4, Nhị Đế/Trung quán tông
Trung quán tông cũng có sự phân chia bộ phái do khác nhau về phép luận lý biện chứng và thậm chí cả về quan điểm triết học. Nhìn chung có thể chia ba: Thanh biện, Nguyệt xứng và Thích nghĩa.
a, Trung quán tông/Thanh biện
Phủ nhận thực hữu và hiện hữu rốt ráo mọi khẳng định hiện tượng giới hiện hữu một cách tự thân theo cảm quan thông tục qua công ước.
Đối với Thanh biện, tánh Không của một thực hữu là Chân đế, là bản tánh vô ngã vi tế của pháp giới. Tánh Không của hiện hữu rốt ráo và tánh Không của thực hữu chỉ là hai tên gọi cho cùng một sự vật. Như vậy khi am tường được hiện hữu rốt ráo hay thực hữu có hình thái hiện hữu như thế nào thì ta có thể hiểu thế nào là Chân đế và biết Chân đế là sự vắng mặt rỗng không của thực hữu hay hiện hữu rốt ráo trong mọi hiện tượng giới.
Thực hữu
Thực hữu hay hiện hữu rốt ráo là tự nó (Vật/Things) có thể khẳng định sự hiện hữu của chính mình qua sự phân tích của một tâm rốt ráo.
Tâm rốt ráo là ý thức của trí tuệ biện biệt (Phân biệt Vô phân biệt/Hậu đắc trí/Căn bản trí) quan sát toàn triệt không dư sót hình thái cách thế sự vật hiện hữu (Pháp/Dharma) và nhận ra bản thể của cuối cùng của một hữu thể.
Như thế bất cứ thực hữu hay hiện hữu rốt ráo cần phải hiện hữu (Vật hiện hữu là do được tri giác) để ý thức phân biệt vi tế quan sát và phân tích (Thể, Tướng, Dụng) mà tìm được bản thể cuối cùng của nó.
Ví dụ như khi ta quan sát và phân tích cái ghế thì mọi hình thái và phẩm tánh của ghế đều rỗng không không một vật. Đó chính là thực hữu của cái ghế tức tánh Không.
Định nghĩa Nhị đế
Một Chân đế được định nghĩa như là một hiện tướng giới được nhận biết do hiện lượng vắng bặt sắc tướng nhị nguyên..
Phú đế (Tục đế) được định nghĩa như là một hiện tượng giới thực chứng bởi hiện lượng trong mối tương quan với sắc tướng nhị nguyên.
Sắc tướng nhị nguyên: (1) Sắc tướng của hình ảnh gợi ý; (2) Sắc tướng của chủ thể và đối tượng; (3) Sắc tướng của thực hữu; (4) Sắc tướng phân biệt; (5) Sắc tướng của bất cứ hiện tượng giới nào.
Như vậy quan điểm của Trung quán tông theo Thanh biện thì Chân đế là một tánh Không vắng bặt mọi sắc tướng nhị nguyên bằng phân tích vi tế dựa trên việc liễu biệt từ tâm rốt ráo tức ý thức quan sát biện biệt không dư sót Phú đế (Tục đế) bằng hiện lượng trong tương quan sắc tướng nhị nguyên
Cũng vì vậy do tầm quan trọng của Phú đế (Tục đế) trên đạo lộ giải thoát và giác ngộ nên Thanh biện đã phân chia Phú đế (Tục đế) thành "Thực cảnh" và "Huyễn cảnh". "Thực cảnh" và "Huyễn cảnh được phân biệt do sự vận hành đầy đủ chức năng tương ứng như là chúng xuất hiện bằng chân tri lượng (Hiện lượng). Ví dụ như ảo tượng (dương diệm), ảnh trong gương, huyễn cảnh thành Càn thát bà của nhà ảo thuật đều là sự (hiện) hữu và là Phú đế (Tục đế) nhưng sự hữu đó là do ý thức nhận lầm (vì sự hữu đó không có chức năng tác dụng tức vô dụng) nên là "Huyễn cảnh". Ngược lại, vật tạo ra ảo tượng, vật tạo ảnh trong gương, hiện vật đất, đá, cát...mà nhà ảo thuật dựa trên đó tạo huyễn cảnh Càn thát bà là sự (hiện) hữu có chức năng tác dụng như là chúng xuất hiện đối với nhận thức công ước thông thường được gọi là "Thực cảnh".
...
Trừng Hải