâm thức để ta được thảnh thơi, nhẹ nhàng... Nhưng khi chúng ta khởi ý mong muốn đó, là khơi động thêm một đối lực rất mạnh từ bên trong sống dậy, tạo thành sự đánh phá làm xao động tâm thức mình hơn. Và mình càng bất an hơn. Rõ ràng là do tâm tham của chúng ta mà thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tâm thức chúng ta lúc nào cũng có khuynh hướng dễ sinh khởi tâm tham. Cái gì cũng bận tâm, cái gì cũng muốn ôm vào cho đầy nên khi muốn cho kho trống không phải dễ. Cả một chiều dài từ thủa bé cho đến giờ, chúng ta trầm mình trong đòi hỏi, trong ham muốn vật chất, lao vào ngũ dục thế gian; khi biết đạo thì muốn quay lại một trăm tám mươi độ, muốn làm cho xong ngay. Điều nầy không thể được dù trên bình diện rất cạn của chân lý đời thường. Ví dụ như trên mặt biển cuồn cuộn nỗi ba đào vì gió. Mặc dù gió đã ngừng nhưng cũng phải cần thời gian sóng mới dịu dần; từ đợt sóng lớn trở thành nhỏ rồi đến những lượn sóng lăn tăn... và cuối cùng mặt biển mới trở lại yên bình. Làm sao có chuyện gió dừng thì sóng lặng liền được! Cái gì cũng đòi hỏi thời gian của nó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng giai đoạn đạt được Lậu tận minh chứng được tam minh, tứ trí là quá trình của một bước nhảy. Từ bờ bên nầy tử sinh bước một cái vèo qua bờ bên kia. Đây là một bước nhảy vọt; bước nhảy thời gian ngắn hơn chớp mắt, không phải chuyện bước lần lần. Thế nhưng, quá trình của bước nhảy là cả một chuỗi dài của sự thực tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ như khi ta nấu nước, muốn nước sôi phải qua quá trình đun nóng từ ba đến năm độ, hai mươi độ lên đến một trăm độ. Đến đúng một trăm độ thì mới có bước nhảy xảy ra. Bước nhảy từ thể lỏng thành thể hơi. Nếu chưa đến một trăm độ thì không thể có được bước nhảy. Và chứng nghiệm được Lậu tận minh gọi là một bước nhảy lượng tử. Đó là nguyên tắc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Cho nên thưa quí vị, đoạn dục là dứt tham muốn từ vật chất rất thô cạn đến chỗ cực kỳ vi tế của tâm thức chứ không phải chỉ đoạn cái tham ở mặt cạn. Tôi chia xẻ như thế để quí vị qui chiếu lại là công phu tu tập có những chặng đường từ lúc mới thực tập cho đến thực tập giỏi, và tới lúc thực tập cực giỏi.

[/FONT]<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_047%20TinhTamThuChi.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113


[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XIII[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]TỊNH TÂM THỦ CHÍ
HT.Thích Phước Tịnh_Thuyết Giảng (tiếp theo)
[/FONT]​

[FONT=Arial,Helvetica]3. Từ cạn đi vào tinh tế.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thông thường, mới thực tập chúng ta có thói quen rất mạnh tay với chính mình. Nhưng về lâu tâm thức càng thuần thì sự thực tập càng nhẹ đi. Nhẹ đến độ sự thực tập của ta như có như không, thênh thang như mây trời; lúc bấy giờ sự thực tập của ta đã khá thuần thục. Ví dụ lúc ban đầu chúng ta lập chí thực sâu, nhất định phải thực tập ngày đêm làm sao an trú được trong chánh niệm, hay hứa với mình là phải ngồi cho thẳng, rồi gồng người lên, nắm tay lại thật chắc... Tất cả những sự cố gắng đều làm cho ta mỏi mệt và không phải là điều tự nhiên của cơ thể bình thường.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bước ban đầu, sự thực tập của mỗi người trong chúng ta hay làm giống nhau như thế, nhưng dần dần quí vị sẽ thay đổi, quí vị sẽ thông minh hơn, sẽ tự học ngay nơi thân tâm mình. Rồi tự mình sẽ có phương pháp thực tập của riêng mình, sẽ biết làm thế nào để cách thực tập vừa nhẹ nhàng, vừa hiệu quả. Đây là kinh nghiệm rất ư là cá nhân của những con người thực tập. Không một ai có thể truyền đạt một cách thế nào đó để mọi người có thể thực tập cho nhẹ nhàng, có hiệu quả cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trên con đường tu, chúng ta phải biết cách thực tập thế nào để ngày càng đi đến trạng thái nhẹ nhàng hơn, cho đến lúc sự thực tập của mình trở thành tự nhiên như hơi thở, thì lúc bấy giờ sự thực tập thành công. Đây là cả một tiến trình thực tập đòi hỏi thời gian dài. Khi công phu thực tập của chúng ta đã tới mức độ nhuần nhuyễn thì bấy giờ chúng ta không cần đặt chú ý nhiều đến hơi thở nữa, nhưng tự nhiên hơi thở lỏng dần ra, nhẹ dần đi. Và trong từng hơi thở, không có hơi thở nào mà không có chánh niệm soi sáng cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đến mức sâu sắc nhất của sự thực tập là lúc dụng công ta không còn vận dụng ý chí gì mà tự nhiên công phu tu tập, sự thực tập của mình trôi chảy miên man, liên tục thì lúc bấy giờ niệm ham muốn vi tế mới sạch nhẵn. Nhưng trong giai đoạn thực tập chúng ta còn dụng công, vận dụng ý chí thì chắc chắn vẫn còn niệm ham muốn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đây là những gì tôi chia xẻ từ mức độ cạn đến mức độ vi tế nhất, để quí vị nắm được, đi vào.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]4. Tịnh tâm thủ chí.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Tịnh tâm thủ chí” có nghĩa là lắng lòng, giữ vững được ý chí.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong cuộc đời con người để thành đạt lợi danh rất dễ, nhưng giữ vững niềm tin và ý chí để tu là điều rất khó. Tại sao khó? Thưa, nếu chúng ta giữ vững ý chí, niềm tin để thành đạt công danh, thành đạt vật chất là thành đạt những điều rất dễ thấy, dễ kiểm soát và cũng dễ giữ vững ý chí. Hơn nữa, con đường thế gian hướng ngoại để thành đạt công danh nầy nọ tặng cho ta niềm tin, tự hào về bản ngã, cho nên không hiếm gì con người lập chí vươn mình đứng dậy để làm giàu dù cuộc đời bị vùi dập nhiều lần. Và cũng không thiếu người đầu tư mười năm, hai mươi năm để có được một mảnh bằng, đầu tư cuộc đời dù chông gai để có được địa vị cao sang trong lãnh vực lợi danh. Tuy khó khăn nhưng người ta vẫn giữ ý chí, đeo đuổi niềm đam mê không mỏi mệt. Nhưng trên con đường tu, giữ được niềm đam mê cho sự tu tập từ đầu đến cuối khó vô cùng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Điều khó thứ nhất, con đường tu bắt chúng ta phải loại trừ bản ngã của mình. Những gì nuôi lớn lòng kiêu ngạo, tự hào, ta phải loại trừ. Cho nên đi vào con đường tu là từ cái có chúng ta đi dần vào cái không; mà từ đang có đi dần vào không thì tự bản thân con đường tu là sự đối nghịch với đời sống của ta, chứ không thể thuận với ta bao giờ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, chúng ta đã khổ cực vô cùng để có được cuộc sống đầy đủ, có được địa vị, có được tri thức, có niềm tự hào như hiện tại nhưng đối với Đạo Phật thì những thứ đó là những trở ngại. Càng đi vào đường tu thì chúng ta phải là người vô ngã, không có gì để tự hào cả nên khi mới bước vào ta có cảm tưởng con đường nầy dễ đi, và sẽ giữ được chí tu bền bỉ. Nhưng thưa không, càng đi sâu vào rồi chúng ta thấy như mình bị mất mát. Đó là điều khó thứ nhất cho người thủ chí.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Cái khó thứ hai là những thành đạt bên ngoài ta còn kiểm tra được, còn sự thành đạt của con đường tu ta không kiểm tra được. Tâm thức chúng ta đạt được chừng mực nào đó chỉ chúng ta là người nhận biết, không ai biết cả. Học hành ở thế gian cực nhọc nhưng còn có những kỳ thi, còn có những lớp để mình bước qua, có bằng cấp cho mình biết được sự thành đạt của cái học. Con đường tu không có lớp để bước qua, không ai chứng cho chúng ta là đã đạt được tam thiền, tứ thiền... gì cả. Chỉ có ta chứng biết lấy trình độ đời sống tâm linh của ta. Do vậy chúng ta rất dễ chán. Đó là yếu tố thứ hai khó thủ chí cho việc tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Điều thứ ba càng khó khăn hơn nữa là chí nguyện của ta phải là chí nguyện lâu dài. Chí của người tu không phải là một việc làm để được nghỉ ngơi. Tuy không cần nôn nóng, vội vàng, bừng bừng như lửa cháy nhưng nó phải có mặt luôn trong đời mình, dìu dịu như lửa than không tắt giây phút nào cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người ta có thể hy sinh đốt một ngón tay, đốt chín nốt hương trên đầu, hay chặt ngón tay cúng dường Phật rất dễ nhưng nuôi được chí nguyện từ ngày nầy qua ngày khác suốt cuộc đời, giờ đầu cũng như giờ cuối là chuyện không dễ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người ta có thể làm việc cực nhọc được nhưng phải có lúc nghỉ ngơi, nếu cứ phải làm mãi hoài, đều đều như thế thì khó ai có thể làm được. Nhưng con đường tu là con đường như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người tu không cần nôn nóng, không cần vội vàng, cứ đều từng bước thực tập chánh niệm mà bước hoài không ngưng nghĩ. Đó là thủ chí.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vấn đề kế tiếp là tịnh tâm. Tịnh tâm là lắng được lòng. Tuy là từ rất đơn giản nhưng lắng được lòng phải có hai trạng thái lặng và chiếu cùng một lúc có mặt thì chúng ta mới có thể đạt được Đạo. Con đường của đạo Phật là con đường của Định và Tuệ. Lòng ta có an tịnh, thanh thản nhưng nếu không có ánh sáng chánh niệm đi vào thì ta chìm vào hôn mê, chìm vào buồn ngủ. Thiền ngữ gọi là “Nước chết không chứa được rồng” hay “Chìm vào hang quỷ”. Nếu để ý, người thiền tập lâu những thời thiền tọa, công phu chúng ta hay đi vào con đường nầy. Dù khi lòng yên lắng nhưng năng lượng của tuệ không có mặt tức sự tỉnh sáng không có thì chúng ta sẽ lạc hoặc là lặn vào trạng thái vô ký mà không biết, lững đững lờ đờ như sắp chìm vào giấc ngủ. Hay sâu hơn là chìm vào giấc ngủ trong lúc lặng nầy. Cho nên Định và Tuệ hai trạng thái của tâm phải cân bằng và luôn cùng một lúc có mặt. Lục Tổ gọi là “Định huệ đẳng dụng” hay “Định huệ tương tức” khi công phu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]5. Sự hỗ tương của hai bước công phu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa. Tôi xin chia xẻ để quí vị lưu ý. Chúng ta có hai loại công phu tức hai loại thực tập:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Loại thực tập nghiêm túc có thời khóa được quy định như ngồi thiền, thiền lạy, thiền hành. Đó là loại thực tập trong tịnh, trong yên lặng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Loại thực tập thứ hai là thực tập trong động, tức là thực tập trong những sinh hoạt hằng ngày. Hai điều nầy hỗ tương cho công phu tu tập của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong lúc bình thường sinh hoạt như khi ăn, khi làm việc, khi đọc sách, khi ngồi chơi, khi leo núi, khi nằm nghĩ... mà ta không vận dụng sự thực tập thì năng lượng chánh niệm của chúng ta, lúc cần phải khó nhọc vô cùng mới làm cho tâm yên tịnh lại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu ta vận dụng được công phu thực tập, làm mọi việc trong chánh niệm tỉnh sáng thì lúc ngồi trên bồ đoàn tu rất dễ, một giờ tọa thiền đi ngang qua rất là nhẹ. Và trong thời thiền tọa khi đã an trú trong trạng thái chánh niệm thì năng lượng của một thời tu đó sẽ giúp chúng ta mọi lúc, mọi nơi và trong tất cả mọi hoạt động.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và tôi xin nhắc lại, điều đặc biệt quan trọng trong sinh hoạt tu tập của chúng ta, hai yếu tố phải có mặt là tĩnh lặng và sáng tỏ. Sự lặng lẽ tỉnh sáng nầy dễ thực tập lúc bình thường hơn khi thực tập theo thời khóa. Ví dụ khi quí vị đang ngồi đây nghe lời tôi nói từng tiếng một rõ ràng vang lên đồng thời cũng đang nghe tiếng quí thầy dịch bên tai. Quí vị nghe mà không cần khởi ý niệm suy nghĩ gì cả; đó là lúc ta đang an trụ trong trạng thái của Định. Nghe mà biết từng lời rõ ràng là ta đang có mặt Tuệ. Định và Tuệ cùng có mặt khi ta đang ngồi, đang nghe.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Một điều đặc biệt nữa là khi thân động tâm ta dễ an. Khi thân an thì tâm ta lại dễ xao động. Hai điều nầy cũng dễ có mặt. Do vậy, nếu thông minh chúng ta hãy vận dụng mọi thời khắc trong ngày để thực tập. Thong dong đi thiền hành, quét nhà, rửa chén... đó là những điều kiện rất tuyệt vời để chúng ta thực tập mời gọi năng lượng chánh niệm về ngự lại trong thân tâm mình. Bất cứ việc gì trong mọi sinh hoạt của tu viện, chúng ta đều có thể lợi dụng trọn vẹn thì giờ đó để thực tập chánh niệm. Đừng chờ đợi đến thời khóa mới làm được việc ấy là chúng ta biết sống xứng đáng từng ngày. Tóm lại, sự hỗ tương của hai bước công phu rất rõ ràng, chúng ta cần phải hết lòng thực tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]6. Tiếng “dạ” nhiệm mầu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cuối cùng, để tổng kết chương, chúng ta hãy trở lại câu hỏi Lậu tận minh của ngoại đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngoại đạo hỏi Đức Thế Tôn thế nào là Lậu tận minh? Đức Phật gọi: Bà la môn Hữu kiến. Ngoại đạo: “Dạ”. Thế Tôn bảo; “Ấy là Lậu tận minh.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, Lậu tận minh là thần thông tuyệt vời nhất mà năng lực của nó khi có mặt cắt đứt luôn sinh tử trong nhiều kiếp của một đời người. Dòng sinh mạng của chúng ta đã trải qua từ vô thỉ đến hiện tại. Có khi nó biểu hiện rõ như một dòng suối chảy ra ngoài cho ta thấy, khi không biểu hiện nó chảy thầm lặng dưới cát, dưới đá và hình hài của chúng ta cũng chỉ là một giai đoạn biểu hiện của dòng sinh mạng dài vô tận nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi lấy ví dụ đời sống của loài ve. Chúng ta chỉ nhìn thấy nó vào khoảng mỗi mùa hè. Nhưng đời sống của chúng không phải giới hạn ở đó. Chúng đã có cuộc sống dài hơn mười năm ẩn mình sâu trong lòng đất, và từ những ấu trùng bé tí nằm chờ thay hình đổi dạng, qua nhiều đợt chuyển mình lớn dần, lớn dần thay vỏ, lột xác để một sớm tình cờ trèo lên thân cây cất tiếng hát có mặt với đời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta cũng thế, kiếp nầy may mắn được biểu hiện làm con người là đã từng trải qua dòng sinh mạng chảy dài bao nhiêu kiếp tử sinh. Nếu là người có duyên đạo rất lớn, thông minh thì ngay trong một kiếp nầy ta nắm được pháp môn thực tập, ta cắt được dòng chảy tử sinh; không còn phải trở lại làm con ấu trùng như những con ve chìm trong lòng đất cả mười năm. Và nếu ta tu tập giỏi, thì chứng được Lậu tận minh như Đức Thế Tôn đã dạy. Lậu tận minh quan trọng do vì trong dòng chảy tử sinh liên tiếp, chứng nghiệm được nó chúng ta cắt ngang được luân hồi ngay đây chứ không cho tiếp nối nữa. Và cắt ngang ngay đây có nghĩa là từ một chúng sanh đang nổi chìm trong sanh tử, thoát kiếp con người trở thành một bậc giác ngộ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trở lại tiếng: “Dạ” của Bà La Môn khi Đức Thế Tôn gọi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, khi bất chợt bật lên tiếng “Dạ” thật tình cờ, ngay lúc đó không có một ý niệm gì khởi lên bên trong tâm thức người ngoại đạo cả và phút giây đó Định, và Tuệ cùng có mặt. Tức khắc sự nhận biết tỉnh sáng có mặt. Sự nhận biết trong sáng, tĩnh lặng, không tiếng nói thì thầm là cái ta nguyên sơ của mình. Là cái thật nhất của mình. Là năng lượng giác ngộ tỏa sáng từ bên trong vị Phật của ta hiển hiện. Chúng ta chỉ làm một việc rất dễ là nắm lấy sát na tỉnh sáng bất động hiện tiền để thực tập liên tục thì chứng được Lậu tận minh. Lậu tận minh là con đường chấm dứt sinh tử. Thế thôi.[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_048%20TinhTamThuChi.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Hanh_Dao_Thu_Chan_01.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="1" showcontrols="1" height="70" width="220"></center>
<table border="0" cellpadding="0" cellspacing="0" height="66" width="553"><caption>
</caption><caption>
</caption> <tbody> <tr> <td bgcolor="#008DD5">
none.gif
</td></tr><tr><td valign="top">
</td></tr></tbody></table><center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XIV - CHƯƠNG XV[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]HÀNH ĐẠO THỦ CHÂN
HT.Thích Phước Tịnh _ Giảng giải.
[/FONT]</center>[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Toàn bộ Bốn Mươi Hai Chương kinh chỉ có ba chương đặc biệt ở thể vấn đáp là chương mười ba, mười bốn và mười lăm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hôm nay chúng ta sẽ đi vào nội dung của bốn câu hỏi có những từ rất quan trọng mà các vị đệ tử đã tham vấn Đức Phật trong hai chương mười bốn và mười lăm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]CHƯƠNG XIV.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sa Môn vấn Phật: “Hà giả vi thiện? Hà giả tối đại? Phật ngôn: Hành đạo thủ chân giả thiện. Chí dữ đạo hợp giả đại.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có một vị Sa môn hỏi Phật: “Điều gì là thiện, điều gì là lớn?” Đức Phật dạy: “Thực hành chánh đạo, giữ sự chân thật là thiện, chí nguyện hợp với đạo là lớn.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]CHƯƠNG XV.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sa Môn vấn Phật: “ Hà giả đa lực? Hà giả tối minh. Phật ngôn: Nhẫn nhục đa lực, bất hoài ác cố, kiêm gia an kiện. Nhẫn giả vô ác, tất vi nhân tôn. Tâm cấu diệt tận, tịnh vô hà uế, thị vi tối minh. Vị hữu thiên địa, đãi ư kim nhật, thập phương sở hữu. Vô hữu bất kiến, vô hữu bất tri, vô hữu bất văn, đắc nhất thiết trí, khả vị minh hỷ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có vị Sa môn hỏi Phật. “Điều gì là mạnh nhất, điều gì là sáng nhất?” Đức Phật dạy: “Nhẫn nhục là mạnh nhất, vì không chứa sự ác tâm nên tăng sự an ổn. Người nhẫn nhục không làm điều gì ác, được mọi người tôn kính. Tâm ô nhiễm đã được đoạn tận, không còn dấu vết gì gọi là sáng nhất. Vì tất cả mọi vật trong mười phương từ vô thỉ thuở chưa có đất trời cho đến ngày nay, không vật gì là không thấy, không vật gì là không biết, không vật gì là không nghe. Đạt được Nhất thiết trí như vậy gọi là sáng nhất.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Câu hỏi “Hà dã tối đại?” Điều gì là lớn? Tôi xin nhắc lại cùng quí vị chữ “tối đại” thường có nghĩa là cực lớn, nhưng ở đây nên hiểu là Đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sa môn thực hành điều lành, tu hạnh nhẫn nhục chứng đắc Đạo lý chân thật chính là điều lớn nhất, mạnh nhất. Diệt trừ hết mọi cấu uế, không còn dấu vết gì, tâm thanh tịnh thì đó là người sáng suốt nhất, trí huệ nhất là đại ý của hai chương Kinh nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Thế nào là “Đạo.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Giai đoạn đầu của Phật giáo Trung Quốc ngôn ngữ xử dụng để dịch kinh văn mang dấu ấn rất đậm của tinh thần Lão Trang. “Đạo khả đạo phi thường đạo.” là câu rất nổi tiếng trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử, nên khi gặp chữ “tối đại” thì chúng ta nên hiểu là câu hỏi của môn đồ hỏi Đức Thế Tôn thế nào là đạo chứ không phải là cực lớn. Suốt dòng chảy của Phật giáo Thiền Tông khi hỏi đến Đạo họ đều dùng chữ Đạo của Lão Trang.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có một vị quan đến hỏi Ngài Dược Sơn thế nào là Đạo? Ngài Dược Sơn chỉ dưới đất, rồi chỉ trên trời. Ngài hỏi có hiểu không? Lý Cao thưa không hiểu. Ngài liền bảo: “Mây trên trời, nước trong bình”. (Vân hà thị đạo). Về sau Lý Cao làm một bài tụng ngắn:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Luyện đắc thân hình tợ hạc hình,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thiên chu tùng hạ lưỡng hàm kinh,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khách lai vấn Đạo vô dư thuyết,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vân tại thanh thiên thủy tại bình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tạm dịch:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thân gầy như hạc bạn pho kinh,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dưới rặng tùng xanh ngẩng mắt nhìn[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khách hỏi Đạo mầu đưa tay chỉ[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Mây ngủ trời xanh, nước tại bình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu có khách đến hỏi thế nào là Đạo, thì Thiền sư chỉ mây trên trời, nước dưới bình. Tôi dẫn chứng để quí vị ghi nhận chữ “tối đại” có nghĩa là Đạo, và chữ Đạo ở đây là tên khác của tự tánh Niết Bàn trong nhà Phật. Hay nói một cách dễ hiểu là tâm thể không sinh, không diệt, Phật tính bản nguyên của mình gọi là Đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở đây vị Sa môn hỏi: “Thế nào là lớn?” (Hà dã tối đại), và Đức Thế Tôn trả lời: “Thực hành chánh đạo, giữ sự chân thật là thiện, và chí nguyện hợp với Đạo là cực lớn. Đó là chỗ tột cùng, đạt đến chỗ tuyệt vời.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Những tầng vào Đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Để trả lời câu “Hành đạo, thủ chân” của chương nầy. Đức Phật dạy đầu tiên là thực hành chánh đạo. Con đường Đạo dĩ nhiên không có nhiều, chỉ có một mà thôi. Và tột cùng của sự thể hội đạo thì duy nhất là làm thế nào quay trở lại nhận diện được thể không sinh, không diệt của chính mình là tâm Phật của mình. Nhưng trên con đường tìm về tùy căn cơ nghiệp thức của chúng sanh nên con đường đi vào Đạo có nhiều tầng lớp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tầng cạn nhất để hành đạo trước hết chúng ta cần hành thiện. Trong chúng ta đều có kinh nghiệm là khi nào tâm thức mình tích cực, nuôi dưỡng ý niệm thiện thì niềm vui có mặt. Chúng ta nên nhớ, tâm Phật là chỗ tột cùng của Đạo tương ưng với Chân Thiện Mỹ của cuộc sống nầy. Những gì đạt đến sự chân thật, cái đẹp, cái lành hoàn toàn thì hợp với đạo. Chân Thiện Mỹ là ba tiêu chuẩn để chúng ta hướng tâm về đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở mức độ rất cạn, ta chưa đạt đến sự toàn vẹn, chỉ cần có trong tâm sự tri ân thôi, tự nhiên đã nghe lòng tràn đầy hạnh phúc. Lòng mình mà thương yêu mở rộng, có niềm kính trọng mọi người thì mình cảm nhận được hạnh phúc liền.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tâm thức ta nếu nặng nề, ô uế ta đến với đạo rất khó. Lòng chứa chấp nhiều hờn giận, buồn phiền, kiêu ngạo không thể dung nạp, hòa hợp được với ai thì con đường đạo cũng rất khó tiến. Cho nên nếu chưa dọn lòng ta để làm một con người dễ thương trong đời hẳn sẽ khó cho ta tiến được trong đời sống tâm linh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đôi khi đến với đạo, tu tập lâu tự nhiên tâm thức ta từ từ đóng kín lại. Thường thường tu lâu thì chúng ta có bản ngã của người tu lâu. Hơn nữa, nếu ta là người giỏi, được thầy yêu, bạn quí; là người chịu trách nhiệm lớn trong già lam, tự viện thì bấy giờ bản ngã được nuôi lớn lúc nào không hay. Đó là những vụng về của người tu thường mắc phải. Khi chúng ta nhìn lại, những điều nầy xuất hiện là biết chúng ta đang chối từ đạo, đang rời xa định mức tiêu chuẩn của Chân Thiện Mỹ, và càng tu chúng ta càng chuốc lấy sự bất an nhiều hơn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có những người tu giữa cuộc đời, họ rất bình thường, không có thần thông cũng không có gì đặc biệt nhưng chỉ cần thấy đời sống họ giữa lòng đại chúng hài hòa, tình nghĩa, biết trân quí người chung quanh và sống vị tha thì ta biết người ấy là những vị Thánh đang tu mật hạnh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trước khi nói Thánh quả, đời sống tâm linh cao, ta hãy làm sao đối xử với nhau cho có tình người. Đây là những điều cạn nhất trên con đường hành thiện, xin quí vị lưu ý. Hãy đối xử với nhau thật đẹp bằng tình người. Nhiều khi ở trong Đạo lâu, chúng ta hà tiện nụ cười, hà tiện lời khen. Chúng ta xài rất là hào phóng tâm ganh tị, thói đố kỵ. Nhưng điều cần thiết như sự trân trọng, khiêm tốn, yêu thương hòa ái thì chúng ta giữ rất kỷ. Chúng ta không đủ thông minh để xử dụng những luồng năng lượng tích cực nhưng lại vận dụng những nguồn năng lượng rất ư tiêu cực, làm cho tâm thức mình đen tối thêm, thiện nghiệp bị bào mòn và cuộc đời bị chìm xuống.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, tầng mức cao hơn là chúng ta thực hành chánh đạo của Phật dạy. Căn bản hành trì của chúng ta là năm giới, mười giới. Con đường tu với pháp môn của Đức Phật mở ra có ngàn vạn lối. Tám con đường tức Bát Chánh Đạo bao gồm hầu hết mọi pháp môn thực tập mà mỗi Chi nào khi chúng ta đi vào đều dẫn chúng ta đến chỗ an lạc, đều hoàn thiện và đưa đến đời sống Chân Thiện Mỹ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thường tâm thức có thuần thiện, ý niệm tu hành đủ mạnh thì chúng ta không có cái nhìn bài bác, kỳ thị bất cứ truyền thống tu tập nào cả. Tâm thức của người tu là bao dung và độ lượng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin kể câu chuyện: trong một Thiền viện lớn nọ, một vị đệ tử xin ra ngoài học thêm Kinh, Luận để sau nầy về làm giảng sư. Vị thầy nói: “Ồ, tốt lắm, ta nghĩ trong tương lai chùa cũng cần có người giảng kinh, thuyết pháp hay. Ta hy vọng sau nầy con trở về sẽ hoằng hóa đại chúng nơi đây. Vậy là đi hết một ông. Vài hôm sau, một đệ tử khác lên bạch xin ra ngoài để học môn Luật theo ý muốn của mình. Vị Thiền sư hoan hỷ chấp thuận không một lời ngăn cản.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và tiếp tục như thế, những vị đệ tử lần lượt ra đi...[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chuyện cho chúng ta thấy độ lượng và bao dung trong tâm thức người tu không bao giờ vơi, không bao giờ thấy có sự đối nghịch, có sự phân biệt pháp môn nầy hay pháp môn kia.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta tu mà thấy cái gì cũng khó thương, nội kết với người nầy, người nọ, với những pháp môn tu khác biệt là lòng ta còn hạn hẹp, không có không gian. Tu là phải làm thế nào mở lòng ra ít nhiều mới chứng tỏ được rằng mình đang tu theo những pháp môn của Phật. Đến với đạo tu tập một thời gian mà lòng mình bó hẹp lại thì ta phải hỏi lại là mình đang tu pháp môn Phật hay pháp môn của tà ma, ngoại đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tầng thâm sâu hơn là sau khi nắm chắc một pháp môn, chúng ta sẽ lựa phương pháp hợp với cơ thể, tâm thức mình và hành trì một cách tinh tấn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tinh có nghĩa là ròng, không xen tạp một thứ gì. Tấn là khả năng phát triển một cách bền bỉ, không lui sụt. Ở đây có nghĩa là thực tập chuyên ròng một thứ, bền bỉ miệt mài nhưng không vội vàng. Chúng ta thực tập từng bước tuy chậm nhưng vững chắc và đi mãi hoài không biết mệt, không bao giờ dừng lại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường tu không bắt buộc chúng ta vội vàng, hấp tấp. Chúng ta nên nhớ điều gì không thuận với nhu yếu tự nhiên thì chỉ có tính cách giai đoạn, nếu cứ hành trì theo kiểu căng thẳng sôi sục, sớm muộn gì cũng bị bệnh hay mất bình thường.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên pháp tu của nhà Phật, tu càng giỏi thì chúng ta càng gần với sự tự nhiên. Bao giờ mà sự thực tập trở thành nhẹ nhàng, tinh tế, không biểu lộ ào ạt ra bên ngoài là tu giỏi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta phải cẩn trọng, đừng để mắc vào bệnh chạy nước rút. Trong những cuộc đua đường dài, người về nhất thường là những người chạy chậm, thong thả ngay từ bước khởi đầu. Tuy họ không bao giờ vội vàng chạy thật nhanh nhưng sẽ là người đến đích trước bao nhiêu người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hai trạng thái; một là thả lỏng, buông xuôi, hai là nôn nóng, vội vàng cho nhanh đều sai. Người tu chúng ta nên nắm vững điều nầy để thực tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi chúng ta đi vào thực hành chánh đạo, có ba tầng cho sự thực tập: Tầng cạn là hành thiện. Tầng trung bình là thực hành những điều Phật dạy. Tầng thứ ba là khi đạt được những pháp môn thực tập quí vị phải có niềm tin vững chắc và hành trì. Nên nhớ một điều là chúng ta cần hành trì nhẹ nhàng mà bền bỉ. Nếu ta tu giỏi hơn nữa thì “Ngoại hiện phàm phu chi tướng, nội bí Bồ Tát chi tâm.” Nghĩa là bên ngoài hiện tướng như một người phàm phu, bình thường nhưng bên trong nội lực rất sung mãn, từng sát na sống được với Đạo. Lòng thương yêu và tâm hạnh Bồ Tát mênh mông. Họ dấu cái tu của họ, không ai biết họ đã đến chỗ thâm diệu nhất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta mà có hình tướng tu, sự thực tập còn biểu hiện ra bên ngoài có thể chưa phải là người tu giỏi, chưa phải là hàng Bồ Tát Thập địa, chưa phải là Bồ Tát Đăng Địa, chỉ mới là Bồ Tát tập sự thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]3. Trở lại tâm ban sơ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, thói thường đời người điều gì mà không chân thật thì đòi hỏi người ta vận dụng công phu rất nhiều mới làm được điều dối trá ấy. Trái lại điều gì mà chân thật thì không cần dụng công phu gì cả nhưng lại biểu lộ một cách tự nhiên, trôi chảy. Ví dụ khi ta lừa dối ai điều gì, ta cố tô vẽ vài nét đẹp về quá khứ để chứng minh mình là người thế nầy, thế kia. Và để làm được điều nầy phải là người thông minh, nhớ dai mới có thể nói dối được. Nếu không giỏi thì sớm muộn gì những điều dối trá cũng sẽ bại lộ vì những điều ta nói vô tình rơi vào ký ức người nghe, lần sau ta gặp lại, ta nói khác với lần đầu, họ biết. Vì vậy, tâm thức chúng ta nếu không đủ nhớ giỏi thì chớ làm gì, nói gì trái với sự thật. Hãy thật thà, không có gì dễ thương bằng sự thật thà. Sự chân chất không làm tổn thương diện mục của ta, không làm cho mọi người chán ghét và xa lánh ta. Nó mang đến tình bằng hữu tốt đẹp, mang đến sự kính trọng của mọi người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Quí vị còn nhớ chuyện một vị Tổng Thống gần đây của nước Mỹ, dân chúng khắp nơi làm ầm ĩ về những điều ông làm, những điều ông nói dối (chuyện riêng bản thân của ông), nhưng ông đã lên tiếng nhận lỗi và xin lỗi. Và chỉ cần một lời nhẹ nhàng của ông, ông vẫn là một vị Tổng Thống được mọi người quí mến.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vì vậy, căn bản đầu tiên trong cuộc sống thường là đức thành thật. Đó là nền tảng và là yếu tố cho mọi thành công: trong gia đình, trong giao tế bạn bè, trong xã hội.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bước qua đời sống đạo, điều quí nhất của người tu là làm thế nào càng tu chúng ta trở lại tâm nguyên sơ ban đầu, trở lại tâm thuần phác của trẻ thơ, hồn hậu đơn giản. Đôi lúc ở trong Đạo càng lâu, bản ngã, tự ái, danh vị vây quanh, chúng ta càng ngày càng bị lấp dày bởi những lớp sơn phết đầy màu sắc không thật. Chúng ta càng mặc nhiều lớp áo hoa hòe để che lấp bộ mặt thật của mình. Nếu có chút kinh nghiệm thì quí vị sẽ thấy những điều tôi trình bày không phải khó cảm nhận.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi có một kỷ niệm lần đầu tiên tìm chỗ ở để đi học, và tôi đã đến xin tá túc tại một tự viện ở gần trường. Một buổi trưa nọ, tôi được cùng Thầy trụ trì đến dự một đám cúng cầu siêu. Lúc đó, tôi chỉ là một tăng sĩ nhỏ nhưng chùa không có nhiều thầy nên tôi được gọi đi theo. Thật là ngạc nhiên cho tôi khi đến, vì đây không phải là đám cúng nhỏ của một gia đình bình thường mà là buổi cầu siêu cho ông Viện trưởng của Trường Quốc Gia Hành Chánh, (trường QGHC là nơi đào tạo những Quận trưởng hay Phó tỉnh trưởng của chế độ cũ VNCH) và người đứng ra mời là người thân của vị viện trưởng vừa mất. Nhớ lại buổi cầu siêu hôm đó, vị Thầy ngoài cách ăn mặc rất xuề xòa, đơn giản đến độ luộm thuộm. Rồi đến cách cúng kiếng, thực hành nghi lễ hết sức tự nhiên, tùy tiện vô cùng thoải mái, hồn nhiên của Thầy (ông rải gạo, muối và vẩy nước cùng khắp trên bục của Đại giảng đường học viện QGHC), không vì trước mắt mình có những quan khách sang quí, chức tước lớn trong chính phủ mà e ngại gì. Tôi vô cùng mắc cỡ trong buổi cầu siêu, nhưng cách hành xử của vị Thầy nhà quê kia đã để lại trong tôi một bài học khó quên.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, điều tôi muốn chia xẻ ở đây là khi tu tập còn yếu, chúng ta bị vướng vào nhiều thứ: phải giữ gìn phong cách đàng hoàng, nói cười, ăn mặc đi đứng đoan trang... nhưng khi tâm thức đạt đến giai đoạn của trẻ thơ, có những bậc thầy hành xử giản dị vô cùng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên, khi đạt đến cội nguồn của sự chân thật, lúc bấy giờ tâm ta thuần phác như một em bé, không có tự ái, kiêu ngạo hay phải chạy theo lề thói, yêu sách bên ngoài của xã hội, của nhân gian đặt ra. Những vấn đề như nghi lễ, giao tế bình thường chúng ta loại bỏ mà không cần đắn đo gì cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sâu hơn một tầng là trở về sự chân thật, hồi phục được sát na tâm ban đầu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, khi quí vị tiếp xúc với bất cứ thứ gì, lúc ban đầu chỉ có sự nhận biết đơn thuần. Sát na đầu tiên ta chưa có khởi ý, chưa có ý của ta đặt vào nên ý thức phân biệt chưa sinh khởi. Nhưng khi ta đặt ý thức mình vào rồi thì gọi là tác ý. Tác ý là chú ý đến, và có ý thức đặt vào thì liền sau đó cảm thọ len lỏi đi vào, ta liền khởi tâm ưa thích, khó chịu, dễ chịu, vui, buồn... là ta có cảm thọ về nó. Nhưng nếu ta dừng ngay nơi sự nhận biết tỉnh sáng mà không để cho ý thức sinh khởi và nối dài. Tức ta cắt ngang chỗ tác ý về sau thì gọi là an trú nơi sát na tâm ban đầu. Và nếu ta có thể dừng được như vậy thì thật là tuyệt vời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong cái nhìn, nghe, ngửi, nếm... nếu ta dừng lại ngay sát na tâm là ta đang an trú trong trạng thái tĩnh lặng bất động, an trú trong vùng trời chân thật của tự tâm, chưa khởi sinh diệt của ý thức lăng xăng. Và khi ta an trú trong sát na tâm ban đầu thì ta rất hồn nhiên, trong sáng; đó là tâm trẻ thơ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu tu giỏi thì ta có thể mời gọi tâm trẻ thơ về với ta. Tu giỏi hơn nữa thì ta dừng được tâm thức của mình không bước qua vùng cảm thọ, không để cho ý thức của mình bắt đầu tiếng nói thì thầm lôi kéo vào con đường của sinh diệt, vui buồn, sầu khổ, bất an... Và đây là cánh cửa mở vào vô sinh, bất diệt không biên giới, không có thời gian, không có không gian. Thưa, điều nầy rất dễ cảm nhận, chúng ta có thể thực tập không khó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong pháp hội của Ngài Sùng Tín, có một đệ tử hầu thầy mười năm. Một hôm lên bạch Thầy xin đi tham học các nơi, vì tu học bên thầy đã lâu mà không được thầy dạy cho một điều gì cả. Vị Thầy ngạc nhiên, trợn mắt: “Con nói sao, con thấy mười năm nay thầy chưa hề dạy gì? Ồ, con nói vậy là oan cho thầy. Giáo lý liễu sinh thoát tử, cắt đứt luân hồi, thể nhập vào bản thể chư Phật lúc nào Thầy cũng dạy cho con cả.” “Con không thấy,” người đệ tử trả lời. Sùng Tín bảo: “Con đưa ly nước, Thầy đưa tay nhận, con chấp tay xá Thầy, Thầy chấp tay xá lại, con mời cơm thì Thầy gật đầu. Thầy chưa khi nào mà không đáp lời con cả. Rõ ràng là Thầy truyền giáo lý thượng thừa cho con từng phút, từng giây, từng sát na.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người đệ tử cũng khá thông minh, anh ngần ngừ. Sùng Tín tiếp: “Nếu con hiểu thì tức khắc hiểu, nếu ngay đây không hiểu mà vận dụng ý thức thì con càng chối bỏ đạo.” Ngay lúc đó người đệ tử sụp lạy: “Con xin thâm tạ ơn Thầy đã dạy đạo cho con.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đây là một công án nhà Thiền, nhưng đâu có gì khó hiểu? Có phải không? Cũng như công án Uống Trà Đi của Triệu Châu. Dĩ nhiên hai công án nầy trao cho ta một điều lý thú là thực tế chẳng có gì ghê gớm phía sau nó cả. Chúng ta thường hay nghĩ là chắc có gì bí ẩn ghê gớm nằm đằng sau. Nhưng đây chỉ là cách mời gọi ta làm sao sống được với sát na tâm ban đầu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tâm thức chúng ta thường mong mỏi, đón chờ nơi vị Thầy dạy cho mình một điều gì, nói với mình một câu gì. Chúng ta luôn nôn nóng, hướng ngoại, tìm cầu trong khi Thiền sư chỉ khai thị một điều duy nhất như đánh thức ta hãy biết quay trở lại chính mình nhận cho được tâm Phật sáng chói đang có mặt ngay nơi đây và giờ phút nầy. Người nhận được tự thể tâm của chính mình; nhận được nó và có niềm tin vững chắc thì thưa quí vị, con đường mở rộng thênh thang.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dĩ nhiên, con đường nầy không phải là con đường chỉ dành riêng cho người xưa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta nếu có duyên với đạo, nắm được pháp môn miệt mài thực tập, đủ thông minh để sống từng sát na với tâm ban đầu và lúc nào cũng an trú trong vùng trời tĩnh lặng, chói sáng của tâm Phật bản nhiên thì thành tựu không khác gì người xưa cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, sau đây chúng ta sẽ lần lượt đi vào từng phần nội dung bốn câu hỏi: “Điều gì là thiện? Điều gì là lớn? Điều gì là mạnh? Điều gì là sáng?” và Đức Thế Tôn đã trả lời như sau:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Thực hành chánh đạo, giữ sự chân thật là thiện. Chí hợp với đạo là lớn. Nhẫn nhục là mạnh nhất. Đoạn tận tâm ô nhiễm là ánh sáng không có nhật nguyệt nào sánh bằng”.
[/FONT]<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Hanh_Dao_Thu_Chan_01.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Hanh_Dao_Thu_Chan_02.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Hanh_Dao_Thu_Chan_02.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
Hành Đạo Thủ Chân (tt)

[FONT=Arial,Helvetica]4. Thực hành chánh đạo, giữ sự chân thật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta có thể chia “Thực hành chánh đạo” ra làm nhiều cấp độ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Cấp độ cạn nhất là chúng ta thấm nhuần được giáo lý của Phật dạy, hành xử với cuộc đời theo tiêu chuẩn của đạo lý, của chân lý tương đối nhân gian gọi là giữ gìn chánh đạo. Hiểu lý và thực tập sống trong đời bằng tâm hiền thiện như thực hành Tam qui ngũ giới, Bát chánh đạo... Và chúng ta không nên xem thường các điều ấy vì đó là căn bản của cuộc sống.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ chúng ta là một người chưa từng thực tập những điều căn bản nhất trong cuộc sống đời thường mà bước vào đạo thì sẽ có nhiều trở ngại trên bước đường tu. Ác nghiệp rất lớn của mình sẽ biểu hiện ra nhiều sự ngăn trở làm cho ta khó đến với đạo, khó mở con mắt tuệ. Có rất nhiều chướng ngại, chướng duyên ngăn trở đường tu của mình. Cùng xuất gia như mình mà người ta thì an nhiên trong đạo, tu tập đàng hoàng; còn mình ở ngoài đời thường đang khỏa mạnh, đến lúc xuất gia mới năm, mười hôm thì bệnh lên, bệnh xuống. Đó là một loại trở ngại. Cho nên căn bản cho sự hành trì Phật pháp là xây dựng thiện tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đến khi bước vào đạo, bước vào thế giới nhà chùa điều tu tập nền tảng là sự khiêm tốn. Sống hài hòa, lòng yêu thương, sự rộng lượng là nền tảng phước đức vững vàng tạo sức đẩy cho ta tiến thẳng vào đạo. Nếu như tâm khiêm tốn không có thì trên bước đường tu học chúng ta chậm tiến, không phát triển trí tuệ được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu lòng yêu thương độ lượng, bao dung của mình không có mặt nhiều khi suốt cả đời tu không làm được điều gì để giúp ai tu tập. Chúng ta muốn truyền đạt tri thức Phật học, muốn dạy dỗ Phật tử, muốn nói cho người khác nghe, đều đòi hỏi “từ tâm” chúng ta phải lớn. Từ tâm với người, từ tâm với các loài động vật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong giới sát, Đức Phật dạy: từ loài biết cử động nhỏ nhoi, đến động vật cao cấp cho đến sinh mạng con người chúng ta đều phải bảo hộ, đều phải cẩn trọng, chớ có sát sinh. Và do vậy, người tu chúng ta muốn đi trọn con đường tâm linh, mở rộng tâm từ thấm nhuần đại địa thì phải ăn chay. Đó là nguyên tắc không thể né tránh được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có những nghiên cứu rất chính xác cho thấy mỗi một tâm thức biểu hiện ra một loại hình hài. Loại tâm thức thấp kém, nhiều sân si thì biểu hiện ra hình hài nằm sát đất, bò loăng quăng trên mặt đất, không có chân như loài rắn. Nếu chúng ta ăn thịt những loài mà tâm thức có nhiều độc tính vào trong thân dĩ nhiên ta đã làm đời sống tâm linh của mình chùng xuống ngang loài động vật. Và hằng ngày chúng ta cứ thâu nạp loại thức ăn như vậy, vô tình chúng ta đưa tâm thức ta chìm xuống.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hơn nữa những loại động vật trong quá trình bị đem ra giết thì sự hoảng sợ, tức giận, bất an, thù hận rất lớn có mặt trong từng tế bào thân thể nó và không dễ xóa được sau khi đun nấu. Thế nên ăn vào là chúng ta đã thâu nạp những loại tâm thức như thế đi vào cơ thể ta. Đó là điều cản trở sinh hoạt tu tập. Cho nên mức độ cạn trong nền tảng tu tập thì ăn trường chay, sống phạm hạnh, giữ gìn tâm hiền thiện là căn bản không thể chối bỏ được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Cấp độ thứ hai của sự thực hành chánh đạo là khi chúng ta đã nếm được hương vị Phật pháp thì yêu cầu của thực tập là thường xuyên, miệt mài, liên tục. Không có một hạt giống nào bỏ xuống đất, một ngày mưa, năm mười ngày nắng mà lên mầm tốt tươi được. Chúng ta tu là gieo hạt mầm trí tuệ để nở hoa giác ngộ nên sự điều tiết rất quan trọng. Không nôn nóng cũng không buông lỏng. Chúng ta tu bổ, sửa sang những gì bên ngoài rất dễ nhưng để sửa đổi tập khí một đời rất là khó. Nếu tu phất phơ thì cả một đời không làm sao chuyển được nghiệp? Nghiệp giận, nghiệp hờn, nghiệp sân si rất khó diệt trừ, nó có gốc rễ rất sâu. Nghiệp giận theo nguyên tắc thì càng già càng phải bớt, nhưng càng già mình càng giận hơn lúc trẻ. Tham đắm, giận hờn, đam mê; ba điều đó cho dù hình hài có già cỗi, mòn mỏi cũng không thể mất được. Thế nên những nghiệp thức nằm rất sâu trong tâm thức, chúng ta phải miệt mài công phu từng phút, từng giây, không buông lơi mới mong chuyển được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thực hành chánh đạo tới mức tột cùng là công phu của các vị Bồ Tát. Khi thực hành công phu viên mãn, đi vào đời làm đạo không phải chỉ cho cá nhân mình. Tùy theo công huân của sự tu tập, có đạo lực vững vàng mà con đường hành đạo mở ra rộng hay hẹp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ công phu thực tập của ta nằm trên bình diện học thuật, tri thức thì trong tương lai nếu hội đủ điều kiện làm đạo thì chúng ta sẽ dạy người về tri thức, học thuật. Nếu chúng ta đi vào chiều sâu của công phu thực tập thì cách ta dạy sẽ là sự thực tập. Chúng ta có thể thấy rõ hai hướng hoằng pháp nầy qua cách dạy đạo của các bậc thầy hiện tại. Những vị thầy dạy chúng ta học rất nhiều nhưng dạy chúng ta tu không có bao nhiêu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Muốn dạy người ta tu đòi hỏi phải có trình độ tu chứng, thực nghiệm; có nghĩa là mình phải tu mới dạy người ta tu được. Chúng ta đừng tưởng cứ khoác pháp phục như Phật, hình tướng giống Phật, nói những lời kinh điển của Phật mà có thể dạy người ta tu được. Khuynh hướng của Phật học bây giờ đang đi trượt lên trên lãnh vực ngôn ngữ, chữ nghĩa, triết lý. Hầu như các trường Phật học bây giờ không có chương trình đào tạo chuyên tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin chia xẻ để quí vị lưu ý một điều quan trọng của người khoác áo tu. Tuy con đường học Phật là sự cần thiết vô cùng thuở ban đầu, nhưng điều quan yếu hơn nữa là phải đi vào sự thực tập. Chúng ta có thực tập thì mới có khả năng truyền đạt cho người khác những gì họ cần. Nếu chưa thực tập, không thực tập, chỉ là người học Phật thì sự truyền đạt của ta nếu có cũng chỉ trên bề mặt kiến thức. Đó chỉ là mặt cạn và không thể giúp người ta chuyển hóa được những bất an, đau khổ...[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bản thân chúng ta nếu chỉ học Phật thôi, chưa thể giúp người được thì chưa phải là người tu thật sự. Nếu cứ y trên ngôn ngữ, chữ nghĩa lâu dần Phật giáo chỉ là môn triết học như mọi môn triết học khác, mà không phải là dòng suối tuệ giác cứu người, cứu đời. Đây là những nét từ cạn đến sâu trên con đường tu cho đến hoằng đạo của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Điều thứ hai là giữ sự chân thật. Chân thật là một đức lớn nhất của người tu. Chưa phải người tu, chỉ là người thường thôi nhưng nếu có đức nầy cũng là một viên kim cương trong cuộc đời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khuynh hướng xã hội hiện tại càng ngày càng đi vào nẻo không chân thật, cho nên kiếm được một dòng tu chân thật, được một người chân thật trong đời không dễ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có hai điểm chúng ta cần lưu ý là có những hành xử chân thật mà không có trí tuệ thì đưa đến tình trạng rất vụng về. Chân thật nhưng phải có trí tuệ đi vào. Nếu có trí tuệ mà không có sự chân thật thì trở thành lừa dối, và chỉ là một nghệ thuật màu mè để thu phục lòng người, không có thực chất bên trong. Cho nên chúng ta phải thầm hiểu giữ sự chân thật tức là có mặt lòng yêu thương, hành xử thông minh lịch sự. Là vượt qua trình độ của sự vụng về bé thơ, chứ không phải là sự chân thật dại khờ của trẻ nhỏ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Quí vị có thể qui chiếu lại tâm thức, và xin nhớ sự chân thật phải có nền tảng là trí tuệ bên trong. Khi có nền là trí tuệ thì sự chân thật nầy là sức hút rất lớn cho người tu chúng ta. Sức hút thứ nhất là đẩy chúng ta về hướng an lạc và giải thoát rất dễ. Thứ hai là chúng ta dễ dàng mở rộng con đường vào đời làm đạo. Trong Kinh Duy Ma Cật có câu: “Trực tâm thị đạo tràng” là tâm mà chân thật, đó là đạo tràng hoằng pháp rất lớn. Lòng chân thật nằm trên nền trí tuệ nên năng lực giáo hóa, năng lực tu rất mạnh đẩy chúng ta đến quả giải thoát rất nhanh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]5. “Chí hợp với đạo...”[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta có thể chia ra làm hai tầng trong câu nầy. Chí hợp với chân lý tương đối và chí hợp với chân lý tuyệt đối của cuộc đời. Như quí vị đã biết tương đối là bình diện Sinh diệt môn, là bình diện Tích môn. Và bình diện Bản môn là chân lý tuyệt đối (Chân như môn). Bình diện nầy đã được biểu đạt ra rất nhiều tên mà đôi khi chúng ta chưa hề biết. Như cách đây hai năm, tôi ghé thăm một Thiền viện Đại Hàn thấy họ để chữ “Đệ Nhất Nghĩa” nơi Đại Hùng Bửu Điện hay Bất Nhị Môn nơi cổng vào, tôi rất lạ vì chưa từng thấy Thiền viện nào để chữ như vậy. Cho nên trong văn học Phật giáo Đại thừa hay Thiền tông chân lý tuyệt đối nầy biểu đạt ra nhiều tên, nhiều dạng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Ở bình diện cạn, “chí hợp với đạo” có nghĩa là chúng ta phải vận dụng ý chí, năng lực của tự tâm. Điều gì mà cần cố gắng, đòi hỏi vận dụng ý chí thì bên trong đều có bản ngã. Khi chúng ta vận dụng ý chí làm đều nầy, điều nọ là còn thấy ta làm; còn cái ta, còn bản ngã trong đó nên gọi là tương đối và điều gì mà chúng ta vận dụng công phu, cố gắng thì không phải tự nhiên. Trong khi nguyên lý của đạo tuyệt đối là tự nhiên. Chân tâm, Phật tánh, Bản thể bất sinh, bất diệt của ta vốn tự có, là tự nhiên. Và chúng ta trở về sống với tâm chân thật của mình tức trở về với trạng thái yên bình, tĩnh lặng tỏa sáng cũng rất tự nhiên.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Mặt biển không phải tự nhiên sóng nổi ba đào, phải có năng lực bên ngoài xô đẩy mới hình thành sóng được.Ví dụ khi tay ta nắm cứng là ý chí có cố gắng, còn tự nhiên là tay buông lỏng thong thả. Như khi chúng ta thực tập đem tâm về an trú trong từng hơi thở, thì điều đầu tiên là chúng ta vận dụng ý chí để kéo tâm đặt vào hơi thở, nếu lơi lỏng là tâm bay khỏi hơi thở. Dù muốn, dù không thì lúc nầy hơi thở đã có sự mệt nhọc, cố gắng và mất tự nhiên rồi. Nhưng khi ta đã thực tập thuần thục thì hơi thở vào ra rất nhẹ mà không cần có sự cố gắng nào cả mà tâm ta luôn an trú trong hơi thở.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ nhỏ nầy để quí vị biết rằng khi chí hợp với đạo mà ta phải vận dụng ý lực, công phu đem mình về, nuôi dưỡng mình bằng cái thiện, đó chỉ là ở bình diện tích môn thôi. Nhưng cũng từ bình diện tích môn nầy chúng ta mới có thể đi vào chiều sâu được. Bình diện nầy biểu hiện ra tâm thức thương đạo, tu tập học hỏi, đem công sức của mình giữ gìn Phật pháp, đền ơn Tam Bảo, nên có tích môn mới có bản môn. Nếu không có tích môn thì không có bản môn. Cũng như không có những cơ sở vật chất đi trước thì sẽ không có gì để đào tạo con người theo sau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, trên lãnh vực tích môn, nếu không có những ông Thầy quê mùa giữ gìn Phật pháp trong thời buổi khó khăn, không có trường lớp để học hành, không có Già lam để tập trung chư tăng lại thì ai là người giữ gìn những trang Kinh, giữ gìn chùa chiền, tự viện... để cho Phật pháp có cơ hội phục hưng, trổi dậy, trường tồn?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng có điều rất hay là Tứ quy y tức là ngoài việc quy y Phật, Pháp, Tăng, họ còn quy y với vị Thầy bổn sư của mình. Vị Thầy thế phát cho họ ơn lớn ngang với Tam Bảo. Cuộc đời người tu cùng sinh mạng của người đệ tử trong truyền thống Mật Thừa thường được giao trọn cho vị Thầy của mình quyết định. Thế nên, thường Tăng hay phàm Tăng đều có những đóng góp tất nhiên đáng cho ta quí kính. Do vậy, với cái nhìn rộng hơn, bao dung hơn thì ta cảm thông được bình diện Tích môn nầy mà không bao giờ phê phán, đánh giá những vị thầy với Phật sự lao xao trong thế trần. Và dĩ nhiên mức độ của sự tu tập ban đầu là ta đi vào lãnh vực tương đối. Nếu chúng ta chưa đặt chân trên bình diện tương đối nầy tu tập, chắc chắn chúng ta không có thể đi xa hơn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Bước qua tầng thứ hai của chân lý tuyệt đối thì “chí hợp với đạo” là lấy trí tuệ làm sự nghiệp, và thành tựu Niết Bàn. Đó cũng là bản nguyện của người tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường trí tuệ là con đường duy nhất đi vào quả Niết Bàn. Tuy vẫn có những con đường khác để chúng ta đi vào Niết Bàn nhưng thường hay có những cạm bẫy trên bước đường hành trì. Như con đường của bố thí, của thực hiện từ tâm... là con đường nhiều cạm bẫy. Sao gọi là cạm bẫy? Ví dụ khi chúng ta bố thí sẽ tạo được phước hữu lậu rất lớn, thông thường phước hữu lậu lớn thì cuộc đời ta sẽ giàu sang, danh vọng... Con đường đưa đến danh vọng nầy lạc dẫn chúng ta đi vào nhiều nẻo không thể tiến thẳng vào thành trì Niết Bàn được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi con người leo lên đỉnh danh vọng, sự nghiệp vật chất thành đạt thì khó vẫy vùng để thoát ra được. Người tu mà lạc vào đó là bị chìm vào cạm bẫy. Nếu quí vị là những người đứng trên đỉnh của công danh, của sự nghiệp; là một ông thầy tu lớn được trọng thị và giàu có thì con đường trí tuệ không thể phát triển được. Trong bước đường vươn tới đạo quả Niết Bàn, nếu lạc vào nẻo của vật chất hữu lậu lớn lao, có lợi danh, tiền của thì chúng ta sẽ miệt mài đi rất xa trong danh sắc khó thành tựu Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên chúng ta lưu ý chỉ có trí tuệ là con đường ngắn nhất để thành đạt đạo quả. Con đường nầy có thể trong một đời cắt ngang rất nhẹ dòng chảy sinh tử luân hồi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, cái đích cuối cùng của người tu là phải thành tựu Niết Bàn. Trong pháp môn thực tập nếu chúng ta nhận ra được phương pháp chánh niệm, thì điều quan trọng nhất trong từng hơi thở làm thế nào để sống với chánh niệm từng phút giây một, tức chúng ta đang an trú trong vùng trời Niết Bàn tự tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]6. “Nhẫn nhục là sức mạnh.”[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Điều đầu tiên tôi xin chia xẻ cách thế biểu lộ của Nhẫn. Thông thường dưới cái nhìn của chúng ta sự nhường nhịn giống nhau, nhưng thật sự rất khác biệt trong nội dung của nó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở mặt cạn nhất, ta có thể nhịn vì yếu thế, vì thiếu quyền uy, yếu về tài chánh, yếu về nhiều thứ nên ta nhịn. Sự nhịn nhục nầy chưa phải là sức mạnh. Ta nhường nhịn nhưng trong lòng vẫn khốn đốn, bất an.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thứ hai, thù hận rất lớn nên ta nhịn và trong sự nhịn nhục nầy ngầm hứa hẹn sự trả hận. Nhẫn nhục loại nầy bàng bạc trong sử sách, trong truyện cổ. Như chuyện Câu Tiễn Việt Vương bị Ngô Phù Sai bắt làm tù binh khi thất trận. Biết bao nhiêu cùng cực của tủi nhục đổ lên thân phận vị Vua sa cơ. Như một tên nô lệ, ông phải làm những việc thấp hèn nhất nhưng lòng vẫn nhẫn nhục chịu đựng. Càng bị đọa đày Việt Vương Câu Tiễn càng nhẫn nhục đến độ đã nếm phân đoán bệnh của Ngô phù Sai để lấy lòng tin. Sự nhẫn nhịn nầy mang trong lòng thù hận rất lớn. Càng nhịn càng thù hận và nuôi trong lòng ý phục thù.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có sự nhịn nhục vì tâm thức lợi dụng người nên nhịn. Tuy rất chán ghét, rất thù hằn nhưng nghĩ con người đó có thể trao cho ta điều kiện có thể lợi dụng được nên nhịn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ba sự nhịn nhục tôi vừa chia xẻ biểu lộ một tâm thức tiêu cực tàn phá chính chúng ta, không có sức mạnh như đạo Phật muốn nói. Sự nhẫn nhịn trong đạo Phật có nền là trí tuệ. Trí tuệ loại trừ sự yếu kém từ nên trong, loại trừ sự thù hận, loại trừ tâm thức lợi dụng người. Và nền tảng của nhẫn nhục là do lòng yêu thương rất lớn nên nhịn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta thường thấy có những người bị chọc giận thì họ biểu lộ liền sự bất mãn ra ngoài mặt, biểu lộ ra bằng hành động. Ấy là người yếu. Người có hùng lực là người trước những khó khăn, ngang trái của cuộc đời đổ lên vẫn mỉm cười, không có phản ứng tiêu cực.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở mức độ cạn của tâm lý thì những người mở miệng buông lời hùng hổ, nhưng thực sự lòng mềm như đậu hủ. Còn những người bên ngoài nói năng dịu dàng, mềm mại, dễ thương ta đừng tưởng là người yếu. Có khi đó là loại người rất cứng rắn. Bên trong rắn bao nhiêu, bên ngoài mềm dịu bấy nhiêu. Đó là nguyên tắc âm dương hỗ tương cho nên chúng ta hãy lưu ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, khi có trí tuệ, yêu thương làm nền bên trong người ta rất mềm, rất dịu nhưng cũng rất cứng khi cần, nên ta gọi đó là sức mạnh nhẫn nhục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhẫn nhục là chúng ta không cần thanh minh, biện bạch khi bị hàm oan, không cần đề kháng với những bất trắc, khó khăn từ cuộc sống đổ lên ta. Chúng ta sống kiêu hùng vì biết việc mình làm được đặt trên nền tảng trí tuệ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thứ đến là lòng yêu thương bao la nên cảm thông với mọi người, chỉ biết hiến dâng cho người những lợi ích mà nhẫn nhục, vì không muốn làm tổn thương đến một ai mà nhẫn nhục. Cho nên sự nhẫn nhục mạnh nhất được đặt trên nền tảng quan trọng là trí tuệ và yêu thương. Đây là sức mạnh của nhẫn lực trong đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thành quả đầu tiên của sức mạnh nhẫn nhục là lau sạch oán thù, oan trái. Trong nhà Nho có câu: “Nhẫn, nhẫn, nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận.” Có nghĩa “nhịn nhịn nhịn; những oan trái bao đời, bao kiếp, những oan gia đối đầu từ nơi sự nhẫn nhịn mà sạch hết.” Tại sao câu nầy có đến ba chữ nhẫn?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa, có nghĩa là nhịn từ miệng, nhịn từ nơi thân, nhịn trong tâm thức. Thân, khẩu, ý đều phải thanh tịnh, êm dịu thì bao nhiêu oan trái hận thù của cuộc đời đều chấm dứt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hành tinh ta đang xáo trộn, bất an, khổ đau và chiến tranh hoạn họa liên miên do vì người ta nghĩ rằng vũ lực là sức mạnh và dùng nó để đàn áp đối phương mới là mạnh. Thực tế không phải như chúng ta tưởng mà thực tế là trí tuệ và yêu thương biểu hiện ra bằng sự nhường nhịn mới là sức mạnh. Sức mạnh nầy thu phục nhân tâm, xóa tan đi những oan trái thù hận đem tới an bình, tịnh lạc. Chỉ có những tâm hồn với nhẫn lực vô song mới làm được việc nầy. Không có một vị Đạo sư nào hành đạo, có sự nghiệp lớn mà không có đức nhẫn lớn cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sự nhẫn nhục đem đến sức chinh phục dễ dàng. Như trường hợp Ngài Tinh Vân, là một bậc Thầy lớn của Trung Hoa. Hiện tại sự nghiệp và công trình hoằng pháp của Ngài trên thế giới hầu như nơi nào cũng đều có tên Phật Quang Sơn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngoài lòng từ mênh mông, phải kể đến sự nhẫn nhục vô bờ của Ngài được ghi lại ít nhiều trong tự truyện.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và thành quả của nhẫn lực ở mức độ cạn là dứt hết thù hận; lớn hơn là mở rộng con đường hoằng pháp, và lớn hơn nữa là ta thành tựu quả Bồ Đề, chứng được chánh giác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong nhẫn nhục còn có đặc tính của năm Ba La Mật khác như bố thí, trì giới, tinh tấn, thiền định và trí tuệ hỗ tương. Nếu ta thiếu những yếu tố như từ bi, trí tuệ, tinh tấn thì chắc chắn chúng ta không tạo được sức mạnh của nhẫn nhục. Chúng ta nên lưu ý đây là hạnh rất khó thực tập mà công năng của nó lớn vô cùng. Để thực tập được sự nhường nhịn không phải là điều dễ. Ta thử làm một điều là nhường nhịn những đứa em của mình xem có dễ không? Nhường nhịn người lớn không khó, nhưng nhường nhịn người sinh sau, nhỏ hơn ta và thua ta khó hơn nhiều.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hơn nữa, mình là thân phận một thầy tu lớn, một sư cô lớn... khi muốn mở rộng con đường hoằng pháp, truyền đạo để cho người ta học hiểu Phật pháp ta phải là người có đức nhẫn sâu dày.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có khi tu khi càng lâu, bản ngã càng cao nên năng lực nhẫn của ta bị bào mòn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Do vậy hãy thực tập nhẫn nhục nầy từ những điều thật nhỏ. Khoan nói đến làm những việc quan trọng, to lớn. Thử làm một điều nhỏ, ví dụ ta quy định là một ngày có một giờ đọc kinh, một giờ nghe pháp, một giờ đi thiền hành... dù có bận cũng phải giữ gìn đúng thời khóa đều đặn, bền bỉ từng ngày như thế. Hãy làm công việc nầy với chính mình trước, nếu làm được thì ta đã là người có năng lực nhẫn rất mạnh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta thường hay đánh giá sự thành tựu của tu tập là những gì lớn lao, nhưng kỳ thực không phải thế. Người xưa nhận định năng lực của từng người không phải ở việc lớn, không phải ở chuyện tài giỏi ta phô trương trước mặt ho,ï mà họ lượng định ta trong cung cách rất bình thường như uống một ly nước, bước một bước đi hay nói chuyện với người một câu... Ở đó biểu lộ tâm thức tự nhiên, không có ý chuẩn bị trước nên phơi bày rõ ràng đời sống bên trong của ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chuyện xưa kể có Ngài Quan Tạng đến đảnh lễ Thiền sư Đông Vân xin cúng dường công đức khắc tượng Phật. Trước khi chấp thuận cho Quan Tạng ở lại khắc tượng, Ngài Đông Vân bảo Quan Tạng hãy ra giếng múc nước đổ vào thùng dùm Ngài. Nước múc chưa đầy thùng, Đông Vân truyền cho Quan Tạng hãy xuống núi, không được ở lại tự viện một đêm nào cả. Rất ngạc nhiên trước câu nói quá bất ngờ, Quan Tạng hỏi lý do nhưng không được trả lời. Một số đệ tử Ngài Đông Vân thấy trời tối thương tình năn nỉ xin cho ông ngủ qua đêm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sáng mai lại, Đông Vân mới cho Quan Tạng biết vì ông đã làm nước rơi đổ vung vãi khi múc từ gàu vào thùng. “Một giọt nước giếng của Già lam tuy nhỏ nhưng không phải là thường, một chút nước có thể cứu sống mạng con người, cỏ cây, cầm thú. Việc múc một gàu nước ông làm còn chưa xong huống hồ công việc điêu khắc Phật tượng là công việc đòi hỏi đức nhẫn nại, tâm khiêm tốn biết quý tiếc từng chút tài sản của Tam Bảo, thế nên ông đâu có đủ công đức lành khắc tượng Phật để lại cho đời sau.” Nghe xong Quan Tạng đổ mồ hôi, sụp lạy: “Lạy Thầy, con chưa bao giờ nghe ai dạy điều nầy.” Từ đó Quan Tạng được thu nhận vào làm đệ tử.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Câu chuyện nói lên cho ta một điều người xưa dạy dỗ, chăm chút cho môn đồ rất kỷ. Từ việc rất nhỏ cho đến việc lớn. Nhìn cách thế hành xử của đệ tử là họ đã đánh giá sự thiếu thận trọng, thiếu khiêm tốn rồi. Chúng ta nên lưu ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, nhẫn nhịn là hạnh khó thực tập. Không những ta chỉ nhịn với người mà ta còn nhẫn nhịn với chính thân mình. Là người tu để đi trọn con đường hướng thượng đòi hỏi từng chút, từng chút thực tập; cẩn trọng trong cách giữ gìn của Tam Bảo, cẩn trọng trong cách thực tập uy nghi... Đây là những điều căn bản, nếu ta không xây dựng được những điều nầy thì đừng hòng nói đến việc lớn hơn. Nền tảng vững vàng cho ta, ta chưa bước được thì chúng ta không thể đi xa hơn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đời người không dài, ta không có nhiều thời gian để thả trôi cuộc sống một cách phí phạm. Chúng ta phải sống chân tình hết sức, hết lòng. Cẩn trọng trong cách hành xử và điều phục thân tâm, đừng cô phụ chính mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]7. Tỏa sáng từng sát na.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Cuối cùng, chúng ta đi vào câu hỏi rất quan trọng của chương mười lăm: “Điều gì là sáng?” Đức Thế Tôn đã trả lời như sau: “Tâm cấu diệt tận, tịnh vô hà uế, thị vi tối minh.” Có nghĩa là tâm ô nhiễm đã được đoạn tận, không còn dấu vết gọi là sáng nhất. Vì tất cả mọi vật trong mười phương từ vô thỉ, thủa chưa có đất trời cho đến ngày nay không vật gì là không thấy, không vật gì là không biết, không vật gì là không nghe, đạt được nhất thiết trí như vậy gọi là sáng nhất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở đây có một từ quan trọng chúng ta nên làm quen để đi vào là “Nhất thiết trí.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Căn cứ vào Đại Trí Độ Luận của Ngài Long Thọ thì người thành đạt được đạo quả, loại trừ tất cả mọi cấu nhiễm của tâm sẽ chứng được ba loại trí. Một là Nhất thiết trí, hai là Đạo chủng trí, và ba là Nhất thiết đạo chủng trí.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người ta phân định theo văn học Bát Nhã thì Nhất thiết trí là dành cho Thanh Văn, Duyên Giác, Đạo chủng trí dành cho các vị Bồ Tát và trí thứ ba dành cho Phật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ giải thích của văn học Bát Nhã chúng ta nhìn lại thì người khi đã đoạn trừ được những nghiệp thức vi tế, chứng được Niết Bàn; không có cái gì không thấy, không có cái gì không biết, không có cái gì không nghe tức chứng được tam minh, lục thông. Nhưng giải thích nầy chưa đủ bao hàm nghĩa của văn học Kinh Bốn Mươi Hai Chương[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sau đó người ta còn phân định thêm Nhất thiết trí ở một tầng văn học khác, đó là văn học của Bồ Tát tức là Bồ Tát Địa Trì Kinh: thứ nhất là Thanh tịnh trí, thứ hai là Nhất thiết trí, thứ ba là Vô ngại trí.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Theo Bồ tát Địa Trì Kinh định nghĩa tầng thứ nhất là đoạn trừ những tập nghiệp phiền não rất vi tế, tâm thức lắng sạch thì thành tựu được Thanh Tịnh Trí. Ví dụ người tu như chúng ta tâm hành giận được biểu hiện ra ngoài làm mặt đỏ gay đó là phần thô, ta loại trừ được. Nhưng nếu có ai xúc phạm, làm tổn thương, ta nghe trong lòng có gì bất an, hơi hờn hờn. Trạng thái tâm hành nầy ta có thể che đậy được với người nhưng tự trong tâm ta cảm nhận cái giận vẫn còn, sự tinh tế của giận vẫn chưa loại trừ tức chưa đạt đến sự thanh tịnh như định nghĩa của Kinh Bồ Tát Địa Trì.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tầng thứ hai, Nhất Thiết Trí là trong tất cả thời, tất cả cảnh, tất cả việc, trong tất cả thể loại, trong tất cả tướng đều được trí tuệ soi sáng gọi là người chứng được Nhất Thiết Trí. Năng lực của trí tuệ nầy rất sáng, rất bén nhạy. Quá khứ, hiện tại, tương lai đều nhìn suốt thông. Trong mọi lãnh vực của không gian; không gian ở đây, không gian quá khứ hay của hành tinh xa xôi nào cũng đều thấy biết. Trong mọi chủng loại nhìn là biết không cần vận dụng tư duy gì cả. Trong tất cả tướng trạng của tâm thức, của thân và tâm, của mình và người... đều có sự sáng tỏ nhận biết gọi là người thành đạt Nhất Thiết Trí.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tầng thứ ba là Vô Ngại Trí của các bậc Bồ Tát chứng đạt được Trí tuệ nầy trực tiếp, không cần nhờ phương tiện của tư duy bên trong, không cần đến vận dụng ngôn ngữ, học tập gì bên ngoài. Sự hiểu biết nầy bén nhạy, trực tiếp suốt thông và sáng tỏ khắp mọi lãnh vực gọi là Vô Ngại Trí.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Qui chiếu lại, Nhất Thiết Trí nầy giải thích được trạng thái chứng nghiệm của các vị đệ tử của Đức Thế Tôn, khi tâm cấu uế diệt trừ không còn dấu vết gì thì đạt đến Nhất Thiết Trí. Và Nhất Thiết Trí của văn học Bồ Tát tương ưng với giải thích của văn học Kinh Bốn Mươi Hai Chương.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, khi trả lời câu hỏi: “Gì là sáng nhất?” của vị Sa môn, Đức Phật có nói đến hai chữ “tối minh”. Tối minh là loại trừ hết sóng thức nhỏ nhiệm đang trôi chảy. Tức những tập nghiệp ô uế, cáu bẩn không còn một dấu vết gì. Từ chuyên môn của Duy thức tông gọi là đoạn trừ sạch “chủng tử sinh diệt lưu chú” nơi đệ bát thức. Và chúng ta cũng nên hiểu “tối minh” là con đường thành đạt Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người xưa thường gọi tâm thức của mình là hằng chuyển như bộc lưu. Bộc lưu là suối nước. Trong mắt của chúng ta, suối nước như một dải lụa trắng treo từ trên không thả xuống, nhưng thực tế đó là sự kết hợp từ những phân tử nước thành dòng suối, không phải là dải lụa. Từ đó cho chúng ta thấy rõ tâm thức được ví như một dòng suối luôn chảy miên man không ngừng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dạng thô nhất của tâm thức cho chúng ta biết những tiếng thì thầm bên trong chưa bao giờ ngưng nghĩ, chấm dứt. Vào ban đêm khi ngủ, ý thức không làm việc, nhưng từ bên trong sâu thẳm sự vận hành của tâm thức, tiếng nói thì thầm vẫn có mặt liên tục. Thực tế khi ta nhắm mắt lại, ý thức của ta không biểu hiện lên bề mặt thành những tiếng thì thầm cho ta nhận diện, mà nó chìm như những đợt sóng ngầm và chảy liên tục trong tâm thức ta rất mịn khó nhận biết. Ta gọi đó là những vi tế hoặc nghiệp. Điều nầy đôi khi hiện lên rất rõ như khi ta buồn mà không biết mình buồn vì chuyện gì. Có những lúc ta giận mà chưa hiện hình thành những tiếng nói thì thầm của cơn giận, nhưng sự hầm hầm trong tâm, ta có thể nhận biết. Rõ ràng có một dòng nghiệp thức như thác trong tâm thức ta, nên gọi là “hằng chuyển như bộc lưu”,“chảy liên tục như thác đổ.” Và thành đạt con đường Niết Bàn tức là loại trừ tất cả ô uế, cấu nhiễm của tâm không còn dấu vết gì, là lúc ta đoạn trừ được dòng chảy tâm thức miên man như suối nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]8. Con đường Niết bàn gần hay xa?[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Để có một khái niệm về con đường Niết Bàn là con đường gần mà xa, tôi xin kể chuyện chính cuộc đời của Đức Phật từ khi phát tâm cho đến khi chứng được tuệ giác, thành đạo đã từng trải qua hằng sa kiếp. Lúc Ngài còn bị đọa dưới ngục A Tỳ do tội Ngài đã bất hiếu với mẹ. Vì giận mẹ quá nên Ngài đã đưa chân đạp lên đầu mẹ mình và Ngài đã bị nghiệp là chịu một vành sắt nóng đỏ đầy gai nhọn trùm lên đầu đốt cháy, đau đớn vô cùng. Khi nỗi khổ đang thiêu đốt hình hài, ngay lúc ấy Ngài phát một tâm niệm lành nghĩ rằng nỗi khổ nầy quá lớn, không thể có một chúng sinh nào chịu đựng nỗi. Con xin phát nguyện là đừng có một chúng sinh nào bất hiếu với mẹ của mình. Con xin đời đời, kiếp kiếp đội vòng sắt nầy, để cho mọi chúng sinh trong nhân gian đừng có ai chịu khổ như con. Khi vừa phát tâm niệm lành như thế vòng sắt đang đội trên đầu rơi mất. Từ lúc phát tâm như thế về sau, mỗi kiếp có mặt trong cuộc đời Ngài đều thực hành Bồ Tát Đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Câu chuyện trên trao cho chúng ta là đang trong lúc khốn khó, đau khổ cùng cực nếu ta phát tâm lành thì khổ não của thân, của hoàn cảnh lập tức chuyển đổi. Nhưng bên trong ý nghĩa nầy chúng ta nên nhớ lúc Thế Tôn thành đạo là đã trải qua vô vàn kiếp, cho nên con đường Niết Bàn xa vời vợi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta cũng có thể hiểu thêm là Niết Bàn tuy xa nhưng cũng rất gần. Từ trong văn học A Hàm Đức Phật tuyên bố: “Các ông nên biết là trong hình hài một trượng nầy cùng với tri giác của ta; Như Lai tuyên bố thế gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế gian và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian.” Chúng ta có thể diễn dịch câu nầy bằng một ngôn ngữ gần gũi là Đức Thế Tôn tuyên bố hình hài nầy là đầu nguồn sinh khởi ra cuộc đời nầy. Chúng ta có thể hiểu khi chưa có ta, hình hài ta thì những sở hữu của ta cũng không có (nhà, xe, con cái, vật chất...), và ta chính là chủ của mọi sở hữu vật chất ấy cùng mọi sự hiện diện trên cuộc đời nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hai câu: “Chấm dứt thế gian và con đường dẫn đến chấm dứt thế gian.” có nghĩa là cắt đi dòng chảy sinh tử luân hồi có mặt trong hình hài nầy, là con đường thành đạt Niết Bàn chứ không phải là hủy hoại thế gian. Hay nói cách khác là những bất an, khổ đau, phiền muộn, khốn khó... của con người được sinh ra từ hình hài nầy, và chấm dứt cũng từ con người. Ta là Thượng Đế của chính ta, ta tạo hạnh phúc cho ta cũng như đày đọa ta cũng trong hình hài và nhận thức nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường Niết Bàn tuy xa nhưng cũng rất gần là sao? Xa, nếu chúng ta thả trôi cuộc sống đi qua ngàn vạn kiếp thì không có cách gì thay đổi được. Nhưng rất gần vì nó nằm ngay trong đây, ngay trong hình hài nầy, trong tư duy nầy. Nếu ta chuyển đổi tâm thức ta thì có thể làm cho Niết Bàn hiện diện.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có câu chuyện nói về Thiên đường và Địa ngục mang hàm nghĩa Niết Bàn ở ngay trong tâm chúng ta. Chuyện kể rằng hai giống người ở Thiên đường, Địa ngục rất giống nhau. Thức ăn trên Thiên Đường rất ngon và thức ăn ở Địa ngục cũng ngon giống như vậy. Nhưng ở Địa ngục tay của họ quá dài, không cân đối nên có thể lấy thức ăn, nhưng đưa vào miệng thì không được. Vì vậy họ ngồi nhìn thức ăn mà phải chịu đói, khổ vô cùng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi lên Thiên đường thì thấy người ở đó cũng có cách cấu tạo hình hài như vậy; tay rất dài chỉ lấy được thức ăn và cũng không đưa vào miệng được. Nhưng đặc biệt, người trên Thiên Đường thông minh hơn. Họ đút cho người bên cạnh ăn, người trước mặt ăn, và cuối cùng họ đút cho nhau ăn. Nên không khí vẫn như thế, thức ăn vẫn như thế, con người vẫn thế mà người trên Thiên Đường hạnh phúc, no ấm. Tại sao? Vì họ không cần ăn, họ chỉ cho người khác ăn và người khác cũng cho họ ăn. Trong khi ở Địa ngục ta không ăn được thì không ai được quyền ăn. Do vậy, ai ở đó cũng đói khổ nên trở thành Địa ngục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ chuyện vui nầy quay nhìn lại, chúng ta thấy rõ Niết Bàn rất gần, ở trong trái tim ta, và Niết Bàn cũng rất xa do vì tâm thức của ta đẩy Niết Bàn ra xa, nên gần mà xa là như thế. Và đây là Niết Bàn gần, xa theo tinh thần của Kinh văn giải thích.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, sau đây tôi chia xẻ một cái nhìn rất với gần chúng ta là cái nhìn của Thiền nhân về con đường Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Một trong những Thiền sư nổi tiếng Trung Hoa là Ngài Phó Đại Sĩ đã làm bài kệ như sau:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dạ dạ bảo Phật miên.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Triêu triêu hoàn cọng khởi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hành trụ trấn tương tùy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tọa ngọa đồng cư chỉ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phân hào bất tương ly.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Như thân ảnh tương tợ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dục tri Phật hà tại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chỉ giá ngữ thinh thị.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tạm dịch:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đêm đêm ôm Phật ngủ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sáng sáng cùng Phật dậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đi đứng luôn theo nhau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngồi nằm cùng một chỗ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không xa cách mảy may.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Như hình cùng với bóng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Muốn biết vị Phật nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngay nơi nói năng vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bài kệ nầy biểu hiệu cái nhìn của nhà Thiền đối với trạng thái Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta đi vào những câu kệ của Ngài Phó đại Sĩ có thể nhận biết một điều rất dễ. Chúng ta thường nghĩ trong hình hài nầy chứa rất nhiều năng lượng xấu ác, nhưng quên một điều là cũng trong hình hài nầy chất Phật đã được cài sẵn. Mình mời được chất Phật có mặt là có khả năng cả một đời hạnh phúc. Cũng như trong tư duy nầy, ta có thể nghĩ xấu về người kia, và ta cũng có thể nghĩ đẹp về người kia. Cũng như Thiên đường hay Địa ngục, hạnh phúc hay bất hạnh đều do trong chúng ta có khơi mở được lòng yêu thương hay không mà thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, tôi nói điều nầy để xác định là năng lượng Niết Bàn tức khả năng thành Phật đã có trong ta. Vị Phật trong ta, ta chỉ cần mời gọi là Ngài có mặt. Điều nầy Thiền sư Lâm Tế đã nói rất rõ: “Xích nhục đoàn thượng, hữu nhất vô vị chân nhân, thường tùng diện môn xuất nhập.” nghĩa là “trong hình hài xương thịt phàm phu, có một vị chân nhân vô trụ thường từ cửa mặt ra vào.” Vô vị Chân nhân chỉ là từ dùng khác của tiếng gọi Phật mà thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và Ngài giải thích thêm hình hài nầy không biết nói, biết nghe. Con mắt nầy không biết nhận biết. Tất cả bộ phận con người không có cảm nhận, nói và nghe. Cái nghe được, cái nói được, cái nhận biết được là ở bên trong. Tất cả đều được biểu hiện từ vị Chân nhân nầy, từ con người thật nầy, từ đức Phật nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta vì không đủ thông minh để nhận biết, cũng không đủ niềm tin rằng đây chính là vị Phật nên cả một đời rong ruổi. Do vậy Niết Bàn rất gần mà vẫn cứ xa. Đang ở trong Niết Bàn mà vẫn cứ chạy đi tìm. Đó là lỗi lầm lớn nhất của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa, muốn đi vào con đường Niết Bàn, điều gần nhất là ta làm chủ được vui buồn của chính mình. Nhưng muốn làm được điều nầy, chúng ta phải làm việc gần hơn nữa là lúc nào cũng làm chủ hình hài nầy. Muốn làm chủ được thân ta phải có một ước hẹn với thân; bất cứ một lay động nào của thân, ta đều nhận biết, ta đều ý thức sáng tỏ về nó thì chúng ta mới có cơ may làm chủ được vui buồn. Nếu vui buồn mà ta chưa nhận diện được thì ta chưa thể nhận diện được những tiếng nói thầm của ý thức trôi chảy miên man như một dòng sông. Nếu chúng ta nhận diện được tiếng nói thì thầm bên trong thì lúc bấy giờ tiếng nói thì thầm là cái bị nhận diện, là đối tượng để ta nhìn thấy; còn bản thân ta là năng lượng tỏa sáng, rạng ngời, lặng lẽ nhận biết đơn thuần đang hiện diện. Năng lượng ấy là Niết Bàn. Nó là trạng thái vô niệm của tự tâm có mặt trong hình hài ngũ uẩn nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi muốn lập lại một lần nữa để quí vị lưu ý: muốn đánh một bản nhạc hay, cần phải học từng nốt nhạc, muốn chạy được ta phải tập đi từng bước, từng bước thật vững chãi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Muốn đạt được con đường Niết Bàn, điều đầu tiên là mời tâm ta về lại với thân. Tất cả những cử động của thân ta phải thức về nó, nhận diện nó, giám sát nó. Nếu từ những điều rất căn bản nầy chúng ta thực tập nghiêm túc, luôn mời sự nhận biết có mặt liên tục là từ đây ta đi vào biển Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin xác định là chúng ta có thể làm được. Ai cũng có thể làm được vì ai cũng có khả năng như nhau, có quyền năng như nhau, tài nghệ như nhau không ai thua kém ai, không phải chỉ những người tu mới làm được. Có điều là chúng ta có chịu thực tập, có đam mê thực tập hay không mà thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Đời người cái chết đến rất tình cờ không ước hẹn, nên chưa chắc ta đã có mặt trên cuộc đời nầy vào ngày mai. Điều may mắn nhất của chúng ta hôm nay là đã gặp được dòng tuệ giác của Đức Phật khai triển trạng thái Niết Bàn có sẵn nơi tự tâm của mỗi chúng ta. Muốn chấm dứt kiếp phiêu linh sinh tử, an trú trong Niết Bàn hay không, xin hãy tự chọn.
[/SIZE]
[/FONT]<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Hanh_Dao_Thu_Chan_03.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
Con xin Nhất tâm đảnh lể Phật: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Con xin nhất Tâm đảnh lể Pháp : Nam Mô Khai Bảo Tạng _Kinh 42 Chương_ Đại thừa giáo pháp Bồ Tát.
Con xin nhất Tâm đảnh lể Tăng : Hòa Thượng _ Thích Phước Tinh.
Bài Pháp Thầy giảng quá hay. Con ghi nhớ và thực hành theo lời dạy bảo.
 

Thiện Nhẫn

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 2 2012
Bài viết
52
Điểm tương tác
21
Điểm
8
Tứ Thập nhị chương kinh:

Ðức Phật dạy: "Làm người có 20 điều khó:

1.Nghèo nàn bố thí là khó,

2. Giàu sang học đạo là khó,

3. Bỏ thân mạng quyết chết là khó,

4. Thấy được kinh Phật là khó,

5. Sinh vào thời có Phật là khó,

6. Nhẫn sắc nhẫn dục là khó,

7. Thấy tốt không cầu là khó,

8. Bị nhục không tức là khó,

9. Có thế lực không dựa là khó,

10. Gặp việc vô tâm là khó,

11. Học rộng nghiên cứu sâu là khó,

12. Diệt trừ ngã mạn là khó,

13. Không khinh người chưa học là khó,

14. Thực hành tâm bình đẳng là khó,

15. Không nói chuyện phải trái là khó,

16. Gặp được thiện tri thức là khó,

17. Thấy tánh học Ðạo là khó,

18. Tùy duyên hóa độ người là khó,

19. Thấy cảnh tâm bất động là khó,

20. Khéo biết phương tiện là khó".

[BUBBLE]
Hai mươi điều Phật dạy này, thật sự tn không thể hiểu hết ý, tn muốn học theo ý riêng Huynh, bởi gì Huynh rất tâm đắc.

Như vậy, Huynh có thể chia sẽ? Câu nào Huynh thích thì giải, còn không thì cũng không dám làm phiền, Còn riêng câu 4. Thấy được kinh Phật là khó, tại sao khó?

[/BUBBLE]
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[BUBBLE]
Muốn hiểu hết, tiếp thu hết thì Huynh nên lắng lòng lại, trút bỏ tạp uế trong tâm (rót trà thì phải cạn chung, hoặc là không úp ngược chung trà) và nghe, đọc hết bài giảng của Thầy. Thầy giảng vậy mà chưa hiểu nổi, còn Tớ đáp câu văn thì thô kệch, ý tứ thì thô tháo chử nghĩa quê mùa "ba xu" thì liệu Huynh có sinh tâm?

Nay chỉ tới chương 16 thôi còn tới những hơn 30 chương nửa, nên chúng ta không nên làm gián đoạn bài giảng của Thầy.
[/BUBBLE]
<center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XVI[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]XẢ LY ÁI DỤC
HT Thích Phước Tịnh _ Giảng giải
[/FONT]</center> [FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Xã ly ái dục là chủ đề của chương mười sáu nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Nhân hoài ái dục bất kiến đạo giả. Thí như trừng thủy, trí thủ lãm chi. Chúng nhân cộng lâm, vô hữu đỗ kỳ ảnh giả. Nhân dĩ ái dục giao thác, tâm trung trược hưng, cố bất kiến đạo. Nhữ đẳng Sa Môn, đương xả ái dục. Ái dục cấu tận, đạo khả kiến hỷ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Người giữ ái dục trong lòng thì không thấy được đạo. Thí dụ như nước trong bị khuấy động, người ta đến soi không thấy bóng của mình. Người bị ái dục khuấy động tâm ô nhiễm nổi lên nên không thấy được Đạo. Các thầy Sa môn cần phải xả ly ái dục. Ái dục hết rồi, mới có thể thấy Đạo được.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chương nầy Phật nói đến người muốn thấy được Đạo trước tiên phải xả ly ái dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Những tầng sâu cạn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta phải lưu ý đến hai chữ “ái dục.” Hai từ nầy có phần cạn và phần sâu của nó. Dục là phần cạn, ái là phần sâu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dục là những đam mê mang tính chất vật lý bên ngoài. Ái là thứ vướng mắc, đam mê phát sinh từ cảm thọ, ý thức và nghiệp lực. Người ta thường dùng hai từ tình dục để chỉ cho ái dục. Tuy nhiên, tình dục thiên trọng vật lý, còn tình ái thuộc dạng tinh thần bên trong.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thông thường từ dục hay đi đôi với nhiều từ khác như dục ái, dục nhiễm, dục lậu. Người tu chúng ta khi xả ly đời sống thế tục, sống độc thân là chỉ xả ly ái dục ở mức độ cạn, ở mức thâm sâu hơn chúng ta phải xả ly ái từ bên trong, tức là nguồn phát sinh ra dục. “Dục phát sinh từ tâm.” Ví dụ như ý thức của chúng ta còn đen tối, còn u ám, niềm đam mê còn có mặt bên trong thì dù ta có lên non cao hay núi vắng, cách ly với con người nhưng dục niệm, ái niệm vẫn còn. Và dục có thể hết, nhưng ái trong tâm thức tuổi già vẫn chưa hết. Dù cho đến khi sức khỏe suy kiệt, năng lực dục không còn nhưng ái tâm người ta vẫn còn. Điều nầy được thể hiện ra nhiều mặt, có khi không có hành động dục nhưng mà họ lại có ý tưởng dục. Chúng ta thường thấy có những người già, người lớn tuổi tâm thức còn nhiều ô uế nên họ hay có khuynh hướng nói về dục. Đó cũng là một dạng tâm thức rất dục. Cho nên chúng ta đừng nghĩ rằng cách ly nhân gian, sống đời sống cô quạnh mà loại trừ được bản chất của dục dễ dàng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều đầu tiên, tại sao khó? Thưa, chúng ta nên hiểu sức mạnh của dục rất mãnh liệt. Tất cả mọi sinh vật hữu tình trên cuộc đời nầy được hình thành từ năng lượng dục, cho nên nó là một loại năng lượng tự hữu cho tất cả những dòng sinh mạng. Bản chất nó là sự sống, làm cho sự sống kéo dài và kế thừa. Vì vậy, tự thân con người khi hình thành sinh mạng thì bản chất là dục; trừ khi chúng ta chấm dứt dòng sinh mạng nầy thì bản chất dục mới bị cắt đứt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta cứ đi loanh quanh, lăn đi, lộn lại trong cõi nhân gian là do ý dục làm chủ để có mặt trong cuộc đời. Chỉ có những bậc Thánh vì bản nguyện tái sanh thì họ mới không đi vào con đường của dục tưởng. Họ thọ sinh lại trong nhân gian, khi đến họ biết họ đến, và khi xuất hiện trên cuộc đời họ có thể nhớ được quá khứ. Chúng ta không biết gì đến quá khứ vì khởi dục niệm mà tái sinh lại trong ba cõi sáu đường, nên năng lượng tự hữu của chúng ta là năng lượng dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. “Ta sẽ làm gì với năng lượng tự hữu.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhìn lại trong bốn mươi hai chương Kinh của Phật dạy, chúng ta thấy vấn đề ái dục rất là nghiêm trọng. Có đến mười sáu chương trong bốn mươi hai chương Đức Phật đã nói đến dục và liên hệ đến dục. Ngài đặc biệt nói đến thảm họa của ái dục và căn dặn các vị Sa môn phát tâm đi vào con đường tâm linh thì phải cẩn trọng. Mười sáu chương Kinh chiếm hơn một phần ba trong nội dung một quyển Kinh rất mỏng, đủ thấy các bậc Thầy ngày xưa đặc biệt lưu ý vấn đề nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi muốn chia xẻ thêm cùng quí vị về năng lượng dục nầy rõ hơn để thấy sự nghiêm trọng của nó. Năng lượng dục nầy có hai mặt. Một mặt tích cực, và một mặt tiêu cực. Ví dụ Đức Phật nói người mang lòng ái dục thì không thấy được đạo, như người ta lóng nước mà cứ lấy tay khuấy lên hoài, nên soi vào mà không thấy được hình mình trên mặt nước. Đó là mặt tiêu cực của dục. Nhưng năng lượng dục nầy tạo thành sức mạnh đam mê cho sự sống phát triển và tồn tại. Một người mà tự thân năng lực sống không có, niềm đam mê ít thì mọi lãnh vực họ không thể phát triển được. Họ học, họ làm một cách uể oải, họ tu họ cũng uể oải, cho nên nhìn vào năng lượng bên trong hình hài ta thấy có hai sắc thái của tự thân dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở bình diện đạo mà nhìn thì nó có tính chất hủy phá con đường tu của chúng ta, nếu chúng ta không khéo chuyển hóa thì sức quậy phá của nó làm trở ngại lớn trong công phu hành trì. Nhưng nhìn ngược lại, nếu không có năng lượng dục từ bên trong thúc đẩy thì chúng ta cũng không có niềm đam mê trong sự tu tập, học hỏi, không có đam mê trong sự sáng tạo để đóng góp gì cả. Con người mà không có năng lượng dục bên trong thì gần như một người không có hồn, không có sức sống. Cho nên nếu đứng ở bình diện tu tập, phát triển đời sống tâm linh mà nhìn thì nó quả là tiêu cực. Nhưng nếu nhìn từ lãnh vực sáng tạo thì nó là một năng lượng rất tích cực. Nó tặng cho người nghệ sĩ niềm đam mê của sự sáng tạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở bình diện nghệ thuật hội họa... người nghệ sĩ mà thiếu vắng năng lượng dục phong phú thì khó có thể hình thành được một tác phẩm nghệ thuật lớn, có giá trị. Thông thường đa tài đi đôi với đa tình (những văn, thi sĩ, tài tử, minh tinh màn bạc...), nếu không khéo giữ gìn thì hai điều đó sẽ phát triển thuận chiều với nhau. Trong tinh thần đạo Phật và Đông phương thì người ta thường khống chế xem là thù địch cần phải loại trừ. Nhưng với tinh thần của người Tây phương họ không đặt nặng vấn đề dục nầy, nên họ có khuynh hướng buông lỏng. Khi đã buông lỏng thì sẽ gây sự tác hại rất lớn trên bình diện xã hội, đạo đức. Người ta xem thường nó thì làm đổ vỡ cấu trúc đời sống gia đình. Đó là hai mặt tích cực và tiêu cực của dục trong đời sống.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta nên nhớ một điều, dục là một loại đam mê rất mạnh, nhưng chỉ là thứ lửa rơm bùng cháy và tàn lụi cũng rất nhanh. Dục chỉ là cái xác, nhưng ái mới quan trọng; ái là cái hồn. Dục trên mặt vật lý là phần thô diệt trừ không khó. Nhưng tính chất của ái nằm sâu bên trong tâm thức, diệt trừ nó mới khó. Ví dụ trong đời sống thế nhân, quan hệ nam và nữ nếu có chỉ đơn thuần giữa hai hình hài thể xác, đó là một loại dục chứ không phải tình yêu. Họ bỏ nhau rất dễ, và người ta cũng có thể bỏ tiền ra mua dục rất dễ. Thế nhưng bên sau của dục nếu kèm theo tình yêu tức có ái đi vào thì người ta không thể bỏ nhau được. Và nỗi khổ của con người phát sinh từ ái. Cho nên ta gọi dục là tầng cạn của vật lý, ái là tầng sâu của tâm thức. Hai điều nầy khác nhau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đối với người tu chúng ta, mặt cạn của dục ta loại trừ rất dễ. Chúng ta sống đời sống độc cư, thiền tịnh, xa phố chợ, sống trong khuôn khổ giới pháp của Phật chế dĩ nhiên sống độc thân là đã cắt ly được dục. Thế nhưng điều tôi muốn nói ở đây cắt ly được ái mới quan trọng, mới là khó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Như tôi đã chia xẻ, tự thân dục là nền tảng của sự sống, của dòng sinh mạng. Nếu chúng ta cắt nó, triệt tiêu nó cũng có nghĩa là triệt tiêu sự sống của chính mình, đó là điều khó. Hơn nữa, ái là bản chất nằm tiềm phục trong ta nhiều đời chứ không phải một đời. Nó phát triển ra rất nhiều mặt chứ không phải chỉ ở trong quan hệ nam nữ không thôi. Mặt thô nhất là quan hệ nam nữ thương nhau gọi là ái. Mặt tinh vi hơn là trong những thứ tình, có thứ tình mang tính chất tôn giáo được nâng cao như tình thương thầy trò. Nếu chưa đạt được tâm đại bi thì trong bản chất của sự thương yêu ấy vương một chút ái bên trong.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong tình thương của mẹ con, cha con cũng còn một chút ái bên trong, chứ không phải thuần trong sạch. Mọi lãnh vực thi ca, văn học, nghệ thuật ca ngợi tình mẹ cha, tình yêu quê hương, dân tộc... tất cả đều mang chữ tình đi vào, đều mang ít nhiều chất ái, nhưng có điều khác nhau tùy mức độ đậm nhạt mà thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở bình diện cạn hơn, trong mọi lãnh vực yêu thương của thế nhân, kể cả trong tôn giáo đều có ít nhiều chất ái hoặc đậm, hoặc nhạt. Như thế để chúng ta thấy được cấp độ sâu cạn của ái dục. Cho nên “ái dục đoạn tận, đạo khả kiến hỷ.” là đoạn đến chỗ tột cùng chứ không phải chỉ cắt đứt ở mức độ cạn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]3. Từng bước thực tập xả ly.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Con người bị ái dục đan xen khuấy động trong tâm thức, nhiễm ô luôn sinh khởi không ngừng cho nên không bao giờ thấy được Đạo”.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Câu Kinh trên cho chúng ta biết, trước nhất nên nhận diện những tác hại của ái dục đối với người tu. Con đường thực tập của chúng ta là con đường Thiền quán, mà ký ức của tâm thức ta có công năng tái hiện những diễn cảnh như thật. Do vậy nếu ta không khéo phòng hộ thân tâm; mắt ta xem phim ảnh kích dục, đọc những truyện, nghe những lời nói có tác dụng kích thích sự khát thèm sẽ làm cho tâm ta đi về hướng ái dục. Khi công phu, hành trì lập tức những ký ức từ quá khứ tràn về, chúng ta khó yên, khó nhiếp tâm trong thiền định. Một bài nhạc hay, một chuyện tình dễ thương, một hình ảnh đẹp... là đủ lôi kéo ta đi về hướng tiêu cực làm công phu của ta khó có kết quả. Cho nên trong pháp quy của Già lam cấm chúng ta tiếp xúc với những gì làm tổn thương tâm thức. Chúng ta nên cẩn trọng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều tác hại hơn nữa của ái dục đối với người thực tập, là khả năng của quá khứ đã được huân tập bởi những hạt giống nằm rất sâu bên trong tâm thức tràn về. Khi tu tập, tâm ta có một chút thanh tịnh, yên lắng thì tức khắc hình ảnh bất tận của quá khứ liên tục kéo đến, khuấy động. Và hai phần ái dục từ mức độ cạn là những hình ảnh ta vừa nhập khẩu, và mức thâm sâu là đời sống quá khứ đã tích chứa từ lâu trong tâm thức là trở ngại lớn đối với người thực tập như chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, trong hiện tại chúng ta không thông minh phòng hộ thân tâm thì khi tiếp xúc với một người, một sự kiện bằng mắt, bằng tai chúng ta liền khởi những ý niệm, những tư duy mang tính chất, khuynh hướng đi vào chiều ái dục. Như vậy trong công phu thiền tập chúng ta khó nhiếp tâm. Và nếu cứ như thế, trên con đường tu của chúng ta sẽ không đi đến đâu cho dù chúng ta có cố gắng cũng không thể đạt được niềm an lạc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Năng lực quá khứ và năng lực hiện tại tạo một lực đẩy ta đến hướng tưởng tượng tương lai thế nầy, thế nọ rất tiêu cực, phá hoại công phu tu tập của chúng ta nên an trú được nơi niệm tỉnh giác rất khó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có câu chuyện về cháu của Ngài Tăng Hộ xuất gia lúc còn rất trẻ, và được theo hầu chú của mình. Ông rất thương Ngài Tăng Hộ, nhưng sau khi bị chú của mình từ chối không nhận xấp vải quí do mình cúng dường để may Cà sa, ông buồn và thất vọng vì nghĩ ngoài tình thầy trò, mình còn có tình chú cháu. Nhưng nay chú mình không nhận, thì còn tình nghĩa gì nữa, thôi ta về, không tu nữa. Và ông cứ lan man nghĩ tưởng: sau khi bỏ tu đi ra đời, ta còn trẻ không biết phải làm gì đây? Thôi thì mua gà con nuôi, gà lớn đẻ ra bầy gà, đem bán gà mua dê, bán dê mua bò, xong bán bò tậu cửa, tậu nhà cưới vợ sinh con... rồi sẽ đem vợ con đi thăm ông chú. Trên đường đi bà vợ hư quá, nên ông cốc vào đầu vợ. Nhưng khi cốc vào đầu cô vợ chính là lúc ông đánh vào đầu chú của mình. (lúc đó ông đang đứng quạt hầu Ngài Tăng Hộ, vì trí tưởng tượng thúc đẩy, ông đã dùng cán quạt gõ lên đầu chú của mình.).[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Câu chuyện vui cho ta thấy một điều rất rõ là sức mạnh tưởng tượng do niềm yêu, ghét thúc đẩy sẽ đưa ta đi rất xa. Và hiện tại khi tiếp xúc với bên ngoài cùng huân tập thêm những nghiệp gần hoặc xa đối với ái dục nữa thì tâm thức ta không yên, khởi ý có khuynh hướng xuôi mình về đường ái dục. Quý vị nên lưu ý, nguồn của ái rất là sâu và nghiệp ái rất đậm, rất mạnh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, trong công phu thực tập chúng ta nên biết là điều gì mà ta đặc biệt lưu ý, muốn loại trừ, khống chế, tiêu diệt lập tức bên trong một lực đối kháng rất mạnh trổi dậy, đứng lên quậy phá lại ta. Thông thường chúng ta hay lầm lẫn trong phương pháp thực tập là hay gieo vào tâm thức mình một chương trình đề phòng, lánh xa, diệt trừ... Hãy cẩn thận, vì ngay những điều mình muốn loại trừ sẽ quay lại chống phá mình mạnh nhất so với những điều khác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tất cả những gì áp dụng cho phương pháp thực tập mang đặc tính trấn ngự, loại trừ, hủy diệt, bạo động đều thất bại. Trong thiền định cũng vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều tai hại thứ nhất là tác hại cho thân, ảnh hưởng đến cơ thể vật lý: căng thẳng thần kinh, nhức đầu, loét bao tử... không thể nào có lợi ích, thành tựu như ý muốn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều tác hại thứ hai là trạng thái tâm lý của ta biến chứng rất khó chịu. Ở nam giới thì càng già tâm thức càng kỳ thị, ganh tị, cay cú có khi đi về hướng khẩu dục và tâm dục rất mạnh. Ở nữ giới thì càng già tâm thức càng cay nghiệt, gắt gỏng nên bao nhiêu dễ thương, hiền dịu, tươi mát biến mất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dĩ nhiên điều chúng ta nên tránh là tác nhân và tác duyên. Những tác nhân và tác duyên sinh khởi ái dục nầy khi hội tụ đủ sẽ tạo thành một cơn bão. Những tác nhân, tác duyên nầy đôi khi rất nhỏ, chỉ là những liên hệ bình thường trong đạo, trong tình thầy trò; như cúng dường một chiếc y, một chai dầu hay được tặng cho một điện thoại di động... nhưng nếu không khéo giữ gìn sẽ dẫn ta vào con đường trần thế lúc nào không hay. Chúng ta hãy nhớ tránh những tác nhân và tác duyên.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta có thể tránh được những tác nhân, tác duyên trong sự thực tập, tạo được môi trường thanh tịnh để tu nhưng tất cả điều kiện tốt lành đó chưa đủ bảo đảm đời sống phạm hạnh của chúng ta trọn vẹn. Tại sao? Thưa, tại vì ái ở bên trong tâm thức chứ không ở bên ngoài.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bên trong tâm thức nếu tĩnh lặng, trong sáng, ta làm chủ được ta thì dù bên ngoài người ta có đem đủ thứ dục lạc trần gian quyến rũ cũng không thể nào lay động chúng ta được. Nếu bên trong chúng ta vẫn còn tham đắm ngũ dục, lục trần rất mạnh thì bên ngoài dù không có môi trường dẫn dắt vào ngõ thế gian, chúng ta cũng tìm cách đi vào.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên vấn đề chúng ta thực tập cực kỳ quan trọng, không phải là bên ngoài của giới luật, qui chế Già lam đặt ra hay sự giám thị của vị thầy, mà đầu nguồn của sự thực tập là làm thế nào nhận diện được từng cảm thọ, làm chủ được những tiếng thì thầm bên trong. Ta làm chủ tiếng thì thầm bên trong tức ta có được Định, nếm được hương vị của pháp thực tập Thiền, phát sanh được Tuệ bấy giờ đời sống của ta trong sạch, tươi mát và giàu có. Tự nhiên năng lực của ái dục không còn sức mạnh để lôi ta đi bất cứ con đường nào khác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]4. Hoa trái của sự thực tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong vấn đề tu tập, nếu chúng ta thực tập ly dục được, tâm ta trong sáng, định tĩnh thì khả năng đầu tiên là làm cho Phật tử phát sinh sự yêu mến Đạo rất dễ, tự nhiên đến với mình người ta có niềm tin ngay. Nếu họ đến với chúng ta mà tâm mình nặng chĩu, mắt nhìn còn đam mê, khả năng ăn nói của chúng ta biểu lộ chất ái vẫn còn thì người ta nhận biết, và đề kháng ngay. Trong trần gian nầy, sự cảm nhận về ái dục là cảm nhận tinh nhạy nhất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, hoa trái của sự thực tập ly dục nầy hiến tặng cho người tu sự thanh khiết, trong sáng khi đối nhân, tiếp cảnh. Khi xử sự với người, khi hoằng pháp, lợi sinh làm cho niềm tin tín đồ phát sinh đối với Tam Bảo rất vững chắc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi chúng ta đã ly ái dục rồi, đối với tự thân ta sẽ là người thảnh thơi, không gian của tâm mình thênh thang bát ngát. Lòng ta không còn vướng mắc với bất cứ ai thì chúng ta tiếp xúc với người rất an bình, lòng mênh mông bình đẳng không cần phải lo lắng, đề phòng gì cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sâu hơn nữa, hoa trái sự ly dục tặng cho chúng ta món quà tuyệt vời là chúng ta nắm được phương pháp thực tập nhẹ nhàng mà hiệu quả, cắt đứt lời nói thì thầm của tâm thức, triệt tiêu đầu nguồn ái dục, cắt luôn con đường sinh tử, luân hồi nắm được vận mệnh của mình trong lòng bàn tay. Đến và đi trong nhân gian theo nguyện chứ không theo nghiệp. Muốn thọ sinh thì thọ sinh lại, còn không thì ngay đây tan biến vào bản thể chân như.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cuối cùng, tôi xin nhắc lại để quí vị lưu ý. Tâm thức chúng ta là tâm thức nghìn đời được nuôi lớn trong ái dục. Và giềng mối của thân mạng nầy, sợi dây xuyên kết cuộc sống chúng ta qua nhiều kiếp là ái dục. Khả năng của ái dục cực kỳ mạnh, người tu chúng ta phải cẩn trọng với năng lực nầy. Năng lực nầy chỉ có thể chuyển hóa mà không thể tiêu diệt. Nó là bản chất của sự sống và con đường chuyển hóa hay nhất là làm cho dòng suối ái dục chảy về hướng tích cực, mời gọi sự nhận biết luôn có mặt để nhận diện từng cảm thọ, và cuối cùng tắt được tiếng nói thì thầm trong tâm thức. Chỉ có cách nầy chúng ta mới xả ly ái dục từ cạn vào đến chốn thâm sâu nhất.[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Xa_Ly_Ai_Duc.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XVII [/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]THẮP SÁNG TRÍ TUỆ[/FONT]
HT.Thích Phước Tịnh _ Giảng giải


[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thắp Sáng Trí Tuệ là tên của chương kinh thứ mười bảy tôi chia xẻ cùng quý vị hôm nay.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Phù kiến đạo giả. Thí như trì cự nhập minh thất trung, kỳ minh tức diệt nhi minh độc tồn. Học đạo kiến đế, vô minh tức diệt, nhi minh thường tồn hỷ”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Người thấy được Đạo như người cầm đuốc đi vào trong nhà tối, bóng tối liền mất chỉ còn lại ánh sáng. Người học đạo mà thấy được chân lý thì vô minh liền diệt, chỉ còn lại trí tuệ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đại ý của đoạn Kinh muốn nói đến bản hoài của người tu là thắp sáng trí tuệ, thành tựu quả giác ngộ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Đi qua nhiều lớp cửa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Qua chương mười sáu vừa rồi chúng ta còn nhớ đoạn cuối với một câu rất hay “Ái dục đoạn tận, thì có thể thấy được Đạo.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi muốn nhắc lại câu nầy vì trọng tâm ban đầu Đức Phật nhấn mạnh đến “người thấy được Đạo.” Người tu muốn thấy được đạo phải đoạn sạch tâm ái dục. Chúng ta cần lưu ý, tâm ái dục có rất nhiều tầng, và đoạn được nó không phải dễ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, chúng ta biết sinh thân nầy có mặt trong cuộc đời là do tâm ái dục ban đầu mà sinh khởi. Ngay trong cuộc sống nầy, niềm vui, nỗi buồn của con người cũng gắn liền với tâm ái dục, nên ta gọi đây là chặng đường khó vượt nhất trong các chặng đường mà người tu phải vượt qua. Tôi phân ra những tầng hay những chặng ái dục để quí vị lưu ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bước đầu là ái dục thô rất dễ cho ta nhận biết. Trong đời sống thế nhân thì họ đi vào sự chìm đắm nầy gọi là sắc ái. Sắc ái là đam mê nặng nề có hình thức, có đối tượng, có hình thể vật lý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thứ hai là phần ái dục rất tinh tế, trong từ ngữ Phật học gọi là loại đam mê không cần ngoại hình của đối tượng, của hình thể vật lý mà ở tầng sâu của tính tình, phẩm chất con người như duyên dáng, nết na hiền dịu, tài ba... Đây là loại đam mê khó nhàm chán. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Cái nết đánh chết cái đẹp.” Người đó không đẹp gì nhưng cái nết làm lu mờ nhan sắc không được đẹp của họ. Thông thường chúng ta chìm vào sắc ái là phần thô, nhưng nếu chìm vào vòng vô sắc ái là đam mê vào lãnh vực rất tinh tế, khả năng vượt thoát rất khó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta ái về sắc tức ái dục thô đến một lúc nào đó tự nhiên loại trừ được, nhưng ở mức độ tinh tế của ái vô sắc thì cho đến tám mươi tuổi ta vẫn chìm đắm trong ái dục, và nỗi đam mê khó dứt trừ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Một tầng sâu hơn nữa của ái dục là “ái kiến đại bi.” Ái kiến đại bi là lòng yêu thương có điều kiện, chưa phải là vô duyên đại từ. Khi ta bước vào lãnh vực, vào thế giới của sự tu tập, của người hướng tâm về con đường tâm linh thực sự, tuy không còn là loại thương yêu của thế gian nữa, nhưng trên con đường tu lòng Đại Bi của ta chưa phải là vô duyên đại từ. Ví dụ ta có một trăm đệ tử, những đệ tử nào hợp với mình, có hiếu với mình, mình thương nhiều hơn; những người kia ngỗ nghịch, không tuân phục mình, mình cũng thương nhưng ít hơn. Cũng là “bi” nhưng trong lòng yêu thương còn chất ái kiến, còn đặt điều kiện nên ta gọi nó là ái kiến đại bi, một loại ái rất mịn trong phạm vi của con đường tu tập và làm đạo. Trong khi đó thì thương yêu thật sự của “đại bi tâm” hiện khởi là loại tình thương không đòi hỏi điều kiện gì nơi đối tượng cả. Tâm từ mênh mông và trải rộng ban phát tự nhiên như sương mù ướt đầm đại địa, như ánh nắng sưởi ấm hành tinh không phân biệt nên gọi “vô duyên đại từ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][bubble]Nếu lưu ý, chúng ta thấy chặng đường ái kiến đại bi rất khó vượt. Sở dĩ người ta gọi ái kiến đại bi vì nó là loại rất tinh tế trên con đường ái, khó thấy được. Và cũng từ ái kiến đại bi cho nên chúng ta còn chìm đắm trong cõi tử sinh.[/bubble][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tột cùng nhất của người tu là để thành tựu đạo nghiệp, phải đạt tới sự vô ngã. Nhưng tại sao ta thương người nầy nhiều, kẻ kia ít? Do vì bản ngã ta còn. Bản ngã dù khó nhận biết, nhưng khi còn một chút bản ngã là ta còn khởi niệm ghét và thương, tâm bình đẳng chưa có mặt. Và một chút bản ngã còn là chưa thể nhập được đạo quả giác ngộ một cách trọn vẹn, chưa thể nhập được tâm Phật. Do vậy, tầng sâu nhất, mịn nhất, tinh vi nhất, khó đoạn trừ nhất là tầng ái kiến đại bi nầy. Nó tuy không phải là loại ái dục thường hay mịn của thế nhân nhưng ta có một chút tinh tế của công phu thực tập thì có thể cảm nhận được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta có thể phân ái kiến đại bi ra làm hai tầng. Thứ nhất là tâm đại bi không bình đẳng. Thứ hai còn mê đắm quả vị. Ví như khi chứng được từng Thiền gì mà an lạc thì không chịu rời để tiến lên nữa. Hay khi thực tập chánh niệm, có chút an bình do pháp hành khi hít thở trao lại cho mình và cứ nghĩ đây là pháp tối hậu, không chịu bước xa hơn cũng gọi là dạng còn chìm đắm trong ái chấp quả vị.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có một vị Thiền sư Trung Hoa một hôm thấy một người mũ cao, áo rộng đến chào, Ngài hỏi: “Ông là ai?” Vị Thần trả lời: “Ta là Thần của núi nầy.” Thiền Sư bảo: “Ông là Thần ư? Mời ngồi.” Vị Thần nói: “Ông phải đối xử với tôi trân trọng hơn vì tôi là Thần.” Thiền sư trả lời: “Kể từ khi tôi thể nhập được đạo, tôi nhìn Thần, Thánh, phàm phu, kẻ phạm tội, người tốt lành đều như nhau. Trên từ Đức Phật, dưới đến con kiến, cỏ cây đều bình đẳng nhất mực không ai trọng, không ai khinh cả, ông là Thần, mặc ông.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vị Thần khó chịu: “Tôi không bằng lòng chuyện như vậy. Dù sao ông là người ở trên vùng núi của tôi. Tôi chăm sóc, hỗ trợ ông, ông phải nhìn tôi bằng con mắt đặc biệt. Thiền sư nói: “Khi đã thể nhập đại bi tâm rồi thì người ta đoạn tận ái kiến, không hề có sự phân biệt cao sang, thánh phàm gì cả.” Qua lại vài lời một lúc sau, vị Thần núi mới cảm phục, đảnh lễ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, điều cần thiết cuối cùng của người tu đạt đến chỗ tinh vi nhất, là đoạn tận ái kiến đại bi. Dĩ nhiên lòng thương chúng ta không còn chìm đắm, mắt thương nhìn đời rất mênh mông không có ái niệm trong mắt, nhưng nếu trong tâm còn dù một chút ý niệm người thương kẻ ghét là chúng ta đang chìm trong ái kiến, chứ chưa vượt thoát được. Trên con đường tu, đây là chặng đường cuối cùng người tu phải đi qua, nên khi nào chúng khởi tâm thương ghét, kẻ trọng người khinh, hãy nhìn lại lòng mình và biết rằng chất ái trong ta đang có mặt. Và khi đã có dù rất là nhỏ, nó vẫn có khả năng lớn dậy và dẫn dắt mình đắm chìm thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi bước chân vào với đạo, đời sống người tu tự nhiên đã khác. Chúng ta chọn con đường cắt đứt những hệ lụy thế nhân và cách hành xử của chúng ta dĩ nhiên cũng phải khác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều khác đầu tiên như mức độ tôi vừa chia xẻ chỉ là nhẹ, ai cũng làm được. Nhưng khi ở trong đạo lâu dần, chúng ta sẽ nhận diện được một điều là sự tiềm phục của tâm ganh tị hay những tâm hành tiêu cực nhỏ nhiệm có gốc rễ rất sâu xa nằm ở tầng tinh tế của ái kiến. Chúng ta phải thực tập giỏi mới nhận ra được, nếu không thì lòng ta vẫn còn thị phi thương ghét. Nếu tâm ta có độ chênh nghiêng sẽ gây ảnh hưởng đến người chung quanh rất lớn, làm cho sự tôn nghiêm của Già lam, đạo tràng bị tổn giảm. Chúng ta tu thế nào để đóng góp năng lượng của mình cho đại chúng thì tuy không làm gì cũng tạo được phước lành. Nếu tu mà chúng ta vẫn còn ôm chặt niệm tinh tế của ái thì dù cho làm bao nhiêu việc với danh xưng đẹp đẽ cũng thất bại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tầng thâm sâu hơn của lòng yêu thương được biểu hiện từ thành quả của sự tu tập là đạo hạnh của vị Thầy, nhưng vẫn còn ái kiến bên trong thì vẫn chưa đóng góp thực sự cho Đạo. Ta chỉ cống hiến được khi tâm đại bi vô điều kiện có mặt mới thành công. Thế nên ở cuối chương mười sáu, Đức Phật dạy: “Người muốn thấy Đạo phải đoạn tận tâm ái dục.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Bước vào nhà.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng từ “kiến Đạo” nầy trong Thiền tông thường hay xử dụng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Kiến đạo hay ngộ đạo có cùng một nghĩa. Thông thường chúng ta hay nghĩ thấy đạo, ngộ đạo là những người có cảm tình với đạo Phật, giác ngộ vô thường đến với đạo được gọi là người ngộ đạo. Nhưng đối với Thiền Đông Độ thì kiến đạo là nhận ra tự thể tâm không sinh, không diệt của mình gọi là thấy đạo. Người xưa gọi là Nhập lưu tức chứng sơ quả Tu Đà Hoàn gọi là thấy Đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong văn học A Hàm có một bài kinh về củi mục: Một hôm Đức Phật đi ngang qua dòng sông Hằng, nhìn thấy dòng nước chảy Ngài nói: “Nếu khúc gỗ kia không bị người ta vớt lên bờ, không bị chìm xuống lòng sông, không tấp vào cồn bãi mà nó cứ trôi mãi như thế thì nhất định khúc gỗ sẽ trôi tới biển. Cũng như thế, người tu không vướng vào các quả vị thấp nhỏ, không vướng vào lợi, vào danh làm đắm chìm, ngã gục... thì trôi thẳng vào biển Niết Bàn. Và cũng trong kinh A Hàm có nói: sau một thời thuyết pháp của Đức Phật cư sĩ cũng chứng được quả Tu Đà Hoàn rất dễ. Đức Phật khi nghe vua Tịnh Phạn bệnh, Ngài về thăm và trong một thời pháp chỉ mấy câu ngắn nhà vua cũng chứng được quả Tu Đà Hoàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường tu của chúng ta là con đường thực tập chánh niệm. Chánh niệm là gì? Chánh niệm là năng lượng nhận biết dòng ý thức chạy về quá khứ, chạy về tương lai. Khi có mặt một niệm lăng xăng, ta chỉ cần nhận biết sự có mặt của nó gọi là chánh niệm. Người ta chỉ cần làm một điều là mời gọi năng lượng chánh niệm tức là sự “nhận biết đơn thuần”có mặt thường xuyên và vững niềm tin thì gọi là người thấy được Đạo. Khả năng nhận biết vốn là tâm Phật bản nhiên, chưa từng sanh, chưa từng diệt và quí vị dừng lại được ngay nơi đây là năng lực chánh niệm đang có mặt, cũng có nghĩa là chúng ta đang an trú trong quả vị Nhập lưu nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta có thể khởi nghi ngờ là Nhập lưu dễ vậy sao? Thưa đơn giản chứ không khó gì cả. Khó là vì ta quên, ta không làm cho nó có mặt thường xuyên thôi. Khả năng nhận biết nầy không có chữ nghĩa, không cần khởi ý thức suy nghĩ thầm thì. Nó là trạng thái rỗng lặng, mênh mông.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin đọc lên một đoạn trong Tương Ưng Bộ Kinh rất hay như sau: “Đức Thế Tôn hỏi có pháp tu nào mà các vị tỳ kheo không cần lòng tin, không cần lắng nghe, không cần suy tư, không cần khả năng biện luận mà có thể xác chứng rằng, sanh đã tận, phạm hạnh đã thành không còn sinh tử nữa?”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đoạn nầy rất quan trọng, mở ra con đường thấy Đạo. Chúng ta đừng hiểu lầm không cần lòng tin là không còn tin vào tự thể tâm. Không cần lòng tin là không cần đến tín ngưỡng vào đấng thần linh tức là loại niềm tin hướng ra ngoài. Lắng nghe có nghĩa là không cần sự học hỏi, không cần vận dụng suy tư lầm thầm, không cần phải khổ hạnh, chịu đựng hành hạ xác thân, không cần phải biện luận nhiều lời mà pháp môn ấy có thể làm cho vị tỳ kheo, tỳ kheo ni thực tập, tin chắc mình đã đoạn tận được sinh tử, không còn sinh trở lại luân hồi nầy nữa. Đức Phật hỏi có pháp môn nào như thế hay không?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật: “Đối với chúng con, tất cả những pháp tu học đều nương vào lời dạy của Thế Tôn làm căn bản, xin Thế Tôn chỉ dạy, chúng con chưa biết pháp môn nào như thế cả. Đức Thế Tôn nói tiếp: “Có một pháp môn không cần lắng nghe, không cần suy tư, không cần khổ hạnh, không cần biện luận, mà vị tỳ kheo ấy có thể đi ngang qua dòng sinh tử, chứng nhập Niết Bàn ngay hiện thời. Đây là pháp môn: “Khi trong tâm ta có một niệm sân, vị tỳ kheo ấy biết trong tâm ta có niệm sân. Khi tâm ta có một niệm u buồn, vị tỳ kheo ấy biết trong tâm có một niệm u buồn. Khi trong tâm không có tham, không có sân, không có si thì vị đó nhận biết là trong tâm ta không có tham, không có sân, không có si.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, Đức Phật nói một tràng dài như thế, yếu chỉ chính của vấn đề là gì? Thưa, đó là sự “nhận biết.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta qui chiếu trở lại, thử hình dung trước mắt ta một người không biết bơi rớt xuống dòng sông bị nước nhận chìm. Tuy không biết bơi nhưng vì nhu cầu cần sống, vì bản năng sinh tồn họ cố ngoi lên để thở, nhưng lại bị sóng dìm xuống, và dòng nước là một dòng cuồng lưu đẩy họ xuống lên, lên xuống rồi cuối cùng họ chìm trong lòng sông.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tâm thức của chúng ta cũng như thế, khi trong lòng có nỗi buồn, điều vụng về là ta thấy ta là nỗi buồn nên nhào vào dòng sông buồn để nỗi buồn nhận mình chết chìm trong đó. Thế nên trong câu Kinh Ngài dạy chúng ta không phải làm gì cả. Chúng ta không cần khởi lòng tin, không cần phải khổ hạnh, không cần lắng nghe, không cần học tập cho nhiều, không cần phải suy tư cho mệt óc, lý sự dài dòng... Thông minh thì chúng ta mời năng lượng chánh niệm có mặt, nhận biết từng cảm thọ, từng ý niệm đang có mặt hay không có mặt trong tâm thức ta. Đó là con đường thực tập đưa chúng ta đến chỗ biết rằng sinh tử đã chấm dứt, phạm hạnh đã thành tựu, không còn luân hồi trong ba cõi. Đây chính là pháp môn tuyệt vời nhất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi chia xẻ điều nầy để quí vị hiểu rằng, thấy được đạo, nhận ra được đạo chủ yếu là chúng ta chỉ cần quay lại nhận biết; đó là năng lực chánh niệm. Đời sống không đủ dài để chúng ta ôm mãi nỗi niềm buồn giận, thương ghét vu vơ. Tất cả rồi cũng đi qua. Một ngày của chúng ta phải là một ngày của sự thực tập, ta đang trên con đường thực tập chánh niệm. Chúng ta phải làm cho được điều duy nhất trong đời nầy là nắm lấy giây phút hiện tại, sống liên tục rỡ ràng với năng lượng chánh niệm là chúng ta đang trôi vào biển Niết Bàn, thành đạt giải thoát ngay trong hiện đời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người xưa cách đây hai ngàn sáu trăm năm, chắc cũng không giỏi gì hơn chúng ta. Cũng hình hài nầy, ngũ uẩn nầy nhưng bằng niềm đam mê cao tột, trong một đời họ có thể giải quyết xong việc tử sinh. Chúng ta cũng thế, chúng ta không thua gì người xưa, đừng nghĩ những ông tổ mới tu giỏi, tu hay. Tổ Qui Sơn nói trong Qui Sơn cảnh sách “Bĩ ký trượng phu ngã diệc nhĩ”: “Ông đã trượng phu thì tôi cũng như thế.” Và Thiền sư Việt Nam cũng có hai câu “Nam nhi tự hữu xung thiên chí. Hưu hướng Như Lai hành khứ hành”: “Làm trai có chí xông trời thẳm. Dẫm vết Như Lai cũng nhọc mình.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta đã đi tắt ngang qua con đường thấy Đạo, sau đây chúng ta lần lượt đi vào từng cấp độ một của từ “kiến đạo” nầy: thứ nhất là nhận được lý Vô thường, thứ hai thấu được lý Tứ Đế, và thứ ba là nhận ra được tự thể tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]3. Thể nghiệm vô thường.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta chưa cần nói đến chuyện đẩy tâm thức ta lên tầng cao. Ở tầng cạn chỉ làm một người tu bình thường thôi nếu chưa thể nhận được lý vô thường thì chưa thể gắn bó cuộc đời tu của mình với Đạo sâu sắc được. Vô thường đến với ta là một nỗi khổ, và trong đạo nếu chúng ta nếm được hương vị khổ đau thì nhu yếu thực tập, kinh nghiệm của sự thực tập mới đủ mạnh. Chúng ta thử nhìn vào các vị Thầy, nếu họ đã từng trải nghiệm những khổ đau, đọa đày của cuộc sống mà vươn vai đứng lên được đều là những người tài giỏi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ, Đức Đạt Lai lạt Ma là một bậc Thầy có năng lượng lành rất lớn, sở dĩ Ngài có tâm từ bi mênh mông là vì khổ đau quá lớn đã đè nặng lên vai Ngài.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vừa là Quốc vương vừa là vị Thầy tâm linh lãnh đạo dân tộc Tây Tạng, Ngài đã cùng gánh chịu tai họa, đau khổ phủ trùm lên đất nước mình, dân tộc mình do Trung Hoa gieo rắc. Làn sóng đỏ đã làm cho một đất nước với hơn hai ngàn năm Đạo Phật có mặt tan tác, chia lìa và cuối cùng Ngài phải lưu vong. Nếu không qua sự tu tập, tự chuyển hóa rất lớn của mình thì Ngài không thể nào trở thành một vị lãnh đạo, một bậc Thầy nổi tiếng trên thế giới như ngày hôm nay. Bất cứ nơi đâu mà Ngài đặt chân đến, năng lượng từ bi, khiêm nhẫn của Ngài đều cảm hóa được mọi người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên, chúng ta nhận được lý vô thường sâu bao nhiêu thì tâm Bồ Đề của chúng ta vững bấy nhiêu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]4. Thấu lý Tứ Đế.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có một đệ tử hỏi Đức Phật: “Thế nào là vô minh.” Đức Phật trả lời: “Không thấu lý Tứ Đế là vô minh.” và “Thế nào là vô minh đoạn tận chứng được quả Niết Bàn.” Đức Phật nói tiếp: “Thấu đạt lý Tứ Đế thì đoạn tận vô minh, chứng được quả Niết Bàn.” Có dịp chúng ta sẽ đi sâu vào Lý Tứ Đế để thấy chiều rộng, chiều sâu và là nền tảng cho tuệ giác, cho quả vị Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tất nhiên chúng ta có thể đứng trên nền tảng của giáo lý Nguyên thủy, Đại thừa hay Thiền tông để giải thích câu “Thấu lý Tứ Đế” của Đức Phật dạy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu ta nhìn vạn pháp và trực nhận mọi hiện tượng vật lý, tâm lý đều có mặt từ nhân duyên sinh khởi, chưa hề có một pháp nào không hình thành từ yếu tố nhân duyên. Trực nhận và sáng tỏ được điều nầy tức đoạn được sầu, bi, khổ, ưu, não, ái nhiễm, chấp trước ngã, pháp. Đây là nền tảng đoạn tận vô minh trên căn bản giáo lý Nguyên Thủy triển khai.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu ta thấu đạt được vạn pháp trùng trùng duyên khởi kia đều như mộng; tự bản chất nó vốn không thật. Nó là sóng biển, là bọt bóng, là hơi sương từ đại dương mênh mông, trong lặng; thì những thành bại, nhục vinh, nào sinh, nào diệt, nào chứng Thánh quả, nào nhập Niết Bàn, nào nghiệp thức nổi chìm, phàm phu u tối tất cả đều được biểu hiện ra từ biển giác tánh vô sinh bất động. Đây là con đường thể nghiệm đoạn tận vô minh vi tế chứng nghiệm Phật tâm của Đại thừa Bồ Tát đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dĩ nhiên với cái nhìn của Thiền nhân, vấn đề giản dị hơn nhiều vì không đi vào chữ nghĩa, lý sự rườm rà. Chúng ta chỉ cần an trú được ngay nơi sự “nhận biết tỉnh sáng hiện tiền, vô niệm” liên tục, tức khắc đoạn dứt được vô minh, chứng nghiệm tự tánh Niết Bàn hằng hữu nơi ta mà thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]5. Nhận ra được tự thể tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Các vị thiện trí thức của Thiền môn ngày xưa hoặc đánh, hoặc hét, hoặc vỗ vai, hoặc xử dụng những ngữ cú kỳ đặc, hoặc giản dị chất trực bình thường nhưng đều có chung một qui kết. Đó là muốn cho người tu quay trở lại chính mình nhận ra tự thể tâm vô sinh, bất động hiện tiền, sáng ngời mà họ đang xử dụng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngoài ra văn học Đại thừa cũng khai triển rất rõ. Trong “đoạn khách và chủ, bụi lao xao và không gian bất động” của Kinh Thủ Lăng Nghiêm là cánh cửa mở cho chúng ta đi vào nhận ra được tự thể tâm bất sinh, bất diệt rất dễ. Thể nghiệm được căn bản nầy gọi là “thấy Đạo”, “ngộ Đạo” hay ngôn ngữ mang đậm chất Thiền nhất là: “Biết được mặt mũi thật của chính ta.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tóm lại, thưa đại chúng, chương nầy phần đầu đã dẫn chứng cho ta khi thấy Đạo là ánh sáng trí tuệ có mặt. Câu quan trọng nhất là: “Người học Đạo thấy được chân lý thì vô minh dứt sạch và trí tuệ hiện tiền. Người thấy được Đạo như người cầm đuốc vào trong nhà tối, bóng tối liền mất chỉ còn ánh sáng.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chân lý hay Đạo có mặt nơi thân năm uẩn ngay đây, phút giây nầy. Thấy được chân lý hay không tùy thuộc tâm tha thiết của chúng ta. Có một vị Thiền sư Trung Hoa đã nói câu rất hay: “Cửa hàng của ta có đủ loại thuốc trị đủ thứ bệnh. Từ bệnh của cơ thể vật lý, đến bên trong nội tạng và có cả thuốc trường sinh bất tử.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong giáo lý của đạo Phật, Đức Phật cũng bày bán đủ các loại thuốc giống như thế, có loại thuốc giải trừ phiền não để đời sống có được niềm vui. Đồng thời, có loại thuốc ban tặng cho chúng ta món quà vĩ đại vượt thoát sinh tử, chứng được Niết Bàn. Tất cả đều do chúng ta, nếu biết cách, khéo dùng thì cũng một loại thuốc đó mà thành thượng vị, còn nếu không khéo dùng thì sẽ trở thành đất cát, hoặc tệ hơn là trở thành thuốc độc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin lấy ví dụ. Từ xưa cho đến bây giờ, theo truyền thống Phật giáo Việt Nam lúc quí thầy vào chùa đều được dạy kinh văn chữ Hán, và đi vào các văn hệ từ vỡ lòng Luật tiểu đến Di giáo Tứ Thập Nhị Chương và lên Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Niết Bàn... mà xem nhẹ những Kinh căn bản ngày xưa để thực tập như Kinh Tứ Niệm Xứ. Trong khi cả một truyền thống Nguyên Thủy hiện tại rất thịnh hành đã sinh ra những bậc Thầy, Đạo sư lớn. Tất cả đều đặt trên nền tảng thực tập “Tứ Niệm Xứ.” Con đường quán Thân, Thọ, Tâm, Pháp, là bốn pháp hành Thiền cương lĩnh bao trùm các pháp thực tập khác. Vậy mà chúng ta được dạy chỉ giáo lý Đại Thừa mới tuyệt vời, mà không nghĩ rằng hạnh phúc, an lạc, đời sống giải thoát thực sự có được là từ sự thực tập rất căn bản đi lên. Pháp Thiền Tứ Niệm Xứ của truyền thống Nguyên Thủy không những bao trùm các truyền thống Phật giáo Tịnh, Mật mà còn bao trùm cả truyền thống thiền Đông Độ của Trung Hoa. Ấy vậy mà chúng ta xem nhẹ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong pháp thực tập, đôi lúc chúng ta nghĩ phải làm điều gì quan trọng mới có thể đưa tới con đường hạnh phúc, sự an lạc. Nhưng thực sự điều quan trọng nhất là làm thế nào phục hồi năng lượng chánh niệm. Và trong những phương pháp phục hồi chánh niệm, không có pháp nào tuyệt vời bằng phương pháp nắm hơi thở hay niệm thân hành để thực tập cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta thông minh thì mời gọi năng lượng chánh niệm đến, và không có cách gì hay hơn cho người mới thực tập là an trú tâm nơi hơi thở. Đầu tiên chúng ta nhận biết hơi thở vào, hơi thở ra. Sau đến chúng ta nhận biết tất cả những động thái của thân. Rồi từ năng lượng chánh niệm hùng hậu nầy ta sẽ nhận diện từng cảm thọ vui buồn sinh khởi nơi tâm, nhận biết những biến động của tâm hành. Tất cả những xao động, bất an, căng thẳng, lo âu, phiền muộn, giận tức đều có chung một con đường là có hình ảnh và có tiếng nói thì thầm độc thoại, đối thoại của tâm hành. Nó là đối tượng cho ta nhận biết. Ta chính là “cái biết” mà không phải là “cái bị biết.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khả năng nhận biết là năng lượng chánh niệm. Nó thường trụ vĩnh hằng, là tâm Phật bản nhiên, rỡ ràng, chiếu sáng. Chỉ cần sống liên tục với nó thì gọi đó là người thấy được chân lý. Con đường học đạo mênh mông nhưng chỉ cần chúng ta quay lại làm việc nầy mà thôi. Từ đó con đường mở ra lồng lộng, chúng ta đi thênh thang vượt thẳng trời cao.[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--><center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Thap_Sang_Tri_Tue.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="1" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XVIII[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]SIÊU VIỆT NHỊ BIÊN[/FONT]</center>


[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đây là một chương Kinh gồm những chữ Hán mà chúng ta đều biết nhưng để giải thích những từ nầy không phải dễ. Siêu Việt Nhị Biên là tên của chương mười tám nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Siêu việt là vượt lên trên. Nhị biên là cặp song đối giữa phải và quấy, thánh và phàm, có và không, tốt và xấu... và vượt lên trên cặp đối đãi trong nhân gian gọi là siêu việt. Siêu là vượt lên trên, việt là nhảy ra khỏi, bước thẳng lên.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Ngô pháp, niệm vô niệm niệm. Hành vô hành hạnh. Ngôn vô ngôn ngôn. Tu vô tu tu. Hội giả cận nhĩ, mê giả viễn hồ. Ngôn ngữ đạo đoạn. Phi vật sở câu. Sai chi hào ly, thất chi tu du.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Pháp của ta niệm mà không có người niệm và đối tượng niệm. Làm mà không còn người làm và đối tượng làm. Nói mà không có người nói và đối tượng nói. Tu mà không còn người tu và đối tượng tu. Người hiểu biết thì rất gần, kẻ mê thì rất xa. Dứt đường ngôn ngữ, không có vật gì ràng buộc. Sai chỉ một hào ly, mất liền tức khắc.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][bubble]Đây thực là "Tuyệt Quán Luận" mà Chư Tổ về sau này triển khai, chúng ta hảy lắng lòng lại nghe Thầy giảng giải...[/bubble]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có lẽ chương nầy và chương cuối bốn mươi hai là hai chương khó nhất nhưng lại hay nhất. Chúng ta đọc đoạn chữ Hán trên thấy kinh văn ngày xưa thật là nghèo chữ, có phải không?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chương nầy có đại ý là siêu việt các cặp song đối, thể hiện đạo lý hiện tiền và phải cực kỳ cẩn trọng trên đường tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Đối tượng và chủ thể.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, nội dung giáo lý đạo Phật có hai từ ta thường gặp nhất: là Năng và Sở. Nội hàm của hai chữ nầy tùy theo ngữ cảnh mà giải thích cạn và sâu khác nhau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Năng là chủ thể, sở là khách thể hay đối tượng. Chủ thể (năng) là mình, khách thể (sở) là những đối tượng. Nếu ta quay lại bên trong thì thấy thân nầy là của tôi thuộc về sở, tức là cái bị tôi nhận diện và nó là sở hữu của tôi. Còn tôi là cái nhận biết bên trong, nhận biết đây là thân của tôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cái khả năng nhận biết vô hình, vô thinh nằm bên trong ta gọi nó là chủ thể. Còn cái ta sờ, đụng đến được, cân đong đo đếm được như hình hài nầy là khách thể, là vật bị nhận biết. Từ ví dụ nầy, các vị quay vào bên trong thì các vị thấy cái gì bị ta nhận biết đều là khách thể cả. Còn “cái biết nguyên sơ” không phải bằng tri thức gọi là chủ thể. Và tùy theo khả năng ta đi vào đạo lý sâu bao nhiêu thì nhận ra ta là tự thể không sinh không diệt rõ bấy nhiêu. Con đường nầy là con đường quay trở vào.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ ta nhìn ra ngoài, mặt cạn khách thể là rừng núi chung quanh. Chủ thể là tu viện, thiền đường. Do vì Tu Viện Lộc Uyển có mặt nên cảnh quan rừng núi, đất đai, cây cỏ bạt ngàn chung quanh có mặt. Người ta gọi tu viện gồm có thiền đường, tăng xá là chủ, mà đất đai cảnh trí là bất động sản của tu viện. Nên những cơ sở vật chất được xây dựng là chủ. Còn núi rừng chung quanh là khách.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Về lãnh vực con người, thì con người là chủ, là năng. Tất cả cơ sở động sản hay bất động sản đều là sở hữu của ta cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Quay lại chúng ta, hình thể ngũ uẩn nầy là vật sở hữu của mình. Còn khả năng suy nghĩ, vận động ý chí bên trong của mình, điều động hình thể vật lý nầy, như tư duy, tình cảm của mình thì gọi là chủ thể. Nhưng những phần nầy có bóng dáng, cảm nhận được dù rất mịn, rất tinh tế và vô hình đều thuộc lãnh vực của sinh diệt nên là khách. Còn chủ là những gì thường trụ, không sinh diệt, không đến không đi, không vui không buồn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhìn lại mình thì cái gì không sinh, không diệt, và cái gì là sinh diệt? Vui buồn là sinh diệt, sâu hơn một tầng vui buồn là suy nghĩ, tiếng nói thì thầm cũng là sinh diệt. Lặn sâu hơn một tầng nữa, ta thấy lúc có tiếng nói thì thầm thì ta chính là dòng suy tư. Nếu chúng ta tĩnh tâm, tu chánh niệm vững vàng thì tiếng nói thì thầm nầy là cái bị nhận diện, mà ta là năng lực nhận biết.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Năng lực nhận biết nầy không có tiếng nói, nó như mảnh gương phẳng lặng trong veo và chiếu sáng nhưng chợt có tiếng thì thầm là nó nhận biết ngay. Ta gọi “tự thể rỡ ràng, tỉnh sáng, trong lặng nhận biết” ấy là chủ thể ban đầu của ta. Và nếu lúc nào ta cũng sống trong sự nhận biết liên tục nầy, là chúng ta đang an trú trong chánh niệm. Đạt đến trạng thái an trú trong chánh niệm là chúng ta đang an trú trong tự thể Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Siêu việt cả hai.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, từ sự giải thích trên chúng ta đi vào câu: “Niệm vô niệm niệm.” có nghĩa là niệm mà không có đối tượng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Niệm là gì? Niệm là chú ý. Chú ý thì phải có đối tượng để ta chú ý, và có cái gì bên trong để ta vận dụng ý thức đặt sự chú ý vào. Khi chúng ta có một đối tượng để đặt tâm thức vào, và bên trong tâm thức đang vận động năng lực đặt sự chú ý vào nó, cố gắng vận dụng để quán chiếu, thì thầm nói về nó là chúng ta đang còn trong trạng thái có mặt của đối tượng, chủ thể. Có mặt của năng và sở.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta vượt lên, không vướng vào đối tượng, không khởi tâm bên trong; chỉ an trú trong trạng thái lặng lẽ, rạng ngời thì gọi đó là “niệm vô niệm niệm.” Niệm mà không có đối tượng, không có chủ thể gì cả, siêu việt cùng một lúc, vượt lên trên hai tầng chủ thể, khách thể của năng và sở.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta tu mà đạt đến trình độ công phu sâu sắc niệm mà vô niệm cũng là công phu bình thường nhất, là cái gì giản dị nhất. Vô niệm là chúng ta an trú trong tâm Phật bản nhiên của mình, an trú trong tầng rất sâu của tự thể tâm. Trong kinh Viên giác gọi là niệm Chân Như hay niệm vô niệm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở đây từ “niệm vô niệm niệm” được lập đi lập lại nghe khó hiểu nhưng nếu chúng ta luôn sống chánh niệm, tỉnh thức trong trạng thái tâm lặng lẽ, trống rỗng chiếu sáng thì gọi là niệm mà vô niệm. Và chỉ một câu nầy sẽ mở bung cho chúng ta dễ dàng đi vào những câu kế tiếp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– “Hành vô hành hạnh.” Chúng ta có nhiều cấp độ để giải thích “hành vô hành hạnh.” như sau:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cấp độ cạn nhất là những việc làm trong đời sống chúng ta. Chúng ta làm mọi việc mà muốn cho người khác biết đây là tôi làm, tức là có việc để mình làm, có tôi là tác nhân của những việc làm đó. Thông thường nếu tâm thức còn bản ngã thì chúng ta đều chạy theo qui luật như vậy. Ví dụ tôi ở trong chúng, tôi đã làm tất cả mọi việc bằng tấm lòng và thành công thì mọi người phải biết sự thành công đó do tôi làm, cho nên có năng và sở, có việc làm và có người làm. Đó là cấp độ cạn mà người ta thường muốn chứng minh cho mọi người biết việc ta làm, tức thì theo sau nó nào những buồn phiền, ganh tị, bất an, sân si, vô minh... sắp hàng dài trong việc có người làm và có việc đã làm. Nói một cách khác, khi có bản ngã chen vào, có cái ta ở trong đó thì mọi việc trở thành phiền não. Đây là phạm vi hẹp của đời sống con người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, nhìn vào phạm vi của đạo, nếu chúng ta còn tâm thức nhị biên thì đời sống tâm linh của chúng ta không vươn cao lên được. Ví dụ sống trong chúng cùng tu học, mình là người giỏi nhưng sống rất hài hòa, không muốn chứng minh mình là người giỏi dù đã làm mọi việc hoàn thành tốt đẹp. Ta cứ để đời sống mình hòa nhập trong chúng, tuôn chảy như dòng sông đẩy công việc đi, mang mọi người cùng đi thì đời sống đó là một đời sống đẹp lành, và chắc chắn sẽ vươn lên tầm cao trong đời sống tâm linh. Và đây chỉ là “hành vô hành hạnh” ở mức độ thấp cạn. Nếu trong chúng có được một người như thế là một sự đóng góp lớn cho tu viện, cho một trung tâm tu học.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vươn lên đến tầm cao hơn nữa thì “hành vô hành hạnh” là hành Bồ Tát Đạo, đi trong lục đạo luân hồi và tất cả việc làm của mình như cúng dường chư Phật, hóa độ chúng sanh, giảng kinh, thuyết pháp, bố thí thân thể nầy... của các vị chỉ là công việc của một người do “tùy duyên nhậm vận” theo tâm đại bi mà hành trì. Công hạnh sâu dày đã bao nhiêu kiếp tu tập, giáo hóa chúng sanh hay bé nhỏ như nâng niu sinh mạng của một con kiến... tất cả chỉ là việc bình thường như hơi thở, như mây trời lang thang thế thôi, chẳng có gì để tự hào cả. Làm mà không có việc để làm, năng và sở triệt tiêu. Nhưng năng lực của Đại bi tâm như nắng ấm hiến tặng nhân gian vô phân biệt; gọi đó là “hành vô hành hạnh,” ở cấp độ thâm sâu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– “Ngôn vô ngôn ngôn,” là nói mà không có đối tượng để cho mình dạy dỗ, và tự thấy mình là người không dạy dỗ gì cả. Thường thì khi chúng ta nói ra là muốn người kia phải chú ý nghe mình, dạy người ta mà họ không nghe thì mình rất là phiền não. Đó là tâm thức đang ở tầng cạn. Trong đời sống tu học, chúng ta khá một chút thì trách nhiệm của ta là đóng góp, chia xẻ còn nghe hay không là chuyện của người ta. Nếu ta có nhiệt tình rất lớn, muốn giúp người nhưng họ không nghe mà chúng ta sinh phiền não thì ta tự chuốc lấy khổ cho mình. Cho nên nâng tâm thức của mình lên một tầng cao hơn thì chúng ta đã làm tròn trách nhiệm, còn nghe hay không là chuyện của họ. Và lòng từ bi của mình nếu mênh mông hơn nữa thì thưa đại chúng, chúng ta phải vận dụng trí tuệ làm thế nào để người ta có thể hiểu được những gì mình muốn trình bày. Đức kiên nhẫn, sự đợi chờ làm lớn tình thương yêu của những người tu Bồ Tát hạnh. Bằng khả năng của tình yêu thương chúng ta sẽ chế tác ra những phương pháp, những lời nói xuất phát từ trái tim, những cách thế cho người vượt qua những đau khổ, chông gai trong cuộc đời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi chia xẻ những điều trên để qui lại “Ngôn vô ngôn ngôn” là khi trong trái tim ta có hai chất liệu: tuệ giác và thương yêu thì chúng ta làm tất cả vì người không phải vì mình. Ví dụ, một vị Thầy lên bục giảng có hai cách dạy: cách thứ nhất là muốn trình bày, khoe sự hiểu biết, kiến thức của họ. Cách thứ hai là làm thế nào giúp người nghe hiểu, và thực tập để tự chuyển hóa tâm thức. Hai điều nầy rõ ràng một là vì người mà nói, và một là muốn khoe mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vì thế tùy thính chúng trong pháp hội mà vị thầy nói những lời bình dị, hay những chuyện cao vời hợp với nhu cầu trí thức của người nghe. Họ vì người mà nói, không phải vì mình nên gọi là nói mà không nói.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][bubble] Ồ! Vậy là "Tri nhất thiết pháp Như, Kiến nhất thiết pháp Đẳng"[/bubble]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở tầng cao hơn nữa.“Ngôn vô ngôn ngôn,” là xóa mất đi biên giới chủ thể, đối tượng khi nói. Nếu mở những trang Kinh ngày xưa của Đức Thế Tôn, chúng ta thấy Ngài nói: “Trong bốn mươi lăm năm qua, đi khắp lưu vực sông Hằng ta chưa hề nói một lời.” Câu nói nầy của Ngài chúng ta nên hiểu là trong khi nói mà tâm ta vẫn an trú trong trạng thái chánh niệm thì lời nói tự nhiên như dòng suối từ bên trong chảy ra, không mất mình trong những điều mình nói. Tức chúng ta nói, làm mọi việc nhưng không bước ra khỏi vùng đất Như Lai bất động mình đang đứng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– “Tu vô tu tu” có nghĩa tu mà không có đối tượng để thành đạt. Nói một cách dễ hiểu là không có quả vị để chứng đắc, không có người chứng quả gọi là tu mà không tu gì cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu ta dùng lăng kính của Thiền Đông Độ thì tự ta đã có sẵn hạt mầm Phật bên trong rồi. Tu chỉ là nói trên ngôn ngữ mà thôi. Điều quan trọng là chúng ta trở về hồi phục được, sống được trong vùng đất tự tâm mà không cần phải làm gì thêm cả. Con đường tu là con đường loại dần ra. Lão Trang có câu:“Vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn.” có nghĩa học thì một ngày một thêm, tu tập thì một ngày một bớt. Người xưa hay ví tự ta đã là viên kim cương, không cần đi tìm kim cương đâu nữa. Tự ta là Phật rồi, điều quan trọng là chúng ta biết loại bỏ những cấu uế bên ngoài trở về với tự thể kim cương chói sáng của ta.
[/FONT]<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_4/Sieu_Viet_Nhi_Bien_01.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[FONT=Arial,Helvetica]SIÊU VIỆT NHỊ BIÊN(tt)[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]4. Cẩn trọng từng bước đi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, tôi xin lập lại và đi sâu vào nội dung của chương mười tám với chủ đề “Siêu Việt Nhị Biên.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Siêu việt nhị biên là vượt qua khỏi hai bên. Nhị biên là hai phía... Từ nhị biên nầy có rất nhiều nghĩa, như sinh tử, Niết Bàn cũng thuộc loại hai phía. Có và không, phải và quấy, tốt và xấu, dễ thương và không dễ thương, hạnh phúc và khổ đau đều thuộc về loại hai phía.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều đầu tiên chúng ta nên ghi nhận nhị biên là thực tại của đời sống, tức là không hề có cái nầy mà không có cái kia. Như khi hạnh phúc có mặt thấp thoáng bên sau có khổ đau, tình bạn có mặt thì bên sau đều có bóng dáng của sự phản bội. Chưa bao giờ có sự thù địch trên hành tinh nầy mà không bắt đầu từ tình hữu nghị, bạn hữu với nhau cả. Ví dụ như chiến tranh trên thế giới xảy ra giữa hai khối Tư Bản và Cộng Sản, họ đã từng là bạn với nhau nhưng cũng từ họ mà làm nên những cuộc tương tàn, giết chóc, phá hủy từ nhân mạng đến văn hóa, kinh tế, tài chánh... trên hành tinh nầy. Thậm chí những cuộc Thánh chiến nhuộm đen một giai đoạn lịch sử châu Âu cũng phát sinh từ những người cùng một niềm tin vào đấng Cứu thế.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trở lại vấn đề nhỏ của tự thân. Tự tâm chúng ta luôn có hai mặt của đời sống. Khổ đau hạnh phúc, nước mắt nụ cười đều cùng lúc có mặt. Và trên con đường tu chúng ta làm thế nào để vượt lên trên hai điều nầy gọi là siêu việt nhị biên. Và cuối cùng của đường tu là vượt lên trên Sinh tử Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong toàn bộ Kinh Bốn Mươi Hai Chương thì đây là chương rất đặc biệt, chương bốn mươi hai tức chương cuối cùng có sắc thái đặc biệt như thế nầy. Nhưng ngôn ngữ sâu sắc, hay, ngắn gọn là chương Kinh thứ mười tám mà chúng ta đã và đang bước vào: “Niệm vô niệm niệm. Hành vô hành hạnh. Ngôn vô ngôn ngôn. Tu vô tu tu. Hội giả cận nhĩ. Mê giả viễn hồ. Ngôn ngữ đạo đoạn, Phi vật sở câu. Sai chi hào ly. Thất chi tu du.” Có nghĩa “niệm mà không niệm, hành mà không hành, nói mà không nói, tu mà không tu. Người hiểu thì rất gần, người không hiểu thì xa mịt mù. Dứt bặt nói năng, không có bất cứ một đối tượng nào, vật chất, tư duy, tình cảm... câu thúc ràng buộc tâm thức mình cả. Với pháp hành của mình nếu lệch một kẽ tóc, đường tơ thì mất liền đạo lý nhiệm mầu đang có trước mặt.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ “vật” ở đây ngoài nghĩa ngoại vật thô là những đối tượng bên ngoài có hình thể, màu sắc, âm thanh, mùi vị... cũng còn là nội vật tinh tế như ý tưởng trừu tượng, tư duy, ý thức... của mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, khi chúng ta đi vào đời hoằng pháp, độ sinh mà năng lượng tu của mình đã đầy, đã trong lặng sáng ngời thì sự có mặt của ta là một đóng góp lớn. Chúng ta giúp người chuyển hóa, giúp người phát triển tâm Bồ Đề mà không cần phải dụng công gì hết. Tự nhiên năng lượng lành thấm vào trái tim người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngày xưa, các vị tỳ kheo sinh vào thời Đức Phật, có duyên lớn sống gần Ngài, năng lượng giác ngộ từ Đức Thế Tôn thấm đẫm vào trái tim của đệ tử nên các vị dễ chứng A La Hán quả vô cùng. Sự có mặt của các bậc giác ngộ là như thế.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong đời sống tu chúng ta đang thực hành “vô hành hạnh,” là tu mà không tu gì cả, độ sinh mà không có độ sinh gì cả. Nếu chúng ta tu giỏi, khi làm Phật sự lớn, Phật sự nhỏ hay độ sinh dù công đức bằng hư không chúng ta thấy như trò chơi. Tại sao? Thưa, đó là những gì rất tự nhiên tuôn chảy từ trong tim ta, không có sự dụng công, không phải làm để người mang ơn mình. Nếu chúng ta tu dỡ thì khi giúp người một chút việc nhỏ nhoi, ta cũng thấy là mình đã làm việc lớn lao vĩ đại. Đối với người tu thật, thì đạt đến chỗ không còn dụng công nữa. Lòng từ bi, những việc lành đã làm xem nhẹ như tơ, như đôi dép rách không có gì phải bận tâm. Đó là việc phải làm của người tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa, tôi nói đều nầy nghe rất ngược nhưng rất đúng. Tại sao? Vì nếu thầy tu không làm những việc tu tập độ sinh như vậy thì không thể làm điều gì khác, và họ phải cảm ơn những người họ đã giúp đỡ, giáo hóa, nuôi dưỡng vì nhờ người kia làm điều kiện cho lòng từ bi của họ tuôn chảy. Có người múc nước cho giếng của họ trong thêm, ngọt thêm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]5. Mặc tình theo duyên.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta thường có một thói quen rất kỳ lạ là cứ tôn xưng quí thầy, thần thánh hóa vị thầy của mình. Tất nhiên ở mặt tích cực, đây là điều cần có để xây dựng niềm tin cho người mới phát tâm tu và quần chúng Phật tử. Nhưng ở mặt tiêu cực, điều nầy xoi mòn phẩm hạnh, nuôi lớn bản ngã của đời sống Tăng già. Sự sùng mộ, tôn vinh quá đáng dẫn đến hủ tục cúng dường vật chất phi chánh pháp, làm thành một tập thể người tu chìm dần trong đam mê danh lợi. Và những đạo tràng có các vị Tôn sư giỏi; các thầy, cô thừa hưởng được uy đức của Thầy mình tâm thức tự phụ, ỷ lại phát sinh tạo nên một tập thể kiêu mạn Tăng rất khó chịu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu các triều đình phong kiến những tôi thần được sủng ái do có công với vua đều trở thành một loại “kiêu binh” làm giảm tuổi thọ một đế chế. Thì trong đạo nhóm “kiêu mạn tăng” cũng dễ phát sinh và phá hoại chánh pháp cùng một cách thế như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta hãy hồi tâm lại, nhìn kỹ vào điều nầy để thấy cái dỡ của mình là chính mình không lo tu, không quay về đào xới vùng đất tâm của mình mà cứ núp bóng những vị thầy lớn, rồi thấy hào quang của ông thầy là của mình. Tự hào về những điều của thầy mình. Nên nhớ, thầy mình là thầy mình, còn mình là mình đừng tự hào về ông.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong nhà Thiền người ta phân định ra ba loại đệ tử: loại thứ nhất đến với thầy để mong ve vuốt tình cảm yêu thương, là chỗ tựa để học trò kiếm chút tình cảm của thầy. Đó là cái dỡ của người đệ tử thấp nhất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Loại thứ hai là lợi dụng danh tiếng, uy tín của thầy mình để làm ăn trên lãnh vực lợi danh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và đệ tử giỏi nhất là bước ngang qua hai điều đó. Đến với thầy để làm sáng lòng mình, để được trưởng thành trong sự rèn dũa, mài đập của thầy. Đến với thầy để đưa viên kim cương nguyên sơ lấm lem cát bụi cho người thợ ngọc kia mài dũa cho những cạnh thêm sắc bén, thêm sáng long lanh. Chứ không phải đến để nương tựa cuộc sống tình cảm, không phải đến để dựa vào tên tuổi lớn, danh tiếng của ông để ăn nên làm ra. Đây là những điều rất rõ chúng ta nên nhớ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, khi đạo lý đã nhập cốt, tức đạo lý đã thấm vào xương tủy, thì từng tế bào máu của mình là chánh niệm, hơi thở của mình là chánh niệm, bước đi của mình là chánh niệm. An trú trong vùng trời chánh niệm trong sáng, tĩnh lặng thì từng lời, từng lời tuôn chảy một cách tự nhiên. Đối cơ giúp người chứ không phải vận dụng tư duy, nầy nọ để chứng minh cho người ta biết mình là người tài giỏi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Một tâm thức thiếu sự thực tập, chúng ta thường cố đem hết tài ba của mình ra để làm đuôi công xòe ra lòe mắt thiên hạ. Người tu mà đạo lý thấm vào cốt tủy, thấm vào từng tế bào thì không phải như vậy; mà từng hơi thở là sự truyền đạt, từng lời nói là sự khiêm tốn, là lòng từ bi thấm đến người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người xưa khi đã đạt đến chỗ nầy thì: “Tùy duyên tiêu cựu nghiệp, nhậm vận trước y xiêm.” Sống tùy duyên để cho nghiệp cũ trôi mòn dần, thong dong mặc áo, ăn cơm thật thảnh thơi, tự tại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong Thiền sử có ghi chuyện một vị quan lớn đến Thiền viện nọ hỏi: “Chúng ở đây có tụng kinh không?” Vị Thầy trả lời: “Chúng ở đây không có tụng kinh.” Ông quan ngạc nhiên: “Vậy thì chúng cả ngày tọa thiền ư.” “Không, ta cũng không dạy họ tọa thiền.” Vị quan liền nói: “Đã không tụng kinh, cũng không tọa thiền, vậy họ tu cái gì?” Vị Thiền sư: “Ta chỉ dạy cho họ làm Phật, làm Tổ chứ không dạy họ gì hết.” Ông quan thắc mắc: “Làm Phật làm Tổ là thế nào?”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Ta chỉ dạy họ những sinh hoạt bình thường như ăn cơm, rửa chén, quét nhà... làm lụng như mọi người. Đời sống của họ là như thế. Nếu có ai nói phải tu là kẻ đó gieo tai họa cho Thiền đường ta.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa, đó là đạt đến trình độ tu mà không phải tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Tùy duyên, nhậm vận.” là mặc tình theo duyên. Tức là khi nắm được pháp hành vững niềm tin nơi tâm Phật của chính mình, chứng nghiệm được pháp lạc trên con đường tâm linh thì người ấy có thể an trụ trong Già lam hay trôi nổi vào đời lúc nào cũng ứng dụng được công phu. Họ đem được sự thực tập vào mọi lãnh vực xã hội, mọi sinh hoạt trong những hoàn cảnh khác nhau, điều kiện khác nhau, không có hạn chế, không có khuôn khổ thì mới đáng gọi là một thiền nhân. Là người mà cả một đời trong từng hơi thở luôn an trú trong định, và cuộc sống thì mặc tình theo duyên.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta đã hiểu rồi thì rất là gần, nếu không hiểu thì xa vời vợi. Ví dụ pháp thực tập của chúng ta là chánh niệm, có niềm tin với phương pháp nầy thì càng ngày ta đi càng sâu. Khi thực tập sâu rồi thì thấy chánh niệm là vô niệm, vô ngã, là Niết Bàn thường tại. Nó không khác gì với ngôn ngữ người xưa diễn đạt là thấy tánh, là ngộ đạo, là mở con mắt pháp, nhận ra mặt mũi thật của mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]6. An trú nơi sự nhận biết.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, thực tập chánh niệm là mời tâm về an trú nơi thân. An trú trong chánh niệm hiện tiền, dừng lại ngay phút giây nầy, tâm không chạy đến tương lai, không chạy lui về dĩ vãng mà là luôn nhận biết. Nhìn là nhận biết mọi vật trước mắt, lắng tai nghe là nhận biết mọi âm thanh đang đến với tai mình. Và có hai tầng của sự nhận biết:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhận biết mà có tiếng thì thầm, vận dụng ngôn ngữ để đối thoại và độc thoại thì nhận biết đó không phải an trú trong chánh niệm thực sự, không phải an trú trong tâm Phật bản nhiên không sinh, không diệt; không phải an trú trong tự thể Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhận biết không có tiếng nói thì thầm là sự nhận biết trực tiếp, rạng ngời, tỏa chiếu mênh mông. Chỉ khác nhau một tí vậy thôi. Hai trạng thái nầy qua lại tích tắc, lắt lay rất nhẹ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có một vị Thiền sư lên pháp tòa, ông ngồi yên không nói tiếng nào. Thính chúng chờ hồi lâu bảo nhau đi về. Khi thính chúng đi ra ông mở mắt nói: “Các ông toàn là lũ ăn hèm, (tức ăn đồ cặn bã). Ta nói pháp bình thường bằng ngôn ngữ thì các ông chịu nghe, còn ta đang nói pháp nhiệm mầu, tuyệt vời đệ nhất không ngôn ngữ thì các ông không biết nghe.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, mức độ thâm sâu hơn, đạo lý nhiệm mầu nầy nếu hiểu thì rất là gần, đang có mặt ngay đây trong từng phút từng giây. Nếu không hiểu, chúng ta chạy tìm thì đời nầy qua kiếp khác, chạy hoài không biết đâu là đạo lý cả; trong khi nó ở ngay trong ta. Cho nên câu Kinh trên Phật dạy:“người biết thì rất gần, người không biết thì đường mê rất xa.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– “Ngôn ngữ đạo đoạn, phi vật sở câu.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, ngôn ngữ thường rất hạn chế. Điều hạn chế đầu tiên là chúng ta đều có khái niệm khác nhau về vấn đề được trình bày. Ví dụ như từ dùng; chúng ta ở đây thường xử dụng chữ Bụt thay cho Phật. Đối với chúng ta thì khi đọc lên không có gì dị ứng trong tâm thức, chúng ta thấy đây chỉ là từ được dịch từ nguyên gốc. Nhưng những người đã quen với truyền thống dùng chữ Phật thì họ dị ứng, không có cảm tình. Cho nên mỗi ngôn ngữ đi kèm theo ý tưởng của mỗi người khác nhau nên ngôn ngữ hạn chế là như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phải dùng tới ngôn ngữ để truyền đạt đạo lý không phải là con đường thật. Con đường thật không dùng ngôn ngữ. Chúng ta phải vượt ngang qua tầng ngôn ngữ để đạt thẳng đến đạo lý. Ngôn ngữ chỉ là một phương tiện, và nó rất vụng về. Đôi khi dùng nó, đã không chuyên chở được những gì ta muốn mà còn truyền đạt ngược lại điều mình muốn nói. Cho nên “ngôn ngữ đạo đoạn” là dứt bặt đường ngôn ngữ bên ngoài.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở tầng sâu, chúng ta hãy thử nhìn vào bên trong tâm thức. Không có những lo âu, bất an, sầu não... nào mà không khởi lên từ câu nói thì thầm. Chúng ta buồn cũng có câu nói thì thầm, có thể có những câu nói thô ta nhận diện được, nhưng có những sóng ý thức thầm lặng chúng ta không nhận diện được nhưng vẫn có những câu thì thầm làm phát sinh phiền não.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Lời nói thô là lời nói ra chúng ta nghe được. Lời nói mịn là lời nói tâm thức, tư duy để có thể viết thành những trang truyện, những lời thơ, những trang sách.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ý tưởng, tư duy gọi là lời bên trong. Sâu hơn lời thì thầm là những đợt sóng lao xao của ý thức. Ví dụ có những nỗi buồn dệt bằng lời, có những hờn giận chỉ gợn sóng thôi cũng thuộc về lời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và sâu nhất là dòng chảy của vọng thức tạo thành nghiệp sinh tử luân hồi miên man. Nghiệp sinh tử không chấm dứt do vì đường ngôn ngữ nầy chưa dứt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, khi chúng ta an trú, thể nhập được trong vùng trời tâm bất sinh, bất diệt thì lời liền bặt dứt. Lúc bấy giờ ta sống trong trạng thái sáng tỏ nhận biết hiện tiền, nhưng chỉ cần nhích sai một ly thì ta mất liền. Ví dụ ta chỉ cần khởi một câu nói, nhưng không khéo thì câu thứ nhất dẫn đến câu thứ hai và kéo theo một tràng dài vui buồn, phiền não phát sinh. Chỉ cần lạc một chút buổi ban đầu thì sẽ đi mênh mông trong cõi luân hồi. Cho nên tổ Tăng Xán gọi “sai một hào ly, mất trong khoảnh khắc.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tóm lại, trên lý chúng ta có thể nhận được đạo rất dễ, ta có niềm tin vào phương pháp thực tập chánh niệm rất dễ. Nhưng để sống được với chánh niệm hiện tiền nhận biết, đòi hỏi công phu hành trì bền bỉ, kiên trì. Như lời cuối cùng của Ngài Milarepa dạy đệ tử lúc từ giã Ngài xuống núi sau bao nhiên năm theo Ngài tu học: “Đây là phương pháp bí mật. Học thì ngươi đã học xong nhưng tọa thiền thì phải cần ngồi nhiều hơn nữa. Ngươi hãy coi đây! Vừa nói Ngài vừa kéo cái khố lên đưa đôi mông chai sạn, lở lói của mình cho Gampopa.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, chúng ta chọn con đường nầy để học làm Phật, làm Tổ, vượt lên trên phàm phu thành tựu quả vị Thánh. Đây là con đường không phải dành cho người giãi đãi, biếng lười, thiếu nhiệt tình mà có thể làm được. Điều nầy rất rõ ràng, xin nhắc nhau một lời như vậy.[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_4/Sieu_Viet_Nhi_Bien_02.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XIX - CHƯƠNG XX[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]TAM PHÁP ẤN
HT.Thích Phước Tịnh_Giảng giải
[/FONT]
</center>


[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hai chương mười chín và hai mươi nầy có nội dung trùng hợp nhau là Tam Pháp Ấn. Do vì đây là văn bản dịch rất xưa của Trung Hoa, cho nên những từ dùng hơi xưa so với văn bản Hán hiện tại. Chúng ta đều biết Vô Thường, Vô Ngã, Niết Bàn được gọi là Tam Pháp Ấn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
<center> [FONT=Arial,Helvetica]CHƯƠNG XIX.[/FONT]
</center> [FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Quán thiên địa, niệm phi thường. Quán thế giới, niệm phi thường. Quán linh giác, tức bồ đề. Như thị tri thức, đắc Đạo tật hỷ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Quán trời đất nghĩ là vô thường. Quán thế giới nghĩ là vô thường. Quán linh giác tức Bồ Đề. Hiểu biết như vậy thì đắc Đạo rất nhanh.”[/FONT]
<center> [FONT=Arial,Helvetica]CHƯƠNG XX.[/FONT]
</center> [FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Đương niệm thân trung tứ đại, các tự hữu danh, đô vô ngã giả. Ngã ký đô vô, kỳ như huyễn nhĩ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Hãy quán chiếu tự thân được làm bằng tứ đại đất nước gió lửa, mỗi đại đều có tên riêng, không có ta ở bên trong. Ta đã không có thì tên của nó chỉ như huyễn hóa mà thôi.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đại ý của hai chương nầy là hành giả hãy chứng nghiệm Niết Bàn qua cánh cửa của Tam Pháp Ấn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Sự cần thiết của tuệ quán.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, Vô thường, Vô ngã, Niết Bàn là Pháp Ấn làm chuẩn mực cho toàn bộ giáo pháp của Phật dạy, và cũng là chuẩn mực cho hành giả thực tập và thực chứng chánh trí. Chánh trí là từ ngữ khác của Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin chia xẻ cùng quí vị những từ tuệ giác, tuệ quán hay chánh trí rất là quan trọng. Đối với người tu chúng ta phát triển được tuệ giác hoặc nói một cách khác là phát triển chánh trí, hoặc có năng lực của tuệ quán tức khắc đoạn trừ được phiền não ở mức độ cạn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở mức độ sâu hơn, phát triển dược tuệ giác hay chánh trí chúng ta đoạn đứt được con đường sanh tử, thực chứng Niết Bàn. Đặc biệt trong giáo lý đạo Phật con đường của tuệ giác rất quan trọng. Những phiền não, khổ đau của đời sống chỉ cần làm một việc là khởi phát được nhận xét đúng thôi là chúng ta loại trừ được tất cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ những đam mê trong đời sống do vì ta không có tuệ giác nên đam mê. Có tuệ giác rồi thì tự nhiên loại trừ mà không cần điều kiện gì khác cả. Là người tu, chúng ta hãy cẩn thận nhìn lại tâm hành của mình. Sống trong tập thể tu học, trong chúng có nhiều em mới xuất gia có tài hơn, dễ thương hơn, có nhiều tiềm năng hứa hẹn sẽ là những tăng tài, những pháp khí của Phật giáo. Ta nhìn lại lòng mình xem niềm yêu thương, trân quí, muốn nâng đỡ và chăm sóc các em có mặt trong ta hay không? Hay ta ghen ghét, tị hiềm... Chúng ta tu chưa cần phải làm những gì to lớn, chỉ làm chuyện nhỏ, rất nhỏ là nhìn từng chút tâm hành như vậy. Hạt giống Bồ đề, Niết bàn tiềm phục trong mỗi ý niệm, trong mỗi cái nhìn của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi nhắc lại để quí vị lưu ý, những mênh mông, bao la, đức hạnh của một người được thể hiện trong từng cái rất nhỏ. Chúng ta đừng tưởng những gì nhỏ không có giá trị. Bom hạt nhân là do một đơn vị nguyên tử cực nhỏ làm nên. Và chúng ta nhìn lại các bậc Thầy; các Ngài đã thành tựu đức hạnh, đi lên từ những điều cực nhỏ nên những lời nói rất bình thường, ngắn gọn, rất giản dị nhưng sức đánh động vào tâm thức con người rất mạnh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Tam pháp ấn: Khuôn dấu chánh pháp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bây giờ chúng ta đi vào Pháp Ấn, xin các vị lưu ý là có Tam pháp ấn, Tứ pháp ấn và Ngũ pháp ấn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong văn học A Hàm, Tam pháp ấn chúng ta đều biết là Vô thường, Vô Ngã, Niết Bàn. Tứ Pháp ấn thì thêm Khổ, như câu: “Các pháp đều vô thường. Các pháp vốn vô ngã. Các hành đều là khổ. Niết bàn thường tịch tĩnh.” Và Ngũ pháp ấn thì thêm “Tất cả Pháp đều không.” Dĩ nhiên trong truyền thống Mật Thừa của Tây Tạng, có Tứ pháp ấn khác với điều giảng giải nơi đây.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Pháp ấn không phải chỉ có mặt trong truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy và cũng không phải chỉ có mặt trong truyền thống văn học A Hàm, mà văn học Đại thừa cũng có Pháp ấn. Như chúng ta đều biết, Phật giáo Việt Nam thường thiên trọng tư tưởng Phật giáo Trung Hoa. Mọi điều các sư Trung Hoa giải thích mình đều bê nguyên bản xem như chuẩn mực, trong khi đọc vào các tác phẩm nghiên cứu của những học giả Phật giáo Nhật Bản cận đại thì thực tế không phải như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin đơn cử ví dụ như theo Ngài Thiên Thai Trí Khải (538-597) sơ tổ Tông Hoa Nghiêm, (Trung Quốc) thì giáo pháp Đức Thế Tôn giảng dạy một đời được phân ra làm năm thời kỳ với bài kệ mà ai cũng biết với câu mở đầu: “Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhựt.”... Thế nhưng theo những nhà nghiên cứu văn bản học thì Kinh Hoa Nghiêm không xuất hiện sớm như cách phán giáo của Ngài Trí Khải. Chính xác ấy là loại văn viết chứ không phải là loại văn ngôn, kệ tụng được kiết tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Do vậy, Ngài Trí Khải cho rằng lúc Đức Phật nhập định luôn ba tuần để nói bộ Hoa Nghiêm nầy, và trong mười hai năm đầu giáo hóa Đức Thế Tôn giảng thuyết A Hàm để dẫn dắt các vị Thanh văn cũng không đúng. Tại sao?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vì suốt cả một đời Đức Phật nói chưa bao giờ phân ra từng thời kỳ, từng năm để giáo hóa (mười hai năm A Hàm, sau đó hai mươi năm Bát Nhã...), điều nầy do các bậc thầy bác học Trung Hoa phân định mà thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngày xưa Đức Phật tùy cơ thuyết pháp, và trên lưu vực sông Hằng Ngài đối cơ của thính chúng để giảng dạy pháp môn tu. Văn học Bát Nhã là loại phát triển bằng thể văn viết. Pháp Hoa, Niết Bàn cũng không phải Đức Thế Tôn dành tám năm cuối để nói.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Rõ ràng là Kinh Du Hành trong văn học A Hàm cho chúng ta thấy rằng cuối cùng Đức Thế Tôn nói Kinh Du Hành được tập trung lại trong Trường A Hàm. Như vậy bốn bộ A Hàm nầy là tập trung Pháp tạng một đời của Đức Thế Tôn đã dạy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nền văn học Đại thừa là văn học Phật giáo phát triển được triển khai từ dòng tuệ giác của Đức Thế Tôn, và được đặt căn bản trên nền Phật giáo Nguyên Thủy, là bông hoa của cây đại thọ A Hàm. Hẳn nhiên việc phân khoa, chú thích, phán giáo là việc làm rất cần của người con Phật, nhưng không phải là một định luận đúng cho muôn đời. Ấy thế mà phần lớn trong trường lớp Việt Nam chúng ta đều bị ảnh hưởng tư duy của các thầy Trung Quốc đè nặng. Đây là một trong những điều vụng về nhất của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hãy trở lại Tam Pháp Ấn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tam pháp ấn không phải chỉ có mặt trong văn học A Hàm, mà còn có mặt trong bộ Niết Bàn được thẩm định là văn học Đại Thừa. Trong Kinh Niết Bàn chúng ta thấy những câu như: “Các hành vô thường, là pháp sinh diệt.”... là bốn câu kệ Đức Thế Tôn kể lại trong phẩm Cao Quí Đức Vương. Chuyện rất hay do Đức Phật kể lại liên hệ đến bốn câu kệ nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tiền thân Đức Thế Tôn lúc còn là một Tiên nhân, Ngài chưa biết pháp tu. Một hôm đang ngồi tọa thiền trong rừng vắng có một vị Thiên hiện thân làm quỷ Dạ Xoa đến đứng trước mặt Ngài đọc lên hai câu kệ: “Chư hành vô thường, thị sanh diệt pháp.” Khi nghe, vị Tiên nhân rất thích, chỉ hai câu kệ thôi mà làm cho tâm Ngài sáng bừng lên và Ngài đảnh lễ nói: ‘Xin ông vui lòng đọc tiếp bài kệ.” quỷ Dạ Xoa bảo: “Ta đang đói bụng, không thể đọc tiếp được, phải cho ta ăn cái gì ta mới đọc hết bốn câu kệ.” Tiên nhân kia thưa: “Tôi có tất cả lương thực, xin Ngài ăn.” Dạ Xoa bảo: “Ta chỉ ăn thịt thôi.” Thưa ngài:“Thịt thì không thể kiếm đâu ra.” Dạ Xoa nói: “Ta thích ăn thịt ngươi thôi”. Đức Thế Tôn lúc ấy là một người rất mộ đạo nên bằng lòng cúng dường thân mình. Nhưng nêu lên thắc mắc “Nếu Ngài ăn thịt tôi thì tôi chết mất làm sao nghe được nửa bài kệ còn lại.” Quỷ Dạ Xoa nói: “Ta có cách là ngươi đứng trên đỉnh cao của ngọn núi, ta ở dưới chờ ngươi nhảy xuống. Trong quá trình ngươi nhảy thì ta đọc kệ. Ta há miệng ngươi rớt vào miệng ta.” Đức Thế Tôn bằng lòng nhảy xuống núi. Quỷ Dạ Xoa há miệng chờ và đọc hai câu kệ. Nghe hai câu kệ Ngài ngộ đạo lúc đang rớt từ đỉnh núi cao. Quỷ Dạ Xoa vốn là vị Thiên Vương kia đã đưa hai tay ra hứng lấy Ngài đặt xuống đất và cung kính đảnh lễ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi dẫn câu chuyện từ Kinh Niết Bàn để quí vị thấy Tam Pháp Ấn nầy rất quan trọng; là con dấu chứng minh cho toàn bộ nguồn giáo pháp của Đức Phật. Từ văn học A Hàm đến văn học Đại thừa đều có mặt Tam Pháp Ấn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu trong bất cứ bộ Kinh văn nào có một lời giảng dạy mà không có dấu vết của Tam Pháp Ấn đi vào thì không phải lời Đức Thế Tôn nói. Trong dòng sử liệu đạo Phật, các Thánh đệ tử ngày xưa từ Thanh văn, Bồ Tát đến các vị Thiền sư cận đại đều nương vào Tam Pháp Ấn để tu tập và giảng giải giáo lý của Đức Thế Tôn. Tam Pháp Ấn là khuôn mẫu giá trị định chuẩn cho chánh pháp từ quá khứ đến hiện tại. Ví dụ quí vị chia xẻ pháp thoại với những người mới thực tập, nếu vận dụng điều nầy đi vào thì người nghe rất dễ cảm nhận.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vô thường.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đầu tiên ta chỉ cho họ thể nhận được vô thường: vô thường bên ngoài, vô thường bên trong hình hài, vô thường của cảm thọ, của tâm thức... Và họ liễu đạt được điều nầy rồi phát khởi niềm tin từ đó sẽ thực tập rất dễ. Nếu chúng ta không truyền đạt, chỉ dẫn cho người các bước đi ban đầu như thế thì sẽ khó tiến đạo. Và rõ ràng là vô thường đưa đến cho người ta nỗi khổ, nhưng đôi khi nếm được hương vị của khổ đau chính là chất xúc tác cho con người phát khởi Bồ Đề tâm rất mạnh. Những ai đã trắc nghiệm nỗi khổ, người ấy thực tập rất giỏi. Do vì quá đau khổ nên họ cố sức vươn lên, muốn vượt khổ. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta đưa mình vào nỗi khổ mới biết thực tập. Nhưng từ nỗi khổ ta nhận chân được, ta vươn lên. Từ đó đời sống ta rất giàu có, dày kinh nghiệm ta chia xẻ giúp đời được. Cho nên vô thường là nền tảng căn bản cho chúng ta vận dụng trước hết để quán chiếu, chứng nghiệm trên tiến trình tu, và sau đó cũng có thể vận dụng nó để độ sinh, giúp đời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vô Ngã.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta muốn đi vào tịch diệt chứng nghiệm Niết Bàn không có con đường nào khác mà không qua cửa Vô ngã. Sự chấp trước về thân, về tâm, về vui buồn của chính mình rất nặng. Nỗi khổ của đời người từ thô đến tinh tế, kể cả con đường sinh tử lại qua trong ba cõi, sáu đường đều được củng cố thêm sự hiện hữu sau khi con người khởi chấp ta có tự ngã. Do vậy, an lạc, giải thoát, tuệ giác có thể phát sinh hay không là do quán chiếu về tự thân vô ngã, vui buồn vô ngã, tư duy vô ngã. Làm được điều nầy thì chúng ta mới vượt qua được nỗi khổ của kiếp người, và muốn chứng nghiệm chánh trí hiện tiền, không có con đường nào khác bằng quán chiếu tự thân Vô ngã.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, hai Pháp Ấn trên là loại trừ, đánh đổ, phá vỡ mà nếu không có nền tảng thì người ta rất là hụt hẫng, bất an. Cho nên Niết Bàn là nền tảng. Tuy nhiên trong thời văn học A Hàm Đức Thế Tôn không triển khai trạng thái Niết Bàn nhiều. Mãi cho đến thời Phật giáo Đại thừa phát triển thì mới có khuynh hướng giải minh, dẫn dụng người ta đi vào Niết Bàn. Các Tổ mới vận dụng những phương tiện là Tâm Phật bất sinh, bất diệt, Chân tâm, Phật tánh, Pháp thân thường trụ. Và niết Bàn có đủ bốn đức: Thường, lạc, ngã, tịnh... cho đến khi Phật giáo đi vào Trung Hoa, do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nên Thiền tông lúc bấy giờ mới khai sinh những ngôn ngữ như “Mặt mũi thật” của ta, “con người thật” của ta, “Vô vị chân nhân.”... và những từ rất khác thường tùy theo điều kiện văn hóa của từng địa vực.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dĩ nhiên tùy tâm thức con người qua từng giai đoạn và không ngoài nhu cầu khế lý, khế cơ nên các Ngài mở rộng con đường Niết Bàn để người ta không dị ứng khi đến với Đạo.
[/FONT]<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_4/Tam_Phap_An_01.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XIX - CHƯƠNG XX[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]TAM PHÁP ẤN
HT.Thích Phước Tịnh_Giảng giải (Phần tiếp theo)
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]3. Từ tam pháp ấn chứng nghiệm chánh trí.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, chúng ta giảng dạy giúp người quán chiếu để đi vào Đạo đều đặt căn bản trên tinh thần Tam Pháp Ấn. Tuy nhiên, quy chiếu lại chính tự thân để thấy tùy theo căn cơ, tùy theo duyên phước của từng người mà ta đến với đạo phát tâm Bồ Đề bằng con đường cảm nhận được nỗi khổ, cảm thấy hình hài nầy vốn Vô thường, Vô ngã. Chúng ta cũng có thể phát Bồ Đề tâm vì mơ ước con đường Niết Bàn, làm thế nào để loại trừ niềm đau nỗi khổ và loại trừ sống chết của thân mạng phù du nầy. Chúng ta tuy đi vào ba ngõ nhưng có chung một con đường đến là chứng nghiệm Chánh trí hiện tiền. Dĩ nhiên, chúng ta phải đi ngang qua hai cửa quán chiếu vô thường, vô ngã để bước vào tầng chứng nghiệm Chánh trí.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Khởi quán về Vô thường, Vô ngã.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trước tiên chúng ta đi từng cấp độ cạn và sâu của vô thường. Vô thường ở từng cạn hai câu Kinh nơi đây gợi cho ta: “Quán thiên địa niệm phi thường. Quán thế giới niệm phi thường.” Quán trời đất nghĩ là vô thường, quán thế giới nghĩ là vô thường.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong ngôn ngữ nhà Phật chia thế gian làm hai loại. Khí thế gian và tình thế gian. Khí là dụng cụ, hay nói dễ hiểu hơn là môi trường mình sống: như hành tinh nầy, mặt trời, trăng sao... gọi là khí thế gian. Tình thế gian là tất cả loại sinh vật có tình thức, có tư duy. Cao cấp nhất trong loài động vật là loài người, thấp nhất là những loài bé nhỏ đều gọi chung là tình thế gian.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở cấp độ cạn, chúng ta nhận diện được môi trường chúng ta đang sống vô thường, nhận diện được tất cả những sinh vật trên hành tinh nầy tuổi thọ dài hay ngắn... đều chịu chung qui luật Sinh, Trụ, Dị, Diệt, đều chịu chung qui luật vô thường. Đó là mức độ khởi quán cạn nhất mà người tu chúng ta đi ngang qua. Và chúng ta đừng nghĩ những vấn đề nầy có tính cách lý thuyết. Người tu chưa đi ngang qua, chưa có duyên chứng nghiệm được vô thường đời người, chưa chứng nghiệm được hình hài tạm bợ; không nhận chân được vô thường có khi chúng ta chưa tiến đạo được. Thế nên con đường quán chiếu ở từng cạn về vô thường nầy rất quan trọng, chúng ta phải đi vào.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Các vị Tỳ kheo ngày xưa thường phải ra tha ma quán chiếu để loại trừ tham dục. Hiện thời trong truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy các thầy vẫn ra bãi tha ma để quán chiếu. Chúng ta chưa xả ly được lòng tham ở mức độ cạn thì chưa thể đẩy tâm thức mình lên tầng cao để loại trừ niềm đam mê thế gian.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tất nhiên, tầng sâu hơn, tinh tế hơn của con đường quán chiếu vô thường dành cho hành giả thực tập thiền “Minh Sát Tuệ.” Hành giả an trú tâm ngay nơi “tuệ nhận biết”, nhận ra vô thường trong từng hơi thở vào ra. Vô thường ngay lúc cảm thọ khó chịu hay dễ chịu sinh khởi và biến mất, vui buồn đến rồi qua nhanh, ý thức sinh rồi diệt trong từng sát na. Chỉ cần quán chiếu tinh cần, liên tục và sâu sắc một Pháp Ấn vô thường thôi hành giả cũng chứng nghiệm chánh trí hiện tiền và sẽ tuyên bố câu: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, ta không trở lại thân nầy nữa.” như chư Thánh đệ tử của Đức Thế Tôn đã từng tuyên bố.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thứ đến ta thử liễu tri thân nầy vốn vô ngã. Một thi sĩ nào đã nói: “Ai chỉ dùm ta có ta chăng.”, câu thơ nầy nghe chừng như người kia đã cảm nhận sự vô ngã của chính tự thân, thế nhưng để thâm đạt được Vô ngã không dễ. Thông thường chúng ta nói thì xem như ta là vô ngã, nhưng thử ai đó tát mình một tát; có ngã hay không sẽ thấy ngay. Do vậy, chứng nghiệm được vô ngã đòi hỏi cả chiều dài của sự quán chiếu. Trong kinh văn có rất nhiều chuyện minh chứng sự thành tựu vô ngã của các hành giả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tổ thứ hai mươi bốn của Thiền tông là Sư Tử tôn giả hoằng hóa nước Kế Tân. Triều đình vua Di La Quật bị kẻ gian giả dạng Tỳ Kheo mưu ám hại. Vua tức giận vô cùng nghĩ rằng lâu nay mình phụng Phật, kính Tăng mà bị lừa gạt suýt mất mạng nên ra lệnh triệt hạ chùa chiền, cầm tù tăng chúng và xách gươm đến Tổ Sư Tử hỏi:
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Thầy được Vô ngã chưa?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Đã được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Ồ, thế thì còn sợ chết không?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Đã lìa sống chết thì còn gì để sợ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Nếu chẳng sợ vậy cho ta xin cái đầu được không?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thân ta chẳng phải cái của ta, huống nữa là đầu. Xin vua cứ lấy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vua liền chặt đầu Ngài.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở đây, sử liệu Thiền ghi giản lược câu nói của Tổ Sư Tử. Nếu là văn học Kinh A Hàm thì các bậc A La Hán sẽ nói câu; “thân không phải là ta, không phải của ta, không phải tự ngã của ta.” Dĩ nhiên, muốn chứng nghiệm được Vô ngã người xưa đã có quá trình tu tập Vô thường, Vô ngã trải qua chiều dài của sự quán chiếu kiên trì. Khi chúng ta muốn đi vào Vô thường, Vô ngã ở cấp độ sâu trước tiên chúng ta phải nhận diện được vô thường, vô ngã ở bên ngoài. Quan trọng và chính yếu hơn nữa là chúng ta quay về nhận diện thân ngũ uẩn nầy từng phần đều vô thường, vô ngã chứ không phải chỉ khởi quán bên ngoài thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Do vậy, có khởi được chánh trí, thành tựu được tuệ giác hay không là do có chịu quay về nhìn mình vô thường, vô ngã hay không.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][bubble]Ví dụ như đứng trước nỗi sợ hãi, thay vì chúng ta băn khoăn lo lắng nhưng ta lại vững vàng thì đã có một chút công phu vô ngã rồi. Nếu bất thần bị người ta đẩy ra trước đám đông, hay bị đặt trong tình trạng căng thẳng cao độ mà chúng ta vẫn rất an nhiên, tự tại thì đã chứng nghiệm được ít nhiều vô ngã bên trong.[/bubble][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Những thiền sư ngày xưa dù ngồi giữa núi hoang, đồng vắng mênh mông vẫn tĩnh tại. Một mình trong thiền thất hay trên bục giảng trước ngàn vạn người vẫn an nhiên bất động. Đối diện trước người hiền, kẻ dữ hay hoàng đế quyền uy cao ngất vẫn ung dung uống trà, cười nói bình thường, không có gì làm cho họ thay đổi phong thái, sắc diện.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa, chúng ta phải thực tập như thế nào để thấy lòng mình an bình, tự tại. Đối diện trước phong ba cuộc sống, trước đám đông vạn người hay dù chỉ trước một người chúng ta vẫn một mực trân trọng, tâm không có đổi thay gì tức là đã đi được một đoạn ngắn trên con đường quán chiếu vô ngã.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bước sâu hơn, tôi xin lập lại chúng ta làm thế nào nhận diện được thân nầy, vui buồn nầy, đau khổ, bất an nầy... không phải là Ta. Chúng ta tách mình ra khỏi cảm thọ đó. Hãy nhận diện những thứ ấy là sở hữu của ta, nó bị ta nhìn thấy. Ta là năng lực nhận diện, là chủ nhân nhìn nó qua lại, đến đi và làm được điều nầy, chúng ta đang đi vào chiều sâu của vô thường, vô ngã.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Lặn vào chiều sâu hơn nữa thì chúng ta chứng nghiệm được Niết Bàn tự tâm, và an trú liên tục trong trạng thái chánh niệm. Điều nầy rất giản dị, có điều chúng ta có chịu thực tập hay không mà thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]4. An trú nơi tự thể Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, ta cùng nhau thử đi thăm Niết Bàn. Dĩ nhiên, sẽ hơi khó diễn đạt và cảm nghiệm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Kinh văn của chương mười chín, hai mươi nầy có một câu với từ hơi lạ, khá xưa đáng cho chúng ta lưu ý: “Quán linh giác tức Bồ Đề.” và Pháp ấn thứ ba: Niết Bàn được thể hiện trong câu nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trước tiên hai chữ Bồ Đề nầy không phải là đối tượng để đạt đến mà Bồ Đề là giác ngộ, là tự thể có sẵn trong chính tự tâm ta. Thứ hai, là quán linh giác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Quán là quán chiếu, có nghĩa là nhận biết, nhận diện. Linh giác là từ khá xưa chỉ cho năng lực tịch chiếu của tự tâm chúng ta. Tịch là lặng, chiếu là soi thấy và tỏa sáng. Thưa, chúng ta nhận diện được trong tự tâm mình có năng lượng vừa lặng lẽ, vừa tỏa sáng gọi là nhận diện được linh giác của tự tâm mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Quán linh giác tức Bồ Đề” là làm thế nào quay lại thể nhận được linh giác của chính mình, sống được, thể nghiệm được gọi là chứng nghiệm được Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngày xưa, người ta dịch chữ Niết Bàn ra rất nhiều từ như Diệt, Tịch diệt, Vô sanh, Trạch diệt, Trạch diệt Vô vi, Giải thoát... Và còn có từ đồng nghĩa là Ly phược. Ly phược là cởi được sự ràng buộc, cột trói thân tâm nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngoài ra chúng ta còn thấy Đức Phật nhập Bát Niết Bàn, hay Đại Bát Niết Bàn (kinh ĐBNB) là Viên Tịch hay Đại Viên Tịch. Đây là những danh từ trong văn học Phật giáo Hán tạng được dịch nghĩa từ Phạn ngữ. Trong hàng loạt ngôn ngữ được người ta diễn đạt như thế nầy đã trải qua một thời gian rất dài gần hai nghìn năm và được nạm vàng, dát ngọc làm lóa mắt người. Đôi khi làm người ta ngỡ ngàng không tự tin mình sẵn có và có thể chứng nghiệm được. Và họ cứ trượt trên ngôn ngữ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi Pháp Tướng Tông có mặt thì họ bắt đầu phân định ra bốn loại Niết Bàn: Bản lai tự tánh thanh tịnh Niết Bàn, hay được lược bớt còn Bản Lai thanh tịnh Niết Bàn, Hữu dư y Niết Bàn, Vô dư y Niết Bàn, Vô trụ xứ Niết Bàn và nay được gọi tắt là Hữu dư Niết bàn, Vô dư Niết Bàn, Vô trụ Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bản Lai Tự Tánh Thanh Tịnh Niết Bàn là tự thể sẵn có của mỗi người, từ già trẻ, lớn bé, kẻ trí cũng như người vô trí đều có tự thể Niết Bàn nầy. Từ định nghĩa nầy, khi đến đất nước Trung Hoa chúng ta thấy Niết Bàn được hình thành là tự thể Phật của chính ta, là mặt mũi không sanh, không diệt của chính ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hữu Dư Niết Bàn là những người ngay trong hiện đời như các đệ tử của Đức Phật sống theo tinh thần chánh pháp, theo luật nghi, có được Định, có được Tuệ gột sạch phiền não, cấu uế vi tế của tâm thức thì họ chứng được Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chứng đạt Niết Bàn không phải là tìm thấy một cảnh giới nào xa lạ, mà chứng nghiệm nó ngay tự tâm. Hạnh phúc, niềm vui, thanh thản, giải thoát có mặt nơi tự tâm gọi đó là Niết Bàn. Chúng ta chứng nghiệm được tự thể Niết Bàn nhưng vẫn còn hình hài ngũ uẩn, còn trụ trong trần thế, chịu nghiệp của nhân gian, của quá khứ chi phối. Biết đau, biết đói, biết lạnh, trái gió trở trời vẫn nhức đầu, sổ mũi... nên gọi là Hữu Dư nghĩa là còn dư nghiệp của quá khứ trên thân. Khi hiểu nghĩa Hữu Dư nầy chúng ta đi vào nghĩa của từ Vô Dư rất dễ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vô Dư nghĩa là khi tuổi thọ chấm dứt như ngọn đèn hết dầu, các vị Thánh xả hình hài ngũ uẩn thể nhập vào Vô Dư Niết Bàn. Về điều nầy, trong văn học A Hàm nhiều câu hỏi đặt ra cho Đức Thế Tôn: “Các bậc A La Hán nhập diệt họ đi đâu?” nhưng Ngài làm thinh không nói. Có lúc Ngài chỉ nói: “Như củi hết, lửa tắt.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Là sao? Còn có nhiên liệu là còn có phiền não, còn dệt sinh tử... còn rớt vào thai mẹ để thọ nhận hình hài. Khi tâm thức đã không còn niệm lăng xăng, xả thân mạng nầy rồi, ta an trú trong tự thể tâm lặng lẽ, sáng ngời bất động, vô sanh vô trụ nên làm gì có chuyện đi đâu, đến đâu?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong kinh văn giải thích những vị Bồ Tát an trụ trong Hữu dư Niết Bàn, và có khả năng nhập Vô dư Niết Bàn nhưng họ phát bi nguyện độ sinh nên lăn xả lại trong cõi luân hồi. Nguyện rằng suốt vị lai cho đến vô biên tế; không gian mênh mông tới chỗ nào thì Bồ Tát sẽ đến chỗ ấy. Thời gian dài bao nhiêu thì Bồ Tát nguyện thọ sanh lại bấy nhiêu để độ sinh thì gọi là Vô trụ xứ Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, ba Niết Bàn đầu người ta dành cho hàng Thanh Văn, Nhị thừa. Và Niết Bàn thứ tư chỉ có các vị Bồ Tát phát nguyện vào cõi tử sinh, có khi đi trong nghịch đạo. Tuy nhiên hàng Bồ Tát Thập địa mới chứng nhập được Vô trụ xứ Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong văn học Phật giáo Nam Truyền (văn học Pali) có những từ như Vô tận, Bất tùy thế, Vô song, Tối thượng, Bỉ ngạn, Bất khả diệt, Tuyệt đối thanh tịnh, Siêu thế, Giải thoát hay Vắng lặng... và chúng ta lưu ý những từ nầy đều mượn gốc rễ của Hán tự:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vô tận gần với nghĩa bất sanh, bất diệt, không cùng tận.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bất tùy thế là không bị nổi chìm trong cuộc đời.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vô song là không có gì đối địch ngang bằng trạng thái nầy cả.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tối thượng là cao tột cùng.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bỉ ngạn là bờ bên kia.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bất khả diệt là không thể hủy diệt được, đây là trạng thái tự hữu của chúng
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]ta, không có cách nào chúng ta bỏ trạng thái Niết Bàn ra ngoài tâm thức được. Tuyệt đối thanh tịnh là nói đến tự thể Niết Bàn nầy. Khi ta chứng nghiệm được, an trú được trong đó thì sẽ cảm nghiệm được sự an tịnh tột cùng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Siêu thế để chỉ cho Đức Phật. Trong văn học A Hàm người ta dùng danh từ nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và giải thoát hay vắng lặng cũng được dịch ra từ chữ Hán là tịch diệt[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]5. Con đường Niết Bàn của Thiền nhân.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, chúng ta vừa đi vào Niết Bàn qua giải thích của văn học Đại thừa và Nguyên thủy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sau đây những Thiền sư Trung Hoa đã khai triển và mở cánh cửa phương tiện cho chúng ta bước thẳng vào con đường Niết Bàn của các Ngài.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Đầu tiên, chúng ta hãy nghe chuyện một vị Tăng tham vấn Ngài Qui Sơn Linh Hựu. Qui Sơn hỏi: “Ông tên gì?” “Con tên là Qui Chơn” tức là trở về thể chân thật. Ngài hỏi tiếp: “Qui Chơn từ chỗ nào?”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ý của câu hỏi là cái chỗ chân thật đó, cái vùng Niết Bàn của chính ông và ông đang xử dụng đây ông sẽ đi vào đó bằng con đường nào? Ông Tăng ngẩn ngơ, không trả lời được, không biết đi về bằng con đường nào. Và nếu mình đứng ngẩn ngơ dù chỉ một phút thôi là ăn đòn. Lúc đó mình không thể vận dụng trí thức, ngôn ngữ thì thầm tính toán gì được cả. Nếu an trú được nơi vùng đất vô sinh thì người ta đụng đến tự nhiên bật sáng ánh quang minh. Ta phải trả lời bằng cái ta đang sống. Trả lời hay không trả lời gì cũng đúng cả. Thầy trò tâm ý rất tương thông.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở đây ngài Linh Hựu hỏi, Qui Chơn trả lời không được đành đi xuống núi. Lúc ấy có vị sư chăn trâu dưới núi thấy Thầy đi ngang bèn hỏi: “Sao thầy mới đến mà đi xuống liền vậy?” Qui Chơn trả lời: “Con không hợp duyên, Hòa Thượng đuổi con đi.” “Hòa Thượng hỏi điều gì mà ông không trả lời được?” “Hòa Thượng hỏi con Qui Chơn ở chỗ nào?” Vị thầy giữ bò mách nước: “Bây giờ ông trở lên thưa với Ngài, xin hỏi lại câu hỏi đó con sẽ trả lời được.” Ông sẽ trả lời: “Qui Chơn từ nơi mắt, nơi mũi, nơi tai, nơi miệng, nơi thân, nơi ý.” Vị Tăng nghe lời liền trở lại, làm như lời Thầy kia bày. Ngài Qui Sơn nghe xong gạn thêm một câu kế tiếp. Tăng trả lời không trôi. Ngài quát: “Kẻ giặc, dám trộm câu trả lời của thiện trí thức trong pháp hội ta. Đem roi, dây trói lại đánh tên nầy.” Vị Tăng xanh mặt sám hối.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, tôi kể câu chuyện nầy để chứng minh con đường Niết Bàn mà các vị Thiền sư muốn chỉ dạy là bắt chúng ta quay trở về tự thể tâm của chính ta, và đường vào ngay nơi sáu căn nầy nếu khéo thì nhận ra được cái gì là Niết Bàn của chính mình, mình sống. Đó là phương tiện, cánh cửa của Thiền sư mở ra cho chúng ta vào.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong văn học Đại thừa, Nguyên thủy giải thích Niết Bàn bằng chữ nghĩa khá dài... để chúng ta cắm đầu vào học, dĩ nhiên học là điều rất cần để giản trạch, để hiểu biết và diễn đạt. Nhưng điều quan trọng là làm thế nào quay lại nhận ra được Niết Bàn đang hiện hữu nơi chính mình. Đó là con đường mà chúng ta khai thác, và những điều mà các Thiền sư khai ngộ cho Thiền nhân.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][bubble]Trong đệ tử của Ngài Mã Tổ có một Thầy tên Qui Tâm. Nhân ngày đăng tòa thuyết pháp, ông trích một câu trong phẩm Phổ Môn: “Quan Âm Diệu trí lực, năng cứu thế gian khổ”: Năng lực trí tuệ của Ngài Quan Âm rất mầu nhiệm, có thể cứu khổ cho thế gian. “Chuyện cứu khổ của thế gian thì ta không nói, nhưng trí lực mầu nhiệm của Quan Âm ở chỗ nào?” Trong thính chúng có người hỏi: “Xin Thầy từ bi chỉ dạy cho con”. Vị thầy lấy tay gõ ba tiếng hỏi: “Hiểu không? Thính chúng im lặng. Ông xách gậy đuổi đại chúng đi ra và bảo: “Ta đã hết lòng dạy cho các ông chỗ trí lực của Quan Âm mà không hiểu thì thôi, đi ra.”[/bubble][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đoạn nhân duyên trên trao cho chúng ta điều gì?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, tâm thức thông thường của chúng ta khi nghe gõ bàn thì mình khởi ý niệm “Hòa thượng gõ bàn để làm gì? Tại sao phải gõ như vậy? Tại sao đang giảng pháp mà lại gõ bàn?” lòng ta khởi lên trăm ngàn câu hỏi thì thầm trong tâm. Trong khi đó, điều ông thầy muốn gợi cho chúng ta quay trở về cái nghe thường hằng, tĩnh tại đang có mặt trong ta. Và rõ ràng bên ngoài có động có tịnh, có đến có đi nhưng cái nghe thì luôn có mặt và bất động không đến đi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hơn nữa là khi có sự chú ý thì ta nhận biết tiếng đến với tai, không có sự chú ý thì không nhận biết âm thanh đồng vọng, và ta đang gửi ý thức bồng bềnh đi đâu đó nên người nói ta chẳng nghe. Thế nên việc làm của chúng ta là hồi phục năng lượng để mời tự tánh Niết Bàn có mặt; có nghĩa là lúc nào chúng ta cũng sống trong sự nhận biết sáng ngời, lặng lẽ, hiện tiền của sáu căn. Đó là lúc chúng ta an trú trong tự thể Niết Bàn, và năng lực nầy rất
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]mầu nhiệm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tôi xin lưu ý đại chúng con đường Niết Bàn, con đường trở về cõi uyên nguyên của tâm ta không phải ở ngoài mà ở trong mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý nầy. Đức Thế Tôn nói trong hình hài nầy có con đường vượt thoát tử sinh. Không có hành tinh nào bên ngoài, thế giới nào bên ngoài có sự sống miên viễn. Sự sống đó phải tìm trong hình hài năm uẩn nầy. Năm uẩn nầy tàng chứa châu ngọc, khéo quay về thì ngay nơi đây tiếp nhận được Niết Bàn.
[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_4/Tam_Phap_An_02.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="1" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XXI - CHƯƠNG XXII[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]THAM ĐẮM CÁC DỤC
HT.Thích Phước Tịnh _ Giảng giải.
[/FONT]
</center> [FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hôm nay chúng ta sẽ học vào chương hai mươi mốt và hai mươi hai của Kinh Bốn Mươi Hai Chương. Hai chương nầy có tên chung là Tham Đắm Các Dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
<center> [FONT=Arial,Helvetica]CHƯƠNG XXI.[/FONT]
</center> [FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Nhân tùy tình dục, cầu ư thanh danh. Thanh danh hiển trước, thân dĩ cố hỷ. Tham thế thường danh, nhi bất học đạo, uổng công lao hình. Thí như thiêu hương, tuy nhân văn hương, hương chi tẫn hỹ. Nguy thân chi hỏa, nhi tại kỳ hậu.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Người thuận theo lòng dục để mong được danh tiếng, khi mà danh tiếng vừa nổi thì thân đã mất rồi. Ham muốn danh tiếng thường tình mà không lo học Đạo chỉ uổng công phí sức mà thôi; giống như đốt hương, khi người ta ngửi được mùi thơm thì cây hương đã tàn rồi. Lửa tham danh tiếng còn di họa cho thân về sau.”[/FONT]
<center> [FONT=Arial,Helvetica]CHƯƠNG XXII.[/FONT]
</center> [FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Tài sắc ư nhân, nhân chi bất xả. Thí như đao nhận hữu mật, bất túc nhất xan chi mỹ. Tiểu nhi thỉ chi, tắc hữu cát thiệt chi hoạn.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Tiền tài và sắc đẹp rất khó buông xả, giống như một chút mật thoa trên lưỡi dao không đủ cho một bữa ăn ngon, thế mà kẻ liếm vào thì bị nạn đứt lưỡi.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đại ý hai chương nầy Phật dạy cho chúng ta những điều rất thâm sâu. Ngài cho ta biết tiền tài, tiếng tăm và sắc dục là ba đối tượng tham đắm muôn đời của tâm thức. Người tu chúng ta hãy quán chiếu thâm sâu để xả ly.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Không dễ khước từ[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có hai con đường để xả ly: một là chúng ta đã từng trải qua những nỗi nhọc nhằn, khổ sở như lao vào chuyện kiếm tiền, kiếm danh hay lao vào con đường sắc dục nếm hương vị của đau khổ, đọa đày nên giác ngộ và xả ly.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hai là không cần lao mình vào, chỉ cần nhìn tất cả những hiện tượng chung quanh, quán chiếu và chứng nghiệm những khổ đau có mặt từ ba điều nầy đưa đến. Và con đường quán chiếu là con đường mà người tu phải đi vào.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, đối tượng tham đắm của tâm thức con người là năm dục chứ không phải chỉ có ba dục. Ngoài sắc, tài, danh, lợi còn có thức ăn và ngủ nghỉ nữa. Tuy nhiên lợi nhuận đi kèm với danh và thức ăn đi kèm với sắc dục, cho nên ba điều nêu nơi chương nầy biểu trưng của năm loại dục ở thế gian. Đây là những yếu tố không có một con người nào có thể khước từ một cách dễ dàng. Nếu ở mức độ cạn người ta có thể khước từ, nhưng ở mức độ sâu, nó tiềm phục ngay trong dòng sinh mạng nầy nên phải có cái nhìn thật sâu sắc chúng ta mới có thể loại trừ được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong nhà Phật chia ra làm 3 loại ái: hữu ái, sắc ái và vô sắc ái, và ba từ nầy mang ý nghĩa từ cạn vào sâu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica] Hữu ái là những loại đam mê cạn cợt, phù du thuộc vật chất, tiền của; những gì cân đong, đo, đếm được. Có đối tượng rõ ràng, và thô thiển như thức ăn, sắc dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica] Sắc ái thì mịn hơn hữu ái vì có một phần vô sắc ái bên trong. Tức tự thân nó có cả hai phần vừa vật lý vừa tình cảm, nó không phải hoàn toàn vật chất nên gọi là sắc ái.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sắc dục là một loại hữu ái, ví dụ như khi ta thương một người nào đó là loại hữu ái, sắc dục ở phần thô. Nhưng ngoài sự đắm nhiễm khát thèm vật lý còn có phần muốn chiếm đoạt tình cảm của người ta nữa nên nó vừa nằm một phần ở sắc ái, một phần ở vô sắc ái. Hai phần vừa vật lý vừa tình cảm hình thành sắc ái.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica] Vô sắc ái hoàn toàn không dính gì đến vật lý, như khi ta tham danh đâu có hình thể gì nên vô sắc ái là loại ái dục rất tinh vi, khó loại trừ. Điều gì mà càng đi vào càng tinh vi, vô hình bao nhiêu thì chúng ta khó nhìn thấy và do vì khó nhìn thấy nên khó đoạn trừ. Cho nên chúng ta loại trừ hữu ái, sắc ái thì dễ nhưng loại trừ vô sắc ái rất khó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ một người có thể thấy ta gắn bó, dính mắc với một ai đó, họ có thể giúp ta cách ly dược. Nhưng làm sao có thể ngăn chận, cách ly tình cảm của ta đối với người kia. Dù không có đến gần, không gặp nhau nhưng tâm thức ta, tình cảm ta luôn nghĩ đến, gắn bó với người kia ai thấy được. Khó là như thế. Khi đi vào con đường thực tập, tâm thức chúng ta phải vô cùng tinh tế mới đoạn được vô sắc ái. Nếu đi vào tầng thâm sâu của vô sắc ái nầy, chúng ta đoạn được nó là chứng A La Hán quả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dĩ nhiên các nhà Phật học có thể đẩy xa và mở rộng các tầng nghĩa của hữu ái, sắc ái và vô sắc ái như:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hữu ái là những ái nhiễm tạo thành những hạt mầm sinh tử trong cõi luân hồi thô nặng nhiều khổ đau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sắc ái là những ái nhiễm vi tế của tâm thức có nhiều thiện nghiệp có thể sinh ra trong các tầng trời hưởng thụ dục lạc tinh tế và lâu bền.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vô sắc ái là cảnh giới của các hành giả chưa đạt rốt ráo thánh hạnh giải thoát, họ bị chìm vào các tầng thiền định của vô sắc... Tuy nhiên điều cần làm của chúng ta là giải minh lời Kinh qui chiếu vào đời sống hiện thực.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đoạn hữu ái dễ nhưng còn tùy trình độ tri thức ở nhân gian. Nếu đã từng trải nghiệm những đau khổ trong đời sống, đã từng ngồi trên tiền bạc, danh vọng bây giờ người ta chán ngán, khước từ và sẽ buông bỏ dễ dàng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở tầng sâu hơn, người ấy có thể khước từ của cải, người thân nhưng tâm thức thì mãi gắn bó với quá khứ vui buồn rất khó làm cho họ quên. Nhất là những người già thường trở về với những kỷ niệm của ngày cũ. Quá khứ gắn liền, tôn vinh cuộc đời họ làm cho cuộc đời họ có hương vị cuộc sống. Người ta đem quá khứ ra để tự hào, để làm niềm vui, để lấp kín nỗi cô đơn, quạnh quẽ của mình. Cho nên đối với sắc ái mà người đời hay người tu không thực tập thì cũng khó đoạn vô cùng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, tôi muốn chia xẻ cùng các vị hai vấn đề chính của chương hai mươi mốt về sự tham danh:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Thuận theo lòng dục, thuận theo lòng ham muốn để tìm được thanh danh.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Có hai loại danh: Thường danh và đạo danh. (danh của đời thường và danh trong đạo).[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]2. Tham đắm danh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều đầu tiên tôi muốn nói đến là thuận vào tham đắm để tìm lợi danh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Danh là đầu mối của bao nhiêu tranh chấp, đua chen, ganh tị, sân si, bạo hành và thù hận. Ở trong cuộc đời, người không có danh là người khỏe nhất, không ai kèn cựa, tranh dành. Người ta chỉ tranh dành với người có danh chứ không ai tranh chấp với người không có gì. Người ta dành là dành những lợi lộc, những chiếc mề đay gắn trên ngực, những huân chương, chức phận... Người ta chỉ đánh phá, mạ lỵ, bôi nhọ, hạ nhục... những người nổi danh, địa vị lớn, chứ không ai làm công việc ấy với những người vốn dĩ rất bình thường làm gì. Cho nên ở đời có câu “Cây cao vời gió” là như vậy, và điều nầy có mặt trong đời sống nhân gian cũng như trong đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có ba con đường đưa con người tìm vào lợi danh. Thứ nhất là tự mình tìm danh, hai là nương vào người để có danh, và ba là tranh chấp, hạ bệ người khác để có danh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Người có một chút danh nhỏ, dù chưa phải là ông Thủ Tướng hay Tổng Thống nhưng nếu thử nhìn lại con đường dài với tuổi đời đã đi ngang qua, sẽ thấy tự thân họ cũng đã nếm ít nhiều khổ đau bằng con đường tự mình xác định chỗ đứng của mình, tính cách của mình, tên tuổi của mình. Và tùy theo trình độ tri thức, chúng ta có những tầng đam mê, đeo đuổi danh sâu hay cạn, tinh tế hay chỉ bên ngoài.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có những cách phô trương danh tiếng rất vụng về người ta biết và cũng có những cách khoe danh người ta không thấy. Tất cả những điều nầy có mặt trong tâm thức của tất cả chúng ta.Ví dụ những người mà tâm thức cạn cợt, họ có lối khoe khoang rất thô tháo, nhưng nếu với một người khôn ngoan, có tâm hồn sâu sắc họ cũng khoe khoang nhưng tinh tế, khó nhận biết.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhưng tất cả cũng chỉ là đi tìm danh và muốn xác định vị trí mình, bản ngã mình trong đời sống.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tự mình tìm danh đó là con đường vô cùng cay đắng, chúng ta có khi cả một đời rượt đuổi, đánh đổi để có một chút danh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, thông thường chúng ta nghĩ khi bước vào chùa, cạo tóc, mặc áo người tu, có Pháp danh thì chính thức là người xuất gia. Thưa, đó chỉ là một đổi thay hình mạo mà chưa phải chính danh là một người tu hoàn toàn. Và trong ý nghĩa thực sự thì xuất gia có ba loại: thứ nhất là xuất gia (ra khỏi nhà thế gian), hai là ra khỏi nhà phiền não, thứ ba là ra khỏi ba cõi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Chúng ta rời bỏ gia đình bước vào chùa mặc chiếc áo tu, học thuộc lòng kinh kệ, có giảng pháp như mây, như mưa, hoàn thiện tư cách bên ngoài cũng chỉ là làm một phần ba công việc của người tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Để đúng tên gọi của người tu chúng ta phải vượt thoát tất cả những phiền não, đau khổ của tâm thức. Nếu chúng ta loại trừ được những phiền não, ganh tị nhỏ nhoi trong đời sống; những thử thách, cay đắng trong cuộc đời đổ vào mình mà lòng không vướng bận, trái lại lòng thương yêu của chúng ta càng mênh mông hơn thì cũng chỉ đi thêm một phần ba nữa và vẫn chưa tròn chức danh của người xuất gia.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và để toàn vẹn chức danh của người xuất gia, chúng ta phải hứa rằng ngay nơi đây, ngay kiếp sống nầy chấm dứt vòng sinh tử luân hồi, thoát ra ba cõi. Việc đáng làm đã làm không còn trở lại hình hài nầy nữa, thể nhập Niết Bàn như các bậc A La Hán.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ ba điều nầy, chúng ta thấy cuộc đời người tu có khi đi loanh quanh vẫn không thể loại trừ hết tham đắm của nhân gian. Bước vào đạo chúng ta trở thành tham nhiều hơn người đời nữa, nên thường danh không đắm, mà đắm vào đạo danh. Trên đường tu tuy chưa làm Thánh, nhưng quà tặng sẽ đến cho người tu chúng ta là dần dần lên làm Thượng Tọa, Hòa Thượng, Ni trưởng... được người tôn vinh, quí trọng, ta bỏ cái danh của đời rất bé nhưng ôm cái danh của đạo cao vời. Chúng ta bỏ cái nhà thế gian cực khổ, khó khăn đến với đạo, để có sự nghiệp vật chất lợi danh lớn hơn đó là dạng bỏ danh thường mà có được đạo danh là như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều nầy chúng ta phải khéo nhận diện mới mong không chìm vào trong những ngả tẻ nầy. Người ta gọi là ngả tẻ mất dê.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong Cổ Học Tinh Hoa có chuyện một phú ông nọ bị mất dê, ông sai tôi tớ đi tìm nhưng không có. Ông hỏi: “Tại sao? ta chỉ thấy có một con đường thì nó chỉ theo con đường nầy để đi thôi.” “Thưa, dạ không. Thấy thì như thế, nhưng càng đi thì đường có nhiều ngả tẻ nên dê đi ngả nào đâu biết được.” Người tu chúng ta tưởng chỉ có một con đường duy nhất đi vào ngả Niết Bàn, nhưng quí vị lên đường rồi mới thấy có nhiều ngả tẻ quá. Nào là nẻo dẫn vào Địa Ngục, nào là nẻo dẫn vào lợi danh, nào là nẻo dẫn vào thủ đắc vật chất... nên con đường đi tới không như ta tưởng. Phải thận trọng vì không đơn giản.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Nương vào người để có chút danh là con đường tương đối dễ đi. Chúng ta không cần tu giỏi, chỉ cần đem thầy mình ra hù người ta là người ta sợ rồi, và thông thường chúng ta hay đi con đường nầy, nào là như tôi từng ở trong đạo tràng lớn, từng ăn cơm chung với quí Hòa Thượng, tôi là học trò của thiền sư nầy, thiền sư nọ... Đây là những trường hợp cho chúng ta thấy nếu tâm thức còn thô thì điều nầy dễ phát khởi vô cùng. Và đây là con đường rất dễ làm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tự mình nâng cuộc đời mình lên cao, tự mình gặt hái thành quả của sự học tập, tự mình đem công sức ra để đầu tư trong bất cứ lãnh vực gì để mong nổi danh rất là khó. Nhưng nếu ta tựa vào một người có danh sẵn hoặc khoe về sự liên hệ, quen biết thân tình của mình với một ai đó nổi tiếng như bác sĩ, kỹ sư, đệ tử của thầy lớn nầy, thầy lớn nọ... đó là cách nương vào người khác để tìm danh. Chúng ta hãy tự nhìn vào mình, vào người chung quanh để thấy rõ tâm thức chúng ta rất nghèo. Mở miệng ra là đã tự tố cáo cho thiên hạ biết rõ tâm thức nghèo nàn của chúng ta rồi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Do vậy, là người tu ta hãy khéo an trú trong chánh niệm, phải biết nhìn lại mình từng phút, từng giây. Một lời nói ra chúng ta biết đó là lời phát xuất từ tâm yêu thương muốn dâng hiến, khiêm tốn muốn giúp đỡ người hay muốn biểu lộ cho người ta biết về mình, muốn khoe về mình. Khi chúng ta nhìn được những điều phát sinh từ tâm thức của chính mình thì khi nghe ai nói một lời, làm một cử chỉ ta biết ngay là do động cơ nào và xuất phát từ tâm thức nào. Người tu giỏi thì khả năng nhận biết tâm lý người khác rất bén nhạy, rất tinh tế.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin chia xẻ thêm một khía cạnh quan trọng khác là người tu giỏi mà không có lòng từ bi làm nền bên trong thì rất khó thương và cũng khó thành tựu đạo nghiệp. Thưa tại sao? Vì họ có mắt nhìn tinh tế vô cùng, nhìn ai cũng thấy sơ suất lỗi lầm của người ta, do vì bên trong không có lòng từ bi đi kèm thì họ không có bao dung, tha thứ để yêu thương người. Cho nên chúng ta tu tập trong chánh niệm, tỉnh giác nhưng phải lấy lòng từ bi làm chân đế thì tuệ giác phát sinh đồng thời từ bi có mặt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, ở đời chưa bao giờ có một cái danh nào mà không có sự tranh chấp, loại trừ, hạ bệ nhau để đạt tới mục đích. Chỉ cần thấy một người nào đó thật giỏi, họ tìm các hạ bệ, đánh phá thì tự nhiên người ta biết tiếng họ ngay. Nên một là chúng ta có con đường nổi danh chân chánh, hai là nổi danh trong sự nguyền rủa của bao người cũng là nổi danh. Nhưng thông thường người ta hay đi ngược con đường chân chánh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong đạo, một là chúng ta tự huân tập, nuôi dưỡng đức hạnh mình để được sáng danh, hai là tìm cách chỉ trích, soi mói; len lén nhìn vào đời sống riêng tư các bậc Thầy lớn đã có sẵn danh và không ngần ngại vung vãi những lời đố kỵ nặng nề để hạ bệ. Đây cũng là cách tìm danh thấp kém nhất. Nếu trong nhân gian không thiếu hạng người nầy thì trong đạo cũng thế. Và tu tập không khéo, càng lớn ta càng dễ lạc vào con đường “phi chánh pháp”.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]
Tóm lại, trên đời nầy dù là danh thơm hay không, nó là đầu mối của bao nhiêu tranh chấp tùy theo tâm thức của con người. Tất cả đều do sự tham danh và khi có mặt lòng tham là có vô minh, có sóng gió của sự tranh đoạt. Nó là một loại đam mê tự hữu trong tâm thức của mỗi chúng sanh còn bản ngã.

[/SIZE]
[/FONT]<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_072%20ThamDamCacDuc.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XXI - CHƯƠNG XXII[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]THAM ĐẮM CÁC DỤC
HT.Thích Phước Tịnh _ Giảng giải. (tt)
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]3. Chết trong danh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta thường hay bị chết trong danh và cùng có hai nỗi khổ trong đời sống: một nỗi khổ thực và một nỗi khổ của sự tưởng tượng. Nhưng đa phần, khi chết trong danh là chúng ta chết trong cái không thực, chết trong nỗi khổ tưởng tượng vì khổ tưởng tượng nó dính liền với danh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ như khi đối chiếu, so sánh ta với một người nào đó, ta thấy mình thua họ trong nhiều lãnh vực làm sinh ra mặc cảm thua sút, tủi hổ... mặc cảm nầy làm chĩu nặng tâm thức ta. Đó là loại khổ do tưởng tượng. Và điều kỳ lạ là nỗi khổ ở mặt rất cạn là khổ thực thì không đáng chi nhưng khổ do tưởng tượng làm đau đớn, làm oằn oại, làm chết được người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ người ta cho loại khổ lớn trong nhân gian là khổ bị phụ tình. Nhưng nếu chúng ta nhìn cho kỷ và trung thực thì đó là khổ tưởng tượng. Thưa, tại sao? vì tình cảm nhìn từ gốc nó là loại cảm thọ dễ đổi thay; đến và đi bất chợt, không bền bỉ bao giờ. Người ta cứ tưởng khi mất mát tình cảm là không còn gì, chết đến nơi rồi. Nhưng thực tế không phải vậy. Có những người mất mát tình cảm mà họ có chết bao giờ, họ đi ngang qua rất dễ dàng. Có những người tình cảm đến, đi rất nhẹ, đổi thay như mặc áo, cởi áo. Và nếu là khổ thực thì mọi người khi lâm vào cảnh mất mát tình cảm đều chết cả hay sao? Thưa không. Vì có người đau khổ, nhưng vẫn có người vui như thường. Cho nên điều đó tự bản chất không thực có, chỉ là khổ tưởng tượng mà thôi. Và nỗi khổ nầy nó dính vào danh, mà danh là phần tình cảm đi vào lãnh vực của tư duy, mang tính chất trừu tượng, vô hình. Cho nên chết trong danh là chết trong cái không thực.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, có những cái chết thực sự do hình hài nầy tàn lụi theo chu kỳ sinh hoại. Có những cái chết dần mòn do vì chết chìm trong danh, sống mà như chết. Hình hài tuy còn nhưng sự sống thực sự bên trong không có mặt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có câu chuyện của một nhà văn (tôi không nhớ rõ tên) viết về một gia đình có ba người đàn bà đều có chồng chết sớm. Chết vào lúc tất cả những người đàn bà chỉ vào độ ngoài hai mươi, và họ đều ở vậy thờ chồng khi tuổi vẫn còn xuân. Thời gian trôi qua, gia đình ba người đàn bà được nổi tiếng là một dòng họ thủ tiết thờ chồng. Cả gia tộc viết đơn trình lên triều đình điều nầy. Khi nhận được đơn, quan đầu tỉnh sửa soạn cấp tấm biển chữ mạ vàng “Tiết Hạnh Khả Phong” và cả gia đình trong tâm cảnh nôn nao chờ đợi tờ ban khen gửi về thì có một người đàn ông trẻ đi qua vùng đó. Một trong những người thiếu phụ trẻ góa chồng từ lâu, nay tự nhiên lòng rạt rào yêu thương trổi dậy. Bà yêu người con trai đó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Câu chuyện rất sâu sắc, phân tích rõ những xung động, khổ đau oằn oại, dằng co tâm thức giữa tình yêu và danh tiết của một người đàn bà bị giam hãm, nhốt kín cuộc đời trong tờ giấy có bốn chữ “Tiết hạnh khả phong.” Và rõ ràng tờ giấy mỏng, nhỏ xíu nhưng đã giết chết một đời người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi kể câu chuyện trên để chứng minh có ngàn vạn điều ràng buộc chúng ta từ cái danh. Danh tuy vô hình nhưng lớn đến nỗi con người thà chịu chết, hoặc thà không được sống thực với lòng mình chứ không thể làm sứt mẻ, làm tổn thương, làm mất danh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, qui chiếu lại đoạn Kinh chúng ta vừa dẫn có hai ý:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thứ nhất, nếu chúng ta phấn đấu tìm được danh thơm rồi cũng giống như khi người ta đốt hương, hương lúc thơm nhất không phải là khi đang đốt mà thơm nhất là lúc nó đã tàn, khói hương mới tỏa rộng trong không gian. Nên trên con đường tìm danh có trường hợp người ta chết rồi danh mới nổi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thứ hai là danh nhốt kín cuộc đời con người, nếu ta không khéo sẽ bị dìm chết trong cái danh rất là tội nghiệp. Thông thường chúng ta khó vùng vẫy khỏi ngục tù nầy. Tâm thức và văn hóa của người Á Đông phần lớn đời sống của họ bị kềm hãm trong danh. Họ không có đủ tự chủ, dũng lực để đứng vững trên hai chân mình, nên rất sợ thị phi, bình phẩm và đàm tiếu chung quanh. Họ bị sức ép rất nặng của dư luận lên đời sống thân tâm. Đời sống của họ bị lệ thuộc và oằn người theo cách của dư luận đòi hỏi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ những điều nầy, chúng ta nhìn lại những trung tâm tu học, tự viện của người Việt cũng đang đi trên con đường ấy. Ví dụ như khi ta làm trụ trì một tự viện, tự viện có mặt được là do một số Phật tử thương yêu, có lòng cúng dường xây dựng và dĩ nhiên không nhiều thì ít cũng là người ơn của mình, cho nên khi họ có yêu cầu thế nầy, thế nọ và mình không đủ lực tự chủ; do phải tùy thuận theo người nên không cách nào giải quyết vận mệnh riêng tư thể hiện sự độc lập của chính mình được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ tâm thức cá nhân nhìn ra tâm thức cộng đồng của một quốc gia cũng đi một con đường như vậy. Nếu ta không đủ hùng lực chắc hẳn ta không thể tự mình đứng vững được. Đây là con đường dẫn con người đi chết chìm trong danh; từ phạm vi nhỏ của một tâm thức cá nhân cho đến phạm vi lớn của một tâm thức cộng đồng đều như thế.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta tự mình vươn lên trong cuộc sống để đứng vững trên đôi chân mình là cả một quá trình cay đắng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin chia xẻ thêm, khi chúng ta chạy theo danh niềm vui thì ít nhưng đau khổ rất nhiều. Người tham danh, khi có danh rồi thì như vòng kim cô của Đức Quan Thế Âm trao cho Tam Tạng trong truyện Tây Du Ký. Tôn Hành Giả (Tề Thiên Đại Thánh) năng lực siêu phàm thách thức cả vua trời, đòi thay trời làm Thượng Đế ấy vậy mà đành kêu khóc, van xin tha mạng khi vòng kim cô niền dính vào đầu. Danh lợi đối với người đời hay người tu cũng giống như thế. Từ xa nhìn lấp lánh như vương miện đính kim cương; chúng ta ước ao, thèm khát nhưng khi đội vào đầu mới thấy nó thắt chặt đau đớn vô cùng, gỡ ra không nổi, lấy xuống không được. Đây là hình ảnh cụ thể nói lên rằng: Trên đoạn đường rượt đuổi tìm cầu danh, niềm vui cho ta nhỏ như cọng tóc mà quằn quại vì lo âu, đau khổ lớn vô cùng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]4. Nền của các dục lậu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, hôm nay chúng ta sẽ đi sâu vào hai chương hai mươi mốt, và hai mươi hai có cùng nội dung là Đức Thế Tôn răn nhắc về họa hại của tham đắm các dục:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chương hai mươi mốt Đức Phật dạy: “Người thuận theo lòng dục để mong được danh tiếng, khi mà danh tiếng vừa nổi thì thân đã mất rồi. Ham muốn danh tiếng thường tình mà không lo học Đạo chỉ uổng công mất sức mà thôi; giống như đốt hương, khi người ta ngửi được mùi thơm thì cây hương đã tàn rồi. Lửa tham danh tiếng còn di họa về sau.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chương hai mươi hai Đức Phật dạy: “Tiền tài và sắc đẹp rất khó buông xả, giống như một chút mật thoa trên lưỡi dao không đủ cho một bữa ăn ngon, thế mà kẻ liếm vào thì bị nạn đứt lưỡi.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phần âm như sau: Phật ngôn: “Tài sắc ư nhân, nhân chi bất xả, thí như đao nhận hữu mật, nhất túc bất san chi mỹ. Tiểu nhân điền chi, tắc hữu cát thiệt chi hoạn.” Câu đáng cho chúng ta thuộc lòng là:“Tài sắc người ta không thể bỏ được, tỉ như trên lưỡi dao bén có thoa một chút mật, không đủ làm được một bữa ăn ngon. Nhưng người không thông minh mà liếm nó hẳn là bị tai họa đứt lưỡi.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta hãy ôn lại ý chính của buổi học hôm trước để thấy Đức Phật dạy những điều rất sâu sắc. Ngài cho chúng ta biết tiền tài, tiếng tăm và sắc dục là ba đối tượng tham đắm muôn đời của tâm thức. Người tu chúng ta hãy quán chiếu thâm sâu để xả ly.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong chữ Hán có hai chữ Tài. Chữ “tài” ở trong chương Kinh hai mươi hai chỉ cho tài ba, là sức mạnh bên trong của mình. Và nếu có bộ bối ở bên thì có nghĩa là tiền của, vật chất, của quý. Hai chữ này đủ cho chúng ta xác định sức mạnh của tiền bạc, của cải vật chất, và sức mạnh của ái dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ “dục” nầy có thể ghép thêm với một từ nào đó khác để nói đến sức mạnh nhận chìm của nó đối với con người. Ví dụ như dâm dục, sắc dục, ái dục và thực dục. Bốn loại dục nầy hình thành đời sống của mọi sinh linh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không có một con người nào không có nhu yếu ăn uống mà sống còn. Tình dục khá tinh tế nhưng nó cũng là nhu yếu tự nhiên của con người. Đây là điều tất nhiên để bảo trì, nuôi sống dòng sinh mạng chảy dài qua bao thế hệ và nuôi sống dòng chảy luân hồi qua bao kiếp của mọi sinh linh. Dĩ nhiên, tình cảm bạn bè, tình yêu thương cha mẹ con cái, tình yêu thương đồng loại... đều nằm trong hai chữ ái dục nầy nhưng mịn hơn và tinh tế hơn thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sắc dục thuộc dạng thô do vì bên trong nó có chút tình nhưng nhu yếu chính vẫn là sự thôi thúc thỏa mãn ham muốn vật chất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dâm dục là loại cạn ở mặt rất thô, nó hoàn toàn thuộc về quan hệ giữa hình thể vật lý mà thôi. Cho nên khi nói đến dục chúng ta nên nhớ nó bao hàm những yếu tố làm nên đời sống, làm nên hình hài nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có ba loại dục là danh, tiền, và sắc mà chúng ta đang đi vào trong chương hai mươi mốt, hai mươi hai nầy. Hiện tại chúng ta chỉ khai triển ba dục nầy thôi, nhưng thực tế năm món dục như sắc, tài, danh lợi, thực, thùy đều có mặt trong đây.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, ngoài đam mê của sắc dục, chúng ta còn có đam mê sự tiêu thụ. Phạm vi của đam mê tiêu thụ bao hàm các phần thô và mịn từ thân đến cảm thọ, ý tưởng. Dĩ nhiên nuông chìu sự hưởng thụ của thân nằm trong thực, thùy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở mức độ cạn nhất như ăn ngủ. Nếu như người ta chỉ thích hưởng thụ, lười biếng, nuông chìu mọi nhu yếu của cơ thể đòi hỏi thì chứng tỏ họ là người ít phẩm chất đạo đức trong xã hội, họ cũng là người thiếu phước lành trong hiện đời và tương lai. Ngay trong xã hội đã vậy, và ngay trong đời sống tu hành của chúng ta, người mà không thể khống chế được ham muốn tự nhiên của hình thể vật lý thì họ khó có điều kiện nâng cao đời sống tâm linh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tất nhiên tham, sân, si có mặt trong tất cả các loại đam mê. Như đam mê danh, tự thân nó đã có mặt ba yếu tố vừa tham vừa vô minh và sân si, cho nên ba dục hay năm dục đều có mặt tham, sân, si làm nền tảng đẩy chúng ta đi vào nẻo đam mê rất cạn hay rất sâu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]5. Bản chất của những loại ái dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đầu tiên chúng ta phải đặt ái dục trở lại vị trí của nó, vào đúng vai trò của nó. Đừng nhìn nó bằng lăng kính đạo đức xã hội hay tôn giáo từng quy định. Tự thân nó là bản chất của mọi đời sống thực vật cũng như động vật. Như tiếng gọi cúc cu của loài chim, không phải tự nhiên có mặt, mà đó là khúc nhạc kêu gọi bạn tình đến. Như loài hoa nở ra khoe hương sắc cũng là một cách biểu hiện tính dục từ bên trong gọi mời ong bướm đến thụ phấn trên những nhụy hoa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta nhìn ra ngoài thiên nhiên, mọi hiện tượng phát triển, nẩy mầm vươn lên để tồn tại đều có bản chất dục bên trong dù thô hoặc tinh tế. Rồi nhìn lại hình hài ta thì cũng vậy, nên mọi con người trong hành tinh nầy đều có niệm ái dục rất mạnh để rớt vào thai mẹ và có mặt trên con đường sinh tử luân hồi. Và chúng ta không ngạc nhiên khi thấy chỉ trong bốn mươi hai chương Kinh mà người xưa đã tuyển gần phân nửa lời răn dạy của Đức Thế Tôn liên quan đến ái dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hẳn nhiên ai trong chúng ta cũng đều biết dục thuộc loại thô, nhưng ái thì thuộc phạm vi tinh tế. Dục loại trừ không khó, nhưng ái nằm chìm bên trong tâm thức và tình cảm nên khó loại trừ. Đời sống người tu chúng ta đương nhiên là phải ly dục, loại trừ ái, nhưng ái là phần thâm sâu bên trong rất khó xả ly.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có những người đã qua tuổi thanh xuân, họ không còn dục nhưng nhìn vào mắt họ ái vẫn còn. Những khao khát, thèm muốn vẫn còn dù hình hài khô héo, cạn kiệt. Trong từ Việt có hai chữ “ân ái” ngoài tầng nghĩa thông thường nhân gian hiểu và xử dụng nó còn có hàm nghĩa rất hay xác định rõ ràng từ con đường ân nghĩa dẫn đến yêu thương không xa lắm. Do vậy, người tu chúng ta hãy cẩn trọng khi gieo ân và thọ ân.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đoạn kinh trước chúng ta đã phân làm ba loại: dục ái, hữu ái và vô sắc ái, hay người ta còn gọi là dục hữu, ái hữu, và vô sắc hữu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dục hữu: Dục hữu là tầng rất cạn, như con người, những vị trời trong cõi dục, những loài động vật, các vị A Tu La và các thế giới của địa ngục đều đang chìm trong dục hữu nầy. Hữu nghĩa là có mặt. Tức là còn sinh tử, còn phiền não, còn khổ đau, còn ràng buộc thì còn có mặt lên xuống trong ba cõi sáu đường. Sở dĩ hữu nầy có mặt là do chất ái có mặt làm nền.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ái hữu: không dành cho chúng sanh có hình hài thô như con người. Họ được làm bằng một loại sắc chất nhưng tinh tế hơn, mịn hơn. Thế giới chúng sanh nầy thường ở những tầng trời cao hoặc những cõi cao hơn như các tầng thiền định của ngoại đạo. Họ an trú trong tưởng uẩn. Thân họ được cấu tạo bằng sắc chất tinh tế nhưng vẫn còn cảm thọ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vô sắc ái: Là những chúng sinh không có hình thể. Những chúng sinh nầy tắt được cảm thọ; chỉ còn hành uẩn, thức uẩn biểu hiện nên thân thể “phi vật chất”. Tuy nhiên vẫn còn chìm đắm trong luân hồi vì vẫn còn chất ái dù rằng ái vô sắc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ tầng cao nhìn vào tầng tinh tế cho chúng ta thấy chất ái còn là còn làm chìm đắm cuộc đời mình. Như trong cảnh giới loài người, dục ái là thành phần thô nhất. Chúng ta có thể nhìn những sinh vật rất là thấp như trong loài động vật; chất dục rất thô được biểu hiện ra thể chất. Và từ cái nhìn ấy, chúng ta có thể qui chiếu lại trong sinh hoạt con người để thấy con người tuy có dục nhưng tinh mịn hơn, không ô uế, thô như thế giới loài động vật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dĩ nhiên vô sắc ái nầy vẫn còn nằm trong phạm vi của dục nhưng tinh tế hơn tức là người ta không đi vào tính dục bình thường mà đi vào loại đam mê cao hơn dẫn con người đi vào các lãnh vực nghệ thuật, âm nhạc, điêu khắc, hội họa... Tuy vậy vẫn là đam mê làm chìm đắm con người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, như tôi đã từng chia xẻ ái dục tự thân không có gì xấu xa hay tội lỗi bên trong. Đối tượng để chúng ta ái không phải là tên tội phạm đáng lên án, nguyền rủa hay xa lánh. Ví dụ gần nhất như tiền của có phải là cái tội đối với con người không? Thưa không. Từ tiền của người ta có thể dùng nó để làm muôn vạn điều tiện ích. Người kia nếu phô bày cái đẹp tự nhiên của họ ra đâu phải là một tội phạm. Con người tự mình đam mê, đắm nhiễm đến nỗi gây ra bao nhiêu việc lỗi lầm, họa hại rồi kết án và hủy diệt các đối tượng họ đam mê. Trong khi mọi chuyện đều do chính tự tâm thức của mỗi người gây nên.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tự thân bản chất ái dục là nền tảng căn bản của đời sống. Tự thân bản chất của yêu thương cũng không hề có gì gọi là tội phạm bên trong nó cả. Sở dĩ ta gọi nó đắm nhiễm, tạo ra tội lỗi là do vì khả năng xử dụng của mình đối với nó. Chúng ta tự ràng buộc mình, tự mình làm cho mình bị chìm đắm vào đó rồi gọi đó là những loại tội phạm. Sự thực nó không hề mang một tính chất tội lỗi nào, ô uế hay thần thánh, thiên đường hay địa ngục gì bên trong cả. Xin các vị ghi nhận điều nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta vượt lên trên ái, dục bằng một con đường duy nhất không phải là trở nên thù ghét, đam mê. Ví dụ con đường thứ nhất để cho chúng ta chìm vào là con đường của sự đam mê. Con đường thứ hai mà người tu chúng ta hay phạm phải là con đường thù ghét, quay lưng lại với nó. Hai con đường nầy là hai mặt trái, phải của cùng một vấn đề, là hai mặt của cùng một nội dung nên chúng ta không thể vượt thoát được. Muốn vượt thoát được khỏi ái dục, chúng ta phải là người vượt lên trên đam mê và thù ghét. Sự thù ghét, hoặc quay lưng lại không phải là cách thế cho ta dùng để loại trừ bản chất sâu xa của ái dục. Chẳng hạn như vô sắc ái là lòng yêu mến những gì rất trừu tượng, không có hình thể như ham danh. Tự thân của danh cũng vô tội. Nếu chúng ta giỏi biết xử dụng cái danh mình có thì sẽ làm được nhiều điều hữu ích cho mọi người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thông thường trên con đường hoằng pháp, làm đạo có điều kỳ lạ là người tu chúng ta hay rượt đuổi, đam mê tìm cầu danh, bám víu vào danh. Có thể chúng ta có một chút ít thỏa mãn cho thành tựu nào đó, nhưng chắc chắn vẫn không bằng chúng ta vượt lên trên chữ danh để làm ích lợi cho chính bản thân mình lẫn cho đạo. Và con đường quay lại, sợ hãi nó, mặc cảm với nó, xem nó là tội phạm cần loại trừ cũng là con đường tuy khác mặt mũi con đường ham danh nhưng vẫn cũng là một thể loại. Chỉ vì không ham mê, rượt đuổi tìm cầu danh được nên ta quay lưng lại với nó, cố tình chứng minh ta là người không ham danh nhưng thực tế bên trong tâm thức ta là người cực kỳ ham danh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]6. Xử dụng thông minh cái mình có.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường của người tu chúng ta không phải là trốn chạy, quay lưng lại, hay theo đuổi, mà con đường thành đạt danh ở mức độ cạn nhất của vô sắc ái đó là chúng ta thông minh biết xử dụng nó, dùng nó như là điều kiện, phương tiện, để làm đạo, để dâng hiến thì chúng ta là người vượt qua danh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thông thường các vị thầy lớn đều biết vận dụng cái danh của mình để làm đạo. Tôi kể cho quí vị nghe chuyện cái quạt của Ngài Ngọc Lâm. Ngài là một bậc Thầy rất được nhà vua kính trọng, ban cho chức tước, áo mão mời ở lại, nhưng ông không nhận. Ông chỉ muốn sống cuộc đời phiêu bạt, nhà vua khẩn cầu không được nên năn nỉ xin Ngài nhận cái quạt, mang theo để quạt vào những ngày mùa hạ. Trong quạt ấy, nhà vua viết bốn chữ “Như trẫm thân lâm.” nghĩa là cây quạt ở đâu thì nhà vua ở đó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trên con đường lang thang vô định, một ngày nọ ông ghé lại một ngôi chùa nghèo, ở nơi hẻo lánh; lúc ấy Ngài đã già yếu nên vị trụ trì lấy lý do sợ làm liên lụy đến chùa từ chối ông. Ông nói: “Không sao, tôi tuy là vị Tăng hành cước, sống phiêu bạt nghèo khó, nhưng nếu có nhập Niết Bàn ở đây cũng không là gánh nặng cho quý thầy đâu. Tôi có một vật có thể không những giúp cho tôi tống táng được hình hài, mà còn giúp cho quí vị xây dựng, trùng tu lại tự viện.” Đến lúc Ngài tịch, người ta lục trong đãy của Ngài chỉ vỏn vẹn có cây quạt với bốn chữ “Như trẫm thân lâm.” ký tên nhà vua. Chư tăng thấy vậy liền phục xuống lạy, và đem quạt cho quan huyện. Quan huyện liền bỏ tiền lo tang ma cho Ngài, và tiền để xây dựng lại chùa thành đại Già Lam.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Câu chuyện nhỏ trên cho chúng ta thấy, các bậc thầy lớn thường dùng danh mình có như một phương tiện để đóng góp lợi ích cho đời, cho đạo. Cho nên con đường của chúng ta làm là xử dụng được danh để hành đạo; đó là cách chúng ta vượt lên trên vô sắc ái.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tất nhiên bản chất vô sắc ái tự thân không có lỗi gì cả. Nó là một loại năng lượng tự hữu làm cho con người có được niềm vui và hạnh phúc trên trần gian nầy. Yêu thương là một tình cảm rất cần thiết, thế nhưng nó có hai hướng đối nghịch nhau. Một hướng làm cho chìm đắm, một hướng làm cho thăng hoa đời mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Một trung tâm tu học mà trong đó người ta không có khả năng xây dựng tình yêu thương, sự cảm thông không có mặt thì sinh hoạt tập thể sẽ rời rạc, không ai dính với ai cả; chắc chắn tổ chức đó sẽ đi đến suy thoái, thất bại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thế nên ở mức độ vừa phải chúng ta có thể làm thăng hoa chất ái nầy bằng con đường tự nuôi lớn tâm Bồ Đề của chính chúng ta. Nếu không có khả năng nuôi dưỡng được chính mình, chúng ta sẽ khi thì nghiêng vào mức độ cạn của dục, khi thì nghiêng vào mức độ khá hơn một chút là ái và rồi cũng sẽ chìm đắm sâu hơn vào mức độ khó gỡ là vô sắc ái tức chìm đắm vào danh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]7. Con đường vượt thoát.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Để vượt thoát ái dục nầy có hai cách để chúng ta thực tập: thứ nhất là tuệ giác và thiền định, thứ nữa là hỷ lạc của đời sống.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Trong nhân gian nếu người ta có niềm vui đời sống gia đình, có hạnh phúc thì những trò chơi trác táng, bê tha như cờ bạc, rượu chè, hút xách... phá hoại thân tâm không dễ gì xảy ra. Và con em cũng được hít thở một bầu không khí trong lành của niềm vui, của an lạc. Khi trưởng thành bước vào đời, vào xã hội, có gia đình; đời sống của chúng chính là kế thừa nền tảng hạnh phúc, hỷ lạc đã có từ trước.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trở lại cuốc sống của những người tu chúng ta. Thưa quí vị nếu chúng ta nếm được niềm vui của sự thực tập ở trong đạo, thì không thể có bất cứ một niềm vui gì của trần thế dù nhỏ có thể làm xao động tâm thức mình cả. Tất cả mọi niềm vui ngoài nhân gian đều phù du và đôi lúc cũng là nỗi buồn khổ. Trong khi niềm vui của đạo tinh ròng, và là quà tặng miên viễn cho những ai biết thực tập. Tâm hồn chúng ta mà trống trải cô liêu thì thường có nhu yếu tìm các thú vui để lấp cho đầy, còn nếu đời sống chúng ta đã tràn đầy niềm vui thì đâu cần tìm tới những thú vui tạm bợ bên ngoài. Từ bên trong niềm vui có mặt thì dù có liệng ta vào đời sống nhộn nhịp của thế nhân quí vị cũng là người vượt lên trên những lượn sóng đọa đày, dục lạc. Không thể chìm đắm vào đó được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Do vậy, chúng ta phải làm thế nào thực tập trong từng ngày, từng giờ để nếm được hương vị của niềm vui pháp lạc. Và tự thân ta khi niềm vui pháp lạc mênh mông thì hai điều sẽ có mặt cùng một lúc trong tâm thức ta: Tuệ giác phát sinh và khả năng của định lực có mặt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Cao hơn một tầng của niềm vui tự thân là sự phát triển của tuệ giác và thiền định. Phát triển tuệ giác đòi hỏi năng lượng tự thân phải rất dồi dào. Đời sống người tu đòi hỏi phải độc thân, nếu có gia đình chúng ta sẽ tiêu phí rất nhiều năng lượng. Chúng ta tiêu phí năng lượng vào nhiều nguồn, nhiều luồng chảy vào nhiều nẻo: lo lắng chăm sóc gia đình, đối phó với nhiều việc trong xã hội... cho nên không có khả năng tập trung năng lượng sống để chọc thủng vào bức màn vô minh, để phát triển tuệ giác. Không làm cho tâm thức của mình an tịnh, thiền định của mình càng ngày càng vào sâu được. Thế nên yêu cầu đời sống tu sĩ là độc thân, đơn giản vậy thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và năng lượng chúng ta là quà tặng tự hữu, là một dòng chảy luân lưu trong mọi hình hài, tạo thành đời sống. Chúng ta nếu khéo xử dụng được nó thì làm cho tuệ giác phát sinh, định lực càng thêm kiên cố. Không làm được điều nầy thì dòng năng lượng sẽ tìm cách chảy về hướng thấp của dục lạc trần gian, hướng làm băng hoại đời sống tu hành của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][bubble]Thưa quí vị, tôi xin lập lại: năng lượng ái dục vô hình nhưng là nền tảng của sinh mạng chúng ta. Chúng ta không có cách gì để có thể loại trừ hay cắt đứt được nó. Cho nên người tu siêu việt được năng lượng của dục và ái có nghĩa là làm cho năng lượng đời sống chúng ta chảy về hướng phát triển tuệ giác và thiền định.[/bubble]
[/FONT]<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_073%20ThamDamCacDuc.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="140" width="425"></center>
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_074%20ThamDamCacDuc.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="140" width="425"></center>
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_075%20ThamDamCacDuc.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="140" width="425"></center>
 

Chúng sinh sợ Quả

Registered
Phật tử
Tham gia
12 Thg 3 2012
Bài viết
293
Điểm tương tác
104
Điểm
43
Con cám ơn Thầy nhiều!
Con cám ơn Chiếu Thanh nhiều!
Đúng là các bậc chân tu, đúng Đạo Lý, trí tuệ luôn gặp nhau!

Cái không ở đây không phải là không gì hết! Cái không ở đây là không do đã vượt qua được nó, không do không còn bị nó chi phối, sai sự, không do tự tại sử dụng nó, dù có hay không vẫn tự tại, thanh tịnh, không có vì nó có làm nhiễn cảm, không vì mất nó mất mà xao động!

Nên muốn nói được không phải các Bậc Thánh, Bồ Tát, Phật đã thành tựu được như trên ( phải có Chánh định trong bát chánh đạo để quán chiếu! ), Phàm phu nên cẩn thận khi nói từ không!

VD: Phàm phu nói ngôi nhà là không nhưng vẫn cần ngôi nhà để ở, khi ngôi nhà của mình đang ở mà mất, mà sụp,...mình phải ra đường ngay thì tâm xao động liền! Vì ngôi nhà cần cho ta sử dụng, sự có mất của ngôi nhà ảnh hưởng đền xao động tâm ta. Chính vì vậy ngôi nhà là có! vì nó cần, nó có công dụng nên là có! Nên chỉ với cái ngôi nhà đã thế, nên Phàm phu đừng nố bịch, ẩu mà phang Không bừa, nói không, hay có phải có tình, có lý!

Nên Con cảm phiền các vị với ngôi nhà như thế các vị còn chưa vượt qua được thì xin hãy mấy cái cao siêu như các tầng trời, trong đó có tầng trời Đạo Lợi, Đẩu Xuất ( nơi có các vị Thánh của đạo Phật và Bồ Tát Di Lạc vị Phật tương lai đang giáo hóa ở đấy), Hay cõi nước Tịnh độ của Phật Di Đà, hay niết bàn mà Phật nói...Các vị đừng nói ẩu là không, là ảo, là bọt nước...! Đừng mượn lời ,và trí tuệ của Bậc Giác Ngộ mà mình chưa hiểu mà mang ra phang, để tô vẽ cho lòng tự cao, hay ho của mình!

( Con cũng đang mang cái gì gì đấy, để tô vẽ cho tâm cao ngạo của mình, và cũng chẳng có gì hay ho gì cả)
Nên ở đời , con người nên có sự cảm thông, tha thứ cho nhau, tha thứ cho người, nên dùng tình yêu, lòng kính trọng với người mà bỏ qua cho nhau!) Tha thứ cho người cũng chính là tự giải thoát mình!
Con nguyên sám hối lỗi của người, và con nguyện sám hối lỗi của con!

Thân ái, Kính chúc tất cả tinh tấn!
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XXIII - CHƯƠNG XXIV - CHƯƠNG XXV[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=+1] HỌA HẠI CỦA ÁI DỤC
HT.Thích Phước Tịnh_Giảng giải
[/SIZE]
[/FONT]</center>


[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Hôm nay chúng ta sẽ học vào chương hai mươi ba, hai mươi bốn và hai mươi lăm của Kinh Bốn Mươi Hai Chương. Ba chương nầy có chung chủ đề là Họa Hại Của Ái Dục. Chúng ta sẽ được học những lời Phật dạy rất hay và rất sâu sắc trong những chương nầy.
[/FONT]
<center> [FONT=Arial,Helvetica]
CHƯƠNG XXIII.
[/FONT]

</center> [FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Nhân hệ ư thê tử, xá trạch, thậm ư lao ngục. Lao ngục hữu tán thích chi kỳ. Thê tử vô viễn ly chi niệm. Tình ái ư sắc, khởi đạn khu trì. Tuy hữu hổ khẩu chi hoạn, tâm tồn cam phục. Đầu nê tự nịch, cố viết phàm phu. Thấu đắc thử môn, xuất trần La Hán.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Đức Phật dạy: “Người bị vợ con nhà cửa ràng buộc còn hơn lao ngục. Lao ngục còn được kỳ hạn được phóng thích. Còn đối với vợ con không có ý tưởng xa rời. Khi đã ham mê sắc đẹp, đâu có sợ gì, cho dù tai họa nơi miệng cọp lòng vẫn cam chịu. Tự dìm mình đắm chìm, gọi là phàm phu. Nếu ai vượt thoát cửa nầy gọi là kẻ xuất trần La Hán.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tôi xin lưu ý, có những bài Kinh Đức Thế Tôn dạy rất là riêng tư chỉ dành cho giới tu sĩ. Tuy nhiên đại chúng có thể nhìn vào vấn đề nầy, để thấy Đức Thế Tôn đã rất cặn kẽ khi phân tích họa hại của ái dục trong đời sống nhân gian.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
B. ĐẠI Ý.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Không có họa hại nào ở nhân gian lớn bằng họa hại của ái dục. Hãy quán chiếu sâu sắc để vượt thoát.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
C. NỘI DUNG.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]1. Sự mời gọi khó thoát.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, điều đầu tiên nên ghi nhận là chúng ta đều có những định giá giống nhau về ái dục. Trong truyền thống tâm linh, truyền thống đạo đức đều đặt vấn đề ái sắc tức là tham đắm sắc dục lên hàng đầu, và tai họa nầy rất lớn không ai có thể phủ nhận được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta đam mê mọi thứ nhưng đam mê đó rất nhẹ, chỉ có đam mê sắc dục là đam mê nặng nhất của đời người. Kết cấu của mỗi hình hài chúng sinh đều được làm bằng ái dục. Rồi ra đời ta đi loanh quanh lại bị năng lượng ái dục từ bên trong sự sống thúc đẩy chúng ta tìm con đường ái dục để lao vào. Dĩ nhiên có những cuộc sống con người chưa từng nếm trải khổ lụy của ái dục đem đến, họ không quán chiếu nỗi bất hạnh rất rõ ràng. Cho nên chương Kinh nầy dạy: người ta có thể lao đầu vào trong ái dục mà không sợ sệt là gì, thấy móng vuốt cọp hung hãn giết người thì ta có thể sợ sệt trốn chạy nhưng ái dục là một loại thu hút rất ngọt ngào, sự mời gọi của nó rất êm ái nhẹ nhàng nên ta chìm đắm, cam tâm chui vào chịu chết mà không có khả năng khước từ. Cái chết ở lửa có thể tránh nhưng chết ở nước thì rất khó đề phòng. Đức Phật phân tích và dạy chúng ta rõ ràng như vậy.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Bản chất con người được làm từ ái dục. Hạt mầm ban đầu vào thai mẹ là ái dục, từ ái dục ta lớn lên và ta bị thúc đẩy từ bên trong để đến với ái dục. Khi giác ngộ ra được nỗi khổ của gia đình, của ái dục ràng buộc mình chúng ta bắt đầu xả ly rất khó. Bởi vì ngoài bổn phận đối với bao nhiêu người do ái dục kết thành quyến thuộc, ta còn niệm tham đắm ái dục tích chứa nhiều đời nên trong một sớm một chiều không thể loại trừ được. Do vậy khi bước vào tuổi mà sinh lực trong người tàn tạ ta mới xả bỏ, viễn ly thì muộn mất rồi. Nghiệp chúng ta gây ra một đời rất dầy, chỉ còn những năm tháng ngắn ngủi chúng ta không thể dùng khoảng thời gian ngắn ngủi ấy mà loại trừ được hạt giống ái dục nằm sâu bên trong.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trả hình hài nầy về cho tứ đại, chúng ta loay hoay một vòng cũng đi trở lại con đường cũ nữa. Thần thức ta ghé vào ba cõi, sáu đường cũng bằng con đường của khởi ái dục, lớn lên trong đời ta cũng ruổi rong theo ái dục và chìm đắm từ đời nầy đến đời khác cũng trong ái dục cho đến ngàn vạn kiếp tử sinh chưa bao giờ có ý niệm viễn ly.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Và nền tảng căn bản nhất của con đường giác ngộ, giải thoát là chúng ta phải viễn ly ái dục.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Người viễn ly ái dục không chỉ có cắt được ái dục bên ngoài, cắt đứt đời sống gia đình thôi. Viễn ly đúng nghĩa là rời xa từ bên trong chiều sâu tâm thức. Tất cả những ái dục nhẹ hay sâu nặng, thô phù hay tinh vi nhất chúng ta đều loại trừ thì mới trở thành bậc phạm hạnh thanh khiết. Và người viễn ly được ái dục tự nhiên thiết lập được căn bản đạo đức, xứng đáng là mô phạm trong đời, trong chốn Già Lam và trở thành bậc đạo sư lỗi lạc. Cho nên những điều nầy chuyên biệt Phật dạy cho người phát tâm xuất gia.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong đoạn Kinh trên chúng ta thấy có chữ “Hệ” có nghĩa buộc vào, gắn chặt vào, và hai chủ đề chính là “thê tử và xá trạch” tức là chúng ta gắn chặt cuộc đời mình vào vợ con và nhà cửa, nó nặng nề còn hơn ngục tù giam nhốt đời sống con người. Đức Thế Tôn giải minh cho chúng ta thấy là ngục tù còn có thời gian được phóng thích, bị tù tội nặng nhất như chung thân khổ sai còn hy vọng có lúc được giảm án và thả ra ngoài; nhưng một khi tâm đã gắn chặt vào nhà cửa vợ con không có ngày phóng thích, thoát ra được.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ví dụ có người biết ngày mai mình về bên kia thế giới, ấy vậy mà vẫn ghen, vẫn lo sợ, vẫn muốn người hôn phối chung thủy với mình không được đổi thay. Quả thật ái dục là gông cùm, xiềng xích nặng nề trói buộc đời sống chúng ta. Nên Đức Phật đã dùng từ lao ngục rất là chính xác.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Thê tử vô xả ly chi niệm.” Như tôi đã lưu ý quí vị ở đoạn trên, quan trọng là xả ly nằm sâu ở bên trong tâm thức chứ không phải ở bên ngoài hình thức. Có câu chuyện rất hay nói về điều nầy, tôi kể ra đây cống hiến cho đại chúng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Có một ông quan đảnh lễ Ngài Phật Ấn xin tu. Phật Ấn bảo: “Ông bị ràng buộc vợ con làm sao tu được.” Ông quan trả lời: “Con đã hơn nửa đời làm quan, thê thiếp rất đông và con đường danh lợi, tình ái con đã đi ngang qua, con xem rất nhẹ không có gì bận lòng con cả.” Ngài chỉ mỉm cười, không nói. Đến sáng hôm sau Ngài Phật Ấn thấy ông quan thức sớm Ngài hỏi: “Nay sao ông thức sớm vậy?” “Thức sớm để tọa thiền, để đến chùa học Phật.” “Ông dậy sớm như thế, vợ ông ở nhà lấy trai rồi đó.” Vị quan nổi sân: “Ông nói thế không đúng.” Xong đùng đùng bỏ về.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chuyện ở đây cho thấy ông quan dĩ nhiên giận thầy một phần nhưng quan trọng là đi về nhà xem sự việc có thật như vậy hay không. Cho nên thưa đại chúng câu Kinh “Thê tử vô xả ly chi niệm.” là vậy.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Có khi chúng ta cách ly đời sống gia đình, đời sống thế nhân nhưng điều quan trọng không phải ở chuyện cách nhau hình hài. Chúng ta có thể xa nhau cả nửa vòng trái đất nhưng tâm thức ta luyến ái, buộc ràng, vướng mắc là từ bên trong chứ không phải bên ngoài. Điều nầy mới đáng lưu ý, mới quan trọng.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
“Tình ái ư sắc, khởi đoạn khu trì.”: tình cảm của ta ràng buộc với sắc dục không đơn giản tí nào cả, nó có tính chất thúc đẩy, nhận chìm do năng lực từ bên trong đẩy tới. “Tuy hữu hổ khẩu chi họa, tâm tồn cam phục.” Dù cho họa hại rớt vào miệng cọp, lòng vẫn cam chịu.” “Đầu nê tự nịch, cố viết phàm phu.” Do vì mình ném cuộc đời mình vào chỗ ô uế, bùn lầy tối tăm chìm đắm cho nên gọi đó là phàm phu.” “Thấu đắc thủ môn, xuất trần La Hán.” Chỉ cần thấu rõ được con đường khổ lụy của ái dục, vượt khỏi nó, xa lìa nó thì gọi là bậc xuất trần La Hán. Đây là những câu kinh Đức Phật răn nhắc đệ tử xuất gia của Ngài rất mạnh.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta có những phần để đi vào chương hai mươi bốn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
2. Nỗi bất hạnh của đời sống gia đình.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, Phật pháp có nhiều tầng chứ không phải chỉ đơn giản có một. Giống như một tiệm chạp phô bán đủ thứ hàng hóa lỉnh kỉnh, cũng như một tiệm thuốc bán từ những thứ thuốc trị cảm đến nhiều loại thuốc trị bệnh nội tạng, bệnh nan y. Và còn có những loại thuốc trị dứt luôn tất cả mọi bệnh tật làm cho chúng ta trường sinh bất tử, đạt đến chỗ vô sinh bất diệt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Đức Thế Tôn có những loại thuốc cho chúng ta nếm được hương vị của Pháp. Đó là những loại thuốc làm cho quí vị ở trong cuộc sống có sự an lạc, hạnh phúc. Truyền thông được với người mình thương, loại trừ bớt những kiến chấp của tâm thức làm cho đời sống chúng ta ngày càng có phẩm chất hơn. Ngài còn có loại thuốc uống vào loại trừ tất cả những loại bệnh, đưa quí vị thể nhập vào biển vô sinh chứng nhập Niết Bàn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ngày xưa tùy theo pháp hội mà Ngài vận dụng loại thuốc thích hợp để trị bệnh. Ví dụ như có pháp hội mà căn cơ thính chúng đã sâu dày, có duyên lành rất lớn, có yêu cầu cần thuốc uống vào để bất sinh, bất diệt thì Ngài cho loại thuốc ấy.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Từ cái nhìn bên ngoài, từ cảm nhận của tôi khi quan sát đời sống chung quanh làm tôi nhớ đến một kỷ niệm khó quên hồi nhỏ. Tôi có một bà cô rất đẹp, Bà Nội tôi gả cô cho một người đàn ông bên kia sông. Con sông nhỏ đối diện ngay nhà Bà Nội. Những đêm khi có chuyện không vui, tôi nghe tiếng khóc của cô từ bên sông lòng cũng thấy thương cảm, xót xa mặc dầu lúc ấy tôi còn nhỏ. Bà tôi thì mỗi lần nghe tiếng khóc, ra bờ sông ngồi nhiều tiếng đồng hồ lắng nghe con gái mình nỉ non, nhưng đâu có làm gì được. Có lẽ cũng chỉ ngồi đó mà lau nước mắt thôi. Chắc lòng Bà muốn người con rể nếu thấy không hạnh phúc với vợ thì trả con gái của Bà về lại với Bà. Thế nhưng, hai hôm sau tôi thấy vợ chồng cô dượng tôi bơi xuồng qua thăm, nói cười vui vẻ như không có gì xảy ra, dường như hạnh phúc lắm.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Từ chuyện nầy cho tôi thấy rằng trong đời sống gia đình có những bất hòa, gấu ó nhau chỉ là điều bình thường, nhưng điều gì làm cho người ta có thể làm hòa với nhau nhanh như vậy và vui vẻ, chịu đựng nhau, sống với nhau cả đời? Người ta có thể lấy lý do vì con cái, vì trách nhiệm gia đình, vì tiếng tăm... Nhưng chúng ta khi nhìn xa hơn, sâu hơn một cách trung thực thì chỉ là vấn đề ái dục nằm bên trong mà thôi. Cho nên khó cho người ta bỏ nhau, khó cắt đứt được dù có chửi nhau, đánh nhau bưu đầu, sứt trán rồi người ta cũng làm hòa với nhau cũng do vì ái dục nằm bên trong rất vi tế.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa đại chúng, bản chất của người đàn ông khi đến với người khác phái phần nhiều là từ sự thúc đẩy của tình dục, và người nữ thì bị thúc đẩy của tình cảm. Hai điều nầy là cả một sự mâu thuẫn khi họ tìm đến nhau.

Dường như thiên nhiên đã cài sẵn hai mầm bất hạnh vào trong cơ thể của nam và nữ từ thủa có loài người. Tự trong tâm thức đàn ông bản chất của họ là sắc dục, trong tâm thức đàn bà bản chất là tình cảm. Hệ quả của sắc dục là sự nhanh chóng tàn phai. Hệ quả của tình cảm là sự gắn bó, buộc ràng. Cho nên ngay đầu tiên sự kết hợp giữa hai con người vốn dĩ là bất hạnh, và sống với nhau lâu thì mức độ nhàm chán có mặt trước tiên từ nơi người đàn ông.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Người đàn bà khi nắm được người mình thương càng về sau thì nhu yếu thủy chung càng bền chặt. Xem người chồng như một chiếc phao nên họ phải giữ cho chắc. Một kẻ thì muốn quay đi, một người thì muốn níu cứng lại, cho nên nhìn sâu vào mỗi đời sống gia đình sẽ thấy nỗi bất hạnh đã có sẵn bên trong.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa quí vị, con người sinh ra trên cõi đời nầy, niềm thôi thúc cuối cùng là muốn vươn lên đến niềm phúc lạc tuyệt vời. Nói theo ngôn ngữ đạo lý thì ta từ vùng Niết Bàn, từ vùng trời hạnh phúc bị đẩy vào trần gian đau khổ nầy, nên chúng ta luôn có nhu cầu đi tìm hạnh phúc, tìm lại nơi đầu nguồn sự sống, từ nơi ta đã ra đi. Và hương vị ái dục cho con người ta niềm vui mà ta ngỡ là hạnh phúc. Một hạnh phúc ngắn ngủi, phù du. Nó đem đến sự thỏa mãn cho con người chỉ phút giây nhưng nó lấy đi, tàn phá năng lượng con người gấp bội.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Vì khát vọng muôn đời của con người là hạnh phúc, yên bình nên đến với đời sống gia đình cho dù cố công xây dựng, học nghệ thuật gìn giữ, thương yêu hay thay đổi người thương bao nhiêu lần họ cũng chưa bao giờ thấy có hạnh phúc trọn vẹn. Bất hạnh nầy tiếp đến bất hạnh khác. Không phải là người ta không thông minh để không biết nỗi bất hạnh đó, nhưng người ta không tìm được con đường nào khác nên vẫn cam tâm, tình nguyện lao người vào, dìm mình trong ngũ dục thế thôi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa, ngành tâm lý học cận đại đã nghiên cứu rất đúng khi họ gọi thiên đường của con người là bào thai mẹ. Người ta gọi bào thai mẹ là thiên đường vì đứa bé nằm trong bào thai được bảo vệ một cách toàn vẹn. Có người thở dùm, ăn dùm, lo lắng dùm để bé không bị nóng, không bị lạnh gì cả.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Khi ra khỏi lòng mẹ là đứa bé đã rời thiên đường của mình để bước vào vùng trời mà nó chưa biết như thế nào. Có niềm vui, nỗi khổ nào đang chờ nó ở bên ngoài, nó không hề biết. Khi bị cắt cuống rốn là nó bắt đầu thở hơi thở đầu tiên, là nó bắt đầu đánh mất vĩnh viễn thiên đường. Và ngành tâm lý họ nói mơ ước của con người là được trở lại thiên đường lúc chưa sinh. Sự suy lý của họ khá giỏi tuy nhiên với người tu Phật thì thiên đường không phải ở đó vì nó rất cạn cợt chỉ trong một đời người; mà thiên đường nằm ở dòng sinh mạng, từ nguồn cội Niết Bàn của tâm thức. Từ tâm thức chưa khởi một niệm vô minh, nơi đó chính là thiên đường.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa quí vị, tại sao con người cam tâm lao mình vào cõi nhọc nhằn, khổ đau như vậy? Thưa, đầu tiên do vì năng lực tự hữu bên trong của chúng ta, mà những loài có tình thức thường hay có khuynh hướng thúc đẩy tìm đến người khác phái. Từ đó tạo thành dòng chảy nối dài, cuốn con người vào nhịp vận hành với sức mạnh khó cưỡng lại của nó là vòng luân hồi bất tận. Sở dĩ chúng ta tình nguyện trôi theo dòng chảy nầy là vì trên thế gian nầy không có sinh vật nào cô đơn bằng con người. Có những lúc chúng ta cảm nghiệm được là tuy có có bạn bè, người thân chung quanh nhưng trong tận cùng mình vẫn là người rất cô đơn. Sống với người mình thương nhưng có khi “Đồng sàng dị mộng”, mỗi người mang một tâm trạng khác nhau.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Gốc gác cô đơn là do vì con người có tri thức. Tri thức đẩy con người đến chỗ nhận biết con người vốn là kẻ độc hành trên cuộc đời nầy. Đến một mình rồi ra đi cũng một mình, và trong cõi mênh mông vô cùng không có gì dễ sợ bằng sự trống trải của kiếp người. Điều nầy được thể hiện rõ trong đời sống hiện tại. Khi mà tâm thức chúng ta có nhiều lo âu, tính toán, bận tâm thì chúng ta cảm thấy đời sống đầy năng lượng. Khi mà tâm không có gì để lo nghĩ, suy tư, trống trải chúng ta rất là sợ. Chúng ta vội vàng tìm một cái gì đó lấp cho đầy lòng mình. Cho nên thật tội nghiệp cho con người là cần có người bên cạnh mình, cần có người chia xẻ dù đôi khi đó là gánh nặng, là nỗi khổ, là của nợ của nhau.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Hơn nữa, đạo đức, luân lý của xã hội ràng buộc, đè nặng tâm thức con người.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Có những vùng văn hóa bị quy định bởi tôn giáo, như văn hóa của một quốc gia cùng niềm tin tôn giáo quy định thành luân lý của xã hội Tây phương. Và Đông phương ví dụ như Trung Hoa cũng thế; xã hội hình thành từ nền đạo đức Khổng giáo và Phật giáo. Chẳng hạn, một trong những tội bất hiếu, tội bất hiếu lớn nhất là con trai không lập gia đình, đạo đức Khổng giáo dạy như thế, trong khi Phật giáo với truyền thống ly dục thì ngược lại những điều Khổng giáo đã dạy. Và chúng ta thấy tôn giáo thường tạo thành mâu thuẫn trong tâm thức con người, từ đó nó là một phần làm nên sự bất hạnh trong đời sống chúng ta.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta lưu ý là có những vùng văn hóa đẩy con người ta vào hố hầm hưởng thụ dục lạc, trong khi có những tôn giáo lại dạy con người khước từ dục lạc. Hai điều nầy đều thuộc về biên kiến hay thiên kiến như Đức Phật đã nói. Chúng ta có đi vào hưởng thụ hay đố kỵ, tiêu diệt hay nắm giữ nó chúng ta cũng không siêu việt lên trên họa hại của ái dục.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Hai con đường nầy dù có muốn hay không muốn chúng ta cũng không cắt được nỗi bất hạnh hay họa hại của ái dục, vì tự thân trong mỗi sinh mạng đã sẵn mầm mâu thuẫn tạo thành nỗi bất hạnh, và tự tâm thức chúng ta rất cô đơn nên chúng ta cam tâm đi vào con đường nầy để tìm chút tựa nương.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Và đóng góp thêm cho nỗi bất hạnh của kiếp người là do nền đạo đức xã hội của từng vùng văn hóa, do những quy định của tôn giáo khác nhau đã tạo thành nỗi ám ảnh rất lớn trên tâm thức con người.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong đời sống nhân gian, dường như chưa có một lạc thú nào có sức mời gọi con người bằng lạc thú ái dục cho con người tình nguyện nhắm mắt lao vào. Không có sức cuốn hút nào mãnh liệt bằng con đường dục lạc làm con người đam mê để chịu đựng nỗi lao ngục bất hạnh lớn như vậy. Chính con người dù nam hay nữ, thường hay tự mình tạo ra lao ngục trong tâm thức mình. Chúng ta tự tạo ra địa ngục cho chính mình và tạo ra lao ngục, đọa đày cho người khác.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa, lao ngục của những người nam là người khác phái của mình, và lao ngục của người nữ là người nam. Đây là sức hút tự nhiên và có sức mạnh khó chống đỡ. “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” như Từ Hải cũng phải lụy vì giọt nước mắt ngắn dài của nàng Kiều. Thế nên người ta hay ví von rằng tình cảm nam nữ hoặc tình yêu đôi lứa “nhìn xa đẹp như viên kim cương, nhưng đến gần là những giọt nước mắt.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Bởi vì khi chưa thuộc vào nhau ta đem hết tất cả những điều dễ thương, những cái đẹp nhất phô bày hiến tặng cho người kia để chinh phục. Nhưng khi đã là sở hữu của nhau thì không cần che dấu, giữ gìn và cũng không còn cần thiết nữa mà từ từ ta để lộ ra những gì đã từng bất mãn, khó chịu, cay đắng được che đậy, cất giữ từ lâu. Rồi cả hai đều có cảm tưởng bị lừa dối, đó là một phần của sự bất hạnh và là lao ngục thực sự của chúng ta. Đi loanh quanh vào ngõ cụt nầy chắc chắn chúng ta đang đưa cuộc đời vào lao ngục ái dục, và cái giá mà chúng ta phải trả là cả một đời người chứ không phải chỉ vài ba năm ngắn ngủi mà thôi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa quí vị, có những người trong cuộc sống gia đình, tâm thức họ lại viễn ly ái dục. Nhưng có những người trẻ, tuổi còn thanh xuân chưa nếm được hương vị cay, mặn của đời sống gia đình họ bị ràng buộc vào ái dục.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngoài xã hội, ví dụ có những cuốn tiểu thuyết viết về vấn đề tình dục khi đọc vào làm cho người ta chán, sợ, ghê tởm. Nhưng có những cuốn sách người ta không viết về lãnh vực tình dục, ái dục, nhưng khi đọc lại kích thích tâm thức người ta hướng về nẻo ái dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Do vậy sâu xa nhất, nền tảng nhất của vấn đề họa hại ái dục không phải nằm từ bên ngoài mà nằm trong tâm thức chúng ta; ái dục phát sinh từ tâm thức và những ràng buộc, nhận chìm con người của nó không phải từ bên ngoài mà chính từ tâm thức của chúng ta. Và cái giá phải trả một đời của sự lao ngục phát sinh từ đây. Xin quí vị nhớ cho như vậy.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
3. Khoảng cách giữa phàm phu và thánh nhân.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Trong đời sống nhân gian, nhiều lúc nhìn một người chúng ta tưởng như cuộc sống người đó đang bị chìm đắm trong ái dục, nhưng nào ai biết tâm thức họ chán sợ ái dục nhân gian rất đậm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nếu tâm thức chúng ta xả ly được năm món dục thì ta có thể vận dụng tất cả điều kiện để hành đạo không khó. Tuy sống trong nhân gian, chìm trong lòng nhân thế nhưng vẫn xả ly được ái dục, trường hợp đó ta gọi họ là những bậc Thánh trong đời. Ở trong đời nhưng vẫn viễn ly nhân gian. Cho nên khoảng cách giữa phàm phu và Thánh nhân không thể được định giá trị bằng những biểu hiện trong đời sống bình thường; ông đó là thầy tu, ông đó là người ở ngoài đời... Thưa, điều nầy phải được tiếp cận sâu sắc và nhìn từ đời sống bên trong.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Sâu hơn một tầng nữa là do cách ta nhìn cuộc đời. Khi tâm thức chúng ta trang bị phẩm chất đạo đức rất cao thì chúng ta có thể đi vào trong cuộc đời, vận dụng tất cả những điều kiện trong nhân gian mà làm đạo. Nếu tâm thức chúng ta mà lòng yêu thương rộng lớn, chúng ta đi vào bất cứ lãnh vực nào cũng giúp người được như nghệ thuật, giáo dục, văn hóa... mà không phải chỉ cứu độ người bằng con đường bố thí tiền của cho người. Từ điều kiện bên trong giàu có nầy, chúng ta có thể đi vào đời, và tự nhiên sẽ nhìn cuộc đời khác với phàm phu. Phàm phu và Thánh nhân được định nghĩa trong cái nhìn về cuộc đời, về quan niệm trong cuộc sống. Nội tâm các vị mà vô dục, phạm hạnh tràn đầy thì dù chúng ta ở giữa nhân gian, bao quanh ngàn vạn cuốn hút của dục lạc chúng ta vẫn là người thanh khiết.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tôi xin nhắc lại một điều: hình thức và nội dung rất gần nhau. Hình thức là những gì biểu hiện từ nội dung. Cho nên chúng ta chưa đạt được tâm cực kỳ thanh tịnh của bậc Thánh, thì chúng ta đừng bao giờ nghĩ chúng ta có thể đi vào chốn ô uế của trần gian và nói chúng ta vô nhiễm. Hãy thành thật với chính mình, khi thấy tâm mình đã viễn ly thực sự, khi ấy chúng ta mới có khả năng đi vào đời tự hào làm Bồ Tát độ sinh. Nếu không, không có gì đẹp hơn, tuyệt vời hơn bằng một đời sống viễn ly từ bên ngoài cho đến bên trong.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Có một vị Thiền sư, đồ chúng rất là đông. Đời sống của ông biểu hiện ra bên ngoài là gặp gì ăn nấy. Gặp thịt ăn thịt, gặp cá ăn cá, gặp rượu uống rượu... Đệ tử thấy thầy tự tại quá, họ đua nhau bắt chước. Một hôm ông dẫn đồ chúng đến một bãi thiêu xác, lượm những thịt còn sót lại sau khi thiêu đem về trộn vào cơm. Xong ông bới từng chén mời tất cả ăn cùng ông. Đồ chúng chưa ăn mà thấy ông làm là đã ụa mửa bỏ chạy, nhưng ông ngồi ăn rất ngon lành giống như ăn thượng vị. Sau khi ăn xong, ông gọi đồ chúng lại bảo: “Nè, các ông nên biết là ta đã năm trăm đời làm tăng, nghiêm tu phạm hạnh, hiện thân trong cõi trần, đi vào chốn bùn lầy để độ sinh nên ta mới làm được điều nầy. Còn các ông, nếu chưa đủ năm trăm đời tu phạm hạnh như ta chớ có bắt chước, đọa địa ngục như tên bắn.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi muốn kể cho đại chúng nghe chuyện nầy để nói một điều quan trọng là khoảng cách giữa phàm phu và Thánh nhân gần vô cùng. Hình hài ta giống nhau, đời sống bên ngoài ta có thể giống nhau nhưng Thánh hay phàm được đánh giá từ bên trong tâm thức; mà bên trong tâm thức gột rửa một đời chắc gì đã sạch được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nếu ta là Bồ Tát thì ta có khả năng nhận diện ta là Bồ Tát, mình là phàm phu thì cũng nhận diện mình chính là phàm phu. Chúng ta mỗi người hãy nhìn tâm thức mình còn đắm nhiễm thì phải cẩn trọng với chính mình; từ hình thức cho đến nội dung.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa, không có may mắn nào, phước lành nào sánh bằng cuộc đời của một tu sĩ. Cả một đời trong nhân gian không phải bận rộn cái ăn, cái mặc, không phải lo toan đối phó với mọi chuyện. Chúng ta có trọn vẹn điều kiện, trọn vẹn thì giờ để tu, để học, để nâng đời sống tâm thức mình lên, thế mà chúng ta không thể làm được một điều là hứa với lòng mình trong một đời nầy giải quyết chuyện tử sinh thì rất là uổng.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][bubble]Cho nên người xưa họ tu rất là quyết liệt. Tu thế nào để cuối cuộc đời chỉ vào hình hài mình nói như các vị đệ tử Đức Thế Tôn ngày xưa đã nói: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc đáng làm đã làm, ta không còn trở lại cõi nhân gian thọ nhận hình hài nầy nữa.” Mong rằng đại chúng tư duy bài học nầy thật sâu sắc.[/bubble][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]______
Con thành kính cãm ơn Hòa Thượng,
Thầy đã cho một bài pháp rất hay và hửu ích đối với con.
Kính dâng cùng tất cả quý vị
[/FONT]

<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_4/Hoa_Hai_Cua_Ai_Duc_01.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="1" showcontrols="1" height="80" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XXIII - CHƯƠNG XXIV - CHƯƠNG XXV[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=+1] HỌA HẠI CỦA ÁI DỤC
HT.Thích Phước Tịnh_Giảng giải (tt)
[/SIZE]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=+1]
[/SIZE]
[/FONT]​
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, hôm nay chúng ta học tiếp vào các chương còn lại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hai chương hai mươi bốn và hai mươi lăm nầy có cùng chủ đề và một đại ý như chương hai mươi ba mà chúng ta đã học.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
<center> [FONT=Arial,Helvetica]CHƯƠNG XXIV.[/FONT]
</center> [FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Ái dục mạc thậm ư sắc, sắc chi vi dục, kỳ đại vô ngoại. Lại hữu nhất hỷ. Nhược sử nhị đồng, phổ thiên chi nhân, vô năng vi Đạo giả hỷ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Trong các thứ ái dục không có gì lớn và mạnh bằng sắc dục. Sự tham muốn sắc dục không có gì có thể sánh bằng. Cũng may chỉ có một thứ ấy mà thôi. Nếu có cái thứ hai bằng nó thì trong thiên hạ không có ai có thể tu được. “[/FONT]
<center> [FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]CHƯƠNG XXV.[/FONT]
</center> [FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Ái dục chi nhân, do như chấp cự, nghịch phong nhi hành, tất hữu thiêu thủ chi hoạn”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Người ham mê ái dục như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tất sẽ bị họa cháy tay.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta có ba vấn đề chia xẻ trong hai chương nầy: Sức mạnh của ái dục, họa hại từ ái dục gây nên, cách nhận diện và chuyển hóa ái dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]B. NỘI DUNG,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Sức mạnh của ái dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Như chúng ta đều biết tâm thức người Đông phương rất kín đáo, tình cảm của họ cũng thường khép kín. Từ tâm thức ấy, vấn đề ái dục không bao giờ được nhắc đến và họ cũng rất dè dặt khi nói đến vấn đề nầy. Điển hình là cho đến bây giờ trong giáo dục các trường lớp cũng chưa dạy một cách công khai cho thanh thiếu niên hiểu rõ những biến chuyển sinh lý của cơ thể.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong khi Tây phương điều nầy quá bình thường thì trong các tôn giáo phương Đông người ta rất kiêng kỵ. Nhất là trong truyền thống đạo Phật thì đặc biệt không được nói đến. Vị thầy nào giảng pháp mà đụng đến vấn đề tâm sinh lý con người là bị xì xào, đàm tiếu, thị phi. Đó là một thiệt thòi cho đạo Phật khi đặt chân vào vùng đất nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dĩ nhiên, sinh tâm lý của con người có những bước chuyển biến rất quan trọng ở tuổi mới lớn khi năng lượng tính dục bên trong phát triển. Nếu chúng được lèo lái, được học hỏi cặn kẽ thì chúng ta có thể, nếu ở đời làm một bậc phụ huynh giỏi dạy con em, nếu trong đạo thì chúng ta làm một vị thầy dạy đệ tử vượt qua những khó khăn, chuyển biến khó lường của tâm sinh lý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu tự thân chúng ta chưa hiểu biết, chưa nhận diện và chuyển hóa được sẽ dễ trở thành một người thất thố, vụng về. Và từ sự mù mờ, không được giáo dục lành mạnh đó ta gây hệ quả tất nhiên cho bao người chung quanh qua cách hành xử, nói năng, làm cho thế hệ cháu con ta ức chế sự phát triển của sinh tâm lý tự nhiên. Điều nầy rất dễ đưa chúng dấn thân vào con đường sa đọa, băng hoại cho tự thân, gia đình và xã hội nghiêm trọng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ tâm thức khép kín của văn hóa Đông phương cùng những tôn giáo phát sinh từ Đông phương cho nên các thầy không dám đọc, hiểu hay giảng giải một cách trong sáng, khoa học vấn đề tâm sinh lý cho đệ tử hay tín đồ. Và đây là điều thiệt thòi vô cùng cho sự mở mang kiến thức của chúng ta.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chẳng hạn như môn luật học là một môn học thực tiễn trong đạo Phật nhưng trong truyền thống luật học vẫn còn bị cấm chỉ và hạn chế nhiều mặt. Họa hoằn lắm chỉ có vài nhà học giả đọc vào văn bản luật để làm cuộc đối chiếu viết sách, thuyết trình ở phạm vi nhỏ cho vui. Trong khi luật tạng của Đạo Phật có thể cống hiến được lợi ích cụ thể về nhiều lĩnh vực như: Lịch sử phát triển dân số, tâm lý và hoàn cảnh con người quá khứ, đạo đức xã hội, Đạo Phật với vấn đề bảo vệ sinh môi...[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi chỉ xin gợi một ít để quí vị thấy vấn đề của chúng ta không đơn giản nằm trong phạm vi nhà chùa. Các vị mà giỏi về sinh tâm lý học bao nhiêu khi tu tập giỏi thì sẽ trở thành vị thầy lỗi lạc bấy nhiêu. Và như tôi vừa chia xẻ, dốt nát ở thế gian đưa đến sự băng hoại, tàn phá cả một truyền thống đạo đức của ông cha gầy dựng trong mấy trăm năm. Còn sự dốt nát trong đạo cũng đem đến tai họa lớn không kém.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đặc nét cấm kỵ, sợ hãi, tránh nói đến ái dục của văn hóa Đông phương và tác dụng thuận của nó chúng ta không cần nói đến, nhưng thường điều gì mà cấm đoán, che đậy, dấu diếm càng kích thích, càng gợi lên tánh tò mò đến cao độ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi kể một ví dụ nhỏ; vào khoảng thế kỷ mười tám các nước Tây phương như nước Anh y phục của quí bà là váy dài phủ kín đến chân. Quí bà nào đi ngoài đường bất chợt một làn gió làm chiếc váy lắc lay hở đôi chân thì hầu như toàn bộ đàn ông đều háo hức dồn mắt vào chiêm ngưỡng đôi chân đó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chính văn hóa Đông phương đã tạo thành bản chất có khuynh hướng loại trừ, chối bỏ ái dục. Và càng phủ nhận, loại trừ ái dục càng làm người ta thèm khát, thôi thúc người ta tìm đến nhau và tính chất của ái dục muôn đời là một loại keo gắn người ta lại với nhau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Mức độ nặng nhẹ của sự chìm đắm từ ái dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin lập lại, dục chỉ là phần thô thuộc về hình hài vật lý, tuy có sự thôi thúc của năng lượng dục trong tự thân nhưng phù du nhất, đưa người ta đến sự nhàm chán, nhờm gớm nhanh nhất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ái có gốc rất là sâu, nó nằm ở cảm thọ, ở phần tâm lý nhiều hơn, nó tinh tế hơn nên phần nầy nhận chìm và gây khổ lụy cho con người đáng sợ nhất. Nếu trên đường tu chúng ta không chuyển hóa và nhận diện nó được, trái lại chúng ta chỉ biết sợ sệt, trốn chạy hoặc đàn áp trấn ngự để loại trừ tức là ta sẽ làm tâm ái nhiễm nầy trốn qua một dạng khác của tâm lý thì khó tịnh hóa được nó vô cùng. Những gì càng tinh tế thì càng làm người ta lậm sâu vào nặng nề hơn mà không biết. Ví dụ như dục là mức độ thô nên người ta thỏa mãn rất nhanh và chán cũng rất nhanh. Nhưng ái ở mức độ tinh tế hơn, mịn hơn. Nó không phải là sự đam mê của sắc chất, hình hài mà từ cảm thọ, tâm thức nên mức độ tàn phá, hủy diệt con người của nó lớn vô cùng. Điều nầy rất rõ; trong xã hội có những người họ kết hợp với nhau qua sắc đẹp, họ bỏ nhau rất dễ. Nhưng nếu gần nhau vì nết, vì cảm tài nhau thì họ bỏ nhau rất khó. Bởi cùng một cung bậc tâm hồn, cảm thông với nhau qua nhiều cấp độ tinh tế nên đến khi quay lưng lại thì nỗi khổ lớn gấp ngàn lần, nó dìm chết con người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thế nên càng đi vào chiều sâu của ái thì mức độ tàn phá của nó càng nặng. Và nếu có sự kết hợp lẫn của ái và dục hẳn sẽ làm thành dòng chảy luân hồi triền miên trong nhiều kiếp. Ngay hiện đời nó là hạt mầm kéo con người đi vào cõi tử sinh ngút ngàn không cơ hội vượt thoát. Đây là những vấn đề rất vi tế, chúng ta sẽ có cơ hội gặp lại trong những chương Kinh kế tiếp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Sức mạnh xưa nay của ái dục thường được nhận biết một là biểu hiện, hai là thầm lặng hay tiềm phục. Dĩ nhiên ở mặt biểu hiện nầy, nó mang đến cho người ta nhiều điều tích cực, như lòng hy sinh, khuynh hướng làm cho con người ta thăng hoa đời sống. Nó cũng đóng góp hạnh phúc trong cuộc sống đời thường. Đó là lãnh vực tích cực của nó. Nhưng ở đây, tôi muốn nói đến lãnh vực tiêu cực, lãnh vực tàn phá của nó trong đời sống con người. Ví dụ như đời sống của các vị cư sĩ Phật tử, quí vị thử chiêm nghiệm lại cuộc sống của mình từ quá khứ cho đến bây giờ thì thấy rất rõ. Nó biểu hiện trong đời sống của ta qua sự ghen hờn, trách cứ, buộc tội, lo sợ bất an... là những tâm hành tiêu cực từ sức mạnh của ái dục biểu hiện ra bên ngoài.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Quí vị cư sĩ nữ thử nhìn lại mình xem có phải như thế không? Khi còn con gái mình không ghen, tới thời trung niên hơi ghen một tí, càng già thì càng ghen nhiều hơn. Tuổi già đến với phái nữ nhanh hơn, vì sanh con, lo cho con cái nên sức khỏe và nhan sắc chóng tàn. Khi nhan sắc trên con đường đi xuống thì nỗi sợ có mặt, và từ đó nỗi bất hạnh đã được cài sẵn có điều kiện phát tác. Ta cảm thấy khổ đau, nỗi khổ càng lớn hơn khi mỗi ngày ta càng già đi. Đây là những điều thường xuyên có mặt trong xã hội loài người. Những tâm hành tiêu cực như bất an, giận hờn, ghen tương, buộc tội, hằn hộc, chì chiết... là những biểu hiện sự có mặt của ái dục nằm đằng sau, và sức mạnh của nó đè nặng lên tâm thức ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Loại tiềm phục khó nhận diện hơn đó là năng lượng ngầm chỉ đạo tâm thức. Nếu chúng ta cảm thấy bất an, hơi hờn hờn, hầm hầm nóng, hoặc ganh tị, hay mặc cảm... quí vị nên để ý, đó là loại năng lượng có gốc rễ từ ái dục nằm trong tâm thức ta gây nên. Và điều nầy không những chỉ ở trong đời sống nhân gian mà đôi khi nó cũng có mặt trong đời sống đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dĩ nhiên, chúng ta rời đời sống bên ngoài đến với đạo để tu, về mặt thô cạn thì chúng ta đã cắt đứt được sinh hoạt ái dục của nhân gian, nhưng nói như thế không có nghĩa là năng lượng tiềm phục của ái dục không còn, đã bị triệt tiêu. Thưa không, nó ẩn qua một dạng khác mà chúng ta khó nhận biết. Ví dụ khi về già, tâm sinh lý ta cạn nguồn, một phần do ảnh hưởng sức mạnh đạo đức tôn giáo đè nặng lên tâm thức cho nên trong thế giới người tu khi về già tâm tính ta trở chứng rất khó chịu. Thế giới của quí thầy khó chịu cách khác, thế giới của quí cô khó chịu cách khác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu quí vị có dịp đọc vào những cuốn sách nói về những nữ tu của các tôn giáo khác như Ki Tô; các sơ già độ sáu mươi, bảy mươi tuổi thể hiện sự khó khăn, cay nghiệt, khắc khổ qua ánh nhìn, cách nói năng, cách hành xử. Đó là loại năng lượng ái dục tiềm phục bên trong bị chuyển dạng mà chúng ta không nhận diện được. Điều nầy có mặt đa phần trong các nữ tu viện không riêng của tôn giáo nào từ quá khứ cho đến hiện tại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và nếu không khéo chuyển hóa nó lúc mới vào tu, lúc Bồ Đề tâm còn nguyên sơ thì càng về lâu, về già đời sống người tu càng héo hắt, càng thể hiện sự cay độc và nhẹ hơn là sự khó chịu, gay gắt rất lạ kỳ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]2. Họa hại từ ái dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong đời sống nhân gian nếu chúng ta có nền giáo dục tốt, một đời sống tâm linh phát triển một cách bình thường tự nhiên chúng ta sẽ đi vào hướng đạo đức. Đạo đức ở đây được đánh giá từ nền tảng đầu tiên là điều tiết hợp lý vấn đề tình dục, từ đó đưa đến sự thành công cho con người trong nhiều lãnh vực. Thành công trong học tập giao tế, thành công trong công trình sáng tạo, thành công trong thủ đắc danh lợi... Điều quan trọng là chúng ta có khôn ngoan, thông minh để biết lèo lái năng lượng dục nầy, đầu tư đời sống theo chiều hướng tích cực hay không mà thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con người ta mà năng lượng dục khô cạn thì đó là điềm triệu báo hiệu không thể kéo dài đời sống quá mười bốn, mười lăm năm sau. Có nghĩa là chấm dứt thời kỳ sống của họ vào mười bốn, mười lăm năm kế tiếp. Cho nên hướng chảy của năng lượng dục rất là quan trọng, chúng ta hãy khéo giáo dục con em như thế nào cũng là khéo giáo dục mình nữa. Nếu chúng ta biết thiết lập một nền tảng căn bản có đạo đức trong sinh hoạt đời sống gia đình thì niềm vui, hạnh phúc của mình chính là niềm vui, hạnh phúc của người chung quanh. Chúng ta đóng góp sự khôn ngoan, thông minh của mình bằng những công trình sáng tạo có ích lợi thuộc mọi lãnh vực cho xã hội do năng lượng dục thúc đẩy theo chiều hướng tích cực. Và dĩ nhiên đời sống tuy bình thường nhưng đầy phúc lạc của thân và tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bước vào ngưỡng cửa Già Lam nhìn thử thì trong tất cả những tổn thương, đổ vỡ trên con đường tu tập của các bậc thầy phần lớn từ con đường ái dục tác hại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta hãy nhìn vào các vị Thầy lớn, có những vị rất tài ba, khéo giỏi nhưng vẫn có một chút ít thị phi về con đường tình cảm, con đường ái dục. Dường như không có điều gì gây chú ý, xôn xao dư luận bằng vấn đề ái dục. Người ta dùng nó như là khí cụ để đánh phá người tu rất dễ. Đó chỉ là mặt tiêu cực do những phá hoại bên ngoài tác động vào đạo Phật, nhưng điều quan trọng là do chính những người con Phật bên trong phá hoại. Tại sao như vậy?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa, đối với cộng đồng Phật tử Việt Nam họ được nhuộm đậm truyền thống văn hóa Đông phương nên nhìn các vị Thầy dưới cái nhìn rất khắc khe, và cố chấp; dù cho có đạo hạnh thế nào vẫn có chuyện thị phi. Nhất là vấn đề ái dục rất phức tạp từ trong nước cho đến hải ngoại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ta có thể nhìn vấn đề bằng hai cách để thấy tại sao có những điều tiêu cực xẩy ra.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thứ nhất do tâm thức của người Đông phương qui định. Ví dụ khi chúng ta đến với một thầy để học những điều thầy chỉ dạy, hay nói một cách khác là hóa thân của vị thầy ban tặng cho ta thể hiện qua những bài pháp, cách thực hành... chúng ta không tiếp nhận, mà chỉ tò mò để ý đến chuyện riêng tư, đời sống của ông thầy. (nhìn ai nhiều, cười với ai, hay nói chuyện với ai, liên hệ với người ra làm sao...) nên từ tâm thức rất Đông phương nầy phát sinh ra vấn đề dị nghị: Ông thầy nói chuyện với ai mà nhìn nhiều một chút là nói ông thương người đó, cười với một ai đó hai ba lần là có chuyện để xì xào, bàn tán rồi... Cho nên vấn đề thị phi nằm về phía Phật tử, tâm thức họ từ ái dục nên sinh ra chất ganh tị, thị phi rất nặng đã làm tổn thương đến truyền thống đạo Phật có mặt ở nơi nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngoài giới Phật tử, chúng ta còn có thế giới nhà chùa các thầy với nhau nữa. Ghen ghét nhau, vu khống nhau, bôi lọ nhau, chia rẽ nhau... và không có gì bôi xấu nhau dễ dàng, hiệu quả bằng đem ái dục ra dựng cớ để hạ nhau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và điều thứ hai nằm ở chỗ rất vi tế. Do vì sự phức tạp thị phi đã có mặt ngay bên trong tâm thức của người tu chúng ta, trong sự hành đạo rất vụng về do tâm thức ái nhiễm của các thầy. Và đôi khi đã làm thành vấn đề thị phi cho Phật tử bàn tán, xôn xao. Chắc hẳn không phải tự nhiên mà Phật tử vu khống. Phần lớn là như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Một vấn đề không kém quan trọng là để có chùa, tự viện, trung tâm tu học... đôi khi các vị thầy phải đem hết khả năng, thông minh của mình cư xử với Phật tử theo cách thế nào đó để có tịnh tài, mà thông thường tịnh tài nằm trong túi quí bà. Và vì nhu cầu xây dựng tự viện, quý thầy đôi khi tạo ra sự hiểu lầm cho Phật tử nên nhiều chuyện phức tạp xảy ra, gây nên nhiều đổ vỡ, tai tiếng làm tổn thương đời sống của người xuất gia, cho chùa, cho tự viện.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, tôi chia xẻ điều nầy để chúng ta cùng biết trên con đường làm đạo nếu lậu nghiệp chưa sạch hẳn như các vị A La Hán thì tối thiểu phải sạch nghiệp ái dục. Và ái dục nằm bên trong tâm thức chúng ta, điều nầy nếu không có công phu quán chiếu, hành trì, không khéo nhận diện thì những hạt giống ô uế dễ hiện khởi. Khi tâm thức còn ái nhiễm thì chất ái nầy lớn mạnh được biểu hiện ra bên ngoài trong mỗi cử chỉ, trong hành động, trong ánh mắt nhìn đầy đam mê thèm khát thì người ta nhận biết ngay, và trên con đường làm đạo sớm muộn gì cũng đổ vỡ mà thôi. Đổ vỡ bởi thị phi, bị đánh giá, bị tổn thương.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên trong đời sống xuất gia, họa hại ái dục nặng nề nhất, ghê gớm nhất. Ở cấp độ cạn ái dục cản trở đường tu, cản trở cho công trình chúng ta làm đạo. Ở cấp độ sâu ái dục lôi chúng ta đi vào cõi tử sinh. Thế nên, chúng ta sạch nghiệp ái dục là chứng quả A La Hán. Chỉ có vậy thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]3. Nhận diện và chuyển hóa ái dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, chúng ta hãy thành thật với chính mình để thấy rằng những chướng nạn căn bản đầu tiên của người tu là ái dục, và từ sự nhận chân ấy giúp mình cẩn trọng hơn. Chúng ta chưa phải là Thánh, nên người thông minh nhất muốn thành công trên đường tu là hãy biết mình. “Biết mình biết người trăm trận trăm thắng.” Câu cách ngôn nầy áp dụng vào lãnh vực chiến thuật, quân sự nhưng dùng nó vào trong lãnh vực tu tập sẽ giúp người tu chúng ta thành công trong đời sống tu hành.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ như năng lực tu tập của chúng ta còn yếu, tâm thức còn nhiều ái nhiễm thì ta hãy nhận diện được điều nầy trong tâm mình và khi nhận diện được ta yếu, năng lượng ái nhiễm còn nhiều thì chúng ta hãy tránh tình trạng tạo môi trường thuận lợi để tâm ái nhiễm phát triển. Người tu thông minh nhất là như thế. Chúng ta càng trung thực với mình bao nhiêu thì càng có cơ hội phát triển, vươn lên bấy nhiêu. Nếu chưa phải là anh hùng thì mình đừng nghĩ là mình anh hùng. Đó là điều “cận nhân tình” nhất để chúng ta có thể nhận diện hầu chuyển hóa. Nếu không thành thật với chính mình thì không có cơ hội để chuyển hóa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi chọn đời sống xuất gia làm lý tưởng cho đời mình ta phải biết một điều là tâm thức con người không phải luôn giữ được mức độ quân bình mà nó luôn giao động. Để chuẩn bị đi trọn vẹn đời tu, chúng ta phải tạo cho mình rất nhiều con đường thực tập để trang bị cho đời sống tự tu và làm đạo.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chỉ thực tập đơn điệu như đóng cửa thất lại ngồi tu thôi; điều nầy nhiều người đã làm nhưng không bền. Nếu các vị chỉ biết tu thiền thì không cân bằng thân tâm; hoặc đi hoài, học hoài, ngồi hoài, nằm hoài... cũng đều không cân bằng thân tâm. Vì vậy, mức độ trung hòa là mức độ khéo điều tiết của những con người thông minh để thành công.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người tu chúng ta nên biết tự nuôi dưỡng bằng cách chọn cho mình một ngày làm việc thật quân bình. Tọa thiền, đọc sách, học thêm, chấp tác, đi bộ... làm thế nào để thấy tất cả những điều đó làm cho mình hạnh phúc. Chúng ta phải khéo tạo ra những điều làm giàu có và thăng hoa đời sống tu của chính ta. Nếu thông minh thì tự mình có thể sắp xếp, làm chủ thì giờ của mình và chúng ta sẽ làm được một việc tuyệt vời là học được trong mọi lúc. Giỏi hơn nữa là có thể thiền tập được trong mọi lúc. Ví dụ như giờ họp, giờ tiếp xúc Phật tử là giờ chúng ta học được nhiều nhất. Chúng ta có thể ngồi đó để nghe, học cách nghe, cách nói của người. Cách những người bạn của mình chia xẻ, trình bày, cách họ hướng dẫn chủ đề đàm thoại, bàn thảo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Tam nhân hành tất hữu ngã sư”: nếu có ba người cùng đi trên đường với mình, tất hẳn sẽ có một người làm thầy mình. Chúng ta có thể vận dụng tất cả thì giờ trong ngày để nuôi dưỡng mình qua sự thực tập bằng cách luôn thay đổi những sinh hoạt để không nhàm chán, để không phung phí vào những chuyện không đâu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tự thân chúng ta phải có năng lượng giàu có để học hỏi, hiểu biết nội điển Phật pháp sâu dày, phải công phu thực tập để định lực và tuệ giác bật sáng. Khi các vị đầu tư trọn vẹn năng lượng của thân tâm cho niềm đam mê tu học và phát triển Bồ Đề tâm, thành tựu Thánh hạnh như vậy dĩ nhiên năng lượng đời sống sẽ tuôn chảy về hướng tích cực và thăng hoa. Đây là con đường chuyển hóa tích cực nhất đối với năng lượng dục ái tự hữu của con người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phương pháp hành đạo trong tương lai không phải đơn giản như chúng ta nghĩ là chỉ dùng ngôn ngữ thuần Phật pháp là có thể làm được việc. Có thể có những loại sữa uống rất ngon, nhưng nếu chúng ta đưa nguyên chất người ta không uống nổi. Giống như vậy, Phật pháp dù có tuyệt vời nhưng nếu chúng ta bê nguyên mảng trao cho người ta bằng tư tưởng, bằng ngôn ngữ, lý thuyết đậm màu sắc tôn giáo chắc chắn tâm thức người Tây phương chưa thể chấp nhận được. Người ta sẽ rất ngán, như sữa đặc quá ngọt. Chúng ta phải pha rất lỗng để hợp với khẩu vị ở nơi đây.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, chúng ta mang đạo Phật tặng cho người Tây phương nhưng không hiểu biết gì về văn hóa đất nước người, về đời sống xã hội, tâm lý cùng nhu cầu tình cảm... cũng không giỏi về tâm lý học Phật giáo (Duy thức học) thì chắc chắn những điều chúng ta chia xẻ không đến được tâm thức người Tây phương; không đưa vào thực tế cho họ thực tập được, không ứng dụng được, không chấp nhận được thì cũng vô ích mà thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vì thế nhu cầu học tập rất cần cho quí vị. Yêu cầu của nó là quí vị phải đi vào nội điển Phật học, đi vào hầu hết mọi lãnh vực trong xã hội và phải hiểu biết thâm sâu: tâm lý học, nhân chủng học, lịch sử, khoa học hiện đại... cùng những thành tựu mới nhất của nó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Để hoằng pháp, chúng ta phải hơn người một cái đầu. Tuệ giác phát sinh từ công phu thiền định, tu tập vững chãi, cùng với trình độ tri thức học thuật sâu dày chúng ta mới mong truyền đạt Phật pháp đến với người. Ta không thể đứng còn rất thấp mà ngẩng đầu nhìn lên dạy cho bất cứ ai. Điều nầy là chân lý của mọi nền văn hóa, không loại trừ lãnh vực nào cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Truyền dạy cho người Việt nhất là người trẻ hôm nay tại đây hay bất cứ nơi nào; ngôn ngữ chúng ta xử dụng phải mỗi ngày mỗi mới, cách trình bày sáng sủa mới mong đưa được Phật pháp vào tâm thức họ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa quí vị, thực tập và hoằng pháp luôn liên hệ với sự học của quí vị.[bubble] Một lần nữa, tôi xin lập lại chúng ta hãy chuyển hóa nguồn năng lượng đam mê tự hữu đi về hướng tích cực hầu làm thăng hoa đời sống của chính chúng ta. Nếu thông minh thì một ngày dù rất bận rộn chúng ta vẫn vận dụng được nó để làm giàu cho chính mình. Nếu không thì cho dù quí vị có một hình hài khỏe mạnh, tràn đầy năng lượng sống động, và chiều dài thong dong của tuổi thọ mấy trăm năm quí vị cũng không biết xử dụng. Đôi lúc tệ hại hơn nữa là ta đầu tư những điều kiện tuyệt vời đang có để tàn phá và nhận chìm đời sống chúng ta. Tất cả tùy nơi sự thông minh biết thương yêu, trân quí đời sống của chính các vị.[/bubble]
[/FONT]<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_4/Hoa_Hai_Cua_Ai_Duc_02.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XXVI [/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]QUÁN CHIẾU SỰ THỌ DỤNG
HT.Thích Phước Tịnh
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hôm nay chúng ta đi vào chương Kinh hai mươi sáu có chủ đề là Quán Chiếu Sự Thọ Dụng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đây là một chương Kinh ngắn nhưng rất hay. Tôi đọc lên bằng Hán văn để quí vị cùng nghe:[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thiên thần hiến ngọc nữ ư Phật, dục hoại Phật ý. Phật ngôn: “Cách nang chúng uế, nhĩ lai hà vi? Khứ! Ngô bất dụng.” Thiên thần dũ kính, nhân vấn đạo ý. Phật vị giải thuyết, tức đắc Tu Đà Hoàn quả.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có một vị Thần dâng cho Đức Thế Tôn một người con gái đẹp, muốn phá hoại tâm hạnh của Phật. Đức Phật bảo: “Cái túi da hôi thối kia, ngươi đến đây làm gì? Đi. Ta không dùng. Vị Thiên thần kia càng thêm cung kính, nhân đấy hỏi đạo lý. Đức Thế Tôn giảng dạy cho vị Thiên thần kia nghe, vị ấy chứng được quả Tu Đà Hoàn.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đoạn Kinh nầy có đại ý là phải nhìn cho được bên sau cái đẹp phù du để loại trừ sự vướng mắc, và hãy khéo quán chiếu sự thọ dụng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Thí pháp khi thọ dụng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đoạn kinh nầy có những ý nghĩa mà tôi nghĩ rất dễ cho chúng ta nắm để áp dụng cụ thể vào sự thực tập. Tuy nhiên, tôi muốn chia xẻ thêm là đời sống tu hành của chúng ta, sự thọ dụng rất rộng. Nào là vật chất tiền của, nào là điều kiện tiện nghi trong đời sống, nào là danh... tất cả đều từ sự hỗ trợ của Phật tử, tín đồ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Niềm kính trọng của họ đối với chúng ta cũng từ cách chúng ta thọ dụng. Và những điều nầy nếu không khéo thì trở thành sự ràng buộc. Dĩ nhiên, cũng trong sự thọ dụng của mình mà làm cho tâm Bồ Đề của họ thối thất, cùn lụt tín tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta đủ đạo lực hoặc có năng lực quán chiếu thì khi thọ dụng phẩm vật của Phật tử dâng cúng, tự mình không đắm nhiễm và gây được niềm tin kiên cố nơi người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ như có vị Phật tử nào cúng dường tiền mà mình không nhận thì không được, nếu nhận thì chúng ta phải có tư cách của một người không khinh thường mà cũng không quá coi trọng. Điều nầy rất quan trọng. Đầu tiên mình nên trân trọng món tịnh tài người ta dâng cúng, và tiếp nhận bằng tất cả sự trân quí, sau đó hồi hướng, chúc phúc rồi để xuống. Nếu mình không buồn để ý tới món quà mà người ta cúng dường thì rất khiếm nhã, nhiều khi làm cho người cúng dường mặc cảm khi món quà họ ít ỏi, không đáng. Cho nên chúng ta phải khéo để ý. Nhiều khi cách hành xử của chúng ta làm họ thêm cung kính Tam bảo, phát tâm lành, yêu mến đạo, quí trọng Tăng, Ni. Còn không, có khi chỉ một lần cúng dường rồi đừng mong họ đến chùa lần thứ hai do vì cách hành xử của chúng ta. Ngay trong bất cứ vấn đề thọ nhận vật chất hay bất cứ thứ gì của cư gia Phật tử cúng dường cũng là một bài pháp dạy cho người ta tu ta tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu quí vị đọc vào văn học A Hàm tức các bộ Nikaya của Nam tạng hay trong Trung A Hàm hay tạp A Hàm của Bắc tạng chúng ta thấy có chuyện ba cô gái của Thiên ma thấy bố mình ngồi rầu rĩ cầm cây nhịp trên tảng đá, một cô hỏi: “Tại sao bố buồn bã như vậy?” Ông nói: “Ta dùng mọi thần thông của ta để lung lạc ý chí của Cồ Đàm nhưng không được nên ta buồn.” Ba cô gái nói: “Để chúng con, chúng con nghĩ là sẽ lung lạc được Cồ Đàm.” Ba cô gái đến thay phiên nhau làm đủ trò nhưng thất bại. Ông bố liền bảo: “Năng lực của ta còn không được huống hồ gì các con.” Sau đó Ma Vương liền đọc lên bài kệ tán thán Đức Thế tôn, đó là xuất xứ của đoạn kinh nầy, cũng là bài học về sự thọ dụng cho chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]2. Loại trừ sự vướng mắc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, văn học Kinh Bốn Mươi Hai Chương là loại văn học được trích tuyển từ những bài Kinh rất hay của bốn bộ A Hàm. Từ nội dung của chương Kinh nầy chúng ta thấy sắc đẹp thường mời gọi sự dính mắc của con người. Trong khi đó cái đẹp của sắc thường rất là phù du và chóng tàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu tâm thức chúng ta rất nặng về ái dục, chúng ta hãy nhìn sâu vào bên sau để thấy rõ tính chất ô uế đáng nhàm chán của sắc đẹp và của ái dục. Rộng hơn nữa, là người tu, chúng ta hãy khéo quán chiếu tất cả sự thọ dụng đến với ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ sự thọ dụng ẩm thực nuôi thân, đến các thứ thọ dụng để nuôi dưỡng cảm thọ và tâm thức... đều có chung một đặc tính là đến rồi đi. Chúng diễn hành qua trước mắt ta nhanh hay chậm tùy mức độ thô hay tinh tế, và chưa có một đối tượng nào đến để ràng buộc con người. Nhất là người tu như chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhìn thật kỹ thì những đối tượng mà chúng ta dính mắc, đắm chìm phần lớn đều do chúng ta khởi tâm, khởi ý niệm vướng mắc vào. Như đóa hoa nở ra do vì đúng ngày, đúng kỳ hạn khoe sắc hương, không có ý làm cho con người bị ràng buộc vào sắc hương của nó. Dĩ nhiên, mọi ràng buộc của mình vào bất cứ đối tượng nào là do chúng ta khởi niệm, mà trong tất cả khởi niệm cột trói con người nặng nề nhất là niệm ái dục. Đây là ý niệm thắt chặt chúng ta nghìn đời do chính chúng ta tự ràng buộc mình mà thôi. Ví dụ khi ta gặp một người và mình nói con người kia dễ thương chi lạ, làm cho mình mất ăn, mất ngủ, rồi buồn giận, sầu tủi, ghen hờn. Nhưng nếu nhìn vào thực tế cho kỷ thì con người kia không làm gì chúng ta cả, chỉ mình tạo ra tình trạng mất ăn, mất ngủ cho chính mình mà thôi. Thực ra trong thế gian nầy nếu có một người đẹp, có hấp lực làm cho mọi người chết chìm như vậy thì mọi người nhìn đều bị cuốn hút; nhưng thực tế hàng xóm, láng giềng có ai chết đâu. Chỉ có mình tự làm khổ mình như những con tằm nhả ra những sợi tơ vây quanh cuộc đời mình, rồi để cho người bỏ vào nồi luộc chín.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thế nên tất cả những cột trói, ràng buộc làm cho con người vật vã, khổ đau đều được sinh ra từ dòng tâm thức, từ ý niệm của chính họ. Chúng ta thường tự mình cột mình vào những giá trị do chính sự suy nghĩ mình tạo nên để dìm chết mình vào trong đó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta cũng thường cột mình vào môi trường sống, như chúng ta đã từng sinh ra và lớn lên ở một vùng địa dư nào đó, được nuôi dưỡng và thấm đẫm chất liệu văn hóa dân tộc nào đó; bao kỷ niệm buồn vui nơi ấy đã trở thành một phần xương thịt và tâm hồn mình. Một ngày nào ta phải rời xa và sống tha hương, dù miền đất mới có tươi đẹp hơn, nếp sống văn minh, tiện nghi hơn ấy vậy mà sao lòng vẫn bồi hồi, luyến tiếc mỗi lần ý thức chợt nhớ quê xưa. Từ đây ta thấy khi tâm thức khởi ý niệm là sự ràng buộc trĩu nặng xuất hiện. Và tất cả những cột trói có mặt, duy trì, kéo dài đều do ý niệm của chúng ta sinh khởi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngoài sự ràng buộc với đối tượng ngoài thân, chúng ta còn tự cột trói mình vào những đối tượng trong tâm thức; điều nầy mịn hơn, khó loại trừ hơn. Một niềm vui, một nỗi buồn, giận hờn, ghen ghét... đều được gọi là những đối tượng của tâm thức. Sự nhận chìm và sức mạnh của nó lớn gấp ngàn vạn lần so với sự ràng buộc của thân và hoàn cảnh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thông thường có hai yếu tố sinh khởi trong trong tâm thức chúng ta: đối tượng dễ thương có mặt thì ta ôm giữ, vướng mắc, nếu đối tượng làm ta khó chịu, bất an thì ta muốn loại trừ. Và hai tâm hành muốn loại trừ hay giữ lại đều là cột trói. Tại sao? Vì khi chúng ta khởi ý muốn loại trừ tức khắc chúng ta trút năng lượng vào đó, xem nó là một đối lực và tâm thức ta đã phân hóa năng lượng vào nó một cách vô ích. Cho nên muốn giữ lại niềm vui, hay muốn loại trừ nỗi buồn là một loại ý niệm cột trói chúng ta, dìm tâm mình vào sinh, diệt và năng lực cuốn hút của nó làm cho ta không có cơ hội nhận diện chính mình, không có cơ hội tiếp xúc với con người thật của mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tóm lại, thưa quí vị, chúng ta đều biết ràng buộc đưa đến hậu quả là nỗi khổ, nỗi bất an, lo lắng. Ràng buộc vào sự nghiệp vật chất thì nỗi bất an, sầu khổ tương đối nhẹ, nhưng nếu chúng ta ràng buộc mình với con người thì nỗi lo sợ, bất an sẽ nhiều hơn. Thưa tại sao? Vì vật chất là một loại vật thể bất động trong khi con người là một sinh thể có một đời sống riêng, chúng ta không thể quản lý họ được. Nhiều khi họ đang sống với mình nhưng lòng họ hướng về một nơi nào ta không thể quản lý được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong đời sống chúng ta có khuynh hướng gắn bó bất cứ điều gì đến với mình. Từ bên ngoài cho đến bên trong, với bất cứ điều gì mà ta tiếp xúc ta đều vướng mắc. Nếu không khéo thì mỗi một sự thọ dụng nhỏ hay lớn, thô hay tinh tế nó đều có khả năng để dìm chết cuộc đời mình. Ở mức độ cạn hơn khi chúng ta đánh mất mình tức không sống trong chánh niệm, thì những điều kiện bên ngoài tác động vào mắt, vào tai, vào mũi... từng phút giây đều trở thành cột trói và giam nhốt cuộc đời ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]3. Quán chiếu sự thọ dụng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, hãy nhìn vào cuộc đời của Đức Thế Tôn để thấy sự viễn ly của Ngài.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tầng đầu tiên của quả vị tu là “ly sinh hỷ lạc” nếu chúng ta xa lìa được sự thọ dụng thì chắc chắn có được niềm vui. Dĩ nhiên chưa là thánh nhưng chúng ta xa lìa được vật chất buộc ràng, gở bỏ được bao hệ lụy là đã có được chút hỷ lạc. Đời sống của Đức Thế Tôn đã xa lìa nhân gian một cách nhẹ nhàng; khi vào trong đạo chứng được quả Chánh Giác trở thành bậc Thầy không những của giới Vương giả, mà còn của một tăng đoàn trên ngàn người được sự tôn kính rất lớn, ấy thế mà Ngài vẫn gỡ bỏ một cách nhẹ nhàng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][bubble]Có một lần Ngài Xá Lợi Phất quỳ xuống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, con nghĩ trong quá khứ chưa có một vị Thầy nào tuyệt vời như Đức Đạo sư của con cả. Trong hiện tại, Ngài là bậc Thầy tuyệt vời, và trong tương lai con nghĩ cũng không có một vị Thầy nào như Đức Thế Tôn.”[/bubble]
Đức Phật mỉm cười hỏi Xá Lợi Phất: “Này, Xá Lợi Phất, ông đã từng biết các vị Phật của quá khứ ư?” Xá Lợi Phất trả lời: “Dạ thưa không.” “Ông cũng biết luôn cả những vị Phật tương lai?” Xá Lợi Phất nói: “Dạ không.” Đức Phật hỏi tiếp: “Thế ông biết các bậc thầy trong hiện tại nữa chứ?” Xá Lợi Phất: “Dạ thưa không, con cũng không biết?” “Ông đã không biết quá khứ, không biết tương lai và hiện tại ông cũng không biết ai, ông chỉ biết mình ta. Vậy ông khen những lời vô ích ấy làm gì.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Câu chuyện trên cho chúng ta thấy rõ Đức Phật có cách dạy đệ tử rất sâu sắc và dí dỏm. Và điều hay nhất là bên trong lời dạy ấy biểu lộ tâm thức xả ly rất đẹp của Người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, chúng ta xả ly vật chất rất dễ, xả danh đã khó nhưng xả ly tình cảm vui buồn bên trong rất sâu sắc càng khó hơn. Là người xuất gia, bước đường tu của chúng ta cạn nhất phải thực tập là hãy khéo viễn ly.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngày bước chân vào tu viện ta chỉ có hai bộ đồ, nhưng ngày rời tu viện ta phải mướn xe để chở hành lý. Ngày mình đến với đạo, mình khố rách, áo ôm, tu hai ba chục năm sau trở thành vị Thầy lớn có chùa đáng giá tiền triệu và nổi tiếng là vị thầy biết cách làm tiền, thế là ta bị chìm đắm trong hố nước đục của nhân gian.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường tu có nhiều ngả tẻ quyến rũ làm cho chúng ta lạc bước, chúng ta hãy nhìn đức Đạo Sư này xưa để quay lại, thực tập xả ly. Chúng ta không những xả ly điều kiện vật chất thọ dụng bên ngoài để cuộc đời tu nhẹ gánh, mà cần phải viễn ly những gì cất chứa bên trong tâm thức. Đó là những điều mà tự mình phải nhìn lại, quán chiếu. Càng xả ly, càng xa lìa giỏi bao nhiêu càng dễ cho chúng ta trở thành bậc thầy giỏi, đạo hạnh trong chốn Già lam bấy nhiêu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong truyền thống Phật giáo phát triển không hề chủ trương lam lũ, sống cùng khổ nghèo đói mới là những bậc thầy đức hạnh. Và điều tôi muốn chia xẻ ở đây là tâm thức xả ly nơi người tu. Chúng ta hãy nhìn lại chính mình để cẩn trọng. Hãy nhìn các bậc Đạo sư đức hạnh làm đạo trong quá khứ và hiện tại để thấy các Ngài có phước hữu lậu như Đế vương nhưng tự thân đời sống các Ngài thanh đạm, bình dị như người nhà quê. Từ điều nầy, chúng ta có thể xác định đạo hạnh chói sáng của người tu là biết sống hạnh viễn ly. Hãy luôn quán chiếu sự thọ dụng để giữ được lý tưởng, để giữ được tâm ban sơ của mình hầu vững bước trên con đường Thánh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bước vào đời tu đôi khi chúng ta có duyên lớn được ở trong môi trường rất tốt đẹp, chúng ta quên mình đang được hưởng những điều kiện tiện ích vô vàn so với hoàn cảnh mọi người, nên thỉnh thoảng chúng ta thử nhìn vào những tiện ích vật chất chung quanh mà ta thọ dụng. Điều nầy nếu chúng ta không nhận biết, không khéo quán chiếu thì một đời tu của mình gây tai họa cho rất nhiều kiếp trong tương lai. Nợ áo cơm thí chủ nặng vô cùng, một giọt nước uống, một tấc vải mặc trên thân là bao nhiêu công khó của người. Ta hãy nhìn đời sống của những cư sĩ để thấy họ rất là cực nhọc mới kiếm được đồng tiền. Nào là những chi phí cho cha mẹ, nuôi dạy con cái, và trăm thứ chuyện phải giải quyết trong cuộc sống tự thân, gia đình và xã hội. Thế mà họ còn dành dụm một chút tịnh tài cúng dường Già lam, Tự viện để xây dựng cơ sở, nuôi dưỡng chúng tăng... nghĩa là chúng ta sống trên bao nhiêu nước mắt, mồ hôi và công sức của vạn người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][bubble]Ấy vậy mà chúng ta không ý thức được công sức và tấm lòng họ để trân quí và tiết kiệm. Mình vung vãi mồ hôi nước mắt của Phật tử tín đồ trong các công trình nguy nga, hoành tráng để khoe mẽ sự giàu có, cao sang của cá nhân, của tập thể dòng tu. Tệ hại hơn nữa là tiêu phí vô tội vạ cho riêng mình, và xây dựng bừa bãi những công trình không cần thiết. Ta không biết rằng chùa chiền, tự viện càng nguy nga bao nhiêu thì đời sống chư tăng càng cách biệt quần chúng và càng khó thương bấy nhiêu. Hiện tại đã sinh trưởng một thành phần “ngạo mạn Tăng, Ni” trong các Già lam đồ sộ, lộng lẫy và trong các trường đào tạo trí thức Phật học nổi tiếng. Đây là hiện tượng khá phổ biến có mặt từ quá khứ và hiện tại càng ngày càng nở rộ ở nơi nầy cũng như trên quê hương Việt Nam.[/bubble][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vì vậy, điều gần nhất làm cho tâm lành ta mỗi ngày một lớn, tâm Bồ Đề càng ngày càng dũng liệt, đó là chúng ta hãy nhận diện điều kiện sống của chúng ta khi thọ dụng vật chất, dù ít nhiều cũng bằng tất cả sự tri ân. Ta hãy thấy sự thiếu thốn vật chất của ta vẫn là tuyệt vời hơn so với nhiều hoàn cảnh khó khăn của người chung quanh để tri ân bằng sự tu tập của mình. Với sự quán chiếu như vậy thì khi đời sống có tiện nghi cao sang mấy đi nữa chúng ta cũng khước từ rất dễ. Không có gì tệ hại bằng người tu mà đam mê vật chất, tiền của.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa, những điều rất dễ nhận diện mà chúng ta chưa xả ly được thì những điều tiềm phục sâu hơn như phiền não, khổ đau, bất an, tham ái, vô minh... rất khó loại trừ làm sao chúng ta viễn ly được. Thế nên ở cấp độ cạn chúng ta hãy quán chiếu cho kỷ, cho thật rõ những sự thọ dụng từ môi trường làm nên sự sống bên ngoài đến hình thể vật lý của ta, cảm thọ của ta để đi đến tầng sâu là nhìn ra sự thọ dụng của ý thức đã làm nên dòng nghiệp tử sinh nối dài qua vạn kiếp. Có thực tập quán chiếu như vậy ta mới có cơ hội viễn ly từ cạn vào sâu. Nhìn vào tự thân mình thật rõ sẽ cho ta rất nhiều lợi ích: ta dễ chấp nhận mình, không yêu sách và bằng lòng với những gì mình đang có là tuyệt vời rồi. Khi quán chiếu về tự thân mình đang thọ dụng, chúng ta sẽ trân quí nó trong từng hơi thở, hài lòng với điều kiện chúng ta đang có, không ân hận những quá khứ, cũng không mơ ước gì khác hơn. Cho nên hãy áp dụng điều gần gũi nhất là quán chiếu sự thọ dụng ngay hình hài nầy đây.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có lúc nào quí vị cảm thấy là mình yêu cầu, đòi hỏi hơi quá đáng nơi người khác không? Như muốn cho mọi người phải hợp ý mình, chú ý đến mình, săn sóc mình, thương yêu mình... nhưng tại sao chúng ta không thể làm một việc ngược lại là muốn mình phải dễ thương với mọi người, phải kính trọng mọi người, luôn hạ thấp mình xuống, chăm sóc người, làm tất cả để mọi người chung quanh ta có trọn vẹn thì giờ tu học...? Điều nầy hợp lý và dễ làm hơn, vì chúng ta là chủ của thân tâm ta nên chúng ta hãy đòi hỏi chính mình: mình phải dễ thương, mình phải dịu dàng, mình phải biết hy sinh... và khi làm được những thiện hạnh nầy tự nhiên năng lượng tu hành bên trong của ta tác động đến người, lúc đó tất cả mọi người chung quanh ta đều dễ thương. Đây là những điều thực tập căn bản cho những người tu chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Làm một vị thầy dạy Phật tử đã khó, nhưng khi ta dạy đệ tử, học trò của mình càng khó hơn. Vì khi đến với Phật tử, chúng ta chỉ tiếp xúc trong một thời gian ngắn, nhưng với đệ tử trong nhà mà chúng ta vẫn giữ được phong cách nguyên vẹn năm nầy qua tháng nọ không dễ. Dạy người bằng miệng rất dễ nhưng dạy bằng những việc mình làm mới khó. Điều truyền đạt sâu sắc nhất đến trái tim để chuyển hóa người không phải chỉ bằng lời nói mà từ những việc chúng ta làm. Chúng ta phải ý thức điều nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]4. Ý thức sự thọ dụng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nên nhớ tất cả những thọ nhận tình cảm đến từ bao nhiêu người thương quí quanh ta là một nhu yếu tự nhiên có khả năng nuôi dưỡng và làm thăng hoa đời sống tu tập của ta. Tuy nhiên sự vướng mắc vào con đường tiêu cực cũng rất dễ dàng phát sinh, mọi việc đều có thể xảy ra nên tất cả đòi hỏi trước hết là từ nơi mình. Ta trân quí những tình cảm đến với ta nhưng không bao giờ để mình đắm chìm ái nhiễm vào những điều ấy. Không bao giờ máng đời mình vào bất cứ ai. Thầy của mình cũng vậy, mình tôn quí, tri ân vô cùng nhưng nhất định không phải là bản sao của thầy. Cuộc đời mình trong bàn tay mình, mình phải giữ và hãy nhớ con đường hướng thượng ngàn Thánh quá khứ chưa ai bắt chước ai. Ta cũng vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tri ân vạn loại đã cho ta sự thọ dụng lớn lao để tu tập và hành đạo nhưng hãy hứa với lòng là một đời nầy cắt đứt chuyện tử sinh, bằng không ta loay hoay chuốc nghiệp luân hồi sáu nẻo không dễ gì vượt thoát.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hãy đứng vững trên hai chân của mình. Làm chủ cuộc đời mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Người chưa thấu đạt lý đạo thì một giọt nước, miếng vải, bao nhiêu thọ nhận từ công khó của người mình phải đền trả bằng nhiều kiếp lai sinh. Nhưng người đã thấu đạt lý đạo thì mỗi ngày có ăn tiêu trên mười lượng vàng ròng vẫn không mang nghiệp.
Đây là câu nói của Ngài Lâm Tế.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thế nào là mỗi ngày ăn tiêu mười lượng vàng ròng mà không mang nghiệp như người xưa đã nói?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa, có khi chúng ta uống một giọt nước mà tâm dính mắc. Có khi sống trong điều kiện tiện ích vô vàn mà tâm ta xả ly. Quí vị hãy lưu ý tất cả những gì gọi là nghiệp đều bắt đầu từ ý niệm khởi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường tu của chúng ta là trở về an trú trong trạng thái nhận biết hiện tiền, tĩnh tại, chứ không phải vướng mắc những lợi danh, tiền của, tình cảm vui buồn.. Người luôn an trú trong trạng thái nhận biết tỉnh sáng của tâm Phật bất động thì cả ngày đi trên hành tinh nầy vẫn không bao giờ bị cát bụi nhân gian vướng gót chân, thì làm sao có nghiệp gì vướng mắc đối với người ấy được. Xin quí vị lưu ý, mọi điều đều từ ý thức sinh khởi của ta.[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://matthuongnhindoi.net/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_1/Quan_Chieu_Su_Tho_Dung.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="1" showcontrols="1" height="80" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XXVII [/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]TRÔI VÀO BIỂN GIẢI THOÁT
HT.Thích Phước Tịnh_Giảng giải
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trôi Vào Biển Giải Thoát hay Trôi Vào Biển Pháp Tánh là tựa đề của chương hai mươi bảy. Tựa đề nầy còn có nghĩa là trôi vào biển Niết Bàn. Ở đây còn được hiểu là trôi vào biển Pháp thân của chính tự tâm ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Phù vi đạo giả do mộc tại thủy, tầm lưu nhi hành, bất xúc lưỡng ngạn. bất vị nhân thủ, bất vị quỷ thần sở già, bất vị hồi lưu sở trụ, diệc bất hủ bại. Ngô bảo thử mộc quyết định nhập hải. Học Đạo chi nhân, bất vị tình dục sở hoặc, bất vị chúng tà sở nhiễu, tinh tấn vô vi. Ngô bảo thử nhân tất đắc Đạo hỷ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy:
Người thực hành theo đạo như khúc gỗ trên mặt nước trôi theo dòng nước. Nếu không bị người ta vớt, không bị quỷ thần ngăn trở, không bị nước xoáy làm dừng lại và không bị hư nát. Ta bảo đảm rằng khúc gỗ ấy sẽ ra đến biển.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Người học Đạo nếu không bị tình dục mê hoặc, không bị tà kiến làm rối loạn, tinh tấn tu tập đạo giải thoát. Ta bảo đảm người nầy sẽ đắc Đạo.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Xuất xứ của đoạn Kinh nầy nằm trong Tương Ưng Bộ Kinh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đại ý Đức Phật muốn nói người tu tập phải rất thông minh, tinh tế mới thoát khỏi cạm bẫy trên con đường đi hầu đạt đến biển giải thoát.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đoạn Kinh nầy có thể chia ra ba đề mục chính: cạm bẫy trên con đường tu, tinh tấn vô vi và trôi vào biển giải thoát.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Cạm bẫy trên con đường tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Phù vi đạo giả, du mộc tại thủy, tầm lưu nhi hành.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người hành đạo giống như khúc gỗ trên nước theo dòng chảy mà đi. Câu nầy có dụng ý rất hay. Chúng ta cứ tưởng công phu tu hành là một điều gì rất cực nhọc, nhưng thưa không đúng. Công phu tu hành gần với đạo nhất là công phu tự nhiên, nhẹ nhàng. Hãy thuận theo dòng chảy pháp tánh trôi vào biển chân như.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bất xúc lưỡng ngạn, bất vị nhân thủ, bất vị quỷ thần sở giá, bất vị hồi lưu sở trú, diệc bất hủ bại; ngô bảo thử mộc, quyết định nhập hải” Đức Phật đưa ra năm ví dụ là “không bị tấp vào bờ, không bị người ta lượm, không bị quỉ thần ngăn che, không bị nước xoáy làm dừng lại, không bị hư nát chìm xuống lòng sông, bảo đảm khúc gỗ sẽ trôi ra biển.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, Đức Phật đã dùng các ví dụ nầy để ứng dụng vào đời tu, và đây cũng được xem như năm loại cạm bẫy:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Không tấp vào bờ là chúng ta không dừng lại ở bến nhân gian. Người xuất gia không sống trọn vẹn đời xuất gia mà quay trở lại thế gian, đam mê cuộc đời, đam mê vật chất tầm thường giống như khạc nhổ đàm ra rồi nhai trở lại rất ghê tởm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Không bị dục năm dục bắt hồn: thông thường chúng ta hay bị rớt vào năm món tài, sắc, danh lợi, thực, thùy nầy. Tuổi trẻ thì rơi vào ái dục, tuổi già thì rơi vào lợi danh, phải tâm Bồ Đề được nuôi dưỡng không bị hao mòn qua ngày tháng và phước đức thật dày chúng ta mới có thể vượt thoát được tầng ngũ dục nhân gian.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu đang sống trong già lam, được bảo vệ giữa lòng Tăng chúng và có giới pháp của Phật hộ trì rất kỷ nên chúng ta có thể tu dễ dàng. Nhưng khi tu tập đến bốn mươi, năm mươi tuổi làm vị thầy lớn, ra riêng lập chùa, làm đạo có chút danh được lòng yêu thương quí trọng của Phật tử; công phu tu hành mòn mỏi dần theo Phật sự lớn, Phật sự nhỏ đổ lên cuộc sống chúng ta. Dần dần đi vào danh lợi lúc nào không hay. Và con đường tu của chúng ta dừng lại bến đó có nghĩa là bị người khác lượm, bị năm dục bắt hồn không thể tiến đạo được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ nhỏ như dính vào điều cạn nhất là tham ăn, mê ngủ cũng làm cho ta tiêu hao năng lượng không thể tiến đạo. Thế nên vượt thoát cuộc đời khỏi bị năm dục bắt hồn tuy là thô ở mức độ cạn, nhưng phải tinh tế lắm mới mong lái đời mình vượt thoát khỏi bàn tay phù phép của năm dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Chẳng bị quỷ thần ngăn che: là không bị những cuồng lực của triết lý, học thuyết, những mời gọi đầy màu sắc của các tôn giáo độc thần dụ dẫn hay bị những trường phái tâm linh kỳ bí, siêu nhiên thuyết phục đưa chúng ta lạc vào đường tà. Có thể chúng ta đã đến với giáo lý Đạo Phật nhưng chưa tu học giỏi nên đôi lúc chúng ta cũng bị quỷ thần ngăn che.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ nếu chúng ta không may mắn gặp được chánh pháp, thể ngộ tường tận đạo lý nên khi tu chúng ta nghĩ cần phải thành đạt cái gì đó thần bí, phải có thần thông... trong khi đó nguyên tắc cạn nhất là càng tu chúng ta càng buông bỏ, càng trở thành con người bình dị, đơn giản. Đừng nghĩ tu là phải có khả năng thấy quá khứ, vị lai hoặc chứng đắc điều gì linh diệu để được danh tiếng, được mọi người cung kính, quý trọng... Khởi tâm như vậy là bị quỷ thần lượm bỏ túi, khúc cây kia không trôi thẳng ra biển được. Người tu là phải gạt hết tất cả những ngăn trở trên con đường trôi vào biển Niết Bàn. Nếu tâm thức còn hướng ngoại, tìm cầu, dù là sự tìm cầu thành đạt nội tâm cũng lạc nẻo và bị quỉ thần ngăn che, không thể thả trôi đời mình vào biển giải thoát được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– “Bất vị hồi lưu sở trụ”: không bị dòng nước xoáy tròn giữ khúc gỗ lại. Ví dụ chúng ta nhận ra được đạo, liễu ngộ chánh pháp thực tập rất giỏi nhưng trên con đường thả trôi vào biển pháp tánh chúng ta không biết gột sạch, không biết loại bỏ tất cả những thành tựu, sở đắc trên con đường tu. Như có một chút tuệ giác phát triển mà chúng ta nghĩ rằng tới đây được rồi, không muốn bước nữa tức là chúng ta đang bị dòng nước xoáy làm cho dừng lại. Và như thế, cuộc đời ta không thể trôi vào biển cả giải thoát được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, trong bài phát nguyện của Phật giáo truyền thống có câu: “Con nay phát tâm không cầu phước báu nhân Thiên, không cầu quả vị Thanh Văn, Duyên Giác, không cầu quả Bồ Tát, chỉ cầu thành tựu quả Vô Thượng Chánh giác mà thôi.” Nghĩa là khi chúng ta chưa thể nhập Pháp tánh, chưa thể nhập vào tâm Phật của chính mình thì con đường còn phải đi nữa, không có quyền dừng lại. Những thành đạt nhỏ nhoi trên con đường tu là dòng nước xoáy làm ta dừng lại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Không bị “hủ bại” là không bị mục rữa. Có hai loại mục rữa: mục rữa của hình hài và mục rữa của ý chí tu hành. Một trong hai điều mục rữa nầy khởi lên là chúng ta không thể trôi vào biển pháp thân được. Nếu như trên con đường tu, tâm Bồ Đề không bị hao mòn nhưng trạng thái an lạc giải thoát vẫn còn chưa với tới mà hình hài đã trả cho cát bụi vô thường, đó là sự mục rữa của hình hài trước khi khúc cây kia trôi vào biển cả. Nếu như hình hài nầy vẫn còn khang kiện nhưng Bồ Đề tâm đã hao mòn, ý chí chúng ta đã hủ bại, trên con đường tu ta đã đi vào con đường hưởng thụ thành quả vật chất, lợi danh do một chút công phu tu hành mang lại, tức bên trong tâm thức đã hư mục. Cho nên để trôi được vào biển giải thoát ta phải vượt qua năm tầng nầy, và đó là loại cạm bẫy chúng ta phải lưu ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]2. Cạm bẫy từ thô đến tinh tế.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Nghịch và thuận: Trên con đường tu cạm bẫy chờ ta rất nhiều. Có nhiều loại từ thô đến vi tế, chúng ta phải nhận diện cho rõ. Có những loại dễ nhìn như môi trường, đời sống tu hành. Tu hành mà chúng ta ở trong môi trường nghịch là một cạm bẫy thuận. Tuy khó khăn cho sự thực tập của chúng ta nhưng đồng thời làm cho ý chí phấn đấu của ta rất mạnh, thúc đẩy ta vươn lên.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu trên con đường tu chúng ta được sống trong môi trường tốt lành, đầy đủ phương tiện vật chất với bao điều kiện thuận lợi; có thầy thương, bạn mến, có đông đảo Phật tử kính trọng... thì hãy cẩn thận vì đó là một loại cạm bẫy rất tinh tế. Nó làm cho chúng ta ngủ quên trong êm ái, trong tự mãn khó phát triển đời sống tâm linh. Những hoàn cảnh khó khăn thường là môi trường rèn chí khí của con người. Ví như đất mà khô cằn, sỏi đá nhưng cây sống được, tồn tại được thì cây đó rất cứng chắc. Người tu chúng ta ở trường hợp bị những ngăn trở nhưng đó là những tác nhân làm chúng ta vững chí, vượt lên. Vùng đất màu mỡ, khí hậu tốt lành cây lớn rất nhanh nhưng nhiều khi không dùng được do vì gỗ nó xốp và mềm. Thế nên đối với hai loại cạm bẫy thuận, nghịch nầy chúng ta hãy coi chừng và cẩn trọng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi dẫn ra đây một ví dụ điển hình như chúng ta tu nhiều năm mà không ai biết đến tên tuổi mình, không ai thương yêu kính trọng nhưng nên nhớ đó là điều rất thuận để tiến đạo. Quí vị làm một vị Thầy giỏi được nhiều người biết tiếng kính trọng, ngưỡng mộ thì hãy xem chừng. Đó là một cạm bẫy giam hãm ta bởi danh lợi, bởi bản ngã được tôn vinh, được nuôi lớn mà ta không để ý. Đó là loại cạm bẫy rất tinh tế khó cho chúng ta vượt thoát.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Thưa đại chúng, cạm bẫy vật chất mời gọi ta vượt qua tương đối dễ, nhưng cạm bẫy tình cảm hay của tinh thần làm cho chúng ta chìm đắm vào không vượt qua được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngoài ra còn có hai cạm bẫy tinh tế trên con đường tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có hai ngã người tu thường vướng vào thứ nhất là phát triển tổ chức, tự viện, phát triển thế lực. Chúng ta có thể khoác cho con đường đi vào trần thế nầy chiếc áo hoằng pháp, chiếc áo độ sinh; chiếc áo làm phát triển Phật giáo, cứu người, giúp người... Đó chỉ là bên ngoài lập lờ đánh lừa bên trong tâm thức của chúng ta đang bị mắc cạm bẫy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thứ hai, cạm bẫy trong tâm thức nó tinh tế hơn con đường hướng ra ngoài trần thế, do đó chúng ta cần quán chiếu thật kỹ những tâm hành sinh khởi vướng mắc về lợi danh, tiếng tăm... Đây cũng là một cạm bẫy trên con đường tiến đạo. Nó vi tế vô cùng, chỉ chúng ta tự quán chiếu để nhận diện chính mình chứ không phải bên ngoài mọi người đều nhìn được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]3. Cạm bẫy trên tiến trình dụng công.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][bubble]Trong thiền thoại có Ngài Vô Quả tu trong một thất bằng đá. Trong những năm thiền định tại đây Ngài được quí trọng cúng dường bởi một gia đình thí chủ. Một hôm ông nghĩ nếu tình trạng thọ nhận cúng dường này kéo dài sẽ không đi đến đâu, nên ông giã từ giã thí chủ để đi nơi khác. Trước khi đi gia đình thí chủ cúng dường cho Ngài một y bá nạp, tức y một trăm điều để phòng khi trở lạnh, và trong y có gói bốn nén bạc. Ngài từ chối không nhận, chỉ nhận y. Nhưng vì gia đình thí chủ rất kính quý, sùng mộ Ngài, nên năn nỉ ông nhận để khi cần làm Phật sự. Ngay đêm đó khi Ngài tọa thiền thì thấy một hoa sen rất lớn trên không hạ xuống và có một đồng tử đánh khánh đến thỉnh: “Thưa thầy, con hôm nay, đến thỉnh Ngài vãng sanh về Tây phương. Vì công phu tu hành của Ngài rất là lớn cho nên chúng con đã thừa lệnh Đức A Di Đà thỉnh Ngài bước lên hoa sen về cảnh giới an lạc.” Ngài Vô Quả nói: “Ta lâu nay thiền tọa, ta nào hề niệm Phật cầu vãng sanh, cớ gì có hoa sen đem đến đây. Ta không đi.” Và năm ba lần mời mọc, cuối cùng Ngài lấy cái khánh cắm lên hoa sen, thiền tọa tiếp. Khánh bạc được cắm lên thì đồng tử và hoa sen biến mất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sáng hôm sau khi sửa soạn lên đường thì gia đình thí chủ chạy lên thưa: “Đêm hôm qua con ngựa của nhà con sinh một chú ngựa con. Chú ngựa mới sinh bị chết. Con mổ bụng nó thì thấy cái khánh nầy. Con không biết tại sao cái khánh Ngài xử dụng hàng ngày lại ở trong bụng ngựa của con, nên con xin trả lại cho thầy.” Khi nhìn thấy khánh bạc Ngài Vô Quả toát mồ hôi bảo: “May phước lão Tăng định lực sâu, nếu không là ta rớt vô bụng làm con ngựa con nhà bà rồi.” Và ông đem y, đem bạc trả cho gia đình thí chủ. Ra đi thong dong.[/bubble][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, câu truyện “thiền thoại” tôi kể ra cống hiến đại chúng để quý vị lưu ý một điều là trong tiến trình dụng công tu ráo riết có những cạm bẫy lừa gạt rất ghê gớm hiện ra. Chúng ta đừng tưởng con đường trôi vào biển giải thoát giản dị. Từ mức độ cạn thô đến tinh tế, đòi hỏi chúng ta phải rất thông minh, ý nguyện vững bền, tâm Bồ Đề kiên cố và nhờ năng lực phù trì của Thập phương Tam bảo. Nếu không chúng ta bị lạc vào bờ bị người ta lượm, bị nước xoáy giữa dòng, bị quỷ thần ngăn che hoặc là rủ mục cuộc đời chìm xuống dòng sông, không trôi vào biển Niết Bàn được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]4. Tinh tấn vô vi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tại sao phải tinh tấn mà vô vi? Thưa quý vị tinh tấn dễ nuôi lớn bản ngã. Ví dụ như đang sống trong lòng đại chúng, mà thấy bạn tu của mình thả trôi bồng bềnh, không công phu tu tập miên mật, còn mình phát tâm tinh tấn hơn thì tâm thức phát sanh ra một ý niệm tự nhiên là thấy mình tu hành hơn bao nhiêu người. Vì ta thấy ta là người siêng năng, cần mẫn mà mọi người giãi đãi nên bản ngã ta phát sinh, bởi vì nó rất tinh tế nên điều cạn nhất hay bắt gặp nơi người tinh tấn là họ dễ sinh bực bội, không sống hài hòa trong chúng. Cho nên yếu tố quan trọng là hãy tinh tấn rất mực mà cũng thong dong rất mực. Tức là hết sức tinh tấn nhưng không thấy mình là người tinh tấn. Đó là điều khó trong cuộc sống tu hành của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Người thông minh mà không ai biết mình thông minh mới khó. Chúng ta sống bất cứ nơi nào cũng rất hài hòa, sống trộn lẫn trong cộng đồng, trong tập thể già lam, tự viện rất bình thường, dung dị, chan hòa với mọi người, và làm được điều này mới khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trên con đường thực tập, người tu chúng ta phải thể hiện ở mặt cạn là trong đời sống cộng đồng. Sự thông minh nhất là sống như mọi người, thả trôi đời sống hài hòa theo dòng chảy cộng đồng. Sống như mọi người nhưng chúng ta có cách thực tập, cách sống rất riêng mà mọi người chung quanh không hề biết.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ những điều trên quy chiếu trở lại tinh tấn phải vô vi là như vậy. Bởi vì bản chất tinh tấn làm cho bản ngã con người phát triển dễ vô cùng cho nên chúng ta phải làm thế nào tinh tấn mà không có bản ngã. Đằng sau ý niệm của sự tinh tấn, của sự cố gắng là bản ngã rất lớn, chúng ta phải thận trọng lưu ý. Chúng ta phấn đấu, chúng ta tinh tấn tu tập giỏi nhưng vô ngã mới quan trọng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Tinh tấn mà không tinh tấn là ý chính của tinh tấn vô vi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cuộc đời tu của chúng ta quan trọng là sự nỗ lực cân bằng giữa thân và tâm. Có những sự nỗ lực không cân bằng làm năng lượng của cơ thể chúng ta chìm xuống. Chúng ta làm thế nào để không mất năng lượng của cơ thể, không tạo phản ứng từ bên trong tâm thức thì tu mới thành công được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tinh tấn là thực hành một trong những lục độ tất yếu của đời sống người tu nhưng cần phải có sự quân bình, không quá gấp rút, không quá vội vàng đưa đến căng thẳng thì mới là người tu giỏi. Chúng ta tu miên mật nhưng rất thảnh thơi. Hãy dụng công đều đặn, thong thả không ngưng nghỉ nhưng tuyệt đối không được thả lỏng. Điều này không ai dạy ai được, sự thông minh và tính cách của chúng ta là do ta. Cách dụng công của chúng ta thế nào đó đem đến cho mình sự thảnh thơi, yên bình, phúc lạc. Đó là bí mật của ta, tự ta khám phá chứng nghiệm trong lúc hành trì. Đến lúc nào đó ta phải là thầy của chính mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]5. Trôi vào biển giải thoát.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Tùy duyên tiêu cựu nghiệp nhậm vận trước y xiêm.” Hai câu này của Ngài Lâm Tế ý muốn nói “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, thong dong mặc áo xiêm.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa hình hài do nghiệp quá khứ của ta tạo thành không ai giống ai hết. Sức khỏe của chúng ta như thế này là do quá khứ xa, quá khứ gần mà có. Quá khứ xa từ kiếp nào đó chúng ta đã gây nhân lành hoặc không lành nên kiếp này hình hài ta khỏe mạnh hay đau yếu. Quá khứ gần là do ta thủa thiếu thời không chăm sóc thân thể tử tế, đàng hoàng nên tuổi chưa già mà đã bệnh tật, ốm đau. Hoặc từ môi trường sống hiện tại, đời sống vật chất, tình cảm không được quân bình: ăn uống, vui buồn, lo âu, căng thẳng...Tất cả là do hiện tại vụng về hoặc do nghiệp cũ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Tùy duyên tiêu cựu nghiệp,” là chúng ta chấp nhận nó, chấp nhận hình hài này, sức khỏe nầy không tốt lành thì cũng không than phiền. Chúng ta làm thế nào tùy theo sức của mình; nếu khỏe mạnh thì tọa thiền nếu không thì đi thiền hành, không khỏe nhiều thì thiền nằm, thư giãn, buông lỏng... và chấp nhận mình như vậy nghĩa là chúng ta vận dụng mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện cơ thể cho phép để dụng công tu thì đó là người thông minh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngay khi bắt đầu chấp nhận hình hài như bản thân nó đang có thì hạnh phúc lập tức có mặt. Nếu hình hài chúng ta như thế này mà chúng ta đòi hỏi, mơ ước khỏe đẹp hơn, hoàn hảo hơn thì tự nhiên tâm thức bị phân hóa, mâu thuẫn là đã bất hạnh rồi. Chúng ta chấp nhận đời sống của chính mình, khéo vận dụng điều kiện ta đang có trong tầm tay để thực tập thì làm cho nghiệp cũ nhẹ vơi đi, rơi rụng và tiến đạo được. Đó là “Tùy duyên tiêu cựu nghiệp.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hãy thông minh vận dụng tất cả những gì ta đang có tốt lành của thân tâm, trí tuệ này để dụng công để tu tập, nếu không thì chúng ta không có cơ hội.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Thong dong mặc áo xiêm.” Chúng ta thể ngộ được tâm Phật bất sinh của chính mình và nắm được phát môn thực tập thì đời sống của ta khi đi tới, đi lui, khi cười nói lúc nào cũng an trú trong niệm tỉnh giác. Người nhận được con đường vào đạo rồi thì làm thế nào mà sự tu của họ không cần tiêu phí năng lượng nhiều vào trong cách thế biểu hiệu ra bên ngoài. Đời sống mỗi một ngày đi qua là một ngày thân tâm nhẹ nhàng hơn, thảnh thơi thong dong hơn như mây trời gọi là người “thong dong mặc áo xiêm.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][bubble]Trên con đường thực tập, người tu chúng ta phải thể hiện ở mặt cạn là trong đời sống cộng đồng. Sự thông minh nhất là sống như mọi người, thả trôi đời sống hài hòa theo dòng chảy cộng đồng. Sống như mọi người nhưng chúng ta có cách thực tập, cách sống rất riêng mà mọi người chung quanh không hề biết.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thực tập sâu hơn, chúng ta nhận ra được pháp tu và có niềm tin vững chắc với năng lượng tự hữu, hay nói theo ngôn ngữ nhà Thiền là chúng ta nhận ra thể tâm không sinh, không diệt và tin sâu sống liên tục miên mật trong trạng thái của nhận biết, trong định là chúng ta đang trôi vào biển cả giải thoát. Là con đường duy nhất của các bậc Thánh ngày xưa khi thể nhận được Đạo rồi thì nhất định thả trôi đời mình vào biển Pháp tánh mà thôi.[/bubble][/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://matthuongnhindoi.net/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_1/Troi_Vao_Bien_Giai_Thoat.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="80" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]
[/SIZE]
[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/KDuyMaCat-PPhatQuoc18.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="1" showcontrols="1" height="80" width="425"></center>
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XXVIII [/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]THẬN TRỌNG VỚI Ý THỨC
HT.Thích Phước Tịnh_Giảng giải
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thận Trọng Với Ý Thức là chủ đề của bài Kinh ngắn mà chúng ta sẽ đi vào.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Văn bản chữ Hán của chương Kinh hai mươi tám nầy rất là ngắn, chúng ta có thể viết theo thể thơ, mỗi câu chỉ có năm chữ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Thận vật tín nhữ ý, nhữ ý bất khả tín. Thận vật dữ sắc hội. Sắc hội tức họa sanh. Đắc A La Hán dĩ, nãi khả tín nhữ ý.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Cẩn thận chớ có tin ý của ông. Ý của ông không đáng tin. Cẩn thận chớ gần gũi với sắc đẹp. Gần gũi với sắc đẹp chắc tai họa phát sinh. Khi nào chứng quả A La Hán rồi mới có thể tin ý của ông.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]A. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đại ý của chương Kinh hai mươi tám là: “Hãy cẩn thận với ý thức của chính ta.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Đi vào các tầng tâm, ý, thức.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bài kinh tuy rất ngắn, nhưng rất sâu sắc và Đức Phật xác định một điều rất căn bản là đừng bao giờ tin vào ý thức của chúng ta. Ý thức thì thầm dẫn dắt chúng ta vào con đường khổ lụy. Hãy nhận diện sự sinh khởi của ý thức và đừng bao giờ để nó dẫn dắt. Chúng ta giỏi hay không là do nhờ biết nhận diện sự có mặt của nó, và khi nhận diện được thì cắt được sức mạnh dẫn dắt của nó liền nếu không thì bị nó đưa vào nẻo tiêu cực, đi rất xa thì muộn mất rồi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong mười bức tranh chăn trâu có bức họa thứ tư vẽ chú mục đồng bắt được trâu rồi nhưng con trâu chạy phía trước, chú cầm sợi dây mũi kéo lại nhưng không được, bị con trâu lôi chạy theo rất tội nghiệp. Ý thức của chúng ta cũng như vậy ta luôn bị nó dẫn đi rất xa; nó dẫn chúng ta vào những nẻo chông gai, hiểm trở là những nẻo làm cho chúng ta sầu khổ bất an. Nếu tu dở chúng ta không có khả năng dẫn nó mà chỉ đi theo sau đuôi vì bị lôi đi. Cố nhiên, ta chưa bao giờ nhận diện được nó, dừng được nó; chưa bao giờ làm chủ nó, và đi mãi hết kiếp tử sinh nầy cho đến kiếp khác chìm nổi trong luân hồi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, chương Kinh nầy có thể chia làm các phần như: Định danh các từ ý, thức và tâm. Sự sinh khởi của ý thức. Thế giới hình thành từ tâm thức chúng sanh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều quan trọng ở đây không phải là những định nghĩa trong văn học, trong chữ nghĩa mà chúng ta quay lại nhận diện những diễn tiến nơi chính mình, bên trong mình mới có khả năng điều phục, làm chủ được ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Như chúng ta đã biết trong mười hai nhân duyên có hai từ rất gần với chúng ta là danh và sắc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Sắc là phần cạn thuộc vật lý. Danh ẩn tàng bên trong, tức là phần của cảm thọ, tưởng, và năng lực vận động của ý thức gọi là hành và phần cuối của ý thức.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Cảm thọ” nầy là cảm nhận được làm bằng hai phần; vừa sắc và vừa ý thức. Như khi ăn một món ăn ngon chúng ta có cảm giác hạnh phúc, thích thú đó là do cảm thọ từ thân, từ vị giác hình thành. Dĩ nhiên cảm thọ từ thân đưa đến thì hạnh phúc không cao. Nhưng nếu quí vị uống một tách trà trong một không gian mà thơ văn tuôn tràn, niềm hứng thú bộc phát bạn bè cười nói hợp cung bậc tâm thức thì ý thức cùng với vị giác ta tiếp nhận làm thành trạng thái hạnh phúc. Cho nên cảm thọ là loại phối hợp từ thân, từ tâm hành và đôi khi cùng với ý thức mới hình thành cảm thọ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Tưởng có nhiều phần: tưởng tượng thô nó được sinh ra từ kho lưu trữ của tiềm thức chúng ta nhìn thấy rất dễ. Quá khứ chúng ta nghe tiếng hay nhìn hay xúc chạm với hiện thực, cảnh trí trước mắt mà hình thành những hạt giống trong tâm thức và những hình ảnh ta hồi ức lại gọi là tưởng tượng thô.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đôi khi không cần cảnh trí trước mắt mà có tưởng gọi là đơn thuần tưởng. Và có những cái tưởng không cần cảnh tiếp xúc trước mắt như khi một buổi tối nào buồn đời nằm tưởng lại sự việc quá khứ. Có khi có những tưởng tượng rất mạnh làm cho hình ảnh ngày xưa hiện ra rõ rệt, và chúng ta hay làm chuyện nầy để lấp khoảng trống của lòng; khi buồn, khi cô đơn, khi đối diện với nỗi khổ. Tất cả những hình ảnh, âm thanh gợi lại đều thuộc về dạng tưởng. Tưởng tinh tế hơn được dệt bằng đối thoại hoặc độc thoại, và tưởng nầy cũng dính vào hành và thức. Xin quí vị lưu ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta định nghĩa hành là sự vận động, là sự di chuyển của ý thức luôn xao động thì vận động của ý thức gọi là hành.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Thức là gì? Ta có thể gọi nó là những nhận thức. Hoặc thức là những hạt giống, những ký ức của quá khứ ta cất chứa. Nó là những hạt giống từ đáy lòng của mình và chúng tiềm phục bên trong rất sâu (chủng tử) là thức. Ta có thể gọi thức có hai tầng: tầng biểu hiện là nhận thức, tầng tiềm phục là những hạt mầm rất mịn, rất tinh tế nằm ngủ sâu trong ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bằng cái nhìn của thiền tập giản dị hóa tính phức tạp của từ ngữ chúng ta hiểu như thế để qui chiếu vào hai từ dùng ở đây là ý và ý thức. Ý chỉ cho phần cảm thọ, chỉ cho phần tưởng. Thức chỉ hành và cũng chỉ cho hạt giống ngủ ngầm bên trong của tâm thức. Ý và thức liên hệ rất chặt chẽ hay nói rộng hơn bốn uẩn thọ, tưởng, hành, thức chỉ là những danh từ để gọi mà thôi. Thực tế tất cả đều chỉ cho trạng thái của tâm thức còn lậu hoặc, ô nhiễm, nghĩa là còn hạt giống để sinh trở lại trong cõi tử sinh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và một điều rất quan trọng chúng ta cần chia xẻ là “tâm”. Vậy tâm là gì?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta thường gọi những tầng cảm thọ, tư duy, độc thoại thì thầm của ta, cùng những vận động rất mịn như sóng lăn tăn trên miền ý thức, và những hạt mầm tiềm phục rất sâu chờ cơ hội khởi lên là ý và thức.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trên mặt cạn nhìn, nhận diện chúng ta gọi nó là ý. Ở mặt sâu thầm lặng như những lượn sóng ngầm không nhận diện được chúng ta gọi là thức. [bubble]Vậy còn tâm nằm ở đâu?[/bubble][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa, chữ tâm nầy được Phật giáo xử dụng rất nhiều, từ Phật giáo Nguyên Thủy đến Phật giáo Đại Thừa, hay Thiền tông hầu như toàn bộ kinh điển đều nói về tâm. Tâm bao trùm những thọ, tưởng, hành, thức nhưng tâm không phải là bốn uẩn nầy, vậy tâm là gì? Tâm là trạng thái tỉnh sáng nhận biết, không có tiếng nói thì thầm, không phải hạt giống của sự vui buồn. Nó hiện tiền; là trạng thái nhận biết sáng tỏ, rỡ ràng ngay bây giờ và ở đây thì gọi là Tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, tất cả những gì chúng ta từ ý thức mà nhận biết được, đều nằm ở trạng thái thô hoặc tinh tế không phải là tâm; mà tâm là nhận biết tất cả những sự nhận biết thô hoặc tế ấy. Tâm là chủ của cái nhận biết, là tự thân cái nhận biết. Cái nhận biết nầy nó mênh mông, tỏa sáng, lặng lẽ, vô ngôn. Nó được đặt cho nhiều tên gọi khác nhau như Chân tâm, Phật tánh, Bản Lai diện mục, Niết Bàn... nhưng chúng ta đừng lạc vào ngôn ngữ, chữ nghĩa mà hãy khéo quay lại nơi chính mình để thể nghiệm trạng thái nhận biết ngay nơi đây, tức khắc ở giây phút nầy. Ấy là tâm ta. Và tâm chính là ta, cho nên khi ta hỏi tại sao ta không biết tâm, hỏi như vậy là sai. Vì khi chúng ta biết nó thì nó trở thành cái bị nhận biết rồi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong Kinh Duy Ma Cật Đức Phật hỏi Văn Thù: “Văn Thù à, nếu người ta nói thầy là Văn Thù thật có đúng không? Văn Thù đáp: “Dạ, bạch Thế Tôn không đúng, tại vì nếu nói có Văn Thù thật thì sẽ có Văn Thù giả, Văn Thù là Văn Thù thôi.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên nói đây là tâm của ta thì sai mất rồi. Tâm là tâm chứ không phải của ta. Một khi cái gì mà của ta thì nó đã trở thành đối tượng, là bị nhận biết, là sở hữu cho nên mới có chữ “của” đi vào. Chúng ta phải loại trừ chữ của, phải loại trừ câu hỏi tại sao tôi không biết tâm? Chúng ta chỉ thầm liễu tri (hiểu, nhận) chúng ta có tâm. Cái nhận biết tỉnh sáng vô ngôn chính là tâm. Thế thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tất cả những gì bị nhận biết là đối tượng của tâm, và tâm là chủ thể nhận biết. Tâm là không gian mênh mông thấy hiện tượng của thọ, tưởng, hành thức đang vận hành. Nó là tự thể trong lặng, rạng ngời đang chiếu sáng nhận diện tất cả các đối tượng kia.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta tu là loại trừ là tịnh hóa các tầng thọ, tưởng, hành, thức. Những tầng nầy còn có mặt và ô nhiễm là chúng ta còn bị nó dẫn dắt đi, loại trừ tịnh hóa được tất cả là làm cho nghiệp thức mình sạch gọi là người đạt được “Bạch tịnh thức,” tức chuyển thức thành Trí.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và tôi lập lại một lần nữa xin quí vị lưu ý;[bubble][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]tầng cạn nổi trên bề mặt là Ý, tầng chìm khó nhận biết, tinh tế hơn là Thức, cuối cùng bao trùm luôn cả ý và thức là khả năng tĩnh tại, sáng tỏ nhận biết luôn có mặt đó là Tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Như vậy Tâm là tự thể nhận biết sáng chói hiện tiền.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][/bubble][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tâm, tâm, tâm, nan khả tầm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khoan thời biến pháp giới,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trách giã bất dung châm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tạm dịch:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tâm, tâm, tâm, khó thể tìm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Rộng thời trùm pháp giới,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hẹp không dung mũi kim.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có nghĩa là tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm tương lai không thể tìm được. Rộng thì bao trùm khắp pháp giới, hẹp thì không để được trên đầu mũi kim.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đây là những câu thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Và là ngôn ngữ của người xưa diễn đạt trạng thái tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]2. Sự sinh khởi của ý thức và con đường dẫn dắt của nó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sự sinh khởi của ý thức bao gồm sinh khởi chủ ý và sinh khởi không chủ ý, và thường được biểu hiện dưới hai dạng: tích cực và tiêu cực.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Mỗi khi chúng ta muốn hướng tâm vào con đường thực tập, muốn làm cho đời sống có phẩm chất, hạnh phúc ngày càng nhiều, đó là cách mình tự sinh khởi ý thức tích cực.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dĩ nhiên, có những lúc tâm thức chúng ta lạc vào trạng thái buồn nản, bất an... Những lúc ấy chúng ta có thể chọn một điều gì đó để làm cho ý thức ta hướng về nẻo tích cực, làm cho đời sống mình hưng phấn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có hai cách để chúng ta tu tập: mượn phương tiện vận động của cơ thể làm cho tâm thức ta hưng phấn. Khi cơ thể vận động tâm dễ yên, tức là khi cơ thể vận động thì tâm thức ta chịu tác động sinh lý làm cho những tâm hành tiêu cực có cơ hội được đào thải và thanh lọc. Nếu tình trạng tiêu cực của tâm hành khởi phát thường xuyên mà ta không trị liệu bằng cách vận động hình hài thì chắc chắn người ấy sẽ bị năng lượng tiêu cực đè nặng tâm thức đưa đến tình trạng trầm cảm. Cho nên sinh khởi chủ ý là chúng ta phát khởi một ý thức dựng mình dậy, để làm cho đời sống vươn lên, hưng phấn. Ta gọi là khởi ý tích cực bằng con đường vận động của cơ thể.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cách thứ hai, ta khởi ý tích cực từ bên trong của cảm thọ và tâm hành. Đọc những trang sách nuôi dưỡng tâm hồn làm cho lòng mình khởi phát ý niệm thương yêu, nhân ái, cảm thông. Học tập để mở rộng tri thức, hiểu biết...[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cao hơn nữa là con đường thiền tập chánh niệm mà chúng ta đang đi vào. Tức là nhận biết những cảm thọ và tâm hành đang sinh khởi, đang có mặt trong ta. Đây là cách tu tập sâu sắc nhất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngược lại, khi ta có những buồn phiền, sầu khổ nổi lên trấn ngự, chúng ta lại khởi lên ý rất tiêu cực như nằm hồi tưởng lại những quá khứ xưa, những kỷ niệm đau buồn đã từng tàn hại thân tâm, cũng là loại khởi ý có chủ động. Những điều nầy do ta gợi lên và có khuynh hướng nuôi lớn ý thức theo chiều hướng tiêu cực do chính mình dựng lên rồi quay ngược lại nhận chìm, giết chết mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có những trường hợp ý thức sinh khởi không chủ ý vì những hạt giống chúng ta cất chứa trong tiềm thức được tích tụ rất sâu nên tự động sinh khởi dẫn dắt chúng ta đi theo nó. Và cũng trong trường hợp nầy, khi mà tâm thức chúng ta rất hiền thiện, cả một đời huân tập thiện nghiệp sâu dày nên mỗi lần sinh khởi thì ý thức sinh khởi những điều rất tốt lành. Ta gọi là dù không chủ ý nhưng mỗi lần sinh khởi là ý thức sinh khởi theo chiều hướng tích cực.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cũng từ sự sinh khởi không chủ ý nầy, khi mà trong tâm thức chúng ta đầy những hạt mầm xấu thì mỗi lần sinh khởi đều luôn khởi theo chiều hướng tiêu cực. Nghĩa là trong đáy lòng chúng ta niềm tiêu cực rất nhiều nên khi ta nhìn, nghe, tiếp xúc bất cứ một đối tượng nào dù có tốt đẹp, hay giỏi, dễ thương đến đâu thì tuy không chủ ý nhưng từ ý thức chúng ta vẫn sinh khởi niệm ghen ghét, đố kỵ... rất là tiêu cực. Thế nên, chúng ta phải rất cẩn thận nhận diện tâm hành mình để thấy kho lưu trữ của ta hạt giống gì có mặt. Sự tiến bộ của người tu có được là khi người ấy có khả năng nhận diện tâm hành mình để chuyển hóa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, thông thường chúng ta nhận biết sự sinh khởi của cảm thọ và ý thức rất chậm. Tu chưa giỏi thì đợi đến khi khổ đau, bất an, sầu não tràn đầy mới bắt đầu giác ngộ, mới vội vàng thực tập. Trong khi đó người tu giỏi thì một niệm thoáng khởi là nhận diện được. Chúng ta giỏi hay dở ở chỗ khéo nhận diện được ý niệm vừa khởi; từng ý niệm một tích cực hay tiêu cực trong tâm thức vừa nẩy mầm là ta liền nhận diện được thì phàm hay Thánh khác nhau cũng chỗ đó mà thôi. Tuy nhiên rất khó cho ta làm được điều nầy, vì đó là con đường quay vào bên trong không hương sắc, không được người suy tôn, sùng mộ, và chắc chắn ta thầm lặng tự làm cho chính mình, không mong cầu ai biết đến. Những gì bên ngoài ta làm thành tựu rất dễ, nhưng quay vào trong là chúng ta phải loại bỏ bản ngã, kiêu căng, hợm hĩnh...và thực tập cần mẫn mà không cần sự nhận biết của mọi người nên chắc chắn đây là con đường rất khó cho chúng ta đi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cá tính của mỗi con người cũng làm cho chúng ta khó nhận biết sự sinh khởi của ý thức. Có những người mà tâm họ luôn hướng ngoại, phù động, sôi nổi thì chuyện ngồi một mình đơn độc, lặng lẽ để nhận diện những tâm hành của mình khó có thể làm được. Cho nên tùy theo cá tính từng người mà sự thực tập quay lại nhìn những khởi niệm của mình đặt ra cho chúng ta nhiều thử thách khó khăn. Tùy năng lực hay niềm đam mê thực tập của chúng ta mạnh hay yếu để làm khởi phát khả năng quay về nhận diện được sự sinh khởi của ý thức. Nếu một đời tu mà không làm được chuyện nầy, cứ để cho ý thức mặc tình đưa dẫn vào nẻo tiêu cực là ta đã thả trôi cuộc đời vào kiếp tử sinh. Và tất nhiên, hậu quả gần của nó là các cảm thọ buồn phiền, giận hờn, bất an... luôn có mặt. Cho nên Đức Phật dạy: “Hãy cẩn thận, đừng tin vào ý của ông, vì ý của ông không thể tin được.” là như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, trong câu cuối đoạn Kinh ngắn nầy Đức Phật nhấn mạnh đến sức hủy hoại của sắc dục. “Hãy cẩn thận với sắc, vì gần với sắc thì sinh tai họa.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi ý thức của chúng ta còn nhiều ái dục, lậu nghiệp rất dày chúng ta chưa khống chế được, chưa làm chủ, loại trừ và thịnh hóa được mà lại tạo điều kiện để tiếp cận cho ý thức ái nhiễm, dục nhiễm phát sinh thì chúng ta đã tự mình giết chết đời mình. Môi trường bên ngoài sẽ tạo cho tâm thức ta phát sinh sự dính mắc. Là những người tu phải rất cẩn trọng trong sự giao tiếp với đời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]3. Thế giới hình thành bằng tâm thức.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ý thức hay tâm thức cá nhân chúng ta đầu tiên hình thành tính cách của con người, hình thành môi trường và hoàn cảnh con người đó sống. Tính cách con người có thể sửa đổi vì do từ thói quen mà làm nên tính cách, và cũng từ tính cách làm nên phẩm chất con người. Do vậy, chúng ta có thể thực tập mọi điều để trở thành thói quen, chúng ta có thể sửa được tính cách và xây dựng được phẩm chất con người từ ý thức chủ động của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ trong lãnh vực nghệ thuật, chúng ta có năng khiếu về âm nhạc nhưng nếu không có môi trường để học hỏi, luyện tập để đào tạo bản thân mình thì không thể trở thành nhạc sĩ hay ca sĩ giỏi được. Sự thực tập nầy đòi hỏi phải trải qua thời gian dài và từ từ trở thành tính cách của ta. Với thời gian trình độ thưởng lãm âm nhạc của ta ngày càng cao hơn. Rồi sẽ đến lúc trong một buổi hòa tấu có cả trăm nhạc công, nhưng tiếng đàn nào lạc điệu là ta biết ngay. Đó là do trình độ của ta đã được huân tập thành bản chất nghệ thuật cho chính mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dĩ nhiên, quá khứ đã có hạt giống âm nhạc hay nghệ sĩ, rồi qua bề dày của tháng ngày nuôi dưỡng, tập luyện của hiện tại nên ta trở thành một nghệ sĩ và chất nghệ sĩ trong ta đã trở thành phẩm chất con người. Lúc bấy giờ ta trở thành một người khác biệt hơn với những người chung quanh và là một con người đầy phẩm chất trong cuộc sống.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ cụ thể nhất là tất cả những điều tôi chia xẻ hôm nay đây đều được làm nên bằng sự tập tành của ý thức tôi trong quá khứ. Và ý thức của tôi đã chủ động để có thể làm nên tính cách của tôi như hiện tại. Có những người được nuôi dưỡng và trưởng thành trong một tu viện, già lam; sau đó do một nhân duyên thúc đẩy họ rời đời sống tu tập về ẩn cư giữa chốn đời thường. Thế nhưng nhìn vào cuộc sống người ấy tự nhiên người chung quanh cũng nhận ra đây là chỗ ở của một người tu. Tính cách của họ tự nhiên thể hiện ra đời sống bên ngoài. Đó là ở mức độ cạn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bước vào lãnh vực tâm thức sâu hơn, các cảnh giới hữu hình, vô hình cũng được hình thành bằng tâm thức. Thiên nhơn, A Tu La, Địa ngục... đều hình thành từ tâm thức. Trong cộng đồng nhân loại, chúng ta mang hình hài như nhau nhưng đừng nghĩ rằng chúng ta giống nhau trong tâm thức. Có những con người hiện diện trong cuộc đời sinh hoạt như chúng ta nhưng tâm thức họ còn rất thấp trong cảnh giới của loài động vật. Tâm thức họ chất đầy thù hận và niềm sân giận rất lớn. Tuy hình thức là người nhưng tâm họ không phải là người. Dĩ nhiên khi tâm thức như vậy thì sự run rủi của nghiệp thức sẽ đẩy người ấy vào một cộng đồng giống như họ để chung sống. Năng lượng từ bên trong phát tiết có khuynh hướng chiêu cảm nhau, hút nhau hội tụ thành một cộng đồng sống với nhau, để cùng chung chịu một nghiệp cảm như nhau. Cho nên cảnh giới trên cuộc đời tuy cùng là con người nhưng tâm thức hoàn toàn khác biệt, và cảm nhận niềm vui nỗi buồn, hạnh phúc hay bất hạnh cũng khác biệt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta chưa cần tu tập nhiều, chỉ cần làm cho tâm thức mình mỗi khi khởi ý đều khởi một thiện niệm thì cuộc sống đã an lạc rồi. Ông bà chúng ta ngày xưa cách nay mấy thế hệ; lúc sống không hề biết niệm một câu Phật nhưng sống rất thuần thiện, thảnh thơi. Khi sửa soạn chết các cụ biết trước ngày mất và ra đi rất nhẹ nhàng như đi vào giấc ngủ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]4. “Tùy xứ tác chủ...”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, căn bản của sự thực tập là khi chúng ta muốn làm một việc gì hãy huân tập từng ngày khả năng nhận diện ý niệm sinh khởi của chúng ta. Nếu là những ý niệm thiện đem lại hạnh phúc cho mình và cho người thì ta cho nó sinh khởi. Và những ý niệm nào sinh khởi theo hướng tiêu cực thì chúng ta phải nhìn rõ và khéo loại trừ. Chúng ta phải thực tập điều căn bản như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu mỗi ngày mà chúng ta tiếp xúc mười người mà để cho ý thức của mình thù ghét cả mười thì chính chúng ta chuốc lấy nỗi niềm bất hạnh. Không gì hạnh phúc bằng ra ngoài gặp ai cũng đáng cho chúng ta trân quí, kính trọng và yêu thương. Tất cả đều do cách khởi tâm và hành xử của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tóm lại, ở mức độ cạn, nỗi niềm hạnh phúc hay bất hạnh, khổ đau hay lạc thú tất cả đều do cách hành xử của chúng ta. Cho nên chúng ta phải gọi mời ý thức thiện lành của ta sinh khởi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở cấp độ sâu xa chúng ta hãy làm một việc như Tổ Lâm Tế đã dạy: “Tùy xứ tác chủ, lập xứ đắc chân.” nghĩa là “Đến chỗ nào hay ở trong mọi trường hợp nào, ngay nơi đây là phải làm chủ, phải sống được trong vùng đất chân thật, với con người thật của ta.” Chúng ta hãy nắm lấy câu nầy mà thực tập suốt đời tu, và chúng ta phải thực tập ngay tức thì. Không chờ đợi bởi vì chờ đợi cơ hội, trông mong ngày mai thì cơ hội, ngày mai không đến bao giờ. Chúng ta thực hiện ngay bây giờ thì sẽ làm được mọi lúc, nếu không thì không bao giờ có thì giờ riêng cho chúng ta thực tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta phải hứa với lòng dù bất cứ hoàn cảnh nào, mọi nơi, mọi lúc tức là mỗi phút giây của đời sống lúc nào chúng ta cũng phải quay trở lại để tự làm chủ mình; lúc nào cũng sống trong sự nhận biết. Hãy nhận biết đơn thuần những gì ta tiếp xúc bằng mắt, tai, mũi, lưỡi... Và những thì thầm, độc thoại, đối thoại... đang khởi hiện trong tầng sâu tâm thức chúng ta. Lúc nào cũng an trú trong vùng trời chân thật của tự tâm “sáng tỏ vô ngôn” không lạc vào vùng ý thức đến đi, còn mất đổi thay. Chúng ta thể nhập vào trạng thái tĩnh tại, sáng tỏ nhận biết hiện tiền nầy viên mãn thì chứng được quả A La Hán. Hay nói theo ngôn ngữ nhà Thiền là lồng lộng đi ra khỏi ba cõi, đoạn đứt tử sinh.
[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://matthuongnhindoi.net/phapam/Kinh_42_Chuong/Folder_1/Than_Trong_Voi_Y_Thuc.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="80" width="425"></center>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên