vienquang2

Vấn đề MINH TÂM - KIẾN TÁNH trong Phật Học

vienquang2

Administrator

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,163
Điểm tương tác
1,159
Điểm
113
Bài 1.- Dạo Miền Tâm - Tánh.

Kính các Bạn.

Trong Nhà Phật chúng ta Những người Chân Tu- Thực Học thường có ước nguyện "MINH TÂM- KIẾN TÁNH".- Với mục tiêu:

Trực chỉ "CHÂN TÂM" - "KIẾN TÁNH" Thành Phật.

Theo VQ nghĩ:

* Muốn "MINH TÂM" Thì chúng ta cần hiểu rõ về TÂM.

* Muốn "KIẾN TÁNH" Thì chúng ta cần Sáng tỏ về TÁNH.

Có Hiểu rõ về Tâm- Tánh mới có được Chánh Kiến mà tránh khỏi các lầm chấp.

Ở chủ đề này. VQ kính mời các Bạn chúng ta cùng Ôn lại, cùng thảo luận, cùng khơi mở, cùng soi sáng... Để cùng thấu tỏ được "Nguồn Tâm - Bản Tánh".

Mong lắm thay...

Có người bảo rằng VQ có khi nói bằng "tri kiến" của mình.- Nhưng nhiều khi lại lấy sự hiểu biết của người khác để viết bài !

Thưa với các Bạn rằng: VQ chỉ muốn tìm hiểu và tu học Chân Lý.- Chớ không muốn sáng tác ra Chân Lý (của riêng mình).- Mà Chân Lý thì dể tìm thấy ở Phật Ngôn, ở Kinh Điển, ở Luận Giải , ở nơi các Bậc Cao Đức.- Bởi vậy mong các Bạn thông cảm...cho thói xấu này của VQ.

Người xưa có câu: "Ngã kim nhật tại toạ chi địa, Cổ chi nhân tằng tiên ngã toạ chi". Ngàn muôn năm âu cũng thế ni, Ai hay hát mà ai hay nghe hát ? (Nguyễn Công Trứ)
Hàm ý là: Chỗ ta ngồi ở đây.- Người xưa đã có người ngồi rồi... Những suy nghĩ, lời nói của ta hôm nay.- Người xưa đã từng suy nghĩ nói ra rồi... Đâu có chi là lạ...

Mô Phật.- Kính mời các Bạn Đạo Hữu Tâm cùng dạo bước.


Minh Tâm- Kiến Tánh Deo_bc10
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

TRÍ HUỆ

Registered

Phật tử
Reputation: 2%
Tham gia
25/2/25
Bài viết
9
Điểm tương tác
5
Điểm
3
Bài 1.- Dạo Miền Tâm - Tánh.

Kính các Bạn.

Trong Nhà Phật chúng ta Những người Chân Tu- Thực Học thường có ước nguyện "MINH TÂM- KIẾN TÁNH".- Với mục tiêu:

Trực chỉ "CHÂN TÂM" - "KIẾN TÁNH" Thành Phật.

Theo VQ nghĩ:

* Muốn "MINH TÂM" Thì chúng ta cần hiểu rõ về TÂM.

* Muốn "KIẾN TÁNH" Thì chúng ta cần Sáng tỏ về TÁNH.

Có Hiểu rõ về Tâm- Tánh mới có được Chánh Kiến mà tránh khỏi các lầm chấp.

Ở chủ đề này. VQ kính mời các Bạn chúng ta cùng Ôn lại, cùng thảo luận, cùng khơi mở, cùng soi sáng... Để cùng thấu tỏ được "Nguồn Tâm - Bản Tánh".

Mong lắm thay...

Có người bảo rằng VQ có khi nói bằng "tri kiến" của mình.- Nhưng nhiều khi lại lấy sự hiểu biết của người khác để viết bài !

Thưa với các Bạn rằng: VQ chỉ muốn tìm hiểu và tu học Chân Lý.- Chớ không muốn sáng tác ra Chân Lý (của riêng mình).- Mà Chân Lý thì dể tìm thấy ở Phật Ngôn, ở Kinh Điển, ở Luận Giải , ở nơi các Bậc Cao Đức.- Bởi vậy mong các Bạn thông cảm...cho thói xấu này của VQ.

Người xưa có câu: "Ngã kim nhật tại toạ chi địa, Cổ chi nhân tằng tiên ngã toạ chi". Ngàn muôn năm âu cũng thế ni, Ai hay hát mà ai hay nghe hát ? (Nguyễn Công Trứ)
Hàm ý là: Chỗ ta ngồi ở đây.- Người xưa đã có người ngồi rồi... Những suy nghĩ, lời nói của ta hôm nay.- Người xưa đã từng suy nghĩ nói ra rồi... Đâu có chi là lạ...

Mô Phật.- Kính mời các Bạn Đạo Hữu Tâm cùng dạo bước.


Minh Tâm- Kiến Tánh Deo_bc10
Minh tâm nói cho rõ dễ hiểu là giữ lương tâm không để mất.
Kiến tánh nói cho chuẩn xác để người Việt Nam hiểu được là tánh lương thiện được làm cho nổi bật hơn tất cả mọi tánh khác.
Nói thì đơn giản không có gì hấp dẫn thu hút như MINH TÂM KIẾN TÁNH nhưng dễ tu và tu chuẩn hơn nhiều. Nam mô A Di Đà Phật. NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
 

Đính kèm

  • img_1_1641527686375.webp
    img_1_1641527686375.webp
    73.1 KB · Lượt xem: 8

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,416
Điểm tương tác
1,052
Điểm
113
Minh tâm nói cho rõ dễ hiểu là giữ lương tâm không để mất.
Kiến tánh nói cho chuẩn xác để người Việt Nam hiểu được là tánh lương thiện được làm cho nổi bật hơn tất cả mọi tánh khác.
Nói thì đơn giản không có gì hấp dẫn thu hút như MINH TÂM KIẾN TÁNH nhưng dễ tu và tu chuẩn hơn nhiều. Nam mô A Di Đà Phật. NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.

Hề hề,

Lương tâm là gì?
Lương tâm là cái vốn có cần phải giữ để không mất? Vậy là ai cũng có lương tâm? Và lương tâm này sẽ mất khi không giữ thì lấy cái gì để giữ cho không mất?

Lương thiện là gì?
Tánh lương thiện là gì?
Mọi tánh khác bên cạnh tánh lương thiện bao gồm những tánh nào? Bằng cấch nào để tánh lương thiện nổi bật hơn các tánh khác?

Nói dễ thì phải có hệ quy chiếu bởi đối với dễ thì có khó; đối với chuẩn thì có không chuẩn vậy phải có tiêu chuẩn xác định! Vậy dễ là theo hệ quy chiếu nào? Chuẩn thì theo tiêu chuẩn nào?

Trả lời thắc mắc theo từng mục cho mạch lạc, rõ ràng nghen!


Trừng Hải
 

TRÍ HUỆ

Registered

Phật tử
Reputation: 2%
Tham gia
25/2/25
Bài viết
9
Điểm tương tác
5
Điểm
3
Hề hề,

Lương tâm là gì?
Lương tâm là cái vốn có cần phải giữ để không mất? Vậy là ai cũng có lương tâm? Và lương tâm này sẽ mất khi không giữ thì lấy cái gì để giữ cho không mất?

Lương thiện là gì?
Tánh lương thiện là gì?
Mọi tánh khác bên cạnh tánh lương thiện bao gồm những tánh nào? Bằng cấch nào để tánh lương thiện nổi bật hơn các tánh khác?

Nói dễ thì phải có hệ quy chiếu bởi đối với dễ thì có khó; đối với chuẩn thì có không chuẩn vậy phải có tiêu chuẩn xác định! Vậy dễ là theo hệ quy chiếu nào? Chuẩn thì theo tiêu chuẩn nào?

Trả lời thắc mắc theo từng mục cho mạch lạc, rõ ràng nghen!


Trừng Hải
Lương tâm là tâm lương thiện.
Giữ lương tâm không mất là khi ray rứt lương tâm thì phải quay đầu.
Lương thiện là không giết không trộm không mê dục không lừa dối không nghiện ngập.
Tánh lương thiện là tánh hay làm những việc không giết không trộm không dối không mê không nghiện.
Ngoài tánh đó là những tánh khác nhiều vô số kể.
Hệ quy chiếu hiển nhiên là chủ đề MINH TÂM KIẾN TÁNH rồi còn phải hỏi nữa.
Nam mô A Di Đà Phật. NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
 

Đính kèm

  • img_1_1641527686375.webp
    img_1_1641527686375.webp
    73.1 KB · Lượt xem: 7

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,416
Điểm tương tác
1,052
Điểm
113
Lương tâm là tâm lương thiện.
Giữ lương tâm không mất là khi ray rứt lương tâm thì phải quay đầu.
Lương thiện là không giết không trộm không mê dục không lừa dối không nghiện ngập.
Tánh lương thiện là tánh hay làm những việc không giết không trộm không dối không mê không nghiện.
Ngoài tánh đó là những tánh khác nhiều vô số kể.
Hệ quy chiếu hiển nhiên là chủ đề MINH TÂM KIẾN TÁNH rồi còn phải hỏi nữa.
Nam mô A Di Đà Phật. NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.

Hề hề,

Lương tâm là tâm lương thiện. Tâm lương thiện là không sát, đạo dâm, vọng. Vậy cái tâm này vốn là tâm tu tập y theo Lời Đức Phật Dạy chớ không phải vốn có. Ngoài ra muốn có tâm lương thiện thì phải có Nguyện, có Trì giới. Y nguyện và Trì giới lâu ngày mới có tâm lương thiện. Vậy tâm lương thiện này đâu cần phải giữ vì do trì giới mới có. Không y nguyện không trì giới thì làm gì có tâm lương thiện để mà giữ, hiểu chửa, hề hề!

Tánh lương thiện là do không sát, đạo, dâm, vọng nên cái tánh này là tánh do công tu tập mà có. Tánh tu tập này không liên quan gì đến cái Tánh trong "Minh tâm kiến tánh", hiểu chửa, hề hề!

Hệ quy chiếu và tiêu chuẩn về việc xác định "dễ", "chuẩn" không liên quan gì đến MINH TÂM KIẾN TÁNH vì MINH TÂM KIẾN TANH không phải là hệ thống hoạt động cũng không phải là nền tảng thiết lập, hiểu chửa hề hề!

Trừng Hải
 

TRÍ HUỆ

Registered

Phật tử
Reputation: 2%
Tham gia
25/2/25
Bài viết
9
Điểm tương tác
5
Điểm
3
Hề hề,

Lương tâm là tâm lương thiện. Tâm lương thiện là không sát, đạo dâm, vọng. Vậy cái tâm này vốn là tâm tu tập y theo Lời Đức Phật Dạy chớ không phải vốn có. Ngoài ra muốn có tâm lương thiện thì phải có Nguyện, có Trì giới. Y nguyện và Trì giới lâu ngày mới có tâm lương thiện. Vậy tâm lương thiện này đâu cần phải giữ vì do trì giới mới có. Không y nguyện không trì giới thì làm gì có tâm lương thiện để mà giữ, hiểu chửa, hề hề!

Tánh lương thiện là do không sát, đạo, dâm, vọng nên cái tánh này là tánh do công tu tập mà có. Tánh tu tập này không liên quan gì đến cái Tánh trong "Minh tâm kiến tánh", hiểu chửa, hề hề!

Hệ quy chiếu và tiêu chuẩn về việc xác định "dễ", "chuẩn" không liên quan gì đến MINH TÂM KIẾN TÁNH vì MINH TÂM KIẾN TANH không phải là hệ thống hoạt động cũng không phải là nền tảng thiết lập, hiểu chửa hề hề!


Trừng Hải
Dễ so với MINH TÂM KIẾN TÁNH
Chuẩn so với MINH TÂM KIẾN TÁNH
Có vậy cũng không hiểu. Thế thì không phải MINH TÂM KIẾN TÁNH là hệ quy chiếu thì là gì? Tốt nhất bạn nên quay đầu là bờ, nếu còn tiếp tục thế này sẽ bị loạn thần đấy. Thật lòng khuyên không có ý gì khác hơn là nhắc nhở đấy. Nam mô A Di Đà Phật. NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
 

Đính kèm

  • img_1_1641527686375.webp
    img_1_1641527686375.webp
    73.1 KB · Lượt xem: 7

vienquang2

Administrator

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,163
Điểm tương tác
1,159
Điểm
113
Bài 2.- Nhân - Quả Tánh.

Kính các Bạn. Mọi sự vật, hiện tượng trên thế gian thiên biến vạn hóa.- Tuy vậy chúng vẫn theo một quy luật mà không là loạn khởi, loạn diệt.- Đó là "Luật Nhân Quả"

Luật nhân quả là một nguyên lý trong triết học và tôn giáo, đặc biệt phổ biến trong Phật giáo, Hindu giáo, và nhiều hệ thống triết học khác. Nguyên lý này cho rằng "gieo nhân nào, gặt quả nấy", mọi hành động đều có hậu quả và mọi sự kiện đều có nguyên nhân.

Gieo nhân nào thì gặt quả ấy, như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, việc làm ác cũng lại như thế. Phật dạy: Dù chúng ta có lên núi cao hay trốn xuống vực thẳm, cũng không thể nào tránh được nghiệp quả khi đủ nhân duyên. Do chúng ta đã tin sâu về nhân quả nên người học Phật, luôn cẩn thận và có sự quán xét trong suy nghĩ, lời nói và hành động của mình.

* Thuở mới Thành Đạo. Đức Phật đã dùng 2 phương diện Nhân- Quả: 1. Thế Gian là Khổ và Tập Đế 2. Xuất Thế là: Diệt và Đạo Đế mà thuyết lên Tứ Diệu Đế.- Nòng Cốt của Đạo Phật.-

Ở Báo GN rằng:
Giáo lý nhân quả hay nhân-duyên-quả do Đức Phật Thích Ca tuyên thuyết, căn cứ vào tuệ giác của Ngài thấy rõ sự thật về con người và thế giới xuyên suốt quá khứ, hiện tại và vị lai. Có thể tóm tắt giáo lý này, do nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy. Đức Phật còn nhấn mạnh rằng, dù Ngài có ra đời hay không thì nhân-duyên-quả vẫn vận hành như thế. Đức Phật không sáng tạo ra nhân quả, cũng không can thiệp vào nhân quả, Ngài thấy rõ bản chất và quy luật vận hành của nhân quả rồi trao quyền tự quyết cho mỗi cá nhân. Mỗi người tự quyết định lấy nhân quả cho chính mình.

Luật Nhân quả của Phật giáo không phải là một định thức khô cứng kiểu như A+B=C.

Ngay cả một số kết luận nghiêm túc về nhân quả như “Gieo nhân nào, gặt quả đó” cũng chỉ mang tính quy ước, đại khái mà không diễn tả đúng như thật thực tiễn sinh động của nhân quả.

Bởi lẽ tiến trình nhân quả, nói chính xác phải là nhân (nhân chính) - duyên (các nhân phụ) - quả (kết quả), vận hành rất vi tế, tương tác lẫn nhau rất phức tạp, nhất là bị yếu tố duyên chi phối mãnh liệt nên cuối cùng hình thành nên kết quả có thể khác so với nhân ban đầu.

Mặt khác, nhân-duyên-quả của tiến trình này lại luôn tương tác với nhân-duyên-quả của những tiến trình khác. Nên nhân của tiến trình này lại là duyên hay quả của tiến trình khác, duyên của tiến trình này lại là nhân hay quả của một tiến trình khác nữa, cho đến quả của tiến trình này lại chính là nhân hay duyên cho một tiến trình khác nữa.

Nhân-duyên-quả của vô lượng, vô số tiến trình luôn va đập, tương tác lẫn nhau tạo ra một thực tại vô cùng sinh động, không bắt đầu và cũng không kết thúc, gọi là trùng trùng duyên khởi.
(Tổ tư Vấn Báo GN)

* Với tầm nhìn ở Thế Gian. Hợp với Nhân- quả gọi là có Logic. Không Hợp với Nhân- quả gọi là Không có Logic.

* Với Phật Đạo.- Hợp với Nhân- quả gọi là Chánh Kiến. Không Hợp với Nhân- quả gọi là Tà Kiến.

* Thấy được Tánh Chất ấy.- Tức là.- kiến "Nhân Quả Tánh".- Đây là bước khởi đầu đi đến Phật Quả. Người không tin Nhân - Quả.- Cách Phật Đạo rất xa.

Vấn đề MINH TÂM - KIẾN TÁNH trong Phật Học Nhzen_11
 

TRÍ HUỆ

Registered

Phật tử
Reputation: 2%
Tham gia
25/2/25
Bài viết
9
Điểm tương tác
5
Điểm
3
Bài 2.- Nhân - Quả Tánh.

Kính các Bạn. Mọi sự vật, hiện tượng trên thế gian thiên biến vạn hóa.- Tuy vậy chúng vẫn theo một quy luật mà không là loạn khởi, loạn diệt.- Đó là "Luật Nhân Quả"

Luật nhân quả là một nguyên lý trong triết học và tôn giáo, đặc biệt phổ biến trong Phật giáo, Hindu giáo, và nhiều hệ thống triết học khác. Nguyên lý này cho rằng "gieo nhân nào, gặt quả nấy", mọi hành động đều có hậu quả và mọi sự kiện đều có nguyên nhân.

Gieo nhân nào thì gặt quả ấy, như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, việc làm ác cũng lại như thế. Phật dạy: Dù chúng ta có lên núi cao hay trốn xuống vực thẳm, cũng không thể nào tránh được nghiệp quả khi đủ nhân duyên. Do chúng ta đã tin sâu về nhân quả nên người học Phật, luôn cẩn thận và có sự quán xét trong suy nghĩ, lời nói và hành động của mình.

* Thuở mới Thành Đạo. Đức Phật đã dùng 2 phương diện Nhân- Quả: 1. Thế Gian là Khổ và Tập Đế 2. Xuất Thế là: Diệt và Đạo Đế mà thuyết lên Tứ Diệu Đế.- Nòng Cốt của Đạo Phật.-

Ở Báo GN rằng:
Giáo lý nhân quả hay nhân-duyên-quả do Đức Phật Thích Ca tuyên thuyết, căn cứ vào tuệ giác của Ngài thấy rõ sự thật về con người và thế giới xuyên suốt quá khứ, hiện tại và vị lai. Có thể tóm tắt giáo lý này, do nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy. Đức Phật còn nhấn mạnh rằng, dù Ngài có ra đời hay không thì nhân-duyên-quả vẫn vận hành như thế. Đức Phật không sáng tạo ra nhân quả, cũng không can thiệp vào nhân quả, Ngài thấy rõ bản chất và quy luật vận hành của nhân quả rồi trao quyền tự quyết cho mỗi cá nhân. Mỗi người tự quyết định lấy nhân quả cho chính mình.

Luật Nhân quả của Phật giáo không phải là một định thức khô cứng kiểu như A+B=C.

Ngay cả một số kết luận nghiêm túc về nhân quả như “Gieo nhân nào, gặt quả đó” cũng chỉ mang tính quy ước, đại khái mà không diễn tả đúng như thật thực tiễn sinh động của nhân quả.

Bởi lẽ tiến trình nhân quả, nói chính xác phải là nhân (nhân chính) - duyên (các nhân phụ) - quả (kết quả), vận hành rất vi tế, tương tác lẫn nhau rất phức tạp, nhất là bị yếu tố duyên chi phối mãnh liệt nên cuối cùng hình thành nên kết quả có thể khác so với nhân ban đầu.

Mặt khác, nhân-duyên-quả của tiến trình này lại luôn tương tác với nhân-duyên-quả của những tiến trình khác. Nên nhân của tiến trình này lại là duyên hay quả của tiến trình khác, duyên của tiến trình này lại là nhân hay quả của một tiến trình khác nữa, cho đến quả của tiến trình này lại chính là nhân hay duyên cho một tiến trình khác nữa.

Nhân-duyên-quả của vô lượng, vô số tiến trình luôn va đập, tương tác lẫn nhau tạo ra một thực tại vô cùng sinh động, không bắt đầu và cũng không kết thúc, gọi là trùng trùng duyên khởi.
(Tổ tư Vấn Báo GN)

* Với tầm nhìn ở Thế Gian. Hợp với Nhân- quả gọi là có Logic. Không Hợp với Nhân- quả gọi là Không có Logic.

* Với Phật Đạo.- Hợp với Nhân- quả gọi là Chánh Kiến. Không Hợp với Nhân- quả gọi là Tà Kiến.

* Thấy được Tánh Chất ấy.- Tức là.- kiến "Nhân Quả Tánh".- Đây là bước khởi đầu đi đến Phật Quả. Người không tin Nhân - Quả.- Cách Phật Đạo rất xa.

Vấn đề MINH TÂM - KIẾN TÁNH trong Phật Học Nhzen_11
Khổ là quả của phàm. Tập là nhân của phàm. Diệt là quả của thánh. Đạo là nhân của thánh. Đạo Phật là gieo nhân phàm có quả phàm, gieo nhân thánh có quả thánh. Nam mô A Di Đà Phật. NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
 

Đính kèm

  • img_1_1641527686375.webp
    img_1_1641527686375.webp
    73.1 KB · Lượt xem: 7

trừng hải

Well-Known Member

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,416
Điểm tương tác
1,052
Điểm
113
Dễ so với MINH TÂM KIẾN TÁNH
Chuẩn so với MINH TÂM KIẾN TÁNH
Có vậy cũng không hiểu. Thế thì không phải MINH TÂM KIẾN TÁNH là hệ quy chiếu thì là gì? Tốt nhất bạn nên quay đầu là bờ, nếu còn tiếp tục thế này sẽ bị loạn thần đấy. Thật lòng khuyên không có ý gì khác hơn là nhắc nhở đấy.

Ối giời ơi là giời, hề hề

Tư duy cạn cợt nên sanh tâm kiêu mạn chê người "loạn thần", hề hề, hết nói phét lại đến ăn tục.

MINH TÂM KIẾN TÁNH là đối tượng so sánh với phép thực hành tâm lương thiện và giữ lương tâm của bạn chớ không phải hệ quy chiếu, hiểu chưa!?
Trong phép so sánh khoa học khách quan giữa hai đối tượng thì phải có hệ quy chiếu hay tiêu chuẩn để đánh giả.
Ví dụ so sánh dễ, khó thì dựa trên phép thống kê dữ liệu như một bài toán dễ so với bài toán khó là do bài toán dễ nhiều dữ liệu ít biến số. So sánh độ chuẩn thì phải dựa trên phương pháp xây dựng tiêu chuẩn có độ lệch chuẩn nhỏ.

Thật ra Trừng Hải đặt câu hỏi là để giao duyên chứ không phải để đánh giá tư duy. Nhưng có lẽ vô duyên nên thành ra đánh giá. Diễn đàn phật pháp là chỗ trao đổi, học hỏi Phật Pháp nhằm gia tăng chỗ hiểu biết, thu hẹp chỗ mờ mịt mà tự lợi, lợi tha. Muốn phô bày tri kiến để thể hiện thì cũng được nhưng...phải có nội hàm để khỏi rơi vào chỗ luận đàm vô lối.

Trừng Hải
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Administrator

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,163
Điểm tương tác
1,159
Điểm
113
Bài 3.- Y Duyên Tánh.

Tích Tỳ Kheo Mã Thắng:

Ngài Xá Lợi Phất nghe nói Phật đang ở thành Vương Xá mong muôn được biết rõ tin tức, nên đã cùng theo họ vào thành.
Giữa đường, ngài gặp một vị Tỷ-kheo ôm bình bát đi khất thực. Thấy vị Tỷ-kheo oai nghị, tịch tịnh, ngài liên đên gần cât tiếng hỏi: “Chăng hay ngài là đệ tử của ai?”
Vị Tỷ-kheo đáp: “Tôi là đệ tử của Thích Thái tử, ngài nhàm chán các khổ sanh, già, bệnh, chết nên đã xuất gia tìm đạo và đã chứng Vô Thượng Bồ đề. Thích Thái tử là bậc thầy của tôi”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: “Thầy của ngài đã dạy những gì? Kính xin ngài cho tôi được rõ.”

Vị Tỷ-kheo dùng kệ đáp lại:

Tuổi đời tôi còn thấp,
Lại vừa mới thọ giới,
Sao nói được Chán Pháp
Thâm nghĩa của Như Lai!

Ngài Xá Lợi Phất nóng lòng được biết, khẩn khoản nói:
“Kính xin ngài vì tôi lược nói cho tôi nghe!”
Vị Tỷ-kheo lại dùng kệ đáp:

Các pháp theo duyên sanh,
Lại cũng theo duyên diệt.
Phật, vị đại Sa môn,
Bổn sư tôi thuyết vậy.

Ngài Xá Lợi Phất nghe xong bài kệ, liền chứng sơ quả Tu-đà-hoàn, ngài trở vê Đặp ngài Mục Kiền Liên. Ngài Mục Kiền Liên thấy nhan sắc tốt tươi của ngài Xá Lợi Phất, biết bạn mình đã thấy Đạo, liền mời vào nhà và nói: “Bạn đã được đạo Cam Lô rồi chăng? Xin bạn hãy vì tôi diễn bày!”
Ngài Xá Lợi Phất đọc lại bài kệ. Ngài Mục Kiền Liên vừa nghe xong cũng lại chứng được sơ quả Tu-đà-hoàn.
Ngay sau đó, hai ngài dẫn 250 đệ tử cùng đến chỗ Phật.(hết truyện kể)

Kính các Bạn:

Các pháp theo duyên sanh,
Lại cũng theo duyên diệt.

Theo Duyên mà Tập (sanh). Theo Duyên mà Tán (Diệt) là Tánh của các Pháp (hữu vi).

Giáo Lý Y Duyên tánh (Duyên Sanh) là thế.
Vấn đề MINH TÂM - KIẾN TÁNH trong Phật Học T_kheo11


“Do cái này có nên cái kia có, Do cái này sinh nên cái kia sinh, do cái này diệt nên cái kia diệt”.

Trong Đại kinh Dụ Dấu Chân Voi (Mahàhatthipadopama Sutta), Trung Bộ kinh, bài kinh số 28, đức Phật nhấn mạnh: “Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được lý duyên khởi".

Vì Các Pháp Y Duyên Tánh. Nên không tự tại, không độc lập mà có.- Tức là Vô Ngã.

Giáo Lý.- Duyên Sanh Vô Ngã.- Là Thông giáo. Nghĩa là cả 2 hệ phái Nguyên Thỉ và Phát Triển PG đều dùng chung.

Tổ Long Thọ nói:

Chưa từng có pháp nào,
Chẳng từ nhân duyên sanh.
(Trung Quán Luận)

Thế Tôn từng dạy rằng, ai thấy duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Như Lai. Thấy được duyên khởi là biểu hiện đặc thù của tuệ giác.

Kính các Bạn: Thấy được Nhân Duyên Tập - Tán.- Tức Thấy Y DUYÊN TÁNH.
 

Hiếu

Registered

Phật tử
Reputation: 37%
Tham gia
21/9/16
Bài viết
223
Điểm tương tác
108
Điểm
43
Nơi ở
Hồ Chí Minh.
Kính Thầy,

Chủ đề này thiết thực vì mạng người chỉ trong hơi thở, người xưa coi giải quyết việc này lớn hơn đoạt được trân bảo thế gian, tại sao vậy ? Có lẽ người chưa Minh Tâm Kiến Tánh chẳng thể tự hiểu nổi.

Tâm chúng ta khởi niệm xoay vần thiện ác, tốt xấu, khen chê, hơn thua v..v cho tới trì giới, thiền định, mong cầu trí tuệ siêu việt thế gian cũng chẳng ngoài hai chữ Vô Minh, vì chỉ có kẻ thiếu thốn mới tìm cầu cho đủ. Vậy một chữ Minh này là Tâm đã dẹp trừ Vô Minh hiển hiện ra. Phàm cái gì mờ tối chưa sáng tỏ thì đều thuộc phạm vi vô minh cả, nhưng cái thứ mình vô minh thì nhiều lắm trừ sao cho hết, thế thì như lá trên cây muốn trừ sạch nó ắt phải đốn gốc mới mong hết được, nếu như ngắt lá bẻ cành thì mai này nó lại mọc ra cành lá mới. Gốc vô minh hay căn bản vô minh, hay còn gọi vô thủy vô minh, Thiền tông gọi là đầu sào trăm thước, đáy thùng sơn đen v..v Cái gốc này hễ trừ, dù lá trên cành còn tươi, nhưng theo thời gian tự héo khô và lá mới cũng không sinh trưởng thêm được, ấy là chỗ lợi hại nhanh chậm của sự tu hành nhằm Minh cái Tâm ta.

Vậy Minh Tâm là đích thì Kiến Tánh là pháp tu. Kiến là vắn tắt, nói đủ là Kiến Văn Giác Tri, đều có thể sử dụng như nhau tùy cơ duyên mỗi hành giả, nó có khả năng thấy ngược nội tâm thay vì hướng ngoại tìm cầu, hướng nội lâu ngày thì trần cảnh quên, tâm tưởng ẩn, thanh thanh tịnh tịnh ấy là căn bản vô minh hiện ra.

"Đạp cửa" thanh tịnh này thì Tâm được Minh, như cây đổ lá khô, mãi mãi không còn hướng về dòng ưu bi khổ não mà tranh danh đoạt lợi nữa, ứa ra thuần một dòng cam lồ treo cao nơi cổng Chùa trang nghiêm: TỪ BI - TRÍ HUỆ.

Ơn Phật lớn lao,
May thay !

A Di Đà Phật.
 

TRÍ HUỆ

Registered

Phật tử
Reputation: 2%
Tham gia
25/2/25
Bài viết
9
Điểm tương tác
5
Điểm
3
Kính Thầy,

Chủ đề này thiết thực vì mạng người chỉ trong hơi thở, người xưa coi giải quyết việc này lớn hơn đoạt được trân bảo thế gian, tại sao vậy ? Có lẽ người chưa Minh Tâm Kiến Tánh chẳng thể tự hiểu nổi.

Tâm chúng ta khởi niệm xoay vần thiện ác, tốt xấu, khen chê, hơn thua v..v cho tới trì giới, thiền định, mong cầu trí tuệ siêu việt thế gian cũng chẳng ngoài hai chữ Vô Minh, vì chỉ có kẻ thiếu thốn mới tìm cầu cho đủ. Vậy một chữ Minh này là Tâm đã dẹp trừ Vô Minh hiển hiện ra. Phàm cái gì mờ tối chưa sáng tỏ thì đều thuộc phạm vi vô minh cả, nhưng cái thứ mình vô minh thì nhiều lắm trừ sao cho hết, thế thì như lá trên cây muốn trừ sạch nó ắt phải đốn gốc mới mong hết được, nếu như ngắt lá bẻ cành thì mai này nó lại mọc ra cành lá mới. Gốc vô minh hay căn bản vô minh, hay còn gọi vô thủy vô minh, Thiền tông gọi là đầu sào trăm thước, đáy thùng sơn đen v..v Cái gốc này hễ trừ, dù lá trên cành còn tươi, nhưng theo thời gian tự héo khô và lá mới cũng không sinh trưởng thêm được, ấy là chỗ lợi hại nhanh chậm của sự tu hành nhằm Minh cái Tâm ta.

Vậy Minh Tâm là đích thì Kiến Tánh là pháp tu. Kiến là vắn tắt, nói đủ là Kiến Văn Giác Tri, đều có thể sử dụng như nhau tùy cơ duyên mỗi hành giả, nó có khả năng thấy ngược nội tâm thay vì hướng ngoại tìm cầu, hướng nội lâu ngày thì trần cảnh quên, tâm tưởng ẩn, thanh thanh tịnh tịnh ấy là căn bản vô minh hiện ra.

"Đạp cửa" thanh tịnh này thì Tâm được Minh, như cây đổ lá khô, mãi mãi không còn hướng về dòng ưu bi khổ não mà tranh danh đoạt lợi nữa, ứa ra thuần một dòng cam lồ treo cao nơi cổng Chùa trang nghiêm: TỪ BI - TRÍ HUỆ.

Ơn Phật lớn lao,
May thay !

A Di Đà Phật.
Chỉ e là nhầm lẫn cái chưa sáng tỏ lại tưởng sáng tỏ, cái sáng tỏ rồi lại chê là tầm thường thôi bạn à. Nam mô A Di Đà Phật. NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
 

Đính kèm

  • img_1_1641527686375.webp
    img_1_1641527686375.webp
    73.1 KB · Lượt xem: 7

vienquang2

Administrator

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,163
Điểm tương tác
1,159
Điểm
113
Bài 4. Chơn & Vọng đồng thời Tánh.
Vì Vạn Pháp Vốn là Nhị Nguyên mà có ra.
Nhị Nguyên không thể diệt, không thể bỏ, không thể lìa, không thể tránh, không thể trốn chạy nơi nào để khỏi nó –vì sao? Vì Nhị Nguyên là bất khả đắc, là vô tự tánh theo duyên mà khởi, do phân biệt đối đãi mà thành, tánh nó không thật như đứa con người đá. Vì vậy, khi ta khởi lên ý tưởng là bỏ hay diệt thì giống như câu nói của nhà Thiền: “Đầu mọc thêm đầu”.

Nhị Nguyên là Tâm thức, nhưng Tâm thức do mê mờ Chân Tâm mà ra. Nhờ có Tâm thức mà chúng ta được hiện hữu trong thế giới hữu tình này, vì vậy muốn thấy được thật tướng –thấy được Chân Tâm thì chỉ cần trừ đi sự ô nhiễm chớ đâu cần diệt, giống như chén bát đựng đồ ăn bị dơ ta chỉ cần tẩy rửa thì nó trở lại sạch sẽ như củ chớ không lẽ ta đập bỏ hết hay sao.

Để siêu việt thấu hiểu đặc tính phổ biến Nhị Nguyên, Đức Thế Tôn dạy: “Thiện Hiện Như Lai đã nói, cái thanh tịnh sở duyên nơi toàn thể năm Uẩn chính là Thắng nghĩa, cái thanh tịnh sở duyên nơi toàn thể mười hai xứ,mười hai nhân duyên, bốn đế, mười tám giới …”.

Nói chung sáu căn tiếp xúc sáu trần mà không bị phân biệt dẫn dắt là siêu việt Nhị Nguyên. Còn không, dù có được cực tịch tịnh bên trong tới một mức độ nào đi nữa thì vẫn còn trong vòng đối đãi mà thôi- Vì sao? Với Chân như dù trong hay ngoài là bất nhị không hai vậy.

Tu học muốn được Giác ngộ mà bỏ rời Nhị Nguyên hay diệt Nhị Nguyên thì không bao giờ có.

.
thuvienhoasen.org

Tâm và tánh là hai thứ khác nhau. Khi nói đến tánh thì phải nói cho đủ là tánh của cái gì . Thí dụ như tánh của tôi hay sân, tánh của anh hay tham, tánh của đất là cứng, tánh của nước là ướt, tánh của gió là di động, tánh của lửa là nóng, tánh của hư không là trống rỗng không ngăn ngại, tánh của thức là biết phân biệt, tánh của muối là mặn, tánh của đường là ngọt, tánh của dấm là chua, tánh của ớt là cay, v.v...

Khi nói đến tâm tánh, tức là tánh của tâm, tâm là chính, tánh là phụ. Tâm có thể ví như ông A, còn tánh ví như tánh tình của ông A. Khi nói ông A thế này, thế nọ, vui tánh hay hung dữ đó là nói về ông A nhưng cùng lúc cũng nói về tánh của ông A. Bởi thế tâm tánh luôn đi đôi, nói đến tâm tức bao hàm luôn tánh của nó, nói đến tánh thì đó là tánh của tâm, cho nên đôi lúc người ta dùng lẫn lộn cả hai danh từ này, giống như tâm và tánh là một. Nhưng tâm có nhiều tánh: tánh tham, tánh sân, tánh si, tánh ưa, tánh ghét, tánh ghen, tánh kiêu mạn, tánh nghi, tánh xấu hổ, tánh lười, tánh nịnh, tánh ích kỷ, tánh nhút nhát, tánh mắc cở, tánh sợ ma, v.v... Vậy khi nói chỉ thẳng tâm để thấy tánh là thấy tánh nào? Thấy tánh tham có thành Phật được không? Thấy tánh sân có thành Phật được không? Ai cũng thấy những tánh đó nơi mình và người khác, vậy có ai thành Phật không? Nếu không thì phải thấy tánh nào?

Thực ra. Các Tánh nói trên là "Vọng" do vô minh tác động mà thấy có.

Thiền tông chủ trương nói về tâm, nhưng thật ra chú trọng về tánh của tâm. Tánh này không phải là những tánh tốt, xấu bình thường của con người mà là một loại tánh đặc biệt, danh từ chuyên môn là "Tánh giác", "bổn tánh". Thấy được và trở về sống với tánh giác chính là ý nghĩa kiến tánh của Thiền tông.

(Trích TS. Thích Trí Siêu)

Kính các Bạn:


  • Triết Max rằng: Trong một Thể thống nhất luôn tồn tại các mặt đối lập.
  • Đức Phật dạy: Cái này có, thì cái kia có...
  • Chư Tổ nói: Vô Minh Thật Tánh tức Phật Tánh
Theo VQ.-

*Kiến Tánh là Thấy cái "Tánh Hư Huyễn" lẫn "Tánh Chân thật" của Vạn Pháp.(bằng Chánh Kiến.- Mà Phật dạy).- Nếu chỉ thấy một bên thì là khiếm khuyết.
* VQ lập lại: Kiến Tánh là thấy Chân Tánh lẫn Huyễn Tánh của Vạn Pháp.- Mà không phải là Thấy "cái Tánh của riêng Mình" !

  • Cái Tánh nào "Hư Huyễn - Vọng Tưởng" thì cần Hóa Giải.
  • Cái Tánh thuộc Chân Như - Thanh Tịnh thì cần Hiển Lộ. (Giống như Bạn Hiếu đã cảm nhận: "cho tới trì giới, thiền định, mong cầu trí tuệ siêu việt thế gian cũng chẳng ngoài hai chữ Vô Minh" (hết trích).- ở đoạn trên.)
* Nhưng thật tế Chơn - Vọng không thể tách rời.- Vì Vạn Pháp Đồng NHƯ.
  • Kinh dạy: Ngôn Vọng hiển chư Chân.- Vọng-Chân đồng nhị vọng.
  • Đó là: Chơn & Vọng đồng thời Tánh.

Ồ !

Thì ra vạn pháp bất sinh,
Chỉ là giọt nắng lung linh vô thường.
Thì ra Tâm vốn tỏ tường,
Chỉ là một thoáng vấn vương bụi trần.
Thì ra Tâm- Pháp nào phân,
Chỉ là Tướng thấy phù vân đi về.
Thì ra Bờ Giác - Bến Mê,
Chỉ là hoa đốm.- Bốn bề Chân Không.
(TS Viên Minh)

Vấn đề MINH TÂM - KIẾN TÁNH trong Phật Học Thzy_r10
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Administrator

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,163
Điểm tương tác
1,159
Điểm
113
Bài 5.- Tánh Vô Minh- Chấp Ngã.

Chúng sanh phàm phu. Ai cũng có "Tánh cố chấp Bản Ngã", tức là chấp có "Cái Ta".

TS Th Thiện Siêu có bài luận rằng:

Đức Phật dạy vô ngã, không có ta mà chỉ có năm uẩn, danh sắc, thân tâm, trong khi đó chúng sinh đều thấy có ta, vậy cái ta ở đâu ra? Đến đây xin mời bạn đọc trắc nghiệm thử. Bạn hãy ngồi yên và khởi suy nghĩ theo hai cách sau đây:

1/ Hãy nghĩ: Tôi đói bụng.
2/ Hãy nghĩ: đói bụng. Bạn có thấy sự khác biệt gì không?

Đương nhiên là có: câu thứ nhất có chủ từ Tôi, và câu thứ hai nói trống không, không có Tôi. Nhưng khi đói bụng, bạn có bắt buộc phải nói theo cách thứ nhất không? Lỡ nói theo cách thứ hai thì bạn có hiểu là ai đói bụng không? Cái gì suy nghĩ và nói theo hai kiểu trên? Người thường, nếu không biết gì về ngũ uẩn hay vô ngã, sẽ nói ngay là Tôi suy nghĩ, giống y như triết gia Pháp Descartes đã nói: “Tôi suy nghĩ nên Tôi hiện hữu” (cogito ergo sum).

Nhưng đọc tới đây, chắc chắn bạn biết đó là cái tâm. Chính cái tâm suy nghĩ chứ không phải Tôi hay cái Ta suy nghĩ. Khi tâm suy nghĩ theo kiểu thứ nhất thì nó chế tạo ra cái Ta. Khi suy nghĩ theo kiểu thứ hai thì tâm vẫn biết suy nghĩ và không tạo ra thêm một chủ từ nào khác đại diện cho nó. Do đó ta có thể nói theo Descartes và sửa lại như sau: “L’esprit pense, donc je suis”, nghĩa là “tâm suy nghĩ, cho nên tôi có mặt”. Mỗi khi khởi niệm suy nghĩ, tính toán, phân biệt, lo lắng, tâm quên mất nó là chủ nên phải tạo ra một chủ từ Ta đại diện cho nó. Sự tự quên mình là chủ được gọi là bất giác vô minh. Vì bất giác vô minh, tự quên mình nên tâm lầm tạo ra cái Ta rồi bám chặt vào đó....
....Tâm bất giác vô minh tạo ra cái Ta và năm uẩn, quên mất bổn tánh thanh tịnh, say mê đắm đuối chấp ngã, chấp vào năm uẩn, để rồi lạc lối trong sinh tử muôn kiếp ngàn đời, không có ngày ra. Muốn trở về thì tâm phải xả bỏ, không chấp vào Ta và năm uẩn. Muốn hết chấp Ta thì phải tu vô ngã, đây là con đường chính thống của Phật giáo Nguyên thủy nói riêng và của Phật giáo nói chung. Riêng với Đại thừa Phật giáo thì mục tiêu chính là thành Phật, tức là trở về chân tâm, hay tánh giác. Hai mục đích có vẻ khác nhau, nhưng tu vô ngã cũng chính là trở về chân tâm, bởi vì chân tâm không có ngã, ngã chỉ là một vọng tưởng của tâm. Phật giáo Nguyên thủy nhấn mạnh về vô ngã, còn Đại thừa nhấn mạnh về chân tâm. Nhiều người muốn trở về chân tâm, Phật tánh, bổn lai diện mục nhưng không biết tu vô ngã. Tu vô ngã, dẹp trừ được sự chấp ngã chừng nào thì tiến dần về chân tâm chừng nấy. Không tu học vô ngã, lỡ ai đụng vào cái ngã, thì cái Ta nổi sân lên, không sân thì buồn, không buồn thì bực. Bị phiền não sai sử như vậy thì làm sao thấy được chân tâm? Diệt trừ được ngã chấp thì phiền não không khởi, tâm trở thành thanh tịnh sáng suốt. Một tâm thanh tịnh vô ngã thì gọi là tâm gì? Đó không phải là chân tâm hay sao? Chân tâm là tâm thanh tịnh, không phiền não, không còn bóng dáng của bản ngã. Khi hết mây đen thì bầu trời tự nhiên sáng. Nếu muốn trời trong mà không dẹp mây thì đến bao giờ trời mới sáng?

(hết trích)

Kính các Bạn:


  • "Cái Tôi" vốn không có.- Thế mà chúng ta chấp chặc "Thấy" là Có. Cái thấy sai lầm đó nhà Phật gọi là "Vô Minh"
  • Vô Minh có nhiều thuộc tính. Như: tham, sân, si v.v...Trong đó Chấp Ngã là căn bản . Ở đây cái Vô Minh Căn Bản này gọi là: Vô Minh- Chấp Ngã Tánh.- Tánh này vốn là "Hư Huyễn - Vọng Tưởng" nên cần Hóa Giải.- Khi hết Vô Minh chấp Ngã .- thì gọi là Trí Tuệ.- Mà Trí Tuệ là Mẹ sinh ra chư Phật. (Đây là cội gốc thành Phật)
    * Hết một phần Vô Minh, thì được một phần Trí Tuệ, tức một phần Giác.
  • * Giác Từng Phần. Thiên Thai, Trí Giả Đại Sư Gọi là .- Phần Giác tức Phật.
  • .* Còn gọi là Thanh Văn Bồ Đề. * Duyên Giác Bích Chi Phật.

Vấn đề MINH TÂM - KIẾN TÁNH trong Phật Học Di_lec10
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Administrator

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,163
Điểm tương tác
1,159
Điểm
113
Bài 6.- Huyễn Tánh.

Huyễn Tánh là Tánh Huyễn Hư, Giả tạm của các pháp.

Các Pháp có thể chia làm 2 loại: 1. Hữu Vi 2. Vô Vi

Thế nào là "Pháp Hữu Vi" ?

- Pháp hữu vi là pháp do nhân duyên hòa hợp vọng sanh, do nhân duyên sanh nên do nhân duyên diệt. Pháp do nhân duyên mới có nên là vô ngã, vì vô ngã nên vô thường, vì vô thường nên khổ, vì khổ nên bất tịnh (không ưng ý)

- Pháp Hữu Vi là những pháp do các duyên giả hợp mà có ra. Như cái nhà, chiếc xe, cây cối, con người, cầm thú v.v....

- Tất cả Pháp Hữu Vi đều do duyên hợp mà sanh nên chúng không thể độc lập mà trụ, sẽ theo duyên mà dị và hết duyên thì diệt.

- Hữu vi tiếng (有爲) Phạm: Saôskfta. Pàli:Saíkhata. Cũng gọi Hữu vi pháp. Pháp do tạo tác mà có. Chỉ chung cho các hiện tượng do nhân duyên hòa hợp mà được tạo ra. Cũng tức là tất cả hiện tượng trong quan hệ hỗ tương, sinh diệt biến hóa, lấy 4 tướng hữu vi sinh, trụ, dị, diệt làm đặc trưng. Ngược lại, pháp nào vĩnh viễn bất biến và tồn tại tuyệt đối thì gọi là Vô vi pháp.

- Pháp Hữu Vi theo duyên mà sanh, trụ, dị, diệt (thành, trụ, hoại, không), nên gọi là KHÔNG CÓ TỰ TÁNH. Chúng vô thường, biến ão không bền chắc.

Kinh Kim Cang Bát nhã dạy:

“Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
Như lộ diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.”

Dịch nghĩa:

Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng, huyễn, bọt, bóng,
Như sương, như chớp loé,
Hãy quán chiếu như thế.
(hết trích)

- Theo Câu xá luận quang kí quyển 5, thì nhân duyên tạo tác gọi là Vi , còn các pháp sắc, tâm từ nhân duyên, có sự tạo tác của nhân duyên, cho nên gọi là Hữu vi, do đó, Hữu vi cũng là tên khác của pháp duyên khởi.

Theo Tự điển Phật học online:

* Pháp hữu vi có thể chia ra 3 loại gọi là Tam hữu vi, đó là: Sắc pháp (vật chất), Tâm pháp (tâm) và Phi sắc phi tâm pháp (pháp bất tương ứng).

* Pháp hữu vi là pháp vô thường, chuyển biến, đổi dời trong từng sát na, vì thế cũng gọi là Hữu vi chuyển biến. Sinh, trụ, dị, diệt (Tứ tướng hữu vi) là đặc trưng căn bản của các pháp hữu vi, cũng có thuyết hợp 2 tướng trụ, dị làm một mà lập Tam tướng hữu vi.

* Tất cả các pháp hữu vi cuối cùng sẽ bị lìa bỏ mà đến Niết bàn, cho nên gọi là Hữu li. 4. Hữu sự: Sự là nhân, nghĩa là các pháp hữu vi đều từ nhân mà sinh ra, cho nên gọi là Hữu sự. Lại nữa, pháp hữu vi phải nhờ quan hệ nhân quả mới thành lập được, như vậy, phàm là pháp hữu vi thì nhất định sẽ sinh ra quả, cho nên Hữu vi cũng được gọi là Hữu quả. Ngoài ra, Hữu vi còn có tên khác là Hữu sát na vì nó có tính chất sinh diệt đổi dời trong từng sát na. (hết trích)

Pháp Hữu Vi là Như Huyễn.- Nhưng không phải là Không có, mà là Huyễn Có.

Đây là ý nghĩa HUYỄN TÁNH.

Tóm lại: Hữu Vi Pháp là Pháp do nhân duyên sanh, là HIỆN TƯỢNG của Chân Như Tâm. Tánh chất của Pháp Hữu Vi là: Có Sanh- có diệt. có Cấu- có Tịnh. có Tăng- có Giảm. có Đến- có Đi (Vô thường, khổ, bất tịnh).

+ Hữu vi cũng là tên khác của pháp duyên khởi.

+ Chúng sanh trú chấp Hữu Vi Pháp, sống bằng Hữu Vi Pháp, bị Hữu Vi Pháp chi phối.- Nên phải chịu sanh tử luận hồi ưu bi khổ não.

+ Tất cả các pháp hữu vi là Huyễn Pháp.

* Thế còn Vô Vi Pháp ?
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Phật dạy:

Tánh hữu vi vốn không,.
Duyên sanh nên như huyễn.
Vô vi không sanh diệt,.
Chẳng thật như hoa đốm,
(hết trích)

+ Như vậy. Đức Phật dạy: Pháp Vô Vi cũng là Không Thật. Nghĩa là cũng Huyễn Pháp mà thôi !

Huyễn Tánh là giáo Lý Phật dạy ở các kinh Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa...

Vấn đề MINH TÂM - KIẾN TÁNH trong Phật Học Qa111110

* TẤT CẢ PHÁP NHƯ HUYỄN.- ĐÓ LÀ HUYỄN TÁNH.
 

vienquang2

Administrator

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,163
Điểm tương tác
1,159
Điểm
113
Bài 7. - Vô Thường Tánh.

Nói đủ là: Chư Hành Vô Thường Tánh.(Tam Pháp Ấn)

Hành: hành là gì?

+ Là Hành Uẩn.- 1 trong 5 Uẩn để tạo thành 1 Ngã tướng.
Để đối trị bệnh chấp thường của chúng sanh. Đức Phật dạy Chân lý: Chư Hành Vô Thường .- Nghĩa là Thật Tánh của các sự vận hành của Tâm và Cảnh đều Vô Thường, sanh diệt.

+ Hành là sự vận động hoặc biến động của các pháp. Ví dụ: Đến đi là hình tướng của Hành.

+ Hành là làm cho hiện hành cái hữu vi (được điều kiện nên)
" Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là hành? Làm cho hiện hành (pháp) hữu vi nên gọi là hành. Làm cho hiện hành (pháp) hữu vi gì? Làm cho hiện hành sắc với sắc tánh, làm cho hiện hành thọ với thọ tánh, làm cho hiện hành tưởng với tưởng tánh, làm cho hiện hành các hành với hành tánh, làm cho hiện hành thức với thức tánh" (SN III.sI(d).pB.III:VII - MC)
15.1.2. hành là tư (có ý)

+ 3 loại hành:
Kinh dạy:"-- Này Gia chủ có ba hành: thân hành, khẩu hành và ý hành -- Thở vô thở ra, này Giả chủ, thuộc về thân. Các pháp này liên hệ đến thân; do vậy, thở vô thở ra là thân hành. Trước phải tầm cầu, tư sát, này Gia chủ, sau mới phát lời nói; do vậy, tầm và tứ là khẩu hành. Tưởng và thọ thuộc về ý. Những pháp này liên hệ đến tâm;do vậy, tưởng và thọ là ý hành." (SN IV.sVII:VI - MC)

* Sự Chấp Thường kiến của chúng sanh: Tức kiến chấp chủ trương thế giới là thường còn không biến đổi, cái Ta (hồn) của con người là bất diệt, cái ta của con người sau khi chết cũng không tiêu mất, lại có khả năng tái sinh và diễn lại hiện trạng tương tục, tức nói Ta là thường còn; chấp trước kiến giải này gọi là Thường kiến.

* Ngoại đạo chủ trương Thường kiến này gọi là Thường kiến ngoại đạo.
+ Những Chấp kiến đó là do không thấy.- Vô Thường Tánh.

  • Do Các Pháp Bản chất là Duyên Sanh- Vô Ngã.- Nên Có Tánh Vô Thường.
  • Trong 12 nhân duyên: Hành (và Hữu) là 2 chi thuộc về Nghiệp.

* Khi Vô Thường Tánh:

  • Tác động vào Hữu Tình.- Thì có hiện tượng : Sanh, Trụ, Dị, Diệt.
  • Tác động vào Vô Tình.- Thì có hiện tượng : Thành, Trụ, hoại, Không.

* Ở kinh Trung Bộ. Đức Phật dạy 3 Kiết sử phải đoạn trừ để được Tư Đà Hoàn:

1. Thân kiến,
2. Nghi,
3. Giới cấm thủ.

* Kiến được Vô Thường Tánh và Vô Ngã Tánh.- là 2 bước cần giải quyết là 1. Thân kiến,2. Nghi,và chỉ cần thêm giới cấm thủ là đủ để được quả Nhập Lưu.-

Kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật dạy:
Nhập Lưu thành Chánh Giác (Tức là đã thành "Tiểu Phật" rồi đó.).- Chỉ cần nuôi dưỡng thêm bằng "Sửa cam lồ Chánh Pháp" thì Pháp Thân ngày càng lớn mạnh, mà trở thành Đại Phật Như Lai.

Vấn đề MINH TÂM - KIẾN TÁNH trong Phật Học Tiau_p10
 

vienquang2

Administrator

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,163
Điểm tương tác
1,159
Điểm
113
Bài 8.- Phật Tánh.+ PHẬT LÀ GÌ ?

Kính các Bạn. Người tu Phật là muốn "Thành Phật".

Vậy nhưng:

  • PHẬT LÀ GÌ ?
  • CÁI GÌ THÀNH PHẬT ?
  • THÀNH PHẬT ĐỂ LÀM GÌ ?

* PHẬT LÀ GÌ ?

+ Phải chăng Phật là Ông Thần có quyền ban phước giáng họa ?
Đáp: Đạo Phật không phải là Thần giáo.- Phật nhất định không là Ông Thần.

+ Phải chăng Phật là Chơn linh có thể giáng cơ, bồi bút ?
Đáp: Phật không phải là "Hồn Ma bóng Quế" vất vưỡng buâng quơ.

+ Phải chăng Phật là kẻ ăn mày, mặc áo 7 màu, ôm nồi cơm điện đi ta bà thế giới kiếm cơm ?
Đáp: Phật không phải là chúa Cái bang hay vua khổ hạnh.- Do các youtuber gầy dựng, thổi phồng lên...

+ Phải chăng Phật là Người làm chuyện kỳ dị. Nói thơ, nói văn xàm xí ?
Đáp: Phật không phải là kẻ điên khùng. v.v...

+ Phải chăng Phật là những hình ảnh.- Đẹp lung linh, sắc màu lộng lẩy .

hoặc pho tượng đồ sộ, uy nghi ?

Đáp: Phật không phải là nhà họa sĩ, là máy photoshop, là nhà tạc tượng sáng tác ra "mấy ảnh !" để cho kẻ thiểu trí mê cuồng lạy lụt van xin...


tế.webp


Tóm lại: Phật là CON NGƯỜI mà là con người đã Giác Ngộ Chân lý (vậy thôi)
Phật dạy:

Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thanh cầu ngã,
Thị nhân hành tà đạo,
Bất năng kiến Như Lai.


DỊCH:
Như lấy Sắc (tướng) để thấy Ta
Lấy âm thanh cầu Ta
Người đó hành Tà Đạo,
Không thể thấy Như Lai
(K. Kim cang)

THẾ PHẬT GIÁC NGỘ CÁI GÌ MÀ GỌI LÀ PHẬT ?
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Administrator

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,163
Điểm tương tác
1,159
Điểm
113
Bài 9.- Phật Tánh. + CÁI GÌ THÀNH PHẬT ?

PHẬT GIÁC NGỘ CÁI GÌ MÀ GỌI LÀ PHẬT ?

Đáp:Có 2 phương diện chính:

+ Phật Giác Ngộ 1/. "CHÂN LÝ VŨ TRỤ" mà sau khi thành Đạo. Đức Phật đã dạy ở bài kinh Chuyển Pháp Luân".- Cô Động thành Giáo Lý Tứ Diệu Đế.- Đây là Giác ngộ Vũ Trụ Quan.

+ Phật Giác Ngộ 2/. TÂM & TÁNH mà Chư Tổ truyền thừa lại gọi là "MINH TÂM- KIẾN TÁNH".- Đây là Giác ngộ Nhân Sinh Quan.


  • Cái "Tâm" , cái "Tánh" mà chưa Giác Ngộ.- Là Chúng Sanh Tâm. Chúng Sanh Tánh.
  • Cái "Tâm", cái "Tánh" mà hoàn toàn Giác Ngộ.- Là Tâm Phật. Là Tánh Phật.

Dẫn đến xác quyết: "Tâm- Tánh" là Cái sẽ Thành Phật.

Như Đức Phật đã tuyên bố từ khi thành Đạo: "Tất cả chúng sanh đều có PHẬT TÁNH. Ta là Phật đã thành, Chúng sanh là Phật sẽ thành"

Thế PHẬT TÂM LÀ GÌ ? PHẬT TÁNH LÀ GÌ ?
 
Sửa lần cuối:

vienquang2

Administrator

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,163
Điểm tương tác
1,159
Điểm
113
Bài 10.-( Phật Tánh. tt) + TÂM LÀ GÌ ?

Tâm là đầu mối sinh tử. Tâm là căn bản giải thoát. Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là họa sĩ khéo. Tâm tạo ra ba cõi. Tâm chấp ngã là chúng sinh. Tâm vô ngã là Bồ tát. Tâm ích kỷ là phàm phu. Tâm vô lượng là pháp thân. Tâm ô nhiễm là khổ đau. Tâm thanh tịnh là Niết bàn. Tâm mê là chúng sinh. Tâm giác là Phật.

Tâm là tất cả, nhưng tâm là gì? Đã có không biết bao nhiêu loại tâm lý học, học thuyết và triết gia tìm cách trả lời tâm là gì. Ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu tâm trong phạm vi đạo Phật qua ngũ uẩn, Vi Diệu Pháp, Duy Thức, và Thiền tông.

+ Theo ngũ uẩn : Đơn giản mà nói, tâm là cái hay biết, biết suy nghĩ, tưởng nhớ, biết vui buồn, lo lắng, thương yêu, giận hờn, v.v... Trước khi nói hay làm một việc gì, người ta đều có suy nghĩ, tính toán. Mọi sự suy nghĩ, tính toán, thương ghét, tình cảm của con người đều do tâm làm chủ.

+ Theo giáo lý Nguyên thủy,: tâm không phải là một cục hay một khối cứng ngắc, mà là một luồng tư tưởng hay một chuỗi dài những chập tư tưởng sinh diệt. “Trong tiến trình luôn luôn biến đổi của đời sống, mỗi chập tư tưởng khi diệt, chuyển tất cả năng lực và những cảm giác thâu nhận cho chập tư tưởng kế tiếp. Mỗi chập tư tưởng mới gồm những tiềm năng do chập tư tưởng trước trao lại và thêm vào đó còn có cái gì khác nữa... Luồng tâm như một dòng suối luôn luôn trôi chảy”. Một chập tư tưởng sau không hoàn toàn khác chập trước mà cũng không tuyệt đối là giống. Cũng vậy một chúng sinh kiếp này khi chết chuyển tất cả nghiệp lực sang một chúng sinh kiếp tới. Hai chúng sinh này không hẳn là một mà cũng không phải là khác, bởi vì cùng nằm trong một luồng nghiệp, và một luồng tâm.

+ Lộ trình tâm Đặc biệt của Vi Diệu Pháp là nói về Lộ trình tâm (Cittavitthi), tức sự diễn tiến của một dòng tâm sinh diệt. Mỗi khi tiếp xúc với đối tượng hay trần cảnh, các loại tâm xảy ra theo một lộ trình phức tạp tùy theo từng hoàn cảnh. Thời gian khởi lên, trụ, và diệt của một tâm được gọi là sát na tâm (cittakkhana), một đơn vị cực ngắn chưa tới 1/1.000.000 giây.

+ Theo Duy Thức Học: Tâm vương gồm có 8 thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, Mạt-na thức, A-lại-da thức.(đều là Thức Tâm)

+ Theo Thiền tông: Thiền tông chủ trương “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Ngộ được tâm, thấy được tánh là mục tiêu chính của Thiền tông. Nhưng nếu hỏi tâm là gì thì Thiền tông không nói thẳng mà dùng rất nhiều danh từ để ám chỉ nó như: bổn lai diện mục, ông chủ, tánh giác, bổn tánh, chân tâm, chân ngã, chân không, pháp thân, chân như, v.v...

TỔNG HỢP VỀ TÂM: Ở đây chúng ta tạm thời tổng hợp và tinh giản lại về Tâm:

* TÂM là hoạt động của Hữu Tình Chúng Sanh.- Có 2 dạng thức:

  • CHÚNG SANH: Bị Vô Minh nên Nhận Vọng Tâm, nhận 4 Uẩn: Thọ, Tưởng, Hành, Thức làm Tự Tâm.
  • CHƯ PHẬT: Trí Tuệ soi tỏ nên Vô Tâm hay Chân Như Tâm .(đã tịnh hóa huyễn vọng)
Vấn đề MINH TÂM - KIẾN TÁNH trong Phật Học Qu_tze10

kinh “Tâm Địa Quán” có câu: “Trong Tam giới, tâm làm chủ, người quán thấy được tâm, thì sẽ được giải thoát triệt để, người không quán thấy được tâm, sẽ vĩnh viễn bị chìm đắm. ..’.” Nhưng cũng có cách Quán Không thấy được Tâm... như câu chuyện Tổ Huệ Khả quán Tâm.- Đó là "Thấy Vô Tâm" .- Cũng là một loại thấy Tâm.
 

vienquang2

Administrator

Thành viên BQT
Reputation: 100%
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,163
Điểm tương tác
1,159
Điểm
113
Bài 11.-( Phật Tánh. tt) + Phật Tâm ?.

Ở kinh Hoa Nghiêm.- Phật dạy:

Như tâm, Phật cũng vậy
Như Phật, chúng sanh đồng
Tâm, Phật và chúng sanh
Cả ba không sai khác
(Dạ ma cung kệ tán. HN)

Tâm, Phật, chúng sanh, thế giới luôn luôn đồng nhất (tương tức), dung thông không chia cắt (tương dung) như vậy. Tâm chúng sanh vốn là tâm Phật, chỉ vì vô minh vọng tưởng phân biệt rồi sanh ra các độc tham, sân, si, kiêu căng, ghen ghét… mà thành ra nhiễm ô tạm thời.

Có thế giới, có chúng sanh, có sanh tử, tất cả sai khác, là do TƯỞNG:

Tất cả chúng sanh trong mười phương
Đều là chúng sanh tưởng phân biệt
Tưởng, phi tưởng đều không chỗ đắc
Rõ thấu các tưởng là như vậy

(Phẩm Thập - hồi hướng- thứ 25).

Kính các Bạn: "TƯỞNG" chỉ cho Vọng Tưởng, tức Vô Minh.- Nó là bóng dáng của Tâm Chân Như
(vọng hiện không thật có.- Thế mà chúng sannh cố chấp tưởng là Thật có mà bị nó sai sử).


  • Chúng Sanh và Phật đều là Một Thể Chân Như không khác nhau (Tam vô sai biệt)
  • Nhưng chúng sanh chấp "TƯỞNG" (tức Vô Minh) làm Tâm.- Nên quên mất "Tâm Thể" (mà có Tâm sai khác).

Nói cách khác:

* Chúng Sanh do chấp "Tâm Tưởng".- Nên bị Tưởng cuốn lôi vào tham, sân, si v.v...(Tập Đế), thọ quả là sanh tử luân hồi (Khổ Đế).

* Phật do Giác Trí.- Nên không bị Vô minh tác động.- Phật thì : Thân, khẩu, ý do Trí Tuệ HÀNH (Đạo Đế), nên được Niết Bàn Lạc (Diệt Đế).

Kết luận:

* Phật Tâm là Chân Như Tâm, là Vô Tâm (không tâm tham, sân, si v.v..nên gọi Vô Tâm).
* Chúng Sanh Tâm là Vô Minh- Tưởng (vọng tâm)...Nên phải Sanh tử luân hồi ưu bi khổ não.- Mặc dù Tâm- Phật- Chúng Sanh thị tam vô sai biệt.- Chỉ do theo Vọng tưởng, quên Chân Như.

* Đến khi nào chúng sanh "Xã Mê Tùng Giác".- Đó là lúc Vãng Sanh Cực Lạc, là lúc Niết Bàn Thành Phật.
** Đến đây câu hỏi: + THÀNH PHẬT ĐỂ LÀM GÌ ?
Đáp:

+ Thành Phật để đắc Trí Tuệ, để hết mê mà thành Giác. Để hết Khổ vì sanh lão bệnh tử,

+ Thành Phật để được Niết Bàn an lạc, được Tịch Diệt Vô Sanh.

Vấn đề MINH TÂM - KIẾN TÁNH trong Phật Học Vzeng_13

Xin nhắc lại:

* Phật Tâm là Chân Như Tâm, là Vô Tâm (không tâm tham, sân, si v.v..nên gọi Vô Tâm).

* Chúng sanh cũng có Tâm này như Phật.- Không có khác .- Nhưng chúng sanh không biết để Thọ Nhận.- Mà chỉ nhận Vọng Tưởng làm Tâm.- Nên tự xa lìa Phật Tâm.

* Biết rõ: + Chân Như Tâm. cũng biết rỏ + Vọng Tưởng Tâm. gọi là Minh Tâm.

Chỗ luận giảng này trừng hải xin góp vài lời làm sáng tỏ;

Theo Thiền tông thì Tâm vốn Không tịch tức Không nên Tâm do duyên Cảnh mà sanh. Hay nói cách khác trước khi sanh do duyên Cảnh thì vốn là Không. Ngay sát na duyên Cảnh mà Y Thức (Vì Không vốn vô tác nên không ngăn ngại được nhiễm ô) thì sanh Tâm nhiễm ô (Phiền não, Nghiệp, Khổ). Ngược lại nếu Y Trí (Đạo thì vô ngại nên nên không gì có thể chướng ngại) thì Tâm vô nhiễm ô (Vô tham, Vô sân, Vô si) đó chính Minh Tâm.
Minh Tâm này ở Lăng Già Kinh gọi là Tinh Minh; Tinh nghĩa là thuần, bất tạp. Minh nghĩa là ánh sáng nên Tinh Minh là không còn bóng tối vô minh. Cho nên có thể nói rằng Minh Tâm chính là Tâm giải thoát Vô minh.
Tâm giải thoát Vô minh/Vidya này ở Nguyên thủy xác định là sát na đắc đạo quả mà nhoáng chứng Niết bàn nhập Tu đà hoàn hướng. Hành giả tiếp tục tu tập kiện hành y Pháp chỉ thì chứng đắc Tu đà hoàn quả (Kiện hành là Thủ lăng nghiêm tam muội theo Hán tạng).

Kính
trừng hải
sen2.webp

VQ cúng dường Bác Trừng Hải
 
Sửa lần cuối:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Top