Tứ thập nhị chương kinh !

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Lược Khảo Văn Bản.[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Phần Mở Ðầu: Ly Dục Tịch Tĩnh[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương I: Thức Tâm Ðạt Bổn[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương II: Ngộ Vô Vi Pháp.[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương III: Hiện Hạnh Sa Môn[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương IV: Con Ðường Thiện Ác[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương V: Làm Mới Thân Tâm[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương VI - Chương VII - Chương VIII: Tu Hạnh Nhẫn Nhục[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương IX: Bác Học Ða Văn[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương X - Chương XI: Tùy Hỷ Và Cúng Dường[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XII: Vượt Qua Khó Khăn[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XIII: Tịnh Tâm Thủ Chí[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XIV – Chương XV: Hành Ðạo Thủ Chân[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XVI: Xả Ly Ái Dục[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XVII: Thắp Sáng Trí Tuệ[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XVIII: Siêu Việt Nhị Biên[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XIX - Chương XX: Tam Pháp Aán[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XXI - Chương XXII: Tham Ðắm Các Dục[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XXIII - Chương XXIV - Chương XXV: Họa Hại Của Ái Dục[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XXVI: Quán Chiếu Sự Thọ Dụng[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XXVII: Trôi Vào Biển Giải Thoát[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XXVIII: Thận Trọng Với Yù Thức[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XXIX: Phong Cách Sa Môn[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XXX: Ðoạn Các Duyên Sinh Khởi Ái Dục[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XXXI - Chương XXXII: Ðoạn Gốc Rễ Sinh Khởi Ái Dục[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XXXIII: Mặc Giáp Tinh Tấn[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XXXIV: Con Ðường Trung Ðạo[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XXXV: Thanh Lọc Thân Tâm[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XXXVI: Hạnh Phúc Con Ðường Tâm Linh[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XXXVII: Thân Cận Bên Phật[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XXXVIII: Người Hiểu Ðạo[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XXXIX: Nhất Vị Pháp[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XL: Thân Tâm Nhất Như[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XLI: Nỗi Sợ Tử Sinh[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Chương XLII: Nhìn Bằng Ðôi Mắt Phật[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Tổng Kết[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Phụ Lục Hán Văn[/SIZE][/FONT] [FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]Kinh Bốn Mươi Hai Chương, TT. Thích Phước Tịnh Giảng (Audio MP3)[/SIZE][/FONT]

<center> [FONT=Arial,Helvetica]LỜI DẪN[/FONT]
</center> [FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.[/SIZE]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Đầu tiên đây là những buổi học dành cho nội chúng Tu viện Lộc Uyển, sau đó lan dần đến những cư sĩ hữu duyên. Từ lòng hiếu học, ham tu của các vị ấy mà những trang Kinh được giảng giải có mặt như hiện tại.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Vốn từ văn ngôn chuyển thành văn viết hẳn không tránh được sự trùng lập, luộm thuộm và vụng về. Mặc dù chúng tôi cố gắng góp phần nhuận văn cẩn trọng của mình mong cho bản văn mạch lạc, sáng nghĩa và dễ đọc nhưng mỗi lần đọc lại vẫn thấy còn rất nhiều sai sót.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Kính mong các bậc Thầy, các bậc thức giả, người đọc, học lượng thứ và chỉ bảo cho.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Chúng con thành kính đảnh lễ Thập phương Tam Bảo. Xin sám hối về tội sai lầm khi giảng giải Phật ngôn.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Chúng con cúi đầu đảnh lễ tri ân các bậc Thầy đã tác thành giới thân huệ mạng và mở mắt chánh pháp cho chúng con.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Xin tri ân cha mẹ đã cho con mảnh hình hài hữu dụng.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Xin tri ân pháp hữu gần xa, những người còn sống và những người đã mất.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Cuối cùng xin nguyện cho mọi người khi tiếp xúc Kinh văn mắt Đạo sáng bừng, thể nghiệm được tâm Phật bất sinh, thành tựu Giải thoát.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Tu viện Lộc Uyển[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Nam Cali, Hoa Kỳ cuối Đông 2007[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Phước Tịnh[/FONT]

<center>
[FONT=Arial,Helvetica]LƯỢC KHẢO VĂN BẢN[/FONT]
</center> [FONT=Arial,Helvetica]Đại chánh Tạng ghi một dòng sau chữ “Tứ Thập Nhị Chương Kinh: Hậu Hán Tây vức Sa môn Ca-Diếp-Ma-Đằng cọng Pháp Lan dịch”. Nếu đọc cho đủ phần phụ chú thì phải đọc: “Hậu Hán Tây vức Sa môn Ca-Diếp-Ma-Đằng cọng Trúc-Pháp-Lan phụng chiếu dịch.” Tức là: “Vào thời Hậu Hán Sa môn ở Tây vức tên Ca-Diếp-Ma-Đằng cùng Sa môn Trúc-Pháp-Lan vâng chiếu mệnh nhà vua dịch Kinh Bốn Mươi Hai Chương.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Do lời ghi ấy Kinh được đánh giá là văn bản Phạn Hán đầu tiên trên đất nước Trung Hoa. Dĩ nhiên, văn bản dịch trong Đại chánh tạng nằm ở quyển mười bảy Kinh tập bộ, ký hiệu No. 784 không giống các văn bản phổ biến sau nầy và bản hiện tại chúng tôi đang xử dụng giảng giải.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Văn bản dịch trong Đại chánh tạng phần vào Kinh ghi một đoạn dẫn khởi rằng: “Vua Hán Minh Đế mộng thấy vị thần, sắc vàng nơi thân chói sáng, hào quang rực rỡ bay vào cung điện”... Sau đó vua sai sứ thỉnh Kinh, mở đầu cho công trình xây dựng chùa tháp, phiên dịch Kinh điển và phổ biến Phật pháp. Nội dung Kinh cũng có nhiều khác biệt với văn bản chúng ta đang đọc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Các nhà học giả Việt và Hoa đã làm công tác đối chiếu, thẩm định và đưa ra nhiều luận cứ bất nhất về thời điểm dịch thuật. Tuy nhiên các ông cùng công nhận đây không phải là Kinh văn đầu tiên được dịch Phạn Hán đầu tiên trên đất nước Trung Hoa vào thời Hán Hiếu Minh Đế niên hiệu Vĩnh Bình thứ mười (67 tây lịch), mà có thể đã được biên soạn vào thời Đông tấn (317-416 TL). Ngay như các dị bản Tống tạng, Nguyên tạng, Cao Ly tạng cũng đã có những dị biệt biểu đạt quá trình hoàn thiện mỗi lần khắc bản in. Huống hồ chi khi đối chiếu với văn bản Thiền môn lưu hành dưới tên “Phật Tổ Tam Kinh” thì luận cứ trên có thể tin được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tuy nhiên, mãi đến hiện tại chùa Bạch Mã ở phía tây thành Lạc Dương - Hà Nam - do Hán Minh Đế xây dựng cho hai vị Thánh tăng Thiên Trúc dịch Kinh vẫn còn uy nghi sừng sững dù qua bao triều đại binh lửa hủy diệt. Cổ mộ của Ngài Ca-Diếp-Ma-Đằng và Trúc-Pháp-Lan chở Kinh trên lưng ngựa trắng đến hán triều truyền đạo vẫn được bảo tồn hai u nhã hai bên phía trước chùa Bạch Mã. Sử liệu của các Ngài càng đậm thêm theo với thời gian chồng chất. Và Kinh Tứ Thập Nhị Chương cũng theo bề dày tháng năm hoàn thiện hơn. Văn tư đã được tu sức mỹ lệ, hình thức cú pháp thi ca, nhạc điệu. Nội hàm sâu sắc tư tưởng Đại thừa. Khác biệt rất nhiều so với văn bản nguyên thỉ. Sưu khảo ra thì biết rằng: Quá khứ các bậc danh tăng Trung Quốc thời Minh, Thanh như: Ngẩu Ích, Liễu Đồng, Đạo Thái, Tục Pháp... chú sớ giảng giải cẩn trọng. Cận đại như Ngài Thái Hư, Tuyên Hóa cũng dùng văn bản nầy dạy chúng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trên quê hương Việt Nam, Kinh văn theo phong trào chấn hưng Phật giáo giữa thập kỷ năm mươi - bảy mươi đã trở thành sách giáo khoa cho các trương Phật học. Do vậy đủ thấy sự quan trọng nền tảng và cần thiết như thế nào đối với người học Phật như chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tóm lại, lịch sử phiên dịch Kinh văn và quá trình hoàn thiện văn bản để chúng ta học như hiện tại là cả một công trình bảo quản, tu chỉnh của người xưa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Mong rằng dòng chảy tuệ giác của Đức Thế Tôn mãi được tôn kính, giữ gìn và phổ biến như văn bản Kinh Tứ Thập Nhị Chương đã chảy qua dòng lịch sử hai nghìn năm mà vẫn mênh mông tỏa sáng giữa nhân gian.[/FONT]




<center> [FONT=Arial,Helvetica]PHẦN MỞ ĐẦU[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]LY DỤC TỊCH TĨNH[/FONT]

</center> [FONT=Arial,Helvetica]
Thưa đại chúng,
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hôm nay chúng ta thực sự bước những bước đầu tiên vào Kinh Bốn Mươi Hai Chương, phần mở đầu với chủ đề là: “Ly Dục Tịch Tĩnh.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ly dục tịch tĩnh thị tối vi thắng.” được xem như tuyên ngôn đầu rất quan trọng của Đức Thế Tôn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
A. CHÁNH VĂN.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc Dã Uyển trung, chuyển Tứ Đế pháp luân, độ Kiều Trần Như đẳng ngũ nhân, nhi chứng đạo quả. Phục hữu tì kheo sở thuyết chư nghi, cầu Phật tấn chỉ. Thế Tôn giáo sắc, nhất nhất khai ngộ, hợp chưởng kính nặc, nhi thuận tôn sắc.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
Sau khi thành đạo Đức Thế Tôn khởi tư duy “Ly Dục Tịch Tĩnh là pháp môn tối thắng.” Ngài trụ trong Đại thiền định và hàng phục ma quân. Sau đó đến Lộc Dã Uyển chuyển pháp luân Tứ Đế, độ năm anh em Kiều Trần Như chứng đạo quả. Liền khi ấy có một vị Tỳ Kheo nói những điều nghi ngờ của mình, cầu Phật chỉ bảo và Thế Tôn giảng giải làm cho mọi người được khai ngộ. Các vị đều chấp tay vâng lời Phật dạy.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
B. ĐẠI Ý.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Đại ý đoạn nầy giới thiệu cho chúng ta biết Đức Thế tôn sau khi thành đạo, thuyết pháp và dựng tăng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
C. NỘI DUNG.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta sẽ lần lượt đi vào nội dung của đoạn Kinh trên tuy ngắn nhưng có thể giải thích bằng năm phần:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Khái quát tính lịch sử.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Tuyên ngôn đầu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]3. Phẩm chất thực của người tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]4. Thuyết pháp và dựng tăng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]5. Quả vị tu chứng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
1. Khái quát tính lịch sử.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Đây là một bản văn được tuyển dịch từ văn học A Hàm. Người xưa rất thông minh khi dịch bản văn nầy đã không nói: “Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Xá Vệ Quốc”... tuy nhiên vào đầu bản văn các vị đã dùng ngay chủ thể thuyết pháp và sơ lược vài dòng lịch sử cho chúng ta biết như câu: “Sau khi Thế Tôn thành đạo thì Ngài khởi tuệ quán như thế nầy: “Tác thị tư duy.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thông thường “Tác thị tư duy” được dịch là khởi suy nghĩ, nhưng đối với các bậc giác ngộ thì không phải khởi suy nghĩ như chúng ta. Từ tư duy hiện tại chúng ta rất hay hiểu lầm. Tư duy có nghĩa là độc thoại, nói lầm thầm bằng tư tưởng của mình. Nhưng các bậc chứng ngộ không hề khởi tư duy mà dùng tuệ giác quán chiếu trực tiếp thâm sâu hơn, sáng hơn và mênh mông hơn. Không phải như chúng ta khởi tư duy là suy nghĩ từng câu, từng lời và vận dụng ý thức để làm việc.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
2. Tuyên ngôn đầu.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Ly dục tịch tĩnh thị tối vi thắng.” Hai chữ Tịch và Tĩnh nầy hàm nghĩa Niết Bàn, tức “Ly dục và thành đạt Niết Bàn là pháp tối thượng.” Ta có thể xem đây là tuyên ngôn đầu rất quan trọng đối với người tu chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Ly dục:[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, từ “dục” nầy dễ gây dị ứng với người tu. Thông thường khi nói đến điều nầy, chúng ta hay có quan niệm về quan hệ tình dục giữa nam và nữ. Tất nhiên quan hệ tình dục là một loại dục rất thô, rất cạn, nó không có nghĩa gì so với tầng thâm sâu mà Phật muốn nói trong từ “ly dục” cả. Như mình khước từ đời sống gia đình thế nhân bước vào con đường tu, sống đời sống độc thân đã là ly dục rồi, nhưng chưa đủ, nó vẫn còn ở tầng mức cạn mà thôi. Tại sao? Bản chất của dục tiềm phục rất sâu trong tự thân chúng ta. Ai cũng biết một điều là thân người sinh ra từ dục, và dục là nền tảng căn bản để làm thành thọ mạng, làm thành sự sống của mỗi con người. Không có dục tức là không có ý muốn sống. Em bé kia sẽ không thể đòi ăn khi em đói, em không có khả năng đề kháng với những lạnh, nóng bất thường của thời tiết, của hoàn cảnh để em tồn tại. Bản chất của dục làm nên đời sống là như vậy. Mức độ cạn, hình hài nầy, thọ mạng nầy được làm bằng dục. Ngay từ hạt mầm đầu tiên ta có được hình hài nầy đã là dục rồi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Theo cách lý giải của những nhà Phật học, khi rời hình hài tứ đại, thần thức của ta khi còn lửng lơ ở thân trung ấm, ở cõi mênh mông hư không và bấy giờ lúc mà nghiệp duyên sẽ thọ sanh vào một gia đình nào, tức khắc thần thức của thân trung ấm nhìn thấy bố mẹ ở trên mặt hành tinh nầy đang giao hợp. Nếu thần thức kia sẽ thọ sanh làm nam, nó chỉ nhìn thấy hình hài của người nữ; nếu thần thức kia thọ sanh làm nữ, nó sẽ chỉ nhìn thấy duy nhất người nam. Khi nhìn thấy hình ảnh đó, ý niệm dục đầu tiên khởi lên trong thần thức nọ, và khi niệm dục đã khởi lên tức khắc thần thức rơi ngay vào thai mẹ, kết tinh thành hình hài đầu tiên. Cho nên dục là bản chất của đời sống, không phải ở hình hài nầy không mà ở tận sâu trong tâm thức chúng ta. Do vậy, không một em bé trai nào mà không thương mẹ, không một em bé gái nào mà không thương cha. Tính chất tự nhiên là như vậy, sức hút tự nhiên là như vậy. Cũng như không có một nữ đệ tử nào mà không thương thầy nam, không có một sư cô nào làm thầy mà không thương đệ tử nam. Đó là điều tự nhiên trong thế giới, trong trần gian nầy. Và có như thế mới thành hình được dòng chảy tử sinh nối dài qua nhiều kiếp.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tóm lại, bản thân con người mang hạt mầm dục mà có mặt trong cuộc đời nên chất dục nầy rất ư là thâm sâu. Nó không phải chỉ cạn trên bình diện quan hệ tình dục giữa nam và nữ. Mức độ thâm sâu của nó chìm lặng ở bên trong ta khó nhận biết. Ví dụ như đối với người già, sinh lực của cơ thể không còn cho nên ham muốn về tình dục không có mặt, nhưng không phải không có ham muốn tình dục mà tâm dục họ lặng yên, bị loại trừ. Chưa thành đạt quả vị, chưa chứng thánh quả A La Hán, chưa đoạn sạch lậu hoặc thì mầm dục vẫn còn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Với những người già có quá trình tu tập chuyển biến, cái dục thô phù có thể hết nhưng dục tinh tế nó lặn sâu vô cùng, nó trở thành ái kiến đại bi: tức lòng thương tuy có rộng, nhưng trong bản chất của lòng thương đó có cái mầm của ái kiến; chưa mênh mông, bình đẳng và không điều kiện nên gọi là ái kiến đại bi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Với người già không có tu, dục của thân họ tuy không còn nhưng khẩu họ dục. Họ ưa nói về chuyện dục, hay ưa nhìn về dục, hay suy tư về vấn đề dục và chúng ta hay bắt gặp nơi họ thân dục không có nhưng ý dục vẫn còn tồn tại. Nhìn vào bản thân họ ta thấy đôi mắt ganh tị của họ thật là sâu nặng. Khi họ nhìn thấy ai mà rạng rỡ, ai mà tươi vui, ai mà dễ thương, hay có quan hệ giao tế bình thường trong cuộc sống rất hạnh phúc, thì tự thân họ nhìn bằng đôi mắt cay cú, ganh ghét. Đó là dạng biểu lộ tâm dục vẫn còn tiềm phục.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong thế giới người tu chúng ta và trong toàn bộ những sinh hoạt của các truyền thống tôn giáo đều mang màu sắc nầy. Những vị nữ tu lớn tuổi, ở trong những trung tâm tu học đóng kín không tiếp cận với ai, các vị ấy càng về già tâm thức họ càng khó chịu, cay nghiệt vô cùng khi thấy những người trẻ mà tươi vui, hồn hậu và sống động. Bản thân của đặc tính dục bị che lấp, bị trấn ngự cho nên biến dạng thành một loại tâm thức khác, nó cũng là một dạng ái dục ở tầng rất thâm sâu, cho nên chúng ta cần lưu ý.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Đoạn dục tịch tĩnh.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Đoạn dục tịch tĩnh” là đoạn sạch lậu hoặc, phiền não của tâm thức rất là vi tế. Bao giờ mà thân dục không có, miệng cũng thanh tịnh, ý nghĩ luôn trong sạch, dục không còn biểu hiện ở mặt vi tế là “ái kiến đại bi” tức thương mà thương ái kiến, không biểu lộ qua niệm giận, niệm yêu, niệm ghét... thì người đó đoạn sạch được lậu hoặc ái dục, chứng quả A La Hán. Con đường thăm thẳm xa là như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa đại chúng, khi nghe từ ly dục, đoạn dục, khử ái... chúng ta rất dễ phát sinh ra hiểu lầm và muốn đào thải, loại trừ, hủy diệt. Nếu xử dụng tâm thức như thế để điều chỉnh, trấn ngự năng lượng dục của tự thân, chúng ta đã đi vào con đường rất sai lầm. Tại sao? Khi chúng ta xem dục là một năng lực cần đối đầu, nó sẽ trở thành một bức xúc quay phá lại mình rất khó chữa trị. Chỉ có một con đường duy nhất để chúng ta có thể chuyển biến năng lượng dục; đó là con đường nhận biết mà không phải hủy diệt loại trừ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Đơn giản ở mức độ cạn của hình hài vật lý, nếu chúng ta ra lệnh cho mình ngày mai nhịn đói trọn ngày, thay vì vào giờ ăn mới đói, nhưng do đã có thông tin ngày mai không được ăn, tức thì chưa đến ngày mai ta đã thấy đói rồi. Cũng thế, ta có cảm tình hay yêu mến một loài hoa như hoa trà mi, nhưng vì lý do tu viện không cho phép chi tiêu món tiền lớn cho chậu trà mi quá đắt, thế là ta tự khống chế tâm thức mình không được nhìn và đi tới chậu hoa trà mi nữa. Nhưng rủi ro làm sao, đi quanh quanh mình vẫn nhìn thấy nó, qua lại, lên xuống mình cũng không thoát khỏi chậu trà mi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tâm thức chúng ta có một con đường như nhau, khi cố tình muốn loại trừ, trấn ngự một điều gì lập tức năng lượng lại đổ dồn về phía đó, tạo thành sức hút cho ta khó chống cự.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tôi xin chia xẻ cùng đại chúng một câu chuyện vui: Có một thầy kia đi qua đò, khách qua đò ai cũng trả mỗi người hai đồng, cô lái đò lại đòi thầy trả tới bốn đồng. Ông thầy mới hỏi tại sao kỳ vậy? Người ta cũng đi như tôi cớ gì cô đòi tôi đến bốn đồng? Cô lái đò trả lời, người ta đi đò thông thường thôi, còn thầy vừa đi đò vừa ngắm tôi suốt từ bờ bên kia qua tới bên nầy cho nên tôi lấy gấp hai lần. Lần trở về ông thầy biết thân, chỉ cúi mặt xuống không nhìn cô lái đò nữa, sợ người ta lấy tiền gấp đôi. Qua tới bên kia bờ, lần nầy cô lái đò lấy tiền gấp ba lần, ông thầy rất là kinh ngạc và nói tại sao tôi không nhìn cô một lần nào mà cô lại lấy tiền gấp ba lần. Cô lái đò trả lời: “Lần thầy đi nhìn tôi bằng mắt, lần nầy về thầy không nhìn tôi bằng mắt nhưng thầy nhìn tôi bằng tâm của thầy, hình ảnh của tôi đã in vào trong tâm của thầy rồi nên tôi lấy gấp ba là ít đó.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa đại chúng, điều gì trong ta mà ta đặc biệt lưu tâm muốn trấn ngự, muốn loại trừ tức khắc sẽ tạo thành một xung lực rất mạnh để đánh phá ta. Đó là điều chúng ta cần lưu ý về vấn đề ly dục. Vậy con đường ly dục là con đường thế nào? Đó là con đường nhận biết. Từ sự nhận biết ấy năng lượng dục sẽ được chuyển biến theo chiều hướng tích cực, và có ba con đường chuyển biến về năng lượng dục.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica] Con đường cạn nhất là con đường phát triển dục một cách bình thường của đời sống vật lý. Trong thực vật dục là khả năng để duy trì hạt mầm. Trong loài động vật có chu kỳ động dục, và chu kỳ phát dục nầy để nó duy trì chủng loại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong con người chúng ta cũng có đặc tính của dục về mặt vật lý để hình thành thọ mạng đời sống nối tiếp và kéo dài. Con đường thô và thấp nhất là con đường tình dục của quan hệ nam nữ. Con đường nầy nếu để phát triển một cách tự nhiên thì nó sẽ sản sinh ra một con người mới, một thân xác mới. Nhưng nếu cùng một dòng chảy của năng lượng dục nầy mà ta thông minh, ta nhận biết nó bằng phương pháp chuyển hóa thì thay vì dòng chảy xuôi, nó sẽ trở thành dòng chảy ngược và sẽ làm thành một sinh mạng mới trong tự thân ta. Điều nầy có nghĩa, nếu năng lượng dục nầy xuôi dòng theo tình dục tự nhiên của nhân gian; đó là con đường của tử sinh. Là con đường hình thành một bản sao của chính ta, rồi con ta, cháu ta và nhiều thế hệ tiếp nối... mãi đi theo con đường của tử sinh kéo một tràng dài xuôi dòng như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong truyền thống Ki Tô giáo có câu: “Sinh vào Thiên Quốc của Chúa.” Sinh vào Thiên Quốc của Chúa không có nghĩa là đợi chết, rũ bỏ hình hài nầy ta mới sinh vào Thiên Quốc, mà ngay trong đời sống nầy nếu ta biết chuyển hóa năng lượng dục thì tự thân mình đã phát sinh một đời sống mới. Điều ấy có nghĩa là ngay nơi hình hài cha mẹ sinh ra đây chính chúng ta phải tự mình chuyển năng lượng dục nầy và phải tự mình tạo ra một sinh mạng mới. Và lần sinh trưởng thứ hai nầy, thực sự là sinh mạng mới của tự thân.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Mức độ thứ hai là năng lượng dục nầy cuồn cuộn chảy trong tự thân của mỗi con người, nó làm nền cho đời sống tinh thần, và năng lượng nầy nếu khéo xử dụng sẽ trở thành nỗi đam mê sáng tạo.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Đối với người nghệ sĩ sáng tác, không có niềm đam mê thì họ sẽ không học tập thành tài, không thể đầu tư toàn bộ năng lượng của mình vào những tác phẩm nghệ thuật. Trong mọi loại hình nghệ thuật đều đòi hỏi năng lượng nầy có mặt. Nó là phần tinh túy thúc đẩy sự đam mê để cho con người có thể tạo ra những tác phẩm vượt thời gian, không gian như thi ca, hội họa, điêu khắc...
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ở mức độ thấp, năng lượng nầy chỉ chảy vào phần vận động cơ bắp và các sinh hoạt tình dục của con người. Dĩ nhiên có một điều nên lưu ý ở đây, tình yêu là một bông hoa, là một quà tặng mà tạo hóa dành cho con người vốn dĩ được phối hợp không phải bằng tình dục mà bằng sự tiếp xúc qua các tầng thâm sâu của tình cảm và tinh thần của con người.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Con người có thể làm cho đời sống lứa đôi của họ mỗi ngày mỗi hạnh phúc hơn hoặc chìm đắm, chán nản bất hạnh hơn bằng cách nâng cao đời sống từ thô của tiếp xúc vật lý đến tinh tế của tình cảm, tinh thần đem lại một tình yêu có phẩm chất thực sự. Hoặc ngược lại do chính họ có thông minh hay không mà thôi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
3. Phẩm chất thực của người tu.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Trong pháp chế nhà Phật, Đức Thế Tôn qui định khi thâu nhận người xuất gia là người phải hoàn thiện lục căn và giới tính. Nếu là nam thì phải hoàn thiện phẩm chất của người con trai. Nếu là người nữ thì phải đầy đủ phẩm chất của người nữ mà không hề có sự pha trộn giữa 50% nam hoặc 50% nữ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Dùng lăng kính rất bình thường, ta sẽ nghĩ người như thế tức người không phải nam, không phải nữ thì họ không có dục; không ái nam, không ái nữ chắc là sẽ rất dễ được nhận vào làm người tu, và rất dễ tu.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nhưng mà không. Pháp qui Phật dạy: Một là trọn vẹn phẩm chất của một người nam, hai là trọn vẹn phẩm chất của một người nữ; tức là cơ chế vật lý, sinh lý của đời sống cần phải bình thường. Đó là căn bản để tiến đạo.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Cơ chế vật lý bình thường là có một hình hài trọn vẹn, nếu ở trong nhân gian thì chúng ta có thể yêu thương, có thể làm cha hay làm mẹ thì chúng ta mới có khả năng làm người tu được. Tức là chúng ta phải có năng lượng dục bình thường, để con người có thể vươn vai tự thân đứng dậy và trưởng thành trong đời sống tâm linh. Nếu năng lượng dục không có, ta chỉ là người lững đững, lờ đờ, cận kề với cái chết. Và nếu không có niềm đam mê tu tập thì không thể nào tu tập được. Cho nên chúng ta không nên nhìn dục dưới lăng kính của một nhà đạo đức thiên kiến
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Những nghệ sĩ là những con người mà sinh lực và năng lượng dục rất mạnh, đời sống tình cảm rất ư bén nhạy và cảm tính của họ mạnh vô cùng, nên không có một người nghệ sĩ nào mà tình cảm không thay đổi nhanh chóng vì năng lượng dục của họ phát tiết trong lãnh vực nghệ thuật vẫn còn thừa thãi. Cho nên họ luôn có những niềm đam mê lớn. Với nguồn năng lượng dục cuồn cuộn trong tự thân nhưng vì không biết chuyển hóa, nhận diện nên họ đã để cho nguồn sống chảy vào con đường của thế trần tạo thành dòng chảy tử sinh chìm nổi. Hoặc là họ trút tất cả vào nỗi đam mê tinh thần ở tầm mức có thể cao hơn, hay hơn nhưng vẫn không thể so được với con đường tâm linh vượt thẳng trời cao.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường tâm linh là con đường tự làm cho dòng chảy của dục biến chuyển, quay ngược trở lại làm ra một sinh mạng mới; đó là sinh mạng của tuệ giác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ở từng mức thâm sâu nầy, nếu biết chuyển hóa năng lượng dục trong đời sống tu tập, thì quanh ta là một môi trường lành mạnh, là bầu khí quyển tốt lành cho ta hít thở, trưởng thành. Đó là mặt cạn nhất mà môi trường tu trao cho ta.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong sinh hoạt tu viện như những pháp thực tập của chúng ta thì phim ảnh, tiểu thuyết và tất cả những thức ăn có tính cách nuôi dưỡng bạo hành, khơi động tình dục đều bị cấm chỉ. Nó có tính cách ngăn cản lượng thông tin bên ngoài đi vào tác hại, làm ô uế tâm thức ta. Tuy nhiên, dù đã ngăn tất cả dòng chảy bên ngoài không được xâm phạm bản thân chúng ta, nhưng nếu tự bên trong năng lượng dục vẫn rạt rào, sôi sục và có khuynh hướng như dòng nước muốn vỡ bờ thì chúng ta vẫn chưa có thể làm cho nguồn năng lượng ấy chuyển dòng để làm thành một sinh mạng mới của tự thân.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Điều chúng ta phải làm là đầu tư năng lượng đam mê của chính tự thân tâm ta; mặt cạn nhất là những thực tập bên ngoài như học hỏi, tư duy, chiêm nghiệm, thiền quán... mới mong tác thành pháp thân huệ mạng. Thử nhìn vào đời sống nhân gian để thấy. Nếu con người nào mà chỉ có niềm đam mê lớn về lợi danh, chỉ đầu tư năng lượng cho học thuật, thì con người kia sẽ rất là nhẹ gánh với vấn đề tình cảm. Thế nên chỉ cần phát triển duy nhất niềm đam mê tu tập bùng cháy trong tâm thức, thì năng lượng dục không còn hướng phát triển thuận chiều, chảy xuôi vào ngõ lục đạo luân hồi nữa.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Điều nầy rất rõ khi chúng ta nhìn sâu hơn vào trong một xã hội mà xã hội ấy có nền văn minh cao, trí thức được nâng lên thì tình trạng phát triển dân số rất ít. Ngược lại trong xã hội nghèo đói chậm tiến, trình độ trí thức thấp kém thì xã hội ấy dân số phát triển cực kỳ nhanh chóng.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa đại chúng, khi chúng ta xuất gia sống trong đạo, tu hành ngày nọ qua ngày kia; ngày nào cũng tụng kinh, ngồi thiền, đi kinh hành, nghe pháp... lập đi, lập lại như một vòng tròn, nhưng chúng ta đâu biết rằng đời sống đơn điệu, bình dị đôi khi trở thành tẻ nhạt đó là điều ước mơ không những cho người ở phố thị lao xao, mà đôi lúc cũng có thể là niềm mơ ước của Chư Thiên nữa. Họ mơ ước biết bao được đời sống như chúng ta. Một đời sống giản dị, thảnh thơi, an bình và có trọn vẹn thì giờ để tu tập. Chúng ta thử nghĩ, bôn ba dưới phố một tuần hai ngày nghĩ các thiền sinh lên đây để thực tập, để được nhìn, gặp chúng ta bởi vì niềm đam mê của họ lớn vô cùng, bởi vì thấy đời sống quí Thầy Cô sao thích quá. Trong khi chúng ta đang ở trong thế giới thật sự của người tu lại không thấy điều nầy là hạnh phúc tuyệt vời. Chúng ta thấy sao mà chán nản, ngày tháng trôi qua một ngày như mọi ngày rất ư là vô vị và nhạt nhẽo. Có phải vì chúng ta chưa xử dụng hết năng lượng của tự thân mình, để tự nuôi dưỡng và làm thành một sinh mạng mới?
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chưa ai có nhiều thì giờ như người tu để học, người tu chúng ta có cả một đời dài để học, để thực tập, để tu. Thời gian từ lúc vào chùa cho đến lúc bỏ hình hài, thì giờ đó là của chính chúng ta. Suốt con đường dài chúng ta chỉ làm hai việc mà thôi. Một là học, hai là thực tập. Chúng ta hãy dành trọn vẹn cuộc đời để làm hai việc đó. Dù cho người ấy xuất gia lúc 60 tuổi đi nữa, họ cũng ở trong đạo mười năm, có nghĩa là người ấy còn có được mười năm để học, để trau dồi, để tu không bị phí phạm một chút thời gian nào dù ngắn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nếu chúng ta thông minh biết dùng hết năng lượng của thân tâm, thổi niềm đam mê học hỏi và thực tập cháy bùng lên mãnh liệt, có thể chưa chứng được A La Hán quả trong hiện đời nhưng chắc chắn quý Thầy, quý Sư cô cũng trở thành những bậc thầy tài ba lỗi lạc, trác việt không ai sánh bằng.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta chưa cần làm gì nhiều, chỉ cần quay lại nhìn đời sống tự thân của chính mình, cũng đủ thấy hạnh phúc vô ngần. Không cần bỏ tiền muôn bạc triệu xây dựng mà tự nhiên tôi được thưởng lãm núi rừng thênh thang bát ngát và được ngồi trong một thiền đường trầm lắng tôn nghiêm. Có những buổi khuya thức dậy sớm, xuống đây thắp một nén hương cắm lên bàn Phật, thiền hành một vòng tôi cảm được niềm hạnh phúc. Rồi những buổi chiều thả bộ trên đường vắng, lòng thảnh thơi và mênh mông; không gian nầy, con đường nầy và đất trời đang cùng tôi mở hội. Cả cuộc đời người tu đến và đi trên hành tinh nầy nhẹ như mây, chúng ta có trọn cả một đời để tu không vướng vào một điều gì khác. Thật là tuyệt vời.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Và khi chúng ta đầu tư năng lượng sống của mình cho sự tu tập, đã nếm hương vị của hạnh phúc lớn như thế thì không hề có lợi danh, buồn phiền, lo toan, ái nhiễm gì của nhân gian có thể lôi mình được và làm sao mà lôi mình được. Có hạnh phúc nào đổi được hạnh phúc của người tu. Chỉ ở bình diện cạn thôi, chúng ta đã thấy hạnh phúc tràn đầy trong tâm thức của mình rồi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tuy nhiên, chúng ta có thể nhìn lại vấn đề dục để nhận biết thêm một điều nữa là không có hiện tượng nào mà không có hai phần: phần vật lý và phần tâm lý bên trong.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Phần vật lý thô cạn của dục là quan hệ tình dục của phái tính. Quan hệ tình dục giữa nam và nữ nếu chỉ đơn thuần trên mặt cạn của vật lý nó không có nghĩa gì cả, chỉ là sự đòi hỏi thỏa mãn qua sự giao thoa giữa hai thân xác, và đôi lúc chỉ là tình cảm lợi dụng. Nhưng đằng sau của vật lý dục, người ta còn có cái hồn của nó gọi là tình yêu nằm sâu bên trong. Cái hồn nầy là sự tiếp xúc của hai tâm thức, chứ không phải chỉ là hình hài của hai thân xác. Bản chất của dục về mặt vật lý nếu chảy ngược lại được thì sẽ trở thành niềm đam mê, niềm thôi thúc cho nhà nghệ sĩ sáng tác nên những tác phẩm để đời. Riêng với người tu, năng lượng dục nếu chảy ngược dòng, tự thân nó làm cho người tu chúng ta trong phần thể chất tỏa sáng năng lượng chánh niệm. Người tu mà nếu không có phẩm hạnh thì tự thân đời sống bên ngoài không thể hiện được năng lượng cuốn hút của sự tĩnh tại, an bình.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Phần thâm sâu hơn, dòng chảy ngược của năng lượng tự thân sẽ trở thành nỗi đam mê lớn đối với pháp thực tập chánh niệm. Khi tâm thức ta sống trọn vẹn với sự nhận biết liên tục, tức là sống thực sự trong chánh niệm hai mươi bốn giờ một ngày, bản thân của năng lượng nầy sẽ hình thành một sinh mạng mới bất sinh bất diệt.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta đều biết pháp thực tập căn bản của mình là phải mời gọi năng lượng chánh niệm liên tục. Làm thế nào cho tâm ở lại với thân trong từng hơi thở vào ra, trên từng bước chân đi, từng bước chân trong cả chiều dài đời sống đều có dấu ấn của tâm. Rồi mỗi động tác quay người, ngẩng đầu, nheo mắt... mỗi một cử động đều mời gọi tâm ta ở lại với thân 24/24. Mời gọi năng lượng chánh niệm luôn có mặt với ta đòi hỏi gì nơi ta để làm được điều nầy?
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa, cơ thể vật lý chúng ta không phải là một cơ thể ù lì, mỏi mệt, bệnh tật mà phải là một cơ thể thật sinh động. Không phải một con người đi rề rà, không muốn bước mà thực tập chánh niệm được. Đành rằng chúng ta bước những bước rất chậm của lần thực tập ban đầu, và trong mỗi động tác mình phải cố tình làm chậm lại để kiểm soát thân hành, để làm cho năng lượng chánh niệm có mặt, nhưng không có nghĩa là chúng ta cứ rề rà, chậm chạp mới có thể thực tập chánh niệm được. Bản chất rề rề, ù lì đó biểu lộ một tâm thức rất là ủy mị, uể oải, dật dờ thiếu năng lượng sống.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Đừng tưởng rằng tuyển chọn người vào tu là những người nói không ra hơi. Người xuất gia phải là những người rất kiêu hùng mới có thể sống được một đời tu tập, ngẩng cao đầu không biết sợ trời đất là gì, và những người tu đó năng lượng của họ phải tuôn trào cuồn cuộn trong thân. Mặc dầu bên ngoài ta đi đứng, nói cười đằm thắm, nhẹ nhàng nhưng bên trong bản chất phải rất hùng. Tự thân đời sống người tu là như thế. Đừng quan niệm rằng, người tu phải thực tập nói rỉ rả, nói không ra hơi, không dám nói rồi đi đứng như người bệnh.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nếu chúng ta không ôm ấp niềm đam mê lớn để tu tập, chắc chắn là chúng ta không thể mời gọi năng lượng chánh niệm về trong từng sát na của hơi thở. Tâm thức ta rất dễ đi hoang,và thích thả trôi trong đường dài của sinh tử. Chúng ta phải là người có năng lượng đam mê vô bờ mới có thể kéo tâm về trụ lại nơi thân.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Giả sử thân đang bệnh hoặc mỏi mệt, buồn rầu, bất an thì chúng ta sẽ thực tập rất khó. Cũng như thế, để có thể nhận được đạo lý và đạt đến chỗ vô sinh, bất diệt đòi hỏi khả năng tu tập để chuyển đổi hoàn toàn dòng năng lượng được gọi là dục thành một niềm khao khát tu tập, để chánh niệm dâng tràn mới có thể hoàn thành sinh mạng mới, chứng được quả an lạc.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Khi chúng ta nghe từ “dục” nầy đừng nghĩ đến mức độ thô phù của quan hệ tình dục. “Dục”thâm sâu và tinh tế hơn nhiều và được biểu hiệu ra nhiều mặt.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi chúng ta thấy bất cứ hiện tượng hạnh phúc của một người nào, hay thấy khuôn mặt rạng rỡ, tươi mát của một ai mà khởi tâm ganh tị thì đó là dạng chuyển biến của năng lượng dục đã bị trấn ngự nên đổi chiều qua hướng khác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta cũng đừng nhìn dục bằng cái nhìn đối kháng, thù hằn, chế ngự. Tự thân mỗi người đều có năng lượng nay tuôn chảy để hình thành sự sống. Do vậy chúng ta chỉ có thể làm được một điều là chuyển dòng chảy, chứ không thể tắt dòng chảy, giết dòng chảy được. Không có cách gì để diệt trừ, đào thải năng lượng dục. Cơ thể vật chất có thể hủy hoại được, tiêu diệt được nhưng năng lượng vô hình thì không thể.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Vì vậy, chúng ta chỉ có thể chuyển được năng lượng dục nầy bằng con đường của nhận biết. Ví dụ khi tự thân chúng ta có năng lượng giận, chúng ta không thể dùng cách gì để loại trừ hay hủy diệt cơn giận nơi ta được. Thông minh nhất, hãy mời gọi năng lượng nhận biết lên để nhận biết cảm thọ giận. Khi năng lượng nhận biết có mặt tức khắc cái giận bị cắt hết khả năng tiếp tế, hỗ trợ tự nhiên nó biến mất. Cũng vậy, chỉ bằng con đường thông minh nhận biết nầy, năng lượng dục tức thì được chuyển hóa thực sự.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tịch tĩnh.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Tịch tĩnh” là từ khác của Niết Bàn. Khi chúng ta đoạn sạch hết lậu hoặc từ mức độ cạn đến mức độ tinh tế là chúng ta thành đạt được pháp Niết Bàn. Đây cũng là câu tuyên ngôn đầu của Đức Thế Tôn. Người dịch ngày xưa trích dẫn từ trong văn học A Hàm, đã lấy bốn câu nầy để làm phần mở đầu cho Kinh Tứ Thập Nhị Chương. Ngay bài đầu tiên ta đã thấy bóng dáng lịch sử trong đó, chẳng hạn như câu tuyên ngôn: “Đức Thế Tôn sau khi thành đạo.” đến câu tiếp: “Trụ Đại thiền định, hàng phục ma đạo.” tức nói đến cách hành xử của Đức Thế Tôn đối với cuộc đời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cả cuộc đời của đấng Giác Ngộ, chưa bao giờ bằng con đường bạo hành để chuyển hóa xã hội, tiếp tăng, độ chúng, hoằng pháp hay để đối phó với ngoại đạo mà duy nhất chỉ bằng con đường của Thiền định. Và từ định lực hùng hậu, bằng tâm từ và tuệ giác có mặt, Ngài đã làm bao nhiêu việc lưu lại cho hậu thế đến ngày hôm nay đã hai mươi sáu thế kỷ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong quá trình tu tập, vào đêm cuối cùng trước khi thành đạo, bao nhiêu quá khứ cuồn cuộn chảy về, Ngài chỉ dùng một phương pháp là trụ trong Đại thiền định mà hàng phục những nỗi niềm của quá khứ. Bao nhiêu nghiệp thức nhiều đời, nhiều kiếp tuôn trào như những cơn mưa, mà trong văn học Đại Thừa gọi là những thế lực của ma nhiễu loạn, đốt cháy, làm ngập lụt... Ngài vẫn an nhiên trụ trong Đại thiền định. Rồi tất cả những thế lực đối đầu hủy phá kia trở thành ngàn hoa rơi xuống trước mặt Ngài.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tất cả chỉ là ngôn ngữ biểu tượng để chúng ta nhận ra một điều, chỉ cần an trú trong chánh niệm, trong định, trong tuệ là tự nhiên chúng ta có một vùng khí quyển tuyệt vời bao quanh, bảo hộ và che chở.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Đức Thế Tôn được biểu đạt như vậy bằng những câu kinh sáng rực trong dòng lịch sử. Chúng ta hãy có niềm tin vững chắc và qui chiếu vào tự thân để thực tập. Khi mà vùng năng lượng chánh niệm trở thành vùng khí quyển bao quanh, chúng ta đều có khả năng loại trừ phiền não, nghiệp chướng, bất an, sầu tư... và nghịch cảnh bên ngoài có bốc cháy cũng không thể nào xâm phạm được cuộc đời của người tu chúng ta.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
4. Thuyết pháp và dựng tăng.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Sau khi thành đạo, hàng phục ma quân Đức Thế Tôn đến Lộc Dã Uyển độ cho năm anh em Kiều Trần Như, và lần lượt năm anh em đều chứng được A La Hán.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chỉ trong đoạn kinh rất ngắn nầy mà người xưa đã tổng kết, đồng thời làm nổi bật được lịch sử thành đạo, tuyên ngôn đầu, dựng tăng, hàng phục ma và thuyết pháp của Đức Thế Tôn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tuyệt vời nhất của bậc Đạo Sư là chỉ ngay trong mùa an cư đầu tiên, ba tháng với năm ông thầy tu ốm đói, (vì họ nhịn đói nhiều quá) vậy mà Ngài đã trui rèn cho họ đều chứng được quả A La Hán, tức là dứt sạch lậu hoặc. Khi mà một tăng đoàn có được năm vị Trưởng lão giỏi như vậy, tu hành thâm sâu như vậy làm giềng mối, làm nền tảng, chắc chắn về sau công trình dựng tăng của Ngài Cồ Đàm rất dễ dàng.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong điển lục Trung Hoa, đại Già lam không có nghĩa là quy tụ đông tăng, năm trăm, một ngàn, hai ngàn... Nơi được gọi, được đánh giá là đại Già lam chỉ cần năm, hay sáu vị ngộ đạo thì được gọi là đại Già lam. Ngài Triệu Châu chỉ có năm, sáu ông thầy nhưng rất ư tài giỏi nên vẫn được gọi đó là hang rồng, ổ cọp.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tại Việt Nam cũng vậy, những tu viện có khi quy tụ rất đông nhưng mà giá trị không lớn nên thiên hạ không nể phục. Ngược lại có những ngôi chùa chỉ có vài ba ông thầy thôi, nhưng họ đầy đủ phẩm chất nên nơi đó trở thành trung tâm tu học. Trong lãnh vực văn hóa, học thuật đôi lúc chúng ta cũng chỉ cần có năm, bảy thầy thật ưu việt thì đã đóng góp và làm biến đổi được dòng chảy văn hóa đạo đức cho nhiều thế hệ tương lai.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trên tầng cao hơn văn hóa là đời sống tâm linh. Một trung tâm tu học nếu đào tạo được những vị thầy thật giỏi, chứng nghiệm đời sống tâm linh thì không những chỉ làm nên cây cao bóng mát cho tự viện mà đôi khi cho cả một quốc gia được nhờ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
5. Quả vị.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, năng lượng là quà tặng tự hữu có mặt tràn đầy trong tự thân mỗi người. Chúng ta sinh ra trong cuộc đời phải phấn đấu vô cùng cực nhọc để được tồn tại cho đến ngày hôm nay, chứng tỏ trong tự thân mỗi hình hài nầy năng lượng sống luôn tuôn chảy rạt rào, có điều chúng ta chưa biết xử dụng nó, và chúng ta chưa làm đủ để dòng năng lượng chảy ngược theo ý muốn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ở mức độ vừa phải, chúng ta cũng chưa đẩy được năng lượng mình lên đủ để tạo niềm đam mê cho sự tu học; chúng ta đã tiêu phí năng lượng của mình một cách vô tội vạ và thừa thãi vô cùng. Nếu thông minh, chúng ta biết đẩy dòng năng lượng chảy đến hướng của sự tu học, chúng ta đủ trở thành những người làm cây cao, bóng mát, trụ đá cho chốn Già lam.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nếu chúng ta biết đẩy mạnh dòng năng lượng lên đến tầng cao hơn nữa trong đời sống tâm linh - tức chúng ta đã làm thành một sinh mạng mới: Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ. Đạt đến chỗ không sinh, không diệt. Đạt đến tận nguồn của sự sống và chấm dứt kiếp lang thang qua nhiều cõi tử sinh của chính cuộc đời mình. Đó là thành tựu quả vị từ thấp đến cao, và chúng ta sẽ đi vào phần nầy một cách chi tiết trong những chương sau.
[/FONT]
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<center>Copy Mã Sau Để Chia Sẻ Trên Blog</center>

<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Ly_Duc_Tich_Tinh.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>


Download Here


www.diendanphatphap.com/diendan/
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG I[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]THỨC TÂM ĐẠT BỔN[/FONT]</center> [FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta chính thức đi vào chính văn của Kinh với chương thứ nhất là “Thức tâm đạt bổn.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
A. CHÁNH VĂN.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Từ thân xuất gia, thức tâm đạt bổn, giải vô vi pháp, danh viết Sa Môn. Thường hành nhị bách ngũ thập giới, tấn chỉ thanh tịnh, vi tứ chân đạo hạnh thành A La Hán. A La Hán giả năng phi hành biến hóa, khoáng kiếp thọ mạng, trụ động thiên địa. Thứ vi A Na Hàm. A Na Hàm giả thọ chung thần linh, thượng thập cửu thiên, chứng A La Hán. Thứ vi Tư Đà Hàm. Tư Đà Hàm giả nhất thượng nhất hoàn, tức đắc A La Hán. Thứ vi Tu Đà Hoàn. Tu Đà Hoàn giả thất tử thất sanh, tiện chứng A La Hán. Ái dục đoạn giả như tứ chi đoạn bất phục dụng chi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Đức Phật dạy: “Người xuất gia từ giã người thân đi tu phải biết rõ bản tâm (đạt được đến nguồn gốc của bản thể), thấu hiểu được pháp vô vi, gọi đó là Sa môn. Thường hành trì hai trăm năm mươi giới, sống đời thanh tịnh, tu tập Tứ Thánh Đế, thành tựu quả vị A La Hán. A La Hán là vị có thể phi hành, biến hóa và thọ mạng vô cùng; khi ông dừng thì đất trời chuyển động. Thứ đến là quả A Na Hàm, vị chứng quả A Na Hàm sau khi mạng chung thần thức sinh lên từng trời thứ mười chín và chứng quả A La Hán ở đó. Kế đến là Tư Đà Hàm, người chứng quả Tư Đà Hàm còn một lần sinh lên cõi trời, một lần xuống nhân gian chứng quả A La Hán. Sau cùng là quả Tu Đà Hoàn, bảy lần sinh, bảy lần chết mới chứng quả A La Hán. Người chứng quả A La Hán là người đã đoạn sạch ái dục như tứ chi bị chặt lìa không thể dùng lại được.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
B. ĐẠI Ý.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Phẩm chất, công năng hành trì và quả chứng của người tu là điều mà Đức Phật muốn nói đến trong đoạn Kinh nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
C. NỘI DUNG.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]1. Ta có thực tập không?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trước khi đi sâu vào nội dung chương kinh có vài điều tôi cần giải thích cùng đại chúng là trong truyền thống Thiền *** được giảng dạy ở Miến Điện, các Sư đều dạy thiền sinh rằng: Thành đạt an lạc, giải thoát và chứng nghiệm nó trong hiện đời không phải là đặc quyền riêng của giới tu sĩ. Tất cả ai nếu có nhiệt tình tu tập, hiểu biết đúng chánh pháp và hành trì theo đúng con đường Phật dạy; thì cho dù là cư sĩ, dù là đàn bà, dù là người khuyết tật đều có thể chứng quả an lạc hiện thời. Bốn quả chứng nầy thành đạt trong hiện đời chứ không phải ở một kiếp xa xôi và cũng không đặc quyền dành cho giới tu sĩ. Từ Sa môn được dùng ở đây thể theo văn cảnh của bài nầy nhưng chúng ta nên hiểu rộng hơn như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thể ngộ được giáo lý, công năng hành trì của ta nghiêm túc, nhiệt tình của ta lớn lao thì ngay trong cuộc đời nầy ai cũng có thể chứng được quả an lạc, ngay trong hiện đời nếm được hương vị của Niết Bàn. Điều quan trọng là ta có thực tập hay không mà thôi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
2. Phẩm chất thực của vị A la hán.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Trong văn học A Hàm tức bốn bộ Nikaya danh từ Bồ Tát được xử dụng khi nói đến giai đoạn tầm đạo tu hành của Đức phật.Từ A La Hán dùng để chỉ cho quả chứng cao nhất của thánh chúng đương thời. Đức Thế Tôn trong văn học A Hàm cũng được gọi là bậc Đại A La Hán.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Sau khi đạo Phật phát triển và giáo lý được triển khai, Phật giáo đi vào Trung Hoa hình thành nền văn học Hán tạng; trong tinh thần Hán tạng tính kỳ thị và phân hóa nặng nề thêm. Chính trong văn học Phật giáo phát triển đã có ý xem thường bốn quả Thanh Văn, và cho rằng những vị đạt được quả A La Hán là những vị chỉ trừ được pháp chấp mà ngã chấp vẫn còn, và đi con đường nhỏ hẹp không có năng lực độ sinh như các vị Bồ Tát. Nhưng nếu chúng ta nhìn rõ ràng vào đặc tính của giáo lý thì điều triển khai như thế có khi không đúng.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngã và pháp hai thứ nầy đều cùng tồn tại, nếu pháp mà mất thì ngã cũng không còn. Như hình hài ta đây nó được xây dựng bằng những sở hữu của ta, nếu không có những sở hữu của ta thì cái ta nầy không có mặt. Cái ta được nuôi dưỡng bằng quá khứ và bằng sở hữu, bằng sự liên hệ giữa mình với người để tồn tại. Ví như một con người mà không có quá khứ, trí nhớ không về được quá khứ thì con người đó không biết anh ta là ai và cái ta tự nhiên vắng bóng. Sở dĩ ta thấy đây là mình, ta có niềm tự hào vì ta có một quá khứ rất dài. Chỉ nhìn vào hiện đời đủ thấy quá khứ làm thành bản ngã. Ví dụ: quá khứ mà ta sinh ở đây, học trường nọ trường kia, ta có niềm tự hào về văn hóa của mình, tính cách con người mình, tên tuổi của mình... cho nên yếu tố đầu tiên để cái ta có mặt là vì quá khứ có mặt. Bên trong ta, những sở hữu như cái nầy của tôi, thân của tôi, tên của tôi và cảm thọ của tôi... và những sở hữu bên ngoài như đạo Phật của tôi, giáo lý của tôi... tất cả vây quanh đã làm nên cái ta rất nặng. Nếu không có những phụ tùng đó thì cái ta đồng thời cũng vắng mặt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nếu một con người không thiết lập được quan hệ với bất cứ ai, là người ở giữa sa mạc mênh mông hay trong rừng sâu thẳm, thì chắc chắn cái ta cũng bị tiêu mòn, biến mất. Ở trong rừng giữa muôn ngàn cầm thú thì ta đâu cần làm đẹp vì cây rừng, cầm thú đâu có biết khen ngợi. Sở dĩ ta làm muôn điều, cần bao nhiêu thứ để trang trí tô bồi cho cái ta hiện hữu giữa cuộc đời cũng chỉ vì muốn đạt được quan hệ giữa mình với người. Ta có niềm kiêu hãnh tự hào vì có người đối diện, nếu không có người đối diện ta không biết để mình vào đâu mà tự hào kiêu ngạo cả.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Có con người nên mới có sự nhận biết. Chủ thể luôn luôn đi kèm theo đối tượng. Xưa nay chưa bao giờ có chuyện không có đối tượng mà chủ thể còn tồn tại.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ở mức độ thâm sâu hơn, không thể không có pháp (đối tượng) mà lại có ngã
(chủ thể). Cho nên trong văn học Hán tạng bảo rằng: “A La Hán là những vị đã đoạn diệt được pháp chấp nhưng vẫn còn ngã chấp,” điều nầy hãy xét lại.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, tôi xin chia xẻ vài điều cùng quí vị để chúng ta ý thức được rằng, tuy mình học văn học Phật giáo qua Hán tạng, nhưng chúng ta không nên quá nô lệ vào Hán tạng. Thông thường tâm thức người Việt chúng ta thích nhìn ra ngoài, hướng ngoại và sùng mộ Hán tạng. Chúng ta hãy vận dụng tư duy của mình để nhìn, dùng lăng kính của trí tuệ để soi, hầu thấy rõ có những điều rất ư là phi lý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta đã từng chia xẻ Kinh nầy nguyên tự thân nó không phải là Kinh Bốn Mươi Hai Chương, không hề có một phân chương nào trong kinh nầy, chỉ có bốn mươi hai đoạn mà thôi. Chỉ toàn là Phật ngôn, Phật ngôn... tức Phật dạy, Phật dạy... nhưng người xưa không thể chọn ra một tên gọi gì bao quát được nội dung văn bản nầy nên đành ghi tên là Kinh Bốn Mươi Hai Chương. Thực tế trong Phạn bản không hề có biệt danh Kinh nầy.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Từ khi đã thình hành văn bản Hán tạng, người sau một mực tuân thủ, một mực nô lệ văn bản không dám làm gì để cải cách, hoặc ghi chú từng chương xuất xứ từ đâu trong văn học A Hàm. Cho đến những bản dịch tiếng Việt cũng thế, hoàn toàn tuân theo cách dịch, cách chú giải và cách phân đoạn của các vị sư Trung Hoa. Đây là điều rất ư vụng về của chúng ta.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Kinh văn ghi:“Vị A La Hán có thể bay đi tự tại, biến hóa và thọ mạng vô cùng.” Chỉ một câu nầy cũng đủ biểu lộ rõ ràng cho chúng ta thấy văn hóa Trung Hoa đang có mặt. Và A La Hán là quả vị chứng tột cùng, nhưng đây không phải là quả vị Tiểu Thừa.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Từ ngày đầu khi Phật giáo du nhập vào đất nước nầy, các vị sư Ấn Độ phải mượn văn hóa Trung Hoa và ngôn ngữ của Lão, Trang để diễn đạt tính cách cùng phẩm chất của các vị A La Hán. Các vị A La Hán có thể vân du đây đó. “Đằng vân giá vũ” tức là có thể cưỡi mây, gọi mưa. Tài của các vị Tiên ngày xưa ở Trung Hoa được diễn đạt như vậy. Trên thực tế, có thể có các vị tiên nhân có năng lực chú sớ làm mây, làm mưa cho nên khi đạo Phật đến nơi nầy, đầu tiên muốn giải thích giá trị và năng lực của các vị A La Hán phi thường họ phải vận dụng từ “Năng phi hành biến hóa, khoáng kiếp thọ mạng, trụ động thiên địa.” Nếu chúng ta nhìn bằng tuệ giác con nhà Phật, từ dùng nầy sẽ mang một nội dung khác và cũng không có gì là sai lầm thái quá.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Một người khi đã thành đạt được tuệ giác là người có khả năng giáo hóa rất lớn. Khả năng nầy không hạn chế ở chốn sơn môn, tự viện hay một vùng văn hóa nào mà khả năng giáo hóa có thể mở rộng đến nhiều vùng khác nữa.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chỉ cần một tác phẩm trí tuệ được viết ra, hoặc lời dạy của các bậc thầy đạt đạo nói ra mà có người cùng thời ghi chép lại thì dòng tuệ giác chứng ngộ sâu xa ấy, tác phẩm trí tuệ ấy có thể vượt thời gian không gian qua năm, bảy trăm năm cho đến cả ngàn năm. Nếu một tác phẩm hiện đời được sinh ra từ nguồn tuệ giác sâu đậm, có thể dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau; đó là khả năng giáo hóa rất mênh mông của vị A La Hán. Đôi khi có thể chưa cần là A La Hán, chỉ cần có tuệ giác vượt bực, đầy đủ phẩm chất đạo hạnh, có khả năng giáo hóa tuyệt vời thì đã đánh động trái tim người nghe đương thời rất rộng
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
3. Thọ mạng vô cùng.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]“Khoáng kiếp thọ mạng”: Là thọ mạng rất dài của vị A La Hán. Trên thực tế chúng ta chưa thể nào tìm ra được vị A La Hán có thọ mạng vô cùng như thế. Về chùa Tây Phương ở Việt Nam, chúng ta chỉ nhìn thấy hình ảnh mười tám vị A La Hán gầy ốm, trơ xương được người ta tạo thành trên những tác phẩm điêu khắc gỗ mà thôi. Do vậy “Khoáng kiếp thọ mạng” nên được hiểu rằng hình hài bọt bèo tuy tan rã, nhưng pháp thân và hóa thân của các vị A La Hán vẫn còn. Chúng ta đừng nghĩ hóa thân là do hình hài được biến hóa. Hóa thân cũng tùy theo năng lượng của sự tu tập, và tuệ giác của từng người mà có thể có những hóa thân khác nhau. Năng lực và thọ mạng của hóa thân nầy có thể kéo dài lâu hay mau tùy theo năng lượng của ta cho ra đời những hóa thân ấy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hóa thân ai cũng có thể có, ở cấp độ cạn nhất đó là thân được sanh ra từ tâm lý. Một người con trai cũng có thể làm ra hóa thân. Ví dụ như anh ta chỉ cần viết ra ba chữ rất ư là bình thường, rồi gửi cho người mình yêu. Người con gái khi nhận được thì lòng rung động, cô cất giữ lá thư tình đầu đời rất kỷ. Rồi một ngày mưa gió tình cờ nào đó, có dịp đọc lại lá thư cô chấn động. Trong trái tim cô tình yêu trong sáng ngày xưa sống dậy. Lá thư kia chính là hóa thân của người con trai. Chỉ có ba chữ thôi nhưng nó có khả năng sống đến tận mười lăm, hai mươi năm năm sau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta có thể giải thích rằng hình hài vật lý đến rồi đi, rồi biến mất rất nhẹ nhàng. Đó chỉ là phần thô. Nhưng ngoài hình hài nầy còn có một hình hài tinh tế, mịn hơn đó là hình hài lý tưởng. Một người chỉ chuyên làm điều lành, trong tâm thức chưa bao giờ có một niệm ô uế, xấu ác, đen tối tự nhiên nơi họ tỏa sáng một năng lượng yêu thương hiền thiện. Dù cho ngoại hình dung nhan họ không mỹ miều, mặt rỗ đầy thẹo nhưng khi đến với họ chúng ta vẫn thấy họ đẹp, họ rất dễ thương và lòng yêu kính của ta dâng lên. Cho nên năng lượng dù rất vô hình chúng ta không thấy được, nhưng nó bàng bạc chung quanh tạo thành một vòng đai khí quyển bảo vệ, nuôi dưỡng người ấy, bất cứ ai đến gần đều cảm nhận được.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Những bậc đạo sư, những bậc thầy lớn, có đời sống thánh thiện khi họ du hành từ quốc gia nầy đến quốc gia khác để giáo hóa, tuy không thông hiểu ngôn ngữ của xứ sở nơi họ đến, nhưng chỉ sự hiện diện của họ thôi, quần chúng, tín đồ... đều cảm nhận năng lượng từ bi đến từ họ. Có những vị thầy rất tuyệt vời như đức Đạt Lai Lạt Ma chẳng hạn, khi Ngài đến với quần chúng Tây phương, Ngài đâu có dùng ngôn ngữ địa phương họ, Ngài dùng tiếng Tây Tạng để nói với họ và khả năng diễn đạt bằng ngôn từ dịch thuật bị hạn chế, rơi rụng đi ít nhiều phẩm chất của lời Ngài, nhưng thiền sinh Tây phương đâu để ý; họ chỉ cần nhìn phong cách Ngài, nhìn Ngài cười nói là họ đủ thấy an lạc và họ thương kính Ngài như bố mẹ mình.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ngày xưa vào khoảng thập niên 70, Đại Đức Narada người Tích Lan (người viết cuốn Đức Phật và Phật pháp) mỗi năm Ngài đến Việt Nam vài lần để dạy học, ở tại chùa Xá Lợi. Tuy cả hai bên thầy trò không cùng một ngôn ngữ, nhưng chúng tôi rất thích đến bên Ngài, ngồi gần Ngài. Chỉ nhìn thấy Ngài cười là chúng tôi thấy ấm áp, thanh thản làm sao.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Cho nên “Khoáng kiếp thọ mạng” là hóa thân, là vùng năng lượng. Nó có công năng vô hình tỏa rộng đánh động hạt mầm giác ngộ của những người đương thời. Năng lượng nầy dù các vị ra đi vẫn lưu lại dấu ấn trong không gian. Những người tâm thức tĩnh lặng, trong sáng, năng lượng vô hình thấm đẫm vào trong không gian hay trụ xứ của họ. Những người có cảm giác tinh tế sẽ nhận ra được điều nầy. Nên “khoáng kiếp thọ mạng” có thể hiểu và giải thích theo nhiều tầng mức.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
4. Đất trời chuyển động.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]“Trụ động thiên địa” có nghĩa là sự có mặt, sự dừng lại của các vị làm lay động đất trời. Họ mang tuệ giác trao tặng cho con người. Nếu chúng ta sống trong đêm dài mê đắm không biết sau hình hài nầy có gì còn lại. Chúng ta cũng chưa biết sau vui buồn của đời người cái gì làm nền cho nó sinh khởi. Đối với các bậc giác ngộ, bằng tuệ giác các Ngài khai triển cho ta rõ ngoài hình hài nầy còn có thọ mạng gọi là Pháp thân vượt thời gian và không gian. Nếu một ai phát tâm đi theo con đường giác ngộ, rời bỏ mê chấp của thân, của cảm thọ, của ý niệm cũng đủ gây chấn động lớn trong không gian vô hình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong văn học Đại thừa có câu: “Nhất nhơn phát tâm quy nguyên, thập phương thế giới toại thành tiêu vẫn.” Một người phát tâm trở về nguồn chơn, về thể tánh của họ thì mười phương thế giới biến mất không còn. Khi Đức Thế Tôn sắp thành đạo, hành tinh nầy bảy lần chấn động, cung trời cũng bảy lần chấn động. Có nghĩa là khi con người kia sửa soạn bước vào được không gian giác ngộ thì làm cho những năng lượng tiêu cực, những thế lực xấu ác tự nhiên chấn động. Tuệ giác của Ngài, năng lực giáo hóa của Ngài làm rung động tâm thức mọi người, mọi nơi để họ có thể giác ngộ. Do vậy, năng lực vĩ đại vô cùng đó trải rộng và lan xa.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong Đại Tỳ Bà Sa và Câu Xá Luận giải thích về bốn Thánh quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán rất chi tiết. Các nhà Phật học thời ấy phân ra làm “tứ hướng” và “tứ quả”, còn có một từ gọi chung là ‘Tứ song bát bối” hoặc bát Thánh, hoặc Bát hiền Thánh. Tất nhiên sau nầy các nhà Phật học của hệ Phát triển kỳ thị nên họ cho rằng đây là quả vị chứng đắc của hàng Thanh Văn Tiểu thừa, vấn đề mà chúng ta chưa cần đi sâu. Bây giờ, chúng ta thử ghé lại quả Tu Đà Hoàn và nhìn bằng cái nhìn Thiền tập để giải minh.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
5. Đi vào dòng thánh
.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Quả vị Tu Đà Hoàn còn được gọi là quả Dự lưu hay Nhập lưu. Nhập lưu là đi vào dòng chảy, tức là bước vào dòng đưa ta trôi vào biển Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Một người nghe giáo pháp của Phật dạy thấy rõ lý Tứ Đế có được con mắt trí tuệ thanh tịnh cũng gọi là đắc Pháp Nhãn tịnh hay Thanh tịnh Pháp nhãn gọi là người chứng quả Dự lưu hướng hay Tu Đà Hoàn hướng, và từ đây đi thẳng vào Dự lưu quả, như dòng sông chỉ có một đường chảy thẳng vào biển.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Từ Dự lưu hướng bước vào Dự lưu quả cũng như thế, người ấy sẽ không còn rớt vào ba đường ác và họ sẽ đi ngang qua các quả vị kế tiếp. Tùy công phu mà có sự nhanh chậm khác nhau. Có khi trong một thời thiền tọa, cũng có khi sanh lại bảy lần mới chứng vô lậu vô sanh.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong văn học kinh điển từ hệ A Hàm cho đến văn học Đại thừa thường nói chỉ trong một thời pháp của Đức Phật có rất nhiều người mở được con mắt pháp chứng quả Tu Đà Hoàn. Khi chứng được Tu Đà Hoàn là người đó đã thực sự bước vào dòng chảy của các bậc Thánh, chỉ việc thả trôi mình từ từ vào biển Niết Bàn. Không có một điều kiện gì, lý do gì làm cho người đó vướng lại bờ, thối tâm trong việc tu tập.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tại sao ngày xưa chỉ trong một thời pháp mà Đức Thế Tôn có thể làm cho mọi người có được con mắt pháp trong sạch, trôi vào biển Niết Bàn dễ như thế? Còn chúng ta cũng đọc, cũng học, cũng nghe pháp thoại nhưng tại sao không mở được con mắt pháp? Thưa, người xưa chứng được Pháp nhãn tịnh rất dễ vì năng lượng của Đức Phật là năng lượng của một bậc Đại Giác Ngộ mênh mông, khả năng đánh động tâm thức từ năng lượng của Ngài đến với trái tim môn đồ đủ làm cho họ giác ngộ rồi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa đại chúng, cũng là một bài pháp thoại, nếu chúng ta nghe qua CD thì năng lượng thẩm thấu vào ta khó có thể bằng được khi nghe trực tiếp từ vị thầy ngay tại pháp đường.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Khi nghe trực tiếp đòi hỏi chúng ta phải rất chánh niệm, nếu lơ đãng thì ngôn ngữ đi ngang qua, lướt nhanh ta chưa kịp cảm nghiệm lời nói đã trôi qua mất. Nhiều khi trong lúc đọc sách sự tập trung chú ý của ta cũng không có mặt hoàn toàn trên từng dòng chữ, và nghe CD cũng vậy. Sách vở, CD là những vật thể chết, không linh hồn nên năng lượng truyền đạt rất hạn chế, chỉ có được trong phạm vi chừng mực của nó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong khi sự truyền đạt của vị Thầy tại pháp đường là sự truyền đạt sống. Một lời nói, một cử chỉ diễn đạt; nhất là người truyền đạt có được định lực và tuệ giác thì tất cả sẽ được đi thẳng từ trái tim người nói đến người nghe. Thế nên nghe pháp trực tiếp năng lượng bao giờ cũng lớn hơn, sâu hơn nhiếp phục người nghe dễ dàng hơn. Do vậy, lời Đức Thế Tôn ngày xưa cùng sự có mặt của Ngài đã trực tiếp đi ngay vào tâm thức thính chúng làm người nghe cảm nhận tức thì, họ dễ đi vào dòng chảy của Thánh chứng nhập quả vị Tu Đà Hoàn là thế.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
– Pháp nhãn tịnh là một trong năm loại mắt. Tuy có năm loại nhưng đều tập trung và có mặt trong đôi mắt chúng ta đang sử dụng đây. Ấy là nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn:
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
- Nhục nhãn: Mắt thịt. Đôi mắt chúng ta được gọi là nhục nhãn do vì nó không thể nhìn thấy xuyên qua bên kia tường vách. Hơn nữa mắt ta luôn nhìn sự vật bằng thiên kiến; chứa đựng yêu thương, chứa đựng hận thù, giận ghét, oán hờn nên cái nhìn đó luôn bị hạn chế. Hạn chế bởi ngăn ngại vật chất và sai lệch bởi nghiệp thức nặng trĩu của chúng ta.
[/FONT]

- [FONT=Arial,Helvetica]Thiên nhãn: Mắt trời. Những vị Trời đã tu mười nghiệp lành. Mắt các vị ấy nhìn xuyên qua được vật ngại, năng lực cực lớn có thể thấy được các vì sao đang hình thành hay những hành tinh đang dẫy chết mà không cần đến viễn vọng kính.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
- Tuệ nhãn: Mắt nhìn thấy được lý nhân duyên. Nhìn với con mắt phàm thì thấy đây là con trai, con gái, nhà cửa, lá hoa... nhưng khi nhìn với tuệ nhãn tức nhìn bằng con mắt tuệ thì biết thân nầy vốn là hợp thể ngũ uẩn cấu tạo thành; đạt được cái nhìn thấu thị, thấy rõ được bản chất của sự vật, của cảm thọ (niềm đau, nỗi khổ, hạnh phúc...), thấy được suốt đáy vấn đề, vượt thoát ngã chấp.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
- Pháp nhãn: Mắt khi chạm đến bất cứ cái gì đều hồi quang trực nhận và an trú được nơi tự thể tâm thanh tịnh; “Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại sắc. Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân.”: “Trúc biếc, hoa vàng không cảnh khác. Trăng trong, mây bạc, một thể tâm”. Thế nên thấy rõ được nơi hoa vàng, trúc biếc, mây bạc, trăng trong đâu đâu cũng thể hiện chân thường chúng ta gọi là người đã đạt được pháp nhãn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
- Phật nhãn: Khả năng mắt dung thông luôn bốn tầng nầy gọi là Phật nhãn. Vừa có pháp, vừa có tuệ, vừa có năng lực diệu kỳ bao trùm mắt của các vị Trời. Tuy con mắt ấy cũng được cấu tạo bằng sắc chất như con mắt của chúng ta, nhưng bên trong năng lực tuệ giác bao trùm, chạm điều gì đều thấy là Pháp thân cả thì gọi là Phật nhãn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
6. Thấu đạt nguồn tâm.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Nội dung chính và rất quan trọng của đoạn kinh nầy là câu: “Thức tâm đạt bổn, giải vô vi pháp.” Hãy mở cánh cửa đi vào “Thức tâm đạt bổn” chúng ta sẽ thấy nó có liên hệ với Pháp nhãn tịnh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Kinh Bốn Mươi Hai Chương xuất hiện vào đầu kỷ nguyên, từ khi đạo Phật mới được truyền vào Trung Hoa. Đến thế kỷ thứ bảy thời kỳ mà Thiền tông cực thịnh môn đồ Lục Tổ Huệ Năng là Ngài Huyền Giác với khúc hát Chứng Đạo Ca có đôi điều trùng hợp nội dung kinh. Đây là ca khúc sau khi chứng đạo Huyền Giác đã viết ra thật tuyệt vời. Vào đầu là bốn câu có liên hệ đến “thức tâm đạt bổn, giải vô vi pháp” Tôi xin đọc lên để quí vị cùng nghe:
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vô minh thật tánh tức Phật tánh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Huyễn hóa không thân tức Pháp thân.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
Trúc Thiên dịch:
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
Dứt học vô vi” nhàn đạo nhân.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Không trừ vọng tưởng chẳng cầu chân.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tánh thực vô minh tức Phật tánh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thân không, ảo hóa tức pháp thân.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
Thể nghiệm được Đạo, không ngược xuôi, hướng ngoại tìm cầu, vị đạo nhân nầy nhàn hạ vô vi. Bây giờ tính của vô minh là Phật tính. Thân huyễn hóa bọt bèo nầy chính là Pháp thân. Vị ấy nhàn hạ không làm gì hết. Không trừ vọng tưởng và cũng không cần cầu Phật quả, Niết Bàn. Chẳng cần trừ khổ đau phiền não của tự thân, cũng chẳng cần cầu chứng quả an lạc gì của Thánh cả. Sống an nhiên, lặng lẽ, phất phơ trên cuộc đời. Nhẹ nhàng đi ra đi vào. Thực tánh của vô minh chính là Phật tánh, và thân nầy chính là pháp thân.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta biết rằng Phật giáo Trung Hoa đã từng trải qua bao lần pháp nạn, và trong những kỳ pháp nạn nầy nhà vua ra lệnh tịch thu tất cả thu tài sản của chùa đem về cho quốc gia, còn chư Tăng thì bị đuổi trở về thế tục làm thường dân.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhưng sau khi làn sóng tiêu diệt, phá hủy Phật pháp qua rồi, những con người “Thức tâm đạt bổn” là những Thiền nhân nếu có cơ hội thì họ hiên ngang đứng dậy phục hồi đạo pháp rất dễ dàng. Tại sao vậy? Thưa, vì những ông thầy tu nầy nắm vững căn bản gốc rễ của sự tu tập, thể ngộ được tâm tánh, thấy suốt được bản thể của sinh diệt và không sinh diệt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Dù sống lẫn lộn vào trong nhân gian, ra phố chợ làm thuê làm mướn họ cũng tu được. Lang thang như kẻ không nhà họ cũng tu được, họ không nhất thiết phải sinh hoạt theo nghi thức tôn giáo, thờ Phật, lễ bái, tụng kinh... cho nên với những con người nầy khi thời cơ đến, cơ hội hoằng pháp đến là họ đứng lên dựng lại già lam, tự viện.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Vì thế, trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa dù bốn lần bị pháp nạn vẫn không thể làm cho Đạo Phật chìm mất trên vùng đất nầy. Gần nhất là cuộc Cách mạng văn hóa dưới thời Mao Trạch Đông, toàn bộ sinh hoạt văn hóa, tôn giáo đều bị tiêu hủy nhưng không diệt được hạt mầm yêu thương đạo trong lòng người tu.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Cho nên phẩm chất đạt ngộ của người tu rất là quan trọng, chúng ta bước đầu phải gầy dựng cho được “Thức tâm đạt bổn” ngay nơi bản thân mình.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhưng làm thế nào để “Thức tâm đạt bổn?” Thưa, chúng ta cần phải quay lại chính mình. Đó là điều quan trọng và căn bản. Quay lại chính mình để nhận cho ra được thực tánh và nhận ra điều căn bản nầy là nền tảng vững chắc để từ đó ta sống an nhiên tự tại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Người tu nếu “Thức tâm đạt bổn” được rồi sẽ có hùng lực rất lớn. Dù cho bị muôn ngàn cay đắng của cuộc đời vùi dập, ta vẫn vươn vai đứng lên sừng sững như núi. Không vì bất cứ một trở lực nào làm cho ta chán nản, không vì bất cứ một điều gì làm ta buông rơi lý tưởng tu tập của mình. Chẳng hạn khi ta đến một trung tâm tu học nghe nói nơi ấy rất dễ thương, nhưng khi vào rồi ta thấy chung quanh cũng chỉ toàn là người phàm. Tâm thức họ cũng đố kỵ, nhỏ nhen, cũng ganh tị, tiêu cực làm ta thất vọng, chán nản và thần tượng trong ta bị sụp đổ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nhưng nếu chúng ta nhận ra được “Đạo” trong ta là ngọn hùng phong thì bất cứ môi trường nào, tăng thân nào, tự viện nào ta vẫn sống thảnh thơi an nhàn. Họ tốt, họ không tốt ta vẫn hiên ngang sống. Nếu không, chúng ta sẽ bị đưa qua, đẩy lại, chờn vờn lên xuống như cánh bèo trôi lênh đênh trên mặt nước. Họ đi lên chúng ta đi lên, họ đi xuống chúng ta đi xuống giống như họ và rồi sẽ bị quét sạch không thương tiếc. “Thấu đạt nguồn tâm” chúng ta sống như mọi người nhưng việc chúng ta làm không giống như mọi người. Chúng ta thách đố cuộc đời, dù phong ba có làm điêu đứng muốn nhận chìm chúng ta, chúng ta vẫn là người an trú trong Pháp nhãn tịnh đang trôi dần, trôi dần vào biển Niết Bàn. Không thể trôi vào con đường nào khác.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
7. Giải ngộ pháp vô vi.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, ta nên lưu ý một điều hai chữ Vô Vi là từ rất đặc biệt của Lão, Trang, chẳng hạn như câu: “Vô vi nhi vô bất vi” có nghĩa không làm gì cả nhưng không phải là không làm. Hay không làm gì cả mà làm tất cả mọi việc gọi là vô vi.

“Giải vô vi pháp”của kinh Bốn Mươi Hai Chương tức thấu được pháp vô vi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phẩm chất của một vị Sa môn được định nghĩa trong câu “Thức tâm đạt bổn, giải vô vi pháp” là phải rõ được nguồn tâm, đạt đến gốc của bản thể hay tự tánh của mình. Biết được pháp vô vi mới xứng đáng là vị Sa môn, mới có phẩm chất trọn vẹn của người tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ở cấp độ cạn nhất họ phải thể hiện công hạnh ấy qua việc hành trì hai trăm năm mươi giới. Sinh hoạt hàng ngày phải biểu lộ được nó ra thân tướng từ việc hoằng pháp, giáo hóa, độ sinh... đều phải căn cứ trên “Giải vô vi pháp” nên phẩm chất của một vị Sa môn rất lớn và rất quan trọng. Giải ngộ pháp vô vi còn có một hàm nghĩa là thể ngộ ngũ uẩn vô ngã.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Vô Ngã là trái tim của giáo lý đạo Phật. Khi Đức Thế Tôn thuyết minh về Vô Ngã là Ngài ngang nhiên hiển thị một tuyên ngôn đối kháng lại truyền thống Vệ Đà.

Một truyền thống đã có mặt trên đất nước Ấn Độ hơn mấy ngàn năm. Truyền thống Vệ Đà cho rằng con người vốn là Tiểu Ngã mà trong quá trình tu tập sẽ tiến dần dần đến thể nhập vào Đại Ngã mênh mông của vũ trụ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Từ lý tưởng, quan niệm Tiểu Ngã nhập vào Đại Ngã nầy đã sản sinh ra giai cấp Bà La Môn; một giai cấp từng làm tình, làm tội, chia xẻ phân hóa xã hội Ấn Độ cho đến bây giờ vẫn còn. Bằng kiến chấp thường còn bất biến của linh hồn con người, truyền thống Vệ Đà đã tạo ra giai cấp tu sĩ và hệ văn hóa tư tưởng mà phần tiêu cực của nó đã làm nên một xã hội Ấn Độ phân hóa như hiện tại. Nên chúng ta có thể nói không có điều gì tệ hại, nặng nề bằng ảnh hưởng tôn giáo phủ trùm lên trên xã hội. Đức Phật xuất hiện trên cõi đời như một nhà đại cách mạng. Ngài đã làm một cuộc cách mạng rất lớn phá vỡ nền tảng hệ tư tưởng giáo lý cổ truyền tặng món quà bình đẳng tuyệt đối cho Ấn Độ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
8. Vô ngã là Niết bàn.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, điều mà Đức Phật muốn nói ở đây là bản thân con người vốn Vô Ngã. Tuy Vô Ngã nhưng bên trong có tự thể Niết Bàn. Tự thể Niết Bàn này là trạng thái chứng nghiệm của tự tâm. Tức là ngoài hình hài sinh diệt vô thường nầy, ngoài suy tư bời bời mất còn nầy còn có một nền tảng cho sinh diệt, mất còn có mặt và hiện khởi. Thế nên Vô Ngã nhưng vẫn có trạng thái Niết Bàn. Trong kinh U Đà Na Đức Phật nói: “Nếu không có Niết Bàn làm nền sẽ không có phiền não sanh tử.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nói một cách khác, nếu Vô Ngã là không ngơ như không gian trống rỗng, vô tri, vậy thì ai diệt sạch phiền não, ai chứng nhập Niết Bàn? Chúng ta tu để không còn gì hết, không thể nhập trạng thái Niết Bàn mà chỉ để trở về trạng thái hư vô ư? Cho nên nếu thấu hiểu được pháp Vô Vi (giải vô vi pháp), là đi ngang qua tầng Vô ngã, chứng nghiệm được tự thể Niết Bàn của tự tâm trong hiện tiền.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tiềm phục trong văn học A Hàm, trong Kinh bộ Nikaya ngày xưa nếu không có sẵn tinh thần trên thì các nhà Phật học Đại thừa không triển khai thành Phật Tánh, Niết Bàn, Chân Như, Thật tướng... cho đến Thiền Trung Hoa khai triển Bản Lai Diện Mục, Vô Vị Chân Nhân, Vô Vi pháp... như một dòng chảy của Phật giáo Thiền Đốn Ngộ sau nầy cũng chưa hề vượt ngoài nội dung giáo lý vô ngã.

Có thể cách giải thích và cách dùng từ tuy khác nhưng nội hàm cũng vô ngã mà thôi. Người ta có thể hiểu lầm từ Pháp thân giống với từ Đại Ngã của Bà La Môn, nhưng nội hàm hai chữ Pháp thân phải được hiểu là cái thân mênh mông không sinh không diệt chính là Phật thân của chúng ta.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
“Thức tâm đạt bổn” là con đường mà chúng ta quay trở lại để thăm dò sự sống có mặt trong ta ngay nơi thân nầy. Chúng ta có thể ví mình như một thân cây trải ngang qua bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Nó đã từng qua những mùa Thu rụng lá, thay cành nhưng biết rằng mình còn gốc, và không bao giờ chết.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Quay lại thể tâm, thì “Thức tâm đạt bổn” là biết được gốc, tức bản tâm uyên nguyên, là Phật tánh của chính ta. Nó luôn luôn có mặt trong từng cử động, từng cái nhìn, từng lúc cười nói... Nó không phải là cái gì xa lạ, và ta không cần phải tìm Đông, tìm Tây mới có. Trong từng ý nghĩ vui buồn có mặt tức khắc có tâm Phật.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tâm Phật vốn không sinh, không diệt có nghĩa là tâm không xao động, biến hiện vì ngoại cảnh. Tâm Phật nầy tĩnh lặng, sáng rỡ chính là sự nhận biết trực tiếp vô ngôn. Khả năng nhận biết nầy vốn rất mênh mông và luôn luôn hiện tiền.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở mức độ thô, ta chỉ nhận diện được những cảm thọ. Ở mức độ tinh tế hơn, nếu thực tập giỏi ta nhận diện được những tràng suy nghĩ khởi lên liên tục trong tâm thức ta. Tất nhiên “sự nhận biết trực tiếp vô ngôn” là nhận biết được ý thức thì thầm suy nghĩ, cảm thọ vui buồn. Ta tạm nói nó có mặt ở tầng sâu, ở bên sau ấy. Nó vốn tự hữu, không cần phải học ta mới có. Nó đã có sẵn từ ngàn vạn đời trong kiếp tử sinh. Nó là bản tâm thanh tịnh, là Phật tánh, là pháp Vô vi. Nó không ngôn ngữ, không lời. Thể nhập được nó, cả cuộc đời ta sống với nó, nắm được nó thì hình hài nầy là vật sở hữu của ta thôi. Lúc ấy đến, đi, mất, còn có gì là quan trọng.
[/FONT]<center>Thức tâm đạt bổn</center>

<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Thuc_Tam_Dat_Bon.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<center>Thức tâm đạt bổn</center>

<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Thuc_Tam_Dat_Bon_02.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>



<center>Thức tâm đạt bổn</center>

<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Thuc_Tam_Dat_Bon_03.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG II[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]NGỘ VÔ VI PHÁP[/FONT]</center> [FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]
[/SIZE]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Hầu như toàn bộ Kinh Bốn Mươi Hai đều được dịch bằng một văn phong mang đầy hơi hướng thi ca cùng âm hưởng nhạc điệu rất tuyệt vời.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta sẽ thấy văn chữ Hán của đoạn Kinh sau đây được cấu trúc theo thể thơ bốn chữ rất cô đọng và hàm xúc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
A. CHÁNH VĂN.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Xuất gia Sa môn giả, đoạn dục khử ái, thức tự tâm nguyên. Đạt Phật thâm lý, ngộ vô vi pháp. Nội vô sở đắc, ngoại vô sở cầu. Tâm bất hệ Đạo, diệc bất kiết nghiệp. Vô niệm vô tác, phi tu phi chứng. Bất lịch chư vị, nhi tự sùng tối. Danh chi vi Đạo.”[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
Đức Phật dạy: “Người xuất gia làm Sa môn, cắt bỏ ái dục, biết được nguồn tâm của mình. Đạt được lý mầu của Phật, nhận ra pháp Vô vi. Trong tâm không sở đắc, bên ngoài không mong cầu. Tâm không ràng buộc nơi đạo, cũng không tạo nghiệp. Vô niệm vô tác, phi tu phi chứng. Không cần trải qua các quả vị mà tự siêu việt, gọi đó là Đạo.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Với khả năng hạn chế, tôi không thể dịch ra Việt ngữ hay hơn và nhất là câu:
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Vô niệm vô tác, phi tu phi chứng” khó có thể lột hết được ý nghĩa hàm ẩn trong đó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa đại chúng, tôi muốn lưu ý quí vị một điều trước khi chúng ta đi vào đoạn Kinh trên.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Khi muốn bước vào một lãnh vực nào, chúng ta cần phải có đam mê học hỏi, nghiên cứu mới thâm đạt được tận bên trong của lãnh vực ấy.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ví dụ chúng ta muốn đi vào lãnh vực Hán tạng, chúng ta cần có một chút đam mê học tập chữ Hán, nếu không có nỗi niềm đam mê đó thì khi muốn chuyển dịch cho người hiểu được nội dung vô cùng thâm áo, súc tích của một bản văn, ta không thể làm được điều nầy. Hơn nữa, trong kinh văn chữ Hán có những câu mang nội hàm mà chữ Việt không thể nào diễn đạt hay dịch thoát được.
Như câu “Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân.” Ta không thể nào dịch cho hay để diễn tả lên được cái hồn, nói lên được nội dung nằm ẩn sâu bên trong một câu với khuôn khổ chữ đầy tự tính, màu sắc thi ca như vậy.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
B. ĐẠI Ý.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Đoạn kinh nầy Đức Thế Tôn muốn nêu lên phẩm chất đích thực của người tu là phải chứng nghiệm được đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
C. NỘI DUNG.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]I. Thức tự tâm nguyên.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Khả năng tìm về.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Thức tâm đạt bổn, giải vô vi pháp” của chương Kinh thứ nhất và “Ngộ vô vi pháp, thức tự tâm nguyên” của chương Kinh thứ hai đều có ý tưởng trùng lập là quay về thể ngộ tự tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Những từ “Thức tâm đạt bổn, giải vô vi pháp.” hay “Ngộ vô vi pháp, thức tự tâm nguyên.” là nền tảng toàn bộ của văn học Phật giáo Đại thừa, và cũng là nền tảng căn bản của Thiền Đông Độ Trung Hoa kéo dài cho đến ngày nay, trải rộng qua nhiều quốc gia, các địa vực và các nguồn văn hóa khác nhau, qua không gian, thời gian và đi vào tất cả mọi truyền thống tâm linh. Riêng đạo Phật hành giả phải “Thức tâm đạt bổn,” tức là biết rõ nguồn tâm, đạt được gốc gác của mình là nền tảng căn bản rất quan trọng để khởi hành về nhà.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thông thường trong hoàn cảnh nghèo đói, lo toan của đời sống vật chất, con người không có khuynh hướng tìm về. Nhưng khi vượt qua được đời sống vật chất khó khăn, trình độ trí thức đã đến một tầng mức nào đó thì người ta hướng đến tầm cao hơn và nhu yếu tâm linh bắt đầu có mặt. Những băn khoăn thắc mắc về thân phận con người, những khắc khoải chung của sinh linh trên hành tinh nầy tự nhiên được đặt ra, và đây là vấn nạn có tự ngàn xưa. Một vấn nạn mà các bậc giác ngộ đã đặt vào tâm thức họ rất sớm trong cuộc đời.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta khi bước vào con đường tu là đã đặt câu hỏi nầy vào trong lòng. Dù vô tình chúng ta biết hay không, chỉ một thoáng ý khởi lên là vấn đề đã được gieo vào tâm thức.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Khi các loài động vật hay thực vật có mặt trong thiên nhiên, nếu chúng có một chút linh tri thì chúng đều có khuynh hướng tìm về nguồn. Trong chu kỳ vận hành của trời đất mỗi năm, chúng ta thấy cây cỏ thực vật cũng như loài động vật đều theo một qui trình trở về tiềm phục lại cội nguồn của nó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nơi loài thực vật, vào mùa thu cây lá tàn rụng thu mình lại ngủ ngầm cho qua mùa đông. Đến mùa xuân nó vươn lên mầm nụ mới, cho lá cho hoa. Từng nhịp sống biểu hiện, ẩn tàng liên tục.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nơi loài động vật cũng thế, có những mùa, những tháng từng đoàn cá voi từ cực Nam lội về miền Bắc. Và mãi cho đến bây giờ người ta cũng chưa tìm được nơi đâu loài cá voi sinh ra, nơi đâu nó bỏ xác.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong rừng già mênh mông kia người ta cũng chưa tìm được nơi nào là nghĩa địa của loài voi, chúng sống từng đàn lang thang giữa rừng núi bạt ngàn nhưng khi gần đến già chúng cũng tìm về cội nguồn nơi nó sinh ra mà chết.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Quy trình vượt thác của loài cá để hóa thành rồng là một ví von của văn học để nói đến quá trình vượt gian khổ để trở về nguồn. Đấy là quy trình tất yếu của mọi loài, và đặc tính rõ ràng nhất là ở loài người. Tất cả chúng ta đều có niềm thao thức tìm về. Bởi vì từ bản chất khi sinh ra con người đã có ý hướng tìm về đời sống tâm linh, đặt câu hỏi về nguồn gốc của mình.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Dù cho những quốc gia theo một ý thức hệ nào, theo một chủ nghĩa nào như Cộng sản hay tự do, độc tài hay dân chủ họ cố tình loại trừ tôn giáo, đẩy lùi tôn giáo vào quá khứ, xem tôn giáo là bùa mê, á phiện nhưng chính ở tầng thâm sâu của bản thể họ đã ấp ủ mầm tôn giáo, mầm của khao khát tìm về. Bởi vậy, dù một thể chế chính trị độc tài tàn ác đến đâu cũng không thể tiêu diệt được mầm tôn giáo. Vì tôn giáo đúng nghĩa nhất, trong sâu thẳm nhất vốn là nguồn sống tâm linh nên chúng ta có thể xác nhận tìm về nguồn là bản chất, là khát vọng của con người muôn thuở.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa quí vị, hình như chưa có một trường phái triết học nào, tôn giáo nào tìm được câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi “Ta là ai? Ta đi đâu sau khi chết?”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cũng có những vị giáo chủ của các truyền thống tâm linh muốn thăm dò tới tột nguồn bản thể, chỉ đường để ta tìm về thế nhưng chưa hẳn họ đã về đến tận nơi. Chúng ta may mắn có một bậc Đại Giác ngộ đã xuất hiện trên hành tinh nầy là Đức Bổn Sư Thích Ca. Ngài đã đạt được tận đầu nguồn của sự sống, thể nhập vào nguồn tâm và từ đó chế tác ra những pháp môn, chỉ ra con đường để con người phăng dấu nắm lấy mà đi về.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
2. Biết rõ nguồn tâm. Ngộ vô vi pháp.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Khi rời quê hương Ấn Độ du nhập vào Trung Hoa đạo Phật đã chuyển mình để hòa nhập vào tâm thức của người Trung Hoa, bởi vì Ấn Độ với truyền thống tâm linh siêu thực, huyền bí và vận dụng tư duy rất là trừu tượng; trong khi người Trung Hoa thì rất thực tiễn và họ diễn đạt giáo lý đạo Phật bằng con đường thực tiễn đó. Cho nên trong ngôn ngữ Kinh Bốn Mươi Hai Chương mang đầy sắc thái Lão Trang và thể hiện rõ nét tinh thần Phật giáo Trung Hoa. Nhất là màu sắc của Thiền tông, thiền Đốn Ngộ chịu ảnh hưởng từ Kinh Bốn Mươi Hai Chương rất đậm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Cụ thể là những từ “Thức tâm đạt bổn. Thức tự tâm nguyên.” có mặt từ thế kỷ thứ hai kéo dài đến thế kỷ thứ bảy lúc Thiền tông nở rộ mà họ vẫn vận dụng những từ ngữ nầy. Dĩ nhiên phương pháp của Thiền tông Trung Hoa có nhiều điều rất tuyệt vời là giúp cho ta nhận diện trực tiếp vào chiều sâu của tự tâm, chỉ thẳng cho ta nhận ra bổn tánh, nắm ngay được“Bản Lai Diện Mục” tức thể nhập vào nguồn tâm của chính mình, của sự sống mà không cần phải tư duy, suy nghĩ, lý luận dông dài gì cả.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong văn học A Hàm, Đức Phật dạy rằng: “Có nhiều vị Độc Giác ra đời tự tìm được con đường giác ngộ, họ có thể giác ngộ được cho dù Đức Thế Tôn có ra đời khải đạo, yểm trợ họ hay không.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Đọc Bản Sanh Truyện hay trong lịch sử, chúng ta thấy Ngài Ca Diếp là một nhân vật đặc biệt và rất thông minh. Ngài xuất gia theo Bà La Môn giáo và đã từng đưa ra một tuyên ngôn: “Nếu không gặp được bậc giác ngộ trong đời để học, để tu, tự thân Ngài cũng có thể tìm được con đường Giác ngộ, đồng thời Ngài có thể Giác ngộ được ngay trong hiện đời mà không cần qua nhiều kiếp.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khả năng giác ngộ là khả năng tự hữu, khả năng tìm về cũng tự hữu và khả năng vượt thoát sinh tử là khả năng có sẵn trong ta. Đức Phật có ra đời hay không thì tự thân của con người đã có sẵn mầm giác ngộ rồi. Nếu ta không có khả năng vươn lên thì dù có một vị thầy giỏi đến đâu đi nữa cũng không thể dạy cho ta giỏi được. Cái hạt mầm giỏi đã tự có sẵn trong ta. Ví dụ như không có một nhà khoa học tài ba nào xuất hiện trên hành tinh nầy, thì quy luật của trọng trường vẫn có. Lực hấp dẫn của hành tinh nầy là tự nhiên, và con người ta khám phá ra hay không thì hành tinh nay vẫn cứ quay đều chung quanh mặt trời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Người tu chúng ta trên thực tế chỉ cần làm một việc là phục hồi lại khả năng giác ngộ bên trong ta, ta có thể làm cho tất cả khổ đau, sầu lụy, sợ hãi... bị cắt bỏ ngay tức khắc. Chỉ cần một lần chạm tay vào mảnh đất vô sinh bất diệt là ngay nơi mặt đất ta đứng, tất cả những ô nhiễm, rác bụi của cuộc sống đã đi qua nhiều kiếp tử sinh bị quét sạch. Trong bài sám của Thiền sư Nhất Hạnh, chúng ta bắt gặp những câu: “Bước lên thật địa. Thở giữa chân không. Thắp lên trí sáng diệu tâm. Màn vô minh quét sạch.” như một thôi thúc hồi phục sự giác ngộ nơi ta.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
3. Chân như trong sinh diệt.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Những điều chúng ta làm trong hiện tại là chúng ta đang ở trong Tích môn, đang ở trong Sinh diệt môn. Trên bình diện của Sinh diệt môn tức Tích môn là bình diện của tâm thức sinh diệt, của vận dụng tư duy, suy nghĩ, thẩm định... có nghĩa khi nhìn là phân biệt màu sắc; thấy tức khắc có nam nữ, xấu đẹp, có mê đắm, có giải thoát.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Khi chúng ta bước vào Bản môn thì cũng bằng cái nhìn, cũng bằng cái thấy đó nhưng nhìn, thấy vạn vật, mọi loài y như nó hiện diện mà không hề khởi niệm phân biệt từ bên trong tâm thức, thì gọi là Chân như môn. Thế nên Tích môn (Sinh diệt môn), cũng như Bản môn (Chân như môn) không rời hình hài sinh diệt nầy, và tất cả cũng không ngoài trần gian nầy. Chúng ta không cần vượt qua ngàn trùng khó khăn ẩn trên non cao mới có thể thành đạt được Chân như môn mà chúng ta phải thực hiện Chân như môn - tức Bản môn - ngay trong cuộc sống, trong giây phút hiện tại. Từ những điều nhỏ nhất trong đời thường, chúng ta thấy rõ Chân như, Địa ngục ngay trong môi trường, hoàn cảnh của con người. Nó bắt nguồn từ chính tâm chúng ta. Chúng ta không thể tìm Niết Bàn, Cực Lạc ở ngoài ta, ở ngoài cuộc sống bèo bọt nầy.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa quí vị, sinh tử, Niết Bàn có mặt trong đường tơ kẽ tóc, trong nháy mắt của ta. Tâm thức chúng ta bời bời ý niệm nổi trôi tức tử sinh có mặt. Nhưng nếu những tư duy, sóng ý nghĩ không còn cuồn cuộn sinh diệt trong tâm thức; chúng ta dừng lại được ngay trong sát na nầy lập tức siêu việt cả quá khứ, hiện tại, vị lai thể hiện được Chân như môn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong kinh Lăng Nghiêm Đức Phật đã vận dụng một điều thật tuyệt vời để chỉ cho chúng ta thấy Sinh tử và Niết Bàn đang có mặt.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Đức Thế Tôn sai La Hầu La thỉnh một tiếng chuông và hỏi: “A Nan có nghe không?” A Nan thưa: “Dạ, có nghe.” Khi tiếng chuông lặng dứt, Thế Tôn hỏi: “A Nan có nghe không?” A Nan thưa: “Dạ không nghe.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và La Hầu La thỉnh chuông tiếp lần thứ hai, A Nan cũng lặp lại y như vậy. Đức Thế Tôn liền nói: “Ông rất vô minh, tiếng chuông dù có thỉnh lên hay im lặng, nhưng cái nghe của ông vẫn thường tại. Nếu cái nghe không có, thì ông không thể nào phân biệt được lúc có tiếng chuông hay lúc không có tiếng chuông.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên đối tượng của mắt, của tai có thể mất đi bởi cảnh nhưng khả năng nghe thì chưa mất bao giờ, nó vẫn thường hằng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thông thường chúng ta hay bị cuốn hút bởi cảnh mà quên mất mình. Khi thấy cảnh thì thấy mình có, khi không thấy cảnh mình cũng mất theo.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ở mức độ thâm sâu hơn, khi chúng ta suy nghĩ mới thấy có ta hiện diện, nhưng nếu những nghĩ suy thì thầm bất chợt ngừng lại, tắt đi thì thực sự ta vẫn hiện tiền. Ví dụ khi có một con ruồi bất thần bay qua mắt, lập tức ta nhắm mắt lại mà đâu cần vận dụng suy nghĩ lầm thầm gì; khả năng phản xạ của ta cực kỳ bén nhạy. Khả năng đó biểu hiện từ tự thể không sinh, không diệt của chính ta.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
4. Thăm dò vào tự thể tâm.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Khả năng đầu tiên để thăm dò vào bản thể của tự tâm, tức là nguồn tâm của mình. Nguồn tâm nầy đơn giản vô cùng và rất dễ cho ta nhận diện.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta hãy quay nhìn lại dòng sông tâm thức để thấy, không có một suy nghĩ nào, một tư duy nào mà ta không nhận diện được, mà vượt thoát khỏi nhận biết của ta, cái nhìn của ta. Ta thất niệm ta quên, hội nhập vào dòng suy nghĩ. Nay ta chỉ cần có chánh niệm lùi lại nhận diện nó thì hẳn ta chính là ông chủ đang nhìn khách. Hai điều nầy cách nhau bao xa? Vì quá gần nên mình hóa thân vào nó rất dễ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta thường để cho tâm thức trôi nổi bồng bềnh theo dòng chảy của suy nghĩ mông lung, sinh diệt liên hồi, đó là lúc ta đã mất mình. Tuy đang ở trên cuộc đời nhưng chúng ta là kẻ mộng du.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Người tu giỏi hay không, không phải quan trọng gì ở chuyện bên ngoài. Điều quan trọng là ta nhận biết được có phải ta là chủ hay đã hóa thân vào người khách kia. Và trạng thái nhận biết rõ ràng nầy là tự hữu trong mỗi chúng ta, không phải Đức Phật ra đời chúng ta mới có. Các bậc Thánh chỉ làm một điều là khơi mở cho ta biết quay lại tự nhận và có niềm tin chứ không trao gì thêm cho chúng ta cả.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong kinh Lăng Nghiêm khi Đức Thế Tôn hỏi Ngài Ca Diếp: “Làm thế nào mà ông ngộ đạo?” Ngài Ca Diếp thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, con nghe Thế Tôn dạy con chỉ một câu thôi mà con có thể ứng dụng để tu được. Đó là câu: “Khách Trần.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
“Người khách thì đến rồi đi, nhưng chủ vẫn luôn luôn ở lại trong nhà. Như trong không gian con thấy có bụi lao xao khi mặt trời soi qua khe cửa, thì cái lao xao là bụi, mà cái tĩnh tại, rỗng lặng là không gian mênh mông. Những vui buồn, phiền não, ưu tư là bụi trần lao xao. Còn con là không gian mênh mông, con chỉ cần nắm hai chữ “Khách Trần” để thực tập nên Bạch Thế Tôn con chứng được Thánh quả.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Người tu chúng ta chỉ cần có khả năng làm được điều đơn giản là nhận diện cho được cái gì là sinh diệt của ý thức, và khi nhận diện được tức chúng ta đang trú trong thể tâm thanh tịnh tuyệt vời của Bản môn (Chân như môn), đang ở trong vùng trời của Niết Bàn mà chiếu kiến.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chỉ một pháp tu nhẹ nhàng mà biết bao vị Đạo sư đã chứng được Thánh quả. Và chỉ một pháp tu thế nầy là siêu việt: “Bất lịch chư vị, nhi tự sùng tối.” Chẳng cần trải qua các tầng chứng đắc mà tự cao tột.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Một hôm Bùi Hưu đi vào một Phật điện thấy hình một vị cao tăng, ông mới hỏi quý thầy: “Hình ở đây mà cao tăng đâu?” Quí thầy ngơ ngác và không ai trả lời được. Ông hỏi tiếp: “Trong đây có thiền nhân không?” Một thầy trả lời: “Có một vị vừa mới đến đây năm bảy hôm, thầm lặng theo chúng sinh hoạt trông có vẻ là thiền sư.” Bùi Hưu bảo: “Xin mời vị ấy lên đây cho tôi gặp mặt.” Ngài Hoàng Bá lên, Bùi Hưu liền nói: “Thưa thượng nhân, cư sĩ nầy có một câu hỏi mà quí thầy ở đây không ai trả lời xin Ngài vui long giúp cho”. Ngài Hoàng Bá nói: “Xin ông cứ hỏi.” Bùi Hưu thưa: “Thưa, hình ở đây mà cao tăng đâu?” Ngài Hoàng Bá gằn giọng quát một tiếng: “Bùi Hưu!” bất thần bị gọi tên Bùi Hưu liền: “Dạ.” Hoàng Bá hỏi tiếp; “Ở đâu?”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa đại chúng, câu chuyện nầy ngoài sự sống động và lý thú còn cho chúng ta thấy đạo lý rất là thâm sâu. Tâm thức chúng ta có thói quen là thích chạy ra ngoài, nếu nghe được câu hỏi như thế liền vận dụng tư duy, suy nghĩ xa xôi, rồi phóng tâm ra ngoài tìm kiếm cao tăng. Nhưng ở đây vị thiền sư không trả lời cho câu hỏi, không cần phải giải thích dông dài bằng ngôn ngữ để chúng ta trượt trên ngôn ngữ chạy ra ngoài; mà điều trọng yếu là làm cho chúng ta quay trở lại để nhận ra vị cao tăng trong chính tự thân mình. Và không có gì tuyệt vời bằng tiếng “Dạ” bất chợt bộc phát ra ngay lúc đó chúng ta đâu có kịp suy nghĩ gì. Năng lượng chánh niệm đang tản mác, thất tán ra ngoài tự nhiên bừng sáng trong sát na hiện tiền.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
5. Pháp vô vi ngay trong hữu vi.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]“Thức tự tâm nguyên. Ngộ vô vi pháp.” Hai câu kinh nầy ngôn ngữ tuy khác nhau nhưng cùng chỉ một trạng thái là nhận ra được nguồn tâm tức nhận ra được pháp vô vi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong kinh Kim Cang, Đức Phật dạy: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn, bào ảnh, như lộ, diệc như điển. Ưng tác như thị quán.”: Tất cả pháp hữu vi như bọt bóng, như sương, như ánh chớp. Hãy quan sát như vậy. Vậy pháp hữu vi là gì?
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa, pháp hữu vi trong tầng cạn là tất cả những xao động tạo tác để hình thành vật chất. Nào chùa, nào tự viện, Phật sự lớn, Phật sự nhỏ trong nhân gian đều là pháp hữu vi. Kể cả việc nhiếp tăng, độ chúng, thiết lập tăng đoàn... cũng đều là pháp hữu vi vì sinh diệt vô thường. Nam Hoa Tổ đình là nơi phát tích dòng Thiền, thế mà qua bao lần binh lửa và qua mười năm cách mạng văn hóa tượng Lục Tổ cũng bị đập nát.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chưa bao giờ có một Tổ đình nào dù cho nhiều bậc giác ngộ đã từng có mặt, qui tụ năm, bảy trăm hay cả nghìn Tăng chúng mà kéo dài được sự hưng thịnh, trường tồn qua nhiều trăm năm. Thế nên tất cả những gì chúng ta tạo thành bằng ý thức, tâm huyết, nhiệt tình đều là con đường của pháp hữu vi. Và những gì gọi là pháp hữu vi thì không thể nào vượt thời gian mà tồn tại vĩnh viễn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Có một vị Thiên đến hỏi Đức Phật: “Con có thể tìm ra cảnh giới nào không sinh không diệt được chăng”? Đức Phật trả lời: “Tất cả cảnh giới mà ông biết đến đều chịu chung quy luật vô thường sinh diệt”. Vị Thiên nói: “Hay thay! Lời dạy của Đức Thế tôn. Con đã từng bỏ đi kiếp làm Trời, dài hằng triệu triệu năm. Con đã tìm khắp không gian nhưng chưa có hành tinh nào mà sự sống bất diệt. Không hề có cảnh giới Đông phương, cảnh giới Tây phương nào tồn tại bất biến, không đổi thay, còn mất cả. Vì cái gì được sinh ra, được làm nên và có hình sắc đều chịu chung quy luật vô thường.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Sau khi nghe vị Thiên nói lời như thế, Đức Phật liền bảo: “Thiên đế, tuy ta nói không hề có cảnh giới nào là trường tồn, nhưng ta chưa nói cho ông biết là còn một có con đường tìm ra nơi chốn an tịnh, không sinh diệt. Con đường đó không phải là con đường đi ra bên ngoài tìm các cảnh giới, mà là con đường trở lại tự tâm ông thôi.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Lời Đức Phật dạy cho chúng ta thấy rằng vô sinh, bất diệt được tìm trong hình hài sinh diệt. Vô vi không phải là những gì tách rời khỏi hữu vi mà có, và người tu đạt được Niết Bàn là đạt được pháp Vô vi. Trong Thiền Trung Hoa, “Ngộ vô vi pháp” được gọi là thể ngộ ra Bản Lai Diện Mục tức nhận ra mặt mũi thật xưa nay của chính ta.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong Pháp Bảo Đàn có một đoạn đối đáp giữa Huệ Năng và Huệ Minh như sau: Huệ Năng Bảo: “Nếu ông thực sự vì đạo đến đây thì hãy lắng tâm rồi ta dạy cho.” Đây là câu nói đầu tiên Lục Tổ Huệ Năng khai thị cho Huệ Minh khi Lục Tổ rời chỗ ẩn mình trong lúc chạy trốn, bị Huệ Minh truy rượt để giật lại Pháp y.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Huệ Minh nghe lời nói, liền ngồi xuống để tâm tư lắng lại, an tịnh lại. Bấy giờ Lục Tổ mới nói tiếp: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là Bản Lai Diện Mục thật của Huệ Minh.” Tức là hãy nói cho ta cái gì là mặt mũi thực của ông, cái gì là tâm thể không sinh không diệt của ông, cái gì là Niết Bàn của tự tâm ông? Huệ Minh đủ thông minh quay vào tự tâm mình để nhận ra cái không sinh không diệt hằng hữu ngay lúc ấy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa đại chúng, khi tâm ta không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không chạy về quá khứ, chạy tới tương lai mà là dừng trụ tại đây sáng rỡ nhận biết trong giờ phút nầy thì đâu không phải là Bản Lai Diện Mục của chính chúng ta đã hiển hiện. Khi ta trụ tâm lại trong sát na hiện tiền thì tâm ta tỉnh sáng, thênh thang bao la vô tận; không có không gian để đo, và không có không gian thì có nghĩa là thời gian cũng không có mặt.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Người tu được đánh giá miên mật hay không là có dừng trụ tâm lại được hay không mà thôi. Dù ngàn năm có đi qua trên hành tinh nầy, ta dừng tâm lại được thì thời gian nào có nghĩa gì đâu, và trong nhà Thiền gọi là: “Thiên thu nhất niệm.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
6. Sóng không rời nước.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dĩ nhiên chúng ta có thể phân định ra những tầng cạn, sâu của tâm thức: Tầng cạn được ví như sóng, tầng khá hơn là mặt biển và tầng sâu thẳm bao trùm tất cả là đại dương mênh mông.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Là những người tu nếu chúng ta không thăm dò được chiều sâu của tâm, là ta đang ở trên bề nổi của cảm thọ. Và thông thường con người trên nhân gian đều chỉ sống trên mặt cạn của cảm thọ: khi có niềm vui ta thấy rất hạnh phúc, khi nội tâm thể hiện sự trống vắng ta rất sợ hãi. Chúng ta sợ nỗi cô đơn, sợ sự trống vắng, sợ cái tịch liêu của tâm thức vô cùng, cho nên suốt cuộc đời chúng ta chỉ luôn chạy trên sóng biển mà không nhận diện được mặt biển bao giờ. Nếu tu tập khá hơn, chúng ta không để mình bị dập vùi, trôi nổi thăng trầm bởi những làn sóng cảm thọ của chính mình.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ở tầng sâu hơn, nếu những tư duy, suy nghĩ không có mặt trong tâm thức, không có vấn đề gì để lo âu, để thắc mắc thì ta thấy cuộc sống không có hồn, như đã chết. Vì vậy ta luôn mời gọi sự lo lắng, tính toán, những dòng chữ thì thầm sinh khởi trong ta. Như thế chúng ta chỉ nhận biết được mặt biển mà chưa thăm dò được đại dương sâu thẳm mênh mông.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Sóng thì lúc nổi, lúc chìm. Mặt biển đôi khi cũng bị làm cho ô uế, nhưng đại dương lúc nào cũng tĩnh lặng, trong sáng và luôn luôn làm nền cho sóng và mặt biển hiện diện. Sóng và mặt biển đều nhờ đại dương mà có, và tâm thức của chúng ta cũng như vậy.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nếu chúng ta nhận diện được những cảm thọ vui buồn, bất an, sầu khổ... cho đến những suy nghĩ, tư duy khởi lên bời bời là những đợt sóng trên mặt biển vào ra sinh diệt liên hồi; và nhận diện được nguồn tâm tự hữu ta lúc nào cũng hiện hữu tức là đại dương mênh mông bao la, không hề lên xuống nổi chìm như muôn ngàn đợt sóng. Là lúc ta đang ở trong trạng thái nhận biết vô ngôn. Sự nhận biết trực tiếp tỉnh sáng, không lời, không sinh, không diệt là trạng thái Niết Bàn diệu tâm của bản thể Chân Như.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Một hôm, Ngài Chân Tịnh dẫn đồ đệ đi dạo núi, Ngài hỏi đệ tử: “Con có thấy trăng sáng không vậy?” Đệ tử thưa: “Dạ thấy”. “Con có ngửi ra mùi hoa nguyệt quế thơm không?” Đệ tử thưa: “Dạ có.” Ngài liền bảo: “Đạo lý mở bày ra trước con. Ta có gì dấu con đâu, con cũng như ta, cũng có cái nhận biết như ta.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tất cả chúng ta đều có khả năng nhận biết như Phật, như Tổ, và không hề khác nhau về khả năng giác ngộ. Chỉ khác một điều là chúng ta mãi ở trên mặt sóng biển mà người xưa thì luôn trụ trong đại dương bao la không gợn sóng. Các vị tắt được khả năng nói lầm thầm, là an trụ trong Niết Bàn thường tịch. Thế thôi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
II. Đạt Phật thâm lý.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Văn học Kinh Bốn Mươi Hai Chương là những đoạn văn từ rất cô đọng, rất khô nhưng cũng rất hấp dẫn. Chúng ta sẽ đi vào đoạn cuối của chương hai như sau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
A. CHÁNH VĂN.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]“Nội vô sở đắc, ngoại vô sở cầu, tâm bất hệ Đạo, diệc bất kiết nghiệp, vô niệm vô tác, phi tu phi chứng, bất lịch chư vị, nhi tự sùng tối. Danh chi vi Đạo”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
B. ĐẠI Ý.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Người xuất gia thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật, tỏ ngộ pháp Vô Vi thì không còn mong cầu các quả vị chứng đắc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
C. NỘI DUNG.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Nếu không đi vào cửa nhà Thiền và bắt đầu từ đó để giải thích thì chúng ta không thể nào hiểu được một cách sâu sắc nội dung của những câu như: “Phi tu phi chứng. Vô niệm vô tác. Tu vô tu tu. Hành vô hành hành”... Nó bao hàm tinh hoa giáo lý Đại thừa, và cả hệ thống Thiền tông Trung Hoa cũng phát triển trên nền tảng nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta nếu đọc hết bốn mươi hai chương Kinh, sẽ thấy toàn bộ chỉ có hai hoặc ba chương là quan trọng. Như trong Chương Hai: “Thức tâm đạt bổn, giải vô vi pháp” hay “Thức tự tâm nguyên, đạt Phật thâm lý, ngộ vô vi pháp.”

Chương Mười Tám là “Tu vô tu tu. Hành vô hành hạnh”. Và cuối cùng Chương Bốn Mươi Hai. “Thị vô thượng thừa như mộng kim bạch. Thị Phật đạo như nhản tiền hoa.” rất đặc sắc.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chỉ trong ba chương được chia làm ba phần với nội dung vô cùng giống nhau đã làm nền cho hệ thống Thiền tông Trung Hoa. Cả chiều dài của Thiền Đông Độ cho đến hệ thống văn học Đại thừa đồ sộ đều phát triển và đặt căn bản trên những từ: “Vô niệm vô tác. Phi tu phi chứng.” nầy. Và nhất là ngôn phong của Chương Bốn Mươi Hai rất tuyệt vời.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta thử đọc một đoạn của Đức Thế Tôn tuyên thuyết: “Ta nhìn tước vị vương hầu như bụi phấn, nhìn nước hồ A Nậu như giọt dầu xoa chân, nhìn thành bại đến đi của đời như cây bốn mùa thay lá, và nhìn pháp Niết Bàn như con mắt bị bệnh nhìn thấy hoa đốm giữa hư không...”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Điều đặc biệt là Kinh Bốn Mươi Hai Chương không theo cấu trúc như những bộ kinh khác có thứ lớp, như thị ngã văn... Ở đây xen lẫn đoạn nầy, đoạn kia những câu kinh nghĩa lý rất thâm trầm. Nghĩa là những đan xen trong Kinh ta không thể phân tích cấu trúc theo tầng lớp từ thấp đến cao gì cả.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
1. Thiền tông Trung Hoa và con đường thể ngộ.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Con đường Thiền tông Trung Hoa đi vào đạo để thể ngộ tự tâm đã có một bề dày từ ngày Phật giáo du nhập Trung Hoa. Về sau khi thừa tiếp truyền thống Thiền của Ngài Hoàng Nhẫn, Lục Tổ Huệ Năng triển khai Đông Sơn pháp môn với những điều đặc biệt của truyền thống nhà Thiền để ta trượt chân vào tự thể tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Huệ Năng vốn ít học, không phải là người xuất thân từ Tùng lâm học thuật cũng không phải là người sinh ra từ rừng kinh biển chữ nên ngôn ngữ của Ngài giản dị vô cùng. Ngài đã mở ra một con đường cho người ta có thể đột nhập vào tâm rất dễ. Như qua ngôn ngữ Kinh Kim Cang thì tinh thần của Kinh là: “Không trụ vào sắc sinh tâm, không trụ vào thinh, hương, vị, xúc để sinh tâm, mà phải trụ vào chỗ vô trụ để sinh tâm. Đó là con đường để hàng phục vọng tâm, an trụ chân tâm.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nhưng với Huệ Năng bằng một ngôn ngữ rất là bình dân, giản lược Ngài giúp cho người học đạo nắm được bản tâm bằng những lời: “Ông hãy buông hết tất cả những vọng niệm lăng xăng, an tâm lại ngay nơi đây và giờ phút nầy. Hãy nhìn lại xem lúc tâm thức an bình, tĩnh lặng không có ý niệm về thiện, về ác: lúc đó cái gì là bản lai diện mục của ông.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ngôn ngữ Kinh Kim Cang học từ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, đã được Lục Tổ diễn đạt bằng ngôn từ Trung Hoa chất trực và trao cho Huệ Minh ngụm nước đầu nguồn tức khắc Huệ Minh nhận được bản lai tâm, tức tâm thể chân thật của chính ông ta.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta đều biết giáo lý căn bản của Phật dạy là vô thường. Khi nhận thức tất cả mọi thứ trước mắt đều vô thường là ta lìa được chấp trước bên ngoài. Quay lại, chúng ta nhận được thân nầy vô thường là lìa chấp trước bên trong. Đi vào sâu hơn nơi thân là cảm thọ cũng là loại vô thường sinh diệt. Và đi vào tầng sâu thẳm hơn nữa của tâm thức là những tiếng thì thầm cũng là loại vô thường. Tất cả những vô thường nầy đều có mặt trên tự thể Niết Bàn, tức có mặt trên biển tâm thanh tịnh của chúng ta.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Niết Bàn không phải là một cảnh giới ở hành tinh nào xa xôi, mà là trạng thái của tự tâm có mặt ngay hiện tiền; như khi chúng ta dừng suy nghĩ và quán chiếu thì chúng ta thấy ngay tự thể Niết Bàn hiển lộ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta thử quay lại tự hỏi cái gì là tự thể Niết Bàn? Cái gì là tự thể tâm bất sinh, bất diệt của mình? Tuy từ ngữ nầy có rất nhiều nơi gọi khác nhau như trong Kinh Lăng Già gọi là Bất động Trí, Đệ Nhất Nghĩa, kinh Lăng Nghiêm gọi là Chân Tâm, truyền thống nhà Thiền gọi là Bản Lai Diện Mục và tổ Lâm Tế gọi là Vô vị Chân Nhân, nhưng cùng chỉ tự thể tâm không sinh không diệt.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Người tu chúng ta nếu nhận ra và sống trọn vẹn với tự thể Niết Bàn của mình thì người ấy đã an trụ trong “hiện pháp lạc trú” hay nói một cách khác là đang ở trong trạng thái hữu dư Niết Bàn; là Niết Bàn nhưng còn hình hài sinh diệt. Nếu xả bỏ hình hài sinh diệt thì nhập vô dư Niết Bàn tức là nhập vào biển Pháp thân.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường của Thiền tông Trung Hoa mà các Thiền sư đã dùng ngàn vạn cách khơi mở để chúng ta thể ngộ dễ dàng, nhận ra được tự thể tâm (có đến một ngàn bảy trăm công án) chỉ bằng vào một điều là bắt chúng ta quay lại nhìn trạng thái tâm đang có mặt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Khi thể ngộ được tâm nầy là một trạng thái tâm tĩnh lặng, chiếu sáng hiện tiền vô niệm tức chúng ta là khả năng nhận biết, là chủ thể đang an trụ, không đến, không đi. Và nó là tự hữu nhưng có điều chúng ta quên; quên thì mê, nhớ thì ngộ và nếu ngộ, nhận ra được khả năng nhận biết tự hữu thì gọi là người đắc Pháp Nhãn Tịnh.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Sự “nhận biết vô ngôn” thường được ví như một mảnh gương trong, thật sáng. Bình thường, bản thân nó là gương trong veo không bao giờ bị mờ đi dù một làn bụi mỏng. Tự thân lúc nào nó cũng phản chiếu rõ ràng và tinh tường những gì bất ngờ đi ngang qua mà không hề lưu giữ lại một hình ảnh, để lại một dấu vết gì làm cho tự thể trong lặng, sáng ngời của nó mờ đi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tâm thức của chúng ta cũng vậy, với khả năng lầm thầm khởi lên bất tận của dòng chảy ý nghĩ, nếu người tu chúng ta thực tập giỏi nhận diện được ngay, tức sự nhận biết vô ngôn có mặt. Khi đó là ta đang ở trong trạng thái nhận biết mà không nghĩ tưởng mông lung. Đây gọi là cái biết của tự thể tâm. Tất cả những suy nghĩ, ý niệm, vọng tưởng dù khởi lên như thế nào, dù có thiên biến vạn hóa cũng không thể thoát khỏi khả năng chiếu diệu mênh mông bao la, tức là tâm thức rỡ ràng, hiện tiền nhìn nó, rồi cho qua đi mà không lưu lại, không nắm giữ. Cũng không có mặt những thầm thì, lao xao sinh diệt, đó là trạng thái tâm thể Niết Bàn bất sinh, bất diệt.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta chỉ cần có niềm tin vào khả năng chiếu diệu của tự thể tâm sáng chói là chúng ta đủ niềm tin đi vào biển Niết Bàn. Tóm lại, cả chiều dài của sự tu tập chỉ để làm một việc là chứng được Niết Bàn tự tâm.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
2. Không có quảng cách.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta luôn có một ý niệm về con đường tu tập là từ bên nầy sinh tử vượt qua dòng sông đến bờ bên kia là bến Niết Bàn. Kỳ thực Sinh tử và Niết Bàn cách nhau bằng một niệm mà thôi. Khoảng cách giữa Niết Bàn và Tử sinh chỉ nhỏ như đường tơ, kẽ tóc. Nó nhỏ đến không còn ranh giới. Điều nầy đã được Ngài Phó Đại Sĩ nói lên bằng những câu:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tạc nhật Dạ xoa tâm.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Kim triêu Bồ Tát diện.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bồ Tát dữ Dạ xoa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bất cách nhất điều tuyến.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Tạm dịch:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hôm qua tâm Dạ xoa,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hôm nay mặt Bồ Tát.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bồ Tát và Dạ xoa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không mảy may ngăn cách.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
Hãy thử quay nhìn lại công phu tu của chính mình. Chúng ta thấy nếu khi tâm hành hờn giận sinh khởi, mình liền hóa thân vào niềm hờn giận, thấy mình là nỗi buồn giận và đắm chìm vào trong đó thì ta đang ở bên bờ sinh tử. Nhưng nếu trong tích tắc ta hồi chiếu lại; nhìn hờn giận là những trạng thái tâm hành mà ta là năng lực chánh niệm đang nhận diện thì lập tức những hờn giận trở thành đối tượng bị nhìn mà ta là tự thể tâm chiếu sáng hiện tiền nhìn nó, tức khắc ta đang an trú trong Niết Bàn. Như vậy, giữa “hờn giận” và “sự nhận biết hờn giận” cách nhau bao xa? Nếu chúng ta dùng ngôn từ khác như thất niệm và chánh niệm thì hai trạng thái tâm nầy cách nhau bao nhiêu? Thưa, chẳng có khoảng cách.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thất niệm có nghĩa là quên, chúng ta quên tự thể tâm, quên tự thể Niết Bàn đang hiện hữu. Và chánh niệm là ta đang ở trong trạng thái của Bản môn, đang ở trong vùng trời Niết Bàn của chính mình, nên thất niệm hay chánh niệm có cách xa nhau bao giờ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
“Đàn chỉ viên thành bát vạn môn. Nhất siêu trực nhập Như Lai địa.” Đây là hai câu trong Chứng Đạo Ca của Ngài Huyền Giác. “Nhảy một bước vào cảnh giới của thập phương Như Lai. Chỉ một cái búng tay thành tựu vô vàn công đức” mà không cần qua ba A Tăng Kỳ kiếp. Điều nầy trở thành dễ nhận biết vô cùng nếu chúng ta có công phu thực tập.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tuy nhiên, có ba trạng thái của tâm khi chúng ta công phu để tự mình thẩm định rằng đang an trú tâm hay đang để mình chìm nổi trong sinh tử:
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
– Nhìn vào cảnh ta bị mất mình trong cảnh. Khi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với sắc màu, âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm ta trôi theo dòng chảy cảm thọ và dòng chảy suy nghĩ. Ta tự đồng hóa mình vào những thứ ấy, mất mình vào những thứ ấy gọi là bị nhận chìm, bị dìm chết trong cảnh. Đây là trạng thái tâm sinh tử, vọng thức. Sống trong ấy là sống trong sinh tử nối dài.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
– Nhìn mà tâm ý dật dờ không nhận biết. Ở trong trạng thái mờ mờ như sắp chìm vào trong giấc ngủ do vì thần trí đang dạo chơi đâu đó, không có mặt sự tỉnh sáng nhận biết. Đó là trạng thái vô ký.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
– Nhìn là nhận biết mọi thứ nhưng tâm thể lặng yên, tỏa sáng chánh niệm hiền tiền. Đây là trạng thái của người thực tập công phu. Cho dù con đường Thiền có mở ra ngàn lối, nhưng đường vào chỉ có nẻo nầy thôi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Những vị Thiền sư cũng nhìn, cũng thấy, cũng nghe, cũng nếm, cũng ngửi như ta nhưng họ đang an trú trong tự thể tâm. Còn chúng ta khi nhìn thì mất mình trong màu sắc, nghe thì mất mình trong âm thanh, ngửi thì mất mình trong hương vị; trạng thái tâm nhận biết không có mặt và chúng ta cứ để mình chìm vào trong vui buồn, không biết hồi phục lại để làm người đứng bên dòng sông nhìn dòng chảy vui buồn, suy nghĩ trôi trước mắt ta. Bồ Tát và chúng sinh cũng mày ngang mũi dọc như nhau ở hình thức, nhưng khác nhau ở chỗ là làm người đứng nhìn hay để cho mình bị nhận chìm trong dòng sông cảm thọ, nghĩ suy bời bời. Thế thôi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Sự nhận biết của chúng ta khi an trú trong tự thể tâm rất là bình thường, không phải an trú trong tự thể tâm rồi hào quang chiếu sáng khác thường. Khi chúng ta an trú được trong tự tâm hiện tiền thì tự ta chiêm nghiệm được. Lúc bấy giờ tất cả đều trình hiện trước mắt rõ ràng, không có bóng dáng quá khứ xen vào. Và một khi quá khứ đã không có mặt thì hiện tại lẫn tương lai đều vắng bóng, triệt tiêu luôn ba thời quá khứ, hiện tại, tương lai. Chỉ còn lại trạng thái tâm thức hiện tiền tỏa chiếu; giữa Sinh Tử, Niết Bàn không còn khoảng cách. Chỉ cần phục hồi lại năng lượng chánh niệm, ngay nơi đây chúng ta chứng nghiệm được Niết Bàn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
3. Không mong cầu, không thành đạt.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]“Nội vô sở đắc.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta nghĩ tu là sẽ được gì thêm? Có được gì không? Chắc chắn là không. Đừng bao giờ nghĩ tu là được gì.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tâm thể chúng ta vốn vô sinh bất động, vốn vô ngã, vốn là Niết Bàn, vốn là Phật rồi chứ không phải đợi tu mới thành Phật. Tu không làm gì thêm. Tu chỉ có nghĩa là loại bỏ, bước lui lại. Thay vì đứng trong dòng nước để nước cuốn trôi và nhận chìm, giờ ta hãy dừng lại. Dừng lại, đừng đồng hóa mình vào dòng chảy là đã đứng bên bờ rồi. Đã thành Phật, đã vượt thoát tử sinh. Đây là ý nghĩa của “nội vô sở đắc.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
“Ngoại vô sở cầu.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở bên ngoài, chúng ta không chạy theo bất cứ danh lợi, vật chất phù hoa. Tất cả đều nổi trôi rồi cũng bị vô thường làm rửa mục, rồi cũng tàn hoại theo thời gian. Chúng ta đến cõi nầy bằng một hạt mầm bé nhỏ gieo trong trứng của mẹ, nằm chín tháng, mười ngày trong máu thịt; ra đời không một mảnh vải che thân. Chỉ là một hình hài như bao nhiêu hình hài khác, có gì là sang quí vọng tộc. Cho dù có tô điểm, sơn phết bản ngã chúng ta đến đâu đi nữa, cuối cùng rồi chúng ta cũng rũ bỏ hình hài nầy cho cát bụi ra đi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ở bên trong, nếu chúng ta nhận ra được không có gì bằng tự thể Niết Bàn của chính ta tức tự thể tâm mình, thì chúng ta sẽ không mặc cảm và cũng không kiêu ngạo. Có gì mà kiêu ngạo? Chúng ta đều như nhau: đều có khả năng nhận biết, đều có tánh giác chiếu diệu như nhau, đều có khả năng làm Phật như nhau, Phật và chúng sinh chỉ cách nhau trong đường tơ, kẽ tóc. Chỉ có một điều là chúng ta quên hay nhớ thế thôi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong vấn đề tu tập, chúng ta cần phải biết phục hồi lại những gì đã có. Năng lượng bình yên tĩnh tại, phản chiếu là tự hữu; chỉ cần chúng ta nhớ thì tự thể tâm chiếu sáng, là chúng ta đang ở trong vùng đất Như Lai, nếu quên thì chúng ta mất mình và trôi lăn trong lục đạo luân hồi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tự thể tâm ta vốn lặng lẽ, trong sáng tịch nhiên, vốn là Niết Bàn nên không cần phải tìm cầu, không cần phải làm gì cả. Cho nên “Nội vô sở đắc, ngoại vô sở cầu.” là như thế.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
4. Mặc tình trôi.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]– “Tâm bất hệ đạo, diệc bất kiết nghiệp.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Tâm không ràng buộc vào đạo, cũng không kết nghiệp”. Chúng ta có thể hiểu câu kinh trên qua hai tầng nghĩa cạn và sâu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ở tầng cạn chúng ta phát khởi tâm hướng đến sự tu tập bằng tất cả nhiệt tình, gắn chặt đời mình với đạo, vận dụng tâm thức sinh diệt hướng ngoại rong ruổi tìm cầu. Được gọi là buộc mình vào đạo và tạo nghiệp tu, thành tựu quả hữu lậu.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tầng sâu ta an trú tâm ngay nơi tự thể rỗng lặng vô niệm, thong dong mà đến, phiêu bồng mà đi. Không gắng sức, không hướng ngoại tìm cầu nên không phải buộc ràng gì với đạo, cũng không tạo nghiệp, tạo phước hữu lậu tử sinh.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tóm lại, nếu chúng ta nhận ra được tự thể tâm, công phu tu tập của chúng ta rất nhàn hạ. Nếu chưa nhận ra được, chúng ta phải luôn luôn đối phó với trạng thái tâm bất an như đau khổ, buồn phiền, ham muốn... thì chúng ta rất là điêu đứng với ý niệm luôn luôn muốn trấn ngự, diệt trừ, loại bỏ những tâm hành tiêu cực mà chúng ta nghĩ là người tu không nên có. Chúng ta nên hiểu những gì trong tâm thức bị dồn nén, trấn ngự, lúc nào cũng có phản ứng ngược lại, và khi chúng ta khởi lên ý tưởng đề kháng, áp đảo, loại trừ thì nó được trút thêm năng lượng để lớn dần, mạnh hơn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa đại chúng, với sự thực tập giỏi, có công phu tu thực sự chúng ta sẽ nhận rõ được điều nầy nơi tự tâm. Chúng ta không cần ràng buộc tâm với đạo, vào sự tu tập. Hãy nhẹ nhàng để cho tâm tự nhiên trong dòng chảy của nó, và chỉ cần mời sự “nhận biết vô ngôn” có mặt nhận diện nó, dần dần nó sẽ tự lặng yên.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Nhậm tha pháp tánh châu lưu, mạc tục mạc đoạn. Văn thinh kiến sắc, cái thị tầm thường. Giá biên na biên, ứng dụng bất khuyết.”: “Mặc cho dòng pháp tánh vận hành trôi chảy miên man, không nối thêm mà cũng không cắt đứt. Hãy để cho khả năng tỉnh sáng của tâm có mặt; không cần khởi quán chiếu, cũng không cần khởi tâm diệt trừ vọng tưởng. Nghe tiếng, thấy sắc vốn là việc bình thường, và bên lý bên sự ta ứng dụng không lúc nào khiếm khuyết cả.” Đây là lời dạy của thiền sư Linh Hựu. Chỉ cần mời gọi năng lượng chánh niệm có mặt trong từng sát na một, thì dòng chảy của sự tu tập, pháp tánh tự châu lưu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Từ đấy, chúng ta có thể nhận ra khả năng của vọng thức, phiền não... chỉ là bụi trần không hề dính gì đến chúng ta. Tâm ta như hư không, bao la rỗng lặng và với công phu tu rất nhẹ chúng ta tự nhiên đi vào dòng chảy, đi vào quả Thánh.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
5. Chiếu sáng và bất động.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]– “Vô niệm vô tác, phi tu phi chứng.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hai câu nầy chúng ta sẽ gặp nhiều lần trong những chương sau của Kinh, tôi sẽ mở rộng và đi vào chiều sâu khi gặp lại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tuy nhiên trong Kinh Lăng Già có hai câu mang nội hàm rất gần với đoạn nầy:
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Năng thiện phân biệt chư pháp tướng, ư Đệ Nhất Nghĩa bất động.” là khéo phân biệt được các pháp tướng, nhưng ở nơi Đệ Nhất Nghĩa vẫn bất động?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Đệ Nhất Nghĩa” là tên khác của Như Lai tức tự thể tâm không sinh diệt. Thế nào là khéo phân biệt được các pháp tướng mà nơi tâm thể vẫn bất động?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Khi tâm thức chúng ta dừng lại trong giây phút hiện tiền và mời được sự “nhận biết vô ngôn” có mặt thì không có cảm thọ hay tâm hành nào ở bên trong bất chợt hiện đến mà chúng ta không tức khắc nhận ra. Bên ngoài chúng ta phản ứng rất nhanh và kịp thời đối phó với mọi tình huống rất trực tiếp và rất bén nhạy. Như khi nghe tiếng một cành cây sắp gãy, chúng ta biết lùi lại. Chân sửa soạn bước nếu thấy một con rắn tự nhiên ta liền kéo chân vào. Nếu chúng ta không phản ứng hay phản ứng chậm hoặc không nhận biết ngay được; đó chính là lúc tâm thức của ta đang rong chơi, đang thất niệm.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Qua câu chuyện của Ngài Hám Sơn sau đây chúng ta thấy rõ công phu thực tập của người xưa: Lúc Ngài ngồi chép kinh, có một số Phật tử đến vây quanh hỏi đạo. Ngài ung dung trả lời rất rành rẽ trong khi tay vẫn chép kinh, tai vẫn nghe từng câu hỏi, miệng vẫn trả lời từng câu một của Phật tử rất mạch lạc. Sau hai giờ bị làm xao động bởi những câu hỏi, khi những Phật tử xin Ngài cho xem lại bản viết để có niềm tin vào định lực của Ngài, kỳ lạ thay những trang kinh Ngài chép không sai trật một chữ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta cũng thế, cũng có khả năng làm được mọi thứ, đồng thời cũng an trú trong thể tâm lặng lẽ nếu chúng ta tu tập giỏi. Cùng một lúc vừa an trú nơi tâm thức rỡ ràng nhưng vẫn thấy, nghe, hiểu biết... phân biệt được mọi thứ mà không bị mất mình trong một đối tượng nào tức chúng ta đang an trụ trong Đệ Nhất Nghĩa. Đó là: “Vô niệm vô tác. Phi tu phi chứng”.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Niết Bàn, Như lai, Phật tánh... là những danh từ đã được nạm vàng, mang đầy màu sắc mê hoặc mà người xưa thường hay xử dụng. Chúng ta đừng để bị quyến rũ rồi cố vận dụng hết khả năng tư duy, suy nghĩ để mong đạt tới.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa, những gì cần đến khả năng tư duy, vận dụng công phu thật nhiều, những gì cần phải ra sức khó nhọc để lao vào; tất cả đều ở ngoài ta, không thật có.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên, người tu đến mức độ nhuần nhuyễn, thâm sâu không cần phải dụng công gì hết. Chỉ nhẹ nhàng tự nhiên để mặc cho tâm thể bất động, vô niệm tỉnh sáng vận hành trôi chảy miên man, ấy là “Pháp tánh châu lưu” có mặt khắp mọi nơi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa đại chúng, chúng ta sẽ gặp lại: “Vô niệm vô tác. Phi tu phi chứng.” nơi chương mười tám của Kinh trong những lần giảng kế tiếp.
[/FONT]
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG III[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=+1]

[/SIZE]
[/FONT]<strong><font color="#000000"><center>Hiện hạnh Sa Môn</center></font></strong><br />
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Hien_Hanh_Sa_Mon.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" width="425" height="340"></embed></center><br />



</center> [FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Như chúng ta đã từng học qua, hầu như toàn bộ văn cú trong Kinh Bốn Mươi Hai Chương được viết lên như những câu thơ thật ngắn mang đầy nhạc tính. Cho nên văn phong chữ Hán của chương nầy như một bài kệ bốn chữ, chỉ có câu cuối năm chữ rất dễ cho chúng ta học và nhớ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
A. CHÁNH VĂN.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Thế trừ tu phát, nhi vi Sa môn. Thọ đạo pháp giả, khử thế tư tài, khất cầu thủ túc. Nhật trung nhất thực, thọ hạ nhất túc. Thận vật tái hỹ. Sử nhân ngu tệ giả, ái dữ dục dã.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Đức Phật dạy: “Cạo bỏ râu tóc làm một vị Sa môn, nhận giáo pháp để thực tập. Bỏ tất cả sở hữu vật chất, của báu thế gian. Chỉ xin ăn vừa đủ, giữa một ngày chỉ ăn một bữa, dưới tán cây chỉ ngủ một đêm thôi. Cẩn thận không tham đắm thêm, thế là đủ. Điều khiến cho người ta u mê và thối đọa, che lấp con đường tu tập đó là ái và dục.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
B. ĐẠI Ý.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Phẩm chất cao vời của người xuất gia được thể hiện ra bên ngoài qua công phu hành trì và tu tập nội tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
C. NỘI DUNG
.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta có thể gọi chương nầy bằng tên là “Hiện Hạnh Sa Môn” bởi nội hàm của đoạn Kinh mang một yêu cầu phải có của phẩm chất bên trong và sự biểu hiện bên ngoài của đời sống người xuất gia. Chúng ta phải thể hiện phẩm hạnh Sa môn qua những tu tập căn bản như thế nầy:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
1
. Thân giáo và khẩu giáo.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phẩm hạnh của chúng ta được thể hiện ra ngoài bằng thân và miệng. Hai điều nầy cách biệt nhau rất lớn. Dạy bằng thân giáo tức là đời sống tu hành được thể hiện ra thân, gây dấu ấn nơi người rất đậm. Tình cảm quí trọng của họ đối với vấn đề thân giáo bền bỉ hơn và đồng thời niềm tin của người Phật tử hoặc bạn đồng tu bền vững hơn là khẩu giáo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thông thường chúng ta hay thích nói quá, nói hơn những điều mà chúng ta có thể thực hiện được. Cho nên nền tảng tu tập của tâm là thân và khẩu giáo.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thân và khẩu giáo được xây dựng trên tâm. Ví dụ như đời sống tu hành mà bên trong nội tâm chúng ta có đức hạnh và trí tuệ, thì dù cố gắng che dấu đến đâu người ta cũng nhận ra có điều khác biệt hơn người. Nhưng đời sống nội tâm chưa đủ sâu, chưa cảm ngộ được đạo thì dù ta có thể nói thật hay nhưng nếu ở gần ta ít lâu họ sẽ khám phá ra và sẽ nhàm chán.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ngày nay nhiều đạo tràng đổ vỡ là do chư tăng thiếu phẩm chất, thiếu trình độ tu tập. Thời Phật giáo hưng thịnh là thời mà đời sống tâm linh, đạo đức và khả năng tu tập của chư tăng rất thâm sâu, nghiêm mật. Thời mà chư tăng hướng ngoại, đi vào lợi danh của thế trần, nếp sống đạo đức không có thì thời đó Phật giáo bị suy thoái.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Người ta không đánh giá sự trường tồn hưng thịnh của đạo pháp, hay sự diệt vong tiêu trầm của Già lam căn cứ vào điều kiện đông chư tăng, chùa cao Phật lớn hay chư tăng được Vua, Chúa mời vào cung giảng kinh, thuyết pháp mà căn cứ trên tầng cao hơn, sâu sắc hơn nhiều. Đó là sự chứng ngộ của người tu.

Điều nầy đã được lịch sử chứng minh vào thời Thiền tông phát huy rực rỡ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dòng Thiền phương Bắc của Ngài Thần Tú phát triển ở Kinh đô, bản thân của Ngài được ba đời vua Đường rất ngưỡng mộ và kính trọng nhưng đã không kéo dài được bao lâu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ngược lại với dòng Thiền của Thần Tú là dòng Thiền phương Nam của Huệ Năng. Ngài ở tận Quảng Đông, huyện Thiều Châu quê mùa, xa cách kinh thành, phố thị, ẩn mình trong chốn núi rừng, sống hẩm hiu, khước từ ân điển của nhà vua, và chỉ hóa độ một ít đồ chúng. Dù khả năng giáo hóa của Lục Tổ hạn chế trong vùng Thiều Châu, sinh hoạt Thiền của Ngài cũng không phổ biến sâu rộng đến giới trí thức, sĩ phu thế mà môn đồ của Ngài là những bậc Long, Tượng chốn Già lam đã tạo thành một dòng Thiền cực kỳ hưng thịnh kéo dài đến thế kỷ 21.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Do vậy, ta có thể xác chứng, phải từ trình độ tu tập của nội tâm làm nền tảng cho thân giáo, khẩu giáo, đồng thời làm nền tảng cho đạo Phật trường tồn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tóm lại, trường tồn được lâu dài hay không, phổ biến rộng hay hẹp là do nơi phẩm chất, đạo đức của người tu. Từ đời sống tâm linh bên trong và bên ngoài nếu biểu đạt được phẩm cách, hành trạng của mình thì khả năng giáo hóa rất mạnh. Chỉ một chút kinh nghiệm chúng ta cũng thấy rất rõ; ví như đời sống của một người có tâm hồn cá biệt, có riêng bản sắc của mình thì dù sống trộn lẫn giữa cộng đồng, và cố giấu thân phận mình cách mấy họ vẫn là người nổi bật trong đời, trong đạo.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Những gì được biểu hiện ra bên ngoài là từ nền tảng, gốc gác của sự sống tiềm ẩn bên trong, cho đến thực vật cây cỏ cũng vậy, sự sống mạnh hay yếu không phải chỉ được đánh giá bằng những cành lá tươi tốt mà chính từ gốc rễ của nó nằm rất sâu trong lòng đất.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thế nên thân giáo, khẩu giáo được biểu hiện như sức hút và làm được Phật sự là từ nền tảng của tâm, do sự thực tập chuyển hóa tâm thức tạo thành. Sâu hơn nữa là trình độ nội chứng bên trong tức là sự thể ngộ của tâm. Và như chúng ta đều biết trong phần đầu của Kinh Bốn Mươi Hai Chương phẩm chất của Sa môn là “Thức tâm đạt bổn” rất quan trọng, nó làm nền cho những hiện hạnh nầy.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
2. Tri túc.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]– Tri túc là phẩm hạnh của đời sống người tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta may mắn gặp được những bậc Thầy giỏi khơi mở cho mình đường tu, chúng ta sẽ cảm nhận một điều là không có gì quý hơn sự tu tập cũng như không có hạnh phúc nào lớn bằng hạnh phúc bên trong ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Hạnh phúc của sở đắc vật chất, tài sản là hạnh phúc phù du. Chúng ta cần có nó chỉ để xử lý, để no ấm trong cuộc đời, để hình hài nầy tồn tại, để làm đạo. Nên nếu hạnh phúc của đời sống chỉ gắn liền vào những điều kiện vật chất bên ngoài thì thật là tội nghiệp, bởi vì không có hạnh phúc nào có điều kiện mà giữ được lâu dài. Hạnh phúc có điều kiện là khi chúng ta xem những sở hữu bên ngoài như tài sản, bạn hữu, người thân, con cái... nếu có thì ta mới hạnh phúc. Do vậy, người ta thương mình, mình hạnh phúc, người ta quay lưng lại thì mình bất hạnh. Nhưng sáng thương chiều ghét là điều rất bình thường của con người, có ai mà thương ai mãi hoài. Cho nên ta gắn đời ta vào bất cứ những gì ở bên ngoài thì đó là điều kiện của sự bất hạnh, không phải thực chất của hạnh phúc.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Khi đã biết con đường tu, và chỉ có duy nhất một con đường tu mà thôi thì chúng ta có đủ can đảm buông bỏ mọi thứ. Nhu yếu của người tu không phải là những điều kiện vật chất phù hoa bên ngoài, chúng ta chỉ cần vừa đủ để sống, để hành đạo. Tuy nhiên hai đều nầy thường tương phản, nó như một cái cân; nếu ta nặng về tiền tài, vật chất đời sống thế gian, thì nhẹ về đời sống tinh thần tu tập.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trên căn bản, phẩm hạnh của người tu là tri túc, là “an bần thủ đạo,” thế nhưng có giai đoạn chư tăng không giữ được nền tảng căn bản nầy; chư tăng lạc vào thế giới lợi danh phù phiếm bên ngoài. Đây là điềm triệu của sự suy thoái, phá sản bên trong rất nghiêm trọng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ở tầng thâm sâu hơn, chúng ta nên lưu ý đừng đánh giá tri túc qua sự nghèo khó bên ngoài với tri túc chân thật của tâm thức, và chúng ta thường hay bị lừa bởi hai điều nầy. Sự tri túc của tâm thức là sự khước từ của tâm đối với tài vật thế gian, còn sự nghèo khó bên ngoài đôi khi chỉ là sự tô vẽ, sơn phết màu mè hình thức để che đậy của những khát vọng rất mãnh liệt thầm kín bên trong.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Một nhà tu dù chỉ khoác một mảnh y thôi chưa chắc đã là người tri túc, nhưng với một tâm hồn biết khước từ, biết tri túc thực sự có thể là một tỉ phú mà vẫn là người tri túc. Chúng ta thường đánh giá sai sự tri túc, phẩm hạnh của Sa môn rất cạn ở mặt ngoài.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta phải hiểu sự khước từ nầy rất thâm sâu, nó có mặt tận bên trong. Sự khiêm tốn nó nằm ở bên trong, sự khước từ, sự tri túc cũng nằm ở bên trong. Nếu chỉ nhìn ở mặt ngoài không đủ để chúng ta đánh giá được phẩm hạnh của Sa môn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nếu tự tâm người tu chúng ta có được niềm vui, có được pháp tu, cảm nhận con đường tu là tuyệt vời thì không gì có thể đổi được. Dù cho ở trong những tiện nghi vật chất, thoải mái nơi chùa cao Phật lớn, tâm vẫn cảm thấy bình thường; vẫn sống một đời giản dị, đơn sơ. Chúng ta không nên có tâm thức thiên kiến, lệch lạc về tri túc rồi chối từ, ghét bỏ, mạ lỵ đời sống tương đối đầy đủ với một ít phương tiện trao cho ta để tồn tại.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
– Nếp sống tri túc đưa đến phẩm hạnh của trí tuệ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người xưa đi tu chỉ xin vừa đủ ăn. Giữa ngày ăn một bữa, bên gốc cây chỉ ngủ một lần. Cẩn thận không xin ăn hai lần tại một nhà thí chủ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong tạng luật, pháp chế Phật cấm không được tới xin ăn hai lần trong một thôn trang. Có những thầy tuy tu nhưng thích ăn ngon nên có thí chủ nào cúng dường thức ăn ngon thì hôm sau ôm bát đến đứng đợi. Bởi thế, khi đi khất thực tăng đoàn chỉ đi ngang qua thế thôi. Và làm được điều nầy, thể hiện đầu tiên là niềm kính trọng của cư gia Phật tử, họ sẽ không chán tăng đoàn vì thấy ông thầy kia sao cứ đến xin hoài. Thứ hai là biểu đạt được tâm thức rất là thong dong, không đắm nhiễm, không vướng mắc.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta thường nghĩ vướng mắc những gì lớn mới là quan trọng. Một miếng ăn ngon, một giấc ngủ nhiều... thì có gì là quan trọng, nhưng chúng ta đừng quên rằng tất cả những cái lớn đều bắt đầu từ những cái rất nhỏ. Nếu tâm thức chúng ta vướng mắc những điều dù rất nhỏ nhưng những điều rất nhỏ nầy sẽ tạo điều kiện cho những vướng mắc rất lớn về sau, vô tình kết thành một chuỗi dài liên hệ chặt chẽ với nhau khó tháo gỡ. Do vậy chúng ta hãy cẩn thận.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Điều mà tôi muốn chia xẻ thêm cùng quí vị, tri túc chính là nền tảng cho trí tuệ phát triển. Hầu như không có một vị đệ tử nào của Đức Thế Tôn mà nghèo đói trí tuệ. Có thể có những vị không có điều kiện học tập trong môi trường thích hợp, không được đào tạo từ những học đường nổi tiếng nhưng khi có cơ hội để sống đời tu tập nghiêm túc, quán chiếu sâu sắc diễn trình của tâm thức thì họ đều là những vị thầy giàu có trí tuệ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trí tuệ thế gian là một loại trí tuệ hướng ngoại, lưu trữ và vay mượn, qua nhiều thế hệ mà hình thành. Như khoa học hình thành là do kinh nghiệm của nhiều đời truyền đạt và ta học được từ kinh nghiệm của quá khứ cùng với kinh nghiệm của chính mình. Tất cả những môn học của thế gian đều đi trên con đường nầy.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trí tuệ Phật giáo thành tựu bằng con đường hướng nội, ngược lại cách sở đắc trí tuệ nhân gian. Những môn học của đạo Phật không phải là môn học bên ngoài mà ở bên trong và con đường tâm thức là con đường phải tự mình khám phá, thăm dò. Không hề có một định chuẩn nào cho một tâm hồn nào cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Là những người tu tập thực sự, chúng ta phải nắm được khả năng điều phục tâm, đưa tâm an trụ trong chánh niệm. Và có kinh nghiệm rõ ràng bằng chính sự hành trì của mình tức khắc chúng ta sẽ có khả năng truyền đạt rất thực cho người khác để họ có thể nắm được mà thực tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nếu chỉ từ kinh sách, từ thầy nói sao chúng ta lập lại y như vậy thì chúng ta là người không có kinh nghiệm trực tiếp, không có sáng tạo. Thế thì không thể có khả năng giúp đỡ được mọi người. Nếu là người tu tập giỏi, tự nhiên chúng ta phải là những người giàu có trí tuệ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta có thể giỏi về nhiều mặt có nghĩa là mình đi ra ngoài nhiều hướng được. Nhưng con đường hướng ra bên ngoài là con đường của sự thủ đắc thế gian, làm cho bản ngã của ta được tôn vinh và thỏa mãn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong khi con đường đi vào bên trong, quay trở lại là con đường diệt trừ bản ngã, không nắm bắt, không có gì để tự hào kiêu ngạo cho nên không hấp dẫn được con người muốn đi vào đạo. Vì lý do đó, nếu chúng ta quay vào được bên trong, vào tận đầu nguồn sự sống chúng ta sẽ trở thành những con người có trí tuệ. Khám phá được nó, trải nghiệm được nó bằng sự tu tập tự thân thì chúng ta sẽ là những người dạy đạo giỏi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Từ ngàn xưa, các bậc Thầy của chúng ta đều trưởng thành từ nền tảng tuệ giác nầy. Những bậc thầy cận đại không có vị nào không sống tri túc mà làm đạo được.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tự thân họ sống rất thanh bần, mộc mạc và bình dị. Điều đẹp nhất ở nơi họ là sự khiêm tốn. Họ yêu thương, nuôi dưỡng, xây dựng, hỗ trợ đời sống bao người bằng tất cả tấm lòng và đem trái tim mình trải dưới đất để mọi người bước lên. Người có trái tim lớn luôn vì người mà nghiêm khắc với chính mình.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta thì ngược lại; dễ dãi, phóng túng, buông thả với chính mình, chỉ rộng rãi, hào phóng cho riêng mình. Đối với người, nghĩ đến người thì chúng ta dè sẻn, bóp chắt, ích kỷ, nghiêm khắc và hà tiện. Chúng ta hà tiện một lời khen, một nụ cười, một cái nhìn cảm thông, một lời nói dễ thương... trong khi chúng ta xài cho người những thứ tiêu cực như xỉ vả, trịch thượng, kiêu căng, khinh dể thì hào phóng và rất dễ dàng. Tâm thức chúng ta có những thói quen rất lạ lùng và rất ngược như thế.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa đại chúng, với công phu hành trì rất sâu sắc nên người xưa xem nhẹ đời sống vật chất thế gian. Khi đã nhận được đạo rồi họ sống rất là đạm bạc, còn thấp hơn những người nghèo khó rất nhiều. Và từ điều nầy tạo thành phẩm chất cao vời của người tu.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Các vị hạnh phúc với đạo nên không còn tham đắm những nhu yếu của đời sống; dù đó là những nhu yếu rất khiêm tốn cần thiết cho người tu. Đôi khi họ chỉ thích ẩn cư trong rừng sâu, núi cao. Như trong Thiền sử có Ngài Lại Dung suốt ngày nằm trùm mền trong lều với những củ khoai nướng, đôi lúc Ngài cũng chẳng thèm ăn. Vì quá lười biếng, chỉ thích nằm yên mà tu nên người ta gọi Ngài là Lại Dung.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thế nên những người tu dù có viện dẫn bao nhiêu điều, bao nhiêu lý do vì Phật sự nọ, Phật sự kia để chạy lăng xăng, bôn ba vào đời sống xã hội kinh doanh, mua bán, trao đổi... thì vẫn ít nhiều đánh mất phẩm chất người tu và vẫn bị Phật tử xem thường.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tuy nhiên, để thành tựu phẩm hạnh chúng ta phải vượt ngang qua những chặng đường cám dỗ. Ở mức độ cạn, chúng ta có thể vượt qua được những cạm bẫy của tiền bạc, lợi lạc vật chất... nhưng ở tầng sâu mà chúng ta khó vượt qua là cạm bẫy của danh. Chúng ta không đắm nhiễm vào tiền tài, của cải nhưng chúng ta lại lạc vào danh. Tầng nầy rất vi tế nên khó vượt thoát.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ở tầng cao hơn nữa là sở tri chướng của người tu. Chúng ta thấy mình thành đạt nầy, thành đạt nọ về sự hiểu biết, về sự chứng nghiệm tâm linh. Đây là tầng mức mà người tu càng lên cao càng khó vượt thoát, càng khó buông bỏ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thông thường trong khó khăn của nghịch cảnh đói nghèo nung chí con người và chúng ta có thể vượt qua dễ dàng. Nhưng với giàu sang, tiền tài, danh lợi thì chúng ta dễ bị đắm chìm vào trong đó không thể vượt qua.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Đôi khi chất đắng không hại nhưng ngọt mới chết người. Người tu vượt thoát được những khó khăn trong xã hội, và trong đời sống tự thân rất dễ, nhưng để vượt qua được những thuận lợi mới là chuyện khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
3. Cẩn trọng với ái dục.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Ái dục là bản chất của chúng ta. Hạt mầm ái dục nằm tiềm phục trong từng tế bào con người. Nó là năng lực sống và tinh tế vô cùng. Nó tấn công chúng ta từ bên trong mà không phải từ bên ngoài. Tâm thức chúng ta có khả năng lừa gạt ta rất giỏi, và chúng ta không bao giờ chối từ bất kỳ ước muốn gì từ tâm thức khởi lên, cho nên năng lượng ái dục mạnh là do những yếu tố kỳ lạ ấy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Từ cõi vô hình, thần thức rơi vào thai mẹ là do niệm đầu của ái dục. Ở thế gian nầy nếu chúng ta không đi tu thì đi theo con đường ái dục đó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Bởi sự thúc đẩy của đời sống, từ lúc năm, bảy tuổi chúng ta đã biết đòi hỏi ăn
uống để nạp năng lượng vào cho sự trưởng thành. Đến độ mười chín, hai mươi ở tuổi đời sống tình dục bắt đầu phát triển, sự bức bách bên trong rất là tự nhiên nên ta lao xao tìm con đường đó để đi vào. Chúng ta đã từng đi vào nẻo ấy nhiều kiếp và ngao ngán vô cùng, vậy mà sinh ra chúng lại lăn vào con đường nầy nữa.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Khi năng lượng ái dục bắt đầu yếu đi, dịu xuống thì hình hài vật lý, sức khỏa cũng bắt đầu suy thoái. Những vấn đề trục trặc của thân bắt đầu sinh khởi, ta bước những bước của bệnh hoạn, ốm đau, rồi bước dài thêm vài bước nữa đến cái chết.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Rõ ràng một chuỗi dài của đời sống thanh xuân khi năng lực của cơ thể còn khỏe mạnh thì ta bị thúc đẩy bởi nghiệp ái dục, đến khi nghiệp ái dục dịu đi do thân sinh lý nầy yếu thì ta lại chống chõi với cơn bệnh già và chết. Hạt mầm ái dục nầy kết thành thọ mạng nên có tính cách ràng buộc không phải một đời, mà nhiều kiếp sinh tử trôi lăn nó vẫn là hạt mầm đam mê mạnh nhất trong tất cả các loại đam mê của con người. Nó là một năng lực rất lớn, khả năng của nó bén nhạy vô cùng và nó cũng là một loại hạnh phúc, một loại đam mê lớn nhất trong cuộc sống đời thường mà không có một sinh linh nào có thể khước từ được.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
– Hãy nhìn cho rõ mặt.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong Kinh luật giáo lý của Phật đã chế tác ra những điều răn dạy các thầy về ái dục nên chúng ta rất sợ khi nghe đến ái dục, và hay có thói quen phản ứng mù quáng là khi tâm thức mình khởi một ý niệm gì về dục, chúng ta liền vội vàng trấn ngự, loại trừ. Có khi tệ hại hơn, chúng ta xem nó là một tội phạm rất nghiêm trọng nên tự mình gia cố thêm lực đề kháng đối với năng lực ái dục tự hữu từ bên trong, và điều nầy sinh ra phản ứng ngược lại rất khó cho ta tu tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong thế giới người tu, Tăng cũng như Ni rất nhiều dạng bệnh phát sinh do chúng ta xem ái dục là một năng lượng xấu ác cần phải hủy diệt. Khi chúng ta muốn đè nén, trấn áp thì nó quay trở lại quấy phá tự thân. Nhẹ sẽ làm cho thương tổn hình hài, nặng nó làm cho tâm lý ta biến đổi. Chúng ta phải rất cẩn trọng điều nầy, và khả năng hay nhất có thể chữa trị tất cả bệnh trạng phát sinh từ năng lượng dục là phải nhận diện rõ mặt mà thôi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Điều chúng ta cần thận trọng đối với dục là hãy nhìn cho rõ mặt. Khi có niệm dục nổi lên, chúng ta chỉ cần nhìn thôi là đủ. Tại sao chỉ cần nhìn thôi là đủ? Khi chúng ta thực tập giỏi, chỉ cần nhìn được nó thì nó là đối tượng, là cái bị mình nhìn, nó không phải là mình, nó bị mất đi sức mạnh và nó sẽ tự loại trừ. Tất cả những gì mình nhìn được, nhận biết được đều không phải là ta mà ta là cái nhìn. Nhìn được là tuyệt vời. Nhìn là một pháp tu.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nếu nhận ra được phương pháp tu để thực tập thì chúng ta sẽ cảm thấy rất là bình thường trong vấn đề tiếp xúc hay giao tế với bên ngoài.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Không bao giờ có một niệm sinh khởi, hiện diện trong tâm thức của chúng ta mà không có câu nói thầm. Chắc chắn không một ai trong chúng ta không có những thì thầm khi nghĩ đến bất cứ điều gì mà mình có cảm tình. Nhưng ý nghĩ sinh khởi thì chúng ta liền trấn ngự hay cố ý loại trừ, và cho những ý tưởng đó là có tội, phạm giới tức chúng ta đã tạo thành một bãi chiến trường ngay trong tâm thức mình. Tâm ta như một dòng chảy xuôi nếu tu tập không giỏi, không khéo, ta cứ chận dòng chảy thì ở mức độ cạn chúng ta sẽ nhức đầu, tức ngực, mệt mỏi. Nặng hơn sẽ làm chảy máu mũi và xa hơn là đưa đến tình trạng bất bình thường.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Dòng chảy tâm thức là dòng sinh tâm lý vận hành rất tự nhiên, nếu chúng ta khởi công phu kiểu đó chắc chắn làm cho tâm phản ứng tác hại lên cơ thể. Cho nên điều chúng ta có thể làm được là mời sự nhận biết có mặt. Hãy nhận biết sự có mặt của nó. Hãy an trú tâm nơi sự nhận biết mà đừng đồng hóa mình vào dòng chảy ý thức đang vận hành. Hãy để nó tự nhiên và rồi nó sẽ tự bốc khói bay đi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tự thân ái dục nếu chúng ta không thù ghét, không trấn ngự, không khởi tâm thức sợ sệt muốn hủy diệt thì trong sinh hoạt bình thường không xảy ra những tình trạng phức tạp, bệnh hoạn tâm lý khó chữa trị. Cho nên những tiếp xúc trong đại chúng tu không có những dấu ấn, những ấn tượng, không gây thành bệnh chứng để trở thành vấn đề cho ta phải đề kháng.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Một trung tâm sinh hoạt tôn giáo mang tính chất Tây phương, tu sĩ của những trung tâm ấy họ sinh hoạt, học tập tiếp cận xã hội bình thường, đời sống họ tươi mát, trong sáng và thánh thiện. Có những trung tâm, đại chúng cùng học tập, giao tiếp gần gũi thân tình như anh chị em nhưng số lượng người xuất gia bỏ ra đời rất ít, không đáng kể so với những trung tâm tu học mà người ta đặt pháp quy nặng nề, kỳ thị đối kháng giới tính, và cắt đứt quan hệ đời thường.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trái lại có những trung tâm, tu viện kín cổng cao tường, sống giam nhốt thân tâm trong điều kiện vật lý và hủy diệt sinh lực của đời sống tâm lý, nên đã tạo thành sự mất quân bình lớn lao cho các cộng đồng tu. Đây là hiện trạng chung của nhiều truyền thống tôn giáo chứ không riêng gì trong đạo Phật.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Từ điều nầy, cho chúng ta thấy khi mình xem ái dục là nguy hiểm, không dám đối diện, không dám nhìn rõ mặt từ bên ngoài cho tới pháp hành bên trong đã gây ra phản ứng ngược tạo thành một tệ trạng lớn vô cùng.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta phải thông minh, cẩn trọng trong việc tu mới có thể thành công, và tự mình phải là thầy của mình trong cách hành trì.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
– “Sử nhân ngu tệ giả ái dữ dục dã.”
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ái dục ngăn che, lấp mờ trí tuệ, phát sanh bao họa hại và cản trở đời sống tu của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Đối chiếu đời sống tu với đời sống của những người có gia đình, chúng ta thấy đời sống gia đình dù là những Phật tử vợ chồng đều đồng thuận, phát tâm hướng thượng, phát tâm thăng tiến trên con đường tu cũng vẫn có những trở ngại trong việc thực tập Thiền quán. Chỉ có đời sống độc thân mới có thể đi vững vàng, đi nhanh trên con đường thực tập.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Con đường tâm linh vốn là con đường độc hành, độc bộ. Khi ta vướng mắc vào vật chất, tiền tài, với những sở thích riêng tư vốn đã khó khăn cho việc tu tập, huống hồ là vướng mắc tình cảm vào một con người, vào đời sống gia đình thì mức độ khó khăn càng tăng lên rất nhiều.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Con người vốn là một sinh vật mà trạng thái tâm lý thay đổi liên tục, đâu phải bình thường như một món đồ. Chỉ giải quyết những vui buồn, bất an của chính ta cũng đã quá mệt mỏi rồi. Lại còn phải cưu mang, chịu đựng thêm người kia; một gánh nặng đè lên cuộc sống mình thì còn giờ đâu cho chúng ta tu.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Ở đây có một số quí vị đã từng trải qua đời sống gia đình đều thấy niềm vui tuy có nhưng rất ít, và hạnh phúc thì bé nhỏ vô cùng, không đủ bồi đắp vào những đau khổ, lo lắng, phiền muộn của đời sống thân tâm. Vậy nên làm cuộc khởi hành đi về chốn vô sinh bất diệt và an trú trong Niết Bàn tự tâm bắt buộc chúng ta phải đi bằng đôi chân của đời sống độc thân. Chỉ có đời sống độc thân chúng ta mới có thể hoàn thiện hành trình tâm linh của chính mình, chúng ta mới có thể ban tặng, hiến dâng tuệ giác của mình cho người khác được.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
4. Đối chiếu đời sống tăng đoàn quá khứ và hiện tại.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Cả chiều dài đạo Phật phát triển đã đi qua nhiều cuộc chuyển mình cho tới hôm nay là từ đời sống của tăng đoàn được diễn tả bằng: “Khất cầu thủ túc, nhật trung nhất thực, thọ hạ nhất túc.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Người xưa chỉ xin ăn vừa đủ. “Ngày ăn một bữa. Đêm ngủ một lần bên một gốc cây thôi”, nhưng khi đạo Phật vào Trung Hoa thì có những chuyển biến rất khác, và từ đời sống: “Khất cầu thủ túc, nhật trung nhất thực.” cho đến lúc xây dựng được Già lam có trú phòng, có điền sản, trồng trọt cấy cày... là một quá trình kéo dài mất cả trăm năm để thành hình một cơ chế mới.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Từ sơ khởi tăng đoàn du hành dần dần định cư và trở thành những trung tâm tu học, có điền viên canh tác là một bước chuyển mình trong đời sống Sa môn và đã đóng góp rất lớn cho xã hội. Không phải người tu chúng ta cứ khư khư mỗi ngày giữa trưa ăn một bữa, ngủ dưới tán cây một lần là tốt. Điều kiện xã hội, văn hóa mỗi nơi, mỗi thời đều khác. Ấn Độ khác, Trung Hoa khác, Việt Nam khác, và trên đất Mỹ lại càng khác. Cho nên để tồn tại cần phải có một cuộc chuyển mình tất yếu. Dĩ nhiên trong bất cứ một thay đổi nào cũng mang theo những điều tích cực cũng như tiêu cực.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
– Ở mặt tiêu cực, chúng ta thấy trong dòng chảy lịch sử Phật giáo Trung Hoa khi những trung tâm tu học phát triển mạnh, chư tăng bắt đầu có đời sống sung túc, quá đầy đủ về vật chất đưa dần đến sự suy thoái, tăng chúng phát triển hỗn tạp là vào thời kỳ mà những bậc vua chúa đặc biệt ưu ái đến đạo Phật. Nhà vua xem đạo Phật là chỗ tựa nên hết lòng yểm trợ, nâng đỡ thì những thành phần bất hảo, thiếu học xuất gia rất nhiều trong đạo. Thành phần nầy tạo thành một tập thể tăng già ô hợp, qui chế nhà chùa không ràng buộc, giới pháp lỏng lẻo nên phẩm chất người tu xuống thấp vô cùng.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Sau thời kỳ băng hoại thường có những cuộc pháp nạn xẩy ra, lúc ấy nhà vua bắt chư tăng phải hoàn tục. Bắt chư tăng phải thi cử để có Độ điệp mới được chứng nhận cho làm người tu. Và làn gió thanh trừng quét ngang qua đã đào thải, loại trừ bớt đi ít nhiều những thành phần không thực sự có phẩm chất người tu.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tuy nhiên, ở mặt tích cực. Thưa đại chúng, nền văn minh của con người có mặt ngày hôm nay là do con người biết sống định cư. Khi con người bắt đầu dừng lại, không còn lang thang du mục, họ biết dừng lại trên những cánh đồng bên lưu vực của những con sông lớn thì nền văn minh cũng bắt đầu ló dạng.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu như chúng ta cứ phải một ngày ăn một bữa, tối dưới một tán cây chỉ ngủ một lần, rồi nay đây, mai đó hoài thì công trình đóng góp vĩ đại của Đức Phật sẽ đi về đâu? Thế nên ở mặt tích cực mà nhìn thì đời sống định cư tại Già lam, tự viện đã làm nên dòng chảy sống động của Đạo Phật như hiện đại. Chúng ta biết rằng nếu không có đời sống tự viện nuôi dưỡng cho Đạo Phật chắc chắn tất cả mọi lãnh vực từ giáo lý cho đến văn hóa, học thuật, nghệ thuật... sẽ không có tầm mức đồ sộ như ngày hôm nay, và đôi lúc có thể bị nhận chìm, tiêu hoại bởi chiều cao của làn sóng văn minh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Từ đời sống thô sơ khất thực của Tăng đoàn quá khứ cho đến đời sống định cư trong những già lam, những trung tâm, tự viện to lớn đầy đủ tiện nghi như ngày hôm nay là một bước chuyển mình rất dài và tất yếu cần có để Tăng đoàn và Phật giáo tồn tại.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Mọi cuộc chuyển mình nào cũng thế, nó mang theo khả năng đóng góp lớn lao, tích cực đồng thời bên cạnh vẫn có những tiêu cực đi kèm. Đó là điều tự nhiên của đạo Phật trong dòng chảy của sự phát triển.
[/FONT]
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG IV[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]CON ĐƯỜNG THIỆN ÁC[/FONT]</center> <!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="%3Cfont%20face=" arial,helvetica"=""><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Con_Duong_Thien_Ac.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
</center> [FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]
[/SIZE]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]
[/SIZE]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]


[FONT=Arial,Helvetica]Chương thứ tư Đức Phật dạy:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Chúng sanh dĩ thập sự vi thiện, diệc dĩ thập sự vi ác. Hà đẳng vi thập? Thân tam, khẩu tứ, ý tam. Thân tam giả: sát, đạo, dâm. Khẩu tứ giả: lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ. Ý tam giả: tật, khuể, si.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Như thị thập sự, bất thuận Thánh Đạo, danh Thập Ác Hạnh. Thị ác nhược chỉ, danh Thập Thiện Hạnh nhĩ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Chúng sanh lấy mười việc để làm thiện, và cũng lấy mười việc nầy để làm ác. Thế nào gọi là mười việc? Mười việc là thân có ba, miệng có bốn, ý có ba. Ba điều của thân một là sát sanh, hai trộm cắp, ba là dâm dục. Bốn của miệng là nói hai lưỡi, nói dối, nói lời hung dữ, và nói lời thêu dệt. Ý có ba là tham lam, hờn giận và si mê. Mười việc như thế không thuận Thánh đạo gọi là mười hành vi ác, mười hành vi ác nầy nếu dứt thì gọi là mười hành vi thiện.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đại ý đoạn Kinh nầy nói dến mười thiện hạnh là con đường dẫn đến Thánh quả, và mười nghiệp nầy nếu làm ác cũng là con đường dẫn ta đi vào ác đạo, luân hồi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở đây có những ngôn từ mà chúng ta cần lưu ý như nghiệp quả, luân hồi, thánh đạo. Nên biết rằng, trên con đường tu học không đơn giản như ta nghĩ, nếu kho từ ngữ của chúng ta giàu có thì đó là phương tiện để đi vào giáo lý đạo Phật rất dễ dàng; ở mức độ cạn sẽ làm lợi ích cho tự thân, thứ đến là giúp cho người khác. Nếu không thì rất khó để có thể giải thích những từ ngữ mà chúng ta thường xử dụng rất nhiều như từ nghiệp quả chẳng hạn, và từ nầy cũng liên hệ đến hai chữ luân hồi, tái sinh trong ba đường ác đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Giáo lý đạo Phật xác nhận con người chúng ta vốn Vô ngã. Tự thân ngũ uẩn nầy không có gì gọi là Ngã, vậy mà lại cho rằng những hành xử, suy tư của chúng ta tạo thành dòng nghiệp và có khả năng lưu chuyển, luân hồi; đời nầy ác nghiệp đã gây không chấm dứt khi hình hài nầy mất, dòng nghiệp ác ấy sẽ đẩy chúng ta tái sinh để thọ quả do mình gây ra.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vô ngã tức là không có Ngã làm chủ thể ở bên trong, vậy cái gì dẫn dắt dòng sinh mệnh của mình chấm dứt ở đời nầy, rồi sinh ra đời khác để nhận quả báo đã từng gây ra? Như thế, gọi Vô ngã là con người chết ở hình hài này rồi thần thức lang thang tìm sinh lại kiếp khác để chịu luân hồi là hợp lý ư?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đây là một vấn đề rất dễ đưa đến sự nghi ngờ nơi lòng tin con người và gây ít nhiều thắc mắc. Nếu không nắm vững, giải thích không khéo chúng ta dễ lạc vào ngoại đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngoại đạo chủ trương có cái Ngã trường tồn, dù hình hài mất đi nhưng linh hồn vẫn tồn tại. Linh hồn nầy đi qua trong nhiều kiếp trong luân hồi; sinh làm người, sinh làm thú... cho nên hai điều nầy rất gần nhau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ linh hồn bất diệt, trường tồn của ngoại đạo đến giáo lý gây nghiệp thọ quả lên xuống, qua lại trong ba cõi, sáu đường rất dễ dàng cho ta bị nhầm lẫn giữa chánh pháp của Phật và con đường ngoại đạo. Sai lầm trong giải thích sẽ đưa đến cho người học Phật không phân định được và hiểu lầm Phật giáo. Hai điều nầy cần phải được giản trạch cho rõ thế nào là giáo lý Vô Ngã của đạo Phật, thế nào là hữu ngã của tôn giáo khác. Đây là vấn đề khó khăn trong đạo Phật mà người tu chúng ta phải chịu khó tư duy. Những danh từ nầy tuy gần gũi, rất quen thuộc nhưng thật sự khó giải thích, chúng ta đừng xem thường. Chẳng hạn như từ Thánh đạo là câu nói trên đầu môi rất thông dụng, nhưng khi cần giải thích thì chúng ta không biết làm sao để giải thích.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và luân hồi được những nhà Phật học bằng cái nhìn lệch lạc đã khai triển Phật giáo giống như Bà La Môn giáo. Nếu chúng ta không khéo vận dụng, không thông minh trình bày, giải thích rõ ràng thì văn hóa Tây phương khó có thể chấp nhận.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Những vấn đề như các vị Lạt Ma tái sinh trong truyền thống Mật Thừa, hiện thời người ta có thể chấp nhận ở một góc độ nào đó, tuy nhiên khoa học vẫn đang thăm dò và chưa xác tín điều nầy. Nó là một vấn đề đang tranh luận, và luân hồi vẫn là vấn đề còn tồn nghi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta sẽ gặp lại vấn đề nghiệp quả dẫn dắt chúng sanh luân hồi nhiều kiếp, nhưng tự thân con người và dòng nghiệp thức vẫn Vô Ngã như tinh thần giáo lý đạo Phật dạy ở các chương sau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, đề tài con đường thiện ác đưa đến Thánh quả hay nghiệp báo, luân hồi sẽ lần lượt đi
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]vào bốn phần sau đây:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Sự phát sinh của mười nghiệp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Khoảng cách giữa thiện và ác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]3. Khả năng rửa sạch tội.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]4. Tự thể tâm vốn không tội phước.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]1. Sự phát sinh của mười nghiệp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Mười nghiệp chia thành ba nhóm, cạn và sâu khác nhau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thân có ba điều là dâm dục, sát sanh, trộm cắp. Miệng có bốn loại sai lầm thường phạm phải là lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ. (nói hai lưỡi, nói lời hung ác, nói dối và nói thêu dệt). Ý có ba là tham, sân, si. Nếu qui kết lại hai phần của thân và miệng thì phần thâm sâu là ý nghiệp chủ trì. Mọi tội của thân miệng gây nên đều có tham, sân, si làm chủ, và ba phần nầy đều nằm trong ý thức.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ như sát sanh hại mạng là do niệm tức giận, do lòng sân si, ham muốn gây nên, do tâm u tối làm cho ta phạm lỗi lầm nầy. Ba anh chàng nầy là chủ động cho sát, chủ động cho trộm cắp, và chủ động cho cả dâm dục. Khi chúng ta nói dối, nói hai lưỡi, nói hung dữ, mắng nhiếc người, và dùng lời thêu dệt để lừa bịp người; tất cả những sai lầm do miệng gây nên đều từ động cơ của ý. Tức là động cơ của tham lam, hờn giận và si mê. Tuy nhiên, với người cư sĩ phật tử thì nghiệp dâm dục nơi thân sẽ đổi lại là nghiệp tà dâm do vì pháp chế của họ khác biệt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thông thường, tự thân nghiệp sát nếu không có ý cọng vào thì không thành nghiệp sát sanh. Trong kinh Pháp Cú, có một vị trưởng lão mù về thăm Đức Thế Tôn, trong lúc chờ đợi để gặp Ngài, ông ở ngoài Tịnh xá. Đêm hôm ấy trời mưa rất lớn nhưng như thường lệ ông vẫn đi thiền hành, và trên con đường đi ông dẫm chết vô số côn trùng bò lên đầy trên mặt đất vì ông không thấy. Các vị tỳ kheo trẻ rất phiền muộn nghĩ ông thầy già nầy lúc sáng mắt không chịu tu, để đến già khi không còn thấy đường lại tinh tấn thiền hành dẫm chết nhiều chúng sinh như vậy. Các vị lên trình Đức Thế Tôn tình trạng phạm tội sát sanh của vị thầy già. Thế Tôn bảo: “Vị A La Hán kia mù mắt, hơn nữa tâm ông không khởi ác niệm nên không hề bị vướng vào nghiệp sát sanh, và có tội”.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ câu chuyện nầy và nhiều chuyện khác trong Kinh cũng như luật thế gian; khi ngộ sát, phạm sát tức không có ý thức mình tham gia vào tội phạm thì được giảm khinh và vô tội. Ở trong đạo, điều quan trọng là ý căn làm nền tảng cho tác nghiệp của thân và miệng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, pháp chế của nhà Phật cũng đặt căn bản trên sát, đạo, dâm, vọng, tửu tức sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và uống rượu. Tuy nhiên giới thứ tư nằm trong bốn phần của miệng, và giới thứ năm hỗ trợ để giữ trọn thánh giới. Đó là năm giới căn bản của người cư sĩ tại gia.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Mười giới Sa di cũng đặt căn bản trên thập nghiệp. Hai trăm năm mươi giới tỳ kheo, và ba trăm bốn mươi tám giới tỳ kheo ni cũng đặt trên nền tảng nầy. Thập thiện nghiệp đạo tức mười con đường thiện hạnh làm nền cho mọi giới pháp. Phật chế định mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh của Bồ Tát cũng đặt căn bản trên mười con đường nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hãy nhìn ra bên ngoài đời sống nhân gian đến đời sống chúng ta bên trong tu viện. Mười con đường nầy là nền tảng xây dựng hạnh phúc không những cho người tu trong đạo, mà còn cho những phật tử đồng thời cũng là nền tảng cho luật pháp và đạo đức thế gian.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Một cơ chế chính trị mà tự do, nền văn minh cao thì luật pháp quốc gia đó đều đặt căn bản trên thập thiện nghiệp nầy rất rõ ràng. Đặc tính của mười việc thiện, ác nầy là thước đo hạnh phúc hay bất hạnh của con người, và là căn bản cho tất cả nền văn minh xã hội. Mười thiện nghiệp tặng cho mỗi con người một không gian tự do, không ai xâm phạm đến ai, và không gây khổ đau cho người khác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hạnh phúc hay khổ đau, Niết Bàn hay giải thoát, phàm hay Thánh đều đặt trên mười điều nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]2. Khoảng cách giữa thiện và ác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta đừng tưởng nói một lời ác, hoặc làm một việc mất lòng người mới tạo thành nghiệp. Khoảng cách giữa thiện và ác rất gần. Chỉ cần một sát na phóng tâm là tạo nghiệp. Nếu là người tu thực sự ta hãy cẩn trọng vì chỉ trong ý nghĩ vừa khởi là đã thành nghiệp rồi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi chúng ta nhìn một người nào mà khởi lên ác tâm, lập tức đã gây dấu ấn trong tâm ta. Một niệm nghi ngờ khó chịu với một người nào, chúng ta có thể quên, nó chìm đâu đó nhưng điều kỳ lạ là không bao giờ mất. Nó sẽ có cơ hội trở lại. Giống như khi ta gieo một hạt mầm vào ruộng, nó nằm yên đợi chờ đến cơ hội thứ hai tái hiện lại và tái hiện sẽ mạnh hơn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người ta có câu: “Rong đóng nọc cầu nhìn lâu cũng đẹp.” Ta thấy rong đóng nọc cầu, nước chảy vẩn vơ có gì đâu mà đẹp. Nhưng nếu nhìn một hồi thì cũng có thể cảm xúc làm nên bài thơ, và câu nói đó được vận dụng để nói tình trạng những người tu không khéo đề phòng tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhìn thấy người nào nếu chúng ta khởi ý nói lầm thầm một câu thôi, câu nói nầy không mất trong tâm thức ta, nó sẽ có dịp hiện lại. Lần sau phục hồi chúng ta nói hai câu, lần tới nói nhiều hơn và cứ như vậy theo cấp số nhân. Như thế khoảng cách từ một sát na phóng tâm đi tới tạo nghiệp không xa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta nên nhớ, càng tu tâm có ít nhiều thanh tịnh, trong sáng thì sự phóng tâm tác nghiệp rất nhanh so với người thế gian. Nghiệp quả của người tu đến nhanh hơn người đời. Tại sao? Vì tâm thức người tu đã lắng, đã thanh lọc nên khá trong. Giống như mặt gương đã được lau nhiều lần, đã sạch nên khi chúng ta vẽ một nét gì vào thì đường vẽ hiện ra rất rõ. Tâm ít xao động, đã được tinh lọc, đã làm cho yên lắng nếu có điều gì gieo vào không lấy ra được thì sự tái hiện mạnh hơn, rõ nét hơn. Cho nên người tu khi càng vươn lên cao, những bước đi càng phải cẩn trọng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người xưa bảo: “Mỗi ngày trong công phu thực tập giống như chúng ta đang đi trên băng mỏng, ở dưới là nước, không khéo băng vỡ ta chìm trong lòng hồ.” Hãy cẩn thận từng niệm một, chỉ cần một niệm phóng tâm chúng ta cứ lao theo là dấu ấn sẽ hằn sâu rõ trong tâm thức. Chỉ cần một sát na phóng tâm khởi niệm là mở cửa địa ngục. Nếu ý niệm khởi lên tức khổ đau, phiền não, lo lắng có mặt; ngàn vạn điều tập trung vào tâm thức làm mình bất an và điều nầy rất dễ phát sinh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi một niệm khởi lên chúng ta thấy có ta, có mình. Có cái nầy là của ta, cái kia là của ta, những bên ngoài là vật sở hữu của ta, suy nghĩ nầy là ta... và một dọc dài giá trị trong cuộc đời liền tức khắc có mặt. Một niệm khởi lên thôi là lập thành một tràng dài của ba cõi, sáu đường, là con đường sinh tử đã trải ra và chúng ta cứ quanh quẩn trên con đường nầy mãi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ chúng ta vướng mắc vào một người bạn mà ta thương yêu, và càng thương yêu bao nhiêu thì càng bất an, lo sợ bấy nhiêu. Lúc ta có ý niệm nghi ngờ về người kia, không quản lý được người kia là ta đã bất an rồi, và nỗi niềm bất an nầy ngày càng dày tùy theo mức độ mà ta vướng mắc nhiều hay ít.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu ta ngao ngán, muốn loại trừ, muốn quay lưng lại với con người kia, thì ta lại bắt đầu đi tìm một đối tượng khác, mới lạ để thương yêu, để gá vào thì cũng chỉ tạo thêm một nỗi bất an mới của tâm thức chứ không thể dừng lại được. Đây là con đường rất quen của ý thức, chúng ta nên cẩn thận.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chỉ một niệm phóng tâm tức một niệm khởi thì phiền não dấy lên, nhưng cũng cùng một niệm đó nếu chúng ta quay trở lại nhận diện được đây là niệm khởi tức khắc những ý niệm trở thành đối tượng. Khi thấy tất cả ý niệm dù còn, dù mất cũng chỉ là bên ngoài không dính gì đến mình; ngay giây phút nầy ta vượt khỏi ba cõi, sáu đường. “Chỉ một niệm chiếu soi, siêu nhiên ngoài ba cõi”, (thơ Thầy Giác Thanh) và khoảng cách giữa thiện, ác chỉ bằng một đường tơ kẽ tóc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở mức độ cạn, chúng ta khởi nghiệp ở ý và dừng được ở ý mà không làm thêm ở miệng, ở thân; ví như chúng ta định nói nặng lời một người nào nhưng rồi mình dùng ý niệm khác nghĩ rằng mình nói nặng người ta một câu chắc họ khổ đau rất là tội nghiệp, chắc gì họ chịu thua cho nên mình dừng ngay ở đây; như thế có nghĩa là mình chỉ chận ý nghĩ thôi. Đó là cách chận ác nghiệp ở tầng cạn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở mức độ sâu hơn là ta chận ý thức. Khi có một khởi niệm của tâm thức chúng ta hồi phục lại, qui chiếu lại, nhìn thấy mình là khả năng nhận diện được khởi niệm thì đó là chận ở tận nguồn của ác và thiện.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Một ý niệm mong manh ban đầu khi đã sinh khởi thành dòng chảy, nó sẽ trở thành trường giang cuồn cuộn ta không thể cắt đứt được. Một ý niệm ban đầu như thương ghét, giận hờn có mặt mà ta nhìn được nó, như người bố lẳng lặng nhìn đứa con đang rong chơi trong nhà, mặc tình cho nó tha hồ chạy nhảy, không áp đặt, không chạy theo trách mắng gì tức chúng ta làm được việc hồi phục lại chủ quyền, nắm được tâm thể bất sinh, bất diệt của mình, loại trừ được tất cả những ác nghiệp của ba đường. Nếu không nó lớn mạnh chúng ta sẽ khó loại trừ vô cùng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thông thường chúng ta rất yếu trong vấn đề hồi phục tâm và tu tập thiện nghiệp. Chúng ta đợi cho đến khi hình thành ý thức rồi mới chuyển hóa, mới tu thì rất muộn. Ví dụ khi ta đã khởi lòng ham muốn về điều nầy, điều kia, rồi mới khởi thêm ý niệm dập tắt sự ham muốn; dụng công tu tập như vậy là ta chỉ dồn nén chúng, tự mình tạo thêm sức mạnh cho chúng và không sớm thì muộn sẽ bùng lên nơi tâm thức thành hai xung lực đối kháng nhau khó chế ngự. Rất mệt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hay khi khởi ý niệm ghét người nào, sau đó mới khởi thêm ý niệm không nên ghét. Tu là không thể ghét ai được, phải đặt mình vào hoàn cảnh người để hiểu, để thương... Như vậy chúng ta luôn chạy theo đuôi của từng niệm khởi, của từng niệm sinh và diệt. Cho nên cách nhẹ nhàng nhất để chúng ta hóa giải được thiện, ác cùng một lúc, hay hóa giải cái ác là khi ý thức khởi một niệm ác chúng ta hãy nhìn nó, hãy nhận biết sự có mặt của nó và để cho niệm ác chu du trong vùng trời tâm thức mà đừng đồng hóa mình vào. Cách nầy rất là tuyệt vời, không hao phí năng lượng, không cần đánh phá. Bằng cách nầy, mọi niệm bất tịnh đều bị loại trừ. Đây là cách dụng công mà chúng ta có thể “Trong một niệm chiếu soi, siêu nhiên ngoài ba cõi.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]3. Khả năng rửa sạch tội.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thời Đức Phật còn tại thế, theo truyền thống Bà La Môn mỗi năm tín đồ của họ phải đi tắm sông Hằng ít nhất một lần. Họ có quan niệm nước sông Hằng rất linh thiêng, dòng sông chảy từ đỉnh Hy Mã Lạp Sơn xuống nên có khả năng tẩy sạch những tội lỗi của con người. Ai ở trên đời mà không tắm nước sông Hằng một hai lần là những người tội lỗi ngập đầu không có cách gì siêu thoát được. Điều nầy đã được một môn đệ đem ra hỏi Đức Thế Tôn: “Bạch Đức Thế Tôn, vấn đề ngoại đạo đặt ra có hiệu quả không, và có phải như thế không”? Đức Phật trả lời: “Nếu nói ai tắm nước sông Hằng mà hết tội thì những con cá đâu có tội, nó ở dưới sông Hằng quanh năm ấy mà.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, tội và nghiệp ác muốn rửa sạch không phải là do chúng ta làm gì ở bên ngoài thân mà là vấn đề tẩy sạch từ tâm thức. Khi tâm thức được gột rửa, tẩy trừ thì những nghiệp thức của nhiều đời cũng đồng thời dứt bặt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngày xưa, có một vị thiền khách đến hỏi Ngài Triệu Châu: “Thưa thầy, có địa ngục, thiên đường không?” Ngài Triệu Châu trả lời: “Không.” “Có tội phước không?” “Không.” Và vị thiền khách đến hỏi một vị sư khác. Vị sư trả lời có. Vị thiền khách kia rất ngạc nhiên nói: “Bạch Hòa thượng, con hỏi Ngài Triệu Châu, Ngài nói không, sao con hỏi thầy, thầy nói có thiên đường, địa ngục. Vị sư thứ hai liền hỏi: “Triệu Châu có gia đình không vậy?” “Dạ không, Ngài là người tu độc thân”. Ông hỏi thêm: “Thế ông có gia đình không vậy.” “Dạ thưa có, con có vợ, có con.” “Thế thì phải rồi, Triệu Châu nói không tội, không phước, không thiên đường, địa ngục thì được, chứ ông không thể nói như Ngài Triệu Châu.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta thấy câu chuyện ở đây như một truyện đùa, nhưng bản chất của những câu trả lời rất sâu sắc. Khi ta an trú trong thể vô niệm, không còn ta, không còn người, không còn mình, không còn hoàn cảnh... không quá khứ, vị lai và cả hiện tại, lúc bấy giờ không còn địa ngục, không thiên đường, không tội phước. Nhưng khi tâm ta còn nghĩ quá khứ, còn nghĩ tương lai, còn ý niệm, cái ngã còn có mặt tức ba cõi, sáu đường lồng lộng chưa bao giờ triệt tiêu được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Mỗi khi chúng ta nhìn ai, gặp ai là có bóng dáng quá khứ chen vào liền. Hai con người gặp nhau bằng bề dày quá khứ của mình, và cả hai gặp nhau bằng hai quá khứ, chứ không phải bằng hiện tại gặp nhau. Chúng ta thường chỉ tiếp xúc bằng quá khứ, bằng kỷ niệm mà chúng ta có về người đó; chúng ta chưa bao giờ tiếp xúc với mặt thật của ai trên hành tinh nầy nên chúng ta chỉ đứng ở cửa của Tích môn. Trên bình diện Tích môn là chúng ta đang ở trong thế gian sinh diệt nầy; có đến đi, mất còn, có tạo nghiệp và quả báo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi nào ta nhìn ai mà không có bóng dáng quá khứ của người kia chen vào, những kỷ niệm, ký ức, của con người kia không lùa về, nhìn mà tâm trong sáng tĩnh lặng thì ta đang ở trong Bản môn. Lặn vào bình diện Bản môn thì không hề có nghiệp quả, luân hồi, báo ứng, tái sanh gì cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhìn những ngọn sóng trên mặt biển cuồn cuộn và mỗi lượn sóng thì có vào ra, lên xuống, biến mất của chu kỳ sinh diệt. Nhưng nếu ta nhìn nước thì nước vẫn là nước, không hề có chuyện sống chết, vào ra, lên xuống bao giờ. Bình diện Tích môn là hiện tượng trên mặt biển, bình diện Bản môn là ngay nơi hiện tượng ta thấy được đại dương.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngày xưa, các bậc A La Hán cũng ở trên sinh diệt, nhưng các Ngài sống trong Bản môn. Và Tích môn hay Bản môn chỉ là những danh từ, trên thực tế nó không rời nhau bao giờ và nó cùng có mặt trên thân sinh diệt nầy. Cảm thọ vui buồn là Tích môn, nếu chúng ta nhận biết được sự vui buồn và luôn an trú trong sự “nhận biết vô ngôn, tĩnh tại hiện tiền” thì ta đang an trú nơi Bản môn. Hai điều nầy không hề rời nhau. Nếu thông minh, khi vui buồn vừa có mặt ta nhận diện được những cảm thọ vui buồn sinh diệt đang có mặt. Lúc ấy tuy Tích môn đang hiện diện đồng thời ta vẫn đang ở trong thể Bản môn. Trạng thái tâm nhận biết nầy vốn không có ý niệm, không ngôn ngữ, nó có mặt bất cứ lúc nào. Nó là trạng thái bản môn vô sinh bất diệt và chúng ta rửa sạch tội là chúng ta lặn vào trong trạng thái đó. Ngày xưa khi các vị thiền sư ngộ rồi tức nhận ra được tự thể tâm gọi là người đang sống trong Bản môn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]4. Tự thể tâm vốn không có tội phước.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tự thể tâm vốn không có tội phước, nhưng khi quá khứ đã dệt nên nghiệp của thân thì đã thành tội phước.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi chúng ta thấy mình là khả năng nhận biết tức chúng ta đang an trụ trong Bản môn, có nghĩa là đang sống với tự thể tâm thanh tịnh vốn không tội phước gì cả. Sống được như vậy thì dù cho hình hài nầy có chịu nghiệp quá khứ như bị bệnh hoạn, đọa đầy, bức bách, tù tội hoặc bị giết chết chúng ta cũng không có gì phải sợ hãi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đã có thân thì phải thọ nhận nghiệp của quá khứ. Tuy thân nầy do nghiệp quá khứ mà có mặt, nhưng ngay khi nghiệp quá khứ đang hiện thành ta vẫn có thể sống được với Bản môn. Trong lúc thân hình còn sinh diệt nếu chúng ta an trụ được trong Bản môn thì sự sinh diệt mất còn, bệnh hoạn, ốm đau, nghiệp thức của thân vẫn không hề dính gì với tự thể tâm.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong Tam Quốc Chí ngày xưa, có chuyện Quan Vân Trường khi bị một mũi tên độc ở cánh tay liền cho người mời Hoa Đà (một thần y của thời đại) tới. Hoa Đà thưa: “Tôi có thể trị được vết thương của Ngài với điều kiện là Ngài bằng lòng để tôi cho người trói Ngài lại vì tôi sẽ dùng dao mổ thịt cạo xương, bởi chất độc đã thấm vào xương.” “Ồ, tưởng gì chứ điều đó có gì là nghiêm trọng, khỏi cần phải trói ta.” “Nếu không trói khi tôi mổ Ngài vùng vẫy làm sao tôi cạo xương Ngài được.” Quan Vân Trường bảo: “Ngươi hãy sai dọn cho ta một tiệc rượu.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong khi Hoa Đà vừa mổ, vừa cạo Quan Vân Trường vẫn nghiễm nhiên nhắm rượu, đánh cờ. Sau khi mổ xong, Quan Vân Trường cười nói: “Thật là thầy thuốc hay, làm xong ta nghe rất nhẹ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, trường hợp của Quan Vân Trường là một võ tướng xông pha ngoài trận địa, đã từng vào ra trong lửa đạn, cận kề với sống chết nên khi ông tiếp xúc với sự đau đớn của hình hài thể xác thì đâu có gì là quan trọng. Trong khi có những người xem hình hài, thân mạng mình rất quan trọng. Đôi khi chỉ một chấn thương nhẹ, một xây xát nhỏ cũng làm cho họ lo sợ, hoảng hốt vì không đủ can đảm, và ý chí không đủ mạnh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cũng là con người, cùng một trí thức, cùng một cái nhìn như nhau nhưng tùy theo trình độ tâm thức, ý chí, nhận thức từ bên trong đã làm nên khả năng đối phó với những thăng trầm, đau khổ, buồn vui của cuộc đời đến với mình khác nhau, và cũng từ nhận thức bên trong cho chúng ta khả năng mạnh hoặc yếu của ý chí.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hãy tưởng tượng một điều khi ta chìm vào trong giấc mơ, ta thật sự hoảng sợ khi thấy mình bị rượt đuổi và nỗi sợ sẽ lớn vô cùng khi thấy mình không còn lối thoát, nhưng nếu giật mình tỉnh giấc tất cả những sợ hãi tan biến mất mà không cần làm gì thêm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cũng như thế, khi ta đang ở trong bình diện Tích môn ta thấy vật chất, của cải và người thân nầy là của tôi, vui buồn nầy là của tôi, lo sợ nầy là của tôi... mà không thấy cái gì khác. Nếu ta lặn sâu qua khỏi bình diện nầy, nhận ra được thân nầy và tất cả những khởi niệm có mặt như những lượn sóng của tự thể tâm không sinh, không diệt tức khắc những lo sợ về thân, về hoàn cảnh... tự nhiên rơi rụng như khi ta tỉnh giấc mơ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Bao giờ chúng ta vững niềm tin vào tự thể tâm tức khắc bấy giờ tội, nghiệp của nhiều đời được rửa sạch, không cần qua thời gian. “Đàn chỉ viên thành bát vạn môn.”, “khảy móng tay là hà sa công đức lập tức đầy đủ.” Và chỉ cần một khảy móng tay trở về tự thể tâm không sinh, không diệt thì bao nhiêu nghiệp thức lâu đời của A Tỳ Địa Ngục rũ sạch một lần, không có gì dính vào chúng ta được.
[/FONT]
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[FONT=Arial,Helvetica]
Con đường thiện ác đã viết:
Giáo lý đạo Phật xác nhận con người chúng ta vốn Vô ngã. Tự thân ngũ uẩn nầy không có gì gọi là Ngã, vậy mà lại cho rằng những hành xử, suy tư của chúng ta tạo thành dòng nghiệp và có khả năng lưu chuyển, luân hồi; đời nầy ác nghiệp đã gây không chấm dứt khi hình hài nầy mất, dòng nghiệp ác ấy sẽ đẩy chúng ta tái sinh để thọ quả do mình gây ra.
[/FONT]
Con đường thiện ác đã viết:
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vô ngã tức là không có Ngã làm chủ thể ở bên trong, vậy cái gì dẫn dắt dòng sinh mệnh của mình chấm dứt ở đời nầy, rồi sinh ra đời khác để nhận quả báo đã từng gây ra? Như thế, gọi Vô ngã là con người chết ở hình hài này rồi thần thức lang thang tìm sinh lại kiếp khác để chịu luân hồi là hợp lý ư?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đây là một vấn đề rất dễ đưa đến sự nghi ngờ nơi lòng tin con người và gây ít nhiều thắc mắc. Nếu không nắm vững, giải thích không khéo chúng ta dễ lạc vào ngoại đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngoại đạo chủ trương có cái Ngã trường tồn, dù hình hài mất đi nhưng linh hồn vẫn tồn tại. Linh hồn nầy đi qua trong nhiều kiếp trong luân hồi; sinh làm người, sinh làm thú... cho nên hai điều nầy rất gần nhau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ linh hồn bất diệt, trường tồn của ngoại đạo đến giáo lý gây nghiệp thọ quả lên xuống, qua lại trong ba cõi, sáu đường rất dễ dàng cho ta bị nhầm lẫn giữa chánh pháp của Phật và con đường ngoại đạo. Sai lầm trong giải thích sẽ đưa đến cho người học Phật không phân định được và hiểu lầm Phật giáo. Hai điều nầy cần phải được giản trạch cho rõ thế nào là giáo lý Vô Ngã của đạo Phật, thế nào là hữu ngã của tôn giáo khác. Đây là vấn đề khó khăn trong đạo Phật mà người tu chúng ta phải chịu khó tư duy. Những danh từ nầy tuy gần gũi, rất quen thuộc nhưng thật sự khó giải thích, chúng ta đừng xem thường. Chẳng hạn như từ Thánh đạo là câu nói trên đầu môi rất thông dụng, nhưng khi cần giải thích thì chúng ta không biết làm sao để giải thích.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và luân hồi được những nhà Phật học bằng cái nhìn lệch lạc đã khai triển Phật giáo giống như Bà La Môn giáo. Nếu chúng ta không khéo vận dụng, không thông minh trình bày, giải thích rõ ràng thì văn hóa Tây phương khó có thể chấp nhận.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Những vấn đề như các vị Lạt Ma tái sinh trong truyền thống Mật Thừa, hiện thời người ta có thể chấp nhận ở một góc độ nào đó, tuy nhiên khoa học vẫn đang thăm dò và chưa xác tín điều nầy. Nó là một vấn đề đang tranh luận, và luân hồi vẫn là vấn đề còn tồn nghi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif][if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif][if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://www.phatam.com/video/thich-phuoc-tinh/giang-kinh-duy-ma-cat-sieu-viet-nhi-bien-6a-video_dd7ef8e2e.html" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
[FONT=Arial,Helvetica]<object width="640" height="360"><param name="movie" value="http://www.youtube.com/v/QicYt1UPDJk&rel=0&hl=en_US&feature=player_embedded&version=3"></param><param name="allowFullScreen" value="true"></param><param name="allowScriptAccess" value="always"></param><embed src="http://www.youtube.com/v/QicYt1UPDJk&rel=0&hl=en_US&feature=player_embedded&version=3" type="application/x-shockwave-flash" allowfullscreen="true" allowScriptAccess="always" width="640" height="360"></embed></object>
[/FONT]
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG V[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]LÀM MỚI THÂN TÂM

[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif][if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif][if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_025%20LamMoiThanTam.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>

</center> [FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sau đây là phần âm Hán văn của chương thứ năm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Nhân hữu chúng quá, nhi bất tự hối, đốn tức kỳ tâm, tội lai phó thân, như thủy quy hải, tiệm thành thâm quảng. Nhược nhân hữu quá, tự giải tri phi, cải ác hành thiện, tội tự tiêu diệt, như bệnh đắc hạn, tiệm hữu thuyên tổn nhĩ!”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Người có lỗi lầm mà không tự sám hối để sớm chấm dứt tâm tạo ấy, thì tội lỗi càng chồng chất vào thân như nước chảy về biển dần dần trở nên sâu rộng. Nếu người có lỗi lầm mà biết nhận lỗi, bỏ ác làm lành thì tội tự diệt, như bệnh được đổ mồ hôi, dần dần sẽ khỏi bệnh.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Như chúng ta đã biết, văn học Kinh Bốn Mươi Hai Chương rất dễ cho mình đi vào. Và đại ý của chương nầy muốn nói cho chúng ta hiểu người có các điều lỗi hãy biết sám hối chuyển nghiệp, đoạn trừ ác niệm từ tâm thức hầu thành tựu Thánh hạnh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trước khi đi sâu vào nội dung, chúng ta hãy lướt qua một chút văn tự chữ Hán trong đoạn Kinh có từ “Nhỉ”. Từ “Nhỉ” nầy được người xưa dùng như một chấm câu tương tự như chữ “Dã”. “Dã” là vậy. Khi đọc vào những văn bản cổ chúng ta thấy người xưa viết liền một mạch không cần dấu chấm, phẩy gì cả mà chỉ dùng những chữ nầy thay cho dấu chấm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta cũng cần đặc biệt lưu ý ở đây những từ như: “Đốn tức kỳ tâm”.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Đốn tức kỳ tâm” được dịch trong văn bản nầy là sớm chấm dứt tâm tạo tội, nhưng thông thường trong văn học Hán chữ “Đốn” là ngay tức khắc. Nó không có nghĩa là dần dần, nay một chút, mai một chút mà dứt bặt liền. “Kỳ tâm” là dứt bặt liền ý thức. Những tội lỗi, sầu bi, ưu não của tâm thức, những dạng tâm lý bất an có mặt trong ta đều do ý thức sinh khởi. Nếu chúng ta làm được một việc quan trọng là dứt được ý thức tức khắc mọi nỗi niềm liền bặt mà không cần trải qua thời gian công phu, dụng công gì cả. Bốn chữ nầy rất quan trọng, chúng ta sẽ từ từ đi vào những phần chính sau đây:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Sự khác biệt giữa sám hối và thú tội, chuộc tội của các tôn giáo khác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Thực hành và sám pháp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]3. Tu thiện nghiệp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]4. Dứt tâm (Đốn tức kỳ tâm).[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]1. Sự khác biệt giữa sám hối và thú tội, chuộc tội.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hai chữ sám hối nầy mang nội hàm ăn năn những lỗi lầm mình đã gây ra và hứa rằng không tạo lại như đã từng làm trong quá khứ. Nghĩa sâu hơn là tự mình đối diện với mình, phải tự mình gột rửa thân tâm chứ không phải đi van xin hay cầu khẩn một năng lực vô hình nào, một đấng thần linh nào để có thể giải trừ nghiệp tội cho mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sám hối trong đạo Phật là tự mình làm mới chính mình, gột rửa thân tâm cho sạch và chuyển hóa thân tâm. Ví dụ như nếu chúng ta lạy Phật hay thực hành các sám pháp không có nghĩa là cầu khẩn năng lực nào ở bên ngoài giúp mình, hỗ trợ mình, cứu rỗi mình. Đây là điều đặc biệt của từ sám hối trong Đạo Phật. Chúng ta cần ghi nhận sự khác biệt nầy giữa Phật giáo và các tôn giáo khác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Với khả năng Anh ngữ lưu loát, chắc sẽ không khó cho quí vị khi dịch cho thật sâu sắc từ sám hối nầy để người Tây phương ý thức được những sự khác biệt rất rõ nét trong truyền thống tâm linh Đông phương mà Phật giáo là một điển hình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Điều khác biệt đầu tiên là Đức Phật xuất hiện trong cuộc đời không phải để lý luận về những vấn đề siêu hình; con người từ đâu sinh ra, khi chết rồi đi về đâu, ai tạo ra thế giới nầy, phải chăng có một đấng tạo hóa sáng lập ra nó hay không... Ngài không phải được sinh ra để nói điều đó, và hầu như suốt cuộc đời của Ngài nếu có ai hỏi về những vấn đề nầy Ngài đều im lặng không trả lời. Không trả lời không có nghĩa là Ngài không biết gì về hình nhi thượng (lãnh vực siêu hình), mà Ngài quan niệm cuộc đời và tuổi thọ con người không đủ dài để đi vào lãnh vực có tính cách hí luận như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngài làm một điều thiết yếu duy nhất là chỉ rõ cho con người nhận biết được nỗi khổ đau đang có mặt ở thân tâm nầy. Và mở ra con đường thoát khổ cho nhân loại nương vào đó tự đi. Đây là điều đặc trưng quan trọng trong đạo Phật và rất khác biệt với các tôn giáo khác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Điều khác biệt thứ hai rất tuyệt vời là Đức Phật bảo rằng tất cả chúng ta đều có khả năng thành Phật, thành tựu quả vị như Ngài. Ngài không phải là vị Phật duy nhất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật không bao giờ tuyên bố Ngài là con người cao cả hơn tất cả sinh dân trên hành tinh nầy, cũng không phải từ một đấng thần linh nào sinh ra để cai quản con người. Ngài chỉ nhận mình là vị Thầy, là bậc đạo sư, là người dẫn đường mà thôi. Ngài có duyên may thấy được chân lý, con đường sáng để đi và trong tự thân của mỗi chúng ta đều có khả năng làm được như Ngài. Chúng ta vì chưa khai triển được tiềm năng Phật nơi mình, của chính mình nên còn mãi là phàm phu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật chỉ dạy cho con người những gì mà Ngài đã trải qua, đã thực sự chứng nghiệm mà không mang đặc tính lý luận, tư duy. Đó là những phương pháp do Ngài đã từng hành trì, tu tập, đưa đến sự thành đạt an lạc và Niết Bàn; chúng ta có thể nói bằng ngôn ngữ bình thường là Ngài thực chứng được hạnh phúc tự tâm. Chúng ta nếu thực hành rốt ráo những lời Ngài dạy thì cũng thành đạt được con đường hạnh phúc giống như Ngài.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Điều cuối cùng khác biệt giữa đạo Phật với các truyền thống tâm linh khác là lời Ngài dạy mãi cho đến bây giờ vẫn còn thích hợp với sự phát triển của xã hội. Tất cả mọi sự vật trong cuộc đời là do nhân duyên mà hình thành, không có cái gì gọi là nguyên nhân ban đầu cả. Nó trùng trùng duyên khởi. Con người, hành tinh cho đến một hạt bụi cũng do nhiều nhân duyên, nhiều yếu tố mà thành. Và nếu hành tinh nầy có mất đi, tan hoại thì cũng do nhiều nhân duyên làm cho nó tan hoại, mà không có gì gọi là nguyên nhân ban đầu cả. Không có một đấng thần linh nào sinh ra mọi vật. Tất cả là một dòng chảy nghiệp lực hội tụ để hình thành.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con người nầy, hình hài nầy chỉ là một hợp thể ngũ uẩn, không có gì là thần ngã bên trong, là trường tồn bất biến. Nên đạo Phật gọi mọi hiện tượng là vô Ngã, con người là Vô ngã. Tuy vô ngã nhưng có một dòng tâm thức của nghiệp chảy miên man, thúc đẩy hình thành năng lượng rất lớn. Từ năng lượng của nghiệp thúc đẩy mà thành thân người như một sợi chỉ xuyên suốt thọ mạng con người từ hiện tại đến tương lai chứ bên trong không có gì làm chủ, không có gì là linh hồn trường cửu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tuy vô ngã nhưng nếu chúng ta gây khổ đau cho người khác, thì chúng ta thọ nhận sự khổ đau hoàn trả nơi chính tự thân ta. Vô ngã nhưng nhân quả nghiệp báo sẽ đến với mình. Điều nầy tuy khó hiểu và đôi lúc có người cho là mâu thuẫn, mơ hồ, nhưng nếu chúng ta đi sâu vào giáo lý đạo Phật học hỏi, thực hành, tu tập, chúng ta sẽ chứng nghiệm được sự tuyệt vời thâm sâu của giáo lý vô ngã. Đây là điều đặc trưng của đạo Phật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, từ nền tảng khác biệt qua những điều căn bản nầy chúng ta qui chiếu vào nhiều lãnh vực khác nhau cho thấy phương pháp sám hối trong đạo Phật không mang tính cách ỷ lại, không giao phó cuộc đời mình cho bất cứ ai, không cầu khấn thần linh nào bên ngoài xá tội cho mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đôi khi chúng ta thấy quần chúng Phật tử Việt Nam đứng trước bàn thờ thắp nhang lễ lạy, khấn nguyện... chúng ta đừng nghĩ khi làm các việc ấy là họ cầu khẩn, van xin điều gì với đấng thiêng liêng có quyền ban ơn, giải trừ nghiệp tội. Tuy niềm thiết tha cầu nguyện được biểu lộ bằng hình thức bên ngoài như vậy, nhưng thực tế con đường sám hối của đạo Phật có nội dung rất thâm sâu. Nó là con đường qui chiếu về thực tâm, làm mới thân tâm, loại trừ những ác niệm để rồi mời năng lượng tích cực về chuyển hóa những tâm hành, những suy tư tiêu cực lắng dịu lại và ta nếm được an lạc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhìn lại vấn đề sám hối trong đạo Phật, từ những sám pháp, những nghi lễ hay con đường thực tập đều có chung công năng là làm thế nào phục hồi được năng lượng chánh niệm. Để làm được điều nầy, trước nhất chúng ta cần có niềm tin nơi chính mình. Sau khi đã có niềm tin vững chãi, tin rằng chính mình nắm lấy sinh mạng của mình trong lòng bàn tay chúng ta mới có khả năng làm chủ cuộc đời mình, đoạn lìa được ý thức lăng xăng, bất an, sầu muộn để ngay tức khắc an lạc có mặt nơi tự thân.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con người không nô lệ thần thánh, không nô lệ cho bất kỳ một năng lực siêu hình nào ở bên ngoài, và con người chính là hoàng đế của mình. Nếu chúng ta có thực hành những nghi thức sám hối, thú tội thì cũng chỉ đặt trên tinh thần như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sám hối trong đạo Phật với nghĩa gần nhất là chúng ta quay về làm mới thân tâm. Cho nên, điều quan trọng nên nhớ chúng ta là chủ dòng nghiệp thức của chính mình. Nếu chúng ta có quan niệm vững chắc về điều căn bản nầy, chắc chắn đạo Phật có cơ may cống hiến cho tâm thức người Tây phương một truyền thống tâm linh tương hợp với những đặc nét của nền văn hóa độc lập, mang tính chất mạo hiểm, khai phóng và tự làm chủ cuộc đời của họ. Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi đạo Phật được chấp nhận, đồng thời hội nhập rất dễ dàng vào dòng tâm thức của người Tây phương.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có những nền đạo đức, hoặc những truyền thống tôn giáo ảnh hưởng rất nặng trên tâm thức con người, và điều quan trọng là ảnh hưởng của nó làm cho tâm hồn con người trở nên mặc cảm yếu hèn, tội lỗi. Chúng ta sinh ra đời đã làm gì đâu tự nhiên bị cho là có tội. Và tội lỗi nếu nhìn thật nghiêm túc thì tự thân nó không có mặt. Sự đọa đày làm cho ta khốn đốn là do tâm thức của chúng ta tạo thành, chứ không phải sự phạm tội làm hại đời mình. Sở dĩ nó có mặt và gây đau khổ là vì chúng ta không thể loại trừ để chấm dứt được những nỗi niềm ân hận, ám ảnh của quá khứ mà thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bản chất thực của tội lỗi tự thân nó là một năng lượng có thể loại trừ. Tội lỗi dù có nghiêm trọng đến đâu cũng có thể loại trừ. Khổ ải, đọa đày không phải nó luôn đeo cứng lấy mình không thể rời bỏ được. Nếu không làm cho sạch được chắc chắn chúng ta đã ngập đầy tội lỗi, và sẽ triền miên trong nỗi khổ không cách gì gột rửa được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Như chúng ta biết có những người làm nghề hành quyết, giết rất nhiều tử tội. Trong suốt cuộc đời họ đã giết không biết bao nhiêu người, nhưng khi được một người hỏi tại sao giết người nhiều như vậy mà đến tuổi già ông vẫn khỏa mạnh, an vui? Ông ta thản nhiên trả lời: “Tôi làm việc nầy cũng như bao nhiêu người khác làm công để lãnh lương mà thôi. Tôi không thấy ân hận, dằn vặt trong tự tâm vì những người bị tôi hành quyết đều là những kẻ có tội, đã từng gây tai họa cho bao nhiêu cuộc đời con người. Tôi vẫn thấy bình thản như mọi người khác.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Dĩ nhiên đây là vấn đề đặt ra cho các nhà đạo đức, tâm linh nhiều câu hỏi về các cấp độ nhân quả nghiệp báo sâu cạn sai biệt từ tâm thức, và những vấn nạn đối với lương tâm nhân loại. Ở đây, chúng ta không cần đi lang thang vào các lĩnh vực khác mà hãy nhận diện nỗi khổ có mặt nơi tâm hành con người và loại trừ, trong sạch hóa nỗi khổ cũng phải từ tâm hành con người. Chắc hẳn chúng ta bị dằn vặt, khổ đau, quằn quại vì tự tâm mình làm kẻ phán xét mình trước. Những nỗi niềm ân hận, bất an của tâm thức mình về việc đó tự đày đọa, làm khổ lụy và nhận chìm mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngày xưa, vào thời Đức Phật còn tại thế, có anh chàng Vô Não trước khi trở thành đệ tử của Đức Phật anh là kẻ giết người khét tiếng. Anh phạm tội sát sanh rất lớn, đã từng rượt giết hàng loạt người chỉ để lấy ngón tay làm tràng hạt đeo cổ. Vậy mà khi được về với Đức Phật không bao lâu anh chứng quả A La Hán. Nhưng vì việc ác anh gây ra không phải là nhỏ cho nên nghiệp dữ vẫn đeo đuổi anh đến khi chứng quả rồi anh vẫn còn bị hành hung.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Như vậy để thấy rằng, vấn đề ở đây không có nghĩa tội lỗi là một cái gì nhất định. Tội lỗi dù có nghiêm trọng đến đâu cũng có khả năng loại trừ, và chúng ta cũng có khả năng làm mới thân tâm nầy bằng con đường tịnh hóa tâm thức. Ở cấp độ cạn nếu chúng ta dứt được nỗi ân hận, dày vò thì chấm dứt được sầu khổ, phiền muộn, bất an. Ở cấp độ sâu, tắt được sóng thức lao xao rũ sạch chấp thủ ngũ uẩn thì tất cả nghiệp chướng lâu đời của quá khứ cũng tiêu tán, huống hồ những lỗi lầm nho nhỏ. Đây chính là điều quay về làm mới thân tâm. Làm mới thân tâm có công năng tuyệt vời là làm cho chúng ta trẻ lại, mới lại. Làm cho chúng ta vươn vai chỗi dậy từ khối dĩ vãng u ám, đau thương và chúng ta sẽ đứng lên như một thiên thần.
[/FONT]
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
(tiếp theo)

Làm Mới Thân Tâm (tt)

<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif][if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif][if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_026%20LamMoiThanTam.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_027%20LamMoiThanTam.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>

[FONT=Arial,Helvetica]Thực hành sám pháp.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi đi vào thực hành sám pháp đượm màu sắc, hình thức rườm rà của Phật giáo truyền thống, chúng ta thấy rõ một điều là Phật giáo truyền thống bị ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Trung Hoa trong khi Phật giáo Nam Tông đơn giản hơn nhiều dưới ảnh hưởng văn học Pali. Sám pháp của truyền thống Pali khi thực hành các sư chỉ tụng một bài Kinh Từ Bi tức Kinh Thương Yêu... sau một thời thiền tọa, công phu. Nếu có cư gia Phật tử nào bị bệnh cần đến thì các sư chỉ tụng một bài kinh Đức Phật dạy ngày xưa như Kinh Thương Yêu hay kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm... Hoặc thiền quán và rải tâm từ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Văn học Phật giáo truyền thống Trung Hoa với những sám Pháp như lễ Phật, sám hối... và chỉ riêng trong lễ Phật thôi cũng thật là mênh mông bát ngát, như lễ Ngũ Bách Danh, tụng kinh Thủy Sám, Lương Hoàng Sám... rất nhiêu khê, phức tạp. Họ đã trước tác ra những quyển kinh toàn là danh hiệu Phật, nào là Vạn Phật, Tam thiên Phật rồi Quan Thế Âm thì có đến năm trăm danh hiệu.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta hãy nhìn lại những sám pháp của Phật giáo truyền thống Bắc Tông hầu như lệ thuộc hoàn toàn vào văn hóa Phật giáo Trung Hoa, nặng nề Hán tạng. Cùng những nghi thức, lễ tụng thật rườm rà rồi cứ mỗi thời họ lại gia cố thêm những cầu kỳ lễ lạy mới. Nay thêm râu, mai thêm mũ... cho đến ngày nay diện mục Phật giáo chúng ta nhìn không ra, đôi lúc nhìn chưa quen chúng ta trở nên dị ứng. Hình thức Phật giáo hoa hòe như thế không có mặt trong Phật giáo Nam truyền, trong nguyên thủy đạo Phật.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Các bậc đạo sư lớn trong truyền thống Ấn Độ chỉ giảng dạy như Đức Thế Tôn đã từng giảng dạy trong một đời. Khối lượng kinh sách không có nhiều như kinh điển Hán tạng hiện tại. Kinh sách được kiết tập trong bốn bộ A Hàm và đó là nền giáo lý căn bản nhất của Phật giáo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nhưng khi dòng chảy Phật giáo phát triển mạnh qua nhiều trăm năm sau, có những vị thông bác kim cổ, các Ngài khai triển từ nền Phật giáo Nguyên Thủy ra thành Phật giáo phát triển, vì vậy khối lượng kinh sách trở nên đồ sộ. Hơn nữa, khởi đầu cho tất cả những bộ kinh mà các Ngài không để tên người sáng tác luôn dùng câu: “Như thị ngã văn” nên người đời sau khó phân biệt và thường nhập nhằng giữa rừng bát ngát kinh điển nầy. Cái nào cũng là của Phật nói. Từ lăng kính của những nhà nghiên cứu thì những văn hệ thuộc lễ Phật, sám pháp, danh hiệu Phật... và tất cả những thư tịch, kinh điển mang tính chất sám pháp nầy đang là một dấu hỏi lớn, có khả năng là do các vị sư của Phật giáo phát triển chế tác và hẳn nhiên không phải do Phật nói.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Đặc biệt khi hòa nhập vào bản sắc của đất nước mình, người Trung Hoa đã rất thông minh khi uyển chuyển lấy những danh hiệu Phật hay Bồ Tát trong thư tịch Hán tạng, đem gắn liền vào những trụ xứ trên đất nước họ tạo nên những huyền thoại mang tính chất thần thánh của những vị chỉ có trên văn bản mà không có trong cuộc đời. Họ đem danh hiệu các vị Bồ Tát, các vị A La Hán thực tế hóa thành một con người có lịch sử, rồi dựng ra những di tích ở vùng núi nọ, vùng núi kia để dân chúng đến lễ lạy, bái sám.(Ngũ Đài Sơn, Cửu Hoa Sơn...)
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa đại chúng, tôn giáo là một mảng lớn đóng góp để hình thành một phần văn hóa cho một quốc gia, một dân tộc. Tăng sĩ là người có trách nhiệm lớn đối với công cuộc xây dựng nền văn hóa của đất nước mình. Ông cha chúng ta ngày xưa đã biết tạo ra chữ Nôm để cách biệt với chữ Hán, để đừng lệ thuộc vào văn hóa Trung Hoa. Nhưng đến thời chúng ta, chúng ta lại thích lệ thuộc; tinh thần độc lập, tự chủ không có mặt dù chúng ta có bốn ngàn năm văn hiến, có ngôn ngữ riêng, chữ viết riêng.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thời cận đại vào thập niên ba mươi, bốn mươi là thời Phật giáo chấn hưng, và cũng từ làn sóng chấn hưng từ Trung Hoa chảy xuống, Việt Nam cũng bắt đầu chấn hưng thì từ y, áo, lễ tụng đến niệm hương, bạch Phật. Các bậc thầy đã biết loại bớt những ảnh hưởng hình thức từ Phật giáo Trung Quốc. Thế nhưng càng về sau chúng ta càng có khuynh hướng cực kỳ hướng ngoại; từ học tập, pháp phục, nghi lễ và trai đàn chẩn tế đã trở thành rất thịnh trong truyền thống Phật giáo Việt Nam.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Từ điều nầy cho chúng ta thấy cơ chế xã hội, văn hóa, kiến trúc, chùa, viện cũng đều đi theo con đường hướng ngoại, và hầu như đa phần tu sĩ Việt Nam không bao giờ loại trừ được tâm thức vọng ngoại, thích bắt chước và tự hào khi sao chép y bản văn hóa đất nước người.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Đất nước Việt Nam chúng ta bé nhỏ thật tội nghiệp mà khuynh hướng sinh hoạt Phật giáo lại bị ép giữa hai nền văn hóa rất lớn. Một Trung Hoa vĩ đại và một Ấn Độ huyền bí, sâu thẳm mênh mông... nếu chúng ta thông minh giữ được nền văn hóa Việt thì chúng ta mới có thể tồn tại được.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Để giữ được nền văn hóa Việt, những tăng sĩ phải tự mình thắp sáng
ngọn đuốc tự hào là dân Việt. Chúng ta phải làm thế nào vận dụng được sự thông minh, tự chủ vốn có, đặt trên nền tảng của Phật giáo Nguyên Thủy. Hồi phục sự trong sáng của Đạo Phật đầy tuệ giác và hùng lực mới mong đối kháng được sự xâm thực và thôn tính của văn hóa Trung Hoa đang phủ trùm lên quê hương, đất nước chúng ta.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
3. Tu tập các thiện nghiệp.
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Thiện nghiệp là năng lượng tích cực do chúng ta chế tác có khả năng loại trừ những năng lượng tiêu cực trong ta, và hai năng lượng nầy đồng thời cùng có mặt nơi thân tâm nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nếu chúng ta làm cho năng lượng tích cực phát triển mạnh thì năng lượng tiêu cực sẽ tàn héo, tiêu mòn. Cũng như trong một vùng đất hoang, không một mảnh đất nào mà không mọc lên cây cỏ dại. Nếu từ mảnh đất ấy, nhưng chúng ta biết gieo cây lành trái ngọt, hoa lá thắm tươi thì cây cỏ hoang dại còn đâu chỗ để chen chân.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trên con đường thực tập cũng thế, chúng ta phải làm thế nào để phát triển năng lượng tích cực của thân tâm. Dĩ nhiên, thiện nghiệp tương tức giữa thân và tâm. Ví như khi ta có năng lượng lành phát triển bên trong, tự nhiên năng lượng yêu thương, hòa ái biểu hiện ra ngoài thân rất rõ. Nếu ngược lại thì dù cho ở trong vũ hội, hay phố chợ xôn xao chúng ta cũng không có được niềm vui.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Từ bên ngoài, nếu môi trường chung quanh chúng ta toàn là năng lượng tiêu cực thì dù cho chúng ta có cố gắng chống chỏi cũng không thể nào trấn áp được năng lượng tiêu cực đang áp đảo, phủ vây thấm vào người. Đó là mức độ tương tức tương nhập giữa thân và tâm, giữa mình và người, giữa chúng ta và hoàn cảnh.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Cho nên chúng ta muốn loại trừ, giải nghiệp tội, để có niềm vui thì yếu tố ban đầu là môi trường rất quan trọng. Như khi các thầy, các cô đến đây với một tăng thân lớn, đại chúng đông đảo, đầy ắp năng lượng thiện lành tuy chưa thực tập gì nhiều nhưng tự nhiên những nỗi sầu khổ cũng lắng dịu xuống. Nếu có vị rời tăng thân về vùng phố chợ xôn xao một thời gian từ từ sẽ cảm thấy năng lượng yên bình, hạnh phúc của mình bị bào mòn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Môi trường sống là điều kiện ban đầu rất cần thiết và quan trọng cho ta tu tập. Không gian yên tĩnh, thanh vắng của núi rừng, có nhiều người cùng thực tập, có chung một thiện nghiệp, chung một cọng nghiệp tạo thành năng lượng rất lớn và hùng hậu nên khi chúng ta liệng mình vào đó thì khả năng chuyển hóa đến rất dễ. Giống như trong một đống lửa lớn, ta là thân củi tươi nếu được bỏ vào đó cũng bị cháy dễ dàng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Năng lượng lớn của sự tu tập bên ngoài yểm trợ ta rất là quan trọng. Khi chúng ta chuyển được năng lượng tiêu cực tức chúng ta cũng đã đóng góp năng lượng tích cực của mình vào trong tập thể tăng thân. Hai điều nầy luôn tác động hỗ tương với nhau.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tôi xin chia xẻ với quí vị một điều, khi sống trong một đại chúng lớn tu tập như thế nầy, nếu một hôm vì lý do gì đó mình sinh ra lười biếng không sinh hoạt cùng chúng, không đi tọa thiền, chỉ muốn nằm ngủ nướng. Đến giờ ăn mình vào ăn, tự nhiên mình sẽ thấy rất khó chịu, áy náy và bất an suốt ngày. Đó đã là trường hợp của tôi đã gặp.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Thưa đại chúng, thiện nghiệp còn có công năng chuyển hóa thân tâm và môi trường. Ngày xưa, Ngài Qui Sơn được một cư sĩ mời Ngài đến hoằng pháp độ sinh tại một vùng núi vừa mới được khám phá rất u nhã. Ngài nhận lời đến chốn hoang vu đầy thú dữ và cọp beo bao quanh, dựng một
túp lều ở như vậy cho đến bảy năm. Ngày tháng qua giữa chốn thâm sơn, cùng cốc quạnh hiu không một bóng người lai vãng, một hôm Ngài liền nói: “Nếu thực sự con có duyên độ sanh, giáo hóa thiên hạ, thì xin mọi loài thú dữ đi nơi khác. Còn không thì xin thú dữ đến ăn thịt con đi cho rồi, sống như thế nầy nữa thật là vô ích.” Phát nguyện xong, Ngài bắt đầu mở con đường đi xuống phố. Khi bước chân Ngài đến đâu mọi loài thú đều tránh xa. Và bắt đầu từ đó, thính chúng tứ phương đến tu học với Ngài rất đông đảo. Khoảng mười năm sau thành một đạo tràng có đến cả nghìn Thầy.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nghe câu chuyện trên, chúng ta có thể nghi ngờ là không có thực. Nhưng điều nầy chúng ta có thể kinh nghiệm được từ bản thân: khi chúng ta có tâm hồn hiền thiện, trong lành, đi ra ngoài chúng ta làm quen ai, hoặc ai đến với chúng ta họ đều có chung một cung bậc tâm hồn như ta, một trình độ trí thức hiểu biết như ta, lành thiện và dễ thương như ta.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong đời sống nhân gian, có trường hợp những người đã lập gia đình, một thời gian sau họ chán ngán không còn muốn sống chung với người mà mình đã từng lựa chọn. Họ xa nhau, đến khi cảm thấy cô đơn lại đi tìm kiếm người khác, họ nghĩ rằng người mới sẽ dễ thương hơn, vừa ý hơn. Nhưng quanh quẩn kiếm tìm, loay hoay thế nào họ cũng lại chọn một người giống như người của buổi ban đầu, đôi lúc lại còn tệ hơn nữa. Tại sao? Thưa tại vì cung bậc tâm hồn chỉ có được như vậy, nên khi lựa chọn họ cũng chỉ lựa người cùng một cách điệu, một tầng tâm thức như trước mà thôi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Cho nên khi thiện nghiệp trong tâm thức của chúng ta lớn, đầy yêu thương hài hòa thì dù sống ở bất cứ nơi đâu đều tạo được không gian, môi trường đó theo thiện nghiệp của mình. Dù chúng ta ở giữa chốn lao xao, náo nhiệt thì năng lượng thiện nghiệp của mình vẫn có tác dụng chuyển hóa những người chung quanh.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Khi ở trong một cộng đồng xấu ác, tự thân tâm những năng lượng tích cực đủ lớn mạnh, tự nhiên môi trường chung quanh sẽ chuyển, hoặc đôi khi có năng lượng vô hình thúc đẩy đưa ta đến một nơi mà môi trường chung quanh sẽ rất tốt lành. Chúng ta đừng lo sợ, băn khoăn mà hãy chăm sóc cuộc đời mình. Hãy lo chuyển hóa làm cho năng lượng thiện lành có mặt mãi mãi trong tự thân. Hãy có niềm tin rất vững vào sự chuyển hóa của chúng ta. Nếu chúng ta là những vị thầy giỏi thì thiên hạ đến với mình, tu với mình đều trở thành những đệ tử giỏi.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Năng lượng tích cực là một năng lượng tương ứng với Phật tâm. Không bao giờ có một vị đạo sư chân chính mà trong thân tâm không có bản chất của sự chân thật, cái lành và cái đẹp. Chân Thiện Mỹ là ba điều luôn có mặt trong tự thân các thầy. Điều nầy được thể hiện ra bên ngoài, nơi tự viện, nơi tăng đoàn.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Cho nên tu đúng nghĩa là chúng ta biết thực tập để đẩy cuộc đời của mình từ lãnh vực bình thường lên đến tầng cao của Chân Thiện Mỹ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Con đường thực tập mời gọi năng lượng thiện lành là con đường chúng ta phải thực tập từng ngày một, nuôi lớn nó không bao giờ biết mỏi mệt. Các bậc thầy ngày xưa chưa từng có một vị nào biết mỏi mệt với chuyện độ sinh cả. Tự thân tâm các vị luôn luôn là sự dâng hiến cuộc đời mình cho người, chưa bao giờ làm thương tổn một ai, và chưa bao giờ từ chối nhúng tay vào một việc lành gì dù nhỏ.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Tâm hiền thiện bên trong tự nó là một năng lượng tương ứng với năng lượng tốt lành trong không gian vô hình, nó có công năng bảo vệ, che chở và đẩy dần chúng ta đến những nơi có điều kiện thuận lợi cho ta phát triển đời sống tâm linh.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Trong đời sống, con người hơn nhau không bằng sự tính toán. Những thành công trong lãnh vực tiền tài, vật chất, lợi danh đôi lúc không thể đo lường bằng sự tính toán, mà bằng năng lượng lành hay không lành. Đó gọi là phước. Có những người không thông minh, tài giỏi gì nhưng họ lại thành đạt trong cuộc đời rất dễ vì bên trong con người họ có hàm tàng năng lượng thiện lành.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Chúng ta hơn nhau nhờ biết gột rửa thân tâm hiền thiện, nâng cấp đời sống tâm linh. Khi đời sống tâm linh được nâng cao, có mặt sự hiền thiện thì cuộc đời của người ấy sẽ bước những bước đi lên tươi sáng và rực rỡ. Điều nầy có thể kinh nghiệm được trong cuộc sống đời thường cũng như trong cuộc đời tu tập tự thân của mỗi chúng ta.
[/FONT]

 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[FONT=Arial,Helvetica]Làm Mới Thân Tâm (tt)
[/FONT]

<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_028%20LamMoiThanTam.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
[FONT=Arial,Helvetica]4. Đốn tức kỳ tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Đốn tức kỳ tâm” có nghĩa là dứt ý thức lăng xăng ngay tức khắc. Ngay bây giờ và ở đây dừng tâm thức dao động, bất an của mình. Làm được công việc này tức loại trừ ngay một lúc, ngay lập tức nghiệp thức của nhiều kiếp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở tầng sâu xa nhất, tức ở tầng Bản môn (Chân như môn) hay an trú nơi tâm Phật bất động thì nghiệp, tội hay phiền não khổ đau chỉ có mặt trên bình diện ý thức. Nếu lặn sâu hơn khỏi bình diện ý thức, thì những gì gọi là nghiệp chướng, khổ đau, tội lỗi không còn có mặt. Điều nầy có vẻ khó hiểu, nhưng với ví dụ sau đây có lẽ chúng ta sẽ dễ hiểu hơn. Chẳng hạn như trong giấc chiêm bao, chúng ta rất hoảng loạn và sợ hãi vì thấy mình bị rượt đuổi, chúng ta chạy trốn, cầu cứu với tâm thức rất bất an. Lúc bấy giờ nếu có một vị thầy, một vị Bồ Tát, hay Đức Phật hiện ra dạy chúng ta những phương pháp như niệm Phật, niệm chú để đối trừ những sợ hãi, bất an. Và làm những việc để loại trừ lo sợ, hoảng hốt trong giấc chiêm bao đòi hỏi một thời gian kéo dài từ lúc chúng ta sợ đến lúc trấn an được nỗi sợ. Nhưng trong lúc hồi hộp, hoảng sợ, đang chạy trốn nếu có một ai vỗ vai lay chúng ta, chúng ta liền tỉnh dậy thoát khỏi giấc chiêm bao, tức khắc vượt thoát tất cả những nỗi sợ của mình mà không cần thời gian để làm gì cả. Chỉ cần mở mắt ra, thức giấc là bao nhiêu sợ hãi và bất an không còn nữa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cũng như thế, nếu tỉnh thức thì chúng ta dứt trừ ngay nghiệp chướng của quá khứ. Nghiệp có mặt do sóng ý thức, có nghĩa là khi ý thức phát sóng là có mặt của sự sống và chết, đến và đi, có và không, còn và mất, là ta đang ở bình diện “Sinh diệt môn.” Nên nghiệp chỉ có mặt ở bình diện sinh diệt môn, mà không hề có mặt ở bình diện “Chân như môn.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đối với phàm phu chúng ta thì mọi thứ vẫn còn y nguyên, còn phiền não khổ đau, còn tham sân si, còn nghiệp chướng. Ta chưa chạm tay vào được, chưa có khả năng đột nhập thẳng vào bình diện Chân như nầy. Đôi khi tuổi đời chồng chất, chúng ta lại càng rời xa bản thể Chân như mà đi vào Sinh diệt càng nhiều hơn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu đem so sánh tâm thức chúng ta với tâm thức của một em bé. Tâm thức của bé thơ gần với chân như hơn chúng ta, bởi vì em chưa được cuộc đời dạy cho những suy nghĩ, lo âu... Đôi mắt thơ dại nhìn cuộc đời đâu cũng là màu hồng, niềm vui đến rạng rỡ, dễ dàng và hồn nhiên tiếp nhận đất trời, cỏ cây, hoa lá. Còn chúng ta nhìn là bao nhiêu phân biệt, bao nhiêu suy nghĩ khởi lên và khi có tiếng thì thầm là khả năng nghiệp thức đã đi vào rồi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở mức độ thô nhất, nghiệp thức thành hình khi có hành động. Khi ta vung tay đánh ai là đã thành nghiệp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vào sâu hơn, chưa cần đánh, chỉ cần xúc phạm bằng lời là thành nghiệp, là đã gây buồn, giận lên trên người kia.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tinh tế hơn bằng lời nói, bằng miệng là nhìn. Cái nhìn cũng phát sóng, và năng lượng đi ra từ cái nhìn cũng tạo thành nghiệp. Khi nhìn ai mà ta không thích, nó sẽ được biểu hiện ra bên ngoài bằng tia nhìn khó chịu, người có trực giác bén nhạy họ biết ngay. Và cũng bằng cái nhìn của ta nếu chứa đầy tham đắm, đầy ái nhiễm, cái nhìn đục ngầu sự thèm khát người đối diện cũng biết ngay bởi nó được biểu lộ qua ánh mắt bằng làn sóng tinh vi của ý thức. Và nghiệp khởi từ đó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đi vào sâu hơn, vi tế hơn, chỉ cần khởi ý nghĩ là đã tạo nghiệp rồi. Nói lầm thầm bằng ý nghĩ đã là nghiệp, tuy những thì thầm nầy người đối diện không nghe thấy nhưng với những người có con mắt tinh tế họ thấy, họ nghe được tiếng thì thầm của ta. Ví dụ như khi ta để ý đến một người mà ta thích thì khả năng thì thầm bắt đầu có mặt, tiếp đến những tràng dài ngôn ngữ xây một lớp sóng ý thức chung quanh. Khi ý thức phát sóng nó tạo thành những làn âm ba vang động trong không gian, năng lượng từ trường đó phát ra từ trong não bộ của chúng ta chạm đến người kia.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tóm lại, ở mức độ thô, những thì thầm đưa đến ngôn ngữ là đã thành nghiệp, kế tiếp là thể hiện ra bằng thái độ, hành động. Ở mức độ vi tế hơn, không cần biểu lộ dù bằng cử chỉ hay tia nhìn, nhưng trong tâm ý thức phát sóng thì những người có trực giác sắc bén họ biết ngay.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]5. Các tầng chấp thủ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thông thường khi chưa lặn được vào chiều sâu của tâm thức, chúng ta vẫn còn ở trên bình diện rất cạn của ý thức, suy tư. Và rõ ràng ta chỉ thấy mình là suy nghĩ nầy, khi có suy nghĩ thì ta thấy ta hiện diện, ta có mặt: “Tôi suy tư tức tôi hiện hữu”, hay “Con người là một cây sậy có tư tưởng.” Các triết gia Tây phương cũng chỉ ở trong bình diện của tư duy nầy, mà chưa lặn sâu vào được những điều Đức Thế Tôn đã dạy. Ngài đã triển khai ra năm tầng Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức rất tinh tế, trong khi chúng ta chỉ ở trên ba tầng cạn, khó đi sâu được vào tầng thứ tư, thứ năm hay vượt thoát được năm tầng nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tầng thứ nhất chấp thân nầy là mình. Cả một đời lao xao sáu mươi, bảy mươi tuổi, chúng ta cũng không vượt thoát chấp thủ về thân. Khi thấy mình đã là thân, rồi bám vào cái thân thì tai họa đầu tiên có mặt trong dòng chảy tử sinh. Khi thân nầy mất con người vội vàng tìm thân khác để chui vào, tạo biết bao nhiêu nghiệp thức trong cuộc đời. Sống càng lâu, nghiệp thức càng dày do vì chấp thân nầy là ta, nên đã tạo ra lỗi lầm khốn đốn cho chính cuộc sống của mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Lặn sâu thêm vào tầng thứ hai, chúng ta lại cho vui buồn, khổ đau hay hạnh phúc là mình, luôn luôn cho rằng những cảm giác đau khổ, hạnh phúc, bất an đang là mình và tan biến trong nỗi buồn, vui đó. Nếu chúng ta biết được nỗi buồn là một cảm thọ của tâm, ta là con người đứng ở bên ngoài nhận biết buồn vui đang có mặt, thì ta không hóa thân vào, biến mất mình trong nỗi đau khổ hay niềm hạnh phúc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Là người tu chánh niệm, ta hãy chịu khó nhìn lại, chỉ để làm một việc là nhận diện ra được tiếng thì thầm của tâm thức đang có mặt, nhận diện được những cảm thọ khắc khoải, bất an, sầu tư... mà đừng để chúng dẫn dắt, nhận chìm ta vào dòng chảy ấy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đạo Phật tồn tại qua hai mươi lăm thế kỷ, đã phát sinh ra ngàn vạn loại Thiền. Nào là thiền Đông Độ, thiền Tứ Niệm Xứ, thiền Chánh niệm, thiền Mật Tông... nhưng tất cả cũng không thoát ra ngoài thiền Tứ Niệm Xứ. Niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp là một pháp môn gốc rễ bao trùm trọn vẹn tất cả những pháp hành của người tu Phật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nguyên tắc của sự tu tập không phải là tự đày đọa thân tâm mình. Những pháp môn hành trì chỉ là những phương tiện để đưa chúng ta đi dần vào cửa Đạo. Vấn đề chính yếu là nắm được cách hành trì, tức nắm được yếu tố rất quan trọng, là nhận diện được từng cảm thọ của tâm. Đó là phương pháp thực tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, có hai con đường cho chúng ta đi vào tự thể Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường phương tiện mở ra ngàn vạn nẻo: niệm Phật, trì chú, tọa thiền... tất cả chỉ là phương tiện. Đó là những cánh cửa mở ra mời chúng ta đi vào để làm quen được từng khởi động của thân, làm chủ được ý thức đồng thời nhận diện được từng sinh diệt của cảm thọ và từng máy động của tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thực sự chúng ta chưa bao giờ làm chủ được thân nầy, thân nầy có những cử chỉ, những hành động, những việc làm rất vô ý thức mà chúng ta không kiểm soát được. Khi chúng ta làm mà không có chánh niệm đi vào, gọi là vô ý thức tức chúng ta không có khả năng nắm bắt được từng hiện khởi của cảm thọ vui buồn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta không “niệm thân” được thì không “niệm thọ” được. Niệm thân bao gồm kiểm soát thân hành, hơi thở. Niệm thọ nghĩa là nhìn được từng vui buồn, lo lắng, bất an có mặt. Nhìn được từng cảm thọ có mặt, tức chúng ta không phải là cảm thọ vui buồn mà chúng ta là người nhìn thấy nó, là người chứng nghiệm nó. Hai điều nầy rất gần, nhưng cũng rất là xa. Khi chúng ta có khả năng nhìn được cảm thọ thì chúng ta đã cách ly với cảm thọ rồi. Và khả năng nhìn để nhận diện được cảm thọ nầy: đó là trạng thái bất động, tĩnh lặng, trong sáng của tâm. Trong truyền thống thiền Đông Độ gọi là “Bản Lai Diện Mục”, “Tự thể Tâm”. Tổ Lâm Tế gọi đó là “Vô Vị Chân Nhân”. Khả năng nhìn nầy không có gì là lạ, và ngày xưa trong một thời pháp Đức Thế Tôn dạy, những cư sĩ, tỳ kheo, ngoại đạo đến nghe được điều quan trọng nầy họ hiểu, nhận ra đều được Đức Thế Tôn gọi là người chứng quả Dự lưu, mở được con mắt pháp, nắm được Đạo bắt đầu theo dòng chảy trôi vào quả vị Thánh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta nếu chưa mở được cửa ải quan trọng nầy của sự tu hành, suốt đời chỉ trượt trên tâm thức chạy theo sinh diệt vui buồn, đang ở trong tầng cạn chấp mình là thân, là cảm thọ nên mãi rong ruổi một đời trong chốn nhân gian đầy bất an và hệ lụy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ lãnh vực cạn chấp thân đã là khổ, chấp mình là cảm thọ thì ở đâu ta cũng khổ hết. Ở hoàn cảnh tốt lành hay khó khăn, nỗi khổ vẫn như nhau do vì chúng ta vẫn giữ nguyên cái chấp mình là cảm thọ. Là người tu, nếu hoàn cảnh khó khăn đến, chúng ta tu không được. Ta chán đời, rồi vào đạo ta chán đạo đều do không mở được mắt pháp. Khi chúng ta có khả năng lặn vào chiều sâu, loại trừ được tầng chấp cảm thọ vui buồn, thì dù có bị liệng vào môi trường nào chúng ta cũng sống thảnh thơi và hạnh phúc. Khi chúng ta đã vào được Thánh vị rồi thì lúc rời hình hài tứ đại nầy ra đi thong dong, có thể chọn cho mình được chỗ để thọ sinh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tuy nhiên dòng chảy của tử sinh vẫn chưa dứt. Tầng sâu hơn của cảm thọ là sóng ý nghĩ. Sóng ý nghĩ mịn hơn vui buồn của cảm thọ, khi ý nghĩ phát thành sóng là có nghiệp. Tâm thức thô chúng ta không nhận ra được sóng ý nghĩ, nhưng sóng ý nghĩ nầy hiện hình tức khắc các vị ở Thiên giới, các vị Thần không có hình hài như chúng ta họ sẽ nhìn thấy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên tuy đã lặn được vào chiều sâu rời bỏ cảm thọ, nhưng dòng chảy ý thức vẫn còn hiện diện rất là vi tế, tức sóng ý thức còn có mặt; ta vẫn còn hiện thân trong ba cõi, sáu đường, còn bị sinh tử luân hồi lôi kéo. Nếu sóng ý thức nầy mà dừng lại được thì chúng ta cắt đứt được dòng chảy tử sinh, lập tức rời Sinh diệt môn thể nhập vào Chân như môn, nhập vào trạng thái Niết Bàn thường tịch.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Muốn rời Sinh diệt môn, chúng ta phải lặn qua ba tầng chấp: chấp thân, chấp thọ, và chấp ý thức. Khi ý thức mà còn những gợn sóng, còn hình ảnh, con người có thể không thấy, nhưng có quỷ thần thấy, Diêm Vương có thể nắm ta, dẫn ta đi vào Địa ngục được. Để vượt qua ba tầng chấp thủ, hay nói cho đủ là vượt qua năm tầng chấp thủ ngũ uẩn chỉ bằng sự thực tập duy nhất là cắt được sóng ý thức. Làm cho sóng thức chìm lặng, biến mất trả lại khả năng nhận biết như trời trong, không một gợn của tiếng nói thì thầm, lúc ấy chúng ta mới có khả năng vượt khỏi sinh tử của ba cõi, sáu đường. Ba cõi sáu đường vượt thoát thì những gì gọi là tội lỗi, nghiệp chướng... không có cách gì nắm ta được.[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_029%20LamMoiThanTam.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>

[FONT=Arial,Helvetica]6. Vượt thoát nổi chìm[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin kể một câu chuyện trong nhà Thiền rất hay nói lên cho chúng ta biết một điều là khi sóng ý thức còn, là còn đi trong sinh tử luân hồi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có một vị Thiền sư, mỗi lần ông nhập định thì mãi đến hai, ba tuần mới xuất định. Đặc biệt ông có một niềm đam mê lạ lùng là thích cái bình bát bằng ngọc rất đẹp, rất quí. Mỗi lần trước khi nhập định ông đem cất báu vật đó rất kỷ vì sợ bị đánh cắp. Đến ngày tuổi thọ đã hết, Tử thần đến kiếm đúng ngay lúc ông đang nhập định, tìm mãi không ra. Tuy hình hài ngồi đó nhưng ông biến mất phương nào. Cuối cùng Tử thần phải cầu cứu đến thổ địa giúp kiếm để dẫn ông về cho Diêm Vương. Thổ địa cho biết nếu quỉ tốt có thể kiếm ra chiếc bình bát ngọc của vị Thiền sư khua lên thì ông sẽ xuất hiện. Thổ địa đã mách một điều rất hay và hiệu quả. Thế là, khi kiếm được bình bát khua lên ba tiếng vị sư hồi phục lại, hiển hiện sự sống nơi thân sinh tử, liền tức khắc quỉ tốt mời ông đi theo. Bất giác vị thiền sư giác ngộ được rằng; vì khả năng quyến luyến, nuối tiếc cái bình bát mà hiện thân lại trong cõi trần, và hiện bằng cách khởi ý thức thầm thì thương luyến nên có chỗ cho quỉ tốt thấy được mình, bắt được mình. Ông mỉm cười, xếp chân lại tọa thiền, cắt rời tức khắc sóng ý thức. Và tuy ông đang ngồi đó, nhưng cuối cùng quỉ tốt không tìm ra ông.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, qua câu chuyện chúng ta thấy khi vị Thiền sư lặn vào Tâm Phật bất sinh là không còn sóng ý nghĩ, tâm thức trống không bát ngát mênh mông như không gian thì Thiên ma kiếm không ra, Thánh thần tìm không gặp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Các bậc Thánh có ba thân nhưng vốn từ phước đức và tâm thức tạo thành, như sinh diệt thân, hóa thân hay Pháp thân của Phật. Sinh diệt thân của Thế tôn tuy được cấu thành bằng phước đức nhưng chịu quy luật tử sinh không khác phàm thân. Hóa thân Phật chỉ là năng lượng vô hình bàng bạc trong không gian, cảm được độ rung của tâm thức ta cho nên một lời cầu nguyện, một niệm lành đôi khi được đáp ứng. Pháp thân Phật chính là tự thể tâm vô sinh bất diệt, là trạng thái Niết Bàn thường tịch. Tuy nhiên, cũng thân nầy, hình hài nầy nhưng khi sóng ý thức phát thì còn dấu vết, còn tìm lại được. Nhưng khi sóng ý thức tắt đi chỉ còn nhận biết sáng ngời, thường tại, tức khắc nghiệp chướng của ba A tăng kỳ kiếp gột sạch trong một sát na. Từ bình diện Sinh diệt môn đi vào Chân như môn (hay từ tích môn đi vào bản môn) nhẹ như trở bàn tay.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, là những người tu nếu thông minh thì chúng ta là chủ cuộc đời mình. Niềm vui nỗi buồn do chúng ta mang lại, và lòng mình là giếng ngọt tuôn tràn. Chúng ta không cần bất cứ một điều kiện gì để làm cho mình hạnh phúc cả. Ta hãy sừng sững như núi cao và bất động. Được thầy thương thì tốt, thầy không thương thì càng có nhiều thì giờ để tu, đâu phải ngày ngày đi tò tò bên thầy mà hạnh phúc. Mình ngồi một nơi, thầy ngồi một nơi không hạnh phúc sao? Có huynh đệ thì hạnh phúc, không có huynh đệ thì không hạnh phúc à? Hạnh phúc chứ! Hạnh phúc ở trong ta, chúng ta có khả năng chế tác năng lượng hạnh phúc. Và đời sống tâm linh là đời sống độc hành độc bộ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thực ra chúng ta có thể hỗ trợ, giúp nhau ở mức độ niệm thân. Ta tác động nhau, giúp nhau trong việc để ý đến oai nghi, tế hạnh bên ngoài. Nếu anh đi những bước chân thiếu chánh niệm, tôi giúp anh được. Nếu hơi thở không yên bình, chứng tỏ trạng thái tâm thức của anh đang phù động, tôi nghe tôi giúp được. Nhưng nếu lặn qua khỏi tầng của niệm thân, đến niệm thọ ai giúp anh được. Chúng ta phải tự mình điều phục, chuyển hóa và trách nhiệm với quá khứ của mình. Những ký ức tích chứa lâu đời trong tâm thức chính mình phải đối diện, có ai đối diện cho mình đây.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Lặn vào trong tầng sâu cảm thọ, thì người nào cũng thế. Không ai giúp được nhau trong tầng sâu của sự tu tập, và không có vị Phật nào bước vào dấu chân của vị Phật nào.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Thế Tôn tuy khai sáng ra pháp môn để chúng ta tu, mỗi người cũng phải có con đường riêng, và tự mình nỗ lực đi vào Niết Bàn. Không thể có con đường tám bộ rộng thênh thang cho chúng ta đi thong thả. Mỗi người phải là thầy của chính mình, rồi ai cũng đến giai đoạn phải như thế.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Lên đến tầng cao của sự tu tập, đời sống tâm linh có những nhu cầu khác biệt vì nghiệp thức khác nhau, tâm lý khác nhau cho nên mỗi chúng ta là một sự khám phá riêng. Nói như thế để quí vị thấy rằng con đường tu không phải là con đường của một nhà máy; nhà máy đóng hộp. Cứ dẫn bò vào thì sẽ ra hộp thịt bò phía sau giống nhau. Chúng ta mỗi người phải tự nỗ lực lấy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, tôi xin nhắc lại ở bình diện cạn, khi chúng ta còn ở trên bề mặt của ý thức cảm thọ, còn lặn hụp trong thân, thọ, tưởng, hành thức là còn lặn hụp trong cõi giới nầy, thì không bao giờ sai sót mảy may nghiệp quả, báo ứng. Vượt thoát được những tầng nầy luôn sống với cái “tĩnh tại, liễu tri thường hằng” mới có thể rũ sạch được nghiệp thức ba đời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có hai con đường cho chúng ta tu: một con đường là sự nhập, và một con đường là lý nhập. Sự nhập là con đường của phương tiện để ta đi, lý nhập là con đường của nhận thức, phát sinh tuệ giác và khi phát sinh tuệ giác rồi chúng ta mới có thể cắt đứt hết phiền não, khổ đau bời bời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường của người xưa chứng Thánh quả là con đường đoạn kiến hoặc. Trong tất cả các pháp môn đoạn trừ hoặc lậu, phương pháp đầu tiên là khả năng nhận thức, hiểu biết của chúng ta. (tức đoạn trừ tất cả dây mơ, rể má làm nền tảng lôi kéo chúng ta vào cõi luân hồi sinh tử). Khi khả năng hiểu biết, niềm tin của mình có mặt, tức khắc chúng ta đoạn dứt được dòng chảy tử sinh. Dòng chảy tử sinh nầy không thể dùng công phu nhọc nhằn ba bước lạy một lạy, hai bước lạy một lạy mà đoạn trừ hoặc lậu của tâm thức.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]7. Một lần buông tay.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Xin quí vi nhớ rằng công phu tu tập ở mức độ cạn như hành trì, bái sám, lễ Phật, tụng kinh... tất cả mọi thiện nghiệp đều có công năng chuyển hóa. Nhưng ở mức thâm sâu, những gì gọi là thiện nghiệp không dính đến khả năng chuyển hóa nghiệp thức. Những thiện nghiệp nầy chỉ là những hạt mầm lành lấn chỗ những hạt mầm ác, và cũng là loại có sinh có diệt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên ở mức độ thâm sâu của đạo lý, cùng một lúc thiện ác đồng thời biến mất. Lặn đến đáy của vô ngôn, vô niệm, vô ngã thì triệt tiêu một lần cái nhân của nghiệp, của ba cõi sáu đường, tức đạt được Chân Như môn. “Đàn chỉ viên thành bát vạn môn”, chỉ một búng tay là ngàn vạn cửa nhiệm mầu của Phật thành đạt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tự thể của Chân Như môn nằm ngay trong sinh diệt. Chân Như và sinh diệt nầy không rời nhau, cũng như hình hài sinh diệt nầy không rời Phật tâm. Trên đường tâm linh, chúng ta tu là để tìm lại tâm Phật của mình, và sống với tâm Phật của chính ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Để rõ nghĩa hơn về Sinh diệt môn và Chân như môn, tôi xin đọc và tạm dịch để quí vị cùng nghe bốn câu rất tuyệt vời trong Chứng Đạo Ca của Ngài Huyền Giác:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vô tội phước, vô tổn ích.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tịch diệt tánh trung mạc vấn mích.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tỉ lai trần kính vị tằng ma.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Kim nhựt phân minh tu phẩu tích.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Nghĩa là: Không có tội, không có phước, không thêm, không bớt gì cả. Thể tánh tịch diệt nầy vốn là cái tự có của ta. Không cần tìm tòi, không cần hỏi ai để có.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nó là tự hữu của ta. Gương tâm của ta bị bụi phủ đầy, chưa từng lau, chưa từng mài, chưa từng làm cho sạch. Ngay hôm nay phải rõ ràng nhận biết.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica](Không tội phước, không thêm không bớt. Bản tánh tịch diệt đừng nắm bắt. Xưa nay gương bụi chưa từng lau. Giờ phải phân minh cho rõ nét).[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bao lâu nay chúng ta trôi nổi trong lục đạo luân hồi vì không nhận ra được chúng ta là khả năng nhận biết. Khả năng nhận biết nầy rất gần. Ngay trong dòng suy tư khởi lên liên tục, nếu chúng ta tỉnh thì có mặt nhận biết, nếu mê thì nhận biết biến mất. Cho nên bản chất tịch diệt hiện trong sinh diệt mà không cần nắm bắt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta đã lang thang qua bao kiếp tử sinh, ngụp lặn nhiều rồi trong khổ ải, nếu nhận ra được thân là đối tượng của nhận biết, và khả năng thì thầm buồn vui nầy là sở hữu của ta mà không phải là “sự nhận biết bất động vô sinh” thì bao nhiêu bụi phủ mờ trên mặt gương kia được phủi sạch. Ngay nơi đây và giờ phút nầy phân biệt rõ ràng gì là khách đến rồi đi, cái gì là ông chủ còn lại tĩnh tại, thì đáng gọi đó là người thông minh, là người biết tu, là dũng sĩ dám một dao cắt đứt dòng chảy sinh tử trong nhiều đời, nhiều kiếp. Tu không có chi khó, chỉ cần làm ông chủ nhận diện những người khách đến rồi đi. Và hãy luôn là ông chủ, đừng đồng hóa mình vào khách, đừng để khách dắt dẫn vào cõi lãng quên thì cửa Niết Bàn thênh thang rộng mở.
[/FONT]<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif][if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif][if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_030%20LamMoiThanTam.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG VI - CHƯƠNG VII - CHƯƠNG VIII[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]TU HẠNH NHẪN NHỤC
[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif][if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif][if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_031%20TuHanhNhanNhuc.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>

</center> [FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ba chương sáu, bảy và tám có chung một nội dung nên chúng ta sẽ học bài nầy dưới chủ đề Tu Tập Hạnh Nhẫn Nhục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]CHƯƠNG VI.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Ác nhân văn thiện, cố lai nhiễu loạn giả. Nhữ tự cấm tức, đương vô sân trách. Bỉ lai ác giả nhi tự ác chi.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Người ác nghe ai làm việc thiện thì họ đến phá phách quấy rối.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Các ông hãy biết ngăn ngừa và dừng lại, đừng có nóng giận, đừng có oán trách.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Người đem việc ác đến tự họ sẽ nhận lại quả báo ác.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]CHƯƠNG VII.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chương nầy cũng có nội dung giống như trên và được dẫn ra từ văn học A Hàm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Hữu nhân văn ngô thủ Đạo, hành đại nhân từ, cố trí mạ Phật. Phật mặc bất đối. Mạ chỉ. Vấn viết: Tử dĩ lễ tùng nhân, kỳ nhân bất nạp, lễ qui tử hồ? Đối viết: Quy hỹ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Kim tử mạ ngã, ngã kim bất nạp. Tử tự trì họa, quy tử thân hỉ. Do hưởng ứng thanh, ảnh chi tùy hình, chung vô miễn ly. Thận vật vi ác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Có người nghe ta giữ đạo và tu tập hạnh đại từ. Cho nên quyết lòng đến mắng Phật. Đức Phật im lặng không trả lời. Người kia dừng mắng thì Đức Thế Tôn hỏi: “Ông đem lễ đến tặng cho người, nếu người ta không nhận, lễ đó có về ông không?” Người kia đáp: “Về chứ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Ông hôm nay mắng ta, ta không đón nhận thì ông tự chuốc lấy họa về thân của ông. Giống như vang theo tiếng, như bóng theo hình, không có sai chạy một mảy may, cẩn thận chớ có làm ác.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]CHƯƠNG VIII.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Ác nhân hại hiền giả, do ngưỡng thiên nhi thóa, thóa bất chí thiên, hoàn tùng kỷ đọa. Nghịch phong dương trần, trần bất chí bỉ, hoàn bộn kỷ thân. Hiền bất khả hủy, họa tất diệt kỷ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Người ác hại người hiền. Giống như mình ngửa mặt lên trời mà phun nước miếng, nước miếng không tới trời mà lại rơi xuống thân ta. Giống như mình tung bụi ngược gió, bụi không đến người kia, trở lại dính vào mình. Cũng như thế, người hiền chúng ta không thể đụng chạm họ được. Bôi lọ hay làm gì gây tai họa cho họ, quả ác sẽ đến hủy diệt thân ta.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hãy thực tập hạnh nhẫn nhục và cẩn thận phòng hộ ba nghiệp, vì nghiệp quả không hề sai chạy mảy may là đại ý chung của ba chương sáu, bảy, tám.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Hãy cẩn trọng đối với nghiệp quả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thông thường khuynh hướng chung của con người ít chịu tùy thuận thiện hạnh của người khác, và cũng rất hà tiện lời khen đối với người. Chúng ta hay nghĩ khen ai hay tùy thuận việc thiện của ai, sẽ làm cho bản thân mình bị giảm giá trị. Ví dụ như khi nghe ai khen một lời về người bạn của mình, mình cũng cố gắng nói một câu: “ông đó tốt nhưng mà...” tâm thức chúng ta thường có thói quen như vậy. Nhìn thấy ai có thiện hạnh lớn, chúng ta có niềm ganh tị bên trong. Đây là tâm thức rất phổ thông.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đối với người ác nghiệp lớn, nếu chúng ta hủy nhục, xâm phạm hoặc gây tai họa đến cho họ tương đối quả báo chậm đến với mình. Nhưng đối với các bậc thầy, các bậc đại sư hay các vị thiện nghiệp lớn, nếu chúng ta xúc phạm đến họ, nghiệp báo ác đến với chúng ta rất nhanh. Điều nầy không có gì lạ, bởi vì các bậc hiền thiện, tâm họ như mảnh gương trong, rất sáng nên sự phản chiếu trở lại rất nhanh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người đời nghiệp ác dù ngập đầu, đôi lúc nghiệp đến rất chậm. Nhưng người tu làm ác, nghiệp đến rất là nhanh. Chúng ta nên lưu ý, cẩn thận. Càng tu chúng ta càng nên cẩn thận. Người xưa bảo, càng tu giống như người đi trên băng mỏng, phải cẩn thận từng bước, một bước lơi lỏng băng vỡ là chìm. Chưa bao giờ nghiệp quả trong cuộc đời nầy sai chạy. Gây cái nhân ác nhỏ xíu như hạt lúa có khi quả chúng ta gặt không phải là hạt lúa mà là bông lúa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta chưa có thể đạt đến chỗ vô sinh, tức là tâm thức còn ở trong cõi giới sinh diệt vô thường nầy, tâm thức chưa an trú trong Niết Bàn, thì một lời nói, một ý nghĩ, một việc làm đều có nghiệp quả đi theo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi chúng ta đã đặt chân vào vùng trời vô niệm, tâm thức rỗng lặng, không còn dấu vết của ý thức, bản ngã thì dù trong một ngày có tiêu ngàn lượng vàng ròng, cũng không có gì phải gọi là đền trả công ơn của ai. Đây là lời tổ Lâm Tế nói. Nhưng nếu tâm thức của ta còn ở trong cảnh giới nhị nguyên, tức là còn phân biệt trắng đen, phải quấy, nam nữ, nhìn là vọng thức phát sinh thì một hạt cơm, giọt nước đều có sự đền trả không thể nào thoát khỏi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Trích thủy nan tiêu.”: một giọt nước khó tiêu. Ngày xưa, có một vị sư được một gia đình thí chủ nọ thương quí, và được cúng dường rất cung kính. Vị thầy tuy không có phạm trai, phá giới gì nhưng đường tu vì chưa nắm vững, hơn nữa ông cũng không muốn đi khất thực nhiều nơi, nên ngày qua tháng lại ông cứ thọ nhận sự cúng dường của thí chủ kia mà không ngần ngại gì cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đến ngày qua đời, gia đình thí chủ lo tang lễ cho vị thầy rất chu đáo với tất cả lòng kính trọng. Không bao lâu, mảnh vườn sau nhà của thí chủ một cây cổ thụ mọc ra nấm, và mỗi buổi sáng họ đều ra hái nấm vào nấu, hương vị cực ngon, nhưng người khác đến hái thì không có. Ngày nọ, một người hàng xóm biết được việc nầy lén vào gở trộm nấm bỗng giật mình khi nghe tiếng nói: “Ta đâu có nợ ngươi.” Ông vô cùng ngạc nhiên, hoảng sợ khi biết tiếng nói phát ra từ cây nấm, và được cây nấm cho biết mình là vị sư đã từng thọ nhận sự cúng dường của gia đình nầy. Vì của tín thí khó tiêu, tu hành không có lực cho nên phải trở lại đền ơn họ; còn người hàng xóm không có cúng dường và cũng không dính gì đến vị sư nên không thể cắt nấm tức cắt thân vị sư được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi gia đình thí chủ biết được sự thật, họ thương khóc, lễ lạy trước cây nấm, xin xóa bỏ những gì đã cúng dường từ trước. Tất cả đều do lòng thành và không bao giờ có tâm nghĩ rằng thầy phải đền trả gì hết, cầu xin vị thầy hoan hỉ vãng sanh. Chúng ta có thể đọc thấy câu chuyện nầy từ “Sa di Luật Giải.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, khi tâm thức của chúng ta còn ở trong cảnh giới nhị nguyên, phàm thường, tức chưa có chánh niệm từng phút rỡ ràng thì một giọt nước, một miếng ăn đều có giá của nó cho nên phải cẩn trọng trong sự tu tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không ai nhàn nhã bằng người tu, không làm có cơm ăn, không dệt có áo mặc, không xây dựng có nhà cửa ở. Mình đừng tưởng mình là con vua cháu chúa, và những Phật tử, thí chủ có bổn phận, trách nhiệm nuôi mình. Mỗi một lần họ cúng dường mà chúng ta thọ nhận là họ mài lên viên đá mình một ít phước đức. Mỗi một ngày sống mà không nhiếp tâm tu tập là phước đức tu của mình bị mòn dần.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi đã ở trên đất Mỹ rồi, tôi thấy thương cho những Phật tử ở đây. Có ngàn vạn điều xô đẩy người Phật tử ở phố thị phải lao về phía trước không thể dừng lại được, đồng thời những lo lắng, bất an, sợ hãi... lại đè nặng trên cuộc sống họ. Bao nhiêu là nhọc nhằn, vất vả khi phải bon chen trong đời sống thế gian để tạo dựng tài sản, vật chất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta tu tập không được bao nhiêu, phước đức chúng ta chưa đủ lớn mà tiêu dùng của thí chủ không biết quí tiếc công khó là cả một tai họa. Rồi đây không biết chúng ta sẽ sinh ra làm bao nhiêu đời kiếp cây nấm để trả công khó cho người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hãy nhắc nhau điều cạn là nhân quả rất rõ ràng. Nên nhớ rằng trên con đường chúng ta đã chọn, tâm tu đầu tiên là tâm chất trực, lòng thành tín ở sự tu tập, và nếu giữ tâm ban sơ như thế suốt đoạn đường tu, chúng ta sẽ không bị đi lạc. Nếu không cho dù làm được ông thầy lớn, có được chùa riêng chúng ta phung phí của đàn na tín thí, mặc nhiên lấy của người làm của riêng, rồi một đời tu phất phơ qua ngày sẽ gây họa cho ngàn vạn kiếp. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]2. Đi qua những thử thách.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chưa bao giờ một sự nghiệp lớn nào được trao cho người còn non trẻ ý chí và tâm thức. Chúng ta để ý những bậc thầy lớn, làm nên những sự nghiệp vĩ đại, thường thường là những người đã trải nghiệm nhiều đắng cay trong cuộc đời mới đủ kinh nghiệm, kiên nhẫn, can trường gánh vác công việc lớn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đọc vào sử liệu của thế gian, chúng ta thấy điều nầy rất rõ ở một vài danh nhân như Thành Cát Tư Hãn, Abraham Lincoln... Trước ngày Thành Cát Tư Hãn thống nhất vùng thảo nguyên bao la phía Bắc Trung Hoa, nơi đây chỉ là những bộ tộc rời rạc như những mảnh vụn và chưa có một vị lãnh chúa nào tập trung được giống người Mông Cổ can trường, dũng mãnh nầy. Chỉ có Thành Cát Tư Hãn. Mặc dù trải qua bao tủi nhục, đau khổ của thời thơ ấu, những thất bại nhục nhã, đắng cay, tan tác trên chiến trường (cha mất sớm, bản thân suýt chết mấy lần, vợ bị bắt làm áp trại phu nhân cho giặc...), nhưng với hùng khí ngất trời, và trong lòng kiên cường quyết xây dựng sự nghiệp lớn, nên chỉ trong thời gian ngắn không những ông đã chiếm lại được những gì đã mất mà trải dài từ phía Đông biển Hồng Hải đến phía Tây giáp vùng đất La Mã gần nửa vòng trái đất, tất cả đều rạp mình dưới vó ngựa của đoàn quân ông. Ngay đến cả loài cỏ cũng không sống được. Ông đã gầy dựng lại toàn bộ sự nghiệp và hùng dũng tuyên bố: “Ở Vương quốc của ta mặt trời chưa bao giờ lặn.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngày xưa, Thái tử Đan chọn được Kinh Kha là người sẽ rời nước Yên đi qua Tần để hành thích Tần Thủy Hoàng. Thái Tử Đan nóng lòng muốn giết ngay cho được bạo Chúa, nhưng Kinh Kha do dự vì muốn chờ một người bạn có đủ can trường cùng mình đi đến nơi hang hùm, ổ cọp đó mới mong thành công. Nhưng vì không thể chờ bạn được ông đành ra đi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hai nước Yên, Tần cách nhau dòng sông Dịch, và khi chia tay Thái Tử Đan, Kinh Kha đã làm bài thơ có hai câu nói lên tâm trạng của mình: “Phong tiêu tiêu hề dịch thủy hàn. Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục phản.”: Gió vi vút chừ sông Dịch lạnh tê. Tráng sĩ một đi chừ không trở về. (Nguyễn Hiến Lê dịch)[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi vào đến chỗ vua Tần, người bưng phẩm vật, bản đồ đi theo Kinh Kha trông thấy ba quân đằng đằng sát khí sợ quá, không giữ được bình tĩnh run lẩy bẩy. Vua Tần thấy được, tâm thức đề phòng liền có mặt. Câu hỏi kẻ kia đến đây với dụng ý gì tức thì khởi lên trong ông. Cho nên việc mưu sát Tần Thủy Hoàng của Kinh Kha không thành công.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Qua những câu chuyện nầy, chúng ta thấy trong thế gian muốn thành công trong cuộc đời, muốn làm nên sự nghiệp lớn đều phải có đức nhẫn nhục phi thường.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đôi khi sự nghiệp lớn không chỉ dựng lên trong một hai lần, mà phải cần rất nhiều lần. Có một nhà tỷ phú nào, nhà giàu nào dựng lên được sự nghiệp giàu có của mình nhanh chóng và thuận buồm xuôi gió? Thưa không. Đó là chúng ta nói chuyện trong đời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong đạo cũng vậy, những bậc thầy lớn là những người chịu đựng nhiều nhất sóng gió, ghen ghét, đố kỵ, hủy nhục... của bao nhiêu người. Chúng ta chỉ thử nhìn ở bình diện thường như trong một rừng cây, cây nào cũng bằng nhau đều chịu chung sức gió rất nhẹ, nhưng nếu có một cây vượt cao lên thì cây đó sẽ bị gió lay mạnh nhất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tâm ganh tị, tâm đố kỵ là điều rất bình thường của con người. Nhìn thấy ai dễ thương hơn mình, giỏi hơn mình là không ưa rồi, thấy người ta nói một câu văn chương ra vẻ được người khác kính trọng là thấy khó chịu rồi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ những điều nhỏ, chúng ta suy ra những con người làm nên sự nghiệp lớn cũng đi chung trên con đường như thế. Khi con người leo lên được đỉnh công danh thì đất trời luôn ghen ghét. Ngay trong đời cũng thế, mà trong đạo cũng thế. Nhiều khi ở trong đạo sự phá rối, làm khó khăn cho con đường hoằng pháp không phải do người đời mà do những bạn đồng tu. Sự khó khăn không phải do cuộc đời đổ xuống, mà là do tự thân trong tăng đoàn gây nên. Người ngoài đời biết gì đâu mà ganh tị, đâu có thể dành được địa vị tu của chúng ta, có chăng là những người bạn đồng tu, là những người thân cận cùng có gốc thầy tu chứ nào phải ai xa lạ. Đó là những điều rất dễ nhận ra. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ nầy chúng ta thấy đáng ghét nhưng nhìn ở một khía cạnh khác, những điều nầy là thử thách rất cần cho sự tu tập của chúng ta. Những hạ nhục, những nói xấu, những phỉ báng... là để cho chúng ta trui rèn, thực hành đức bao dung, hạnh nhẫn nhục, là để cho ta nỗ lực vươn lên nếu muốn đưa vai gánh vác và thành tựu sự nghiệp lớn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vì vậy từ những điểm tôi chia xẻ, xin quí vị nhớ tất cả chướng duyên đến với người tu đều là cơ hội tốt. Nếu những chướng duyên nhỏ đến với mình, đó là cơ hội để chúng ta thực tập, nuôi lớn tâm hạnh người tu. Nếu chướng duyên lớn đến thì chúng ta hân hoan, vui mừng vì đây có thể là trời đất sẽ trao cho ta nhiệm vụ lớn. Sở dĩ chúng ta phải đối phó với những chướng duyên lớn vì đời sống tâm linh đã được nâng lên tầm cao. Trong cánh rừng kia không có gió lớn, thì làm sao chúng ta biết rằng sự có mặt và vươn cao của những cây đại thọ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Những ngày đầu tiên khi Ngài Tinh Vân rời Trung Hoa đến Đài Loan, ông bị các thầy bản xứ vu khống là gián điệp do Trung Hoa gài vào. Trong hoàn cảnh khó khăn bị cô lập, nghi kỵ, khinh rẻ như thế, Ngài đã nhẫn nhục sống và làm biết bao nhiêu việc từ ngày đặt chân lên Đài Loan cho đến mãi bây giờ. Một trong những cuốn sách đầu tiên như “Thoát vòng tục lụy.”... đều được viết và cho ra đời từ một máy may kê ở một góc nhỏ tồi tàn trong nhà.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngày ấy tuy còn rất trẻ, nhưng với tâm nguyện dũng mãnh Ngài đã tự mình vươn lên, gánh vác mọi trách nhiệm để hôm nay trở thành Tông chủ của một Tông phái rất lớn. Và hầu như trên thế giới, nơi nào cũng có chùa của Phật Quang Sơn. Thế nhưng ông vẫn chưa bao giờ biết mỏi mệt. Giao trách nhiệm trụ trì một trung tâm ở Đài Loan cho thầy khác, ông một mình đích thân đi đến những nơi dù xa xôi như Phi Châu để giảng dạy không ngần ngại. Ngay cả những lúc bệnh vì bị tiểu đường rất nặng, ông vẫn cứ đi không nghĩ đến hao tốn, vất vả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên trong đạo, để làm được Phật sự lớn, Phật sự nhỏ không phải tâm chí thấp kém, không có đức nhẫn nhục mà có thể làm được. Từ việc tu tập cho đến hoằng pháp độ sinh, hay xây dựng một tự viện dù nhỏ đều đòi hỏi nơi chúng ta đức nhẫn nhục rất lớn mới có thể thành tựu được. Hạnh nhẫn nhục là căn bản cần phải thực hành không ngưng nghĩ, nếu không trên con đường tu chúng ta sẽ trôi nổi lênh đênh không biết về đâu.
[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif][if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif][if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_032%20TuHanhNhanNhuc.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
[FONT=Arial,Helvetica]3. Nội dung của nhẫn nhục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong lục độ Ba la mật có hạnh nhẫn nhục và bên trong nhẫn nhục nầy có bố thí, trì giới, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Tức là trong mỗi độ của Ba la mật đều bao hàm năm độ kia. Nếu không có trí tuệ, từ bi, định lực thì chúng ta không thể nhẫn nhục được và cũng không thể hoàn thiện nhân cách của người tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở mức độ cạn như khi chúng ta bị hủy nhục, phản ứng của mình bừng dậy; nhưng lúc bấy giờ chúng ta vận dụng được năng lượng trí tuệ đi vào để quán chiếu thì khả năng nhẫn nhục liền có mặt. Nếu không, sự ăn thua đủ, không nhường nhịn là chuyện dễ dàng xẩy ra, nên tự thân của nhẫn nhục có yếu tố trí tuệ trong đó. Và điều rất gần là có từ bi trong nhẫn nhục, vì lòng thương không đủ lớn thì ta không thể nhẫn nhục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Làm ông thầy muốn giáo hóa đồ chúng rất cần đến nhẫn nhục lẫn từ bi chúng ta mới có thể độ học trò, mới làm đạo được. Lòng từ bi, tình thương càng lớn thì đức nhẫn càng dày. Nếu chúng ta phản ứng liền khi bị một lời xúc phạm tức là đức bao dung của mình không đủ lớn, đủ rộng. Nhưng khi lòng thương, đức bao dung của chúng ta mênh mông, bao la dù cho ai làm gì chúng ta cũng mỉm cười được. Nhẫn nhục được ví như đức của người mẹ, lòng thương của mẹ rất lớn nên khi con có lấn lướt mình, có những hành động xem thường mình mẹ vẫn cười, cho qua được. Chúng ta phải quán chiếu, tư duy để thấy thực tập một hạnh nhẫn nhục có cả lục độ và phạm vi của nó rất rộng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]4. Các tầng nhẫn nhục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Là những người tu chúng ta phải mặc áo giáp nhẫn nhục mới có thể tồn tại được. Khoác pháp phục cũng có nghĩa là khoác áo nhẫn nhục để đi trong cuộc đời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Nhẫn nhục đầu tiên của chúng ta là nhẫn nhục với hoàn cảnh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi sống với gia đình, chúng ta quen muốn làm gì thì làm, từng nhộn nhịp ở nhân gian nên khi đầu tiên bước vào chùa thấy vắng vẻ, tịch liêu nhớ nhà muốn về thăm bố mẹ thì tăng thân không cho phép, hội đồng giáo thọ không duyệt cho. Ngày xưa dù ở xa, lâu lâu về thăm bố mẹ là chuyện thường, và với các cô, các chị nhu cầu gần gũi bố mẹ rất cần thiết, thế mà đầu tiên vào tu bị ép, gò bó trong điều luật; nhiều việc có khi mười người đồng ý nhưng một người không, xem như chuyện của mình không thành. Cho nên nếu chúng ta không mặc áo nhẫn nhục có lúc không thể vượt qua được. Ở ngoài đời, có thể chúng ta từng làm ông nầy, bà nọ nhưng khi vào chùa gặp bao nhiêu cảnh, bao nhiêu điều trái nghịch với lòng mình, hoàn cảnh tu khó khăn, làm chúng ta rất là bực bội, chán nản. Nếu chúng ta không có đủ nhẫn lực thì chắc chắn không thể vượt qua được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tự thân của đức nhẫn nầy có trang bị sẵn bên trong cho chúng ta tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Lòng từ của chúng ta không có, bản nguyện không được dày, không được sâu, niệm tu hành không nhiệt tình thì khi gặp phải một hoàn cảnh không vừa ý dù nhỏ chúng ta sẽ thối tâm Bồ Đề ngay.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi ngày xưa tu, tâm Bồ Đề cũng có lần bị chao đảo. Một lần về thăm nhà, thấy mẹ, gia đình khổ cực quá lòng rất hối hận nghĩ nếu mình không đi tu thì đã giúp được mẹ và mấy em rồi. Tôi trở về chùa, thưa với thầy Bổn sư xin về nhà một năm. Cụ Bổn sư không bằng lòng và giúp tôi bằng cách là chỉ cho tôi về nhà vào những mùa cấy, mùa gặt để giúp gia đình. Thời gian còn lại tôi vẫn ở chùa tu học. Nếu làm được điều nầy xem như vẹn toàn đôi đường, vừa giúp gia đình, vừa giữ được niệm tu hành, Bồ Đề tâm không bị lui sụt. Ông cụ sợ tôi không còn là tôi nữa khi về với gia đình trong một thời gian dài, có thể tôi giữ được chiếc áo tu nhưng rồi tâm Bồ Đề sẽ bị bào mòn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thầy Bổn sư của tôi là một vị thầy nhà quê, nhưng đã cho tôi những lời dạy thắm đẫm tình đạo, tình đời đầy trí tuệ. Sau khi đời sống Bà Cụ ổn định, tôi bắt đầu cuộc đời tăng sinh rời chùa quê lên Phật học viện... Tôi nhớ mãi mỗi lần đi học từ chùa quê lên thành phố, ban đêm thầy Bổn sư đưa tôi ra đường đón xe. Ở trong nhà ông cụ không nói gì, sợ cho tôi tiền thì huynh đệ khó chịu, nên chờ đến lúc ra ngoài đường mới móc tiền đưa cho tôi bảo cất đi để lo thuốc thang lúc đau ốm, và chi phí nầy nọ khi cần. Lòng thương vô bờ ủ kín đằng sau ân cần, tế nhị là những tình tự của nhà chùa luôn nuôi dưỡng làm cho tôi sống còn đến hôm nay.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nói như thế để quí vị thấy rằng đời sống luôn luôn có hai mặt. Mặt thuận thúc đẩy chúng ta nuôi dưỡng Bồ đề tâm, mặt nghịch là có những cái nó bào mòn. Nhưng nghịch hay thuận phát sinh từ đâu? Nếu chúng ta nghĩ là cực nhọc, là ràng buộc, là cô quạnh... thì tự nhiên tâm Bồ Đề bị bào mòn, thui chột. Nhưng nếu nghĩ hoàn cảnh khó khăn chỉ là bên ngoài, là cơ hội thử thách nuôi chúng ta lớn, trưởng thành thì chúng ta có thể vượt qua được, và đi xa trên đường tu tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Ví thử cuộc đời bằng phẳng mãi, anh hùng hào kiệt có hơn ai.” Nếu cuộc đời mà không có chông gai, không đầy cam go, thì trượng phu hào kiệt đâu phải là người tài ba. Từ những khó khăn, lao đao chúng ta vươn mình lên được mới là kẻ kiêu hùng. Nếu chúng ta đi tu mà ở trong một tự viện của các bậc Thánh, cái gì cũng hay, cũng đẹp cả thì ta tu với ai. Năng lượng xấu, ác mà mình trực diện trong cuộc đời tu là những gai góc cho chúng ta cọ, chúng ta mài để trở thành tròn nhẵn, bóng mịn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Nhẫn với tự thân.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cơ thể vật lý nầy bình thường không có gì đáng gọi là nhẫn cả. Những lúc còn trẻ trung, khỏe mạnh, tươi vui, không bệnh tật chuyện tu rất là đơn giản. Nhưng khi thân nhuốm bệnh, mệt mỏi mới thấy sự khó khăn của việc tu tập như thế nào. Đây là điều chúng ta đáng lưu ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thân mà yếu thì tinh thần cũng suy sụp theo, và nhiều bất an cùng có mặt khi chúng ta bệnh. Khi cơ thể bị bệnh, mệt mỏi, chúng ta thấy rất buồn, lẻ loi vì không thể cùng chúng sinh hoạt. Trong khi cơn bệnh đang hoành hành, đang xé thịt da hình hài nầy ai biết cho. Đại chúng lại nhìn bằng đôi mắt ngờ vực, không thông cảm. Có lúc nếu không bị nhìn bằng ánh mắt khó chịu, thì ngay tự bản thân mình với tri giác rất sai lầm, mặc cảm, mình cũng cho rằng người ta nghĩ mình làm eo, giả bệnh. Cho nên khi thân bệnh, tâm thức suy yếu theo dễ sinh ra những suy nghĩ vơ vẩn, lệch lạc và khi có những suy nghĩ như thế, cuộc đời của chúng ta màu hồng không có ở trước mặt. Nhìn đâu chúng ta cũng chỉ thấy màu u ám của sự chán nản: chán đời, chán đạo, chán tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Năm đầu tiên tôi về với ông cụ Thanh Từ vào cuối năm bảy mươi ba, ông cụ chỉ nhận khoảng hai mươi thiền sinh. Khi bắt đầu vào khóa tu tôi thấy Tu viện Chân Không là nơi thật lý tưởng cho sự tu tập. Mọi điều kiện tốt lành, thuận lợi từ khí hậu, chương trình học, đến tình huynh đệ... nhưng điều trở ngại lớn là tôi trở bệnh. Mỗi sáng ai ai cũng đi chấp tác riêng mình tôi thì ngồi nhà, ăn không được, mặt mày nỗi từng mụn đen lớn thành quầng. Da vàng như nghệ vì bệnh gan tới hồi phát tác. Các thầy cho đến những vị cư sĩ tới thăm đều nghĩ rằng tôi sắp chết đến nơi. Ngày nào tôi cũng nằm trong mùng, từ những sinh hoạt với chúng cho đến làm những gì ngay cho bản thân cũng không được. Có vị cư sĩ còn nói sao đôi mắt tôi không có một chút gì của sự sống? Gặp trường hợp tàn tạ vì bệnh, cảm thấy mình bị bỏ rơi thì quí vị nghĩ sao? Riêng bản thân tôi nghĩ rằng mình đã lở leo lên núi, bỏ hết sự nghiệp học hành Phật pháp dưới phố, thân mạng nầy nếu mất cũng đành chứ không xuống núi. Thế nhưng ngày qua ngày tôi không hiểu phép lạ gì đã cứu mình, và phải mất hơn nửa năm tôi mới từ từ hồi phục lại. Tôi nghĩ, cuộc đời tu mà ta đi ra khỏi được sự phá rối của tự thân tật bệnh một cách nhẹ nhàng là có phước vô cùng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Những sự quấy rối thuận chiều của tự thân khỏa mạnh phát sinh cũng cản trở đủ điều trên con đường tu tập, nếu chúng ta không may mắn gặp được vị thầy giỏi hướng dẫn pháp môn để thực tập, để hành trì thì chúng ta khó chống chỏi lại những xu hướng bức bách của thân nầy. Nhất là với tuổi thanh niên, sức khỏe đang sung mãn, lại tiếp xúc với xã hội đầy những thông tin mời gọi lòng thèm khát ngũ dục bên ngoài, cọng với sự tác động của bạn xấu thì khả năng loại trừ những bức xúc trong thân đang lớn mạnh quả thật khó khăn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thế nên chúng ta may mắn có hoàn cảnh tốt lành, có tăng thân hỗ trợ, có pháp môn để thực tập, là chúng ta đã vượt qua những chặng đường khó khăn, vượt qua bao điều thử thách của tự thân.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có trường hợp tuy ham muốn tu, nhưng lao xao tu được ba, bốn năm tự nhiên chúng ta ngoặc vào con đường tẻ. Vì chúng ta không có pháp hành trì, không phòng hộ sáu căn để sáu căn bị lôi kéo, bị quyến rũ bởi ngũ dục, lục trần ở bên ngoài và tự tâm chất ham muốn thế dục còn dạt dào nên đẩy chúng ta đi về hướng làm tan tác đời tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tóm lại, tuổi trẻ hay tuổi già cũng đều có những khó khăn, quậy phá riêng của chính hình hài mình nên chúng ta phải nhẫn nhục với tự thân. Khi còn hình hài nầy là còn nhiều vấn đề thách thức chúng ta suốt cả chiều dài đời người. Tuổi trẻ có những khó khăn về tâm sinh lý, người già thì bị phiền nhiễu, đau đớn bởi bệnh tật. Hai điều nầy bủa vây chúng ta khó tránh khỏi. Ở độ tuổi trung niên năm mươi chúng ta thấy bình yên nhất, vì năng lượng dục của thân đã hơi dịu xuống và bệnh hoạn của tuổi già cũng chưa hiện rõ mặt. Nhưng bước vào tuổi năm mươi, sáu mươi là đã có dấu hiệu trục trặc, nhiều vấn đề nẩy sinh từ bên trong cho đến bảy mươi thì già, bệnh đến từng ngày một.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên vượt qua khó khăn không phải chỉ làm trong một ngày, một giai đoạn mà đó là vấn đề của một đời tu. Vượt qua được những khó khăn tự thân đòi hỏi chí nguyện tu phải vững và phước đức rất lớn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Nhẫn khi điều phục tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở bình diện điều phục tâm lại càng khó đề phòng hơn thân. Chúng ta khó tu an lành khi bị những quyến rũ, bị duyên bên ngoài mời gọi làm tâm ta thay đổi và với tâm thức “cỏ bên kia đồi xanh hơn cỏ dưới chân ta.”; vậy là chúng ta đơn thương, độc mã rời bỏ tăng đoàn, rời bỏ chúng lăng xăng chạy vạy thay đổi pháp hành. Thay đổi cách thực tập hoặc theo tiếng gọi của vài Phật tử, xé lẻ tăng đoàn ra lập chùa, lập tự viện.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta có dịp tiếp xúc với các tự viện của cộng đồng người Việt hiện tại nơi đây sẽ thấy đời sống quí Thầy, quí Cô trụ trì rất vất vả. Một mình phải giải quyết, đối phó với biết bao nhiêu là việc, còn thì giờ đâu để tu. Phật tử càng ngày càng ít vì những sinh hoạt của những chùa, tự viện của các vị ấy phần lớn không đáp ứng được nhu cầu tu tập của họ, hầu hết chỉ đáp ứng được đòi hỏi là cầu an và cầu siêu. Một ngày hai thời công phu tu rất là hiếm, chỉ chờ đến hai ngày thứ bảy, chủ nhật lao xao tụng kinh cho công việc đình đám, tuần thất, ma chay.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đời sống tâm linh của người Việt lớn tuổi đã không phát triển, thế hệ trẻ của người Việt sinh ra và lớn lên trên đất Mỹ cũng không tiếp xúc và gắn bó được với sinh hoạt tu học để nối tiếp dòng chảy văn hóa, đạo đức và tuệ giác của Phật giáo Việt Nam; trong khi tự viện càng ngày mọc càng nhiều nên nguồn tài chánh càng bị phân tán rất mỏng. Do vậy, giữ gìn được đồ tôn, đệ tử vây quanh, có nguồn tài chánh ổn định để trả chi phí hàng tháng không phải là chuyện đơn giản. Các Thầy, Cô cực nhọc vô vàn và sinh lực tu tập bị bào mòn rất tội.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta nhìn những điều này rồi quay lại mình, để thấy rằng chúng ta đang được sống trong một tăng đoàn, một tập thể lớn rất là nhẹ gánh tang bồng. Nếu chúng ta có làm việc cực nhọc, nhưng cũng chỉ làm mỗi một bổn phận mà thôi, đâu phải một mình lo lắng, giải quyết trăm công nghìn việc như các Thầy, Cô một mình trụ trì các Già lam, tự viện.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cố nhiên, vì đường tu quá dài, lại có nhiều khó khăn nên tâm thức rất dễ phát sinh bất cứ ý niệm nào để dẫn dắt chúng ta đi vào những ngõ tẻ. Đó là điều chúng ta cần có trí tuệ, từ bi và vận dụng đức nhẫn nhục để vượt qua.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]5. Phương pháp thực tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Để thực tập chúng ta hãy bắt đầu bằng những bước nhỏ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ như có hôm chúng ta phát tâm thực tập: muốn bước những bước lên trên năm mươi bảy bậc thang từ nhà ăn lên Tăng xá mà tâm luôn gắn chặt trong từng bước chân. Thế nhưng mới bước được nửa chừng, tâm mình bay bổng. Chúng ta bắt đầu làm lại, cố gắng để an trú trong chánh niệm từng bước chân lần nữa, nhưng càng cố thì tâm càng bay xa. Cũng như khi ta có ý ra lệnh là phải ngồi yên trong mười lăm phút tọa thiền nhưng chỉ mới mười phút đã bắt đầu thấy không yên, cơ thể thúc bách, đau ngứa... muốn cử động, rõ ràng ta không đủ kiên nhẫn với thân, và khi thân không đủ kiên nhẫn là tâm không đủ kiên nhẫn. Vì vậy, trước hết chúng ta nên thực tập những điều rất là nhỏ, những cái rất là gần của đời thường. Chúng ta chỉ có khả năng làm được điều lớn nếu chúng ta đã hoàn tất những việc rất nhỏ. Như có hôm ta quyết định mỗi chiều phải ăn ít lại, nhưng chiều đến thấy thức ăn ngon quá, ăn thêm một chút cũng chẳng sao tức là chúng ta đã không có đủ nhẫn lực. Chỉ cần một điều nhỏ như thế đã chứng minh sự thất bại của mình trong việc tu, chưa nói đến những thất bại của điều lớn hơn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, điều đầu tiên tôi muốn chia xẻ trong vấn đề thực tập là chúng ta chỉ cần làm những điều rất nhỏ để nuôi ý chí. Ở đời cần có ý chí thật vững mạnh con người mới có thể vượt ngàn vạn khó khăn. Những người tu lại cần ý chí bay lên đến trời cao, phải “xung thiên chí” như Thiền sư Quảng Nghiêm, Việt Nam thời Trần: “Nam nhi tự hữu xung thiên chí.” Làm trai có chí xông trời thẳm chứ không phải chí tầm thường, chí nguyện cao thì chúng ta là chim phượng hoàng. Nếu ý chí không được nuôi dưỡng, tôi luyện, chúng ta sẽ được ví như loài quạ, dù có bay cao cũng chỉ thấy dưới trần thế nầy những điều thấp kém, những cái phàm thường như xác chuột chết mà thôi. Ý chí của người tu là chí nguyện đại thừa, là phượng hoàng chỉ tìm đậu trên những cành ngô đồng. Thế nên, thực tập nuôi dưỡng nhẫn lực rất là quan trọng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Nếu trong đời sống tu, sống giữa lòng đại chúng, ta chỉ thắc mắc, dòm ngó nhau những chuyện lặt vặt, nhỏ mọn để làm thương tổn nhau, để làm buồn lòng nhau thì chúng ta cũng chỉ là những con quạ thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều quy kết cuối cùng là chúng ta phải lập chí rất cao, phải thực hành hạnh nhẫn nhục. Nuôi dưỡng và trải lòng từ bi lớn rộng để có thể nhìn được mọi người bằng cái nhìn thương yêu và kính trọng. Vẫn biết hằng ngày chúng ta phải đối diện với biết bao người, với biết bao điều khó chịu, đáng ghét nhưng họ hay ta cũng đang là chúng sanh tội nghiệp như nhau, cũng lao xao trên con đường tử sinh dài mịt mờ, rồi cũng ra đi không biết lúc nào. Nên điều quan trọng là chúng ta làm thế nào trong một đời tu sáng bừng con mắt đạo chấm dứt được dòng chảy của khổ tử sinh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và khi chúng ta nuôi lớn được tâm đại bi, tự thân thấy mình vô ngã thì chắc chắn với nhẫn lực rất lớn chúng ta có thể làm được nhiều điều, có thể thành đạt được đạo quả, thành đạt được an lạc và hạnh phúc tự thân. Nếu không thực tập được những việc nhỏ, tôi luyện nhẫn lực cho thân, không nuôi dưỡng ý chí, không phát triển tâm đại bi, không quán chiếu tự thân nầy vô ngã thì khó đi vào con đường tu tập hạnh nhẫn nhục.[/FONT]​
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG IX[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]BÁC HỌC ĐA VĂN[/FONT]</center><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_033%20BacHocDaVan.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]
[/SIZE]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đây là chương ngắn nhất trong Bốn Mươi Hai Chương Kinh. Trừ hai chữ Phật ngôn, chúng ta có hai câu Kinh chỉ mười sáu chữ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Bác văn ái Đạo, Đạo tất nan hội. Thủ chí phụng Đạo, kỳ Đạo thậm đại.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy:rộng học, nhiều nghe yêu mến Đạo, Đạo ắt khó thể nhập. Giữ chí và sống được với đạo thì mới có thể thành tựu được quả vị, thành tựu an lạc, thành tựu hạnh phúc và Niết Bàn.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đại ý của hai câu nầy là hãy sống với Đạo. Hai từ “bác văn” có nghĩa là bác học và đa văn tức học rộng nghe nhiều.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Học rộng nghe nhiều và thể hội đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong quá khứ chúng ta đã biết có một đệ tử của Phật rất giỏi là Ngài A Nan. Kinh văn đã mô tả Ngài là một người có năng lực kỳ vĩ, lời của Đức Phật nói ra bao nhiêu ông nhớ bấy nhiêu, như nước từ bình nầy rót qua bình kia không rơi rớt ra ngoài một giọt, và theo văn học Đại thừa thì Ngài chứng quả A La Hán rất muộn dù Ngài là người có những điều kiện tốt lành nhất so với những vị khác; cận kề bên Đức Thế Tôn nhiều hơn ai hết và lại là người cực kỳ thông minh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu đọc Đại Trí Độ luận chúng ta thấy sau khi Thế Tôn nhập Niết Bàn, Ngài Ca Diếp vân tập đại chúng để kiết tập kinh điển, người đầu tiên mà Ngài Ca Diếp chọn để trùng tuyên lại tam tạng Thánh điển của Phật không phải là Ngài A Nan mà là Tôn giả Kiều phạm Ba Đề.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vị A La Hán nầy không trụ ở nhân gian, ông đang thảnh thơi thiền hành trên thiên giới. Khi Ngài Ca Diếp sai một vị tỳ kheo có thần thông lên thỉnh ông trở về hang Tất Bát La để kiết tập Thánh điển của Đức Thế Tôn thì ông nói: “Sư huynh của ta, tướng quân chánh pháp là Ngài xá Lợi Phất đâu các ông không thỉnh?” Vị tỳ kheo trả lời: “Thưa Tôn giả, Ngài Xá Lợi Phất đã Niết Bàn trước Đức Thế Tôn.” Kiều phạm Ba Đề liền bảo: “Còn vị sư huynh đại thần thông của ta là Mục Kiền Liên Đâu?” Vị tăng thưa: “Ngài Mục Kiền Liên cũng đã nhập Niết Bàn trước Ngài Xá Lợi Phất.” “Ồ, vậy Thế Tôn đã nhập Niết Bàn, các vị Sư huynh của ta đã vào Niết Bàn thì ta cũng vào Niết Bàn. Thôi ông hãy về đi.” Thế là Tôn giả không còn thiết tha gì đến kiết tập kinh điển, bay lên hư không phóng hỏa quang tam muội tức phóng năng lực tam muội từ bên trong thân ra, tự thiêu cháy mình biến thành tro tung giữa hư không và vào Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cũng trong cuộc vân tập năm trăm Thánh tăng tại hang Tất Bát La, kiết tập Tam tạng lần đầu Ngài Ca Diếp đã không cho A Nan vào. Tuy chỉ có bốn trăn chín mươi chín người, còn thiếu một người nhưng Ngài Ca Diếp nói Thánh giáo của Đức Phật người muốn trùng tuyên tụng đọc phải là người dứt sạch lậu hoặc, không còn phiền não, không còn những hoặc nghiệp của tâm thức dù là những hoặc nghiệp vi tế. Thầy A Nan là người còn lậu hoặc, chưa chứng được quả A La Hán nên không được phép vào đây, ông phải ra ngoài.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sau khi ra ngoài, Ngài Ca Diếp nói: “Ông có bảy lỗi, ông có biết không? Thứ nhất, ông đã dặm lên y Tăng già lê của Đức Thế Tôn trong lần ông giặt và phơi y.” A Nan thưa: “Bạch sư huynh, lúc đó gió lớn quá không có ai giúp, chỉ một mình nên em xếp y không được, em lỡ dặm lên chứ nào có cố tình đâu.” Ca Diếp bảo: “Chư tăng trong tinh xá Kỳ Viên rất đông, tại sao ông không mời một vị. Ông đã vô lễ khi xếp Tăng già lê của Đức Thế Tôn. Cái áo của Đức Thế Tôn là hiện thân của Ngài, ông dặm lên chéo y là cũng đủ nói lên tội thất kính Đức Đạo sư rồi.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]“Thứ hai, trên con đường từ Vesali đến Ta La Song Thọ ở Câu Thi Lâm, khi Thế Tôn khát nước kêu ông đi lấy nước, ông nói với Đức Thế Tôn nước trên dòng sông bị đục vì năm trăm cỗ xe ngựa đi ngang qua, không uống được. Ông thỉnh Thế Tôn đi thêm một đoạn đường nữa, đến dòng lớn ông sẽ lấy nước. Rõ ràng ông đã bất hiếu với Đức Thế Tôn.” A Nan thưa: “Lúc đó đúng là xe ngựa đi ngang qua nước đục làm sao em lấy được.” Ca Diếp nói: “Thế Tôn là bậc tôn quí nhất trong ba cõi, sáu đường cho dù ông đưa chén nước đục thì với phước lành của Ngài khi cầm lên chén nước sẽ trở thành đề hồ, thành nước trong ngọt, cớ sao ông bất hiếu như vậy.” Và với bảy tội Ngài Ca Diếp lần lượt đem ra hạch hỏi, A Nan đành phải phủ phục lạy xuống sám hối.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Lúc bấy giờ bốn trăm chín mươi chín Thánh tăng tập trung trong hang Tất Bát La không có một vị nào thân cận bên Đức Phật lâu nhất và có trí nhớ tuyệt vời như Ngài A Nan để trùng tuyên Thánh điển nên các Ngài đành tọa thiền chờ thầy A Nan.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngài A Nan qua một đêm thiền quán những nỗi niềm bất an, phiền muộn, những lậu hoặc, ưu não trong kiếp hiện tại được dịp tuôn trào và Ngài tiếp tục tọa thiền cho đến gần sáng. Khi đã cực kỳ mỏi mệt, Ngài nghiêng nghiêng đầu định đặt lên gối thì ngộ đạo. Cho nên trong lịch sử chứng thánh quả A La Hán chỉ có một người đặt biệt thành đạo không phải nằm, ngồi, đứng hay đi là Ngài A Nan. Một con người đặc biệt duy nhất chứng được quả Thánh không ở trong trạng thái nào của bốn oai nghi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều đau đớn nhất cho A Nan lúc chưa chứng thánh quả A La hán là, mặc dù cực kỳ thông tuệ có trí nhớ tuyệt vời, những lời của Đức Thế Tôn nói ông ghi nhớ không thiếu một chữ vậy mà trong kỳ trùng tụng lời Phật dạy lại bị đuổi ra ngoài, cho nên bác học đa văn là điều kiện tốt nhưng chưa hẳn là tốt nhất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, đi sâu vào đoạn kinh ngắn nầy, có những từ mà chúng ta cần phải hiểu như “Nan hội, hội đạo, phụng đạo và thậm đại.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– “Nan hội” tức khó thể nhập. Chữ hội ở đây là thể nhập, không phải là khả năng hiểu đạo bằng suy tư, bằng khả năng của khái niệm mà mở bung cánh cửa đi vào, gặp mặt trực tiếp. Cũng có nghĩa là hiểu đạo không qua người khác kể lại, nói lại hoặc trên sách vở, nghiên cứu. Ta hãy hiểu từ “nan hội” với nội hàm “khó thể nhập” như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– “Hội đạo” chỉ cho trạng thái tâm thức quay trở lại, nhận diện được đạo nơi chính thân tâm nầy. Bên trong những suy nghĩ, nói lầm thầm nhận ra được tự thể Niết Bàn gọi là hội đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– “Phụng đạo” thông thường chúng ta hay hiểu lầm phụng sự cho đạo, tức là dâng hiến cuộc đời, làm hết sức mình cho việc bên ngoài như xây chùa, đúc tượng... nhưng ở đây hai chữ “phụng đạo” không có nghĩa hướng ra bên ngoài làm việc nầy, việc kia mà là quay trở lại. Sau khi nhận ra được đạo sống nhiệt tình, sống miên mật trong từng hơi thở, từng hơi thở ra, thở vào luôn sống với tự thể Niết Bàn của chính mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– “Thậm đại” khi chúng ta thủ chí, sống được liên tục với đạo, thành tựu được đạo quả cứu cánh gọi là “kỳ đạo thậm đại.” Thậm đại là rất lớn, là đạt đến sự viên mãn, cứu cánh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]2. Các tầng thể hội đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đạo còn có một hàm nghĩa là tôn giáo.Và nội dung của Đạo hay tôn giáo có những tầng nghĩa khác nhau. Thông thường gồm có ba tầng. Tầng thứ nhất là tôn giáo bản chất, tầng thứ hai là tôn giáo của niềm tin hay còn gọi là tôn giáo của hình thức, của nghi lễ và tầng cuối cùng là tôn giáo của tổ chức.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Tôn giáo bản chất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bản chất có nghĩa là Đạo. Những vị giáo chủ đầu tiên khai sáng những tôn giáo lớn trong cuộc đời, là những người đã đạt tới chiều sâu, tới ngọn nguồn của cuộc sống. Từ thành đạt bản chất Đạo nơi tự thân, nó tỏa hương và người ta sẽ đến với các ông một cách tự nhiên.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường tôn giáo bản chất là con đường vượt ra ngoài tôn giáo hình thức, nghi lễ và tổ chức. Dụng ý của những nhà lập giáo ban đầu là làm thế nào đưa chúng ta trở về nắm cho được dòng sinh mệnh của chính mình, tức là nắm cho được cái gì là không sinh, không diệt của tự thân, vượt ra ngoài nỗi khổ của thế nhân, nỗi khổ sống chết miên viễn trong cõi luân hồi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôn giáo bản chất ở giai đoạn đầu không hề xây dựng hình thái nghi lễ, tổ chức... họ loại trừ tất cả và điều nầy chúng ta bắt gặp được trong truyền thống nhà Thiền rất rõ ràng. Ví dụ như khi Ngài Mã Tổ mở đạo tràng độ sinh, có vị cư sĩ đến đảnh lễ và xin đi tu, ông nhìn và bảo người cư sĩ không hợp duyên với mình nên đến Thạch Đầu để tu chứ đạo tràng nầy không hợp với ông. Đó là loại tôn giáo bản chất, nghĩa là đối với các bậc thầy lớn điều đầu tiên họ muốn không phải những môn đồ, đệ tử đến với mình thật nhiều để có thế lực quần chúng, có tín đồ đông đảo, có chùa cao Phật lớn... mà điều các vị ấy muốn là làm thế nào giúp cho con người kia phát triển trọn vẹn tiềm năng Phật tự có bên trong của họ. Đó gọi là tôn giáo bản chất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đời sống của những bậc thiền nhân tự họ là một loài hoa tỏa hương, ta đến thì ta hưởng được hương an bình, hưởng được năng lượng tươi mát trong lành từ họ. Họ là những bậc thầy đặc biệt đều có chung một cách hành xử là nâng chúng ta lên, dựng chúng ta dậy và đẩy chúng ta ra. Không hề tạo cho chúng ta sự lười biếng, ỷ lại tựa nương vào ông thầy. Đối với những bậc thầy và những trường phái tôn giáo bản chất đúng nghĩa, họ loại trừ tính tổ chức và làm cho những con người đến với họ trưởng thành về đời sống tâm linh, đồng thời càng ngày càng bỏ bớt những vô ích của tri thức, kiến giải, khái niệm đặt ra.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều kỳ diệu nơi các bậc thầy của các tôn giáo lớn từ nguyên sơ là muốn giúp cho con người trở lại hoàn thiện bản chất của chính mình mà không bao giờ thao túng hay lợi dụng bất cứ một tín đồ nào, một con người nào đến với họ. Đó là loại tôn giáo cao nhất, bản chất nhất có từ trong trái tim của những vị giáo chủ và các bậc thầy lớn. Chúng ta cần phải vươn đến loại tôn giáo ở tầng thâm sâu, cao nhất nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Tôn giáo của hình thức nghi lễ, niềm tin.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tầng thứ hai là tôn giáo của nghi lễ, hình thức và niềm tin. Đây là hình thái tôn giáo phổ thông đang có mặt hầu hết trên hành tinh chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tâm lý chung của con người là thích ỷ lại, tựa nương. Nếu giao phó cuộc đời mình cho ai đó lo giúp, ta sẽ thấy rất dễ chịu, còn tự mình làm chủ, gánh vác cuộc đời mình, chịu trách nhiệm về chính cuộc đời mình thì cảm thấy rất là mệt. Cho nên có một tôn giáo nào tuyên bố chỉ cần bỏ năm đồng, mười đồng... cho chúng tôi, chúng tôi sẽ giúp cho các anh rửa sạch tội lỗi, giúp cho các anh lên Thiên Đường, Cực Lạc... Các anh chỉ cần có niềm tin, đóng góp tài sản vật chất cho chúng tôi, chúng tôi sẽ làm tất cả mọi việc cho các anh chúng ta sẽ rất thích.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cuộc đời của chúng ta khi còn đang trẻ, năng lực ý chí còn sung mãn, cảm thấy mình còn vươn lên được thì niềm tin tự thân còn vững, nhưng đến khi già yếu cái chết cận kề và nỗi sợ hãi bắt đầu có mặt thì chúng ta cũng có thể đi tìm những dạng tôn giáo như vậy để nương tựa. Và đây là loại hình tôn giáo của tình cảm, của niềm tin.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta đừng nghĩ rằng tình cảm, niềm tin nầy loại trừ những hạng người khoa bảng, trí thức có học hàm, học vị lớn trong cuộc đời. Có thể họ là những nhà khoa học, những nhà nghiên cứu tài ba, những học giả... nhưng tôn giáo là một loại tình cảm thiêng liêng gắn bó với con người từ khi còn rất bé, cho nên lúc trẻ tuy chối từ tôn giáo nhưng về già họ vẫn quay về hướng ngày xưa mà họ đã tiếp thu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tình cảm con người là một lập trình có sẵn trong tâm thức, từ lúc còn nhỏ đã được nhồi nhét, đã được gắn vào tâm thức nầy. Đến khi lớn lên phát giác được rằng tôn giáo mà chúng ta theo không phải là tôn giáo trao tặng cho ta tuệ giác, yêu thương, hạnh phúc, và cùng lúc cũng khám phá ra được tôn giáo nầy trong quá khứ đã từng gây biết bao nhiêu khổ đau cho nhân loại trên hành tinh nầy. Nhưng tình cảm chúng ta đã lỡ gắn bó vào tôn giáo đó, nên không cách gì quay lưng, loại trừ được những gì mà tôn giáo đã lập trình trong tâm thức ta. Cho nên ở mức độ trung bình, loại tôn giáo niềm tin là đại họa cho con người. Nó làm cho đầu óc, tâm thức của chúng ta bị hạn chế, co cứng không thể có nhận định sáng suốt để đi vào Đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Tôn giáo của tổ chức.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ hình thức nghi lễ của tôn giáo tình cảm và niềm tin nầy, những tu sĩ đẩy nó đi xa hơn và nguy hiểm hơn. Và khi năng lực, sức cuốn hút của nó đối với cộng đồng, quần chúng rất mạnh thì sẽ trở thành tôn giáo của tổ chức. Đến lúc nầy, hai dạng tôn giáo của hình thức nghi lễ và tổ chức phối hợp với nhau rất chặt chẽ. Nếu chúng ta không may mắn đi vào mạng lưới tổ chức của những loại tôn giáo nầy thì không có cách gì thoát ra được. Nó ràng buộc, khống chế con người. Từ mức độ tổ chức của một tôn giáo sẽ từ từ đi vào lãnh vực chính trị, xã hội rất nhẹ nhàng và biên giới giữa hai lãnh vực nầy dường như cũng không rõ ràng, chỉ là sự lợi dụng lẫn nhau của hai thế lực chính trị và tôn giáo. Đây là điều đã từng xảy ra trong quá khứ cũng như trong hiện tại, và có mặt hầu hết trong các tôn giáo lớn trên hành tinh chúng ta ngoại trừ Phật giáo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, trong ba tầng tôn giáo nầy Kinh Bốn Mươi Hai Chương muốn nói “ái đạo, thủ chí phụng đạo, hay hội đạo,” là nói đến năng lực tâm linh của chúng ta quay trở về đón nhận được, giải ngộ được tự thể không sinh, không diệt của mình để sống, gọi là người thâm nhập vào bản chất thực của tôn giáo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nếu chúng ta đến với đạo tu học, thực tập không lạc vào hai lãnh vực hình thức nghi lễ và hình thái tổ chức mà đi trực tiếp vào cội nguồn của tôn giáo, đó là điều cực kỳ may mắn của chúng ta.
[/FONT]
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[FONT=Arial,Helvetica](phần tiếp theo)[/FONT]


<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_034%20BacHocDaVan.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]3. Trở ngại của bác học đa văn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có thể, sự học rộng, nghe nhiều, thương đạo là trở ngại che lấp con đường thể hội đạo lý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở mặt tiêu cực, chúng ta dễ nhận lầm ngón tay là mặt trăng, đây là tình trạng có mặt trong truyền thống đạo Phật. Như khi chúng ta học Kinh Bốn Mươi Hai Chương thì kinh giải thích tầng thứ nhất bằng ngôn ngữ, chữ nghĩa. Chữ nghĩa ở đây được ví dụ như là ngón tay và thực ra chúng ta chỉ nên nương vào Kinh Bốn Mươi Hai Chương để nhận ra mặt trăng. Nguyên tắc của chúng ta học kinh tức là nương vào lời kinh để nhận ra cái gì của chính mình, nhận ra trong chiều sâu của thân tâm nầy cái gì là Phật của mình quay lại để tu. Nhưng thay vì nương vào diệu chỉ từ Kinh Bốn Mươi Hai để nhận ra mặt trăng lòng của chính mình thì chúng ta lại vụng về bằng vào Kinh để giải thích dông dài làm cho người học chạy ra ngoài. Hơn nữa, tự thân văn bản của Kinh Bốn Mươi Hai Chương chỉ là ngón tay mà chúng ta lại cứ nương vào ngón tay để giải thích thêm một tầng tức là chúng ta làm công việc dùng một ngón tay để chỉ một ngón tay. Nên thay vì nương ngón tay để thấy trăng, ta lại thấy ngón tay đang chỉ một ngón tay, và từ hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cứ như vậy một quyển kinh mỗi đời năm, bảy vị thầy giải thích, chú giải... qua nhiều tầng nghĩa khác nhau tùy theo tâm thức của những bậc thầy thiên tài chữ nghĩa ấy. Chúng ta cứ học và cuối cùng không hiểu ý nghĩa Kinh nằm ở đâu. Cho nên đi vào lãnh vực chữ nghĩa cho thật nhiều chỉ làm chúng ta lạc vào trong rừng mịt mù của ngón tay mà không thấy mặt trăng nên gọi “nhận lầm ngón tay làm mặt trăng.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thông thường con đường học của chúng ta càng nhiều, chúng ta càng đi lạc trong rừng chữ nghĩa, ngôn ngữ, khái niệm, tư duy. Đạo lý chân thật nhất là đạo lý đơn giản nhất. Những gì đi vào con đường khó hiểu, rườm rà, hoa hòe phần lớn chỉ là cách phô trương lòe mắt thiên hạ mà chơi. Đạo lý để chúng ta thể nhận hầu bước vào con đường tu chân thật rất là đơn giản, trực tiếp và dễ đón nhận nhất. Chúng ta đừng nghĩ học rộng nhiều nghe là tốt, đôi khi lại là điều trở ngại vô cùng, chính nó làm chúng ta lầm lẫn mục đích với phương tiện. Điều nầy quí vị có thể tư duy để hiểu thêm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Mục đích chính của tất cả sự thực tập là quay lại, đào sâu vùng đất tâm mình để nhận ra cái gì là tự thể Niết Bàn của chính mình, cái gì là không sinh, không diệt nơi thân tâm ngũ uẩn nầy; không phải học đạo lý để chạy ra ngoài. Nếu nắm được tiêu chí nầy, chúng ta có thể học ngàn kinh, vạn sách, học mọi chủ thuyết, học mọi ông thầy chúng ta cũng không thể lầm lẫn ngón tay là mặt trăng được. Ngón tay là ngón tay, mặt trăng là mặt trăng. Đó là tầng thứ nhất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tầng thứ hai trở ngại của bác học, đa văn là chồng thêm lớp mây mù bản ngã, che khuất tâm bản nhiên của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thông thường đời sống chúng ta rất nghèo bên trong, chưa bao giờ bao giờ bằng lòng với cuộc đời mình. Chúng ta nghĩ cần phải thủ đắc một cái gì để tâm thức có chuyện bận rộn, phải thủ đắc điều gì để có niềm vui. Và xao động bất an, chạy trốn chính mình, chạy trốn cô đơn để kiếm tìm hạnh phúc bên ngoài là những gì chúng ta đã từng làm trong quá khứ cũng như trong hiện tại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đến với sự tu học cũng thế; chúng ta nghĩ là phải thủ đắc cái gì, phải có kiến thức Phật học, phải thành công gì... nhưng tất cả những điều nầy chỉ bồi đắp, trang trí thêm cho lớp bản ngã. Trong khi điều chính yếu của sự tu tập là quay trở về tự thể vô ngã của chúng ta, chứ đâu phải bản ngã cần được tô bồi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tự bản chất chúng ta vốn vô ngã, tự thể tâm nầy vốn rỗng lặng, mênh mông và sáng ngời. Chỉ có năng lực “nhận biết” rỗng lặng mênh mông vô ngã nầy phản chiếu mọi hiện tượng trong đất trời, và sự sống của chúng ta vốn vô sinh bất diệt. Nếu cứ gắn cuộc đời mình vào bất cứ đối tượng, hình ảnh nào thì đều là loại sinh diệt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi đến với đạo thực thụ, đáng lẽ mỗi ngày mình phải gột sạch lớp mây mù của chấp ngã, nhưng ngược lại chúng ta lại chồng thêm lớp chấp ngã vào. Nếu chỉ là một người bình thường giản dị, không có danh vị gì trong cuộc sống, bản ngã hình như không có dịp biểu lộ, hoặc có khi chúng ta thấy mơ hồ tưởng như không có, nhưng khi đi tu lở làm vị Thượng tọa lớn thì bản ngã cũng lớn theo. Ai mà xúc phạm đến thì cảm thấy bị tổn thương nặng. Một thầy tu bình thường nếu bị xúc phạm sẽ ít bị tổn thương. Nhưng nếu tôi là Thượng Tọa có tài, có đức, là ông thầy lớn có danh được mọi người kính trọng, một hôm bỗng bị xúc phạm bằng những lời rất nặng thì tổn thương lớn vô cùng. Sự tổn thương của hình hài chỉ là nỗi đau khổ của thể xác, đi qua rất mau và rất nhẹ, nhưng tổn thương đến danh dự đôi khi nó làm cho con người ta có thể chết được. Và nếu là người có địa vị lớn trong đời thì sự tổn thương càng được chồng chất bởi quyền thế, danh phận, tiền bạc, tự hào, kiêu ngạo... do vậy nỗi đau lớn thêm lên và có thể họ không ngần ngại hủy diệt đối phương khi đụng chạm đến danh dự của họ. Nếu chúng ta nhận xét cho rõ thì những tầng mà mình tự hào, kiêu ngạo đây là những tầng rất giả có mặt do ảo tưởng chúng ta tạo ra.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có một mục sư lên bục giảng, do vì già nên trí nhớ không còn minh mẫn, ông lẩm cẩm nói là Chúa Ki Tô đã ban phép lành, Chúa có một ngàn ổ bánh mì ban cho một người vẫn còn dư lại một ổ trên tay. Đúng ra nguyên văn trong Thánh kinh nói Chúa chỉ cầm một ổ bánh mì trên tay mà đã chia cho một ngàn người ai cũng có, và trên tay Chúa vẫn còn một ổ. Phép lạ của Chúa rất là tuyệt vời. Nhưng vì già lẫn lộn nên vị mục sư đã nói sai. Thường thường ít ai để ý đến lời giảng, nhưng có một anh nông dân ngồi trong góc rất ngạc nhiên vì phép mầu gì kỳ cục vậy. Có một ngàn ổ bánh chia cho một người mà còn dư anh ta làm cũng được đâu phải cần đến Chúa có phép lạ. Thế là anh ta đứng lên cãi lại mục sư. Vị thầy giảng vì đãng trí nên không nhớ là mình đã nói như thế, ông ậm ừ cho qua và lòng rất căm giận vì gã nông dân kia dám báng bổ phép mầu của Chúa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngày mai ông vẫn giảng lại bài kinh cũ, và lần nầy vì đã có chủ định nên ông giảng đúng như trong Thánh kinh. Giảng xong vị mục sư nhướng mắt châm biếm hỏi người ngày hôm qua đã cãi ông: “Anh có làm được phép mầu nầy giống như Chúa đã làm không?” “Được chứ, tôi vẫn làm được.”, anh chàng nhà quê trả lời. “Tại sao, anh có phép mầu như Chúa à?” Mục sư già hỏi. Anh đáp: “Tại sao không? bánh mì hôm qua còn dư chín trăm chín mươi chín ổ, cọng với một ổ hôm nay tôi đem cho tiếp.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Câu chuyện vui cho chúng ta hiểu một điều, nếu như vị mục sư kia không có bản ngã, không sợ ai thì đâu cần có ý định ngày mai sẽ cho anh chàng nhà quê kia một bài học. Ông cũng không cần nhướng mắt tỏ ý đắc thắng và kiêu ngạo khi gân cổ thách thức cãi lại với người kia làm gì. Ngay lúc đó ông chỉ cần nhẹ nhàng xin lỗi vì sự lầm lẫn, vô ý của mình. Đâu có gì để giận dữ, bực tức.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên thưa đại chúng, lớp mây mù bản ngã có năng lực che mờ tâm thức ta và làm cho lòng ta bất an, sợ hãi. Nếu chúng ta lột được tất cả lớp tự hào về bản ngã, tức khắc mình là người sống rất khiêm tốn, dễ thương và cũng rất hiên ngang trong cuộc đời. Không kiêu ngạo, không mặc cảm và cũng không biết sợ ai. Tất cả những nỗi sợ phát sinh do vì chúng ta sợ không được người ta kính trọng, sợ không được người ta tâng bốc, đề cao, quí mến... và có ngàn lẻ một chuyện sợ phát sinh từ bản ngã.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ điều nầy quay lại sự học nhiều, hiểu nhiều, và sự yêu mến đạo sở dĩ ngăn ngại ta thể nhập đạo lý vì nó là một loại mây mù làm dày thêm niềm tự hào, kiêu ngạo, bản ngã của chính ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở đây chúng ta chưa nói đến người tu; đơn thuần những người trong giới Phật tử thôi, nếu họ học được ít nhiều đạo lý, thân cận được với những vị thầy lớn chúng ta thấy cách hành xử của họ khác, cách họ đi đứng cũng khác với những người mới đến chùa, mới tu học. Tất nhiên họ cũng có niềm tự hào về vị Đạo sư của họ. Trong xã hội những người mới thành công hoặc đang hãnh tiến trên con đường công danh họ cũng có cùng tâm thức như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chuyện kể có ông thợ may chuyên may áo quần cho các quan, ngày kia có vị quan cần may một bộ quan phục đến ông. Người thợ may hỏi ông làm quan được bao lâu. Ông quan cho biết chỉ vừa mới nhậm chức. Bác thợ may trả lời sẽ may cho ông áo kiểu khác. Ông quan ngạc nhiên không hiểu cớ gì mà tên may áo hỏi đến chuyện ông nhậm chức hồi nào, liền hỏi và được thưa rằng: “Vì Ngài là quan mới nhậm chức, tôi phải may cái áo vạt trước dài, vạt sau ngắn. Nếu làm quan ít lâu tôi sẽ may vạt trước vạt sau bằng nhau. Và Ngài đã làm quan từ rất lâu, tôi sẽ may vạt trước ngắn, vạt sau dài.” “Vì sao?”Quan hỏi. Anh thợ may đáp: “Vì khi mới làm quan, lúc nào đi Ngài cũng ưỡn ngực, mặt luôn ngó lên nên phải may vạt trước dài. Làm quan lâu đã thấm mùi khó khăn, đọa đày trong chốn quan trường, sự kiêu ngạo, hống hách vơi bớt nên vạt trước và sau bằng nhau. Còn nếu Ngài ở chốn quan trường đã lâu, đã mỏi mệt vì khúm núm, luồn cúi, sợ sệt thiên hạ nên tôi phải may vạt trước ngắn vì lúc bấy giờ lưng Ngài khòm quá rồi.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, tất cả những điều nầy đủ dẫn chứng lớp mây mù bản ngã rất khó gột tẩy, và không có bản ngã nào vi tế khó loại trừ bằng tri thức, kiến giải của chúng ta. Đây là những niềm tự hào vô hình, và tinh vi vô cùng. Nó bám cứng, gắn chặt vào cuộc đời chúng ta khó tháo bỏ. Sự kiêu ngạo thầm lặng của những người trí thức, đa văn, học thuật là những gì đã trở thành bản chất, trở thành tính cách của họ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trở ngại của bác học, đa văn, ái đạo đối với sự thể hội đạo lý là nếu chúng ta càng phát triển tính chất học rộng, nghe nhiều, yêu mến đạo lớn bao nhiêu sẽ sinh trưởng thêm những kiêu ngạo điên cuồng, tức cuồng tín lớn bấy nhiêu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở trong cuộc sống đời thường chúng ta gặp rất nhiều trường hợp nầy. Có những vị Phật tử có cơ hội học Phật rất sớm, họ may mắn được thọ giáo với những vị thầy giỏi, những vị pháp sư lớn. Họ có điều kiện được học tập liên tục và nhất là các bậc thầy của họ là những vị nổi danh hiện tại. Nếu có Phật tử nào vì tình pháp lữ đến tặng cho họ một ít CD pháp thoại rất hay của các vị thầy trẻ thì được họ cười nói: “Tôi nghĩ là không có ai hay bằng thầy của tôi cả, Hòa Thượng thầy tôi là Đại pháp sư, là vị tôn túc lớn nhất ở Việt Nam bây giờ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta mang tâm thức kiêu ngạo tự thân đã là một trở ngại để đến với đạo, và trở ngại nầy có thể tha thứ được nếu chúng ta nghĩ rằng mình là người giỏi; nhưng ở đây không phải tự hào về chính bản thân mình mà lại tự hào về vị thầy mình đứng núp bóng, về cái tàng cây mà mình đang đứng ở dưới che nắng, che mưa rồi nghĩ hào quang của thầy mình là mình. Đó là những tự hào vụng về rất tội nghiệp thường có nơi Phật tử chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhiều lúc chỉ là những Phật tử thường thôi chưa phải là người tu, mới học lõm bõm vài ba câu đạo lý, đọc được vài trang kinh, nghe năm ba bài pháp chưa có công phu thực tập gì cả, họ đã loại trừ tất cả kho tàng quí báu, trí tuệ của những bậc thầy lớn trong cuộc đời. Đó là tự mình bịt mắt mình lại. Thế nên ở tầng nghĩa cạn bác học đa văn, thương mến đạo nhưng hãy cẩn trọng, không gắn chặt cuộc đời của mình với một ông thầy, một mái chùa, một trường phái, một học thuyết nào. Vì đó là một lầm lẫn rất tai hại cho sự phát triển đời sống tâm linh của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]4. Sự đóng góp của Bác học, đa văn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tuy nhiên, ngoài những đặc tính trở ngại của bác học, đa văn, thương đạo vẫn còn có những điều rất tích cực. Chúng ta đừng xem thường chuyện học rộng nghe nhiều, bởi vì tất cả những gì trên đời nầy đều có hai mặt của nó, có tiêu cực thì phải có tích cực.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Ở mặt tích cực, học rộng nghe nhiều, yêu mến đạo trao cho chúng ta một định hướng sống và thành đạt. Chúng ta đến với đạo, nương vào một tổ chức, một trung tâm tu học nếu không thủy chung với trường phái đó thì chắc chắn cuộc đời chúng ta nay đây, mai đó lang thang không định hướng. Và niềm tin không vững với bất cứ điều gì, sẽ làm năng lực học tập, tiếp thu của mình không thể phát triển, đi sâu được. Khi đi vào một pháp môn học tập, chúng ta hãy hứa với lòng mình đi đến kỳ cùng, phải làm tới tột đáy. Yếu tố tích cực nầy trao cho ta hướng đầu tiên vào đạo để học hỏi, phát triển tư duy. Đó là định hướng cho chúng ta lái cuộc đời đi thẳng đến, cho nên ở mặt nầy hướng tích cực của sự học tập phát triển trí tuệ khá lớn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Quí vị xuất gia đến trung tâm nầy tu học, nếu quí vị không gắn bó với tăng thân, không liệng mình vào trong nồi tăng thân để được nấu cho chín; các vị ngồi đây mà hướng tâm mình đến nơi khác, nghĩ rằng nghe pháp môn nầy cảm thấy chưa đủ, và không đặt trọn niềm tin vào sự yêu mến đạo thì trong cuộc sống mình đang có mặt, mình không thể tồn tại, chắc chắn mình sẽ bị loại trừ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con người vốn là một sinh vật sống trong tập thể chứ không phải là một sinh vật đơn lẻ, khi chưa đủ vững vàng để sống trong phong ba, bão tố mà tự một mình muốn thử vươn lên bay đến tận trời xanh, muốn khác người thì chúng ta sẽ tự chuốc sự ganh ghét, kỳ thị, không thể tồn tại được trong tổ chức, trong cộng đồng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Nếu trên con đường tu chúng ta không trở thành một người học rộng, nghe nhiều, không yêu mến truyền thống tu của mình, chúng ta sẽ thất bại. Và trong tương lai khi quí vị trưởng thành, làm một vị thầy không có được phương tiện để độ sinh, để truyền đạt. Và nếu khả năng ngôn ngữ của mình hạn chế thì không thể trình bày vấn đề tu hành của mình cho người khác cảm thông, không thể thiết lập được nhịp cầu từ trái tim mình đến trái tim người nghe. Đó là sự thất bại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngôn ngữ là phương tiện ngàn đời trên mặt hành tinh nầy để cho chúng ta truyền đạt. “Thử phương chân giáo thể, thanh tịnh tại âm văn.” Đây là câu nói của Ngài Quán Thế Âm dạy cho ta “Giáo lý mầu nhiệm tuyệt vời chân thật nhất ở hành tinh nầy chúng ta có thể dùng để tịnh hóa tâm là khả năng của âm thanh truyền đạt.” Giáo pháp của Đức Phật được làm bằng ngôn ngữ, các bậc thầy dạy đạo cũng dạy bằng ngôn ngữ, ta truyền đạt tri thức của mình cũng bằng ngôn ngữ, và chuyển hóa tâm thức giúp người tu tập cũng bằng ngôn ngữ. Nếu năng lực học tập hiểu biết của chúng ta không đủ, phương tiện ngôn ngữ hạn chế thì chúng ta không có khả năng diễn đạt những điều mình hiểu đến người khác. Học rộng nghe nhiều, yêu mến đạo và nhiệt tình thực tập trao cho chúng ta phương tiện truyền đạt để đạo Phật tồn tại và để giúp người, làm cho người hạnh phúc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta biết tâm thức như một dòng chảy, trong duy thức học gọi là “hằng chuyển như bộc lưu”, tức là chảy liên tục không dứt và mạnh như nước dốc. Ý thức chúng ta như là thác nước đang đổ. Thác nầy không phải bằng nước mà được làm bằng ý tưởng và ngôn ngữ. Chúng ta có thể gieo hạt giống làm cho dòng suối ý thức nầy thành một dòng nước trong ngọt có hương thơm, hay thành một dòng nước đục ngầu ô nhiễm tùy cách thế chúng ta huân tập từng ngày bằng cái thấy, cái nghe, cái nhìn, cái biết, cái hiểu của mình. Và như vậy hướng tích cực của sự học hỏi Phật pháp có năng lực gieo vào tâm thức ta mỗi ngày những hạt giống hiền thiện tạo thành dòng nước mát ngọt. Bản chất của dòng nước nầy nuôi dưỡng chúng ta từ đời nầy qua đời khác; nhiều đời đi ngang qua để có thể phát triển được tiềm năng thành Phật nơi chính tự thân tâm nầy. Cho nên ba yếu tố học rộng nghe nhiều, yêu mến Đạo và nhiệt tình thực tập là chiều hướng tích cực về mặt học tập Phật pháp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, có những sự học hỏi nuôi lớn bản ngã chúng ta, làm cho chúng ta mờ tối, làm khoảng cách chúng ta đến với đạo càng ngày càng xa, đó là loại học tiêu cực. Có những sự học cho chúng ta định hướng được cuộc đời, thành đạt được những bước cạn trong cuộc sống tu tập, và rồi đi xa hơn trong sự thành đạt của đời người tu về lâu về dài. Chiều hướng tích cực nầy làm được một điều rất tuyệt vời là cho ta phương tiện tối ưu để sau nầy chúng ta có thể giúp người và độ đời. Và khả năng tích cực cuối cùng là nuôi dưỡng tiềm năng thành Phật tự trong thân tâm chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin nhắc quí vị một điều là khả năng tu học của chúng ta không phải trong tích tắc tự nhiên mà thành công, mà là quá trình rất dài như những giọt nước chảy vào từng ngày, từng ngày một đọng lại thành hồ. Hồ tâm của chúng ta. Vì vậy điều cực kỳ quan trọng của sự học nầy, nếu chúng ta nhận biết được đặc tính tiêu cực của nó, thì chắc chắn chúng ta sẽ phát triển được mặt tích cực.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin đọc lên đây để đại chúng cùng nghe câu nói rất hay của Ngài Phù Dung:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhật nguyệt dị mại,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhược phất vân lai,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sanh giả bất tu,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tử tương hề cụ.[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Nghĩa là: Ngày tháng qua rất là nhanh, đi qua rồi không trở lại. Đang sống đây, đang hít thở đây, hình hài nầy đang tồn tại đây mà ta không tu, không học, không có những tư lương bỏ vào hàng ngày thì ta sẽ đem gì qua cuộc sống bên kia.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên trong cuộc sống ngắn năm mươi, bảy mươi năm, mỗi một ngày chúng ta phải làm cho tuệ giác mình ngày càng phát triển, tâm yêu thương càng ngày càng rộng, làm cho vốn liếng trong đời nầy giàu có, phong phú như loài cây qua chu kỳ Xuân, Hạ, Thu, Đông. Nó làm mọi cách cho rể vươn ra lấy thức ăn, nuôi dưỡng cho thân khỏa mạnh, để có thể trở mình thức giấc vào mùa Xuân năm sau vươn lên với tàng lá xanh hơn, hoa trái tươi đẹp hơn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cũng như thế, chúng ta làm thế nào để sự tu học nuôi dưỡng chúng ta từng ngày, đến khi hình hài thọ mạng chấm dứt lần sau biểu hiện lại tốt đẹp hơn, hùng tráng hơn.[/FONT][FONT=Arial,Helvetica][/FONT]
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113

[FONT=Arial,Helvetica]TÙY HỶ VÀ CÚNG DƯỜNG[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hôm nay chúng ta sẽ đi vào hai chương mười và mười một. Tùy Hỷ Cúng Dường và Bố Thí sẽ là tên chung cho hai chương kinh nầy:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]CHƯƠNG X.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Đỗ nhân thi đạo, trợ chi hoan hỷ, đắc phước thậm đại. Sa Môn vấn viết: Thử phước tận hồ? Phật ngôn: Thí như nhất cự chi hỏa, sổ thiên bách nhân các dĩ cự lai phân thủ, thục thực trừ minh. Thử cự như cố. Phước diệc như chi.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Đức Phật dạy: “Thấy người thực hành bố thí, hoan hỷ giúp đỡ thì được phước rất lớn.” Có vị Sa môn hỏi Phật: “Phước nầy có hết không?” Phật đáp: “Ví như lửa của ngọn đuốc vài trăm nghìn người đem đuốc đến mồi lửa về để nấu ăn hay để thắp sáng, lửa ngọn đuốc nầy vẫn như cũ. Phước của người hoan hỷ hỗ trợ cho người thực hành bố thí cũng vậy.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]CHƯƠNG XI.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Phạn ác nhân bách, bất như phạn nhất thiện nhân. Phạn thiện nhân thiên, bất như phạn nhất trì ngũ giới giả. Phạn trì ngũ giới giả vạn, bất như phạn nhất Tu Đà Hoàn. Phạn bách vạn Tu Đà Hoàn, bất như phạn nhất Tư Đà Hàm. Phạn thiên vạn Tư Đà Hàm, bất như phạn nhất A Na Hàm. Phạn nhất ức A Na Hàm, bất như phạn nhất A La Hán. Phạn thập ức A La Hán, bất như phạn nhất Bích Chi Phật. Phạn bách ức Bích Chi Phật, bất như phạn nhất tam thế chư Phật. Phạn thiên ức tam thế chư Phật, bất như phạn nhất vô niệm vô trụ vô tu vô chứng chi giả.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Cho một trăm người ác ăn không bằng cho một người thiện ăn. Cho một nghìn người thiện ăn không bằng cho một người thọ ngũ giới ăn. Cho một vạn người thọ ngũ giới ăn, không bằng cho một vị Tu Đà Hoàn ăn. Cho mười vạn vị Tu Đà Hoàn ăn, không bằng cho một vị Tư Đà Hàm ăn. Cho một nghìn vị Tư Đà Hàm ăn, không bằng cho một vị A Na Hàm ăn. Cho một ức vị A Na Hàm ăn, không bằng cho một vị A La Hán ăn. Cho mười ức vị A La Hán ăn, không bằng cho một vị Bích Chi Phật ăn. Cho một trăm ức vị Bích Chi Phật ăn, không bằng cho một vị Phật ăn. Và cho một nghìn ức vị Phật ba đời ăn, không bằng cho một vị vô niệm, vô trụ, vô tu vô chứng ăn.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đại ý của hai chương kinh nầy Phật dạy: Phước của sự tùy hỷ, cúng dường vô lượng và phước của công đức hữu lậu tuy lớn nhưng thành tựu giải thoát mới tột cùng siêu việt hơn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hai bài kinh nầy đều có những từ của bốn quả Thanh văn: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]1. Bốn quả thánh và con đường thiền.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngày xưa trong Phật giáo nguyên thủy chưa hề có danh từ Bồ Tát, và những đệ tử của Đức Thế Tôn chứng quả cao nhất là quả A La Hán; đôi khi người ta cũng gọi Đức Thế Tôn là bậc Đại A La Hán. Cho đến khi Phật giáo phát triển khoảng năm, bảy trăm năm về sau, thời Ngài Long Thọ danh từ Bồ Tát mới mang được nội hàm như hiện tại. Tất nhiên sau thời kỳ Phật giáo phân ra thành nhiều bộ phái người ta mới triển khai và suy tôn danh từ Bồ Tát. Những người tu lúc bấy giờ nâng danh từ Bồ Tát lên xem như địa vị, phẩm chất chứng đắc của vị Bồ Tát cao hơn, rộng hơn và tâm lượng mênh mông hơn quả vị A La Hán. Do vậy, chúng ta nên lưu ý, đừng để bị kinh văn Hán tạng lừa bịp rồi xem thường quả A La Hán là Tiểu Thừa, trong khi ngày xưa Đức Thế Tôn cũng được gọi là Đại A La Hán mà thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Tu Đà Hoàn là nhập lưu, là vào dòng chảy, cũng còn gọi là đắc được Pháp nhãn tịnh tức là đang trên con đường bước vào dòng Thánh. Pháp nhãn tịnh đại biểu cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chứ không phải chỉ cho con mắt thôi. Người đắc pháp nhãn tịnh là người không còn chạy ra ngoài nữa, mà quay trở lại nhận được ngay nơi mình bản thể không sinh không diệt. Ngôn ngữ nhà Thiền gọi là những con người thấy được Tánh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta nhìn qua lăng kính nhà Thiền thì kiến tánh ngộ đạo, kiến tánh khởi tu, hay kiến tánh thành Phật rất gần nhau. Kiến tánh khởi tu là nói đến những vị Tu Đà Hoàn nầy. Chúng ta có thói quen hay nghĩ khi tu là phải đi vào những tự viện, khoác pháp phục mang hình thức tu sĩ mới thực tập được những pháp môn của Phật dạy. Nếu ta quan niệm chuyện tu chỉ dành cho người xuất gia thôi người tại gia không có phần, điều nầy không đúng. Ngày xưa, chỉ trong một thời pháp của Đức Thế Tôn những người cư sĩ nghe pháp có khi trong một thời họ liền đắc được Pháp nhãn tịnh. Tức là nghe Đức Thế Tôn dạy ngũ uẩn vốn vô thường, vô ngã quay lại nhìn được cái không sinh không diệt nơi tự thân, họ mở được con mắt pháp, bắt đầu từ đó trôi vào dòng Thánh. Cho nên cư gia Phật tử cũng như tu sĩ đều có phần.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều quan trọng là chúng ta làm thế nào để quay về, nhận được mà thôi. Khi đã mở được cánh cửa đi vào quả vị đầu tiên Tu Đà Hoàn thì ba nấc thang kế tiếp không còn gì khó khăn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Tư Đà Hàm là Nhất lai, hàm nghĩa ra khỏi nơi nầy đến một nơi khác. Ví như rời nhân gian sinh vào Thiên giới, và từ Thiên giới sinh lại nhân gian. Do vì năng lực đoạn trừ các tầng hoặc nghiệp sâu cạn và mau chậm khác nhau nên còn bảy lần sinh tử đến đi trong cõi dục.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– A Na Hàm còn gọi là Bất lai. Đây là quả vị thứ ba của Tứ Thánh quả. Do vì đã dứt sạch tu hoặc, tuy kiến hoặc vẫn còn nhưng không sinh lại cõi dục nên gọi bất lai hay “bất hoàn quả.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– A La Hán hàm nghĩa là: Ứng cúng, Ứng chân. Sát tặc, Bất sanh, Vô sanh. Vô học. Chân nhân. Đây là Thánh quả cao tột của người tu cộng thông của hai truyền thống Nguyên thỉ và Phát triển. Dĩ nhiên các nhà Phật học giải thích khá nhiêu khê, chúng ta chưa cần đi vào tầng chữ nghĩa. Hãy biết một điều A La Hán là người chứng nghiệm quả vô sinh, không còn sinh trở lại nữa. Ngay thân sinh tử đời nầy ta sống miên mật và liên tục với cái thể không sinh không diệt, tức luôn sống với khả năng nhận biết mà không đánh mất hoặc đồng hóa mình vào cái bị biết tức có khả năng chấm dứt phiền não, lậu hoặc, tử sinh ba cõi và ngay nơi hình hài ngũ uẩn nầy chứng quả vô sinh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hai chữ vô sinh nầy bao gồm hai nghĩa:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Ngay trong một đời chấm dứt thân sinh tử, không còn tái sinh lại. Chứng nhập được Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Ngay trong sát na hiện tiền lúc nào tâm cũng an trú trong trạng thái vô niệm, bất động chứ không phải là tâm lúc nào cũng lao xao sinh diệt, đến đi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên nếu thành đạt được con đường nầy thì thất lai, nhất lai chỉ là những chặng đường tiến khác nhau của tâm thức để đạt mức cuối cùng A La Hán.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Các vị đệ tử ngày xưa của Đức Phật có vị tuy còn rất trẻ vẫn thành đạt quả A La Hán như Ngài La Hầu La hay Sa di Hiền Trí chỉ có bảy tuổi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tuy phân ra bốn chặng đường tiến của quả tu nhưng thực tế chỉ cần bước vào quả Dự Lưu tức mở được con mắt pháp đi vào dòng chảy Thánh thì con đường tu mở ra mênh mông, chúng ta hẳn sẽ trôi dần vào biển pháp tánh.[/FONT]




<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_035%20TuyHyVaCungDuong.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
(tiếp theo)
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif][if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif][if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_036%20TuyHyVaCungDuong.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="1" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>


[FONT=Arial,Helvetica]2.Tâm hành ganh tị.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, câu Kinh chương mười Đức Phật dạy: “Thấy người thực hành bố thí, hoan hỷ giúp đỡ thì được phước rất lớn.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tâm lý con người dễ khởi ganh tị khi thấy có người nào hơn mình, dù điều nổi bật, dù điều hơn đó đương nhiên có sẵn nơi người kia như dễ thương hơn, dịu dàng hơn, và thành công hơn. Tại sao? Bởi vì ta được nuôi lớn lên, được dạy dỗ, được trưởng thành từ cái chất của sự ganh tị nầy. Ngay từ bé ta đã được tập tành nuôi dưỡng, được bố mẹ và môi trường xã hội dạy cho điều nầy nên nó đã trở thành tính cách bẩm sinh của mình, và cứ nhiều đời như vậy đặc tính nầy ngày càng dày lên trong tâm thức chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Mình có thể phát khởi lòng trắc ẩn khi thấy ai ốm đau, bất hạnh nhưng thấy ai mà dễ thương, tài giỏi, thành công tuy bên ngoài ta tỏ vẻ nể phục nhưng trong lòng rất khó chịu và sinh tâm ganh tị. Điều nầy được biểu hiện ra rất nhiều mặt từ suy nghĩ, lời nói, việc làm. Chỉ nghe người nói một câu, chỉ thoáng nhìn bằng ánh mắt là có thể nhận biết tâm ganh tị đang có mặt trong ta, trong người. Cho nên Phật dạy phước của người tùy hỷ lớn bằng phước của người cúng dường.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người bố thí cúng dường bằng đồng tiền kiếm được do mồ hôi nước mắt, do công khó đem ra cúng dường nên được phước. Nhưng chúng ta không cúng dường đồng nào, không tốn giọt mồ hôi nào cả mà chỉ khởi tâm vui theo, hoan hỷ theo người làm việc thiện là đã được phước bằng người ta rồi. Có vô lý không? Vậy tại sao chúng ta không thể phát tâm vui, phát tâm lành ủng hộ những người làm phước thiện?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví như trong chúng có một em nào hết lòng ham tu lẽ ra thì chúng ta phải thương quí, yểm trợ nhưng đôi khi chúng ta khó chịu. Nó cũng làm cực nhọc như mình, nó cũng theo chúng sinh hoạt những thời khóa đầy đủ nhưng nếu thấy nó lén đến góc nào đó đọc học, tọa thiền thêm nữa coi chừng bị những sư chị, sư anh la rầy chứ không phải được thương.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta đã từng muốn dìm những người em của mình khi cảm thấy sự dễ thương, thông minh, học hành cần mẫn, tài năng của các em và những ưu điểm kia sẽ lấy hết đi tình thương của Thầy từ lâu nay đã dành cho ta; rồi ta làm đủ cách để các em không thể vươn lên được. Chắc hẳn trong tương lai, khi làm thầy lớn, làm Hóa chủ một phương, ta không ngần ngại gì loại trừ những bằng hữu, nhận chìm những tài năng trẻ đang lên. Trong khi tài năng và trí tuệ của người trẻ là nguồn tài nguyên vô cùng cần thiết cho bất cứ mọi lãnh vực dù Đạo hay đời. Ấy vậy mà đối với người tu chúng ta, chúng ta không biết trân quí.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sự ganh tị là những thói thường phát sinh trong mọi sinh hoạt từ tổ chức đến cá nhân của con người trong xã hội. Từ phạm vi nhỏ của một dòng tu, một tự viện cho đến phạm vi lớn hơn như của giáo hội. Đây là một hiện thực có mặt trong tự viện Đạo Phật và cũng đang có mặt trong tổ chức Phật Giáo chúng ta. Dĩ nhiên trường giang có mặt từ nguồn nước nhỏ. Sự ganh tị có mặt trong từng trái tim cá nhân người tu làm nên tình trạng hiện tại, và nguồn nhân quả nầy sẽ chảy bất tận đến tương lai.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thế nên chưa làm được điều luôn phát tâm tùy hỷ với mọi thiện hạnh, mọi sự thành công của bao người; tối thiểu khi có những ý niệm phê bình, chê trách buộc tội hay lên án người sinh khởi trong ta, ta hãy nhìn lại điều nầy có mặt từ tâm ganh tị của mình hay từ vấn đề gì phát sinh đây.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta đều biết ganh tị là một thói rất xấu nhưng không phải dễ loại trừ vì điều nầy đã được thấm đẫm, nuôi dưỡng từ hồi còn nhỏ. Xã hội, gia đình, nhà trường đã dạy cho ta tính chất ganh tị nầy và người ta tính trung bình những gì con người đã học trong thời gian từ một đến bảy tuổi là năm mươi phần trăm vốn liếng cho cuộc sống đời người. Từ bảy tuổi cho đến lớn chúng ta tiếp thu năm mươi phần trăm còn lại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Những gì hấp thụ được từ bé khoảng năm mươi phần trăm, đó là vốn liếng chúng ta cưu mang suốt đời khó gột rửa vô cùng. Tính chất ganh tị nầy có mặt trong ta thường trực từ lúc bé thơ cho nên tuy sống trong đạo tu tập biết tâm ganh tị nhỏ hẹp, thắt chặt lòng mình nhưng chúng ta vẫn giữ khó rời bỏ là như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu không cẩn trọng, không nhìn lại mình khi nó phát khởi đôi lúc không nhận diện được nó là tâm ganh tị, và đem những mỹ từ để che chắn cho tâm ganh tị nầy. Ý thức của ta có ngàn vạn sự khôn ngoan, xảo trá tinh tế để che lấp thói ganh tị trong tâm của chúng ta. Khi tu tập hãy thông minh khéo quay nhìn lại mình, nếu có một chút đắng cay trong tâm thức hãy nhìn rõ điều nầy được sinh khởi từ đâu. Nó thể hiện và hình thành tâm ganh tị, thành sầu thương, thành tủi hờn... và đôi khi mặc cảm nữa. Đó chỉ là một mặt rất nhỏ trong ngàn vạn mặt tiêu cực của lòng chúng ta đã được hóa trang, và đó cũng là loại hiện khởi của tâm ganh tị.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta thấy ai bằng thì cố gắng cho hơn, khi đã được hơn thì sinh tâm kiêu ngạo, thấy mình thua thì mặc cảm, ganh ghét. Mặc cảm phát sinh do đã vận dụng ý thức từ quá khứ để đối chiếu với lời nói, việc làm, cách hành xử của những người chung quanh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu không cần so sánh chúng ta với một ai, mà ta là ta tức khắc chúng ta loại trừ một lần sạch nhẵn tâm thức mặc cảm, thua kém hay tự tôn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hãy nhìn thiên nhiên đất trời, cây cỏ hạnh phúc hơn con người chúng ta nhiều. Loài cây lớn đứng kiêu hùng vươn cành, vươn lá, ra hoa. Những loài cây hoang nhỏ tí mọc lẫn trong cỏ cũng trổ hoa tươi cười trong nắng trong gió và vẫn an nhiên đứng hạnh phúc dưới thấp. Nếu có ai hỏi nó, sao mi bé quá mà mi cũng ra hoa làm gì? Hoa sẽ mỉm cười đáp, ta ra hoa là ra hoa vậy thôi, không để làm gì cả, không để phô trương, không để kiêu ngạo, không để tự ái, không để mặc cảm, buồn tủi gì về thân phận bé nhỏ nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều không may mắn là đời sống của chúng ta được đặt vào trong xã hội nầy, luôn sống trong tình huống phải phấn đấu với người để nuôi dưỡng bản ngã.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong học đường thì phải so sánh với bằng hữu để xem mức độ tiến của chúng ta, trong gia cũng phải đối chiếu với các anh chị em để biết giữa mình và anh chị em mình được thương yêu, đối xử như thế nào. Rồi vào đạo tu học, chúng ta cũng đối chiếu, so sánh với tăng thân, sư anh, sư chị mức độ thành đạt của ta, mức độ ta được thầy thương yêu ra sao, nhiều ít...[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong cuộc sống tu tập nếu không khéo, chúng ta sẽ bị vùi dập trong tâm thức so sánh ganh tị, kiêu ngạo, mặc cảm không thể trưởng thành tâm linh được. Trưởng thành trong đời sống tâm linh là chúng ta tự vươn vai đứng lên bằng đôi chân, trên hai chân mình. Không cần nhìn quanh để đối chiếu, không cần cầu cạnh, không cần được lòng ai. Ta là ta thế thôi, và an nhiên tĩnh tại trong cuộc đời, an nhiên tĩnh tại trong cuộc sống tu học.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con người ta đôi khi khổ sở không vì nghèo, mà khổ vì nhìn qua bên cạnh, nhìn ra ngoài để so sánh, đối chiếu nên không thể nào có hạnh phúc. Trong quá trình tu tập, chúng ta hãy quay lại nhận diện tâm thức mình thật cẩn trọng. Có nhận diện được tự thân cẩn trọng thì con đường thực tập của chúng ta mới tiến bộ và mỗi một ngày chúng ta mới trưởng thành. Nếu không chúng ta cứ sống cho qua ngày đoạn tháng và cuộc đời chúng ta ở trong tay người khác.[/FONT]
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta hãy đọc tiếp vào chính văn chương kinh thứ mười một.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Cho một trăm người ác ăn, không bằng cho một người thiện ăn. Cho một nghìn người thiện ăn, không bằng cho người thọ ngũ giới ăn. Cho một vạn người thọ ngũ giới ăn, không bằng cho một vị Tu Đà Hoàn ăn. Cho mười vạn vị Tu Đà Hoàn ăn, không bằng cho một vị Tư Đà Hàm ăn. Cho một nghìn vị Tư Đà Hàm ăn, không bằng cho một vị A Na Hàm ăn. Cho một ức vị A Na Hàm ăn, không bằng cho một vị A La Hán ăn. Cho mười ức vị A La Hán ăn, không bằng cho một vị Bích Chi Phật ăn. Cho một trăm ức vị Bích Chi Phật ăn không bằng cho một vị Phật ba đời ăn. Cho một nghìn vị Phật ba đời ăn, không bằng cho một vị vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng ăn.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, công đức hữu lậu tuy lớn, nhưng thành tựu giải thoát mới là tột cùng của sự tu tập là đại ý của chương nầy. Và sau đây chúng ta lần lượt đi vào nội dung Kinh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]4. Loại trừ tâm ganh tị.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, như tôi đã từng chia xẻ; từ trong thâm sâu chúng ta đều có chất ganh tị và tâm thức ganh tị là bản chất tự hữu của con người. Chúng ta gọi nó là tự hữu vì từ lúc còn bé cho đến bây giờ chúng ta đã được dạy và nuôi dưỡng tính chất nầy. Từ gia đình đến trường học, ra ngoài xã hội rồi bước vào môi trường tôn giáo chúng ta đều được dạy phải luôn luôn vượt thoát thân phận con người để vươn cao hơn, phải vượt thắng để đạt cho được mục tiêu phía trước. Cho nên chúng ta luôn bất mãn và không bao giờ hài lòng với những gì mình đang có, chỉ có mục đích, điều nhắm đến mới là quan trọng. Tự bản thân của những điều nầy tạo thành chất ganh tị trong nội tâm chúng ta và bên cạnh sự ganh tị, sự bất an và căng thẳng cùng có mặt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ganh tị là một tâm hành được lập trình được cài sẵn trong tâm thức chúng ta; nó là tính chất ngoại tại do tự con người chuốc lấy và bảo trì để luôn sống trong ganh tị rồi cũng chết trong ganh tị. Cả một đời người nếu chưa biết tu thì chúng ta mãi ganh đua, chạy vạy để so sánh, đối chiếu, lúc nào cũng thấy đẹp hơn, xấu hơn, giàu hơn, sang hơn, giỏi hơn... và tâm thức nầy đeo mang suốt kiếp cho nên chúng ta khốn khổ vô cùng cho đến cuối đời tàn hơi vẫn chưa thỏa lòng với những gì đang có.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người đang ở trong pháp môn của Phật tu tập, phải luôn quay nhìn lại mình. Điều quan trọng làm cho ta tiến bộ trong tu học là mỗi khi nói một lời chia xẻ gì với người, hoặc muốn giúp người... chúng ta hãy nhìn kỹ lại động cơ của vấn đề muốn chia xẻ, muốn nói có phải được xuất phát từ lòng thương yêu, hay là có mặt từ bản chất của lòng ganh tị bên trong thúc đẩy. Nên ta cần cẩn trọng trong từng lời nói, từng việc làm, từng ý nghĩ của mình về người khác. Nếu chúng ta làm được điều nầy là cả một sự tiến bộ lớn lao trong vấn đề tu tập, là phương pháp làm cho ta tự hồi phục đồng thời làm cho tâm Bồ Đề mỗi ngày mỗi lớn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trên con đường tu, ngày càng lớn lên trong đạo vị trí có thể càng cao, đôi lúc chúng ta trở thành kẻ luôn đề phòng, lo sợ người khác dành đi chỗ đứng, địa vị, dành đi sự thương yêu kính trọng của Phật tử đối với mình. Cho nên điều cần phải lưu tâm là vị thế càng lớn ta phải luôn luôn nhìn lại mình càng kỷ hơn. Bao giờ mà tự trong thâm sâu chất liệu khiêm tốn vẫn như những ngày mới bước vào đạo thì chúng ta thành công. Nếu mỗi ngày bản ngã chúng ta càng lớn vì cho mình đã là Đại Đức, Thượng Tọa hay Hòa Thượng... ta khó chịu với sự vô lễ của người dù chỉ một chút nhỏ thôi rồi để tâm trừng trị thì biết tâm Bồ Đề đã chấp cánh bay cao.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tâm ganh tị là bản chất rất thâm sâu của con người cho nên Đức Thế Tôn đã dạy và khích lệ chúng ta khi thấy ai làm những thiện hạnh bố thí, cúng dường chỉ cần vui với niềm vui người đang làm, chúng ta đã có đầy đủ công đức như người kia vậy. Có thể chúng ta sẽ thấy vấn đề nầy rất vô lý. Nhưng không, vì khởi tâm lành vui theo với niềm vui của người khác hay tán trợ một ai làm thiện hạnh rất là khó; khó hơn khi chính chúng ta bỏ tiền, bỏ công sức ra để giúp. Tại sao? Bởi khi chúng ta bỏ tiền của, công sức ra cúng dường, bố thí chúng ta nghĩ mình là người ban ơn, người kia là người thọ nhận, mang ơn và điều nầy làm tăng trưởng nơi ta niềm tự hào, kiêu ngạo, làm tăng trưởng bản ngã. Nhưng nếu chúng ta đứng ngoài không làm gì chỉ nhìn người ta cúng dường mà khởi niềm vui, đâu có gì làm lớn bản ngã của mình cho nên khó hơn vô cùng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong những trang kinh điển Đại thừa, hay trong mọi pháp hành của nhà Phật luôn có ý khuyến khích ta hãy mở rộng tâm tùy hỷ và hạnh tùy hỷ rất là quan trọng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]5. Phước lành của sự tùy hỷ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hãy nhớ hạnh phúc phát sinh từ niệm tùy hỷ. Trong cuộc sống chúng ta có thể làm cho những giây phút của đời sống đong đầy hạnh phúc, nếu không làm được điều nầy thì khi nhìn những việc mà ta tiếp xúc sẽ trở thành khó chịu. Ví dụ như thấy niềm vui em bé rộn ràng, trong tâm khởi lên ý khó chịu tức khắc mọi thứ đều theo sự khó chịu lớn lên, mở rộng, đi xa. Từ ý niệm khó chịu nhỏ xíu khi nhìn đứa bé nô đùa, nghịch phá một cách bình thường, chúng ta sẽ sinh tâm bực bội là tại sao bố mẹ không dạy bảo cho nó đàng hoàng, để nó ít quậy phá và lễ độ với khách hơn. Nếu cũng việc ấy mà ngay giây phút đầu tiên chúng ta khởi trong tâm niềm vui và ý niệm tùy hỷ: “Ồ, sao đứa bé năng động, thông minh, nghịch ngợm dễ thương quá!” tức khắc hạnh phúc có mặt trong trái tim ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi chúng ta có niệm tùy thuận, vui theo với cung cách hành xử cùng ngôn ngữ thiện lành của người khác, nhìn sâu vào việc làm tốt đẹp của họ chúng ta sẽ chia xẻ và thông cảm với họ rất dễ dàng. Hay nói một cách khác khi chúng ta có trái tim mở rộng, có lòng thương yêu và tùy hỷ đối với người bạn tu của mình thì không có việc gì của người kia làm cho mình phải khó chịu. Những gì chúng ta ban tặng cho người, niềm vui của mình tùy hỷ với người, lời nói của mình tùy thuận vào việc lành với người điều đem lại quà tặng đầu tiên cho chúng ta là hạnh phúc và sự an lạc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phước và trí cũng thành tựu từ hạnh tùy hỷ, ví dụ phước hữu lậu cạn cợt đời thường và điều này thường xảy ra: như khi có một người bạn đồng song ở chung phòng là một thầy có duyên lớn với chúng sinh cho nên rất nhiều người thương quí. Phật tử, thiền sinh hay đem tứ sự vật phẩm đến cúng dường. Vị thầy tuy cùng ở với mình nhưng thí chủ chỉ biết đến vị ấy thôi và nếu chúng ta khởi tâm ganh tị; mỗi lần thấy bóng dáng một ai lân la đến thăm, đem quà đến dâng tặng thầy kia mình cảm thấy khó chịu, và vụng về tỏ lộ sự khó chịu ra mặt. Tâm thức không tùy hỷ nầy lần đầu tiên khi gặp phải người ta cảm nhận ngay, và lần sau họ rất sợ khi phải gặp ta. Nếu có cúng dường cho vị thầy đó họ cũng thực hiện một cách kín đáo, tế nhị không để chúng ta biết, như vậy là chúng ta không thừa hưởng được phước cạn hữu lậu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong trường hợp nầy chúng ta có tu tập hạnh tùy hỷ, mở rộng lòng ra chào đón; người ta khen bạn mình một câu mình khen thêm một câu, có gì làm thất lợi cho ta đâu, không vì lý do khen thêm bạn mình một câu mà mình bị thua thiệt. Chúng ta khen có nghĩa là chúng ta tán trợ, tùy hỷ tức khắc người Phật tử kia sẽ hoan hỷ, không cảm thấy ngại ngùng tiếp xúc với bạn mình, và dĩ nhiên vừa không làm mất tín tâm Phật tử mà tự thân ta cũng hưởng lây được phước hữu lậu của người bạn đồng tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chắc chắn, hạnh tùy hỷ nầy đem đến cho ta phước lành rất kỳ lạ, ta không cần giỏi như thầy kia, không cần có phước như thầy kia, không cần làm gì cả chỉ cần tùy hỷ thôi là ta đã thừa hưởng được phước hữu lậu của người kia rồi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chỉ ở bình diện cạn thôi, khi có tâm tùy hỷ thì phước hữu lậu đã có mặt.[/FONT]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_037%20TuyHyVaCungDuong.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
[FONT=Arial,Helvetica]6. Trí tuệ phát sinh từ tâm thức thênh thang rộng mở.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, tâm thức chúng ta rộng mở, yêu thương lớn bao nhiêu thì năng lực trí tuệ phát triển mênh mang bấy nhiêu. Tâm thức mà bị đóng kín, chất đầy, trì nặng bởi những ganh tị, thù ghét, giận hờn, cay cú sẽ không có không gian cho trí tuệ phát sinh, không có không gian cho chúng ta học một câu kinh, một lời kệ nói gì đến việc phát triển trí tuệ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên chúng ta có hạnh tùy hỷ trong tâm thức thì phước hữu lậu và trí hữu sư cùng có mặt ngay tức khắc. Hạnh tùy hỷ tự thân nó cũng đem đến hai điều lợi ích thiết thực là phước và trí cho chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Các vị thầy từ quá khứ cũng như hiện tại làm được công trình hoằng pháp, độ sinh rộng lớn đều là những bậc có tâm yêu thương bao la như biển, đức tùy hỷ như không gian. Chúng ta chưa bao giờ nghe một bậc thầy lớn nào bài xích bất cứ ai, chưa bao giờ thấy một bậc thầy lớn nào trái tim họ nhỏ hẹp chỉ thương đôi ba người. Trái tim yêu thương mênh mông của họ dung chứa đủ mọi loại người, mọi truyền thống tôn giáo, cũng như mọi cấp độ tâm thức chúng sinh. Trong tâm thức các bậc thầy chưa bao giờ nẩy sinh niềm thù ghét của sự ganh tị. Đức tùy hỷ của các vị luôn tùy thuận với những việc làm, những thiện hạnh của người khác, với các bạn đồng tu...[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta đang trên con đường tu học, đang đi theo bước chân của các vị Đạo sư, những bậc thầy đầy đủ phước trí nên điều quan trọng là chúng ta hãy nhìn lòng mình từng giây, từng phút tránh không để cho tâm nẩy mầm niềm ganh tị, ghen ghét sai sử lời nói việc làm, hành động của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Để thực tập được thương yêu và tùy hỷ, chúng ta không cần tốn công sức, của tiền gì hết bởi vì lòng yêu thương, tùy hỷ đã có mặt trong trái tim ta, là dòng suối mật ngọt luôn tuôn tràn. Ta chỉ cần vui theo, hoan hỷ theo những thiện hạnh mà người khác làm tức khắc thành tựu hạnh tùy hỷ. Tất cả đều là tự phát đã sẵn có trong ta, chỉ những gì chúng ta tìm kiếm bên ngoài mới khó cho nên hai hạnh thương yêu và tùy hỷ nầy chúng ta đều thực tập được dễ dàng. Và sự thực tập càng lớn thì chân trời giải thoát sẽ lớn theo, đồng thời công trình hoằng pháp độ sinh, đạo hạnh của mình cũng theo nền tảng nầy lớn mạnh hơn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]7. Hữu lậu và vô lậu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, trong chương kinh nầy Đức Phật vận dụng bậc thang giá trị của sự cúng dường. Từ thấp lên cao, từ ác đến thiện và tầng mức giá trị nầy cứ leo từ từ lên mãi cho đến đỉnh cao tuyệt vời nhất là cúng dường cho một ngàn ức vị Phật cũng không bằng cúng dường cho một vị vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng ăn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Câu hỏi đầu tiên đến với chúng ta vị nầy là ai mà giá trị lớn hơn một ngàn ức vị Phật và làm sao tìm được người vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng trong cuộc đời nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Địa vị tôn quí nhất trong nhân gian theo lời Phật dạy là bậc giác ngộ có đủ thập hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc... nhưng bây giờ trong văn học Kinh Bốn Mươi Hai Chương là văn học có mặt đầu tiên trong dòng văn học Hán tạng lại bảo rằng vị tôn quí nhất thế gian là Đức Thế Tôn không bằng vị “vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng.” Đây là nghi vấn thứ nhất dành cho chúng ta. Trước khi đi vào nghi vấn nầy, chúng ta cần phân biệt sự khác nhau của hữu lậu và vô lậu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Thế nào là hữu lậu?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Lậu là mưa dột, rớt, là chảy nước, thấm ướt, thâm nhập làm hư hoại Thánh nghiệp. Và chúng ta có hai loại phước: phước hữu lậu, phước vô lậu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Những gì sinh ra từ hữu lậu đều đặt căn bản trên ý niệm hay hữu niệm; từ ý niệm sinh khởi nghiệp thức và từ nghiệp thức hình thành nhân quả. Từ gốc của hữu niệm, từ gốc của ý thức sẽ đưa đến kết quả là sinh diệt nên gọi là hữu lậu. Những gì được sinh ra từ ý thức đều bị ý thức sinh diệt làm thay đổi, không trường tồn, có thể đổi chiều, đổi dạng và biến mất.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong kinh Phật thường ví dụ phước hữu lậu như tên bắn lên thật cao, nhưng cho dù cao bao nhiêu khi mà lực đẩy của mũi tên đã hết, tên sẽ lao xuống cắm vào lòng đất càng sâu bấy nhiêu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phước hữu lậu cho chúng ta trong đời sống hiện tại những thành đạt lợi danh, những sung túc về vật chất... nhưng vốn sinh ra từ ý thức sinh diệt nên có lúc sẽ chấm dứt. Khi phước không còn dù chúng ta đang ở cõi trời cũng phải rơi xuống trần gian, đôi khi còn bị đọa lạc không được làm người. Cho nên phước hữu lậu vẫn nằm trong vòng luẩn quẩn không thể vượt thoát được tử sinh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Thế Tôn nâng bậc thang giá trị cúng một trăm người ác không bằng một người thiện để chứng minh cho chúng ta biết một điều dù có tốn công sức tạo phước hữu lậu bao nhiêu, cuối cùng cũng bị rớt vào vòng nghiệp thức, nhân quả sinh diệt vô thường, sẽ trở đi trở lại trong cõi nhân gian nầy. Người tu chúng ta phải làm thế nào để cắt đứt được dòng chảy sinh tử luân hồi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con người sinh ra trong cuộc đời nầy bắt đầu những bước tập tành đầu tiên rất nhỏ như học lật, học bò, học đủ thứ... cho đến học ganh tị, học yêu thương... và không may mắn người ta đi vào đời bị xoay tròn trong cuộc tử sinh, loanh quanh chết đi rồi trở lại. Bài học nầy tuy đã học muôn vạn lần trong kiếp quá khứ vậy mà ta vẫn quên, vẫn chưa thuộc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta tạo công đức lớn để mong kiếp sau trở lại trong nhân gian nầy, sinh ra làm người cao quí, sang giàu, danh vọng đôi lúc không phải là điều phước vì phước nầy sẽ gieo rắc đại họa cho tương lai, chúng ta sẽ bị chìm vào trong vòng xoáy của nghiệp lực thế trần khó có cơ hội giác ngộ để tu tập. Một đời người tu chỉ làm phước lực cho nhiều để kiếp sau trở lại có phước hữu lậu lớn là một đại họa. Cho nên Đức Thế Tôn dùng dẫn dụ nầy dạy cho chúng ta biết dù phước hữu lậu có như hà sa, có làm được vị Thiên Đế trên cõi trời cũng chỉ là điều nhạt nhẽo, vô vị trong đời tu không đáng cho chúng ta ham thích.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]– Thế nào là vô lậu?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu nền của hữu lậu được sinh từ hữu niệm thì nền vô lậu sinh từ vô niệm. Hữu niệm sinh ra nghiệp thức, nhưng vô niệm thì đoạn nghiệp và siêu việt nhân quả, cuối cùng thành tựu vô sanh. Như khi giúp đỡ người, ý thức của ta gắn chặt vào điều chúng ta giúp đỡ, ghi nhớ không những trong trí mà còn cụ thể nó trên giấy tờ ta gọi đó là hữu niệm. Nếu giúp người bằng tâm thức rất thênh thang không cần nhớ, không nghĩ cũng không bận tâm người ta còn nhớ ơn mình hay không, chỉ biết đem hết trái tim, lòng thương yêu của mình thấy người trong giai đoạn khó khăn nên chúng ta giúp gọi là vô niệm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hữu niệm dẫn dắt ta đến tình trạng khi ta gặp lại người ta đã từng giúp, điều đầu tiên có mặt trong ý thức là những ký ức về sự giúp đỡ hiện lại như một cuộn phim. Chúng ta bắt đầu đối chiếu, nhận diện so sánh người kia nhờ mình mới có sự nghiệp, nay gặp lại mình tỏ ra lạnh nhạt, tức khắc sinh khởi những tâm hành ghen ghét, buồn phiền, cay đắng trong lòng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong khi giúp đỡ người với trạng thái vô niệm, tâm của chúng ta như nước mênh mông và những điều chúng ta giúp đỡ chỉ như lấy cây viết lên mặt nước mà chơi, không lưu lại một chút gì, dấu ấn gì trong tâm thức. Làm gì cho người xong xóa sạch không cần nhớ, sự thương yêu giúp đỡ đó xuất phát từ tâm vô niệm, không lưu lại gì gọi là đoạn nghiệp: không vướng mắc vào nghiệp ác và nghiệp lành.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu một ngày nào gặp lại người mà chúng ta đã từng giúp đỡ, họ còn nhớ đến săn đón chào mời thì tốt, còn không chúng ta cũng đã quên không có gì để lưu tâm, buồn phiền cho nên ta gọi việc làm từ tâm vô niệm sạch hết nghiệp, và vì sạch hết nghiệp nên siêu việt thiện ác, siêu việt nhân quả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tuy nhân và quả có đến nhưng với người vô niệm thì lâng lâng như mây bay không mảy may gì dính đến vui, buồn, tốt, xấu gọi là siêu việt thiện ác. Khi con người đạt đến trạng thái tâm thức như thế là đạt đến vô sinh. Vô sinh ở cấp độ cạn là khi ta đã thi ân, nhưng đối với người thọ ân không sinh khởi bất cứ một tâm niệm gì cả thì đây chính là phước vô lậu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phước vô lậu là một dạng của tâm thức tu tập chánh niệm. Trong từng sát na sống với chánh niệm là làm điều gì ý thức được điều ta làm, luôn mời được sự nhận biết có mặt trong từng giây phút mà không phải đánh mất trạng thái nhận biết việc đang làm thì được gọi là sống trong chánh niệm. Và mọi việc làm đều ở trong trạng thái của vô lậu vì ngay lúc ta sống được như thế là đoạn sạch hết tất cả những nghiệp thức thiện ác, phải quấy, tốt xấu của ba cõi, sáu đường. Chúng ta chỉ cần dừng lại, mời sự nhận biết soi sáng trên từng tâm hành tức khắc đoạn dứt sinh tử, tức khắc từng sát na thở vào, thở ra chúng ta đang huân tập, đang tu phước vô lậu. Hay gọi cách khác là vô lậu nghiệp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vô lậu là nhân thành tựu được quả vô sinh. Vô sinh là tên gọi tổng quát chỉ cho vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng của nội dung đoạn Kinh Bốn Mươi Hai Chương nầy.[/FONT]

<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="%3C/font%3E%3Cfont%20size=" 4"=""><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--><center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="%3C/font%3E%3C/font%3E%3Cfont%20size=" 3"=""><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_038%20TuyHyVaCungDuong.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
</center>
</center>
[FONT=Arial,Helvetica]8. “Vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Là những ngôn từ mang sắc thái triết lý Lão Trang mà các bậc thầy đã mượn để chuyển dịch Kinh văn Phạn ra Hán ngữ, đưa ra thâm ý của kinh. Những văn bản đầu dịch thuật trước đời Dao Tần đến đời Đường và sau nầy trong văn học Thiền tông qua các thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh đến cận đại đều bàng bạc những từ “vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng” nầy. Ngôn ngữ của kinh điển và thâm nghĩa của giáo lý đạo Phật đều mượn hầu hết ngôn từ nầy để giải minh những khái niệm rất trừu tượng của triết học Ấn Độ và trong văn học nhà Thiền những từ nầy đặc biệt được trọng dụng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vô niệm là không có một niệm tưởng nào, ý thức lăng xăng nào sinh khởi. Chúng ta thường lầm lẫn với tâm không ngơ, chìm lặng vào khoảng không mờ mịt vô ký. Đó là lạc vào biên kiến, không phải là vô niệm của nhà Phật hay của Thiền tông muốn nói.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vô niệm của nhà Phật là sạch hết những ý thức lăng xăng, phù động, những tiếng độc thoại hay đối thoại của ý thức lầm thầm. Nhưng sự nhận biết tỉnh sáng luôn có mặt và tồn tại. Sự nhận biết không ngôn ngữ, không lời nhưng nó nhận biết rõ những gì đang lang thang, đang diễn hành trong tâm thức chúng ta. Nếu không có sự nhận biết trong tâm thức tức chúng ta đang chìm trong hang tối mịt mờ của vô minh, của vô ký.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên phải có sự nhận biết rỡ ràng ngay nơi đây và giờ phút nầy; như thế gọi là người đang sống trong chánh niệm, đang sống với vô niệm, đang sống trong tâm Phật bản nhiên chiếu sáng thường tại của chính mình. Và sống được với trạng thái vô niệm tỉnh sáng nầy là sống trong Niết Bàn hiện tiền, an trú trong lạc pháp hiện tiền hay nói cách khác là đang an trú trong sự nhận biết mà không để ý thức chạy ra đồng hóa với cái bị biết. Cái bị biết là những gì chúng ta nhìn thấy, (như vui buồn, bất an...) còn sự nhận biết chính là mình nên chúng ta không thấy, tưởng như nó không có mặt, nhưng khi vui buồn hiện khởi ta tức khắc nhận biết ngay.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta nếu thông minh hồi phục sự sống chánh niệm lại, luôn an trú trong trạng thái tâm nhận biết vô ngôn, nhận diện được từng trạng thái tâm hành sinh diệt đang có mặt; bấy giờ chúng ta là thể vô sinh, bất diệt đang chiếu kiến, đang soi sáng những tâm hành bên ngoài. Khi liễu tri và đủ niềm tin rằng vô niệm là tự thể không sinh, không diệt của mình vốn chiếu sáng và hiện tiền trong bất cứ phút giây nào, chỉ cần hồi phục lại là có, tức khắc chúng ta nhận được điều vô niệm cũng chính là “vô trụ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi sống với vô niệm hiện tiền chúng ta sẽ thấy tâm không dính vào bất cứ gì thì đó là vô trụ. Như thế có gì gọi là tu nếu chúng ta làm được việc nầy. Ta cứ nghĩ. Tu là phải kềm chế, sửa đổi, chuyển hóa, có việc để làm, nhưng với cách an trú tâm như vậy chúng ta đâu có gì để làm. Chỉ có một điều khi vật gì đến trước mắt chúng ta nhìn biết, quan sát mà không dính với nó. Bất cứ tâm hành gì khởi lên ta nhận diện đơn thuần về sự có mặt, đến, đi của nó mà không làm gì thêm. Đó gọi là không tu, là “vô tu.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta sinh ra trong đời nầy, đều có khả năng nhận biết giống nhau. Một người có tri thức nhiều do vì đã được sống nhiều năm trong trường lớp, học đường cho nên khi nhìn thấy một đóa hồng thì diễn dịch ngàn vạn điều, khởi ý thức thì thầm một tràng dài về nó. Đó là trí tuệ hữu sư nhận biết. Nhưng với một người không học thì khi nhìn chỉ nhận biết đơn giản đó là bông hồng thế thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đây là điều rất là khác biệt giữa trình độ nhận biết bằng ý thức, bằng suy nghiệm và sự nhận biết mà không suy nghĩ, không diễn dịch.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ví dụ anh là kiến trúc sư, khi nhìn một ngôi nhà tự nhiên với khả năng kiến trúc anh biết ngay về cấu trúc của nó, không gian dài rộng bao nhiêu... nhưng đối với người không học tuy có nhìn thấy như anh nhưng chỉ nhận biết đơn thuần mà không diễn dịch gì cả. Cho nên sự khác biệt giữa ý thức diễn dịch khác nhau nhưng cái nhìn, cái nhận biết thì đồng đẳng như nhau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sự nhận biết sáng ngời, rạng rỡ vô niệm đồng đẳng cho người ngu cũng như kẻ trí, già cũng như trẻ, giàu cũng như nghèo, người ốm như người mập. Đó là khả năng giác ngộ tự hữu chúng ta vốn có nhưng chúng ta quên nên có gì đâu để gọi là “đắc” là “chứng.”Thế nên, ở đây lời Kinh gọi vị ấy là: “Vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng” là như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, chúng ta đã chia xẻ từ cấp độ cạn thế nào là hữu lậu cho đến vô lậu, và cũng nắm được gì là hữu lậu, gì là vô lậu ở cấp độ thâm sâu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta nên nhớ Đức Phật là bậc phước trí toàn vẹn. Người tu chúng ta nắm được lý nhưng không bao giờ được rời sự. Nắm được “lý” là nhận chân được tự thể vô niệm, tự thể Phật không sinh, không diệt của mình thì đối với “sự” có thể không cần làm gì cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tuy nhiên trên con đường tu, phước hữu lậu có công năng rất kỳ diệu là chuyên chở biết bao điều kiện tốt lành giúp chúng ta thành tựu con đường tu một cách vững vàng. Chưa bao giờ có một người tu không có phước hữu lậu mà đi trọn con đường tu. Phước hữu lậu tuy được làm bằng ý thức sinh diệt nhưng ý thức sinh diệt nầy có công năng lớn lao là làm nền tảng căn bản xây dựng môi trường tu học để chúng ta trau giồi và thăng tiến đời sống hạnh phúc tâm linh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cá cần nước như thế nào cũng như chúng ta cần điều kiện, môi trường sống của tăng thân như vậy. Môi trường ta sống, tăng thân ta tu học yên lành, hài hòa, thương yêu đều được đặt trên nền tảng phước hữu lậu. Cho nên ngộ được lý bất sinh bất diệt của tự tâm, chúng ta vẫn phải tu sự; thực hành tất cả pháp lành, những thiện hạnh để gầy dựng nền tảng hữu lậu cho đời sống tu tập của chúng ta.
[/FONT]

<center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="%3C/font%3E%3Cfont%20size=" 4"=""><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--><center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="%3C/font%3E%3Cfont%20size=" 4"=""><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_039%20TuyHyVaCungDuong.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
</center></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<center>
[FONT=Arial,Helvetica]VƯỢT QUA KHÓ KHĂN[/FONT]</center>
[FONT=Arial,Helvetica]Vượt Qua Khó Khăn là chủ đề của chương mười hai.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Nhân hữu nhị thập nan. Bần cùng bố thi nan. Hào quý học đạo nan. Khí mạng tất tử nan. Đắc đỗ Phật kinh nan. Sanh trị Phật thế nan. Nhẫn sắc nhẫn dục nan. Kiến hảo bất cầu nan. Bị nhục bất sân nan. Hữu thế bất lâm nan. Xúc sự vô tâm nan. Quảng học bác cứu nan. Trừ diệt ngã mạn nan. Bất khinh vị học nan. Tâm hành bình đẳng nan. Bất thuyết thị phi nan. Hội thiện tri thức nan. Kiến tánh học đạo nan. Tùy hóa độ nhân nan. Đỗ cảnh bất động nan. Thiện giải phương tiện nan.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Làm người có hai mươi điều khó:
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nghèo nàn bố thí là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Giàu sang học đạo là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bỏ thân mạng quyết chết là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thấy được Kinh Phật là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sanh vào thời có Phật là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhẫn nhục là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thấy tốt không cầu là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bị nhục không tức là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có thế lực không dựa là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Gặp việc vô tâm là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Học rộng nghiên cứu sâu là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Diệt trừ ngã mạn là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không khinh người chưa học là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thực hành tâm bình đẳng là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không nói chuyện phải trái là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Gặp được thiện trí thức là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thấy tánh học đạo là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tùy duyên hóa độ người là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thấy cảnh tâm bất động là khó.
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khéo biết phương tiện là khó.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người tu chúng ta muốn thành tựu Thánh hạnh giải thoát hãy vượt qua hai mươi điều khó khăn nầy. Tất cả mọi thành tựu trong cuộc đời đều phải trả một giá rất đắt. Đây là điều quan trọng nhất, và cũng là một chân lý căn bản.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]


[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin chia xẻ vài điều trước khi đi sâu vào nội dung bài Kinh: làm thế nào để vượt qua bao khó khăn trên con đường tu tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]1. Giá của sự thành công.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hầu như chưa có một thành công nào trên đời mà không phải trả một giá đắt tương xứng. Từ thành công tự thân, thành công của đời sống gia đình, thành công của đời sống trí thức đến thành công trên con đường tu học tức là sự phát triển tâm linh từ thấp đến trung bình rồi đến cao, mỗi thứ đều có sự tương xứng với công sức mà mình đã đầu tư vào. Không có gì quí mà giá của nó rẻ cả.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Đời sống luôn có quy luật rất đặc biệt là không bao giờ tặng cho ai những gì quý giá mà không có những trắc nghiệm, không có những thử thách. Trong văn học gọi là “tạo hóa đố hồng nhan” như Nguyễn Du đã viết lên trong Kiều: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.” hay trong cổ thi với hai câu: “Giai nhân tự cổ như danh tướng. Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.”: “Xưa nay người đẹp như danh tướng. Chẳng để nhân gian thấy nét già.” Và Đông phương chúng ta thường nói là tạo hóa, đất trời dường như luôn ghen hờn với những con người tài hoa. Hai câu Kiều ai cũng biết đó là: “Anh hoa phát tiết ra ngoài. Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thế nên nếu có những con người tài hoa nổi bật, có khả năng đóng góp công sức lớn cho cuộc đời thường thường bị đọa đày cho nhụt chí, bị cuộc đời vùi dập, giũa mài chịu trăm nghìn nỗi tang thương. Có như vậy thì trái tim người kia mới mở rộng, kinh nghiệm mới dạn dày để có thể làm được việc lớn trong cuộc sống.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, ngày xưa ở Trung Quốc theo truyền thống nếu người nào dành được ngọc ấn là người có chân mạng Thiên Tử, sẽ được lên làm vua. Ngọc ấn là cái triện của nhà vua để đóng như khuôn dấu của chúng ta bấy giờ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nguyên ủy xuất phát ngọc ấn đầu tiên là một câu chuyện từ thời Sở: Có một người thợ làm đá nọ khám phá ra được bên trong phiến đá lớn có một viên ngọc rất đẹp. Ông dành hầu hết thời gian để lấy viên ngọc nguyên sơ kia ra và xin vào yết kiến vua Sở để dâng ngọc quí mà ông nghĩ là một bảo bối có thể đánh đổi cả quốc gia. Khi viên ngọc được đem vào, nhà vua sai những người thợ chuyên giám định ngọc đến, thợ đều nói đây không phải ngọc mà là đá. Nhà vua bắt tội khi quân dám lừa gạt Ngài, đem ông ra chém một tay. Người thợ đá đành đem ngọc về.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đến đời vua thứ hai, ông nghĩ vị vua nầy chắc thông minh hơn nên lại mang viên ngọc lên dâng lần nữa để làm quốc bảo. Nhưng cũng như lần trước, vua nầy không chứng cho tấm lòng thành của ông, nghe lời thợ giám định đem ông ra chém luôn tay còn lại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đến đời vua thứ ba, với tấm thân tàn tật người thợ đá kiên nhẫn mang ngọc đến dâng vua, nhưng lần nầy không vào tận trong cung, ông gục đầu lên viên ngọc khóc trước cửa triều đình đến nỗi máu chảy theo khóe mắt. Người qua lại thấy quá thương tâm, hỏi tại sao. Người thợ ngọc trả lời: “Hai lần qua tôi đã dâng ngọc quí cho vua, nhưng cả hai vị vua trước đều cho tôi phạm thượng, gia hình làm tôi trở thành tàn tật, nên tôi nghĩ nếu lần nầy đem dâng ngọc lên vua chắc không còn mạng sống.” Khi nghe tin, nhà vua tội nghiệp cho mời vào và gọi thợ đặc biệt đến giám định viên ngọc, thì ra đây là loại ngọc cực kỳ quí, màu xanh biếc của nó chưa từng thấy; đúng là quốc bảo. Nhà vua liền sai người chạm trổ hình sư tử, dưới chân khắc hình hoa văn ghi dấu đây là bảo ngọc và đặt tên là ngọc bích họ Hòa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Câu chuyện bi thương trên nói lên một điều là mọi vật có giá trị muốn được hiển lộ trong cuộc đời đều phải trả giá rất đắt, đôi khi phải hy sinh cả tính mạng của mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, các bậc thầy chúng ta từ quá khứ cho đến hiện tại cũng đã trả một giá rất lớn cho sự nghiệp của mình. Cái giá đầu tiên là sự tự tu học. Không cần nói gì xa, chỉ nói đến thế hệ bậc thầy gần nhất với chúng ta thôi, các vị nếu muốn đọc những thư tịch cổ, muốn học kinh điển đã phải cực nhọc bỏ ra cả mười năm để học Hán tạng. Và để tập viết chữ Hán, họ thường phải viết trên lá chuối hay trên giấy vàng bạc (loại giấy dùng đốt lúc cúng linh). Họ chưa được hưởng những tiện nghi đầy đủ (giấy viết, tập vở, dầu lửa, đèn điện...) như chúng ta ngày nay mà đôi lúc phải dùng nhang làm thành bó đốt lên soi vào trong từng trang sách để học. Do vậy, đủ thấy khoảng thời gian ấy các bậc thầy chúng ta tu học không dễ dàng, thuận lợi như chúng ta. Hơn nữa truyền thống đạo Phật lúc bấy giờ không cho phép tăng sĩ Phật giáo tiếp xúc với văn hóa thế gian, được phép học ngoại ngữ, học các môn khoa học, lý hóa... như tăng sĩ hiện tại, nên quí thầy muốn có một trình độ trí thức để cập nhật hóa, tiếp xúc, dạy dỗ đồ chúng vất vả vô cùng. Và muốn mở con đường cách mạng giáo dục tăng sĩ cũng không dễ dàng vì truyền thống đạo Phật không chấp nhận.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vì vậy, thành tựu đạo giải thoát là cái giá đắt nhất trong mọi bậc thang giá trị cuộc sống, nên trên con đường tu Đức Thế Tôn nêu bật ra hai mươi đặc tính khó khăn cho chúng ta biết vươn lên, vượt qua nấc thang nầy để đi vào đạo. Xin quí vị lưu ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]2. Thử nhận diện mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta hãy nhìn vào sinh hoạt Phật giáo hiện tại để thấy thật khó mà thay đổi để đáp ứng được nhu cầu tu tập và làm Đạo của tăng sĩ trong hoàn cảnh xã hội hiện tại. Tại sao? Nhìn lui lại chúng ta sẽ thấy tinh thần, tâm thức của các bậc Thầy từ lâu đã được nuôi dưỡng trong truyền thống ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa nên một mực sùng thượng truyền thống tôn giáo cổ. Những gì thuộc văn hệ Trung Quốc đều là Thánh ngôn ngàn đời, không dám sửa sai, không được quyền chỉnh lý. Và ảnh hưởng của Phật giáo truyền thống đè nặng lên tâm thức nên không bao giờ quý Thầy chấp nhận bất cứ một sự đổi thay, cách tân nào. Do vậy, mở một con đường đưa đời sống tăng sĩ có thể cập nhật để vươn lên bắt kịp xu hướng phát triển thời đại không đơn giản, họ luôn luôn bị sự phản bác không phải từ xã hội mà điều kỳ lạ là ngay chính bản thân của đạo Phật phản bác. Rồi từ chỗ đứng trong Đạo Phật nhìn ra các tôn giáo bạn để thấy rằng chúng ta còn thua kém Ki Tô hay Tin lành nhiều mặt.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ki Tô giáo với một nền tảng, cơ cấu tổ chức tinh vi chặt chẽ có hệ thống từ trên xuống dưới và được chỉ đạo rất hoàn thiện. Đó là yếu tố mạnh đầu tiên của họ mà ta gọi là tính tổ chức.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Yếu tố thứ hai quan trọng không kém là nền kinh tế, tài chánh vững chắc, giàu có và phát triển vượt bực của họ. Đây là lực đẩy rất mạnh cho sự mở rộng nước Chúa và giáo hội của họ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều đặc biệt nữa là họ đào tạo và xây dựng giới tu sĩ, con chiên rất thuần thành, cuồng tín. Ngay từ bé đã được họ nhồi tẩm những giáo điều, tín lý nên con cái Chúa tuyệt đối đặt niềm tin vào vị thần linh duy nhất là Đức Ki Tô. Họ cầu kinh đều đặn hằng ngày, chưa kể đến hai ngày thứ bảy, chủ nhật là ngày bắt buộc phải đến nhà thờ xem lễ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và ba ngày rất quan trọng phải đến nhà thờ là ngày ra đời, ngày thành hôn, và ngày lìa bỏ cõi đời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tuy nội dung giáo lý của Ki Tô La Mã không còn tương hợp với nền văn minh hiện đại, một nền tín lý lỗi thời khiếm khuyết và huyền hoặc, nhưng ba mặt kia của họ rất mạnh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong khi nhìn lại đạo Phật, chúng ta thấy tính tổ chức không có. Phật giáo là một tôn giáo phi tổ chức; Phật tử, tín đồ đạo Phật đều rất tự do, đến đi tùy lòng, tùy ý. Niềm tin không được nuôi dưỡng, củng cố nên dù có qui y theo Phật, Pháp, Tăng rồi, có khi mãi cho đến mười năm sau họ mới trở lại chùa. Có thể là họ đến chùa vì bố mẹ, người thân qua đời cần cầu siêu, tụng niệm...[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ mức độ cạn của một tín đồ, Phật tử đi vào đạo chúng ta thấy đã quá lỏng lẻo, đến nhìn sâu vào trong guồng máy giáo hội hiện tại chúng ta lại thấy chưa bao giờ có một quy chế chặt chẽ ở chiều ngang hay chiều dọc tức là chưa có một chút gì gọi là tính tổ chức.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, bước qua lãnh vực tài chánh chúng ta thực sự không có nguồn tài chánh, đơn giản cũng vì không có tính tổ chức.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhìn vào thực trạng ở đây, mỗi vị thầy tìm cách thu phục vài ba chục Phật tử ra riêng cất một ngôi chùa và từ đó phải làm cách nào cho có nguồn tài chánh để chi phí cho tự viện mình, đưa đến tình trạng số Phật tử thì không tăng mà cơ sở vật chất cứ phát triển. Kèm theo đó là sự chia rẽ, phân hóa nội bộ nghiêm trọng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cứ một tăng sĩ là một ngôi chùa, một mình một chợ phải đối diện với trăm công ngàn việc nên không có thì giờ, không còn đâu năng lượng để đầu tư vào chuyện tu tập. Từ đó tâm thức bị trần tục hóa dần dần, sa đọa dần đời sống tâm linh và khi đã xem nặng vấn đề vật chất, chắc chắn tiếp theo sẽ là chuyện nhũng lạm tiền bạc phát sinh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Các tự viện phát triển một cách thoải mái ở nơi nầy bằng con đường cải gia vi tự, tức là từ một ngôi nhà nhỏ sửa lại làm chùa nên không thể nào đủ tiêu chuẩn sinh hoạt; không thể nào một cơ sở tôn giáo có đủ pháp lý để cho tín đồ, phật tử vân tập. Cho nên chỉ cần một làn gió luật pháp Mỹ phất qua thì tất cả của cải của vị thầy và Phật tử tan thành mây khói. Nguồn tài chánh đã không có mà chúng ta còn phá nát luôn tín tâm và nguồn yểm trợ của Phật tử.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nói đến tôn giáo là nghĩ đến niềm tin, yếu tố nầy chúng ta cũng không có. Muốn cho đạo Phật tồn tại, tuy giáo lý Đấng giác ngộ loại trừ sự cuồng tín nhưng tối thiểu tu sĩ Phật giáo cũng phải gầy dựng được niềm tin và tạo được sự thương yêu đạo dạt dào nơi Phật tử, tín đồ. Chúng ta thường chỉ lo làm sao có chùa to, Phật lớn, làm ăn trong những cộng đồng người Việt với thế hệ già nua qua lễ lạy, cúng bái, ma chay... hình thức rườm rà mang đặc tính rất là Đông Nam Á nên không thể truyền đạt được niềm tin nơi giới trẻ, không thu hút được sự đầu tư vật chất cũng như trí tuệ của thế hệ tương lai. Đó là những thất bại, thua kém tôn giáo bạn của chúng ta mà tôi xin chia xẻ cùng quí vị.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đạo Phật chúng ta chỉ có một mặt mạnh duy nhất là nội dung giáo lý. Tự thân giáo lý đạo Phật tiềm phục trí tuệ siêu việt, thách thức cả phát triển khoa học. Giáo lý đạo Phật đi trước những tiến bộ của khoa học, dù khoa học có phát triển vượt bực thì những phát minh hay khám phá mới nhất của khoa học, của con người trên hành tinh nầy đã từng được Đức Phật nói đến cách nay hai mươi sáu thế kỷ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta biết nhìn xa, biết khai thác mặt nầy thì tăng sĩ chỉ phải làm mỗi việc mở rộng mặt mạnh của chúng ta là phát triển tuệ giác thể nghiệm đạo và văn hóa Phật giáo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đạo Phật chúng ta từ bao giờ đã không có tính tổ chức, không có nguồn tài chánh vững, không có kế sách, định hướng sinh hoạt rõ ràng cho tăng già vậy mà các bậc thầy của chúng ta trong quá khứ cũng như hiện tại đã vực dậy đạo Phật đứng lên được, tồn tại sống còn chảy vào các vùng đất Tây Phương âu cũng là duyên kỳ lạ. Một vài vị Thầy vươn lên làm được công trình lật những trang kinh cũ mốc meo, đầu tư tim óc khai mở cho người ta hiểu được, làm bừng sáng đạo Phật là cả công sức lớn lao và khó khăn vô cùng. Cho nên ngày hôm nay nơi đây, quí vị nếm được hương vị pháp, quí vị yêu thương đạo, có được niềm đam mê để xây dựng thành đoàn thể tăng già, thực hiện đúng lời Phật dạy là cả một quá trình không đơn giản của các bậc Thầy đã trải qua những chặng đường khó khăn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Những ngày Đạo Phật bị lãng quên qua một trăm năm người Pháp đặt chân vào quê hương Việt Nam, tôn giáo gốc rễ là đạo Phật bị vùi dập, đánh phá làm cho tàn hoại như một cuộc pháp nạn kéo dài âm ỉ đến 1963. Sau đó hơn mười một năm Phật giáo Việt Nam như người bệnh lâu đời chưa gượng dậy vững.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]


[FONT=Arial,Helvetica]Người tu chúng ta nhìn lại quá khứ, rồi nhìn vào hiện tại, để thấy vượt ngang qua những khó khăn để yêu thương và làm cho đạo Phật có mặt thực sự không phải là chuyện một sớm một chiều. Sự thách thức, sự đánh phá từ nhiều phía đến với đạo, đến với tăng sĩ, đến với tín đồ trong tương lai là một cái giá rất đắt phải đánh đổi để tồn tại. Cho nên, hai mươi điều khó khăn của người tu học theo tinh thần kinh Bốn Mươi Hai Chương có thể chia ra làm những điều sau đây:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]3. Khó khăn từ hoàn cảnh và môi trường.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Yếu tố đầu tiên là hoàn cảnh sống của con người, nghèo quá thì không tu được mà giàu quá cũng không tu được. Ở nơi thị tứ phồn hoa ta không có điều kiện tu mà chốn xa xôi hẻo lánh không có ánh sáng văn hóa, không có bóng dáng Phật pháp thì ta cũng không tu được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Không có những trang kinh, không có bóng dáng người tu, không có người hiểu biết Phật pháp nghĩa là thiếu điều kiện tiếp xúc với ánh sáng giáo lý là điều thiệt thòi lớn vô cùng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Giữa lòng đô thị, phố xá xôn xao, quay cuồng theo cuộc sống ta sẽ không có điều kiện tiếp xúc với giáo lý để thực tập, để nếm được hương vị của pháp. Ngoài ra, hoàn cảnh và môi trường tác động mạnh lên tâm thức chúng ta. Nếu như ở trong một cộng đồng hay một vùng văn hóa mà nơi đó không có đạo Phật, chỉ có một số tôn giáo với tín lý cực đoan, chắc chắn chúng ta sẽ đi vào những tôn giáo đó và tâm thức chúng ta sẽ bị hạn chế, và trở nên cuồng tín. Điều đáng sợ nhất ở hành tinh nầy là những tôn giáo dạy cho môn đồ thành những con người cuồng tín. Tâm thức họ không có điều kiện mở ra, luôn đóng kín và đặc biệt chỉ biết duy nhất vị giáo chủ mình, giáo lý tôn giáo của mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta đi lạc vào một chủ thuyết cuồng tín, vào một môi trường làm cho đầu óc ta chai cứng thì khó mà xoay trở để mở rộng cửa tâm thức đón nhận ánh sáng của nguồn tuệ giác, giáo thuyết nào khác. Và như thế, nghìn đời vạn kiếp chúng ta sinh ra, những hạt mầm ấy bừng dậy rồi loanh quanh chúng ta cũng đi vào những ngõ cuồng tín mà thôi. Cho nên hoàn cảnh môi trường, giàu nghèo khó khăn và hoàn cảnh văn hóa địa vực rất quan trọng cho vấn đề tu tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Muốn tu tập chúng ta phải hội đủ bốn điều kiện là Pháp, Tài. Lữ và Địa. Pháp là Pháp môn tu. Tài là điều kiện vật chất vừa đủ, không giàu không nghèo. Lữ là bạn cùng tu. Địa là vùng đất, môi trường văn hóa, đạo đức thích hợp với chúng ta. Nếu như chúng ta rơi vào một cộng đồng tôn giáo khác chỉ đạo từ văn hóa, đạo đức, xã hội, chắc chắn mọi khó khăn sẽ đến với ta. Họ sẽ kỳ thị, bài bác hay gây rối mọi cách thì chúng ta không thể nào tu được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, làm được một tăng sĩ, một người tu có khi không phải chỉ là phước đức một đời mà từ ngàn vạn kiếp chúng ta đã từng gieo trồng hạt nhân lành lớn vô cùng mới được khoác pháp phục của Như Lai.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]4. Khó khăn từ chính thân tâm ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong giáo lý của Đức Phật có những nạn như “Si, lung, ấm, á” tức đui, điếc, câm, ngọng... là những trở ngại lớn cho sự tu tập. Và nếu chúng ta bệnh thì cũng bị trở ngại không thể nào tu được cho dù ta rất ham tu. Biết Đạo lúc quá già cũng là một trở ngại. Thân thể bại hoại, mỏi mệt, suy sụp, thần kinh trí não không còn tinh nhạy thì khó có thể phát triển đời sống tâm linh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tuy nhiên có những trường hợp có người đã lớn tuổi nhưng tâm thức họ lại rất trẻ trung, năng lực tu của họ tràn đầy. Ở mức độ cạn ta nhìn vào hình thể để đánh giá trẻ già hay hạn chế tuổi tác, nhưng ở mức độ sâu hơn hãy nhìn vào đời sống thực để thấy có những người già rất khỏa, trẻ trung tươi vui và đời sống tâm linh họ phát triển rất hài hòa. Ngược lại có những người trẻ lại làm như người lớn tuổi, mới có hai mươi mà lụ khụ như người già. Cho nên điều quan trọng là làm thế nào vượt qua được khó khăn của đời sống ngay chính tự thân.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thân và tâm có những chướng nạn. Những khiếm khuyết của hình hài bên ngoài và những biến chuyển tâm sinh lý bên trong là những điều khó cần đặc biệt lưu ý trong sự tu tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thân của tuổi trẻ nếu ta vượt qua được những chướng nạn khiếm khuyết như bất toàn về thủ túc, mắt mũi... thì còn có những chướng nạn khác đặt ra như sự bức bách của năng lượng tính dục. Tỉ dụ như tuổi trẻ đến với đạo nguyện lực không mạnh, tâm Bồ Đề không vững, không có pháp môn thực tập thì năng lượng tính dục phát triển, bức bách gây nên nỗi khó khăn rất lớn vì sự khống chế, loại trừ hay chịu đựng; đó không phải con đường để vượt qua.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta may mắn có một tâm hồn hiền thiện, thuần phác có nhiều hạt giống lành là do duyên kiếp rất nhiều đời; nhưng nếu không may trong ta là những hạt giống tiêu cực thì khó có thể cho ta tu học dễ dàng. Trong cùng một hoàn cảnh, một môi trường nhưng người ta thì sống an vui còn mình thì cả một sự chịu đựng, khổ vô cùng không thể tu học được, nên tùy tâm thức thiện lành, tùy hạt giống ta đã từng gieo mà khó hay dễ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Về đời sống tri thức của mình nếu không thông minh, thì cũng một câu kinh nhưng bạn ta học dễ dàng còn mình thì như uống thuốc bắc, uống vào nhợn ra học hoài không thuộc, không nhớ cũng là một đại nạn. Thêm nữa, nếu ta lại là người cực kỳ thông minh, học đâu nhớ đấy thì sinh ra nạn kiêu ngạo và tự phụ trong tâm thức, không thể trông xa hơn, mở tầm nhìn rộng hơn nên đôi lúc đường tu bị đóng kín và ta không đi trọn được con đường.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vượt qua được chặng đường khó thứ hai của thân và tâm nầy là điều không đơn giản.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]5. Khó trên con đường tìm đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong đạo Phật, thưa đại chúng nếu không có điều kiện xuất gia trong đạo tràng thanh tịnh với một vị minh sư nhưng lòng rất ham tu, nên ta tìm đến một vị thầy nào đó ở dưới phố chợ để xin xuất gia. Chúng ta có thể tin được là mình có an bình và hạnh phúc trong cuộc sống tu hành?[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tôi xin lấy một ví dụ nếu chúng ta gặp và được thọ giới xuất xa với một thầy chuyên việc kinh doanh. Ông bày đủ thứ chuyện bán mua; làm tiền hợp lý bên ngoài, làm điều phi pháp ở trong đạo, tự nhiên tâm Bồ Đề của ta bị thui chột. Ta trở nên chán nản, thù ghét đạo và chán tu vô cùng. Nếu tâm bồ đề không thui chột thì ta theo thầy, chuyển hướng tâm Bồ Đề qua ngõ kinh doanh như ông, cũng ham tiền như ông thế là cuộc đời tìm đạo, tu hành của ta chấm dứt. Thứ nữa trên con đường tâm linh có muôn ngàn cánh cửa ngoa ngụy lường gạt hành giả từ bên ngoài cho đến bên trong tâm thức của chính mình. Một khi hạt giống bất thiện ấy đã gieo vào tâm thức, không những mất đi một đời mà còn tàn hoại nhiều đời không có cơ hội cho chúng ta hồi phục lại, lái được cuộc đời mình vào lại con đường ham tu. Khó khăn vô cùng trên con đường tìm đạo là như thế.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]6. Khó học hiểu và giải ngộ giáo lý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, giáo lý đạo Phật mênh mông như biển. Nếu lưu ý chúng ta sẽ thấy giáo lý ấy nhiều khi rất là mâu thuẫn. Tôi xin đơn cử một điều để thấy sự mâu thuẫn đó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trái tim của đạo Phật là giáo lý vô ngã, tức không hề có cái ngã trong hợp thể ngũ uẩn. Nhưng khi giáo lý Đạo Phật đi ngang qua thời gian, mở rộng qua các địa vực, và cần chuyển biến để tồn tại thì các nhà Phật học đã đẩy giáo lý vô ngã Nguyên thủy lên một tầng lý giải xem chừng mâu thuẫn như Chân tâm, Phật tánh, Bất Động trí, Tự thể Niết Bàn bất sinh... của Đại thừa viên giáo. Sau nầy Thiền Đốn ngộ Trung Hoa còn sinh ra những từ ngữ gợi hứng thú nhiều hơn như Bản Lai Diện Mục, Mặt Mũi thật của ta... Thế là từ giáo lý vô ngã được đẩy thành giáo lý Đại thừa, rồi quý thầy mạ vàng vô ngã thành Chân tâm, Phật tánh, Pháp thân, Niết Bàn thường trú... thì đâu còn vô ngã nữa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta vốn là Phật tử, tự thân giáo lý đạo Phật nếu không khéo học, không có trí tuệ để giản trạch, để tư duy thì rừng giáo lý tưởng như mâu thuẫn nầy sẽ làm cho chúng ta đi lạc vào lối biện thuyết, giải thích của tà giáo. Và điều tai họa hơn nữa là chúng ta thường học để thu thập kiến thức làm giàu cho kho tàng hiểu biết, trong khi con đường học để giải ngộ, hiểu giáo lý để tu là con đường quay về loại trừ tri thức, học thuật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Nếu chúng ta là người đã từng học Phật, kinh qua mười, hai mươi, ba mươi năm thì những kiến thức tích chứa, thu thập được hay tri thức đang có mặt là trí tuệ hữu sư và đó là những chướng ngại do vì tính cách hướng ngoại. Chúng ta tu học là phải hướng nội, quay trở về nhận ra được cái gì tỉnh sáng trong tự tâm chúng ta và sống với cái “nhận biết rỡ ràng” đâu phải dễ. Bởi vì chúng ta quen suy nghĩ, thần kinh não luôn luôn hoạt động hai mươi bốn trên hai mươi bốn, nếu bảo phải dừng lại những xao động nổi chìm... để tâm thức lặng yên điều nầy không thể được. Cho nên khó khăn vô cùng khi ta học hiểu giáo lý, khó khăn vô cùng khi ta giải ngộ giáo lý.

[/FONT]<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif][if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif][if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Vuot_Qua_Kho_Khan_01.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="1" showcontrols="1" height="100" width="425"></center>
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[FONT=Arial,Helvetica](tiếp)[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]7. Khó trên bước đường tu tập và hành trì.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Giải ngộ giáo lý là nhận ra được tự thể tâm vốn là Phật bản nhiên của ta. Tự thể tâm nầy có năng lực phản chiếu tỉnh sáng, ngay nơi đây và giờ phút nầy. Và chúng ta làm thế nào để sống được từng phút, từng giây trong cuộc sống; từng sát na không để cho tâm thức chạy về quá khứ để nhớ, chạy đến tương lai để lo toan, tính toán mà phải dừng lại an trú ngay nơi tâm Phật bản nhiên. Làm được điều nầy là chúng ta đang tu tập pháp môn mà Đức Phật đã triển khai trong niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp. Đây chính là con đường mang đến hạnh phúc, niềm vui chắc thật trong đời tu chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thế nhưng làm được điều nầy có dễ không ạ? Thưa đại chúng, tâm cứ chạy phía trước, lui phía sau và chúng ta cứ quên. Tâm không an trú nơi sự nhận biết mà luôn chạy đi xa và khởi lên biết bao nhiêu là ý nghĩ lao xao, trăm ngàn thêu dệt bồng bềnh tức chúng ta không an trú được ngay trong hiện tại, không thể mời được dòng chảy năng lượng chánh niệm tỉnh giác có mặt. Do vậy tu tập được là một việc khó vô cùng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi ta nghe vài bài pháp thoại, đọc một vài trang sách có thể giải ngộ đạo lý rất dễ dàng nhưng sống với năng lượng chánh niệm từng phút từng giây không phải dễ. Do vậy. Con đường dài thực tập với bao nhiêu phương tiện mở ra cho chúng ta những pháp học và pháp hành trong đạo Phật cũng chỉ để làm sáng tỏ một điều là quay về an trú trong năng lượng chánh niệm hiện tiền mà thôi.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thế nên, học hiểu sâu sắc trở thành một học giả đã khó, giải ngộ đạo lý sống động ngay trong chính thân tâm khó hơn, và càng khó hơn nữa là buông hết những sở đắc mới trở thành một hành giả thực sự.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]8. Khởi phương tiện độ sinh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Yếu tố căn bản để khởi phương tiện độ sinh là phẩm chất thực của sự tu học. Có thể có một thầy rất giỏi, nói được nhiều ngôn ngữ, trình bày rất là văn chương mạch lạc, ý tưởng rất sâu sắc nhưng tự thân không có phẩm chất của sự tu, không có năng lượng chánh niệm, không có năng lượng của định và tuệ làm nền, không biểu lộ được đức hạnh, đạo lực thế thì ngôn ngữ thầy ấy nói không đánh động vào trái tim người khác.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Những điều gì chúng ta hiểu qua sách vở, qua người khác mớm cho rồi đem trình bày lại thì cách trình bày đó không thể sáng tỏ được. Những gì mà mình thực sự lặn vào, tiêu hóa, tinh lọc thành chính máu thịt tự thân rồi truyền đạt lại người khác thì mới sáng tỏ và thực sự cống hiến được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên để có phương tiện độ sinh đòi hỏi một số điều kiện rất quan trọng. Điều kiện đầu tiên là chúng ta phải có khả năng diễn đạt điều mình muốn nói. Có những điều mình hiểu hoặc cảm mà không thể diễn đạt cho người ta hiểu được. Ví dụ như khi nhìn cảnh mặt trời lặn, cảm được cái đẹp nhưng trong tôi không nhiều chữ nghĩa nên không làm sao có thể nói được cái đẹp của buổi hoàng hôn cho người khác cảm nhận.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong cuộc sống đời thường, những việc như nấu ăn, làm lặt vặt... là điều dễ vậy mà đôi khi chúng ta phải vất vả, phải khó khăn lắm mới làm được một bữa cơm ngon. Thế thì họa một bức tranh, tạo một tác phẩm điêu khắc, biểu diễn một khúc nhạc là những loại hình nghệ thuật đòi hỏi nơi tâm hồn người ấy một niềm đam mê lẫn cả trí tuệ. Và nhiều điều kiện phối hợp mới làm nên một tác phẩm nghệ thuật sáng giá chứ không đơn giản là chúng ta chỉ cần bàn tay khéo là đủ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hơn nữa, trong đời người tu việc truyền đạt, dạy đạo lý giúp người ta chuyển hóa tâm thức là một nghệ thuật cao nhất trong tất cả loại nghệ thuật, nên khó vô cùng. Ví như trong một buổi pháp thoại đâu có phải mình học thuộc lòng giáo lý là chia xẻ được. Nhiều lúc chúng ta soạn bài rất kỷ nhưng khi lên giảng mình quên, có khi cách trình bày của mình tuy rõ ràng nhưng âm sắc trầm trầm dễ làm cho người ta chìm vào giấc ngủ. Nếu khi thính chúng của mình thuộc thành phần có những yêu cầu rất thực tế trong đời thường mà chúng ta lại nói chuyện sao Hỏa, sao Kim... xử dụng ngôn ngữ hàn lâm thì chúng ta không truyền đạt được. Ngược lại, thính chúng của mình là những nhà khoa học, những nhà tâm lý trị liệu, những người ở trình độ tri thức cao mà cách trình bày của chúng ta là cách trình bày cho những người nhà quê thì cũng thất bại. Và để đạt được hứng thú, cảm thông được giữa mình và người nghe chúng ta phải nhìn rõ căn cơ của người đối diện để chia xẻ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường độ sinh mở ra cho ta nhiều phương tiện, nhiều lãnh vực; từ lãnh vực củng cố, phát triển bên trong của tự thân đạo Phật đến các hướng mở vào đời như giáo dục, y tế, xã hội, văn hóa, học thuật...Và khởi được những phương tiện có nghĩa là chúng ta phải có trí tuệ, tài năng, có nhiệt tình và tâm Bồ Tát mênh mông, bao la mới có thể khởi phương tiện độ sinh được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, hai mươi điều khó khăn Phật nêu ra cho người tu trong chương mười hai của Kinh Bốn Mươi Hai Chương mà chúng ta vừa học qua là con đường dài thử thách không đơn giản mà người tu muốn tiến đạo phải vượt qua.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tuy nhiên, trong văn học Phật giáo Đại thừa có chia ra tám điều khó tức tám khổ nạn mà từ ngữ Phật học quen thuộc chúng ta thường biết là “Tam Đồ Bát Nạn.” Tam Đồ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh tức ba con đường khổ. Bát nạn là tám khổ nạn: Khó gặp Phật xuất thế, khó nghe được chánh pháp, khó phát khởi tâm lành, khó sanh vào vùng văn hóa, khó sanh được ở nhân gian, khó làm được con người toàn vẹn, nạn khổ của thế trí biện thông và sanh vào thời không có Phật Pháp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]9. Khó gặp Phật xuất thế.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở đây còn có nghĩa là khó gặp được những bậc đạo sư lớn có năng lực truyền đạt chánh pháp. Như chúng ta biết trên hành tinh nầy đang hiện diện rất nhiều tôn giáo; có những tôn giáo họ vận dụng mọi phương tiện muốn tín đồ đến với đạo là để tổ chức cho thế lực tôn giáo đó lớn mạnh hầu ảnh hưởng đến xã hội, đến chính trị. Đồng thời có những tôn giáo đặc biệt khi chúng ta đến với sinh hoạt của họ thì họ trao cho ta sự thực tập để quay trở lại tự thân khám phá được tuệ giác nơi chính mình, tự làm cho đời sống của mình được giải thoát, an lạc. Họ khước từ tính cách tổ chức tôn giáo và họ cũng không đặt nặng hình thức sinh hoạt bên ngoài. Chúng ta khó tìm được tôn giáo hay bậc thầy đem đến cho tín đồ, cho con người sự tự tin và tự lập như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tâm thức chúng ta có thói quen là biếng lười, ỷ lại. Lúc nhỏ thì ỷ lại vào đời sống gia đình, người thân. Khi có gia đình thì nương vào người bạn đường vì thấy họ là chỗ tựa. Tâm thức nầy theo chúng ta đi vào lãnh vực tâm linh, rồi chúng ta đến với tôn giáo để mong nương tựa vào thế lực của thần linh, nương tựa vào giáo chủ nên hầu hết tôn giáo đều khai thác, lợi dụng điều nầy để thao túng con người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Cho nên tìm đến được một tôn giáo trao cho chúng ta quyền tự quyết chính cuộc đời mình, một tôn giáo nói được rằng cuộc đời của anh do chính anh làm chủ. Anh là Thượng Đế sáng tạo đời sống hạnh phúc hay khổ đau cho chính anh, anh là giáo chủ của anh, anh là vị thầy của chính mình. Anh là Thánh nhân, hay tâm thức tuột xuống làm loài động vật thì cũng do chính anh làm nên, không một vị thần linh hay đấng sáng thế nào có thể giúp anh được; tôn giáo đó rất khó kiếm trên cuộc đời. Vì vậy, gặp được một vị giáo chủ, một bậc giác ngộ hay gặp con đường chánh pháp để thực tập rất là khó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]10. Khó nghe chánh pháp.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người đời thường chỉ thích nghe những gì hợp với tai mình. Tâm thức ta thường có định kiến sẵn khi nghe một vấn đề gì. Ví như từ nhỏ chúng ta đã được nuôi dưỡng trong môi trường của một tôn giáo nào đó, lớn lên chắc chắn tình cảm của ta sẽ gắn chặt với tôn giáo mình đã theo từ nhỏ. Bây giờ nếu đến với những tôn giáo xa lạ, có những điều rất khác với những gì đã được huân tập, đã ảnh hưởng và nuôi dưỡng đời sống tình cảm, tri thức ta từ nhỏ tức khắc tự bên trong tâm thức mình có khuynh hướng đẩy ra tất cả những nguồn tuệ giác mà đúng ra chúng ta có thể tiếp thu. Đó là những điều kiện khó từ bên trong.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Những khó khăn từ bên ngoài chẳng hạn như giáo lý tu tập. Tuệ giác của đạo Phật ở tầng mức cao, không thể hạ xuống thấp cho bằng trình độ, tình cảm của chúng ta mà chúng ta phải vươn lên, nâng tâm thức lên để bắt kịp chân lý chứ chân lý không thể nào hạ thấp xuống.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta khó nghe chánh pháp là từ các yếu tố nội tại và ngoại tại như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]11. Khó phát khởi thiện tâm.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tập nghiệp chúng ta ở tầng cạn phát khởi giận hờn, ganh tị, tham đắm rất là dễ nhưng phát khởi tâm lành, tùy thuận việc lành của người rất là khó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở phần sâu sắc hơn khi ta muốn phát khởi tâm tu, mỗi một ngày làm sao cho thân tâm ngày càng phát triển theo chiều hướng hiền thiện thì không dễ như khi gắn niềm tin vào một vị thần linh. Ví dụ lúc đi thiền hành ta cố thực tập để mỗi bước chân đặt đến đâu tâm theo bước chân in dấu đến đấy thì rất khó chứ để tâm chạy Đông, chạy Tây rong chơi rất là dễ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Khi chúng ta thực tập làm thế nào để tâm luôn ở nơi thân, ý thức sáng tỏ từng động dụng nhỏ nhoi của thân, là bước đầu rất cạn của thiền tập. Bước nền tảng nầy được xây dựng không phải chỉ ở nơi người mới tu mà ngay với các bậc thầy, các vị thiền sư lớn cũng chỉ làm một việc nầy, thế nhưng không phải dễ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Các vị thiền sư từng làm những việc rất đơn giản như gánh nước, bổ củi, nấu cơm... trong những sinh hoạt hàng ngày các vị đều an trú trong Thiền có nghĩa là thân ở đâu thì tâm ở đó. Làm được điều nầy là đã kiểm soát được thân của mình từng phút từng giây. Thân là vật lý có thể sờ được, có thể cân đong, đo đếm được mà chúng ta không làm chủ được thì làm sao ta có khả năng làm chủ được những vui buồn của mình. Vui, buồn chúng ta chưa thể nhìn được nó, không làm chủ được nó thì vào sâu hơn tầng vui buồn là những suy nghĩ lầm thầm xao động, bất an ta càng không làm chủ được.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Vì vậy, điều khó phát khởi thiện tâm bước đầu là tùy thuận việc lành của người khác. Cái khó ở tầng cao hơn trong sinh hoạt thực tập là chúng ta làm cho năng lượng thực tập kéo dài liên tục suốt ngày đêm, làm chủ được thân tâm mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]12. Khó sinh vào vùng văn hóa.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trên đất nước nầy, nền văn minh tuy được trải đều trên năm mươi tiểu bang nhưng nếu có dịp đi vào những vùng xa, miền đồng quê chúng ta vẫn thấy những thôn xóm nghèo khổ, có những người vẫn gặp khó khăn trong đời sống vật chất lẫn tinh thần.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở nơi đó những thông tin đại chúng như báo chí, những thông tin để tiếp cận được học thuật, văn hóa... rất hiếm, nên người ta không thể tiếp xúc được với ánh sáng văn minh, chưa thể tiếp cận được với nền văn hóa hiện đại để nuôi dưỡng đời sống tinh thần. Và chắc chắn tôn giáo không có cơ hội phát triển ở những nơi như thế nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta sinh trưởng trong vùng đất với những điều kiện đó thì chỉ biết tranh chấp nhau từng chuyện nhỏ như tiền bạc, ăn uống... sẽ dễ sanh trưởng ác nghiệp sâu dày và đời sống chúng ta gắn chặt với hình hài vật lý nên khó có điều kiện tiếp xúc được với ánh sáng chánh pháp khi ở trong những vùng quá hẻo lánh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta may mắn nếu được sinh ra ở trong những trung tâm văn hóa, tiếp cận được nền văn minh lớn mới có điều kiện để phát triển tri thức nâng đời sống tâm linh lên cao.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]13. Khó sinh ở nhân gian.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Người được sinh ra ở cõi Trời tuy phước lớn nhưng không phải thuận lợi cho sự phát triển tâm linh. Ở những nơi cực kỳ sung sướng về điều kiện vật chất thì chúng ta khó có điều kiện tiếp xúc với nỗi khổ để phát đại tâm vượt thoát tử sinh, khó có điều kiện giác ngộ. Kinh Tăng nhất A hàm có một câu: “Chư Phật giai xuất nhân gian, chung bất tại thiên thượng thành Phật quả.” “Các Đức Thế Tôn đều chứng quả giác ngộ tại nhân gian. Chưa hề có vị nào thành đạo nơi Thiên giới cả.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, cùng sinh ra trong nhân gian nhưng nếu được ở những nơi chốn quá sung sướng chúng ta đừng nghĩ rằng mình may mắn vì có điều kiện tiếp xúc với giáo lý đạo Phật. Có thể sống trong môi trường mà điều kiện vật chất quá đầy đủ, giàu có làm cho chúng ta chìm ngập trong lợi danh vật chất, khó đẩy mạnh tâm thức ham tu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tiếp xúc với khổ nghèo, thiếu thốn có thể làm chúng ta lo lắng, sợ hãi nhưng đôi khi là điều kiện để ta phát khởi tâm vượt thoát thân phận phàm phu. Tiếp xúc sâu sắc được với đau khổ, nghèo khó thì Bồ Đề tâm của chúng ta dễ phát khởi, trưởng thành.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]14. Khó có được thân người toàn vẹn. [/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thân người toàn vẹn là con người đầy đủ, không khiếm khuyết một chi phần nào trong thân thể. Nếu trong sáu giác quan mà chúng ta bị khiếm thị, hoặc khả năng nghe của chúng ta kém hay một bộ phận nào trong cơ thể bị khuyết tật; đó là những điều kiện khó cho ta tu tập, do vì thân sinh lý bất toàn nên tâm tư, tình cảm cũng sẽ bị ảnh hưởng mất quân bình theo. Vì vậy, có được một hình hài, một thân thể toàn vẹn, lục căn hoàn cụ là một phước điền rất lớn của con người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]15. Trí thức, thông minh có thể trở ngại cho sự tu tập.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều đặc biệt ở những con người rất thông minh, trí thức rất dày đôi khi lại là điều kiện trở ngại khó đến với đạo[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có những hạng người thông minh, trí thức đi đến với đạo rất dễ. Tâm thức họ mở rộng, khiêm tốn và họ có nền tảng đạo đức nên bước thảnh thơi vào con đường tu tập. Đồng thời cũng có những người tuy rất thông minh, rất trí thức nhưng lại rất kiêu ngạo. Đầu óc họ cố chấp nhỏ hẹp, bít kín bởi sở học nên không bao giờ mở cánh cửa tâm để đón nhận những gì khác. Chúng ta gọi đó là chướng nạn của sự học đạo.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]16. Sanh Phật tiền, Phật hậu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sanh trước khi Phật có mặt, giáo lý Đức Thế Tôn có mặt hay là sanh sau khi Đức Thế Tôn và giáo lý của Ngài khuất bóng trên hành tinh nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta có ham tu học, có mơ ước đời sống tâm linh cũng không thể tìm đâu ra khi chúng ta sanh trước khi có Phật hoặc sau khi có Phật. Có những chu kỳ trên hành tinh nầy, những bậc giác ngộ đã xuất hiện, và cũng có những chu kỳ không có bóng dáng một vị Đạo sư nào xuất hiện.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trên đất nước Hoa Kỳ nầy, cách đây gần hai trăm năm chưa hề có bóng dáng Phật giáo, chỉ có Ki Tô giáo được người da trắng từ Châu Âu mang đến. Và từ thế kỷ mười chín Phật giáo mới từng bước đi vào nơi đây.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tám điều khó trong văn học kinh điển Phật giáo Đại Thừa triển khai mà tôi cùng quí vị vừa đi lướt qua đã cho chúng ta cảm nhận được phần nào ba con đường khổ và tám nạn của con người trên cuộc đời nầy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]Phần thứ hai.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, hôm nay chúng ta đi vào hai mươi điều khó trong Kinh Bốn Mươi Hai Chương. Đức Phật dạy: “Nghèo bố thí khó. Giàu học đạo khó. Thấy được kinh Phật khó. Bỏ thân mạng học đạo khó.”... Gồm có hai mươi đều khó như sau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]1. Nghèo bố thí khó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thông thường khi nghèo sự phát tâm bố thí rất là khó. Tâm thức và hoàn cảnh thường đi đôi với nhau. Một khi tâm thức chúng ta hẹp hòi, nhỏ mọn chỉ biết nghĩ đến mình và không mở lòng thương yêu để nhìn người khác thì từ tâm thức đó sẽ chiêu cảm hoàn cảnh khó nghèo của mình. Hai điều nầy sẽ luôn tương ứng với nhau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Những người giàu, đôi khi họ giàu không phải vì tài ba, không vì may mắn mà do vì tâm thức của họ rộng mở. Tuy họ làm những công việc nhẹ nhàng, bình thường nhưng tiền lại vào rất dễ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Giàu sang, địa vị, danh vọng và thông minh hay đi liền với nhau và những điều nầy đặt căn bản trên tâm thức chứ không hoàn toàn tùy thuộc vào điều kiện bên ngoài. Người có tâm hiền thiện, lòng yêu thương luôn rộng mở, độ lượng và bao dung thì đời sống vật chất của họ theo điều kiện tâm thức mà được nâng cao.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nên đôi khi chúng ta thấy làm lạ là hình như công chúa, hoàng tử ai cũng xinh đẹp còn mình sao không được như họ. Thưa, vì phước báu của họ đã từng gieo rất nhiều đời nên khi họ sinh ra là trong cung vàng, điện ngọc. Sự giàu sang và nhan sắc của họ cũng theo điều kiện phước nghiệp mà thể hiện. Tất
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]cả đều đặt căn bản từ bên trong tâm thức.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tâm ta chuyển thì hoàn cảnh chuyển. Tỉ dụ nếu ta sinh ra trong cảnh giàu có, nhưng vì lý do gì đó mà tâm ta hẹp hòi, keo kiệt, cô cứng trong ganh tị, thù hằn tức khắc trong hiện đời tuy sống trong nhung lụa nhưng hình hài cũng theo tâm thức mà thay đổi theo. Những ưu sầu, khổ não, khó chịu có mặt trên dung mạo và nếu điều nầy kéo dài, hoàn cảnh bên ngoài từ đó cũng dần dần suy sụp, đổi thay theo. Chúng ta lưu ý nghèo bố thí khó là như thế.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tuy nhiên nếu chúng ta ở trong hoàn cảnh nghèo, khó khăn nhưng biết phát khởi tâm lành, thương yêu và biết giúp người khổ hơn mình thì giá trị không phải ở vật chất nhiều ít mà giá trị có được là từ tâm thức từ bi rộng mở của chúng ta.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong kinh có câu chuyện: Một thí chủ cúng dường lên Đức Thế Tôn một bát cơm. Ngay lúc ấy có con chó đói đi ngang qua, Đức Phật liền sớt ra phân nửa cho con chó, còn một nửa Ngài dùng. Sau đó Ngài hỏi Xá Lợi Phất: “Ông nói thử xem vị thí chủ cúng dường cho ta phước nhiều hơn hay ta cho con chó kia ăn phước nhiều hơn?” Đúng theo nguyên tắc của Kinh Bốn Mươi Hai Chương khi bố thí là nhân cấp, tức “cho một nghìn người ác ăn không bằng cho một người thiện ăn. Cho một vạn người thiện ăn không bằng cho một người thọ ngũ giới ăn.”, nhưng Đức Thế Tôn hỏi câu nầy rất ngược vì người kia cúng dường Ngài là cúng dường vị Phật, Ngài xớt thức ăn cho con chó là loài súc sinh thì hai việc nầy điều nào phước nhiều và điều nào phước ít? Ngài Xá Lợi Phất rất thông minh nên đã trả lời Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, Ngài cho con chó ăn phước vô lượng, còn vị thí chủ kia cúng dường cho Đức Thế Tôn phước không bao nhiêu cả.” Phật hỏi: “Tại sao.” “Bạch Đức Thế Tôn, vị thí chủ kia cúng dường cho Ngài bằng cái tâm của con người có mong cầu, tâm lượng của họ là tâm lượng của một chúng sanh. Đức Thế Tôn tuy cho loài động vật ăn, tâm lượng Ngài là tâm lượng của một vị Phật, bao la bát ngát như không gian không bờ mé, nên phước cũng vô lượng.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Từ chuyện nầy, cho chúng ta biết được một điều là mọi việc đều ước định, đặt căn bản trên tâm thức. Tâm của mình rộng, mênh mông thì việc làm của mình dù nhỏ cũng thành lớn. Tâm của mình nhỏ hẹp, ích kỷ thì dù chúng ta có làm việc to lớn, vĩ đại kết quả của nó cũng hẹp như tâm thức của mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]2. Giàu học đạo khó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta thường nghĩ giàu có là điều kiện tốt lành nhất trong cuộc đời.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nho giáo có câu “Địa du cố, mộc du kiên”: “Đất càng sỏi đá, càng khô không màu mỡ thì cây càng cứng;” để ví với những người sinh ra trong điều kiện khó khăn, cực khổ nhưng tự mình vươn lên để thành đạt là những con người rất rắn rỏi. Tuy nhiên, không hẳn như thế bởi chúng ta không có điều kiện vật chất tạm đủ thì không thể phát triển để học hành tới nơi, tới chốn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta thông minh, ham học nhưng sinh trưởng nơi chốn bùn lầy, nước đọng và chưa bao giờ có điều kiện bước ra khỏi quê hương lầm than, chưa có cơ hội lên tới tỉnh thành thì không thể học hành được. Sự phát triển nếu có chỉ chừng mức nào đó mà thôi, dù có muốn vươn lên, phấn đấu cực khổ rồi cũng đến chỗ phải dừng lại. Sự giàu có cho ta vô vàn thuận lợi để làm mọi việc, từ học hành, việc làm, tranh đoạt lợi danh... Cho nên muốn phát triển về phương diện trí thức, đạt đến chiều cao của học thuật cần có điều kiện vật chất bên ngoài hỗ trợ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Và muốn bước vào trong đạo tu tập cũng rất dễ nếu chúng ta phát tâm tu. Với nền tảng phước hữu lậu lớn, vững vàng cùng với điều kiện tri thức căn bản thì bước vào đạo chúng ta tu học rất là nhanh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nếu chúng ta không có một căn bản tri thức làm nền tảng hoặc học hành chưa tới đâu, khi vào đạo ta mày mò từng chữ một, tập tè bò dưới thấp rất là cực trong lúc người ta đã vươn tới trời xanh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhưng tại sao giàu có học đạo khó? Sở dĩ giàu có học đạo khó là bởi khi đã giàu có và thành đạt thì niềm đam mê vật chất như một chất keo bám cứng vào đời sống chúng ta. Chúng ta chỉ thích đếm tiền bỏ vào túi, và có khi cả một đời mình chỉ biết lo làm sao có thật nhiều tiền, nên không còn thì giờ để làm điều gì khác hơn nữa. Ta luôn bận rộn trong đời sống lo làm giàu, còn thì giờ đâu để học đạo nên Đức Phật gọi giàu học đạo khó là như thế.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Nhìn ra ngoài xã hội chúng ta thấy những quốc gia nghèo khó nếu muốn phát triển vững mạnh về kinh tế và tài chánh cũng cực khổ vô cùng.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Điều đầu tiên của những quốc gia nghèo đói, chậm phát triển khi muốn làm giàu thì mọi khả năng của quốc gia chỉ dồn vào một việc là làm giàu nên họ không ngần ngại tàn phá tài nguyên thiên nhiên cũng như tài sản quốc gia nếu cần.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Bước kế tiếp, những gì nếu đưa đến lợi nhuận họ đều ra tay giành giật không cần suy nghĩ cho dù điều ấy có phá vỡ nền tảng đạo đức xã hội. Và những gì không đưa đến trực tiếp lợi nhuận to lớn thì họ không đầu tư.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có những quốc gia được xếp hạng nghèo đói, chậm tiến đang cần làm giàu; nên người có năng lực và uy quyền chỉ muốn phát triển, đầu tư vào những lãnh vực lợi nhuận kiểu trước mắt mà không nghĩ đến điều quan trọng là đào tạo con người trong tương lai có đầy đủ phẩm chất đạo đức và trí tuệ để lãnh đạo, để đưa đất nước đi lên theo hướng phát triển lâu dài và nhân bản.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thêm vào đó, mọi người đều đua nhau vào việc kinh doanh làm giàu, không đầu tư năng lượng cho thế hệ tương lai, tuy đẩy được sự phát triển xã hội nhưng giá trị hạnh phúc đời sống bị phá hủy bởi nền giáo dục thiếu đạo đức. Họ thẳng tay tàn phá môi trường, tàn phá di sản của đất nước, của tổ tiên tiền nhân để lại như văn hóa, nghệ thuật... Cho nên từ nghèo khổ muốn làm giàu đưa đến sự phá sản của một quốc gia, và cũng từ nghèo khó quá, muốn làm giàu đưa đến sự phá sản nền tảng đạo đức nơi một con người. Thế nên, nếu con người ở trong một hoàn cảnh nghèo khó, không có điều kiện tiếp xúc với ánh sáng văn minh, thiếu điều kiện giáo dục tốt lành, cũng không hiểu biết giáo pháp giác ngộ để củng cố sự thực tập chắc chắn sẽ đưa đến sự tha hóa đạo đức.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Giàu học đạo khó và ham làm giàu học đạo cũng khó là như vậy.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]3. Thấy được kinh Phật là khó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, tôi được nghe kể lại câu chuyện: Trong giờ lên lớp của một giáo sư người Anh phụ trách chương trình Phật học tại Đại học Naropa của Tây Tạng ở thành phố Denver tiểu bang Colorado. Khi thấy những sinh viên để cuốn kinh Phật dưới sàn thì cô không bằng lòng, và cô nói một câu rất nhẹ nhàng: “Đành rằng giá trị của quyển sách nầy có thể mua bằng vài chục đồng, nhưng đặc biệt trong cuốn sách chứa đựng những lời đầy tuệ giác của một bậc đại giác ngộ. Những lời mà quí vị đọc, học và thấm nhuần có thể giúp quí vị sạch hết phiền não, khổ đau. Xa hơn nữa là cứu quí vị ra khỏi cuộc đời nổi chìm trong luân hồi sinh tử.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa, lời nói của vị giáo sư kia, hay đôi khi lời nói của người bạn nếu đến đúng lúc, đúng thời, đúng tâm trạng có thể chuyển hóa được đời sống của chúng ta, làm cho chúng ta nhớ suốt đời. Nhưng những lời như thế rất là hiếm, không phải lúc nào chúng ta cũng được nghe. Và từ những nhọc nhằn, khúc khuỷu ghềnh thác trên suốt đường đời, chúng ta đã từng gặp những lời khuyên nhủ của người thân, của bạn bè và hơn hết trong đạo là những lời dạy của Đức Phật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trên tất cả ngôn ngữ của trần gian, ngôn ngữ của Đức Thế Tôn được tuôn chảy ra từ trái tim, từ sự giác ngộ. Những lời nói đó không mang đặc tính tôn giáo gì cả mà lại mang tính chân lý rất phổ biến trong nhân gian.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Lời dạy của Ngài giúp cho mọi người nếu thực tập thì có thể tự chuyển hóa đời sống của mình, làm cho đời mình an lạc và hạnh phúc. Hạnh phúc ở tầng cạn là đời sống gia đình, hạnh phúc ở tầng cao hơn là trong đời sống xã hội, và hạnh phúc ở tầng cao hơn nữa là nâng đời sống tâm linh lên đỉnh cao cuối cùng hoàn thiện một kiếp người.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có những người có thể có ngàn vạn cuốn sách, nhưng đôi khi gặp kinh Phật họ dị ứng vô cùng, không muốn đọc. Hơn nữa, nơi đây tất cả kinh sách Phật giáo bằng tiếng Anh chỉ mới xuất hiện trong thời gian gần nên có người còn chưa có cơ hội đọc được một trang kinh Phật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ngay trong thời Đức Phật còn tại thế, lúc Ngài đi giáo hóa đã có người từng gặp Phật, thế mà họ vẫn quay lưng lại đi chỗ khác. Cho nên, đôi lúc chúng ta đã trực tiếp đối diện và tiếp xúc với giáo lý giác ngộ qua lời dạy của Đức Phật, qua những trang kinh khơi mở trí tuệ cho ta nhưng chúng ta rất là dị ứng, không muốn đọc, không muốn nghe. Và những điều nầy dễ có mặt trong ta. Do vậy cái khó thứ ba gặp được kinh Phật là như thế.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]4. Bỏ thân mạng học đạo khó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, như chúng ta đã biết, trái tim giáo lý đạo Phật là Vô ngã, nhưng sinh ra trong cuộc đời hầu như tất cả mọi sinh linh đều đi ngang qua bao nhiêu kiếp cực khổ vô cùng cũng để bồi đắp, nuôi dưỡng bản ngã càng ngày càng lớn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta thường hay có niềm tự hào, kiêu ngạo về cái ngã của mình, bây giờ vào trong đạo Phật, đến với sự tu tập để gột rửa, lột bỏ tất cả những cái gọi là bản ngã, cái Ta và sở hữu của ta, chúng ta không chấp nhận và rất sợ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hình ảnh bà già ăn xin khi gặp Đức Thế Tôn đi giáo hóa trên lưu vực sông Hằng bỏ chạy, trốn Phật trong nhiều năm vì bà ghét, sợ Phật vô cùng; đó chính là chúng ta. Khi nghe Đức Phật xuất hiện rất mừng, nhưng khi gặp Đức Thế Tôn thì quay lưng lại đi chỗ khác. Chúng ta cũng vậy, tự bên trong rất muốn đến với đạo để tu tập, có niềm thôi thúc đến với sự giác ngộ nhưng bản ngã ta chống lại, chối từ.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở mức độ cạn, bình thường của sự thực tập thì còn khởi phát những đam mê, nhưng khi vào sâu giáo lý chúng ta rất hoang mang vì được dạy mình không là gì cả. Đạo Phật nói rằng tự thân anh không có gì là của anh, là anh cả. Không có cái gọi là ta ở trong đó và điều nầy chúng ta có thể hình dung được qua ví dụ một con người đắp bằng muối đứng trầm tư trên bãi biển tự hỏi Ta là ai? Ta từ đâu tới? Khi hình hài nầy mất Ta về đâu? Nếu có một vị thầy bên cạnh bảo: “Anh hãy thò chân anh xuống nước, đi vào biển anh sẽ biết được anh từ đâu sinh ra và anh đi về đâu?”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con người muối kia với lòng hiếu kỳ, muốn khám phá ra mình là ai ngập ngừng nhúng một chân xuống biển, nước biển liếm mất bàn chân. Hoảng sợ, nó chạy lên bờ và nói: “Thế thì tôi đâu còn là tôi nữa?” Nhưng niềm thôi thúc tha thiết trong tâm thức bừng dậy đẩy nó làm cho nó muốn biết nó là ai, sẽ về đâu sau khi chết, nó bèn nhảy ào xuống biển, lội ra ngoài. Chắc chắn khi đó nó biết nó là ai và đi về đâu. Nó đã biết mình từ nước biển hình thành và trở về với nước biển.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta cũng thế, đến với giáo lý giác ngộ nếu chúng ta có niềm đam mê, yêu đạo, khát khao tu tập và tu tập giỏi thì chúng ta sẽ hòa tan, biến mất trong biển giác ngộ mênh mông. Từ đó chúng ta sẽ nhận ra được ta không phải là hình hài vật lý nầy mà là khả năng nhận biết tỉnh sáng, rỡ ràng chưa từng sinh cho nên chưa từng diệt. Nó vốn theo ta qua ngàn vạn kiếp tử sinh mà chưa hề bị tử sinh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa quí vị, điểm cuối cùng của đạo Phật là luôn sống trong thể viên mãn nhận biết như vậy gọi là người sống liên tục trong chánh niệm, có được tuệ giác. Lúc bấy giờ chúng ta sống trong ánh sáng giác ngộ. Giác ngộ và mê lầm chỉ cách nhau đường tơ kẽ tóc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Con đường tu chỉ cần chúng ta khởi phát sự đam mê, khéo thực tập tức khắc hoa trái của sự thực tập tặng cho ta ngay trong từng bước chân, từng hơi thở. Ngay trong hiện đời sống giữa trần gian xôn xao chúng ta vẫn là người giải thoát và an lạc.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
Cuối cùng, thưa đại chúng! Hai mươi điều khó của chương Kinh mười hai chúng ta vẫn chưa khai triển hết. Mong rằng các vị mang lời dạy của Đức Thế tôn vào trái tim mình để tự chiêm nghiệm và khéo vượt qua những thác ghềnh nầy.

[/FONT]<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif][if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif][if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--> <center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://newlifecreditservices.com/phapam/Kinh_42_Chuong/Vuot_Qua_Kho_Khan_02.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="1" showcontrols="1" height="100" width="425"></center>

[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w<img src="http://www.diendanphatphap.com/diendan/images/smilies/biggrin.gif" border="0" alt="" title="Big Grin" smilieid="3" class="inlineimg" />ontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif][if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif][if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
<center>[FONT=Arial,Helvetica][SIZE=-1]CHƯƠNG XIII[/SIZE][/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]TỊNH TÂM THỦ CHÍ
HT.Thích Phước Tịnh_Thuyết Giảng

[/FONT]</center> [FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng,[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hôm nay chúng ta sẽ đi vào chương mười ba với đoạn Kinh ngắn mang tên Tịnh Tâm Thủ Chí.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]A. CHÁNH VĂN.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Sa Môn vấn Phật: “Dĩ hà nhân duyên đắc tri túc mạng, hội kỳ chí đạo?”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Phật ngôn: “Tịnh tâm thủ chí khả hội chí đạo. Thí như ma kính, cấu khử minh tồn, đoạn dục vô cầu, đương đắc túc mạng.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có một vị Sa môn hỏi Phật: “Do nguyên nhân gì mà biết được đời trước và đạt được sự cao tột của Đạo?”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đức Phật dạy: “Đoạn trừ tham dục, lòng không mong cầu thì sẽ có khả năng biết được đời trước. Thanh tịnh tâm tư, giữ vững ý chí thì có thể đạt được chỗ cao tột của Đạo, như lau gương hết bụi thì ánh sáng hiển lộ.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]B. ĐẠI Ý.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đoạn Kinh nầy Đức Phật dạy người biết giữ lòng trong sạch, không còn tham đắm mong cầu, thì thể hội Đạo đắc được túc mạng. Chứng được Túc mạng minh tức biết được mạng sống trong nhiều kiếp về trước.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]

[FONT=Arial,Helvetica]C. NỘI DUNG.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]1. Tam Minh tự hữu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Ở đây, chữ “túc mạng” được dịch: “Biết được đời trước” không lột được hết nghĩa để chúng ta có thể hiểu rõ từ “túc mạng” nầy. Túc mạng cũng được gọi là Túc mạng minh hay Túc mạng thông. Đây là một trong những thần thông mà Đức Thế Tôn chứng được sau khi thành đạo. Ngoài ra còn có một thần thông nữa là Thiên nhãn thông và một thần thông đặc biệt là Lậu tận thông. Lậu tận thông hay Lậu tận minh đều có cùng một nghĩa giống nhau.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Văn học Phật giáo giải thích có ba thứ minh và sáu thần thông. (Tam minh và lục thông.) Nhưng ở chương Kinh nầy, chúng ta sẽ học vào ba thứ minh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Hai câu hỏi từ vị Sa môn: “Do nhân duyên gì mà đắc được Túc mạng minh và hội kỳ chí Đạo.” cũng có nghĩa là đạt đến lậu tận thông.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Túc mạng minh là thần thông có năng lực thấy suốt nhiều kiếp quá khứ của chính mình và của tất cả chúng sinh. Và với tuệ giác Đức Thế Tôn khi cần Ngài có thể nhìn thấy được căn cơ, nghiệp thức của chúng sinh đã trải qua bao nhiêu kiếp, gây thiện nghiệp gì và ác nghiệp gì, đã từng sinh ra nơi đâu mà hiện thời lại có mặt nơi nầy. Thiện căn của họ nhiều hay ít, trong tương lai bao nhiêu kiếp nữa thì họ có thể thành tựu Niết Bàn.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thấy cùng tột như vậy nơi chính mình và người gọi là chứng Túc mạng minh. Khi nói đến Túc mạng minh nầy có thể khó tin. Chúng ta nghĩ làm thế nào mà người thường lại có khả năng nhìn thấu suốt được vô số kiếp về trước, vô số kiếp về sau của người và của chính mình. Nhưng với ví dụ nhỏ, đơn giản sau đây sẽ cho chúng ta thấy thứ thần thông nầy không có gì đáng nghi ngờ, không có gì là khó hiểu cả: trong cuộc sống có những lúc mà tâm thức ta lặng yên, nếu cần nhớ đến quá khứ của tuổi mười, mười lăm chúng ta nhớ rất dễ. Nhưng nếu chúng ta luôn bận rộn, luôn sống trong lo âu, lăng xăng, bất an, xao động mà muốn tìm về quá khứ thời ấu thơ thì hình ảnh cũ nhạt nhòa không cách gì ta nhớ nổi. Từ điều nầy quí vị có thể tin chắc là khi tâm thức ta yên lắng đến một mức độ nào đó thì chúng ta có khả năng nhìn thấy được chính mình và người không phải khó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng, đời sống con người ghi dấu trên dung mạo, trên tâm thức không bao giờ bị mất. Vật chất tán ra sẽ thành năng lượng, và năng lượng kết tụ lại thành vật chất. Thế nên những vận động tư duy của con người là một dạng năng lượng tác động vào không gian sẽ không bao giờ mất cả. Những việc ta làm, những điều ta nói, những gì ta suy nghĩ đều ảnh hưởng vào môi trường chung quanh và quan trọng nhất là ghi lại dấu ấn rất đậm trong chính mình. Nếu có một chút sâu sắc trong kinh nghiệm tu tập, quí vị có thể nhận ra người kia đang tu giỏi hay không, có thực tập an trú trong chánh niệm hay không.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chỉ ở mức độ cạn mà chúng ta có thể kiểm nhận được dễ dàng, huống hồ với tuệ giác sáng ngời của Đức Thế Tôn thì Ngài thấy được quá khứ, vị lai, hiện tiền, kiếp luân hồi là chuyện hẳn nhiên. Cho nên thần thông đầu tiên là Túc mạng minh không có gì khó tin, khó hiểu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong mỗi con người chúng ta có đến mười ba tỉ tế bào thần kinh não, nhưng một người cho dù cực kỳ thông minh cũng chỉ xử dụng nhiều lắm khoảng sáu tỉ tế bào nầy thôi, phần còn lại vẫn ngủ vùi, chưa thức giấc. Các nhà bác học tuy chỉ làm thức giấc phân nửa hệ thần kinh não mà họ đã có cái nhìn xa tới cả trăm năm về hướng tương lai. Họ đã xử dụng nó để cho ra đời những phát minh vượt bực về khoa học, cung hiến cho con người một nền văn minh vật chất phát triển vĩ đại như hiện tại.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Còn người tu tập giỏi, với năng lực chánh niệm tỉnh giác sẽ có khả năng làm thức giấc toàn bộ vùng nhận biết trực giác của hệ thần kinh não, nên năng lực của họ rất kỳ diệu.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thực chất chưa cần đi vào chiều sâu tâm thức. Ở mặt cạn của vật lý, con người là một sinh vật cực kỳ thông minh vì có một kho tàng đồ sộ, vô giá trong tự thân là hệ thống thần kinh não. Nhưng chúng ta không biết cách xử dụng hay chưa xử dụng hết khả năng vô cùng xảo diệu của nó.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Chúng ta đã để nó ngủ yên đến hai phần ba, chỉ làm cho một phần ba hoạt động. Nếu được đánh thức dậy toàn bộ thì năng lực kỳ diệu ta có là Túc mạng minh, Thiên nhãn minh; và năng lực tột cùng kỳ diệu chứng đắc được nơi tâm là Lậu tận minh. Đây là những điều rõ ràng, dễ hiểu được chứng minh qua những thách thức đối với khoa học của các nhà thực tập Yoga có năng lực. (họ vẫn sống sau khi uống những chất acid cực độc, hay có thể sống trong một tháng ở điều kiện ngưng tim, tắt hơi thở khi bị đóng vào hòm thủy tinh...) Cho nên con người là một sinh vật kỳ diệu hơn chúng ta tưởng mà chúng ta bỏ quên. Bỏ quên không đánh thức được năng lực tuyệt hảo đó của chính mình.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Tu là một cách đánh thức dậy năng lực tự hữu. Nếu chúng ta tu có định lực, mặc dù không phải trong truyền thống đạo Phật như truyền thống Yoga, hay truyền thống của các tôn giáo khác chúng ta cũng có thể đạt tới các loại thần thông cạn tùy mức độ của định lực.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Trong tất cả thần thông của Đức Phật thì Lậu tận minh hay Lậu tận thông rất quan trọng. Lậu tận minh là thần thông đặc biệt duy nhất chỉ có đạo Phật tặng cho con người. Lậu tận minh là đã sạch hết lậu hoặc của tâm thức. Những hạt giống phiền não, ái nhiễm, ngã chấp làm cho ta có mặt trong cuộc đời, cho ta nổi chìm trong sinh tử. Chấm dứt, sạch nhẵn mê lầm thì có mặt Lậu tận minh. Ta không còn khả năng rơi rớt lại chốn nhân gian nầy nữa, không còn khởi phiền não để sinh trở lại, luân hồi gọi là chứng đắc được Lậu tận minh.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đặc biệt trong văn học Thiền tông Lậu tận minh được triển khai rất hay:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Có một ngoại đạo đạt được ngũ thông tức có được năm thần thông đầu giống như Đức Phật, nhưng Lậu tận minh tức lậu tận thông thì chưa, nên ông hỏi Đức Thế Tôn: “Năm thứ thần thông trên thì con biết, nhưng Lậu tận minh là thần thông gì xin Ngài chỉ bày cho con.” Đức Thế Tôn liền cất tiếng gọi: “Bà La Môn Hữu kiến” Vị ngoại đạo liền: “Dạ.” Đức Phật bảo: “Lậu tận minh của ta đó.”[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Đây là câu chuyện Thế Tôn muốn diễn bày cho ta về thể ngộ Lậu tận minh như thế nào. Có thể chuyện hơi khó hiểu, chúng ta sẽ có cơ hội trở lại phần nầy để thấy sự cao quí của Lậu tận minh trong đạo Phật.[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]Thưa đại chúng. Ta hãy đọc lại đoạn Kinh của chương mười ba nầy và nghe Đức Phật trả lời khi vị Sa môn hỏi Ngài:[/FONT]
[FONT=Arial,Helvetica]
“Nhân duyên nào để đắc được túc mạng và thể hội được đạo?” “Hãy giữ lòng cho trong sạch, giữ được chí nguyện tu tập thì sẽ đạt đến chỗ tuyệt vời của Đạo, ví như mài gương loại trừ hết cáu bẩn thì gương sẽ sáng lên. Đoạn dục vô cầu thì chứng được túc mạng.” Chúng ta có thể mở rộng thêm đoạn nầy như sau: Gạt hết lòng ham muốn, sự tham đắm không còn nữa thì có thể đắc được túc mạng, và chứng được Túc mạng minh, hẳn sẽ đạt được thần thông tương đối.

[/FONT]<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif][if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif][if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--><center><embed pluginspage="http://www.microsoft.com/Windows/Downloads/Contents/Products/MediaPlayer/" src="http://phapamgiaithoat.com/T_PhuocTinh/Kinh42Chuong_046%20TinhTamThuChi.mp3" type="application/x-mplayer2" showstatusbar="1" volume="0" autostart="0" showcontrols="1" height="340" width="425"></center>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên