Văn Sao Tục Biên (Quyển Hạ)

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>65. Lời tựa cho tác phẩm Tịnh Độ Tam Yếu Thuật Nghĩa</B>
(năm Dân Quốc 16 - 1927)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cư sĩ Lạc Quý Hòa ở Thiệu Hưng xưa đã có linh căn, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, tự hành, dạy người, chỉ chăm chú tín nguyện trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Lại còn chú trọng giữ vẹn luân thường, nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính mình, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh vật, mến tiếc sanh mạng loài vật. Lại cho rằng đề xướng nhân quả báo ứng và giáo dục gia đình là diệu pháp duy nhất không hai để vãn hồi thế đạo, nhân tâm. Thật có thể gọi là "người biết được cái gốc để cấp bách chú trọng trước tiên". Lúc cư sĩ còn trẻ, rất hâm mộ chí hướng <I>"chẳng làm lương tướng, ắt phải làm lương y"</I> của cổ nhân, bèn lưu tâm nơi y lý để mong lợi người. Lâu ngày, tinh thông y thuật, khá nổi tiếng. Kế đó, nghĩ: "Tâm bệnh là gốc, thân bệnh là ngọn; nếu chẳng trị tâm bệnh sao cho hết thảy mọi người đích thân thấy được bản lai diện mục, thoát lìa sanh tử luân hồi thì lợi ích rất nhỏ, rốt cuộc chẳng phải là đạo tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha. Đời coi đức Phật là Đại Y Vương, ta hãy nên cầu y thuật nơi Ngài ngõ hầu ta cùng người đều được rốt ráo yên vui". Do vậy, giao du với các thiện tri thức, nghiên cứu kinh Phật, mới biết y thuật của đức Phật độc nhất vô nhị trong cõi đời, như ra khỏi nhà tối thấy được mặt trời, tấm lòng vui sướng không thể nào sánh ví được!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng đức Phật nói ra vô lượng vô biên pháp môn, cầu lấy pháp trực tiếp, nhanh chóng nhất, viên đốn nhất, thực hiện dễ, thành công cao, ngõ hầu nghiệp lực phàm phu do không có sức đoạn Hoặc sẽ có thể ngay trong đời này thoát khỏi tam giới lên chín phẩm sen, bỏ thân phàm dự vào dòng thánh thì chỉ riêng một pháp Tịnh Độ là được như vậy mà thôi! Do vậy, lắng lòng nghiên cứu, hiểu được cương yếu, gặp dịp pháp sư Hoa Trí kết xã niệm Phật, [pháp sư] bèn xin [cư sĩ] thay mình tuyên giảng, giảng đến đâu ghi đến đó, thành một cuốn sách, từng đăng tải trên báo Đại Vân để tặng những người cùng chí hướng. Phàm ai thấy nghe đều hoan hỷ, tán thán, bảo là hợp với căn cơ. Các cư sĩ thuộc hội Phật học ở Dư Diêu khuyên nên in ra để lưu truyền, cậy tôi viết lời tựa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôi nghĩ pháp Tịnh Độ lý - sự viên dung, tánh - tu chẳng hai, phàm lẫn thánh đều thâu nhiếp trọn vẹn. Hết thảy pháp môn, hà sa diệu nghĩa không gì chẳng lưu xuất từ pháp giới này, không gì chẳng trở về pháp giới này! Như biển cả dung nạp khắp trăm sông, dường thái hư chứa trọn muôn hình tượng. Quả thật là pháp môn vô thượng thành thủy thành chung để mười phương chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Vì thế, được chín giới cùng tuân hành, mười phương chung khen ngợi, ngàn kinh đều xiển dương, muôn luận cùng tuyên nói. Tôi nói lời này, nếu có ai chẳng tin, xin hãy chất vấn Phổ Hiền Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm, ngõ hầu cùng dự vào Hoa Tạng hải hội, nhất trí tiến hành, để đều mong sao trong đời này vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, tấn tu dần dần cho đến khi viên chứng vô thượng Bồ Đề mới thôi! Cao đẹp thay! Tốt lành thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(151) "Tri hành hợp nhất" là học thuyết của Vương Dương Minh (tức Vương Thủ Nhân 1472-1558). Ông chủ trương cái học, cái biết phải đi đôi với việc làm, kiến thức phải phù hợp với hành động, biến những điều đã học thành hành động thực tiễn, chứ không phải chỉ để nói xuông, lòe đời.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>66. Lời tựa cho sách Vật Do Như Thử</B>
(năm Dân Quốc 25 - 1936)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật. Phật xem hết thảy chúng sanh đều là Phật, nên kinh Phạm Võng nói: <I>"Ta là Phật đã thành, các ông là Phật chưa thành. Nếu tin được như vậy, giới phẩm đã đầy đủ"</I>, bởi lẽ, tin chính mình là Phật chưa thành thì chắc chắn muốn cải ác tu thiện, phát tâm Đại Bồ Đề tự lợi, lợi tha, ngõ hầu đoạn sạch Phiền Hoặc, đích thân chứng được Chân Như Phật Tánh sẵn có nơi cái tâm này. Tin hết thảy chúng sanh trong sáu đường đều là Phật chưa thành, chắc chắn sẽ tận lực khuyên lơn, chỉ bảo, duy trì đồng loại, chắc chắn chẳng làm chuyện tranh giành, tàn sát lẫn nhau, chắc chắn sẽ muốn kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, tạo sự thuận lợi lớn lao cho dị loại, chắc chắn sẽ không có cái tâm thảm độc ăn thịt kẻ khác để bồi bổ cho ta. Do con người chẳng biết chính mình và hết thảy chúng sanh đều là Phật chưa thành nên mới tranh chấp, giết người ngập thành, ngập đồng chẳng tiếc nuối, cũng như giết thân chúng nó hòng thỏa thích bụng miệng ta.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người đời sát sanh quen thói nên coi thường, sự thể lớn - nhỏ gì cũng đều phải giết chóc. Tế thần, cúng giỗ tổ tông, phụng dưỡng cha mẹ, đãi khách, không có thịt sẽ chẳng thể thành lễ được! Đem chuyện cực khổ, cực thảm giáng xuống thân loài vật, nhằm biểu thị tấm lòng thành khẩn, hiếu kính của ta. Nếu luận trên phương diện mê muội thì còn chấp nhận được, chứ luận trên thực tế thì đáng thương quá đỗi! Do hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay luân hồi sáu nẻo, lần lượt làm cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, sanh ra lẫn nhau, trở thành oan gia đối đầu của nhau, tuần hoàn báo thù, đền đáp, giết hại lẫn nhau. Trong các kinh Đại Thừa, đức Phật đã nhiều lượt khuyên răn nhưng ít kẻ thấy nghe. Dẫu được thấy nghe, nhưng kẻ tin nhận, vâng làm, lại càng ít hơn nữa!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do vậy, Phật dùng lòng Đại Bi, hiện trong dị loại để con người giết ăn. Đã giết xong, bèn hiện các tướng lạ ngõ hầu hết thảy mọi người biết là do Phật hiện, mong dứt sát kiếp để chúng sanh được yên. Như vỏ sò nghêu, hông bò, móng dê, răng lợn, yếm ba ba đều có [hình ảnh] đức Phật ngự [trong ấy] khiến tai mắt con người [thấy nghe] phải kinh sợ, dứt cơ duyên giết chóc trong cõi đời, những chuyện như vậy được ghi chép trong sử sách kể sao cho trọn? Trước khi giết đều nói là loài thú, đã giết rồi, mới biết là Phật. Do vậy biết sát sanh chẳng khác gì giết Phật! Dẫu không phải do đức Phật hiện ra, cũng vẫn là Phật đời vị lai. Giết ăn thì tội quá biển cả, núi non, hãy gấp đau đáu răn chừng ngõ hầu được giải thoát. Phải biết: Con người và loài vật tuy khác, mang hình dạng có linh tánh hay ngu xuẩn, kẻ ngốc tâm thức tối tăm, loài vật có linh tánh thì trí lại sáng rỡ: Ngũ Luân, Bát Đức<SUP><B>(152)</B></SUP></B> cố nhiên chẳng nhường con người, lòng thành tha thiết so ra còn sâu đậm hơn con người. Dám cậy ta mạnh, giết chúng nó ăn thịt, đến nỗi trong tương lai thường bị kẻ khác ăn!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lần xem sử sách, từ xưa đến nay, phàm những ai lợi người lợi vật con cháu nhất định hiền thiện, phát đạt; những kẻ nào hại người hại vật con cháu nhất định tầm thường, kém cỏi, diệt tuyệt. Vì thế, Khổng Tử khen ngợi Châu Dịch rằng: <I>"Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương"</I> (Nhà tích thiện sự vui có thừa, nhà tích điều bất thiện, tai ương có thừa). "Dư khánh, dư ương" chính là những thứ thừa sót lại của "chánh khánh, chánh ương". Chánh khánh, chánh ương là những gì bản thân người ấy phải thọ trong đời kế tiếp hay trong những đời sau nữa do tích thiện hay tích bất thiện, so với dư khánh, dư ương sẽ còn hơn gấp trăm ngàn vạn ức lần! Nếu con người biết được điều này, chắc chắn chẳng chịu vì sung sướng nhỏ nhặt một lúc để rồi vĩnh viễn chịu đựng mối họa hại lớn lao đến vô cùng!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong thời Gia Khánh - Đạo Quang nhà Thanh, tại huyện Quảng Phong tỉnh Giang Tây, Thái Sử Từ Khiêm, tự Bạch Phảng, ẩn cư soạn sách hòng giác thế yên dân, chí thiết tha răn kiêng giết, đọc rộng các sách, phàm những đức hạnh tốt đẹp của loài vật đều tập hợp lại, soạn thành một cuốn sách, phân chia thành mười bốn tấm gương hiếu hữu, trung nghĩa, trinh liệt, từ ái, thương kẻ cô độc, quyến luyến nghĩa cũ, giữ chữ tín, giữ phận khiêm tốn, giúp đỡ điều lành, cứu nạn, báo đức, rửa sạch tiếng oan, hiểu biết nhiều thứ, thông minh trí huệ, đặt tên là Vật Do Như Thử (loài vật còn như thế ấy). Ấy là vì muốn cho người thấy kẻ nghe đều phát khởi [tấm lòng] giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thấu hiểu đức hiếu sanh của trời đất, chẳng tàn sát dị loại, đề cao nỗi lòng "coi mọi người như ruột thịt, coi muôn vật như chính mình" của đạo Nho, che chở khắp quần sanh. Nghĩ đến những loài vật ấy còn có những hạnh đẹp như thế, mà chúng ta mang tấm thân sáu thước, sánh cùng trời đất thành ba ngôi, xưng là Tam Tài, lại còn được kinh sách của thánh hiền giáo huấn, nếu chẳng kế thừa người xưa, mở lối cho người đời sau, tán trợ quyền sanh thành, dưỡng dục của trời đất, yêu dân, thương vật, hòng thỏa tấm lòng Từ của trời đất thì chẳng những đã cô phụ ân sâu nuôi dạy của trời đất, thánh hiền, mà còn hết sức thẹn với những dị loại bay, chạy, lặn ngụp nữa! Sẽ nói đến những chuyện như thế này: Nên hiếu thảo với cha mẹ, kính trọng anh, trung với chủ, trọn hết nghĩa như thế nào, dùng Ngũ Luân để hành Bát Đức, nên bác ái, cứu vớt rộng khắp như thế nào để thực hành đại đạo "bình đẳng đối đãi", nên như thế nào đánh đổ sự ham muốn xằng bậy của chính mình để tu trì, hòng chẳng khiến cho đấng sanh ra ta phải hổ thẹn, chẳng bị trời đất quỷ thần thương xót, chẳng bị trời đất quỷ thần xem thường, vứt bỏ, chẳng bị hết thảy loài vật khinh miệt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông Từ nhân phẩm cực thuần, học vấn cực rộng, tiếc rằng đời trước chưa từng gieo thiện căn rõ ràng, đời này cũng chẳng thân cận bậc thiện tri thức sáng mắt, đến nỗi đối với Phật pháp hay ngoại đạo đều chẳng phân biệt được tà - chánh, chân - ngụy. Vì thế, trong cuốn Hải Nam Nhất Chước do ông trước tác, đã đem quyển Trung và quyển Hạ của Tâm Kinh do ngoại đạo ngụy tạo – quyển Hạ có hai loại – xếp chung ba thứ ngụy tạo này với Tâm Kinh chân chánh do đức Phật nói, tôn trọng như cùng một thể, chẳng hề thua kém nhau! Điều này tạo ra thói tệ khiến cho những kẻ không hiểu Phật pháp sẽ coi tà là chánh, xem ngụy là chân, khiến cho các ngoại đạo biến chánh thành tà, biến chân thành ngụy. Trong cuốn sách này (tức cuốn Vật Do Như Thử), mười ba tấm gương đầu chỉ luận về luân thường, cố nhiên không gì chẳng thích đáng. Trong tấm gương thứ mười bốn, lời phê bình về sự thông huệ [của ông Từ Khiêm] khó tránh khỏi khuyết điểm tà - chánh chẳng phân, mong độc giả hãy suy xét tường tận.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông Lý Tuấn Thừa ở huyện Vĩnh Xuân, tỉnh Phước Kiến, pháp danh Huệ Giác, nhiều năm buôn bán tại Tinh Châu (Singapore) và Nam Dương. Do đứa con thứ là Nghi Tông bị bệnh, gởi món tiền một ngàn sáu trăm đồng xin Quang ấn tống những kinh sách vãn hồi kiếp vận, uốn nắn thế đạo nhân tâm, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng loài vật v.v... Quang thấy thế đạo nhân tâm ngày càng đi xuống là do Tống Nho đả phá, bài xích nhân quả, luân hồi, bảo đức Phật dùng những điều ấy để lừa bịp ngu phu ngu phụ tuân phụng giáo hóa của Ngài, chứ thật ra không có chuyện ấy. Do vậy, thiện không có gì để khuyên, ác không có gì để phạt, đến nỗi hùa nhau phế kinh điển, phế luân thường, tranh đất, giành thành, tàn sát lẫn nhau, không thể nào chấm dứt được!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Muốn vãn hồi sát kiếp thì phải bắt đầu từ kiêng sát sanh. Sách kiêng giết rất nhiều, nhưng sách cảm động lòng người, ngăn dứt cơ duyên giết chóc thì sách này có thể tôn là bậc nhất; bởi lẽ, loài vật còn có những hạnh cao đẹp như thế, người có lòng nghĩ đến người khác nào dám buông lung giết ăn nữa ư? Trong lời tựa lại giảng rõ ta và loài vật đều là Phật chưa thành, đức Phật muốn ngưng dứt sát kiếp trong cõi đời, liền chẳng tiếc sức hiện thân trong dị loại để cũng bị con người giết; đã giết rồi mới biết là do Phật hóa hiện. Kẻ biết tốt - xấu sẽ chẳng dám buông lung giết ăn y như cũ để tự chuốc lấy nỗi lo. Tuy cuốn sách này chẳng nói đến chuyện kiêng giết, nhưng quả thật là sách đứng đầu về kiêng giết, chấn động kẻ điếc, sáng mắt người đui, khiến cho những ai xem thấy đều dấy lòng, đều tự suy nghĩ: "Loài vật còn như thế, lẽ nào con người thua chúng?" bèn cực lực sốt sắng hành trì để khỏi hổ thẹn. Từ đấy, gắng sức trọn hết thiên chức, sống chẳng làm thây đi thịt chạy, tận lực tu tịnh hạnh, chết sẽ về thẳng thế giới Cực Lạc, sẽ thấy lễ nghĩa, nhân nhượng hưng khởi, can qua chấm dứt, thiên hạ thái bình, chánh trí mở mang, tà chấp tiêu diệt, sự giáo hóa của Phật được rộng khắp. Do vậy, cho tái bản sách này, dùng hết số tiền ông ta đã gởi để ấn tống, ngõ hầu người thấy nghe đều có được khuôn mẫu để làm người, làm Phật vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(152) Ngũ Luân: Năm mối quan hệ trọng yếu giữa người với người: Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bát đức: Hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>67. Lời tựa sách Kỹ Lộ Chỉ Quy</B>
(năm Dân Quốc 25 - 1936)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tam giới không đâu chẳng phải là quán trọ, [chúng sanh trong] lục đạo đều là kẻ nghèo cùng. Tuy hứng chịu khổ - vui tạm thời sai khác, nhưng hết vui sẽ tới khổ, rốt cuộc chẳng phải là chỗ an thân lập mạng rốt ráo! Do vậy, đức Thích Ca Thế Tôn ta đặc biệt rủ lòng thương xót, thị hiện giáng sanh trong thế gian, thị hiện thành Chánh Giác, tùy theo căn cơ chúng sanh nói đủ mọi pháp khiến cho khắp các chúng sanh đều theo đường về nhà, nhận lãnh của gia bảo, vĩnh viễn hưởng an lạc. Nhưng các pháp ấy mỗi pháp lợi lạc cho một loại căn cơ, lại chẳng dễ tu tập, dẫu tu cũng khó thể liễu thoát ngay trong đời này, bởi hoàn toàn cậy vào sức Giới - Định - Huệ của chính mình để đoạn Hoặc chứng Chân thì mới thoát sanh tử. Chúng sanh đời Mạt Pháp khó lòng trông mong được! Do lòng đại từ bi, đức Như Lai lại bày ra một pháp môn đặc biệt, đó là "tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương", để những người đã đoạn Hoặc sẽ nương vào Phật từ lực mau chứng Bồ Đề, kẻ chưa đoạn Hoặc sẽ nương vào Phật từ lực liền thoát sanh tử. Thích hợp khắp ba căn, gồm thâu trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn; thượng thánh hạ phàm cùng nương về, kẻ mới phát tâm lẫn người tu lâu đều cùng tiến. Pháp môn này không riêng gì phàm phu đầy dẫy phiền não nên chuyên tu, ngay cả bậc Đẳng Giác Bồ Tát sắp thành Phật cũng cần phải dùng mười đại nguyện vương hướng dẫn về Cực Lạc thì mới có thể viên thành Phật quả. Pháp môn lớn lao như hư không chứa đựng rộng khắp, pháp môn lợi ích như mùa Xuân khiến cho khắp mọi loài sanh trưởng; trọn cả kiếp tán dương cũng khó lòng cùng tận.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quang nghiệp chướng sâu nặng, trí huệ cạn mỏng, mấy chục năm qua chuyên tu pháp này. Gần đây, các ông Chiến Đức Khắc và Lý Đức Minh ở Cử Thành, tỉnh Sơn Tây, lầm nghe người khác nói, gởi thư xin quy y. Do vậy, liền dạy họ "hàng phàm phu sát đất muốn liễu sanh thoát tử ngay trong đời này mà nếu không niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì trọn chẳng có pháp nào khác để mãn nguyện cả!" Lại gởi cho họ những sách như Văn Sao v.v... để làm căn cứ tu trì. Ông Đức Khắc bèn dựa theo những ý nghĩa ấy, soạn ra cuốn Kỹ Lộ Chỉ Quy (chỉ đường về nơi ngã rẽ), mượn hình thức vấn đáp để tháo gỡ nghi ngờ, làm sáng tỏ tông chỉ. Lại cậy ông Đức Minh giảo duyệt, chí mong lợi người chẳng tiếc tâm lực. Sách đã được ấn hành lưu thông, gởi sách đến [chỗ Quang] cầu ấn chứng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quang đọc xong, khôn ngăn an ủi, vui vẻ. Trong ấy có chỗ câu chữ, ý nghĩa chưa viên mãn, sợ độc giả khó thể lãnh hội, nên sửa chữa đôi chút để vừa xem sẽ hiểu ngay, trọn chẳng còn nghi ngờ, bàn bạc nữa! Cho ấn hành để lưu thông rộng rãi ngõ hầu [người đọc] đối với giáo điển trong suốt một đời đức Phật, chỉ nương theo một pháp khế lý, khế cơ "tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương" để tu. Các pháp khác tuy cao sâu huyền diệu, rộng lớn tinh vi, khế lý nhưng không khế cơ đều để làm căn cứ sau khi vãng sanh sẽ tự hành, dạy người. Đối với đủ mọi tà kiến, kiến giải sai lầm, truyền dạy riêng tư, bí mật chẳng truyền của hết thảy ngoại đạo, những lời nói nhăng nói cuội tự xưng là "thật sự được tâm truyền của Phật, Tổ" cần gì phải nhắc đến nữa! Tu chỉnh xong xuôi, sắp giao cho thợ in, lại nhận được bài Phát Lộ Sám Hối Văn của ông Thành Phục Sơ gởi đến. Đây cũng là một sự chỉ dạy đường về nơi ngõ rẽ lớn lao rất phổ thông; do vậy, bèn đem in kèm vào sau sách hòng lưu thông rộng rãi để làm gương soi cho người khắp cõi đời vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>68. Lời tựa [giãi bày ý nghĩa việc] Cúng Tế Tổ Tiên Bằng Cỗ Chay</B>
(năm Dân Quốc 25 - 1936)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chuyện ăn thịt là chuyện kỳ quái nhất, nhưng do quen làm đã lâu, chẳng biết là sai, ngược ngạo coi đó là lễ. Vì thế, tế trời đất, cúng giỗ tổ tông, phụng dưỡng cha mẹ, đãi đằng khách khứa đều dùng thịt làm vật biểu thị tấm lòng cung kính. Thánh nhân thế gian chẳng nói đến sự lý nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo, cũng tùy thuận tâm tình của thế tục mà làm theo, nhưng vẫn ra rả về đạo "thương dân, yêu vật". Suy từ lòng nhân yêu thương loài vật của thánh nhân, đủ biết sự vô nghĩa của việc dùng thịt nhằm biểu lộ lòng thành, lòng hiếu thảo, hay lòng cung kính! Để biểu thị tấm lòng thành, hiếu thảo, cung kính của ta, hãy nên dùng những món hết sức nhân từ, tươi tắn, thanh tịnh thì mới nên, sao lại dùng những con vật hết sức ô uế như heo, dê, gà, vịt, cá, tôm v.v… Chúng đang sống sởn sơ lại đem giết chết. Lúc những con vật ấy chết, nỗi đau đớn thảm khốc, lòng oán hận khó thể tuyên nói được. Người có lòng nhân sao nỡ giết những con vật ấy để biểu thị tấm lòng của chính mình ư? Hãy thử suy nghĩ xem lòng thành kính ấy có phải là lòng thành kính thuận lý hay không? Hay là lòng thành kính trái đức vậy? Người nhân cúng giỗ tổ tiên còn tìm thóc từ nơi người có lòng nhân. Nay cầu món thịt bị giết, bị chặt mà là thành kính hay sao?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do vậy, nói: Sát sanh để tế trời đất chính là trái nghịch đức hiếu sanh của trời đất, thiên thần địa kỳ<SUP><B>(153)</B></SUP></B> há coi những con vật ô uế ấy là thơm sạch mà hâm hưởng<SUP><B>(154)</B></SUP></B> hay sao? Phàm những kẻ cúng tế chỉ là muốn mượn cớ đó để ăn những thứ đồ cúng đấy thôi! Đối với chuyện cúng tế tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ, đãi đằng khách khứa, hãy nên nghĩ cách có ích cho tổ tông, cha mẹ, khách khứa thì mới hợp lý. Nay dùng sát nghiệp cực thảm khốc để biểu thị tấm lòng hết sức thành kính của ta, khiến cho tổ tông, cha mẹ, khách khứa đều phải mang lấy cái họa do sự giết chóc thì tấm lòng thành kính ấy chính là họa hại, chứ chẳng phải là thành kính! Huống chi hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ quá khứ, là chư Phật vị lai, chẳng càng ra sức cứu vớt, lại ngược ngạo biểu thị lòng thành kính của ta bằng cách ra tay sát hại ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh Phạm Võng dạy: <I>"Nếu là Phật tử thì do lòng Từ nên thực hiện chuyện phóng sanh. Hết thảy người nam là cha ta, hết thảy người nữ là mẹ ta. Ta đời đời không lúc nào chẳng được họ sanh ra. Vì thế, chúng sanh trong lục đạo đều là cha mẹ ta, giết để ăn thịt tức là giết cha mẹ ta vậy"</I>. Kinh Lăng Nghiêm nói: "Do con người ăn dê, dê chết thành người, người chết thành dê, chết chết, sống sống, ăn nuốt lẫn nhau, do ác nghiệp cùng sanh đến hết đời vị lai. Ngươi thiếu mạng ta, ta trả nợ ngươi. Do nhân duyên ấy, trải trăm ngàn kiếp thường ở trong sanh tử!" Phẩm Đoạn Thực Nhục (bỏ ăn thịt) của kinh Nhập Lăng Già dạy: <I>"Hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay luân hồi chẳng ngơi trong sanh tử, không ai chẳng từng là cha mẹ, anh em, con cái, quyến thuộc cho đến bạn bè, người thân ái, tôi tớ, đổi sang kiếp khác lại mang những thân cầm thú v.v... Sao lại giết chúng để ăn thịt?"</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người đời chỉ biết đời hiện tại, chẳng biết đến quá khứ, vị lai. Vì thế, giết thân chúng nó để no ứ bụng ta, coi đó là lẽ đương nhiên. Nếu biết đời đời kiếp kiếp phải đền trả lẫn nhau, cũng như ta và những con vật ấy là cha mẹ, anh em, quyến thuộc của nhau, sanh ra nhau, là oán gia đối đầu của nhau, giết lẫn nhau, đừng nói chẳng dám tự ăn, dù tế lễ trời đất, tổ tông, phụng dưỡng cha mẹ, đãi đằng khách khứa cũng chẳng dám dùng thịt! Bởi lẽ, thịt là vật do tinh huyết tạo thành, nói trời đất thần thánh hưởng những thứ ấy, khác gì vu báng các ngài ăn thịt người! Cúng giỗ tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ, đãi đằng khách khứa, nào khác giết tổ tông, cha mẹ, khách khứa trong quá khứ để cung phụng tổ tông, cha mẹ, khách khứa trong hiện tại, lại còn khiến cho tổ tông, cha mẹ, khách khứa [trong hiện tại] bao kiếp phải thường chịu quả báo giết hại ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chớ nói con người luân hồi thành súc vật là chuyện mờ mịt khó thể tra cứu, sử sách đã ghi chép nhiều không thể kể xiết! Ngay cả những chuyện thấy nghe gần đây cũng chẳng ít gì! Vì thế, đương nhiên phải tin tưởng sâu xa, đừng tạo sát nghiệp, do đã tạo sát nghiệp ắt sẽ phải chịu sát báo! Kinh dạy: <I>"Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả"</I>. Sợ nhân thì chẳng gây nhân giết chóc, sẽ tự chẳng có sát báo. Sợ quả chỉ là uổng công kinh sợ, trọn chẳng có ích gì! Ông Châu Thiện Xương ở Dư Diêu từ sau khi quy y chẳng ăn đồ mặn, do năm sau nhằm đúng dịp ông phải lo liệu cỗ bàn cúng giỗ vị tổ đời thứ hai mươi chín là Liễu Am Công. Những vật phẩm để cúng từ trước đến giờ đều có lệ nhất định rồi, chẳng được thay đổi. Ông ta đã bàn bạc sẵn biện pháp với tộc thúc tổ (ông chú trong họ) là cụ Sở Thường. Cụ Thường là người thông suốt, hiểu lý, hết sức tán thành. Bèn vào ngày Đông Chí, tập hợp cả họ bàn bạc, kể từ năm sau trở đi, từ rày giỗ tổ nhất loạt dùng đồ chay, chẳng dùng cỗ mặn. Mọi người đều cùng chấp thuận, vĩnh viễn lấy đó làm lệ nhất định, cậy tôi viết lời tựa để con cháu đời sau và những người thấy nghe ai nấy đều hành lòng hiếu chân chánh. Do vậy, bèn nói đại lược nguyên do như thế đó.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(153) Thiên thần địa kỳ: Thần trên cõi trời gọi là “thiên thần”, thần cai quản cõi đất được gọi chung là "địa kỳ".
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(154) Hâm hưởng: Quỷ thần hưởng thụ vật cúng bằng cách ngửi mùi thì gọi là "hâm hưởng".</P>
</span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>69. Lời tựa cho bản Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh được viết bằng lối chữ Khải</B>
(năm Dân Quốc 24 - 1935)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thật Tế lý địa chẳng lập mảy trần, phàm - thánh, chúng sanh - Phật đều khó xưng nói. Về phương diện tu trì, cần phải đầy đủ các đức. Nếu thiếu một pháp, chẳng thể chứng Pháp Thân được! Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ta trong trần điểm kiếp<SUP><B>(155)</B></SUP></B> trước đã sớm thành Chánh Giác, vì độ chúng sanh bèn thị hiện giáng sanh trong thế gian, ẩn dấu thánh đức, thị hiện chưa ngộ giống như chúng sanh để làm gương cho muôn loài. Xuất gia, tu đạo, đến lúc sao Mai vừa lố dạng, hoát nhiên đại ngộ, than rằng: <I>"Lạ thay, hết thảy chúng sanh đều sẵn đủ trí huệ của Như Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp trước mà chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng, chấp trước thì Nhất Thiết Trí, Vô Sư Trí, Tự Nhiên Trí</I><SUP><B>(156)</B></SUP></B> <I>đều được hiện tiền"</I>. Do vậy, trong hội rộng lớn như biển, [những vị] tụ họp như mây nhóm về thế giới Hoa Tạng đều là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, tức các Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị. Trong Bồ Đề Tràng và sáu nơi khác<SUP><B>(157)</B></SUP></B>, nói Nhất Chân pháp giới tịch chiếu<SUP><B>(158)</B></SUP></B> viên dung, chúng sanh và Phật chẳng hai, lý tánh chẳng thể gọi là có hay không, và sự tu nhân chứng quả của các giai đoạn từ Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác cho đến Diệu Giác Phật Quả.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì thế, biết: Lý do sự hiển, sự do lý thành, lý sự viên dung mới hợp Phật đạo. Đời có kẻ cuồng chuyên trọng lý tánh, chẳng chuyên chú sự tu, trên là trái nghịch lời Phật dạy, dưới là phụ bạc tự tâm, tự lầm, lầm người, thật đáng thương xót! Kinh này gồm tám mươi mốt quyển, ba mươi chín phẩm, Thanh Lương quốc sư chia thành bốn phần Tín - Giải - Hạnh - Chứng. Lại gọi sáu phẩm thuộc phần Tín là Sở Tín Nhân Quả Châu<SUP><B>(159)</B></SUP></B>. Ba mươi mốt phẩm kinh thuộc phần Giải được chia thành hai Châu: Hai mươi chín phẩm đầu gọi là Sai Biệt Nhân Quả Châu, hai phẩm sau gọi là Bình Đẳng Nhân Quả Châu. Phần thứ ba là Hạnh gồm một phẩm kinh, được gọi là Thành Hạnh Nhân Quả Châu. Phần thứ tư là Chứng gồm một phẩm kinh, được gọi là Chứng Nhập Nhân Quả Châu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Châu" có nghĩa là sự lẫn lý đều trọn đủ, không bị khiếm khuyết. Đại cương của trọn bộ kinh đã được nêu ra hết sạch, y theo đây để tu trì sẽ đạt thẳng tới chỗ sâu thẳm. Tám hội trước trọn chẳng có phàm phu, Nhị Thừa. Tuy có thiên long bát bộ, nhưng đều là bậc đại quyền thị hiện, chẳng thật sự là phàm phu bị trói buộc bởi nghiệp. Một hội cuối tuy có Thanh Văn như ngài Xá Lợi Phất v.v... dẫu đã chứng thánh quả, nhưng ở trong hội chẳng thấy được Pháp Thân thắng diệu của đức Như Lai, chẳng nghe diệu lý viên đốn Nhất Thừa, chỉ thấy thân ứng hóa của Như Lai và nghe pháp sanh diệt Tứ Đế mà thôi. Đấy gọi là <I>"một thân hiện tướng, nhưng thấy thù thắng hay kém hèn khác biệt; một âm thuyết pháp, nhưng nghe thành pháp Thiên hay Viên khác biệt"</I>. Đến khi ngài Văn Thù đến trước Đại Tháp Miếu nơi Phước Thành<SUP><B>(160)</B></SUP></B>, Thiện Tài<SUP><B>(161)</B></SUP></B> thân cận Văn Thù, đã chứng trọn tâm Thập Tín rồi, vâng lời ngài Văn Thù dạy, đi về phương Nam tham học với năm mươi ba vị thiện tri thức, đầu tiên tham kiến ngài Đức Vân, liền chứng Sơ Trụ. Từ đấy, hễ nghe liền chứng, cuối cùng đến chỗ Phổ Hiền, Phổ Hiền dùng oai thần gia bị, khiến sở chứng của Thiện Tài bằng với Phổ Hiền, ngang với chư Phật, thành Đẳng Giác Bồ Tát. Phổ Hiền liền vì Thiện Tài xưng tán công đức thù thắng, nhiệm mầu của Như Lai, khuyến tấn Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng đều cùng dùng công đức của mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Cực Lạc thế giới để mong viên mãn Phật Quả. Kinh này dạy rõ trọn vẹn nhân quả thành Phật trong một đời, lấy cầu sanh Tây Phương làm chỗ kết quy. Đủ biết pháp Niệm Phật cầu sanh Tây Phương là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Trong đời có hạng hành nhân miệt thị nhân quả và Tịnh Độ đều là vì chẳng biết nhân quả và Tịnh Độ chính là căn bản để thành Phật, cứ tưởng điều đó chỉ thích hợp cho hàng ngu phu ngu phụ đến nỗi tự đánh mất lợi lành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cư sĩ Tào Tung Kiều dốc lòng tin tưởng Phật thừa, mang tâm tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha, làm những chuyện giúp ngặt cứu nghèo, cứu trợ tai nạn, cứu khổ, hơn mười năm qua miệt mài gắng sức, tận lực thực hiện việc lành, tốn kém chẳng ít. Mười chuyện dự tính [thực hiện] lúc đầu, nay chỉ còn hai chuyện chưa thể tiến hành. Do quyên mộ khó khăn nên phát tâm chép toàn bộ kinh Hoa Nghiêm để mong những nhà đại từ thiện thỉnh về thọ trì, đọc tụng, rồi sẽ chẳng tiếc khoản tiền lớn lao để thành tựu hai việc lành ấy thì người chép, kẻ thọ trì đều thực hiện được Tài Thí lẫn Pháp Thí. Những kẻ nghèo khổ kia do được che chở đều sanh lòng cảm kích xưng niệm Phật hiệu sẽ có thể trong đời này hoặc trong tương lai vãng sanh Tây Phương, đều là do việc chép kinh và tụng kinh phát khởi. Công đức ấy há thể nói tận ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phẩm [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện có câu: <I>"Nếu Bồ Tát có thể tùy thuận chúng sanh thì chính là tùy thuận cúng dường chư Phật. Nếu tôn trọng, thừa sự chúng sanh, chính là tôn trọng và thừa sự Như Lai. Nếu làm cho chúng sanh hoan hỷ sẽ khiến cho hết thảy Như Lai hoan hỷ. Vì sao? Do chư Phật Như Lai dùng lòng đại bi làm thể, do nơi chúng sanh mà khởi đại bi. Do nơi đại bi mà sanh tâm Bồ Đề. Do tâm Bồ Đề thành Đẳng Chánh Giác"</I>. Do vậy biết: Cha trời mẹ đất, dân là ruột thịt, loài vật giống như ta, đối đãi bình đẳng là chuyện phải tùy theo khả năng mà gắng thực hiện vậy! Quang thẹn chẳng có tài lực, lại không có đạo đức, cảm động trước tấm lòng thành vì dân nghèo của ông ta, lược thuật đại ý kinh này để mong người thấy kẻ nghe đối với hai việc cứu giúp người nghèo và niệm Phật sẽ đều phát tâm ngõ hầu chẳng đến nỗi vốn sẵn Phật tánh có thể thành Phật mà lại chìm đắm dài lâu trong tam đồ lục đạo, oan uổng chịu khổ sở chẳng thụ dụng được!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(155) Số kiếp như số bụi vi trần.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(156) Nhất Thiết Trí (Sarvajña) còn được phiên âm là Tát Bà Nhã Trí, tức trí đúng như thật hiểu rõ hết thảy các pháp tướng bên trong lẫn bên ngoài. Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa, quyển Hạ giải thích: <I>"Trọn đủ vô lậu giới, thường tịnh giải thoát thân, tịch diệt chẳng nghĩ bàn, gọi là Nhất Thiết Trí"</I>. Du Già Sư Địa Luận, quyển 38 giảng: <I>"Trong hết thảy cõi, hết thảy sự, hết thảy phẩm, hết thảy thời trí vô ngại nên gọi là Nhất Thiết Trí"</I>. Đại Trí Độ Luận giảng: <I>"Về tổng tướng thì là Nhất Thiết Trí, biệt tướng là Nhất Thiết Chủng Trí, nhân là Nhất Thiết Trí, quả là Nhất Thiết Chủng Trí, nói lược là Nhất Thiết Trí, nói rộng là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Trí là phá hết thảy sự vô minh tối tăm trong hết thảy các pháp, Nhất Thiết Chủng Trí là quán các pháp môn, phá các vô minh... Nhất Thiết Trí là chuyện của Thanh Văn, Duyên Giác, Đạo Trí là chuyện của Bồ Tát, Nhất Thiết Chủng Trí là chuyện của Phật"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vô Sư Trí (Anupadista-jñāna), tức trí thành tựu không nhờ vào sức của người khác, không đợi người khác dạy mà tự nhiên thành tựu. Trí huệ do tự mình chứng ngộ, như trí huệ do đức Phật tự chứng chẳng hạn, hoặc như bậc Duyên Giác, quán các pháp nhân duyên sanh diệt bèn chứng trí giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tự Nhiên Trí (Svayambhū-jñāna), chư Phật không cần dụng công, tự nhiên sanh ra Nhất Thiết Chủng Trí. Trong Pháp Hoa Kinh Huyền Tán, quyển năm, pháp sư Khuy Cơ đời Đường đã viết: <I>"Phật do giác ngộ mà sanh ra hai trí Quán Không Trí và Quán Hữu Sự Trí, [hai trí ấy] được gọi là Tự Nhiên Trí"</I>. Đại Nhật Kinh Sớ, quyển sáu chép: <I>"Tự Nhiên Trí là trí do đức Như Lai tự giác tự chứng, chứ không do tu học mà có, cũng không có cách nào truyền dạy cho người khác được"</I>. Tổng hợp hai cách giải nghĩa này thì Tự Nhiên Trí chính là tác dụng của sự giác ngộ hoàn toàn, tức nói đến mặt lực dụng của Nhất Thiết Chủng Trí sau khi đã viên mãn Phật quả.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(157) Kinh Hoa Nghiêm được giảng tại bảy chỗ là Tịch Diệt Đạo Tràng (tức Bồ Đề Tràng), điện Phổ Quang Minh, Đao Lợi Thiên Cung, Dạ Ma Thiên Cung, Đâu Suất Thiên Cung, Tha Hóa Tự Tại Thiên Cung và rừng Thệ Đa.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(158) Tịch: Vắng lặng, không xao động. Đây là thuật ngữ mô tả Phật tánh thường hằng bất biến, không bị ngoại cảnh làm ô nhiễm, biến đổi, thường được diễn tả bằng câu nói <I>"bất sanh, bất diệt, bất nhất, bất nhị, bất tăng, bất giảm, bất cấu, bất tịnh"</I>. Giải thích một cách nông cạn thì Chiếu là khả năng nhận biết thông suốt mọi sự. Tuy thông suốt nhưng không chấp trước, không bị ô nhiễm bởi ngoại cảnh nên nói là "tuy chiếu mà thường tịch", dẫu vắng lặng nhưng không hề mất khả năng thấu hiểu trọn vẹn nên gọi là "tuy tịch nhưng thường chiếu".
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(159) Đây là cách phán định giáo nghĩa kinh Hoa Nghiêm đã được ghi trong quyển ba và bốn của Hoa Nghiêm Kinh Sớ:
<P style="TEXT-INDENT: 65pt; TEXT-ALIGN: justify">a. Sở Tín Nhân Quả từ phẩm thứ nhất đến phẩm thứ sáu. Năm phẩm đầu hiển thị quả đức của Tỳ Lô Giá Na Như Lai, phẩm thứ sáu xiển dương rõ ràng cái nhân chánh yếu để thành Phật. Do khơi gợi lòng tin tưởng khiến chúng sanh nhận lãnh giáo pháp nên gọi là Sở Tín Nhân Quả.
<P style="TEXT-INDENT: 65pt; TEXT-ALIGN: justify">b. Sai Biệt Nhân Quả Châu là phần nói về nhân quả tu hành, nói về những pháp môn sai biệt của bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ và mười địa vị thuộc Thập Tín (Thập Tín không thuộc vào Pháp Thân đại sĩ), gồm tổng cộng hai mươi chín phẩm. Hai mươi sáu phẩm đầu nói về nhân sai biệt trong năm mươi mốt địa vị (Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác). Ba phẩm sau nói về quả tướng sai biệt của Tam Đức.
<P style="TEXT-INDENT: 65pt; TEXT-ALIGN: justify">c. Bình Đẳng Nhân Quả Châu (còn gọi là Hiển Tu Nhân Quả, Xuất Hiện Nhân Quả), gồm hai phẩm: phẩm Phổ Hiền Hạnh nói về cái nhân viên mãn bình đẳng; phẩm Như Lai Xuất Hiện Tướng nói về quả báo viên mãn của đức Tỳ Lô Giá Na. Do nhân quả nhiếp thụ lẫn nhau, bình đẳng bất nhị nên gọi là Bình Đẳng Nhân Quả.
<P style="TEXT-INDENT: 65pt; TEXT-ALIGN: justify">d. Thành Hạnh Nhân Quả Châu (còn gọi là Xuất Thế Nhân Quả): Chỉ gồm một phẩm, tức phẩm Ly Thế Gian, phần đầu nói về nhân hạnh nơi năm địa vị, phần kế dạy rõ về quả tướng đại dụng của tám tướng thành Phật, nên gọi là Thành Hạnh Nhân Quả.
<P style="TEXT-INDENT: 65pt; TEXT-ALIGN: justify">e. Chứng Nhập Nhân Quả: Chỉ gồm một phẩm, tức phẩm Nhập Pháp Giới, phần đầu giảng về đại dụng tự tại của Phật Quả, phần sau hiển thị Bồ Tát khởi dụng tu nhân, đồng thời chứng nhập cả nhân lẫn quả nên gọi là Chứng Nhập Nhân Quả.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xin lưu ý là phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thật ra là phần cuối của phẩm Nhập Pháp Giới, bản Bát Thập Hoa Nghiêm do ngài Thật Xoa Nan Đà dịch bị thiếu mất phần này; về sau ngài Bát Nhã đem phần này sang Trung Hoa và dịch ra tiếng Hán, kinh Hoa Nghiêm mới được viên mãn. Do phần cuối này là cương yếu của toàn phẩm Nhập Pháp Giới cũng như của toàn bộ kinh Hoa Nghiêm nên được chia thành một cuốn riêng và lưu hành như một phẩm riêng biệt.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(160) Theo kinh Bát Thập Hoa Nghiêm, khi ngài Văn Thù du hành về phương Nam đã nghỉ chân tại rừng Trang Nghiêm Tràng Sa La ở phía Đông của Phước Thành. Thành này là nơi chư Phật trong quá khứ từng an cư để giáo hóa chúng sanh. Nơi ấy có một ngôi tháp miếu lớn, chính là chỗ Phật Thích Ca trong quá khứ tu nhân hạnh Bồ Tát đã xả được những điều khó xả nhất.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(161) Theo phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử (Sudhana-śresthi-dāraka) là con một vị trưởng giả ở Phước Thành. Do lúc sanh ra trong nhà tự nhiên xuất hiện đủ thứ trân bảo nên có tên là Thiện Tài. Theo Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký quyển 10, lịch trình tham học của Thiện Tài với các vị tri thức chính là lịch trình tu học xuyên suốt năm mươi mốt địa vị (chỉ riêng ở nơi ngài Văn Thù, Thiện Tài đã chứng trọn mười địa vị thuộc Thập Tín), thể hiện ý nghĩa <I>"nhất sanh thành Phật"</I> (thành Phật ngay trong một đời).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>70. Lời tựa cho bản chép kinh Pháp Hoa</B>
(năm Dân Quốc 22 -1933)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh Pháp Hoa nghĩa lý rộng sâu, công đức rộng lớn, khai Quyền hiển Thật, thọ ký Thanh Văn thành Phật, việc lành "tán tâm niệm Phật và giơ tay, cúi đầu" cũng đều là cái nhân để thành Phật trong vị lai. Khai Tích hiển Bổn, dạy rõ Như Lai thọ lượng vô biên, quyến thuộc nơi Bổn Địa<SUP><B>(162)</B></SUP></B> và diệu dụng lợi sanh của bậc đại sĩ cũng được tỏ rõ triệt để về mặt Bổn lẫn mặt Tích, khiến cho khắp hết thảy chúng sanh đều cùng biết nỗi khổ luân hồi bao kiếp là huyễn vọng, biết Phật tánh sẵn có nơi chân tâm. Từ đó, trên là ngưỡng mộ chư thánh, dưới trọng tánh linh của chính mình, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương để mong vĩnh viễn thoát khỏi Ngũ Trược, mau chứng Vô Sanh như trong phẩm Dược Vương Bổn Sự đã dạy. Thỏa mãn bản hoài xuất thế của Như Lai, là sự hướng dẫn tốt lành cho chúng sanh trong chín giới. Lợi ích ấy nếu không phải là Phật sẽ không thể biết được! Do vậy, hễ ai đọc tụng, thọ trì, biên chép, lưu thông, thì công đức ấy phàm phu trong thế gian, Nhị Thừa chẳng thể nào suy lường được!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôi thường nói: <I>"Muốn được lợi ích chân thật nơi Phật pháp thì phải cầu từ nơi cung kính. Có một phần cung kính liền tiêu được một phần tội nghiệp, tăng một phần phước huệ. Có mười phần cung kính liền tiêu được mười phần tội nghiệp, tăng được mười phần phước huệ"</I>. Phàm những ai đọc tụng, thọ trì, biên chép, đều phải giữ thân - khẩu - ý trong sạch, cạn lòng thành, kiệt lòng kính như trung thần tuân phụng thánh chỉ của minh chúa, như hiếu tử đọc di chúc của từ thân (cha mẹ nhân từ), cung kính run sợ, chẳng dám coi thường thì vô biên lợi ích sẽ tự đích thân đạt được. Nếu khinh mạn, không kính nể, mặc lòng khinh nhờn, cũng giống như những nhà Nho đọc sách Nho trong thời gần đây, trọn chẳng có ý tưởng giống như đang đối trước thánh hiền, chẳng dám nghĩ tưởng dễ duôi, [những kẻ đọc tụng theo kiểu khinh nhờn ấy] tuy cũng có thể gieo được thiện căn đắc độ trong tương lai, nhưng cái tội khinh nhờn, ngạo mạn thật chẳng cạn nhỏ! Vì thế, chẳng thể không chú ý! Do cư sĩ Khế Thành Tào Tung Kiều kính cẩn chép kinh này, muốn cho những người thọ trì đọc tụng sau này đều được lợi ích chân thật, nên cậy tôi lược thuật ý nghĩa. Do vậy, tôi bèn viết bài tựa này để tặng cho. Nếu chẳng coi lời tôi sai lầm thì lợi ích đạt được sẽ chẳng thể hình dung bằng ngôn ngữ, văn tự được đâu!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(162) Trong phẩm Tùng Địa Dũng Xuất kinh Pháp Hoa, khi các Bồ Tát từ những phương khác đến dự hội phát nguyện thụ trì, lưu thông kinh này, Phật nói "không cần, vì trong cõi này đã có các vị Bồ Tát phát nguyện hộ trì, lưu thông kinh!" Đức Như Lai nói xong, từ dưới đất vọt lên vô số vị Bồ Tát chẳng thể đếm kể được. Ngài Di Lặc Bồ Tát nhân đấy khởi lòng nghi, hỏi vì sao đức Phật chỉ thành đạo trong thời gian rất ngắn lại có thể giáo hóa vô lượng vô biên vị Bồ Tát như vậy. Tiếp đó, trong phẩm Như Lai Thọ Lượng, đức Phật bèn nói rõ thọ lượng không thể nghĩ bàn của Như Lai, cũng như Ngài đã thành Phật từ bao kiếp lâu xa mà hàng phàm phu chẳng thể hình dung được.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>71. Lời tựa cho tập sách Thượng Hải Hộ Quốc Tức Tai Pháp Hội Pháp Ngữ</B>
(năm Dân Quốc 25 -1936)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ấn Quang tôi là một ông Tăng phàm tục ở Tây Tần<SUP><B>(163)</B></SUP></B> chỉ biết đến cơm cháo, trăm sự không làm được điều gì; túc nghiệp sâu nặng đến nỗi trời phải quở trách. Mới sanh được sáu tháng đã mắc bệnh mắt, trong suốt một trăm tám mươi ngày không mở nổi mắt. Ngoại trừ lúc ăn, ngủ ra, thường khóc suốt ngày đêm. Nhờ thiện lực xưa, may còn được thấy ánh mặt trời, cũng may mắn lắm! Ðến tuổi thiếu niên<SUP><B>(164)</B></SUP></B> đọc sách, lại bị hãm vào vực xoáy báng Phật của Trình, Châu, Âu, Hàn<SUP><B>(165)</B></SUP></B>. Từ đấy, hằng ngày chuyên chí bác Phật, nghiệp tướng lại hiện, bệnh tật triền miên. Tận lực nghĩ ngợi, suy xét cặn kẽ mới biết lỗi đó; năm hai mươi mốt tuổi, xuất gia làm Tăng. Nhân thấy Tăng chúng có kẻ chẳng như pháp nên phát nguyện chẳng trụ trì chùa miếu, chẳng thâu đồ đệ, chẳng hóa duyên<SUP><B>(166)</B></SUP></B>, chẳng cùng ai kết xã lập hội. Hơn năm mươi năm chẳng đổi chí ban đầu, sống lẩn quất<SUP><B>(167)</B></SUP></B> gần Ngô Môn. Ðầu tháng Chín, Lý Sự Trưởng (hội trưởng) hội Phật Giáo Trung Quốc là pháp sư Viên Anh, các vị lãnh tụ của Bồ Ðề Học Hội như cư sĩ Khuất Văn Lục v.v... thấy Quang tuổi cao, ngỡ tôi có chút tâm đắc, nào hay tôi chỉ biết húp cháo nuốt cơm, họ thỉnh tôi khi pháp hội Tức Tai Hộ Quốc khai mạc, sẽ đến đất Hỗ<SUP><B>(168)</B></SUP></B> diễn thuyết. Cố sức từ chối chẳng được, chỉ đành đem điều [mình hiểu biết] lầm lạc bù đắp sự lầm lạc<SUP><B>(169)</B></SUP></B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ðến kỳ, mỗi ngày ông Ðặng Huệ Tải và hai ba vị cư sĩ ở Vô Tích đều dùng máy thu âm [thu lại], nghe băng chép ra, mang đến xin tôi giám định, tính đem ấn hành. Những bản sao lục này có vài điểm sai khác đôi chút, nhưng bản sao của ông Ðặng chép chữ to, nên tôi dựa theo đó, sửa đổi, tóm tắt lại. Cảo bản<SUP><B>(170)</B></SUP></B> này bậc thông huệ chẳng cần xem đến, còn ai ngu độn như Ấn Quang tôi mà lại muốn ngay trong đời này kết liễu đại sự sanh tử và muốn trị tâm, trị thân, trị gia, trị quốc, nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu, xem đến [cảo bản này] họa chăng có điều bổ ích vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(163) Tổ Ấn Quang quê ở Thiểm Tây. Tỉnh Thiểm Tây thuộc lãnh thổ cũ của đất Tần (thời Xuân Thu Chiến Quốc) nên Thiểm Tây còn được gọi là Tây Tần.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(164) Nguyên văn "thành đồng": Theo tự điển Từ Hải, từ mười ba tuổi trở lên, mười bảy tuổi trở xuống thì gọi là "thành đồng".
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(165) Trình, Châu, Âu, Hàn là Trình Y Xuyên, Châu Hy, Âu Dương Tu, Hàn Dũ, họ là những nhà Tống Nho cực lực bài xích đạo Phật. Người bài bác đạo Phật nặng nề nhất là họ Trình và họ Chu.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(166) Hóa duyên: Kêu gọi tín đồ đóng góp cúng dường.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(167) Nguyên văn là <I>"hoạt mai"</I> (chôn sống), ý Tổ nói sống mà ẩn dật như người đã chết rồi. Ở đây chúng tôi chỉ dịch gọn là "lẩn quất".
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(168) Ở vùng Thượng Hải có con sông lớn tên là Hỗ Ðộc giang, nên người Hoa hay gọi Thượng Hải là đất Hỗ.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(169) Ở đây Ðại Sư ý muốn dùng câu <I>"Tương thác tựu thác"</I> của ông Vô Vi Tử (Tống Dương Kiệt), ngụ ý: Khi chưa triệt chứng Phật tánh thì cầu sanh Tịnh Ðộ vẫn là lầm lạc, nhưng phải dùng cái lầm lạc đó để tạo cơ hội dứt trừ cái lầm lạc trong đường sanh tử.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(170) Cảo bản: Bản nháp, ở đây Tổ dùng với ý nghĩa lời giảng giải của Ngài thô sơ, thiếu sót, không hoàn chỉnh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>72. Lời tựa cho niên san của Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã tại Vô Tích</B>
(năm Dân Quốc 25 - 1936)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thánh giáo của Như Lai pháp môn vô lượng, hễ y theo một pháp nào dùng Bồ Đề tâm để tu trì thì đều có thể liễu sanh thoát tử, thành Phật đạo. Nhưng trong khi tu còn chưa chứng, sẽ có sự khó - dễ, nhanh - chậm khác biệt lớn lao! Tìm lấy một pháp chí viên, chí đốn, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, khế lý, khế cơ, vừa là tu, vừa là tánh, thích hợp khắp cả ba căn, thâu nhiếp trọn vẹn độn căn lẫn lợi căn, là chỗ quy túc của các tông Luật, Giáo, Thiền, Mật, là con đường tắt cho người, trời, phàm, thánh chứng Chân thì không gì bằng một pháp tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương! Ấy là vì hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực, còn pháp môn Niệm Phật lại kiêm nhờ vào Phật lực. Cậy vào tự lực thì nếu chưa đoạn sạch Phiền Hoặc sẽ chẳng thể vượt khỏi tam giới. Cậy vào Phật lực, nếu tín nguyện chân thật, thiết tha, sẽ có thể cao đăng chín phẩm sen. Con người hiện thời muốn giải quyết xong đại sự sanh tử ngay trong đời này mà bỏ pháp này thì trọn chẳng còn hy vọng gì hết!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phải biết: Pháp môn Tịnh Độ pháp pháp viên thông. Như vầng mặt trăng sáng ngời giữa trời, dòng sông nào cũng đều hiện bóng, thủy ngân rớt xuống đất, giọt nào cũng tròn xoe. Chẳng riêng gì cách vật, trí tri, cùng lý, tận tánh, giác thế, yên dân, giữ cho nước nhà yên ổn, đều có lợi ích lớn lao thần diệu; mà ngay như cả sĩ, nông, công, thương muốn phát triển sự nghiệp, già, trẻ, nam, nữ muốn tiêu diệt tật bệnh, khổ não, không ai chẳng "hễ cảm liền ứng, vừa lòng mãn nguyện". Nay lòng người suy hãm, cõi đời rối ren đến cùng cực, phế kinh điển, phế luân thường, bỏ lòng hiếu, vứt lòng thẹn, tranh đất, giành thành, tàn sát lẫn nhau, đủ mọi tà thuyết bạo hành được cực lực đề xướng. Nếu chẳng cứu vãn, chắc đạo làm người sẽ gần như diệt mất. Do vậy, những người hữu tâm các nơi đua nhau đề xướng Phật pháp, nêu bày nhân quả ba đời, tỏ rõ luân hồi lục đạo, chỉ ra Sa Bà trược ác, nêu rõ Cực Lạc nghiêm tịnh để mong con người trong thời buổi này sẽ dẹp trừ lòng ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lại lễ nghĩa, sống thì dự vào địa vị thánh hiền, liễu sanh thoát tử, mất sẽ trở về cõi Cực Lạc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ở Vô Tích, các cư sĩ Dương Tiểu Lệ, Tần Hiệu Lỗ, Viên Lệ Đình, Tào Bội Linh v.v... lập một Tịnh nghiệp xã tại chùa Sùng An, mồng Một, ngày Rằm mỗi tháng tụ họp mọi người niệm Phật, đồng thời diễn thuyết đạo "sống trong cõi trần học đạo, nơi rẫy bái báo quốc, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành" và pháp "thật vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ" ngõ hầu hết thảy mọi người biết duyên do "ai nấy đều có thể là Nghiêu Thuấn, ai nấy đều có thể thành Phật" sẽ trong hết thảy thời, hết thảy chỗ đều chuyên chú mong thành thánh, học Phật. Đấy thật sự là pháp môn đại phương tiện để "chẳng có địa vị mà hộ quốc cứu dân, chẳng tỏ lộ hình tích mà thay đổi phong tục". Nay đã [thực hiện] được tròn một năm, thành tích của tất cả những việc lành đã thực hiện và những kinh phí chi ra, thu vào mỗi mỗi đều liệt kê trong sách để bố cáo, cậy tôi soạn lời tựa để nêu sơ lược đại ý vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>73. Lời tựa trình bày duyên khởi của Đôn Luân Liên Xã</B>
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật pháp là tâm pháp. Tâm pháp ấy chúng sanh, Phật, phàm, thánh, ai nấy đều có. Chúng sanh thì toàn thể là mê trái nên dẫu có vẫn như không. Phật thì triệt ngộ, triệt chứng, đích thân được thọ dụng, lại còn dấy lòng đại từ bi, đem sở ngộ sở chứng của chính mình chỉ dạy hết thảy chúng sanh ngõ hầu họ đều triệt ngộ, triệt chứng mới thôi! Nhưng vì chúng sanh mê muội, trái nghịch đã lâu, dù nghe đủ mọi pháp môn đối trị, nhưng bởi Hoặc nghiệp sâu dầy, phước huệ cạn mỏng nên khó lòng đạt được hiệu quả thành công ngay trong đời này. Do đã khó thể đạt được hiệu quả thành công ngay trong đời này nên lại phải thọ sanh, quá nửa bị mê mất, đến nỗi trải kiếp lâu xa luân hồi sanh tử, không do đâu thoát lìa được! Đức Như Lai thương xót, đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương ngõ hầu hết thảy dù thánh hay phàm, thượng trung hạ căn đều nương vào đại bi nguyện lực của đức Phật Di Đà cùng trong đời này thoát cõi Sa Bà đây, sanh về cõi Cực Lạc kia, khiến cho kẻ đã đoạn Hoặc mau chứng Vô Sanh, kẻ chưa đoạn Hoặc cũng lên Bất Thoái.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp này vừa cạn vừa sâu, vừa là Quyền vừa là Thật, thượng thượng căn chẳng thể vượt khỏi cửa thành này. Vì thế, bậc đã chứng Đẳng Giác còn phải dùng mười nguyện dẫn về, kẻ hạ hạ căn cũng có thể đạt đến cõi này. Do vậy, kẻ sắp đọa A Tỳ địa ngục vẫn có thể dự vào chín phẩm. Thực hiện dễ, thành công cao, dùng sức ít, đạt hiệu quả nhanh, thỏa thích bản hoài xuất thế của Như Lai, là đạo thông đạt để chúng sanh thoát khổ. Vì thế, các vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ... các tổ sư như Viễn Công, Trí Giả, Thanh Lương, Vĩnh Minh... đều cùng hiện tướng lưỡi rộng dài để tán dương, phát tâm Kim Cang để lưu truyền rộng khắp; bởi pháp này chính là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh vậy. Chúng sanh đời Mạt căn cơ kém hèn, bỏ pháp môn này thì làm sao yên được?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tần Xuyên chính là cõi đất hoằng dương Tịnh Độ của các đại sư Thiện Đạo, Pháp Chiếu, Phi Tích, Huệ Nhật<SUP><B>(171)</B></SUP></B> v.v... xưa kia, hết thảy tứ chúng xưa kia cũng đã gieo thiện căn sâu đậm, nhưng do từ sau đời Đường hiếm có người hoằng dương pháp này đến nỗi túc căn chẳng thể phát sanh tăng trưởng, đáng than thay! Gần đây thế đạo nhân tâm chìm đắm đến cùng cực, thiên tai nhân họa liên tiếp giáng xuống, vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống. Người có tâm lo cho thế đạo đều cùng đề xướng Phật học, bởi trong đời hiện thời nếu chẳng cực lực đề xướng sự lý nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi... thì thiện không có gì để khuyên, ác không có gì để phạt, muốn cho con người chẳng ăn nuốt lẫn nhau há có được chăng? Nếu chẳng đề xướng kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, trì trai, ăn chay thì sát kiếp ngập trời làm sao dứt được? Nếu chẳng đề xướng giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành thì phế kinh điển, phế luân thường, phế hiếu, chẳng thẹn, tranh thành, giành đất, tàn sát lẫn nhau, những tà thuyết bạo hành sẽ khiến cho nhân dân trong khắp cõi đời cùng mắc nỗi khổ tử vong. Nếu chẳng đề xướng tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương thì lục đạo luân hồi ai có thể thoát được? Đây chính là lý do những bậc quân tử hiểu lý đề xướng Phật học trong thời gần đây.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật pháp chứa trọn cương thường, luân lý thế gian, lại còn nói rõ quả báo thiện ác do trọn hết hay không trọn hết tình nghĩa, bổn phận. Quả thật là đạo trọng yếu để trị quốc bình thiên hạ. Những kẻ đố kỵ là vì chẳng suy xét nghĩa lý, bài xích xằng bậy, nói nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi đều là những lời Phật dối trá để bịp người! Do vậy, mọi người đều coi nhân quả luân hồi là chuyện mông lung, khi gió Âu vừa thổi qua, đều tranh nhau hùa theo. Nếu tin sâu nhân quả luân hồi, những tà thuyết ấy dù có dữ dội đến mấy, làm sao gây mê hoặc rối ren cho được? Đây chính là nguyên do các nơi đề xướng Phật học.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cư sĩ Đức Tấn Ninh Chí Vũ thừa dịp phát khởi, đặc biệt lập một chỗ niệm Phật ở làng mình, đặt tên là Đôn Luân Liên Xã. Do Phật pháp gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tôi tớ trung thành, khiến cho ai nấy trọn hết bổn phận, trước hết làm người hiền, người thiện trong thế gian, lại còn sanh lòng tin, phát nguyện khẩn thiết niệm Phật, cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, ngõ hầu đoạn sạch Phiền Hoặc, khôi phục tâm tánh, viên mãn Bồ Đề, thành vô thượng đạo, lại còn dùng sở ngộ sở chứng của chính mình để dẫn dắt hết thảy hàm thức. Nguyện những người cùng quê với tôi đều cùng dấy lòng [tin tưởng, tu tập] thì may mắn lắm thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(171) Huệ Nhật (680-748) là một vị cao tăng Tịnh Độ đời Đường, quê ở Đông Lai (tỉnh Sơn Đông), từ nhỏ đã theo học với pháp sư Nghĩa Tịnh sau khi Ngài cầu pháp từ Thiên Trúc trở về, tự thề sẽ noi gương thầy sang Ấn Độ. Năm Tự Thánh 19 (702), Sư ngồi thuyền qua các quần đảo Côn Luân (nay là nhóm đảo Mã Lai, Nam Dương), Phật Thệ (nay là Sumatra), qua Sư Tử Châu (Sri Lanka), rồi đến Ấn Độ, triều lễ thánh tích, tìm cầu kinh điển bằng Phạn văn, tham phỏng các vị thiện tri thức suốt mười ba năm không nề hà gian khổ. Qua gian khổ, ý nguyện nhàm chán Sa Bà, sanh về Phật quốc yên vui càng sâu đậm, các vị Tam Tạng pháp sư mà Sư được tiếp xúc đều nồng nhiệt khen ngợi Tịnh Độ A Di Đà thù thắng. Khi Sư đến nước Ma Kiệt Đà, ở phía Đông kinh đô có một quả núi trên đó có tượng Quán Âm, Sư đến lễ thánh tượng, nhịn ăn cầu nguyện, đến ngày thứ bảy mới cảm được Đại Sĩ hiện thân sắc vàng, xoa đầu khai thị. Sư tiếp tục đi tham học nơi bảy tiểu quốc nữa, đến năm Khai Nguyên thứ bảy (719) mới trở về Trường An, dâng lên tượng Phật và kinh điển. Huyền Tông sắc tứ danh hiệu Từ Mẫn Tam Tạng. Sư siêng tu pháp môn Niệm Phật, hoằng dương giáo nghĩa Tịnh Độ, biên soạn các tác phẩm như Vãng Sanh Tịnh Độ Tập (3 quyển), Ban Châu Tam Muội Tán v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>74. Lời tựa cho việc ông Triệu Vận Xương thỉnh bộ Đại Tạng Kinh bản đời Tống được in theo lối ảnh ấn</B>
(năm Dân Quốc 22 -1933)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông Triệu Vận Xương ở trấn Bao Trường thuộc Nam Thông đời đời kế thừa đức hạnh, đời đời vừa cày vừa học, chỉ tu tước vị cõi trời, chẳng màng vinh hoa cõi thế, tin sâu nhân quả, dốc lòng tu Tịnh nghiệp, muốn cho con cháu đời đời vĩnh viễn vâng giữ chẳng để suy sụp, nên đặc biệt thỉnh một bộ Đại Tạng Kinh bản đời Tống, thờ nơi Phật Đường trong nhà để mong con cháu và những người trong họ đều được thọ trì, đọc tụng, chẳng đến nỗi sống uổng, chết phí, cậy Quang viết lời tựa để dạy hậu thế. Do hội ấn tống Đại Tạng Kinh bản đời Tống theo lối ảnh ấn đã sai Quang viết lời tựa, Quang bèn chép nguyên văn [lời tựa ấy] và lược thuật ý niệm thương yêu con cháu, họ hàng sâu xa của ông Triệu. Nguyện những người thấy nghe sẽ liền tùy phần tùy sức thực hành, đừng chỉ như gã si đã đến núi báu vẫn trở về tay không, thì chẳng những không cô phụ sự giáo hóa của đức Phật mà cũng chẳng phụ tánh linh của chính mình, và cũng an ủi được một phen dốc hết tâm ý thỉnh kinh của ông Triệu vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>75. Lời tựa cho bài luận Khuyến Tu Pháp môn Niệm Phật</B>
(năm Dân Quốc 27 - 1938)
Pháp môn Tịnh Độ thích hợp khắp ba căn, quả thật đạo mầu nhiệm thành thủy thành chung để Như Lai trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Thệ nguyện của đức Di Đà cả chín giới đều được nương nhờ, chính là khuôn mẫu tốt lành “tâm làm, tâm là” để chúng sanh mau thoát biển khổ, mau dự vào Liên Trì. Pháp này là pháp môn đặc biệt nương vào Phật lực trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai, chẳng thể luận định giống như hết thảy các pháp môn Đại, Tiểu, Quyền, Thật cậy vào tự lực! Cõi đời phần nhiều chẳng suy xét, kẻ hơi thông minh thì đa số kiêu căng về trí lực của chính mình, chẳng chịu tu trì, lại còn miệt thị những ai tu trì pháp này, coi khinh là ngu phu ngu phụ, như sợ bị dính bẩn vậy! Do vậy, nhường đại lợi ích liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này cho hàng ngu phu ngu phụ, còn chính mình chẳng muốn đạt được, chẳng đáng buồn ư? Họ chẳng biết pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài được, là pháp môn bắt nguồn và quy túc của hết thảy pháp môn. Do vậy, hết thảy pháp môn không pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp giới này, không pháp nào chẳng trở về pháp giới này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu đã đoạn sạch Tam Hoặc, chứng trọn vẹn Tứ Đức thì không tu [pháp này] cũng chẳng sao! Nếu vẫn chưa đạt đến địa vị này, xin hãy theo gót những vị Bồ Tát Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác trong Hoa Tạng hải chúng để nhất trí tiến hành, dùng công đức chẳng thể nghĩ bàn của mười đại nguyện vương để hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới nhằm mong mau tròn Phật quả. Người được như thế có thể gọi là đại trí huệ, là đại trượng phu, đã hoàn tất sự nghiệp thế gian lẫn xuất thế gian vậy. Lại còn phải làm giống như những vị Quán Âm, Phổ Hiền... sau khi đã chứng được Phật quả liền tùy loại hiện thân hoằng dương pháp này ngõ hầu chúng sanh đều được thành Phật đạo mới thôi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quang túc nghiệp sâu nặng, hơn năm mươi năm luống dự vào hàng Tăng chúng, hết thảy các pháp đều chẳng biết được một pháp nào, tuy thường niệm Phật nhưng do nghiệp nặng nên tâm chưa hề tương ứng với Phật. Nhưng tin tưởng Phật chẳng nguyện hư vọng, sẽ chẳng vứt bỏ ta, vì thế dẫu là ai cũng chẳng chuyển chí nguyện [của Quang] được. Gần đây pháp sư Viên Anh nhân lúc giảng diễn các kinh được rảnh rỗi, đã soạn bài luận Khuyến Tu Pháp Môn Niệm Phật, muốn lưu truyền, gởi thư sai Quang viết lời tựa. Quang già rồi, tinh thần lẫn mục lực đều chẳng đủ, đã tạ tuyệt những chuyện sai khiến viết lách từ lâu. Nay may mà pháp Niệm Phật lại được có người đề xướng bèn tóm nêu đại ý cho xong trách nhiệm vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>76. Lời tựa cho sách Trập Viên Trát Ký</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đời loạn đến tột cùng hết thuốc chữa! Người có chí sao nỡ ngồi nhìn? Tuy sống nơi rẫy bái, nhưng những bàn luận trong gia đình, bầu bạn, chưa hề chẳng phải là lời hay ý đẹp để cứu vãn thế đạo nhân tâm vậy! Ông Trần Đôn Phục ở Sở Kỳ, pháp danh là Huệ Phục, đem những ngôn luận trong lúc thù tạc giữa gia đình và thân hữu, chọn lấy những điều trọng yếu biên soạn thành sách. Bạn bè khuyên đem in, do vậy bèn đem bản thảo gởi cho Quang, xin giám định. Quang đọc xong, thấy những lời lẽ lập luận vốn lấy ý từ sách Nho, nhưng ý nghĩa chẳng trái Phật pháp, nếu có thể y theo đó tự tu thì sự nghiệp mong thành thánh thành hiền nơi mọi người há nào khó thấy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lòng người đã chết, chẳng dễ vãn hồi. Khổng Tử chẳng từng nói như thế này đó sao? <I>"Pháp ngữ chi ngôn, năng vô tùng hồ? Cải chi vi quý, tốn dữ chi ngôn, năng vô duyệt hồ? Dịch chi vi quý, duyệt nhi bất dịch, tùng nhi bất cải, ngô mạt như chi hà dã dĩ hỹ"</I><SUP><B>(172)</B></SUP></B> (Lời thánh nhân nói, chẳng thể không nghe theo ư? Sửa đổi lỗi lầm mới quý. Lời nói mềm mỏng, ai mà chẳng vui? Suy xét tìm ra đầu mối mới quý. Chứ vui sướng rồi không chịu suy xét tìm ra đầu mối, chỉ nghe theo lời thánh nhân mà chẳng sửa đổi, rốt cuộc ta phải làm như thế nào đây). Cõi đời lúc này, lời thánh nhân, lời mềm mỏng đều khó tạo được lợi ích vì không có ba ý niệm kinh sợ<SUP><B>(173)</B></SUP></B>, chỉ toàn là khoe khoang tài năng của chính mình. Nghe lời thánh nhân bèn vỗ gươm đứng dậy, nghe lời mềm mỏng bèn coi như gió luồn qua cây, dẫu là bậc trí đức như Châu Công, Khổng Tử cũng chỉ có thể nói: <I>"Rốt cuộc ta phải làm như thế nào đây!"</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng trong khi không thể bày ra cách nào, chẳng ngại gì lập riêng một pháp. Do thế đạo đã loạn, lòng người đã chết là vì chẳng nói đến nhân quả, chẳng bàn đến giáo dục trong gia đình. Nếu có thể chú trọng hai việc này thì người người đều biết nhân quả, nhà nhà đều có giáo dục, hết thảy những lời của thánh nhân, những câu mềm mỏng đều trở thành những câu nói thường nhật trong gia đình, không một ai chịu bỏ một ngày không nhắc tới. Quang thường nói: <I>"Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân bình trị thiên hạ, để Phật độ chúng sanh"</I>. Dạy con là căn bản để trị quốc, bình thiên hạ; nhưng dạy dỗ con gái lại càng quan trọng hơn, vì có hiền nữ thì mới có hiền thê, hiền mẫu. Con cái do hiền mẫu sanh ra đều là hiền nhân. Đây là nguyên do tại sao ba bà Thái khiến cho nhà Châu được hưng thịnh, đời sau xưng tụng nữ nhân là Thái Thái. Vì thế lại nói: <I>"Quyền trị quốc bình thiên hạ, phụ nữ nắm quá nửa vì sự giáo dục của mẹ là cội gốc vậy"</I>. Nguyện những người đọc đều cùng chú ý!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(172) Chúng tôi dịch câu nói này theo cách diễn giảng của cụ Lý Bỉnh Nam trong bộ Luận Ngữ Giảng Yếu.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(173) "Ba điều kinh sợ" xuất phát từ câu nói của Khổng Tử được chép trong thiên Quý Thị sách Luận Ngữ: <I>"Quân tử hữu tam úy, úy thiên mạng, úy đại nhân, úy thánh nhân chi ngôn. Tiểu nhân bất tri thiên mạng nhi bất úy dã, hiệp đại nhân, vũ thánh nhân chi ngôn"</I> (Quân tử có ba điều sợ: Sợ mạng trời, sợ những người nắm quyền cai trị công chánh, sợ lời dạy của thánh nhân. Tiểu nhân chẳng biết mạng trời nên không sợ, khinh thị đại nhân, coi rẻ lời thánh nhân). Theo cụ Lý Bỉnh Nam trong Luận Ngữ Giảng Yếu, "úy" có nghĩa là kính nể, không dám trái phạm. "Đại nhân" là những người có quyền vị, nắm giữ sự cai trị công bình, chánh trực. "Thiên mạng" phải hiểu là thiện ác báo ứng như kinh Thư đã chép: <I>"Huệ địch cát, tùng nghịch hung, duy ảnh hưởng"</I>, chứ không phải là ý muốn độc đoán của một đấng Tạo Hóa nào!</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<p style="padding-left: 88px;"><B>III. KÝ</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>1. Bi ký trình bày sự thần dị của suối Bát Công Đức thuộc Tam Thánh Thiền Viện núi Phổ Đà</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quán Thế Âm Bồ Tát tùy loại hiện thân trong mười phương thế giới, tầm thanh cứu khổ, nhưng vẫn lấy Phổ Đà làm cuộc đất ứng hóa, [là vì] muốn cho hết thảy tứ chúng có chỗ để gieo lòng thành. Sự từ bi linh cảm của Bồ Tát cố nhiên ai nấy đều biết rõ, ngay cả một hòn đá, một giòng nước, không gì chẳng tỏ rõ dấu tích chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Những hòn đá kỳ lạ ở Phổ Đà cố nhiên nhiều lắm, nhưng chỉ có Bàn Đà Thạch<SUP><B>(1)</B></SUP> là bậc nhất. Người hiểu lý trông thấy tảng đá này thì thần thông, oai đức chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát chẳng cần phải đợi nói tường tận mà sẽ đều ngộ giải cả. Những cuộc đất gần biển thì nước đều mặn chát, chẳng thể dùng để uống được; [vậy mà] khắp núi Phổ Đà nước đều ngọt ngào, tuy là cuộc đất ở sát bên biển mà trọn chẳng có nước mặn, nhưng con suối Bát Công Đức thật là bậc nhất!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo Sơn Chí, vào thời Vạn Lịch nhà Minh, vị Tăng tên Đại Phương dựng lều tranh nơi đây. Năm [Vạn Lịch] ba mươi (1602), nội giám<SUP><B>(2)</B></SUP> Trương Tùy, Đảng Lễ vâng chiếu đốc thúc xây cất điện chứa kinh, nhàn du đến nơi đây, uống nước thấy ngọt ngào, nghe [Tăng chúng] kể lại dẫu hạn hán hay lũ lụt, [nước suối] vẫn không tăng, không giảm, hễ cầu mưa ắt lấy nước từ nơi đây, liền quyên tiền dựng Tam Thánh Đường, đặt tên cho con suối ấy là Bát Công Đức. Ấy là phỏng theo tên nước trong ao bảy báu nơi Cực Lạc thế giới. Suối Bát Công Đức do Tam Thánh Đường mà được tên, Tam Thánh Đường do nước tám công đức mà khởi đầu; ấy gọi là do thời tiết nhân duyên cho nên có chuyện chẳng mong cầu mà tự được! Theo kinh Phật, nước [cõi Cực Lạc] có tám công đức là:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Trong trẻo: Khác với [nước ở] phương này [thường] nhơ đục.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Sạch mát: Khác [với phương này nước thường] lạnh hay nóng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Ngọt ngào: Khác [với phương này nước thường] mặn, nhạt, hay vị rất tệ.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Mềm nhẹ: Khác [với phương này nước thường] nặng nề.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) Trơn láng, tươi tắn: Khác [với phương này nước thường] tù đọng, màu sắc ủ dột, bệch bạc.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) An hòa: Khác [với phương này nước thường] chảy xiết, dữ dội.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(7) Trừ đói khát: Khác [với phương này, nước thường] gây [cảm giác] lạnh lẽo.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(8) Trưởng dưỡng các căn: Khác [với phương này nước] gây tổn hoại các căn và tạo ra tật dịch, tăng thêm bệnh tật, chết chìm v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng sanh đời trược nghiệp lực sâu nặng đến nỗi nước cõi này không có những công đức, lực dụng ấy. So với những loại nước thông thường khác, nước suối Bát Công Đức có rất nhiều công đức. Vì thế, đặc biệt nêu rõ để tỏ bày dấu tích chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát ngõ hầu những người sống trong núi và những ai đến núi chiêm bái sẽ từ mỗi tảng đá, mỗi giòng nước đều có thể ngộ sâu xa thường lý viên thông, hòng lấy tâm Bồ Tát làm tâm [của chính mình], lấy sự nghiệp của Bồ Tát làm sự nghiệp [của chính mình] vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Bàn Đà Thạch là một tảng đá chồng có hình dáng kỳ lạ, trên to dưới nhỏ, phần trên to đến hơn 20 mét (có thể đứng được ba mươi người), nằm chông chênh trên một tảng đá lớn khác cao đến 3 mét, rộng 7 mét. Chỗ tiếp xúc của hai tảng đá rất nhỏ, tạo cảm giác nếu khẽ đẩy sẽ bị rơi xuống, đã bao người thử đẩy nhưng tảng đá chỉ rung rinh rồi vẫn đậu chênh vênh như cũ. Theo truyền thuyết, đây là nơi Quán Âm Đại Sĩ thuyết pháp. Khi chiều sắp tắt nắng, cả tảng đá trông óng ánh như được dát vàng, những ai leo lên đỉnh Bàn Đà Thạch khi ấy, dõi nhìn ra biển cả sẽ thấy phong cảnh tráng lệ, không bút mực nào tả xiết. Vì thế, "Bàn Đà Tịch Chiếu" (chiều soi bóng trên tảng Bàn Đà) được coi là một trong những cảnh đẹp nhất của Phổ Đà Sơn.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Nội giám: Danh xưng khác của Hoạn Quan, tức Thái Giám.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>2. Bài ký về chuyện xây dựng đại điện của đạo tràng chuyên tu Tịnh nghiệp tại núi Linh Nham</B>
(năm Dân Quốc 24 - 1935)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh Hoa Nghiêm mầu nhiệm lý sự viên dung, Lý do Sự hiển, Sự do Lý thành. Lý lẫn Sự đều đạt đến tột cùng, viên chứng Tỳ Lô Pháp Thân. Vì thế, lúc đức Như Lai mới thành Chánh Giác bèn cùng với các vị Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác nói các pháp môn và các pháp nhân quả do đức Như Lai đã tự chứng. Nhân quả chính là Sự, pháp do đức Như Lai tự chứng chính là Nhất Chân pháp giới<SUP><B>(3)</B></SUP>, Chân Như Phật Tánh tịch - chiếu viên dung, bất sanh, bất diệt, chẳng phải có, chẳng phải không. Phật Tánh ấy nơi phàm chẳng giảm, tại thánh không tăng. Phật do chứng rốt ráo nên thường hưởng pháp lạc Thường - Lạc - Ngã - Tịnh<SUP><B>(4)</B></SUP>; chúng sanh do triệt để mê nên hằng chịu nỗi khổ huyễn vọng sanh tử luân hồi. Ví như tấm gương báu tròn lớn bị bụi phủ cả kiếp, tuy có ánh sáng chiếu trời soi đất nhưng không do đâu tỏ lộ để thụ dụng được. Vì thế, nhờ vào các vị Bồ Tát cùng nhau xướng đáp để nói ra các pháp môn Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác. Lại còn dùng mười đại nguyện vương hướng dẫn về Cực Lạc để mong viên mãn Phật Quả. Đấy chính là đức Như Lai dùng nhân quả tự chứng để làm một khuôn mẫu lớn lao hòng dạy khắp hết thảy chúng sanh, khiến cho ai nấy đều đích thân chứng đắc. Kinh Hoa Nghiêm riêng thích hợp cho căn cơ Đại Thừa; chứ Nhị Thừa, phàm phu chẳng thể vâng nhận được! Vì thế, trong hội Phương Đẳng, đức Phật đặc biệt nói ra ba kinh Tịnh Độ để dù phàm hay thánh đều cùng chuyên chú tu trì, ngõ hầu trong đời này thoát khỏi cõi Ngũ Trược đây, lên được cõi sen chín phẩm kia.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Trong núi Linh Thứu nước Ma Kiệt Đề, đức Phật nói đến nhân địa đầu tiên của đức Phật A Di Đà: Bỏ nước xuất gia, phát ra bốn mươi tám nguyện, lại trải qua nhiều kiếp dài lâu tu hành đúng như lời nguyện cho đến khi phước huệ viên mãn, được thành Phật đạo, cảm được thế giới trang nghiêm, mầu nhiệm chẳng thể diễn tả được, mười phương chư Phật đều cùng tán thán. Mười phương Bồ Tát và hàng Nhị Thừa hồi Tiểu hướng Đại lẫn phàm phu đầy dẫy Hoặc nghiệp đều được vãng sanh, được bình đẳng nhiếp thọ. Đấy là Vô Lượng Thọ Kinh.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Trong vương cung nước Ma Kiệt Đề, nói ba phước Tịnh nghiệp, mười sáu phép Quán mầu nhiệm để hết thảy chúng sanh hiểu rõ những nghĩa <I>"tâm này làm Phật, tâm này là Phật, biển Chánh Biến Tri của chư Phật từ tâm tưởng mà sanh. Tâm này làm chúng sanh, tâm này là chúng sanh. Biển nghiệp phiền não của chúng sanh từ tâm tưởng mà sanh"</I> vượt ngoài ngôn ngữ. Nếu có thể hiểu được sâu xa nghĩa này, ai chịu bị luân hồi oan uổng? Cuối kinh nói rõ những nhân vãng sanh của chín phẩm ngõ hầu ai nấy đều tu Thượng Phẩm. Đó là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Nơi vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ, nói diệu quả y báo, chánh báo của Tịnh Độ để [người nghe] sanh lòng tin, khuyên người nghe hãy nên phát nguyện cầu vãng sanh, dạy hành giả lập hạnh chấp trì danh hiệu. Ba điều Tín - Nguyện - Hạnh là cương tông của pháp môn Tịnh Độ. Đầy đủ ba pháp này rồi, hoặc suốt một đời chấp trì đã đắc nhất tâm, hoặc lâm chung mới được nghe pháp này chỉ xưng mười tiếng, đều được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Đấy là kinh A Di Đà.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ba kinh này chuyên nói về Tịnh Độ, nhưng kinh A Di Đà lời lẽ đơn giản, ý nghĩa phong phú, nhiếp thọ căn cơ bậc nhất nên các tông Thiền, Giáo, Luật đều vâng dùng làm kinh nhật tụng. Các kinh Đại Thừa nói kèm về Tịnh Độ nhiều không thể kể xiết, nhưng chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm quả thật là khai thị mầu nhiệm nhất về pháp Niệm Phật. Nếu có thể như con nhớ mẹ, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối mà niệm, há chẳng trong hiện tại hay tương lai nhất định thấy Phật, gần là chứng viên thông, xa là thành Phật đạo ư? Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong giáo pháp suốt một đời đức Phật: Tuy là phàm phu sát đất đầy dẫy Hoặc nghiệp, chỉ cần tín nguyện niệm Phật sẽ có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Dù là vị Bồ Tát đã chứng địa vị Đẳng Giác cao cả vẫn phải hồi hướng vãng sanh thì mới viên mãn Phật quả được!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do vậy biết: Pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài được, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp hoàn toàn lợi căn lẫn độn căn. Chúng sanh trong chín giới bỏ pháp này thì trên sẽ chẳng có gì để viên thành Phật đạo; mười phương chư Phật lìa pháp này thì dưới chẳng có gì để phổ độ quần manh<SUP><B>(5)</B></SUP>. Hết thảy pháp môn không pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp giới này, hết thảy hạnh môn không hạnh nào chẳng trở về pháp giới này, bởi đây là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Vì thế, được chín giới cùng hướng về, mười phương cùng khen ngợi, ngàn kinh đều xiển dương, muôn luận đều tuyên nói.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng pháp môn này do hai đức Thế Tôn hai cõi tạo lập, đức Thích Ca nơi Sa Bà dạy rõ Tịnh Độ để đưa con người đi về [cõi Cực Lạc], đức Di Đà nơi Cực Lạc đợi lúc họ lâm chung tiếp dẫn [từ Sa Bà] về tới [Cực Lạc]. Ấy là muốn cho chúng sanh thoát được nỗi khổ sanh tử ngay trong đời này, chứng sự vui chân thường. Tâm thương xót, che chở, bảo vệ ấy dẫu hết cả kiếp khó thể nói trọn. Có kẻ bảo: "Đã là đệ tử Phật Thích Ca, hãy nên niệm Thích Ca Mâu Ni Phật cầu sanh Hoa Tạng thế giới trong cõi này", họ chẳng biết đức Thích Ca dạy niệm A Di Đà Phật là nhằm làm cho hàng phàm phu sát đất nương vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương hòng siêu phàm nhập thánh. Chỉ có bậc Đại Sĩ đã phá vô minh chứng Pháp Thân mới thấy được Hoa Tạng thế giới của cõi này; phàm phu chỉ thấy uế độ, chẳng thấy được cõi Thật Báo Trang Nghiêm, há nên mong tưởng quá phận! Huống chi Tây Phương cũng nằm trong Hoa Tạng thế giới, mà trong hội Hoa Nghiêm hết thảy các vị Bồ Tát trong Hoa Tạng thế giới hải đều dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương để mong viên mãn Phật Quả. Ông là hạng người như thế nào mà dám chống đối các vị ấy?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kể từ khi đại giáo được truyền sang phương Đông, Viễn Công lập Liên Xã đầu tiên, một người xướng, trăm người hòa, không ai chẳng noi theo, thỏa thích bổn hoài của Phật chỉ có mỗi một mình pháp môn này là bậc nhất! Từ đấy trở đi, đời nào cũng có cao nhân, tục diệm truyền đăng<SUP><B>(6)</B></SUP>, rạng rỡ trong ngoài nước mãi cho đến tận hiện thời, tông phong chẳng suy sụp, nhưng Trí Giả đại sư thuộc tông Thiên Thai, Thanh Lương quốc sư thuộc tông Hiền Thủ, Khuy Cơ pháp sư thuộc tông Từ Ân, Bách Trượng thiền sư thuộc Thiền tông, Đại Trí luật sư<SUP><B>(7)</B></SUP> thuộc Luật tông, không vị nào chẳng giải thích kinh, soạn luận, khuyên khắp mọi người tu trì. Những sự tích của họ đã được chép tường tận trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục. Do vậy biết những vị tri thức các tông Thiền, Giáo, Luật đều noi theo Hoa Tạng hải hội, nhất trí tiến hành cầu sanh Cực Lạc, huống chi kẻ căn cơ cạn mỏng đời Mạt Pháp ư? Nhân duyên Linh Nham sáng lập Tịnh Độ đạo tràng đã được chép đầy đủ trong tấm bia [thuật duyên khởi] xây dựng Niệm Phật Đường trước kia. Nay tu bổ đại điện, đặc biệt nêu rõ nguyên do của pháp môn Tịnh Độ để những bậc thông sáng mai sau có cái để nương tựa, hướng về. Chi phí xây cất và phương danh của người đã quyên tặng được ghi trong một tấm văn bia riêng, không ghi tường tận nơi đây.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Theo Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao quyển 16, Nhất Chân pháp giới được giải thích như sau: <I>"Nhất tức không hai, Chân tức chẳng vọng, đan xen lẫn nhau triệt để viên dung nên gọi là pháp giới. Đây chính là Pháp Thân bình đẳng của chư Phật, vốn chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng trong, chẳng ngoài, chỉ một bề chân thật, chẳng thể nghĩ bàn, nên gọi là Nhất Chân pháp giới"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Thường - Lạc - Ngã - Tịnh là bốn đức trọn đủ nơi Pháp Thân của Như Lai, bốn đức này còn gọi là Niết Bàn Tứ Đức. Bốn đức này được giải thích tường tận trong kinh Đại Bát Niết Bàn. Nếu hiểu đại lược thì sự giác ngộ nơi cảnh giới Niết Bàn vĩnh viễn chẳng biến đổi nên gọi là Thường, cảnh giới ấy không khổ, luôn an vui nên gọi là Lạc, tự do tự tại không bị trói buộc mảy may nào nên gọi là Ngã, không bị phiền não ô nhiễm nên gọi là Tịnh.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) Quần manh (Bahu-Jana) còn dịch là Quần Sanh, có nghĩa là các loài chúng sanh. Đây là tên gọi khác của Chúng Sanh. Chữ "manh" hàm nghĩa giống như cây cỏ mới nẩy mầm, chưa thấy được rõ ràng. Chúng sanh vừa mới phát đạo tâm, nhưng vẫn còn bị vô minh che lấp giống như cây cỏ vừa mới nảy mầm, nên mới gọi là Quần Manh.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) Tục diệm truyền đăng: Tiếp nối ánh sáng ngọn đèn, ý nói "nối tiếp, lưu truyền mối đạo từ đời này sang đời khác".
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(7) Đại Trí Luật Sư, tức là ngài Linh Chi Nguyên Chiếu (1048-1116), người đất Dư Hàng, tự là Trạm Nhiên, hiệu An Nhẫn Tử. Xuất gia từ bé, 18 tuổi thọ Cụ Túc giới, học giáo nghĩa tông Thiên Thai với ngài Thần Ngộ Xử Khiêm, nhưng dốc chí nơi Luật Tông. Về sau lễ ngài Quảng Từ thọ Bồ Tát giới, nối pháp Nam Sơn Chánh Truyền của ngài Doãn Kham. Trong niên hiệu Nguyên Phong (1078-1085), Sư trụ tại Chiêu Khánh hoằng truyền Luật Tông, đến tuổi già, dời sang ở tại chùa Linh Chi ở đó suốt ba mươi năm nên người đời thường gọi Sư là Linh Chi Hòa Thượng. Khi mất, Sư được ban thụy hiệu là Đại Trí Luật Sư. Sư viết chú giải cho hai kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh và A Di Đà kinh, chú giải bộ Tứ Phần Luật San Phiền Bổ Khuyết Hành Sự Sao của ngài Đạo Tuyên, soạn thành bộ Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Tư Trì Ký.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>3. Bi ký về việc chùa Linh Nham vĩnh viễn trở thành đạo tràng thập phương chuyên tu Tịnh Độ và công đức xây dựng lần này</B>
(năm Dân Quốc 21 - 1932)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có được cuộc đất tối thắng thì mới hoằng dương được đạo tối thắng. Tạo dựng chuyện phi thường ắt phải đợi người phi thường. Tuy bỉ cực thái lai<SUP><B>(8)</B></SUP> thuộc về vận trời, nhưng sửa cũ dựng mới thật sự phải nhờ vào con người thực hiện. Núi Linh Nham là cuộc đất thánh đạo tràng trời tạo đất dựng. Ngô Vương Phù Sai dựng cung Quán Oa nơi đây, chỉ chuộng dâm lạc, làm ô nhục núi này quá sức! Vì thế, xây xong cung điện chưa được bao lâu liền bị nước tan, mạng mất, đúng là nhân quả phù hợp nhau. Nếu ông ta lập đức thi thố lòng nhân noi theo phong cách cai trị tốt đẹp của tổ tiên là Thái Vương, Thái Bá, Trọng Ung đã lưu lại, ắt sẽ ngang ngửa với Văn Vương trên linh đài<SUP><B>(9)</B></SUP>, lúc sống được hưởng phước vòi vọi, khi mất để lại thanh danh vang dội, đâu đến nỗi quỳ gối xin được sống cũng chẳng được, rốt cuộc che mặt tự vẫn<SUP><B>(10)</B></SUP>, gây nhục lây cho tổ tiên ư? Do vậy biết kẻ không có đức cao trội mà có cuộc đất thù thắng, đâm ra lại là cái gốc họa! Nguyện những bậc quân tử đời sau đều lấy Phù Sai làm gương thì lợi ích ấy chẳng thể nào diễn tả được!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đời Tấn, Tư Không Lục Ngoạn sống tại núi này, do nghe Phật pháp bèn biến nhà thành chùa, đấy chính là khởi đầu của đạo tràng Linh Nham vậy. Đến đời Lương lại càng được phát triển. Đến đời Đường lại càng thêm trùng hưng. Trong khoảng thời gian ấy, phần nhiều là do hình vẽ của Trí Tích Bồ Tát hiện thân, khơi gợi lòng tin tưởng, ngưỡng mộ của mọi người, khiến cho đạo tràng Linh Nham đứng đầu đất Ngô. Cung khuyết dâm lạc xưa kia nay trở thành cuộc đất thánh đạo tràng, cho thấy các pháp tùy duyên, hễ có người tài giỏi ắt cuộc đất sẽ linh ứng! Những vị Trụ Trì trong đời Tấn, đời Đường chẳng thể tra cứu được. Từ đời Tống cho đến đời Thanh, ngôi Trụ Trì đều do Giáo hải lão long, Thiền quật cự sư<SUP><B>(11)</B></SUP>, đức hạnh đáng làm bậc thầy gương mẫu cho cả trời lẫn người, đạo tiếp nối được huệ mạng của Phật, của Tổ. Đầu đời Thanh, sư Hoằng Trữ trụ nơi đây, mở mang giảng tòa rộng lớn, điện đường, liêu xá mới mẻ rạng ngời. Thánh Tổ, Cao Tông (Khang Hy, Càn Long) tuần du phương Nam đều nghỉ lại nơi đây, pháp môn hưng thịnh chói ngời xưa nay.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm Hàm Phong thứ 10 (1860), gặp cơn binh hỏa<SUP><B>(12)</B></SUP>, cháy tiêu gần hết. Trong thời Đồng Trị, vị Tăng tên Niệm Thành được ông Bành Cung Bảo Ngọc Lân hộ trì những mong sẽ dần dần được phục hưng. Năm Quang Tự 18 (1892), vị Tăng tên Biến Ngọc đúc hồng chung, nhưng chưa xây lầu [chuông]. Năm Tuyên Thống thứ ba (1911), vị Tăng tên Đạo Minh do bị mất y [ca-sa] đánh lầm kẻ khả nghi, khiến cho dân chúng phẫn nộ, phải bỏ trốn. Chùa đã không có chủ, tất cả đồ đạc không còn được một vật nào, ruộng đất cũng bị mất mát chẳng ít. Vị hương thân vùng Mộc Độc là Nghiêm Lương Xán khải thỉnh hòa thượng Chân Đạt<SUP><B>(13)</B></SUP> làm Trụ Trì. Cụ Chân bèn sai học trò là Minh Hú thay mặt trông coi, trước hết dựng lầu chuông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đến năm Dân Quốc 15 (1926), đất Ngạc (tỉnh Hồ Bắc) loạn lạc, pháp sư Giới Trần và học trò xuống miền Nam, cụ Chân liền đem Linh Nham giao cho, biến thành đạo tràng thập phương chuyên tu Tịnh nghiệp vĩnh viễn. Nhất loạt chẳng giảng kinh, truyền giới, truyền pháp, thâu nhận đồ đệ, làm chuyện kinh sám thù tạc, [chỉ] quanh năm niệm Phật, chương trình giống như phổ thông Phật thất. Huê lợi ruộng đất chỉ thâu được tám chín trăm đồng, hạn định số người sống ở đây là hai mươi vị, nếu chi phí không đủ, cụ Chân sẽ bù đắp, [chứ Linh Nham] cũng chẳng mộ duyên. Năm Dân Quốc 17 (1928), thầy Giới đặc biệt sang Phổ Đà, cầu cụ Chân dựng thêm phòng ốc, lấy năm sáu ngàn đồng làm chuẩn, cụ Chân bằng lòng. Thầy ấy trở về núi, liền rời chùa, đi sang Vân Nam, ấy là để tránh nỗi phiền phức do xây dựng. Do vậy, mọi việc trong chùa giao cho pháp sư Từ Châu<SUP><B>(14)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thầy Từ Châu khí lực yếu ớt, không chịu đựng được khổ nhọc, liền mấy lượt sang Hán Khẩu giảng kinh. Mùa Hạ năm ngoái lại nhận lời mời của Cổ Sơn, chẳng từ tạ, bỏ đi. Hai ba năm gần đây, đàn-việt<SUP><B>(15)</B></SUP> nhiều người biết đến đạo phong của Linh Nham, có người muốn cầu siêu cho tiên vong, chúc thọ cho cha mẹ, xin đả thất. Số người ở lại đã trên bốn mươi vị, phòng ốc chẳng chứa nổi, lại thêm hẹp nhỏ, trời mùa Hè rất nóng. Nay dựng năm gian lầu cao, phía dưới làm Niệm Phật Đường, rộng rãi mát mẻ. Ngoài ra lại dựng thêm hơn ba mươi gian nữa, chi phí ước chừng hơn năm vạn đồng. Cụ Chân bỏ ra hơn hai vạn hai ngàn đồng, khoản còn lại [góp] từ số tiền chi dùng của Thường Trụ còn dư và do đàn-việt vui vẻ giúp sức. Nay đã hoàn thành, thầy Diệu Chân làm Đương Gia Sư. Do hai lần xây dựng, cụ Chân bỏ ra gần ba vạn, lần này cụ cũng đứng ra xướng suất, công đức ấy và việc biến [ngôi chùa] này thành đạo tràng thập phương đều đáng nên lập bia, [do vậy, tăng chúng Linh Nham] thỉnh tôi lược thuật chuyện ấy để ghi chép công đức hòng bảo với mai sau; vì thế, bất đắc dĩ chẳng thể từ tạ chuyện viết lách được! Thuở ban đầu đã lập năm điều quy ước:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Trụ Trì bất luận thuộc tông phái nào, chỉ cần lấy chuẩn mức là "tin tưởng Tịnh Độ sâu xa, giới hạnh tinh nghiêm". Chỉ truyền hiền, chẳng truyền pháp để dứt thói tệ pháp quyến riêng tư.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Trụ Trì chỉ luận thứ số, chẳng luận theo thế hệ để bậc cao đức khỏi bị đứng sau kẻ đức hạnh tầm thường.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Chẳng truyền giới, chẳng giảng kinh để khỏi chèo kéo, xáo động, gây nhiễu loạn chánh niệm. Trong chùa tuy hằng ngày thường giảng nhưng chẳng lôi kéo người ngoài đến nghe.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Chuyên nhất niệm Phật, ngoại trừ đả Phật thất ra, nhất loạt chẳng làm hết thảy các Phật sự mang tính cách thù tạc.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) Bất luận là ai, chẳng được ở trong chùa mà thâu nhận đồ đệ xuất gia.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ai phạm một điều nào trong năm điều sẽ lập tức ra khỏi chùa. Đại sư Tử Bách đời Minh một đời xây dựng hơn mười ngôi đại tùng lâm, nhưng chẳng làm Phương Trượng, chẳng thâu nhận đồ đệ, hễ xong việc liền bỏ đi, gác bỏ mọi việc. Đại sư Diệu Phong phàm những công trình chùa, tháp, cầu cống, đường sá người khác chẳng thể lo liệu được, thỉnh Sư trông nom, hễ qua tay Sư đều thành công, hoàn tất xong liền cáo từ. Trong lúc đang tu bổ hay xây dựng, có khi Sư sai học trò thay mình lo liệu, công trình hoàn thành, trọn chẳng để lại đó một người nào của chính mình cả! Tấm lòng Sư chánh đại quang minh, mấy trăm năm sau còn nghe tiếng, khiến cho mọi người khâm phục khôn nguôi, đáng được vua tôi cung kính, long thiên ủng hộ, lúc sống tiếng tăm vang dội, lúc mất chứng thánh quả. Người đời nay phần nhiều âm mưu cướp đoạt đạo tràng của người khác, ai chịu đem những gì mình đã có nhường cho người khác?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cụ Chân khẳng khái làm như vậy, tuy đạo còn kém xa Tử Bách, Diệu Phong, nhưng tấm lòng sáng ngời không riêng tư cũng gần bằng các vị ấy, thật đáng khâm phục! Nguyện những người làm Trụ Trì và giữ chức trách trong nhà chùa, cũng như những người nhập chúng tu trì đều cùng giữ tấm lòng đại công vô tư, chuyên tinh tu tập, ngõ hầu chẳng phụ ân Phật đã nói ra pháp môn Tịnh Độ hoành siêu và lịch đại tổ tông hoằng pháp, ân cụ Chân Đạt tạo dựng cũng như một phen yêu thương, siêng năng nhọc nhằn lo toan sâu đậm của thầy Diệu Chân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(8) <I>"Bỉ cực thái lai"</I> nguyên gốc là <I>"bỉ chung tắc thái"</I>. Bỉ và Thái vốn là tên hai quẻ kép tương phản trong sáu mươi bốn quẻ của kinh Dịch. Quẻ Bỉ gồm quẻ Càn ở trên, quẻ Khôn ở dưới ghép thành, hàm nghĩa: Dương khí bốc lên, Âm khí chìm xuống, Âm - Dương chẳng giao hội, vạn vật bế tắc. Do vậy, đây là quẻ xấu. Quẻ Thái thì Càn dưới, Khôn trên, nên Âm - Dương giao hội, vạn vật thông suốt, do vậy là quẻ tốt. Phần Hệ Từ giảng: "Bỉ chung tắc thái" (quẻ Bỉ kết thúc sẽ chuyển biến thành quẻ Thái), hàm nghĩa vận xấu đến cùng cực sẽ chuyển biến thành vận hanh thông, giống như hết Đông sẽ tới Xuân. Do ý nghĩa này, <I>"bỉ chung tắc thái"</I> được biến đổi thành <I>"bỉ cực thái lai"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(9) Linh Đài: tên một cái đài do Văn Vương xây dựng được nhắc đến trong bài thơ Linh Đài thuộc thiên Đại Nhã của kinh Thi. Bài thơ này có nội dung ca ngợi đức hạnh của nhà vua, đoạn đầu bài thơ có câu: <I>"Kinh thỉ linh đài, kinh chi, doanh chi, thứ dân công chi, bất nhật thành chi"</I> (Vừa tính xây đài thiêng, tính toán, lo liệu, nhân dân góp công, chưa đầy một buổi, đài đã xây xong). Do vậy, "linh đài" được dùng như một từ ngữ để ca ngợi vị vua cai trị nhân dân bằng đức hạnh và lòng nhân từ, được nhân dân hết sức yêu mến.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(10) Khi Việt Vương Câu Tiễn diệt nước Ngô, bắt sống Phù Sai. Phù Sai đã quỳ lạy, khóc lóc, van xin được sống sót làm nô lệ chăn ngựa giống như xưa kia Việt Vương Câu Tiễn bại trận đã phải xin làm nô lệ giữ ngựa cho Phù Sai. Khi bị Câu Tiễn ép tự sát, Phù Sai xõa tóc che mặt với ngụ ý không còn mặt mũi nào nhìn tổ tiên dưới suối vàng!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(11) <I>"Rồng già nơi biển giáo, sư tử lớn nơi hang Thiền"</I>, ý nói toàn là những bậc tông tượng lỗi lạc thuộc Giáo môn hay Thiền tông.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(12) Tức loạn Thái Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn khởi xướng. Quân Thái Bình Thiên Quốc đã đốt sạch, phá trụi các chùa miếu, đạo quán mỗi khi chúng chiếm được một địa phương nào!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(13) Tuy hòa thượng Chân Đạt đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đời hoằng pháp và là người nỗ lực thực hiện tông chỉ chuyên tu Tịnh nghiệp của tổ Ấn Quang, hầu như không thấy có tài liệu nào ghi chép chi tiết về tiểu sử của hòa thượng. Dựa theo những ghi chép của môn nhân Tổ Ấn Quang, chúng ta chỉ biết hòa thượng Chân Đạt vốn xuất thân từ Tam Thánh Đường tại Phổ Đà Sơn, do thường bế quan nên chưa hề gặp mặt tổ Ấn Quang. Sau khi bộ Văn Sao được lưu hành, hòa thượng rất ngưỡng mộ tổ Ấn Quang, nhưng lúc đó hòa thượng đã sang Thượng Hải nên chưa gặp gỡ được! Đến mùa Xuân năm Dân Quốc 15 (1926), ông Cao Hạc Niên từ núi Bôi Độ trở về Ninh Ba, ước hẹn với tổ Ấn Quang sẽ cùng nhau đến Thượng Hải lo việc in sách. Hòa thượng Chân Đạt biết tin liền dặn ông Cao đưa tổ Ấn Quang đến nghỉ ngơi tại chùa Thái Bình là Hạ Viện của Tam Thánh Đường tại Thượng Hải, do vậy, hai vị mới được gặp mặt nhau và nhanh chóng trở thành bạn thiết. Từ đấy về sau, mỗi dịp cần sang Thượng Hải, tổ Ấn Quang thường đến ở tại một gian phòng dành riêng cho Ngài trong chùa Thái Bình. Hòa thượng Chân Đạt chẳng tiếc sức hỗ trợ tổ Ấn Quang trong công cuộc hoằng pháp. Khi Tổ muốn tránh phiền nhiễu do bị các nơi gởi thư hỏi han quá nhiều, tính đi sang Hương Cảng để bế quan, hòa thượng Chân Đạt đã tha thiết mời Tổ về bế quan tại chùa Báo Quốc do hòa thượng quản nhiệm cũng như tận lực ủng hộ tổ Ấn Quang trong công cuộc biến Linh Nham Sơn Tự thành thập phương đạo tràng chuyên tu Tịnh nghiệp. Cảm kích trước thịnh tình của hòa thượng Chân Đạt, trong những thư từ trao đổi, Tổ luôn gọi hòa thượng Chân Đạt là “huynh” tuy tuổi tác lẫn pháp lạp của Tổ đều cao hơn hòa thượng Chân Đạt. Khi Tổ Ấn Quang viên tịch, chính hòa thượng Chân Đạt đã đứng ra dựng tháp, chủ trì lễ trà-tỳ và tuyên pháp ngữ trước khi châm lửa.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(14) Từ Châu (1877-1957)là người huyện Tùy, tỉnh Hồ Bắc, pháp danh là Phổ Hải. Từ bé đã theo cha học Phật. Đến năm 33 tuổi, vợ chồng đồng lòng xuất gia. Không lâu sau, Sư thọ Cụ Túc Giới nơi chùa Quy Nguyên tại Hán Dương, từng theo hầu dưới tòa pháp sư Nguyệt Hà là một vị đại đức thuộc tông Hoa Nghiêm. Sư thường giảng kinh Hoa Nghiêm, xiển dương giới luật, hoằng hóa rất sâu rộng, trì luật rất nghiêm, kiêm tu Tịnh Độ lẫn pháp giới quán. Tuy thông hiểu Hoa Nghiêm sâu xa, trong khi thuyết pháp, Sư vẫn dùng những lời lẽ giản dị, chẳng bàn đến những lý lẽ cao siêu khó hiểu, mà chỉ chú trọng vào những điểm cốt lõi, thực tiễn. Sư chuyên giảng Hoa Nghiêm, Viên Giác, Khởi Tín Luận, Tứ Phần Luật v.v... Năm 1920, Sư sáng lập Hoa Nghiêm đại học, Minh Giáo học viện để đào tạo tăng tài. Nhận lời mời của hòa thượng Hư Vân, Sư sáng lập Pháp Giới Học Viện tại chùa Pháp Hải ở Phước Kiến, về sau trường được dời sang chùa Tịnh Liên ở Bắc Kinh. Sư thị tịch tại An Dưỡng Tinh Xá, còn để lại những tác phẩm như Tỳ Ni Tác Trì Yếu Lục, Bồ Tát Giới Bổn Sớ, Đại Thừa Khởi Tín Luận Thuật Ký, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Thân Văn Ký v.v... Những trước tác của Sư đã được biên tập thành bộ Từ Châu Đại Sư Pháp Vựng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(15) Đàn-việt (Dānapati): Thí chủ, tức người bố thí. Đàn là gọi tắt của chữ Dāna (bố thí).</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>4. Bi ký thuật công đức của phân hội Tô Châu Hội Cứu Giúp Loài Vật Trung Quốc quyên tặng vĩnh viễn khu vườn ao phóng sinh cho Linh Nham Sơn Tự để làm hạ viện</B>
(năm Dân Quốc 25 - 1936)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Đại Giác Thế Tôn là đại sư của ba cõi, cha lành của bốn loài, xem hết thảy chúng sanh như con một vì hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật, đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật đời vị lai. Trong các kinh Đại Thừa, Phật đã nghiêm cấm sát sanh ăn thịt ngõ hầu hết thảy chúng sanh đều được hưởng quả báo gần là trường thọ yên vui, quả báo xa là cùng chứng giải thoát Niết Bàn. Đại sư Trí Giả đề cao lòng từ bi của Phật, trong niên hiệu Đại Kiến (569-583) đời Trần đã mua hơn sáu mươi chỗ thuộc Lâm, Hải, Giang, Hỗ, Khê, Lương, cả hơn ba trăm dặm để làm ao phóng sanh, xin vua ban sắc chỉ, lập bia ngăn cấm đánh cá, kẻ nào bắt trộm sẽ bị mắc họa. Đến niên hiệu Trinh Quán (627-649) đời Đường vẫn còn như thế. Đấy chính là bi tâm phổ độ chúng sanh của Phật, Tổ vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Càn là đại phụ, Khôn là đại mẫu, dân là người ruột thịt của ta, loài vật giống như ta<SUP><B>(16)</B></SUP>. Đấy chính là chí hướng thường hằng coi con người và loài vật bình đẳng như nhau của nhà Nho vậy. Nghiêm cấm đọa thai phá trứng để chim, thú, cá, ba ba đều được sống yên vui (<I>"điểu thú ngư miết hàm nhược"</I>: <I>"Nhược"</I> nghĩa là thuận. <I>"Hàm nhược"</I> là đều được sống thuận lợi vậy). Đấy chính là sự cai trị bằng đức để thắng tàn bạo, trừ giết chóc của bậc thánh vương. Ấy là vì đức lớn của trời đất là Sanh, nỗi khổ lớn lao của con người lẫn loài vật chính là Sát. Thắng bạo tàn, trừ giết chóc phải từ nhỏ đến lớn. Nhân từ với con người, yêu thương loài vật ắt phải từ dễ đến khó. Nếu chẳng hàm dưỡng lòng nhân từ, khoan dung từ cội gốc, ắt sẽ trở thành bỏ nhỏ lấy lớn, bỏ dễ lấy khó vậy! Hằng ngày làm chuyện tàn sát, mà lầm lạc mong mỏi nhân từ với con người, yêu thương loài vật sẽ trở thành nói xuông, chắc chắn khó thể thật hành được chuyện ấy! Vì sao nói vậy? Trẻ nhỏ, kẻ bình thường đều có thể thật hành chuyện yêu thương loài vật, hành lâu ngày, bụng dạ đầy ắp nhân từ, mai kia có địa vị, nắm quyền cai trị, sẽ có thể che chở dân đen lớn lao. Dẫu ẩn cư trong một làng vẫn có thể lấy thân mình đốc thúc mọi người thay đổi phong tục! Như vậy, đạo nhân từ với người khác phải được bồi đắp từ lòng yêu thương loài vật thì mới có thể viên mãn trọn khắp, không có điều tệ vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu chẳng do lòng yêu thương loài vật thì tuy trong đời này chưa có gì đáng tiếc, nhưng trong tương lai ắt sẽ phải lo lắng lớn lao, vì đã gieo cái nhân tàn hại loài vật sẽ khó tránh được cái quả luân phiên báo đền [lẫn nhau]! Nguyện người có lòng nhân với kẻ khác thường suy nghĩ cẩn thận vậy. Chuyện phóng sanh vốn nhằm khơi dậy thiện tâm của con người trong hiện tại, vị lai, cốt sao họ kiêng giết, ăn chay, khiến cho khắp mọi hàm thức đều được sống yên ổn, đều hưởng hết tuổi thọ. Gần là dứt được cái nhân giết chóc, xa là diệt được quả báo do giết chóc, nhỏ là khiến cho tâm chúng ta toàn thuần là lòng nhân, lớn là chấm dứt sát kiếp cho toàn thế giới. Chớ nghĩ đây là chuyện chẳng cấp bách, rồi coi thường bỏ qua.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">[Nguồn gốc] khu vườn ao phóng sanh tại cầu Hổ Khiếu (Hổ Gầm) của Hội Cứu Giúp Loài Vật Trung Quốc phân hội Tô Châu [như sau]: Vào tháng Bảy năm Giáp Tý tức năm Dân Quốc 13 (1924), hội viên Hội Cứu Vớt Loài Vật tại Thượng Hải là ông Lục Duy Dung đến đất Tô bàn bạc, mới biết những hội viên Hội Cứu Giúp Loài Vật phân hội Tô Châu đã bàn tính chuyện thiết lập khu vườn ao phóng sanh bèn cực lực tỏ ý tán thành. Ông cho biết: Khéo sao ông Trầm là người đất Tô có một khu đất rộng khoảng sáu mẫu, đã quyên tặng cho Hội Cứu Vớt Loài Vật Thượng Hải, nay đem tặng lại cho phân hội [Tô Châu] để làm cơ sở [tạo lập] khu vườn ao phóng sanh. Trong khu đất ấy có một cái đầm, đào vét thành ao rất đỡ tốn công, tiếp đó ông ta đem bằng khoán đất gởi xuống Tô Châu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đến tháng Chín năm Dân Quốc 14 (1925), hội viên thuộc phân hội [Tô Châu] là ông Dương Đạt Toàn giới thiệu ông Uông Cát Đình gia nhập phân hội, [ông Uông] đứng ra ngỏ ý quyên tặng tiền để xây dựng, các hội viên lại đóng góp [thêm vào] được hơn một vạn đồng, xây dựng liên tục, đào ao, dựng đình, sắp đặt hết thảy. Tuy chẳng hoa mỹ, nhưng thanh nhã không phàm tục, đáng gọi là chốn "thế ngoại đào nguyên" (chốn tiên bồng ngoài cõi tục). Đến tháng Chạp năm Dân Quốc 15 (1926), công trình mới hoàn thành. Tháng Năm năm Dân Quốc 17 (1928), ông Viên Hiếu Cốc tậu thêm một nền đất rộng bảy phân ở phía Nam, nhờ đó [khu vườn ao] càng thêm rộng rãi, vẽ họa đồ, trình lên huyện, lập hồ sơ đầy đủ. Việc quản lý kinh phí trong mấy năm đều do nhóm các ông Ngô Dĩnh Chi v.v... trước sau lo toan.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mùa Hạ năm ngoái, Giám Viện Linh Nham Sơn Tự là thầy Diệu Chân do thấy Linh Nham không có hạ viện tại thành Tô Châu, sau này đến đất Tô cảm thấy khá bất tiện, chú ý đến khu vườn ao phóng sanh tại cầu Hổ Khiếu, cậy Quang hỏi thăm tình hình nơi ông Tào Tung Kiều, cũng như nhờ cậy ông ta thương lượng với mọi người trong hội ấy. Nếu chịu thí tặng thì sự nghiệp phóng sanh càng được tiến hành mạnh mẽ hơn; lại không cần phải phái người chuyên lo quản lý, đôi bên đều có lợi, đúng là <I>"một chấm thủy mặc, đôi bên đều thành rồng"</I>. Ông Tào đi hỏi, mọi người đều cùng tán thành, bảo rằng: "Linh Nham sơn chưa đầy mười năm mà đạo phong đã nghe tiếng khắp xa gần, nghiễm nhiên trở thành đạo tràng thanh tu bậc nhất của Ngô Huyện. Nếu biến khu vườn ao phóng sanh thành Hạ Viện thì sau này sẽ phát đạt, an hòa nào kém Linh Nham?" Bèn bàn bạc, ước định năm điều kiện ngõ hầu vĩnh viễn chẳng suy sụp:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Danh xưng khu vườn ao phóng sanh thuộc hội Phật Giáo Cứu Vớt Loài Vật Trung Quốc phân hội Tô Châu.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Điện thờ Tế Công tổ sư.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Bài vị của thầy Ngộ Căn.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Tòa cát đình<SUP><B>(17)</B></SUP> trên bờ ao.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) Mộ phần của chủ đất họ Trầm nằm ngoài tường bao quanh khu vườn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm thứ này phải được bảo tồn vĩnh viễn, chẳng được bỏ đi. Những thứ kiến trúc, mở mang khác do Tăng chúng chùa Linh Nham tùy ý tiến hành. Duyên khởi ấy được khắc vào bia, ghi vào sổ sách để lưu lại vĩnh viễn. Do vậy, đem tất cả khế ước, họa đồ, hồ sơ, giấy tờ chứng minh [đã lập] từ trước kia đều giao ra hết. Có thể nói là thành tựu cho Linh Nham Tịnh nghiệp đạo tràng, phát triển sự nghiệp phóng sanh, công đức lớn nhất! Mong sao hội viên hội này và giám viện Linh Nham, mọi người đồng tâm dốc sức đề xướng bảo vệ sanh mạng, ăn chay, để thành tựu chuyện "không phóng sanh mà là phóng sanh lớn lao", chí thành niệm Phật để được vãng sanh hòng liễu sanh tử, dứt sát kiếp để vời thỉnh quyến thuộc cõi trời, vãn hồi thế đạo, uốn nắn nhân tâm thì [công đức ấy] há văn tự, ngôn ngữ có thể hình dung được ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(16) <I>"Vật ngô dữ dã"</I>. Trong nguyên bản, sau chữ Dữ có chú thích "<B>與, 友也</B>" (dữ, hữu dã: Dữ là bạn bè). Chúng tôi dịch câu này theo cách giải thích trong sách Tứ Thư Giảng Yếu. Trộm nghĩ, "vật ngô dữ dã" là "loài vật là bạn bè của ta" và "loài vật giống như ta" theo cách giải thích của Tứ Thư Giảng Yếu ý nghĩa không khác nhau cho lắm. Chúng tôi vẫn giữ theo cách giải thích của Tứ Thư Giảng Yếu cho nhất quán.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(17) Một loại đình nhỏ (gazebo) là một loại kiến trúc nhỏ, lợp mái, nhiều cột, không có vách, thường dùng làm nơi hóng mát hay ngắm trăng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>5. Bi ký về việc chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai thành lập ao phóng sanh</B>
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Đại Giác Thế Tôn... (cho đến) coi thường bỏ qua (phần này giống hệt như trong bài bi ký ở trên nên lược đi). Chùa Quốc Thanh là ngôi chùa hàng đầu của núi Thiên Thai. Hòa Thượng Khả Hưng cực lực khôi phục, lại thỉnh pháp sư Tĩnh Quyền phụ trợ, muốn mở rộng lòng từ bi của Phật, Tổ để khơi gợi thiện niệm cho người đời, do đó bèn lập ao phóng sanh nơi vườn rau phía Tây của Tam Môn. Dòng Khê Thủy từ Tây Sơn đổ vào nơi đó, nước chảy vào chảy ra cuồn cuộn, là chỗ thích hợp nhất để nuôi cá. Mùa Thu, mùa Hạ, nhằm buổi trời trong, đêm trăng, tiết Xuân, tiết Đông thì sau giờ Ngọ, trước lúc xế chiều, đại chúng đến đây niệm Phật hiệu vang vang, nhiễu quanh ao ba vòng hồi hướng Tịnh Độ để những loài thủy tộc ấy đều gieo thiện căn xuất thế cũng như khiến cho đại chúng đều phỏng theo bi nguyện của Phật, của Tổ. Do muốn tỏ rõ ý nghĩa "do phóng sanh mà đạt được lợi ích", [chùa Quốc Thanh] sai Quang viết bài ký để thưa cùng bậc sáng suốt mai sau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trộm nghĩ: Phóng sanh vốn là để đề xướng kiêng giết, ăn chay. Nếu con người suốt đời ăn chay sẽ trở thành không phóng sanh mà phóng sanh lớn lao vậy. Nay tôi chép lại bài thơ răn đừng ăn thịt của cư sĩ Hoàng Sơn Cốc<SUP><B>(18)</B></SUP> đời Tống để mong mọi người lúc ăn thịt hãy suy nghĩ đôi ba phen, ắt chẳng nỡ ăn và tâm chẳng dám ăn nữa sẽ bừng bừng dấy lên. Bài thơ ấy như sau:
<p style="padding-left: 56px;">Ngã nhục, chúng sanh nhục,
Danh thù, thể bất thù,
Bổn thị nhất chủng tánh,
Chỉ vi biệt hình khu,
Khổ não tùng tha thụ,
Phì cam vi ngã nhu,
Mạc giao Diêm Quân đoán,
Tự sủy ứng hà như?
<BR><I>(Thịt ta, thịt chúng sanh,
Danh khác, thể vốn đồng,
Vốn cùng một chủng tánh,
Chỉ hình hài khác nhau!
Khổ não chúng hứng chịu,
Béo ngon ta hưởng riêng,
Chớ đợi Diêm La xử
Tự suy sẽ biết mà!)</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bài thơ ấy có ý nghĩa lắm thay! Trung hậu, khoan dung cách đạo chẳng xa, điều gì chẳng muốn [người khác] làm cho chính mình thì chớ làm cho người khác. Lòng nhân với con người, yêu thương loài vật ấy [chính là] đại kinh đại pháp thành thủy thành chung, chẳng cần phải nói tường tận về ý nghĩa nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo sâu xa! Nguyện những ai thấy nghe đều suy nghĩ sâu đậm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(18) Hoàng Sơn Cốc tên thật là Hoàng Đình Kiên, tự là Lỗ Trực, hiệu là Sơn Cốc đạo nhân, vốn là một nhà thư pháp (calligrapher) nổi tiếng thời Bắc Tống, quê ở huyện Tu Thủy, tỉnh Giang Tây. Ông làm thơ, viết chữ, vẽ tranh đều xuất sắc nên được xưng tụng là Tam Tuyệt. Đương thời, ông nổi tiếng không kém Tô Đông Pha nên người đương thời thường dùng từ ngữ Tô Hoàng để chỉ hai bậc văn gia này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>6. Bi ký về việc chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai sáng lập ba viện dưỡng lão, dưỡng bệnh và trợ niệm</B>
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sa Bà là cõi khổ sở cùng cực, vì thế cõi này thuộc về quán trọ trên đường lữ thứ; An Dưỡng là chốn vui sướng tột bậc, vốn là quê nhà sẵn có. Nhưng do chúng sanh mê muội chưa ngộ, bèn cứ khăng khăng coi quán trọ là quê nhà, chẳng biết có trụ xứ thanh tịnh an ổn tột bậc do cha ông đã tạo dựng. Do vậy, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, luân hồi trong sáu nẻo, chìm đắm trong tam đồ từ kiếp này sang kiếp khác, không cách nào thoát ra. Đức Đại Giác Thế Tôn thương xót, thị hiện sanh trong thế gian, tùy thuận căn cơ thuyết pháp để các chúng sanh bỏ mê về với ngộ, theo đường về nhà. Do chúng sanh căn cơ chẳng phải chỉ có một, nên mỗi pháp đức Như Lai nói ra đều khác biệt. Nhưng các pháp ấy đều phải cậy vào tự lực, chỉ bậc thượng căn cao nhất mới có thể hoàn thành được ngay trong đời này. Nếu là kẻ kém hơn thì sẽ hai đời, ba đời mới giải quyết xong. Những kẻ trải kiếp dài lâu vẫn chưa thể giải quyết xong vẫn chiếm đa số! Lòng Như Lai phổ độ chúng sanh chan chứa nhưng chưa thỏa mãn được; do vậy, bèn đặc biệt mở ra một pháp tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, để thượng thánh hạ phàm đều cùng trong đời này thoát cõi Sa Bà đây lên cõi An Dưỡng kia. Bậc thánh sẽ mau thành Phật đạo, kẻ phàm sẽ dần dần chứng được Bồ Đề. Phổ độ chúng sanh cô đơn quạnh quẽ không nơi nương tựa, thỏa thích lớn lao bổn hoài xuất thế của đức Như Lai. Trên là Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, dưới là tội nhân Ngũ Nghịch, Thập Ác cực nặng đều là căn cơ được thâu nhiếp bởi pháp này. Chúng ta trên chẳng bằng được các vị như Văn Thù v.v... dưới chưa đến nỗi giống như hàng Ngũ Nghịch, Thập Ác, há lẽ đâu chẳng mạnh mẽ phát ra đại chí ngõ hầu vượt ngang ra khỏi tam giới ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xét từ khi đại giáo được truyền sang phương Đông, tuy có môn đình Thiền, Giáo, Luật, Mật, Tịnh bất đồng, nhưng không một môn nào chẳng lấy vãng sanh Tịnh Độ làm chỗ quy túc! Núi Thiên Thai là đạo tràng của Trí Giả đại sư. Đại sư dùng Ngũ Thời Bát Giáo<SUP><B>(19)</B></SUP> để phán thích<SUP><B>(20)</B></SUP> giáo pháp cả một đời đức Như Lai nhưng vẫn chú trọng nơi một môn Tịnh Độ. Tuy chưa thấy được phần kinh văn quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm nhưng đã lập pháp ngầm hợp, đủ thấy Phật và Tổ vốn [thở] cùng một lỗ mũi! Chùa Quốc Thanh là ngôi chùa được xây trên nền đất [ngôi chùa] lúc Đại Sư sắp nhập Diệt Định<SUP><B>(21)</B></SUP>. Đến nay đã một ngàn ba trăm mấy chục năm, tuy trải qua nhiều lượt biển dâu, có khi hưng, khi phế, nhưng nhờ được cao nhân làm Trụ Trì, cho đến hiện thời đạo phong vẫn chẳng suy sụp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đầu thời Càn Long nhà Thanh, Bảo Lâm Trân Công trùng hưng, điện đường, liêu xá mới toanh rạng ngời, nhưng còn ba viện chưa đủ sức để thành lập. Một là Dưỡng Lão vì bậc danh đức các phương, bậc kỳ cựu trong chùa, tuổi già lắng lòng chuyên lo tu tập đạo nghiệp của chính mình nhưng chưa có một tòa viện chuyên biệt thì làm sao giúp cho Tịnh nghiệp được? Hai là Dưỡng Bệnh: Thập phương tăng lữ cô quạnh một thân, đã đến chùa này nương tựa thì chính là người ruột thịt, hễ bị bệnh tật chẳng thể theo đại chúng, bèn dời đến nơi này để an dưỡng mong cho chóng lành. Nếu tuổi thọ sắp hết sẽ đưa sang Trợ Niệm Đường. Ba là Trợ Niệm, phàm người bệnh nặng sắp mất, sẽ chuyển sang viện này. Thường Trụ liền phái người luân phiên trợ niệm. Trụ Trì hay người trưởng ban sẽ khai thị, hướng dẫn người [sắp mất] ấy, để người ấy toàn thân buông xuống hết, nhất tâm niệm Phật. Trước mặt người ấy nên thờ tượng Phật tiếp dẫn, để người ấy tâm niệm, miệng niệm, tai nghe, mắt nhìn, trừ đức Phật ra, không còn nghĩ gì khác nữa, ngõ hầu chánh niệm rạng rỡ, theo Phật vãng sanh. Đây chính là một đại sự khẩn yếu tột bậc của chốn tùng lâm hoằng pháp lẫn người xuất gia tu hành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người làm Trụ Trì và những vị có chức trách hãy nên coi người khác già - bệnh - chết giống như chính mình già - bịnh - chết, ắt sẽ lo liệu ổn thỏa, chắc chắn chẳng chịu quấy quá cho xong chuyện thì đạo đức hiện tại sẽ ngày một cao quý, phẩm sen vãng sanh càng thù thắng vậy! Huống chi cổ nhân tạo dựng tùng lâm vốn là vì người già kẻ bệnh mà lập, cũng như khiến cho tăng chúng đông đảo có chỗ nương tựa, người học ùn ùn có nơi để tham học, thừa sự. Có ai chẳng già? Có ai không bệnh? Ai mà không chết? Nếu chẳng đặc biệt lập ra một viện thì người già, người bệnh, thân tâm khó yên. Thân tâm đã chẳng yên thì niệm Phật cầu vãng sanh sẽ bị chướng ngại. Đấy chính là nguyên do thành lập riêng hai tòa điện đường Dưỡng Lão và Dưỡng Bệnh. Nhưng già và bệnh còn có thể tạm để đó, chứ lâm chung chắc chắn khó thể coi thường, trì hoãn được! Nếu công phu chưa sâu, Phật niệm chưa thuần, lại thêm bệnh khổ trầm trọng, chẳng có tri thức khai thị, hướng dẫn, Tịnh lữ trợ niệm, sẽ trở vào luân hồi, trọn chẳng có hy vọng gì được liễu thoát! Nếu là người công phu đã sâu, Phật niệm đã thuần, lại có sức trợ niệm của đại chúng, há chẳng mau chóng thấy Phật, nghe pháp, ngộ Vô Sanh Nhẫn ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do vậy biết chuyện trợ niệm quan hệ rất lớn. Đang trong lúc tánh mạng sắp chấm dứt ấy, nhằm lúc phán định thăng - trầm, mà đã có người khai thị, hướng dẫn, trợ niệm, ví như kẻ khiếp nhược tránh giặc tính ngồi thuyền trốn xa, được mọi người nâng đỡ, liền có thể vọt lên thuyền, liền được ngồi yên ổn đến tận bờ kia. Nếu là người không được khai thị, hướng dẫn, trợ niệm, ắt sẽ mắc cái họa phá hoại chánh niệm, đừng nói người công phu chưa sâu chẳng thể liễu thoát, dẫu là người Phật niệm đã thuần vẫn khó vãng sanh! Ví như dũng sĩ phá vòng vây lọt ra, tính ngồi thuyền thoát đi, bị mọi người chèo kéo, ngay lập tức té xuống vực sâu. Siêu phàm nhập thánh hay vẫn luân hồi y như cũ chỉ trong một hơi thở này! Lẽ được - mất quá nửa nằm trong tay vị Trụ Trì, một phần ít nằm trong tay những người giữ chức trách. Nếu vị Trụ Trì hay những vị có chức trách thấy người khác chết giống như cha mẹ, thầy, bạn của chính mình chết ắt sẽ cực lực trợ niệm đúng pháp, thành tựu vãng sanh. Đã được vãng sanh, lâu dần ắt sẽ viên thành Phật đạo. Thành tựu một người vãng sanh chính là thành tựu một chúng sanh thành Phật; công đức ấy há thể diễn tả được ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đến năm Dân Quốc 17, 18, do không kiếm được người Trụ Trì nên [Quốc Thanh Tự] lâm vào cảnh suy bại sát đất. Năm Dân Quốc 19 (1930), những bậc kỳ lão trong núi và các vị hương thân cung thỉnh hòa thượng Khả Hưng là bậc đã xin thôi chức Trụ Trì về hưu trước kia trở lại làm Trụ Trì để mong khôi phục [nhà chùa]. Cụ Hưng bèn mời người bạn thân là pháp sư Tĩnh Quyền giúp sức. Do vậy, đặc biệt mở học xã để hoằng dương xiển phát tông Thiên Thai, hưng khởi điều lợi, trừ thói tệ, tiến hành đầy đủ trăm chuyện đã bị phế bỏ. Nay lại tính lập ra ba viện này, mỗi viện gồm năm gian, vị trí ở gần nhà bếp để tiện cung cấp những thứ thức ăn, trà, nước cho những vị già cả, bệnh tật. Mỗi viện đều cử người trông nom, đều lập quy ước. Trụ Trì và những vị có chức trách thường đi xem xét, chẳng để cho những người chăm sóc lười nhác, coi thường. Dụng tâm cẩn thận, sát sao đáng cho người khác khâm phục! [Hòa thượng Khả Hưng] sai Quang soạn bài ký. Do vui đẹp trước tấm lòng thành vì pháp vì người [của chùa Quốc Thanh] nên [Quang] quên mình hèn tệ, viết những ý chính. Nguyện từ nay trở đi, Trụ Trì và những vị có chức trách chùa Quốc Thanh cũng như Trụ Trì và những vị có chức trách các nơi trong hiện tại lẫn tương lai ai nấy đều chú ý sâu xa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(19) Ngũ Thời: Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa - Niết Bàn. Bát Giáo: Tám loại giáo hóa, gồm Hóa Nghi Tứ Giáo (bốn phương thức dùng để giáo hóa) gồm: Đốn, Tiệm, Bí Mật, Bất Định và Hóa Pháp Tứ Giáo (bốn nội dung giáo hóa) gồm Tạng, Thông, Biệt, Viên.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(20) Phán thích: Phán định, giải thích.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(21) Chùa Quốc Thanh nằm ở phía Nam ngọn Phật Lũng rặng Thiên Thai, do Tấn Vương Dương Quảng (sau này là Tùy Dạng Đế) xây dựng cho ngài Trí Khải (Trí Giả đại sư). Thoạt đầu, Định Quang thiền sư trụ trì tại núi này, thường bảo đệ tử: "Không lâu sau sẽ có vị thiện tri thức thù thắng lãnh chúng sống tại núi này". Quả nhiên, không lâu sau có ngài Trí Khải vượt Trường Giang đến nơi này, mở mang pháp thí rộng lớn. Đại sư tính xây dựng chùa ở phía nam núi Phật Lũng, nhưng xây chưa xong đã nhập diệt. Tấn Vương Dương Quảng tiếc nuối khôn cùng, bèn lập hội trai tăng một ngàn vị, xây dựng ngôi phạm vũ nguy nga này, thoạt đầu đặt tên là Thiên Thai Sơn Tự. Nhưng sau này, vua nhớ lại khi còn là Thái Tử, nhằm khi ngài Trí Khải tới nơi đây, sư Định Quang đã từng báo mộng với nhà vua: "Ba nước (tức Bắc Châu, Bắc Tề, Trần) sẽ hợp thành một, người có thế lực lớn lao mới ở được chùa này, chùa xây xong, đất nước sẽ thanh bình". Do vậy, đổi tên là chùa Quốc Thanh.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>7. Bi ký về chuyện Hương Quang Liên Xã thuộc Hương Sơn Thảo Am ở Ngô Huyện xây dựng Tam Thánh Điện</B>
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Đại Giác Thế Tôn khéo trị những căn bệnh nơi thân nơi tâm chúng sanh, khéo làm cho thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui. Tâm bệnh có những thứ nào? Chính là tham - sân - si. Đã có những bệnh ấy, tâm chẳng thể chánh được, những ý niệm thuận theo tình kiến, trái nghịch lý sẽ ồ ạt dấy lên. Những niệm ấy đã khởi, ắt sẽ muốn thỏa lòng ham muốn của chính mình, cái tâm hèn tệ giết - trộm - dâm sẽ ngay lập tức biến thành sự thực. Đấy gọi là "do Hoặc tạo nghiệp, do nghiệp chuốc khổ trải trần điểm kiếp<SUP><B>(22)</B></SUP> chẳng thuở nào xong!" Đức Như Lai thương xót, tùy theo từng căn bệnh của chúng sanh mà ban thuốc, bảo họ: <I>"Tâm tham - sân - si chẳng phải là cái tâm vốn có của các ngươi, tâm các ngươi vốn viên minh tịnh diệu như tấm gương sáng sạch, trọn chẳng có một vật nào! Hễ có vật ở trước gương thì không vật nào chẳng được soi trọn vẹn. Vật đến chẳng cự tuyệt, vật đi chẳng lưu giữ. Giữ được tánh thiên chân của ta, chẳng bị chuyển theo vật. Mê tâm đuổi theo cảnh thì gọi là ngu phu. Trái trần hợp giác liền dự vào dòng thánh"</I>. Nếu con người biết được điều này, tâm bệnh sẽ lành. Tâm bệnh đã lành, thân bệnh chẳng có cội gốc nữa, dẫu cảm xúc lạnh - nóng cũng chẳng bị nguy hiểm. Tâm đã chánh thì thân sẽ chánh theo. Do đã không có tình niệm tham - sân - si, sẽ do đâu mà có những hạnh hèn tệ giết - trộm - dâm cho được? Ai nấy đều như thế thì dân là đồng bào, loài vật giống như ta, đối đãi bình đẳng, nào còn có chuyện tranh đất, giành thành, tàn sát lẫn nhau nữa ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì thế, những bậc vua quan thông minh duệ trí thời xưa không vị nào chẳng sùng phụng, hộ trì, bởi [Phật pháp] giữ yên đất nước khi chưa loạn, bảo vệ đất nước khi chưa nguy, nên đạt đến thái bình mà chẳng hay chẳng biết, chẳng tỏ lộ dấu vết vậy! Tiếc cho những nhà Nho đời sau tâm lượng hẹp hòi, nhỏ nhen, lấy diệu nghĩa từ kinh Phật để giúp cho những chuyện bàn xuông của bọn họ, nhưng bài xích thật lý do đức Phật đã nói, bảo là bịa đặt! Sự lý nhân quả ba đời, luân hồi sáu nẻo chính là đại kinh đại pháp khiến cho người hiền mau lên cảnh thánh, kẻ ngu gắng sức làm người dân lương thiện, [thế mà] bọn chúng bảo "thật ra chẳng có chuyện nhân quả báo ứng, con người chết đi, thần hồn đã diệt, còn ai để chịu tội và thác sanh?" Từ đấy, thiện không có gì để khuyên, ác không có gì để trừng phạt, đến nỗi hùa nhau phế kinh điển, phế luân thường, phế hiếu, bỏ thẹn, chẳng hề xấu hổ, ngược ngạo coi đó là vinh, đều là do những thứ học thuyết ấy ươm thành! Cõi đời đã loạn đến cùng cực, ai nấy đều lo sợ, muốn cứu vãn thì chẳng thể không noi theo đại pháp của đức Như Lai. Do vậy, các nơi đều lập Tịnh nghiệp xã hoặc Cư Sĩ Lâm để đề xướng nhân quả, chuyên tu Tịnh nghiệp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trụ Trì Hương Sơn Thảo Am ở Ngô Huyện là đại sư Thanh Thiền và các cư sĩ tại địa phương đã sáng lập Hương Quang Liên Xã từ lâu, nay đặc biệt xây cất năm gian Tây Phương Tam Thánh Điện ở phía Đông thảo am. Những tăng nhân sống trong am suốt năm tu tập, Tăng - tục tham dự liên xã định kỳ cử hành, sắm sửa đầy đủ kinh sách Tịnh tông để mọi người đọc tụng. Ngày Rằm mỗi tháng mọi người đều tụ lại, niệm Phật một ngày, hễ thuận tiện bèn giảng diễn tông chỉ của pháp môn Tịnh Độ ngõ hầu những người tu trì hiểu thấu triệt tự tâm, chẳng đến nỗi miệng nói cầu sanh Tây Phương mà lòng vẫn nhớ tưởng cõi này đến nỗi công phu sắp thành nhưng vì mắc lỗi hiểu lầm [đến nỗi] mong thoát sanh tử mà vẫn đọa luân hồi! Lại còn chỉ dạy cặn kẽ nhân quả, thuật đủ tội phước.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phàm những ai tham dự liên xã đều phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng hành các điều thiện, giữ gìn tám đức "hiếu, đễ, lễ, nghĩa, trung, tín, liêm, sỉ", dốc chí nơi tám sự "cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", ắt sẽ khiến cho Nho tông nhờ Phật pháp mà được phục hưng, sự giáo hóa của Phật do hàng Nho sĩ mà được truyền rộng rãi, bù đắp thiên kiến "trong lòng sùng phụng, ngoài mặt chống trái", tự lầm, lầm người của tiền nhân, dạy đời sau quy củ rộng lớn "sống trong cõi trần học đạo, tự lập, lập người". Ba người cùng đi ắt có [người] là thầy ta; một ấp mười nhà, ắt có [nhà] trung tín. Ai cũng đều có thể là Nghiêu - Thuấn, ai cũng đều có thể thành Phật. Người ta là trượng phu, mình cũng là trượng phu, chớ nên tự khinh rồi cam phận lui sụt, ngõ hầu chẳng cô phụ Phật tánh sẵn có nơi tâm mình và đại pháp liễu thoát ngay trong đời này! Nguyện khắp những người đến [với liên xã này] đều ghi nhớ chớ quên thì may mắn lắm thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(22) Trần điểm kiếp: Kiếp số nhiều như số vi trần.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>8. Bi ký thuật duyên khởi của Tây Phương Điện tại Vô Tích</B>
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn đặc biệt trong giáo pháp suốt cả một đời đức Phật, là cội nguồn của các pháp, cả phàm lẫn thánh đều được độ, thích hợp khắp ba căn thượng, trung, hạ; Thiền, Giáo, Luật cùng hướng về một đạo, thực hiện dễ, thành công cao, dùng sức ít nhưng đạt hiệu quả nhanh chóng. Quả thật là con đường tắt cho chúng sanh trong chín pháp giới trở về lẽ chân, thỏa thích bản hoài xuất thế của đức Bổn Sư Thích Ca. Xét từ khi pháp được truyền sang Đông Chấn (Trung Hoa), Viễn công mở Liên Xã đầu tiên, từ đấy những bậc cao nhân chí hâm mộ Tây Phương ai nấy vâng theo tông phong, sự giáo hóa lan khắp cả nước và các nước ngoài. Tuy hơn một ngàn năm qua không lúc nào chẳng có những tình trạng hưng thịnh hay suy vi, trong tâm chúng sanh vẫn thường giữ lòng thành quy hướng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Huyện Vô Tích chính là cuộc đất thù thắng nơi Thái Bá, Trọng Ung ẩn mình. Tây Phương Điện là đạo tràng cùng tu cả Phật pháp lẫn thế pháp. Nhằm năm Quang Tự 29 (1903) đời Thanh đã có năm vị ưu-bà-di là Cao Siêu Tắc, Tần Học Tây, Triệu Tịnh Chứng, Đằng Tâm Tịnh, Cố Tịnh Minh, hạnh noi theo ba bà Thái<SUP><B>(23)</B></SUP>, chí mong nơi chín phẩm sen, mỗi người bỏ ra một món tịnh tài là năm trăm đồng, tính dựng tinh xá niệm Phật ngoài cửa Tây, [thuộc khu vực đánh số] 22-7 trên bản đồ. Bà Siêu Tắc lại bảo con là Chấn Thục tặng cho [tinh xá] sáu phân năm ly đất nữa để góp thêm vào khoảnh đất do các xã hữu đã chung sức quyên góp tậu được. Bèn dựng đại điện, cửa tam quan, nhà khách, tịnh thất, tổng cộng hơn mười gian, mất ba năm mới xây dựng xong. Phàm tượng Phật, kinh điển, pháp khí trang nghiêm nói chung đều đầy đủ, lại còn định quy ước rõ ràng, ghi chép lại để lưu truyền, vâng giữ. Nếu là hàng phụ nữ quy y Tam Bảo, dốc lòng tu Tịnh nghiệp thì đều có thể tùy hỷ tu trì, đây chính là nơi tiên khởi của liên xã dành cho nữ giới tại Vô Tích vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thuở đầu, bà Siêu Tắc lòng nhàm chán sanh tử mong mau được liễu thoát, được hai người chú là các tiên sinh Ngưng Phong và Đạo Nam chỉ dạy pháp môn Tịnh Độ, bèn phát tâm kết xã đồng tu Tịnh nghiệp. Lúc ban đầu, lập hội trong Thạch Sư Am; tiếp đó, sáng lập điện này để tự có thể chủ trì được việc này. Tới năm Tuyên Thống thứ hai (1910), bà sắp về Tây, bèn mời khắp các vị hương thân, cao niên, thiện tín hộ pháp đến, giao cho bà Học Tây kế tục đảm nhiệm mọi việc. Nối tiếp bà Học Tây chủ trì đến nay là bà Hiển Trung. Bà Hiển Trung xưa đã gieo huệ căn, hiếu học, chuyên tu, thường nương theo bà Siêu Tắc tu trì tại đây. Gần đây bà lãnh đạo tịnh hữu rất được tiếng khen. Trong điện từ trước đến nay khóa tụng sáng tối, ba thời niệm Phật quy củ nghiêm túc, tu trì tinh tấn, khiến cho kẻ thấy nghe đều sanh lòng chánh tín. Do vậy, [những người] bỏ mê về với ngộ, chuyển tà thành chánh mà chẳng hề hay biết không thể đếm xuể được! Gần đây, liên xã thành lập như rừng, tiếng niệm Phật chở đạo<SUP><B>(24)</B></SUP> chưa hề [có nơi nào] chẳng phải do điện này phát khởi vậy! Lại ở trước cửa dành ra hai phân năm ly đất, dự tính mai sau sẽ dần dần mở rộng cuộc đất ra.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hiển Trung do chủ trì đã lâu, bị già - chết bức bách, ý muốn thoái ẩn, hòng chuyên tu Tịnh nghiệp. Do vậy trình bày với Quang về duyên khởi, lai lịch của điện này, cậy tôi viết bài ký. Do vậy, tôi bèn trình bày đại lược sự rộng lớn cao sâu của pháp môn Tịnh Độ, [cũng như] do sự tu trì tinh tấn của mọi người trong điện này nên được thiện tín khâm phục, ngưỡng mộ, hộ trì, nhằm thành tựu đạo tràng thù thắng nhiệm mầu "tu chân ngay trong cõi tục, tự lợi, lợi tha" này, ngõ hầu hết thảy mọi người đều biết "ở ngoài thế giới [giống như] nhà cháy này, vốn có quê hương thanh tịnh yên vui tột bậc", cùng chuẩn bị tư lương Tín - Hạnh - Nguyện để trở về nhà, mong sao đích thân thấy được bậc cha mẹ đại từ bi là A Di Đà Phật, liền được cùng với Phật chứng vô lượng quang thọ. Nguyện ai nấy gắng sức, nguyện mỗi người hãy gắng công lên! (Tam môn chính là ba môn giải thoát Không, Vô Tướng, Vô Tác, nhưng một môn có đủ cả ba nghĩa giải thoát này vậy).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(23) Ba bà Thái chính là Thái Khương (vợ Châu Thái Vương, tức bà nội của Văn Vương), Thái Nhậm (vợ Châu Vương Quý, mẹ vua Văn Vương) và Thái Tự (vợ Châu Văn Vương), ba người đàn bà hiền đức mẫu mực nhất thời cổ.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(24) Nguyên văn "Phật thanh tải đạo": Dựa theo ý câu "văn dĩ tải đạo" dùng văn chương để chuyển tải đạo lý. Tương tự, tiếng niệm Phật khiến người nghe thức tỉnh, phát khởi thiện căn, mỏng nhẹ phiền não, do vậy, tiếng niệm Phật cũng chuyên chở đạo lý vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>9. Bi ký ghi duyên khởi sáng lập chùa Pháp Vân bên sông Tam Xoa tại Nam Kinh</B>
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như Lai vì một đại sự nhân duyên nên xuất hiện trong cõi đời. Gọi là "đại sự" là vì muốn cho hết thảy chúng sanh đều khai - thị - ngộ - nhập tri kiến Phật, ai nấy đều được thành Phật mới thôi. Do chúng sanh căn tánh lớn - nhỏ khác biệt, nên pháp môn của đức Như Lai có Quyền - Thật bất đồng. Vì vậy, tâm phổ độ chúng sanh của Như Lai chưa được thỏa mãn lớn lao. Bởi thế, đặc biệt mở ra một pháp "tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương" để dù thánh hay phàm đều cùng trong đời này thoát khỏi cõi khổ này, sanh sang nước vui sướng kia. Bậc thượng căn sẽ mau chứng Pháp Thân, kẻ [căn cơ] trung - hạ cũng đều cùng lên Bất Thoái, khiến cho chúng sanh cùng thoát sanh tử, thỏa thích bản hoài xuất thế của Như Lai. Lợi ích ấy chẳng thể diễn tả được! Vì thế, pháp này được chín giới hướng về, mười phương cùng khen ngợi, ngàn kinh đều xiển dương, muôn luận đều tuyên nói, vì pháp này là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chùa Pháp Vân phỏng theo đạo tràng niệm Phật phóng sanh do chùa Vân Thê đã lập. Nguyên do là vì trong tháng Tám năm Dân Quốc thứ mười (1921), Quang sang Dương Châu để khắc in sách, ông Vương Ấu Nông đi cứu trợ ở Nam Kinh, theo lời ước hẹn đến thăm viếng. Ngày hôm sau đến thăm ông Lưu Viên Chiếu, ông Ngụy Mai Tôn cũng đến gặp, cho biết chính ông ta <I>"khá tin tưởng Phật pháp, đã từng đọc Văn Sao của thầy, gần đây cũng niệm Phật, nhưng hận rằng nghiệp chướng, tập khí sâu dầy, chẳng thể ăn chay được!"</I> Quang bảo: <I>"Bệnh ấy dễ trị, xin hãy đem bài sớ [kêu gọi tu bổ] ao phóng sanh [chùa Cực Lạc] ở Nam Tầm đọc kỹ, đảm bảo ông sẽ ăn chay được!"</I> Vào tháng Mười, ông ta liền ăn chay trường, lòng đau đáu nghĩ tưởng sát kiếp tràn lan đều do sát sanh ăn thịt cảm thành, nhân đấy bèn miệt mài đề xướng niệm Phật, phóng sanh, mong sao người và vật đều được sống yên vui, đều được vãng sanh Tây Phương. Năm sau, [ông Mai Tôn] cùng với Ấu Nông, Bàng Tánh Tồn, Diệu Liên, Tâm Tịnh v.v... thương lượng mua chừng đó mẫu đất của ông Phương Tuấn Sanh bên sông Tam Xoa để thực hành chuyện ấy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông Tuấn Sanh vốn là con cháu của một gia tộc đời đời đức hạnh, khôn ngăn hoan hỷ, đặc biệt bán giá rẻ, xin đem bài vị tổ tiên cha mẹ thờ vĩnh viễn trong Niệm Phật Đường để mong cậy vào Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh hòng báo ân cha mẹ. Liền khởi công vào tháng Chạp, đào ao, đắp nền. Năm sau, dựng liên xá<SUP><B>(25)</B></SUP> và mười mấy căn nhà để sử dụng, đào chín cái ao để phóng sanh theo từng loại nhằm tránh cái nạn cá dữ nuốt cá. Năm ấy lại đề xướng lập Cô Nhi Viện nuôi dạy cô nhi để chúng nó học chữ, học nghề hầu có thể tự lập, chẳng đến nỗi lang thang chết đói và trở thành phường không ra gì! Do vậy, xây dựng Cô Nhi Viện trước, còn chuyện dựng chùa sẽ tính từ từ. Do nhiều năm liên tiếp thời cuộc không ổn, nên lần khân mãi đến ngày nay. Ông Đặng Phác Quân và Mai Tôn đều là học trò của ông Phùng Mộng Hoa, lại cùng quy y với Quang, xin ông Phùng và Quang đề tựa cho sổ vàng Bốn Mươi Tám Nguyện nhằm quyên mộ khoản tiền xây dựng Pháp Vân. Phàm những người khác quyên mộ cũng gộp vào trong sổ vàng ấy. Mỗi nguyện là một ngàn đồng, hễ có được bốn năm vạn đồng liền có thể xây dựng. Ghi đến hơn năm chục nguyện, đã giao ra hai vạn hai ngàn bảy trăm bảy chục đồng mà vẫn chưa khởi công, vì thế chẳng quyên góp nữa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm Dân Quốc 19 (1930), ông Phác Quân quy Tây, hai cuốn sổ ấy con ông ta là Hàn Phân giao lại cuốn đầu, cuốn sau bị thất lạc, nên không biết được tên những người quyên mộ, cũng như do có người đã qua đời hay chuyển chỗ ở nên tuy có tên trong sổ cũng khó lòng thâu hết được. Mấy năm qua, khi kinh phí cho Cô Nhi Viện chẳng đủ đã tự tiện dùng tiền lời của khoản tiền ấy [để bù đắp]; vì thế, trọn chẳng tăng thêm được. Năm ngoái, ông Mai Tôn quy Tây, ông Ấu Nông do thấy Quang và ông ta đều là khách chẳng còn ở lâu trong cõi đời này, nếu chẳng gấp rút lo toan, sau này chắc sẽ bị mất tích, bèn quy định biện pháp cho khởi công động thổ, sắm sửa vật liệu, mùa Xuân năm nay sẽ đứng ra đốc thúc xây cất. Gặp đúng lúc chánh phủ cử ông ta làm ủy viên chánh phủ tỉnh Thiểm Tây kiêm nhiệm chức vụ trưởng ty dân sự vụ tỉnh Thiểm Tây, giữ nhiệm vụ trông nom xây dựng, nên mọi việc giao lại hết cho thầy Trụ Trì Tâm Tịnh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hơn nữa, việc này do Quang phát khởi nên [thầy Tâm Tịnh] bảo Quang soạn bi ký nhằm thưa với những người thông sáng mai sau. Trong năm Dân Quốc 11 (1922), lúc mua đất, đã bàn bạc quyết định chương trình là đạo tràng chuyên tu Tịnh nghiệp, quanh năm niệm Phật, công khóa mỗi ngày giống như phổ thông Phật thất. Nhất loạt chẳng giảng kinh, truyền giới, truyền pháp, thâu nhận đồ đệ, làm chuyện kinh sám thù tạc. Trụ Trì bất luận Thiên Thai, Hiền Thủ, Lâm Tế, Tào Động, nếu giới hạnh tinh nghiêm, thông hiểu giáo lý, tin tưởng Tịnh Độ sâu xa, chí mong lợi người thì đều có thể mời đảm nhiệm [chức Trụ Trì]. Nếu những mặt khác đều xuất sắc, chỉ có với Tịnh Độ chẳng hề chú ý thì quyết chẳng thể thỉnh được! Trụ Trì luận theo tuổi hạ, đức hạnh, chẳng luận trên thế hệ truyền thừa, do [theo lệ] truyền hiền chứ không theo lệ thầy truyền cho trò. Trong Niệm Phật Đường, mỗi ngày vị Trụ Trì hoặc người trưởng ban nói về Tịnh Độ và giới luật, khai thị một lần để các sư phát tâm tăng thượng thù thắng. Có vị tín sĩ nào hâm mộ đạo phong nơi này xin mở Niệm Phật Thất để cầu cho cha mẹ được tăng tuổi thọ, cầu siêu linh hồn của tổ tông, tiêu trừ tội khiên do chính bản thân, hoặc vun đắp nền phước cho con cháu thì vẫn cứ niệm Phật như thường lệ, chỉ thêm vào ba lượt hồi hướng mà thôi! Lễ Diệm Khẩu cũng nhất quyết không thực hiện, nhằm ngăn ngừa hạng Tăng ứng phó thừa cơ ẩn nấp phá hoại đạo tràng<SUP><B>(26)</B></SUP>. Phàm những ai xin mở Phật thất chỉ được đến một hai người để tỏ lòng kính trọng, lễ bái, nhưng phải ra về ngay trong ngày hôm ấy. Nếu tụ họp bạn bè đông đảo và đem theo quyến thuộc nữ giới trẻ tuổi ở lại cho đến khi viên mãn mới về thì quyết chẳng chấp thuận. Đạo tràng này thực hành pháp môn đặc biệt nên chẳng tuân theo thông lệ đã thành lập. Chương trình ấy đã ấn định ổn thỏa ngay trong lúc mua đất, nhưng trong năm Dân Quốc 15 (1926), tại Linh Nham ở Tô Châu, hòa thượng Chân Đạt khi biến ngôi chùa của mình thành đạo tràng thập phương đã thực hiện quy định này trước hết!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hiện thời do khoản quyên góp hữu hạn, lại thêm thời cuộc khó khăn chẳng dễ gì quyên mộ, chỉ có cách tốt nhất là thu nhỏ phạm vi để khỏi bị bó tay. Đại điện dựng năm gian lầu cao, phía trên thờ Đại Tạng Kinh bản đời Tống mới được ấn hành và làm chỗ xem kinh. Phía dưới là đại điện, niệm Phật cũng ở chỗ đó. Hai bên đều dựng mười mấy gian để làm nhà khách, nhà kho, nhà bếp, phòng để bế quan. Cửa Tam Quan chính là điện Di Lặc Vi Đà<SUP><B>(27)</B></SUP>. Phạm vi tuy nhỏ, nhưng nói chung hình thức đầy đủ. Trước đó, đã sắp xếp mười mấy vị tăng thật lòng tu đạo, tích cực tu trì để cầu vận nước tốt đẹp, hưng thịnh, tai họa tiêu diệt, mưa - nắng đúng thời, thiên hạ thái bình. Tất cả việc đả thất hoặc cầu siêu cho vong linh, hoặc cầu thọ, do bài vị được thờ sau khám thờ Phật sẽ được nghe tiếng Phật hiệu suốt năm, giúp ích cho thần thức cũng lớn lắm. Phương danh công đức cho lần xây dựng này được khắc trong một tấm bia khác. Nếu có vị đại công đức chủ [phát tâm hộ trì] thì số người thường trụ nơi đây sẽ được tăng thêm. Kính mong những vị sống trong chùa này đều cùng phát tâm "tự lợi, lợi tha, cùng sanh Tây Phương", ngõ hầu khỏi phụ bạc sự giáo hóa của Phật, chẳng phụ rẫy tánh linh của chính mình, báo trọn bốn ân, giúp khắp ba cõi vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(25) Liên xá: Gian nhà để niệm Phật. Do chỉ là một gian nhà tạm thời để niệm Phật nên không gọi là Niệm Phật Đường.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(26) Do nghi lễ Diệm Khẩu rất phức tạp, bao gồm nhiều lễ nghi, thể loại tán tụng, ấn quyết, cũng như lễ nhạc rất phức tạp, nếu không phải là một vị Tăng được huấn luyện chuyên môn sẽ không thể tham dự vào ban kinh sư để cử hành lễ này được. Chữ "ứng phó" ở đây thường bị đọc trại thành Ứng Phú với ý nghĩa "có khả năng thực hiện các nghi lễ thành thục, thông thạo, đúng cách". Muốn cử hành lễ Diệm Khẩu phải mời những vị Tăng chuyên được đào luyện về khoa Ứng Phú; tuy vậy, trong số những vị tinh thông nghi lễ ấy, không đảm bảo họ sẽ đều là người chú trọng tu trì, giới hạnh tinh chuyên! Nếu thường xuyên cử hành lễ Diệm Khẩu sẽ phải mời những vị ấy đến ở trong chùa. Nếu họ không phải là người chú trọng tu trì, sẽ rất dễ gây xáo trộn trở ngại cho sự thanh tu trong đạo tràng, cũng như khiến cho việc chuyên tu bị xen tạp. Hơn nữa, để cử hành lễ Diệm Khẩu phải tốn nhiều công sức chuẩn bị, rất tốn kém, nếu không mời Tăng bên ngoài thì Tăng chúng bổn tự phải dành nhiều thời gian để tập luyện khoa Ứng Phú cho nhuần nhuyễn nên sẽ xao nhãng việc niệm Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(27) Gọi như vậy vì tầng trên Tam Quan thờ Di Lặc Bồ Tát và đức Hộ Pháp Vi Đà Bồ Tát</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>10. Bi ký ghi công đức xây dựng lầu Tàng Kinh chùa Đại Phật Lăng Vân thuộc huyện Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên</B>
(năm Dân Quốc 24 - 1935)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật - Pháp - Tăng Tam Bảo là đèn đuốc cho đêm dài vô minh, là thuyền bè trong biển khổ sanh tử, không riêng gì người có chí mong đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử phải nên nương tựa, mà ngay cả những ai chuyên tâm nơi "minh đức, thân dân, trị quốc, an bang" cũng phải lấy việc "sáng tỏ diệu lý tâm tánh, nêu rõ sự thực nhân quả" làm một trợ duyên lớn lao cho việc xoay chuyển lòng người, phụ trợ nền bình trị của nước nhà vậy. Vì thế, xưa kia, những bậc lập đại công, dựng đại nghiệp, lòng trung lòa nhật nguyệt, hạo khí lấp trời đất, phần nhiều do học Phật đắc lực mà ra, không ai chẳng dốc sức nơi trang nghiêm tượng Phật, lưu thông kinh Phật, hộ trì Tăng chúng tu hành, mong cho hết thảy nhân dân đều cùng do Trụ Trì Tam Bảo<SUP><B>(28)</B></SUP> mà ngộ nhập Nhất Thể Tam Bảo<SUP><B>(29)</B></SUP>, đích thân chứng được Chân Như Phật Tánh sẵn có nơi tâm này. Ở chùa Lăng Vân xưa kia, thế nước chảy xiết<SUP><B>(30)</B></SUP>, thuyền đi ngang bị đụng vỡ gây hại rất lớn. Đầu đời Đường, thiền sư Hải Thông thấy vậy thương xót, muốn tìm cách cứu vớt, che chở, bèn tạc một bức tượng Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật ngồi trên núi, cao đến ba mươi sáu trượng, [kích thước của] tòa sen Ngài ngồi chẳng tính vào trong [con số ba mươi sáu trượng ấy]. Do nguyện lực của Sư nên cảm được đức Phật rủ lòng Từ gia hộ, nước đổi dòng, chạy sát vào chân núi, nổi lên một bãi cát bồi để người ta có thể sống được [ở đó]. Ý Sư cho rằng ngài Di Lặc là đức Đương Lai Thế Tôn lòng Từ không ai hơn được, tạo bức tượng lớn này chẳng những chỉ muốn cậy vào Phật từ lực để cứu giúp, che chở thuyền bè qua lại mà còn vì mong mỏi sâu xa những kẻ thấy nghe sẽ nạp vào tám thức điền tạo thành một đại nhân duyên hòng trong đời này phát tâm tu trì, vãng sanh Tây Phương, tương lai trở vào Sa Bà phù tá [Di Lặc Phật] trong hội Long Hoa. Sư đến hết đời vẫn chưa hoàn thành được công trình, đến niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường Đức Tông [công trình] mới hoàn thành. Gặp dịp Nam Khang Vương là Vi Cao làm Tiết Độ Sứ<SUP><B>(31)</B></SUP> Tây Xuyên bèn soạn bi ký, có câu: <I>"Thân cao ba trăm sáu mươi thước, đầu to chừng đó thước, mắt rộng hai trượng, những tướng hảo khác mỗi mỗi đều xứng hợp. Đây chính là tượng Phật lớn nhất nước ta. Nhưng Pháp Thân thật sự của Phật trọn khắp pháp giới, còn thân ứng hóa biến hiện thì mênh mông chẳng nhất định"</I>. Năm Dân Quốc thứ 9 (1920), ông Trang Tư Giam ở Thường Châu triều bái Phổ Đà, đem theo ba bức "mễ Phật" (tượng Phật hiện trên hạt gạo) đưa cho xem. Những tượng ấy trang nghiêm vi diệu, cả cõi đời không thể sánh bằng, ấy chính là tượng đứng do thiên nhiên tạo thành, dưới hạt gạo vẫn còn vòng cám. Hễ ai thấy nghe đều cảm kích ân Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đối với những đế lý được nói trong kinh Phật, cố nhiên chẳng dễ gì tỏ rõ, nêu được những điều quan trọng là Luận. Tứ thánh, lục phàm, nhân quả của mười pháp giới vốn trong một tâm. Đối với bản thể của tâm, phàm - thánh chẳng hai, chúng sanh và Phật hệt như một, nơi phàm chẳng giảm, tại thánh không tăng, thường hằng khắp xưa - nay, chẳng đổi dời, chẳng biến chuyển, Thể tuy bất biến, Dụng thường tùy duyên. Thuận theo tịnh duyên, do công đức có sâu hay cạn mà có chứng quả Thanh Văn, chứng quả Duyên Giác, chứng quả Bồ Tát, chứng quả Phật sai khác. Tuy Thanh Văn là nhỏ nhất, nhưng đã đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, thường hưởng pháp lạc, chẳng thọ thân sau nữa. Theo nhiễm duyên, do Hoặc nghiệp nặng hay nhẹ mà có sanh lên đường trời, sanh trong đường người, sanh trong đường A Tu La, sanh trong đường súc sanh, sanh trong đường ngạ quỷ, sanh trong đường địa ngục khác biệt. Dẫu trời - người là cao nhất, vẫn là đầy dẫy Hoặc nghiệp, sanh tử luân hồi, thường ở trong tam giới, lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra. Mười pháp giới ấy do một tâm của chính đương nhân tạo ra, thăng - trầm, khổ - vui khác biệt vời vợi một trời một vực; nhưng thể tánh của cái tâm ấy vẫn thường tự như như, nơi phàm chẳng nhiễm, tại thánh chẳng tịnh. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm nói: <I>"Nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo"</I> (nếu ai muốn hiểu rõ hết thảy Phật ba đời, hãy quán tánh pháp giới, hết thảy chỉ tâm tạo).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do vậy, đức Phật thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật chưa thành, tùy thuận cơ nghi của họ mà trước hết nói Ngũ Giới Thập Thiện thuộc Nhân Thiên Thừa, rồi nói Tứ Đế của Thanh Văn Thừa, rồi nói Thập Nhị Nhân Duyên của Duyên Giác Thừa, rồi nói đến Lục Độ Vạn Hạnh của Bồ Tát Thừa, rồi nói đến phước lẫn huệ cùng trọn vẹn, tịch chiếu cùng dung thông, hết sạch Tam Hoặc, vĩnh viễn mất hai thứ chết, viên mãn Bồ Đề, trở về chỗ "không có gì để đạt được" của Phật Thừa. Lại nghĩ chúng sanh kém hèn, không cậy vào sức thệ nguyện rộng sâu của Phật Di Đà chắc chắn khó lòng liễu sanh thoát tử ngay trong đời này được, nên đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, ngõ hầu bọn phàm phu đầy dẫy Hoặc nghiệp nương vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Đã được vãng sanh thì Hoặc nghiệp đã hết, đã chứng địa vị thánh, so với những kẻ chỉ cậy vào tự lực thì sự khó - dễ dù hết cả năm cũng chẳng thể nói trọn!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng pháp môn này chính là nhằm tiếp độ thượng căn, tiếp độ kèm thêm hàng trung - hạ; vì thế, Thiện Tài đã chứng Đẳng Giác, Phổ Hiền Bồ Tát bèn dạy dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong viên mãn Phật quả, cũng như khuyên khắp các vị Bồ Tát thuộc Hoa Tạng hải chúng nhất trí tiến hành, bởi đây là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Đời có những kẻ bẩm tánh thông minh đôi chút thường coi rẻ pháp môn Tịnh Độ, chẳng chịu tu trì, chẳng những tự lầm, lầm người, mà đúng là còn hủy báng Phật pháp nữa! Như Hoa Tạng hải chúng là các vị Đại Sĩ đã chứng Pháp Thân thuộc bốn mươi mốt địa vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, dùng công đức của mười đại nguyện vương để hồi hướng vãng sanh Tây Phương hầu mong mau chứng viên mãn Bồ Đề, trở về Phật quả "không có gì để đạt được". Những vị ấy là hạng người như thế nào, chuyện ấy là chuyện như thế nào, ta là hạng người nào mà dám chống đối các vị ấy?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn như kinh văn trong giáo pháp của cả Đại Tạng được chia thành ba phần là Kinh, Luật, Luận, nên có tên là Tam Tạng. Tạng có nghĩa là "sâu chắc, u viễn, lấy để sử dụng chẳng bị cạn kiệt!" Nếu đối với mỗi một chữ, một câu mà có thể thâm nhập thì sẽ thông suốt hết thảy pháp, hiểu hết thảy nghĩa. Vì thế, Lục Tổ của Thiền Tông nghe một câu <I>"ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm"</I> (hãy không trụ vào đâu để sanh tâm) bèn nối tiếp ngôi vị Tổ; hành nhân Liên Tông thường trì sáu chữ "Nam-mô A Di Đà Phật" liền có thể ngay trong đời này sanh về nước Cực Lạc, dự vào hội Liên Trì.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ba tạng Kinh, Luật, Luận ấy từ Thiên Trúc truyền sang, trong bộ Khai Nguyên Thích Giáo Lục<SUP><B>(32)</B></SUP> đời Đường đã chép [kinh điển nhà Phật] có đến năm ngàn bốn mươi tám (5.048) quyển. Từ đấy, liên tục dịch thêm cũng chẳng ít, nhưng cũng có những quyển bị thất lạc! Hiện thời, Đại Tạng Kinh đời Thanh (Càn Long Đại Tạng Kinh) từ chữ <I>"Thiên, Địa, Huyền, Hoàng"</I><SUP><B>(33)</B></SUP> đến chữ <I>Tất</I> trong câu <I>"Tất Thư Bích Kinh"</I> gồm có bốn trăm tám mươi lăm (485) hòm<SUP><B>(34)</B></SUP>, tức bốn ngàn tám trăm năm mươi quyển. Trước thuật thuộc phương này (Trung Hoa) gồm thích kinh, tông kinh, các sớ luận và truyện ký, ngữ lục v.v... từ chữ "Thư, Bích, Kinh" đến câu <I>"Lưỡng Sớ Kiến Cơ"</I> mới hết, gồm hai trăm ba mươi chín (239) hòm, tức hai ngàn ba trăm chín mươi quyển, tổng cộng là bảy ngàn hai trăm bốn mươi quyển. Bộ này được khởi công khắc từ tháng Hai năm Ung Chánh mười ba (1735) đến ngày Rằm tháng Chạp năm Càn Long thứ ba (1738) mới hoàn thành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bậc thượng căn lợi trí đối với mỗi chữ một câu trong những kinh này, nếu tâm hồn thông hiểu liền có thể tự lợi, lợi tha, tự lập, lập người. Tiếp đó lại chí thành, khẩn thiết thọ trì, đọc tụng, y giáo phụng hành, hiểu nhân quả, rõ tội phước, dùng thân xướng suất người khác, ngõ hầu hết thảy mọi người nhìn vào bắt chước làm lành thì đối với pháp môn, đối với xã hội đều có lợi ích. Nếu hoàn toàn chẳng có ý niệm cung kính, chỉ cầu đa văn, hoặc lầm lạc dùng ý kiến ức đoán để luận định nghĩa lý sâu xa trong kinh thì tuy là nhân lành lại chắc chắn chuốc lấy quả ác! Nguyện những người đọc ai nấy hãy gắng công!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trụ Trì chùa Lăng Vân là hòa thượng Quả Tĩnh đã muốn cung thỉnh Đại Tạng từ lâu, để những người có đại chí trong hàng Tăng - tục đều được nghiên cứu, xem đọc, nhưng lầu chứa kinh chưa xây, thỉnh về sẽ không có chỗ để. May sao năm Dân Quốc 18 (1929), pháp sư Vinh Nham cùng cư sĩ Vương Húc Đông đến chùa vãn cảnh, nhân đó nói chuyện thỉnh kinh cần phải dựng lầu, hai vị liền khẳng khái mỗi người giúp năm trăm đồng. Do vậy, bèn dốc hết sức lo toan, nung ngói, mua gỗ, khởi công từ tháng Giêng năm Dân Quốc 23 (1934) đến tháng Tư năm nay mới hoàn thành. Lầu ấy gồm bảy gian, cao năm trượng sáu thước, hai bên lầu dựng năm gian nhà mỗi bên để làm chỗ nghỉ ngơi cho người đọc kinh. Đã lên Bắc Bình<SUP><B>(35)</B></SUP> thỉnh kinh, trước khi kinh về tới, đã sai Quang soạn bi ký về việc xây dựng lầu tàng kinh; do vậy bèn viết đại lược về nguyên do lập chùa và những nghĩa trọng yếu của Đại Tạng cùng số hòm, số quyển để những bậc thông sáng đời mai sau đều thấu hiểu cặn kẽ. Kính mong nền tảng đất nước vững bền, đạo bình trị hưng thịnh, Phật nhật thêm sáng, pháp luân thường chuyển, đàn việt tín chủ hưởng phước, tăng chúng an hòa, binh đao vĩnh viễn chấm dứt, mưa gió thuận thời!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(28) Trụ Trì Tam Bảo là một trong ba loại Tam Bảo, có tác dụng hiện diện trong cõi thế gian để duy trì Phật pháp, gồm tượng Phật, hình Phật là Phật Bảo, kinh sách là Pháp Bảo, Tăng chúng xuất gia là Tăng Bảo.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(29) Nhất Thể Tam Bảo, còn gọi là Đồng Thể Tam Bảo, Đồng Tướng Tam Bảo. Tuy phân thành ba ngôi, nhưng vốn cùng một thể nên gọi là Nhất Thể. Nếu giải thích chi tiết hơn thì:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. Luận trên mặt Sự, Phật thể mang ý nghĩa giác chiếu là Phật Bảo. Phật đức mang tác dụng làm khuôn mẫu (quỹ pháp) nên là Pháp Bảo, đã dứt hết những sự tranh cãi, trái nghịch nên là Tăng Bảo. Ba nghĩa này tuy khác, nhưng xét về mặt bản thể của mỗi đức lại chẳng khác nên gọi là Nhất Thể. Đây là giáo nghĩa được tuyên dương bởi các bộ luận Thành Thật, A Tỳ Đàm cũng như các kinh luận Đại Thừa.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. Luận trên phương diện phá tướng và "bản thể vốn là không" thì Sự tuy có sai khác, nhưng Thể đều không, nên gọi là Nhất Thể. Giáo nghĩa này chỉ hạn cuộc trong giáo pháp Đại Thừa.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. Luận trên thực tế, tuy Tam Bảo khác biệt nhưng đều lấy thực tánh làm Thể nên gọi là Nhất Thể. Đây cũng là một giáo nghĩa chuyên biệt của Đại Thừa. Hoa Nghiêm Kinh Khổng Mục Chương, quyển hai, giảng: <I>"Đồng Tướng Tam Bảo nghĩa là đồng một pháp tánh Chân Như, có ba nghĩa khác biệt là giác nghĩa, quỹ pháp nghĩa (khuôn phép), hòa hợp nghĩa, nên gọi là Tam Bảo"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(30) Chùa Lăng Vân nằm ngay bờ Đông chỗ hai dòng Đại Độ và Mân Giang giao nhau. Núi Lăng Vân có chín ngọn nên còn gọi là Cửu Đảnh Sơn. Từ chùa nhìn sang bên kia sông là thành Lạc Sơn. Vào thời Đường, nơi mỗi ngọn núi đều có chùa, hiện giờ chỉ còn mỗi chùa Lăng Vân. Tượng Phật Di Lặc được đục thẳng vào vách núi trong tư thế ngồi, cao đến 71 mét, vai tượng rộng đến 28 mét. Tượng được tạc từ Khai Nguyên nguyên niên (713) đời Đường Huyền Tông đến năm Trinh Nguyên 19 (803) đời Đường Đức Tông mới hoàn thành, tức là tượng được tạc ròng rã trong chín mươi năm! Tượng này thường được gọi là Lạc Sơn Đại Phật hay Lăng Vân Đại Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(31) Tiết Độ Sứ là một chức quan được đặt ra vào đời Đường. Thoạt đầu, những vị võ tướng nắm giữ binh quyền ở một Đạo (tương đương với tỉnh bây giờ) được gọi là Đô Đốc, chỉ những vị Đô Đốc được vua ban cờ Tiết (một loại cờ hiệu tượng trưng cho uy quyền) mới được gọi là Tiết Độ Sứ. Đến đời Đường Duệ Tông, chức vụ này mới được chính thức thiết lập và phạm vi cai quản của Tiết Độ Sứ được mở rộng, trông coi cả về nội chính lẫn binh quyền trong một Đạo. Các Tiết Độ Sứ cũng thường được phong tước Quận Vương, quyền uy rất lớn, khi chính quyền trung ương suy yếu, các Tiết Độ Sứ thường thừa cơ chiếm đất làm vua một cõi. Do vậy, đến đời Tống, triều đình quy định Tiết Độ Sứ chỉ trông coi về nội chính, không được giữ binh quyền nữa.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(32) Khai Nguyên Thích Giáo Lục còn được gọi là Khai Nguyên Mục Lục hay Trí Thăng Lục do ngài Trí Thăng biên soạn vào năm Khai Nguyên 18 (730) đời Đường, gồm 20 quyển, nội dung ghi nhận danh mục kinh nhà Phật được phiên dịch sách và những bản chú sớ, ngữ lục được trước tác từ năm Vĩnh Bình thứ 10 (67) đời Hán Minh Đế cho đến năm Khai Nguyên 18 nhà Đường. Đến năm Trinh Nguyên thứ 10 (794) đời Đường, ngài Viên Chiếu lại soạn thêm bộ Tục Biên (thường được gọi là Đại Đường Trinh Nguyên Tục Khai Nguyên Thích Giáo Lục) gồm ba quyển để bổ sung danh mục những kinh điển đã được dịch thêm hay chưa được nhắc đến trong bộ Khai Nguyên Thích Giáo Lục.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(33) Đây là cách đánh số thứ tự các hòm (tức rương hay tráp đựng kinh) trong Càn Long Đại Tạng Kinh dựa theo mỗi một chữ trong Thiên Tự Văn, vốn là một bài văn vần dùng để dạy trẻ học vỡ lòng chữ Hán. Gọi là Thiên Tự Văn vì bài này gồm một ngàn chữ Hán khác nhau. Theo truyền thuyết, để luyện tập thư pháp cho công chúa, Lương Vũ Đế sai Châu Hưng Tự (407-521) soạn ra bài văn này với tên gọi đầy đủ là Thứ Vận Vương Hy Chi Thiên Tự Văn. Thiên Tự Văn bắt đầu bằng câu <I>"Thiên địa huyền hoàng, vũ trụ hồng hoang, nhật nguyệt doanh trắc, thần tú liệt trương, hàn lai thử vãng"</I> (trời thẳm sắc đen, mặt đất sắc vàng, vũ trụ rộng lớn vô biên, mặt trời mặt trăng hết vơi lại đầy, tinh tú chi chít trong không trung, lạnh qua nóng đến) rồi kết thúc bằng câu <I>"Vị ngữ trợ giả, yên tai hồ dã"</I> (Những trợ ngữ dùng trong câu nói là "yên, tai, hồ, dã"). Từ chữ Thiên trong câu <I>"Thiên Địa Huyền Hoàng</I> đến chữ Tất trong <I>"Tất Thư Bích Kinh"</I> (Tất Thư là sách viết theo lối cổ chép bằng sơn trên các mảnh trúc (vì thuở đó chưa có giấy), Bích Kinh là những kinh điển của Khổng Tử được chôn giấu trong tường khi Tần Thủy Hoàng hạ lệnh đốt sách, chôn học trò) là 485 chữ. Từ chữ Thư trong câu <I>"Tất Thư Bích Kinh"</I> đến <I>"Lưỡng Sớ Kiến Cơ"</I> (hai ông Sớ Quảng và Sớ Thọ thấy trước nguy cơ bèn cáo lão hoàn hương) là 239 chữ nữa. Chúng tôi dịch những câu này theo cách giải thích của Wikipedia.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(34) Nguyên văn là "hàm", tức gọi tắt của chữ "hàm quỹ", một loại rương nhỏ để tăng chúng cất giữ pháp phục, những vật dụng tùy thân nhỏ nhặt, thường để dưới gầm giường. Do đó, tráp đựng sách cũng theo thói quen được gọi là "hàm", ta thường dịch là "hòm". Để tiện phân loại, đánh số, lưu trữ, tìm kiếm, Đại Tạng Kinh được chia thành nhiều hòm (mỗi một hòm như vậy là mười quyển, giống như hình thức chia thành từng tập (volume) hiện thời). Do khổ giấy khi xưa khá hẹp, mỗi quyển như vậy thường có từ 30 đến 40 trang, in cả hai mặt giấy, mỗi mặt thường từ 10 đến 20 dòng, mỗi dòng từ 10 đến 12 chữ (tùy theo khổ chữ).
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(35) Bắc Bình là tên gọi của Bắc Kinh trong khoảng thời gian từ 1928 đến 1949.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>11. Bài ký về việc trùng tu tháp viện của Đại Từ Lão Nhân</B>
(năm Dân Quốc 19 - 1930)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xem rộng khắp những bậc anh hiền lỗi lạc xưa nay, tài năng tót vời, tại gia thì lập đại công, dựng đại nghiệp, thờ vua giúp dân, nêu gương cho hậu thế, xuất gia thì triệt ngộ tự tâm, thâm nhập kinh tạng, dạy dỗ lợi lạc trời - người, nối tiếp huệ mạng của Phật thì đều là do đức hạnh cao đẹp của ông bà cha mẹ cảm thành. Nếu không, làm sao sanh được con cháu hiền tài siêu quần bạt tụy, giúp đỡ hết thảy như vậy được ư? Người ta chỉ thấy quốc sư Ngọc Lâm đạo đức cao vời, ngộ chứng sâu thẳm, trên cảm động cửu trùng<SUP><B>(36)</B></SUP>, dưới hóa độ tứ chúng, Phật tổ, tâm ấn, đại pháp chiếu khắp nhân quần, sống tươi chết héo<SUP><B>(37)</B></SUP>, khuôn mẫu tốt đẹp lưu lại đời sau, chẳng biết đấy đều là do ông nội và cha mẹ Ngài đã giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, lợi người giúp vật, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, tự hành, dạy người mà ra!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xét ra, Sư có họ ngoài đời là Dương, thuộc dòng vọng tộc ở Diên Lăng (thuộc tỉnh Thiểm Tây), đời nào cũng có người hiển đạt, cha húy là Phương, tuổi ngoài ba mươi vẫn chưa có con. Người trong họ là Dương Hưng bị thổ hào<SUP><B>(38)</B></SUP> vu hãm, sắp đến nỗi phải chết. Ông nội Ngài bảo cha Ngài vào triều kêu oan, quan liền thả Dương Hưng, đánh đòn thổ hào. Thổ hào ôm hận, không lâu sau, trong ấp bắt được kẻ gian, giải lên quan xét án. Gã thổ hào thừa dịp ghi tên ông nội Ngài vào sổ, quan xét án rất nghiêm khắc, tàn khốc, truyền bắt giữ khẩn cấp. Chú Ngài và cha Ngài tranh nhau chịu tội thay, cha Ngài không chịu liền tự đi. Quan xét án rất ghét kẻ chịu tội thay, dùng hình phạt quá đáng để giết chết. Ngày hôm ấy đã giết chết liên tiếp mấy người rồi. Đến phiên cha Ngài liền gào to: "Tôi chịu đòn thay cho cha tôi", quan xét án nghe tiếng cảm động vô cùng, xét hỏi cặn kẽ, biết là bị vu cáo bèn thả ra.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tháng Tư năm ấy, tức năm Giáp Dần thuộc niên hiệu Vạn Lịch 42 (1614) đời Minh, liền sanh ra Sư. Lúc sanh, bà mẹ là Mậu Thị mộng thấy Quán Âm ẵm một đứa bé trao cho, liền sanh ra Sư. Thêm nữa, cha mẹ Sư thường giảm bớt sự chi tiêu của chính mình để mua những con vật đem phóng sanh. Cha mẹ Sư hiếu hữu nhân từ như vậy đó! Năm sau, cha Sư quy y với đại sư Liên Trì, có pháp danh là Quảng Phức, cũng xin quy y cho Sư, được pháp danh là Đại Tiềm. Đến năm mười hai tuổi, lúc cha Sư sắp mất, bèn đối trước tượng ngài Liên Trì, cầu cao tăng thay mặt [cho đại sư Liên Trì] xuống tóc, thuyết giới [cho cụ]; nửa tháng sau cụ mất. Năm mười chín tuổi, Sư lễ ngài Khánh Sơn xin xuất gia. Chưa đầy hai năm đã đại triệt, ngài Khánh Sơn rất coi trọng, dặn dò Sư hãy xuống tóc, thuyết giới cho mẹ, đặt pháp danh là Thông Quang. Năm Sư hai mươi hai tuổi, ngài Khánh Sơn thị tịch tại chùa Báo Ân, Sư giữ tâm tang hầu hạ bên khám thờ đồng thời lo liệu việc trong chùa. Năm sau, Tăng - tục thỉnh Sư kế nhiệm, trăm điều đã bỏ phế đều được tiến hành, tông phong chấn hưng lớn lao.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm hai mươi chín tuổi, tuân theo di mạng của ngài Khánh Sơn, Sư thay ngài Khánh Sơn xuống tóc, thuyết giới cho mẹ, lại đón về chùa Báo Ân, dựng nhà tranh để phụng dưỡng suốt đời, gọi là Đại Từ Lão Nhân. Bà cụ chuyên tu Tịnh nghiệp, kiêm tu tham cứu, liền được đại ngộ. Mười một năm sau, tức năm Sư bốn mươi tuổi, nhằm năm Thuận Trị thứ mười (1653) đời Thanh, Đại Từ Lão Nhân thị tịch, thọ bảy mươi mốt tuổi. Sư ở trước khám thờ ngồi xếp bằng trên mặt đất suốt bảy ngày đêm, chẳng đụng đến một hạt gạo! Một thị giả đứng cạnh Sư suốt bảy ngày đêm đến nỗi chân và đầu gối nước vàng chảy ròng ròng, vẫn chẳng tạm rời đi. Đại chúng chùa Báo Ân thấy Sư đau buồn quá mức, muốn khích cho Sư ăn uống liền niêm phong nồi, đóng chặt bếp. Sư nghe [nói như vậy] liền húp cháo, bảo mở nồi ra. Sư đã xuất gia còn đau buồn như thế, hiếu tử trong thế gian cũng chẳng hơn được! Nhưng Sư làm cho mẹ ngộ đạo thì hiếu tử trong cõi đời có ai làm được như vậy đâu? Sư nghĩ đến ân của phụ sư, mẫu sư<SUP><B>(39)</B></SUP> tính tìm một cuộc đất thích hợp để an táng hòng báo ân sâu dưỡng dục, dạy dỗ. Tìm được một cuộc đất ở Ngữ Sơn bèn dời quan tài cha về chôn tại đó.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đến năm Thuận Trị 15 (1658), đạo phong thấu đến bề trên, tháng Chạp sứ giả cầm chiếu đến triệu Sư về kinh lập tức. Sư lấy cớ sắp dựng tháp chôn mẹ để từ tạ, [vua xuống] chiếu rằng: "Đợi khi gặp Sư hỏi đạo xong liền đưa Sư về núi chôn mẹ, quyết chẳng giữ lâu". Tháng Ba năm sau, Sư lên kinh đô chầu vua, vua dùng lễ đãi Sư như thầy, phong hiệu là Đại Giác Phổ Tế Năng Nhân Quốc Sư. Đến tháng Tư, Sư từ tạ chốn cung khuyết trở về Nam, tìm được miếng đất phía sau chùa Tạng Hải ở Ngu Sơn bèn dựng tháp cho Đại Từ Lão Nhân, nhân đó lập ra chùa Tạng Hải, sai đệ tử là Đức Nham Thiệu làm Trụ Trì. Như vậy, nguồn pháp Tạng Hải do Đại Từ Lão Nhân khởi đầu; kẻ làm pháp tự<SUP><B>(40)</B></SUP> phải quan tâm. Đương thời, xây dựng phức tạp hay giản dị đều thích nghi. Năm tháng lâu sau, lại thêm chiến tranh, nên bị tan nát, còn sót lại một cái tháp, [chứ những thứ khác] đều thành gò hoang hết.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay vị Trụ Trì đã về hưu là Giới Công, thấu hiểu sâu xa tấm lòng hiếu thảo của Quốc Sư, đặc biệt trùng tu, dựng lại đình, bia, xây tường vây quanh, cũng dựng lại bia mộ mới, lát con đường đá hơn mười trượng, vun trồng cây cối để lấy bóng mát ngõ hầu những ai sau này đến đây đều biết tới tháp viện của bậc cao ni đắc đạo là Đại Từ Lão Nhân mẹ của quốc sư Ngọc Lâm, do đó sẽ khởi lòng kính ngưỡng, ai nấy giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, lợi lạc cứu giúp người lẫn vật, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, tự hành, dạy người, để mong sanh được đứa con phước đức trí huệ, hễ nghèo túng thì riêng bản thân kẻ ấy tốt lành, làm gương cho cả một làng, một ấp, hễ hiển đạt thì sẽ làm cho người khác cùng thiện, để lợi lạc, cứu giúp khắp bốn biển chín châu! Do vậy, soạn bài ký.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hơn nữa, khi Quang mới xuất gia, thấy các vị thiền tăng khắp Nam Bắc lên núi triều bái, tụ tập bàn đến chuyện Ngọc Lâm Quốc Sư tâm liền khinh thường họ, cho là những hạng tăng nhân này không những chẳng biết tâm tướng của Phật, Bồ Tát mà cũng chẳng biết tâm tướng của thánh hiền thế gian, chỉ dùng tri kiến của bọn vô lại đầu đường xó chợ bịa đặt đồn đãi để vu báng, miệt thị cổ đức, tội cùng cực đến đâu! Về sau, đọc Niên Phổ của Quốc Sư thì những gì bọn họ đã nói ngay cả một câu cũng không có, mà những điều chép trong Niên Phổ bọn họ cũng chưa hề nghe thấy một câu nào! Do vậy, biết những lời nói lưu truyền trong cõi tục chẳng đáng tin tưởng! Kính mong bậc quân tử hiểu lý đừng coi những lời lẽ đó là chuyện thật, rồi vì đó mà coi thường cổ đức, khinh miệt Phật pháp thì sẽ tự gieo được thiện căn sâu dầy, được gội pháp trạch lớn lao vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(36) Cửu trùng (chín tầng, chín bệ) chỉ hoàng đế. Theo Dịch học, từ Hà Đồ và Lạc Thư, những con số thuộc về Trời là 1, 3, 5, 7, 9. Như vậy 9 là con số Dương lớn nhất. Vì thế, con số 9 được dùng để tượng trưng cho ngôi vị cao cả nhất, sáng đẹp nhất. Do vậy, nhà vua được gọi là Cửu Trùng (chín bậc). Từ ý nghĩa này, những hào dương trong quẻ Dịch cũng được gọi là Cửu.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(37) Đây là một cách nói thông dụng trong Phật môn Trung Hoa ngụ ý sống chết thuận theo lẽ tự nhiên, thung dung tự tại, như cây cỏ đã chết thì phải khô héo, hễ còn sống thì tươi tốt.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(38) Thổ hào: Kẻ có thế lực tại một địa phương.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(39) Do cha mẹ ngài Ngọc Lâm đức hạnh, nhân từ; nhân cách cao đẹp của ngài Ngọc Lâm do cha mẹ uốn nắn hình thành nên họ vừa là cha mẹ vừa là thầy của ngài Ngọc Lâm. Vì thế, tổ Ấn Quang mới dùng chữ "phụ sư, mẫu sư".</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>12. Bi ký về việc chùa Bích Sơn núi Ngũ Đài được thảo am Quảng Tế tiếp pháp thành tựu<SUP>(41)</SUP>, vĩnh viễn trở thành thập phương thường trụ</B>
(năm Dân Quốc 18 - 1929)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trộm nghĩ phàm phu đầy dẫy triền phược lấy mê nhiễm làm căn bản để thọ sanh, bậc Pháp Thân đại sĩ dùng bi trí làm nguồn ứng hóa. Vì thế, đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ta đạo chứng Lưỡng Túc<SUP><B>(42)</B></SUP>, đức trỗi Thập Địa, thành Chánh Giác đã lâu, an trụ Tịch Quang, do Bi nguyện rộng sâu nên chẳng động Chân Tế mà hiện thân trong các cõi nhiều như vi trần. Trong thế giới này, ngài thị hiện làm Bồ Tát, dùng sức đại trí phù tá Thích Ca, thị hiện ứng hóa tại núi Thanh Lương như trong kinh Hoa Nghiêm đã báo trước. Vì thế, khi đại pháp được truyền sang phương Đông, [Ngũ Đài] liền được khai sơn, từ đấy trở đi, đời nào cũng có cao nhân hoằng dương pháp hóa, lợi ích quần manh. Từ đời Hán đến nay, tiếp nối chẳng dứt. Đến khoảng niên hiệu Thành Hóa<SUP><B>(43)</B></SUP> đời Minh, có thiền sư Cô Nguyệt Tịnh Trừng<SUP><B>(44)</B></SUP> Thiền lẫn Tịnh đều đạt đến tột bậc, tiếng tăm đạo hạnh nhân đấy vang dội. Vua đất Đại<SUP><B>(45)</B></SUP> là Thành Luyện thờ Sư làm thầy, dựng chùa ở Hoa Nghiêm Cốc để cung phụng, xin được vua xuống chiếu ban biển tên Bích Sơn Phổ Tế Thiền Tự, pháp đạo hưng thịnh lớn lao, tông phong rạng rỡ. Đầu đời Thanh, thiền sư Uẩn Chứng Như Bích trụ trì chùa này, lâu dần được vua quan tôn kính. Đầu thời Khang Hy, đổi tên chùa thành Hộ Quốc. Đến cuối đời Thanh, bậc triết nhân đã khuất, chùa khá điêu linh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm Quang Tự 32 (1906), hai Sư Thừa Tham, Hằng Tu đến núi triều bái các Đài<SUP><B>(46)</B></SUP>, thấy trên đảnh các Đài chỉ có nhà đá, trọn chẳng có Tăng ở. Phàm những người triều bái các Đài khát không có nước uống, đói không có gì để ăn, mệt không có chỗ nghỉ, liền phát đại tâm, dựng một am tranh nơi đảnh Bắc Đài, đặt tên là Quảng Tế, chuyên làm chỗ nghỉ ngơi, ăn uống cho người triều bái các Đài, tùy sức kết duyên hòng lợi lạc hết thảy Tăng - tục trong ngoài nước. Dân Quốc thành lập, Tăng chúng chùa Bích Sơn không thể duy trì được, ruộng đất đã cầm cố gần như hết sạch. Thừa Tham, Hằng Tu, Quả Định nhập tịch chùa Bích Sơn, xưng danh [thảo am Quảng Tế] là Đông Phòng. Thừa Tham đổi tên là Xương Thừa, Hằng Tu đổi tên là Xương Hằng, Quả Định đổi tên là Long Quả, đó gọi là "tiếp pháp thành tựu". Do vậy, tận lực quyên mộ duy trì đạo tràng, kiến thiết thảo am hòng tiếp đãi thập phương Tăng chúng, dốc hết sức cúng dường. Từ đấy trở đi, mùa Xuân mở niệm Phật thất, mùa Hè giảng kinh, Thu - Đông thì mở thất tọa hương đả tịnh<SUP><B>(47)</B></SUP>] để trọn hết bổn phận của chính mình cầu chúc quốc dân. Xây cất thêm thiền đường, liêu xá<SUP><B>(48)</B></SUP>, tính khôi phục lại quy mô cũ, tiếp nối vĩnh viễn Tổ đăng. Năm Dân Quốc thứ bảy (1918), quyên tiền chuộc lại nhà đất thuộc hai viện Đông, Tây. Năm Dân Quốc thứ chín (1920), chuộc lại ruộng lúa mạch ở thôn chùa Quang Minh thu tô được bốn mươi thạch<SUP><B>(49)</B></SUP> để làm cái ăn cho Tăng chúng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong hai năm Dân Quốc thứ chín và thứ mười, hai vị Thừa Tham, Hằng Tu nối nhau viên tịch. Môn nhân nối pháp là Quả Định tuân theo di mạng, gắng sức duy trì, được các vị đại hộ pháp, chư sơn trưởng lão ra sức nâng đỡ, xây dựng thêm nhà cửa hơn ba mươi gian nữa, in thêm tạng kinh, trồng trọt cây cối, sửa chữa ngòi nước từ thôn chùa Quang Minh chạy thẳng đến bên trong chùa Bích Sơn, lại tu bổ đập đá bên sông để ngừa nước ngập làm hại hoa màu. Các chùa Nam - Bắc, các vị đại cư sĩ do thấy chùa Bích Sơn đã là thập phương thường trụ, mọi người đều tán thành là hợp lý, trình công văn lên chánh phủ, ra cáo thị, lập hồ sơ ngõ hầu vĩnh viễn không bị suy sụp, mọi người cử Mã Ký Bình, Uông Đại Tiếp làm đại biểu, pháp sư Đế Nhàn và các vị thuộc hội Duy Trì Phật Giáo tại Thượng Hải như ông Trình Tuyết Lâu v.v... gởi thư xin Diêm Đốc Biện<SUP><B>(50)</B></SUP> tỉnh Sơn Tây ủng hộ. Do vậy, Tổng Tham Nghị Trưởng<SUP><B>(51)</B></SUP> là Triệu Tải Văn ủy cho hội trưởng pháp giới tỉnh Sơn Tây là hòa thượng Lực Hoằng cùng các hội viên lên núi vào tháng Năm năm Dân Quốc 16 (1927), mời chánh phó hội trưởng của Tăng chúng trong núi này, khu trưởng, hội trưởng thương hội, những người có danh vọng trong giới Tăng - tục thuộc mười ngôi chùa lớn, cùng bàn định: Chùa Bích Sơn mắc nợ quá lớn, không có người gánh vác, sẽ do Đông Phòng là Thảo Am Quảng Tế đứng ra trả thay món nợ hơn một vạn bảy ngàn bảy trăm đồng. Tất cả điện, phòng, ruộng đất của Bích Sơn vĩnh viễn trở thành thập phương thường trụ, không chấp thuận cho thâu nhận đồ đệ để khỏi bị cái họa chôn vùi Tổ đức, làm nhục Phật môn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vào ngày 29 tháng Bảy năm Dân Quốc 17 (1928), cùng với đại chúng trả món nợ do sư Long Phước đời Thanh đã thiếu bên ngoài gồm hơn một vạn bảy ngàn bảy trăm đồng. Những bằng khoán ruộng đất nhà cửa do Long Phước đã đem cầm cố trước kia đều thâu hồi để giữ vĩnh viễn. Hội Phật Giáo tỉnh Sơn Tây đại diện trình lên chánh quyền tỉnh và huyện để lập hồ sơ, ra thông cáo, ngõ hầu mọi người đều biết chùa Bích Sơn vĩnh viễn trở thành thập phương thường trụ, chỉ chuyên tâm tu hành, tu trì Tịnh nghiệp, sẽ thấy trong hang Sư Tử trọn chẳng còn có loài thú khác, trong rừng Chiên Đàn, vĩnh viễn mất giống Y Lan<SUP><B>(52)</B></SUP>, gắng sức kế tục đạo của Cô Nguyệt thiền sư, hòng an ủi tấm lòng của Văn Thù đại sĩ thì một phen khổ tâm nâng đỡ, thành toàn của hết thảy Tăng - tục mới chẳng trở thành luống uổng! Phàm những ai sống tại đây ai nấy đều nên gắng sức lên!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(40) Người nối dòng pháp, tức môn nhân đệ tử.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(41) Chùa Bích Sơn suy vi sắp vỡ nợ, các vị Hằng Tu, Thừa Tham, Quả Định thương xót, sát nhập chùa Quảng Tế vào Bích Sơn để đứng ra chấn hưng, trang trải nợ nần. Do các vị này không thuộc sơn môn chùa Bích Sơn mà lại đứng ra tiếp nhận nhằm chấn hưng chùa Bích Sơn ngõ hầu môn hộ Bích Sơn được tiếp tục tồn tại nên gọi là "tiếp pháp thành tựu".
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(42) Lưỡng Túc: Trí huệ và phước đức đều trọn đủ, tức đã thành quả vị Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(43) Thành Hóa là niên hiệu của Minh Hiến Tông, thời gian kéo dài từ 1465 đến 1487.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(44) Cô Nguyệt Thiền Sư: Hành trạng của vị này không được biết đến nhiều, theo Thích Giám Kê Cổ Lược Tục Tập quyển 3 và Ngũ Đài Sơn Danh Tăng quyển 5 thì Cô Nguyệt thiền sư húy Tịnh Trừng, người Yên Đô, họ Trương, cha mẹ mất sớm, tham học với Nguyệt Khê lão nhân, đắc ngộ, nghe tiếng pháo trúc hốt nhiên tâm rỗng không. Thoạt đầu Sư học kinh giáo, kiêm chuyên tu Niệm Phật tam-muội. Lại đến tham học với ngài Vân Cốc, được giao phó y bát. Khi thầy mất, Sư gặp được ngài Thanh Thiện chùa Thọ Ninh ở Ngũ Đài bèn theo đến Ngũ Đài nhập chúng, đổi tên là Tịnh Trừng. Tại Ngũ Đài sau khi đắc ngộ do tu tập Thiền Quán, Sư vào Tuyết Sơn tại Tứ Xuyên khổ công tu Thiền, đến năm Thành Hóa nguyên niên (1465) mới trở về Ngũ Đài và dựng chùa Bích Sơn. Trước tác có bộ Thanh Lương Ngữ Lục được lưu truyền trong cõi đời.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(45) Đất Đại chính là Đại Quận, thuộc lãnh thổ nước Đại thời Chiến Quốc, nay thuộc huyện Cao Dương tỉnh Sơn Tây. Châu Thành Luyện được phong tước vương và được ban thái ấp ở đất Đại nên gọi là Đại Vương, vương hiệu đầy đủ của Thành Luyện là Đại Huệ Vương.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(46) Ngũ Đài gồm có năm ngọn, danh xưng mỗi ngọn đều có chữ Đài vì đảnh núi bằng phẳng, rộng rãi như một cái đài. Do đó, người lên tận các ngọn để lễ bái gọi là "triều đài".
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(47) Tức thiền thất, do trong các tùng lâm xưa, mỗi khóa ngồi thiền sẽ chừng khoảng thời gian cháy hết một cây hương lớn (từ 45 phút đến một tiếng đồng hồ) nên gọi là "tọa hương đả tịnh".
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(48) Phòng ở của Tăng gọi là liêu. Liêu xá là tên gọi khác của Tăng đường.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(49) Thạch là đơn vị đo lường thời cổ, có hai đơn vị:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. Nếu là đơn vị đo dung lượng, một Thạch là 100 lít.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. Nếu là đơn vị đo trọng lượng thì một Thạch là 71 kg.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Không rõ ở đây dùng Thạch theo nghĩa nào. Nếu theo như kiểu người Việt thường đong lúa bằng giạ thì Thạch sẽ được hiểu theo nghĩa thứ nhất.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(50) Đốc Biện là một chức quan đã có từ thời nhà Thanh. Khi Khang Hy dẹp yên được Thiên Địa Hội, thâu phục Đài Loan đã đặt ra chức Đài Loan Phủ Đốc Biện Khẩn Đại Thần với nhiệm vụ cai quản dân chúng Đài Loan và trông nom việc khẩn hoang nhằm phát triển Đài Loan. Đến năm 1895, khi nhà Thanh suy yếu, để mất Đài Loan vào tay Nhật Bản, chức quan này bị bãi bỏ. Đến thời Dân Quốc, tướng lãnh quân phiệt họ Diêm chiếm cứ Sơn Tây, tự xưng là Đốc Biện. Các tướng quân phiệt khác cũng thích xưng là Đốc Biện.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(51) Dưới thời Minh và Thanh, Tham Nghị là chức quan giúp việc cho quan Thông Chánh Sứ Ty, tức một chức quan giúp việc hành chánh, chuyên giảo duyệt công văn tường trình lên nội các. Đến thời Dân Quốc, chức Tổng Tham Nghị Trưởng tương đương với Đổng Lý Văn Phòng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(52) Y Lan (Eranda) có nghĩa là cây cực thối, là một loại thực vật thuộc họ Bế Ma (Thầu Dầu), mùi thối nồng gắt, hạt có dầu, thường được ép và tinh chế thành dầu Thầu Dầu. Kinh điển thường ví phiền não với Y Lan, còn Bồ Đề thì ví với Chiên Đàn. Y Lan cũng dùng để ví với những kẻ đầy dẫy tập khí xấu ác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>13. Bi ký thuật duyên khởi hạ viện Linh Nham Sơn Tự lập thêm hội phóng sanh bên ao phóng sanh</B>
(năm Dân Quốc 25 - 1936)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức lớn của trời đất là Sanh, gốc lớn của nhân dân là Thiện. Sanh thì thực vật, động vật đều sanh thành, Thiện thì yêu người thương vật đều cùng thực hành. Càn là đại phụ, Khôn là đại mẫu, dân là người ruột thịt của ta, loài vật giống như ta. Nếu chẳng khiến cho dân lẫn loài vật được sống yên vui, làm sao hợp lòng trời? Muốn cho quyến thuộc cõi trời thường rủ lòng thương xót, hãy nên gấp rút chú trọng nơi lòng nhân ái. Được như thế, mưa gió sẽ đúng thời, thóc lúa trúng mùa, nhân dân yên vui, thiên hạ thái bình. Dù chỉ luận về phương diện cá nhân thì cũng được nghiệp tiêu, trí rạng, chướng tận, phước tăng, sống dự vào bậc thánh hiền, mất sẽ lên cõi Cực Lạc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khu vườn ao phóng sanh tại cầu Hổ Gầm ở Tô Châu vốn do hội Cứu Giúp Loài Vật phân hội Tô Châu sáng lập. Năm Dân Quốc 24 (1935), tặng cho Linh Nham Sơn Tự làm Hạ Viện. Giám viện là thầy Diệu Chân do được tặng hậu hĩ như vậy càng ra sức tiến hành chuyện phóng sanh để mong người có lòng nhân nơi ấy và những kẻ thấy nghe đều hiểu được ý nghĩa phóng sanh, do vậy sẽ kiêng giết bảo vệ sanh vật, ngõ hầu chim - thú - cá - rùa đều sống yên vui, sao cho câu nói "dân là người ruột thịt, loài vật giống như ta"</I> chẳng trở thành chuyện nói xuông, mà phong thái yêu người thương vật cũng ngày càng được phát triển!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do vậy, cùng với những vị thuộc hội Cứu Giúp Loài Vật trước kia như các ông Dương Đạt Toàn, Viên Hiếu Cốc, Tào Tung Kiều v.v... và vị phát khởi lần này là hòa thượng Chân Đạt, cư sĩ Huệ Thường, các vị Tăng - tục tổ chức một hội phóng sanh. Phàm những người gia nhập hội đều nên kiêng giết, ăn chay, lấy thân làm gương thì những người ưa điều lành ai mà chẳng giống như ta, nhìn nhau bắt chước làm lành, hiệu quả rất lớn! Nếu chẳng thể đoạn ngay được thì cũng nên giảm dần dần, giảm đến cùng cực thì sát nghiệp vĩnh viễn chấm dứt. Nếu một người suốt đời chẳng giết thì những sanh mạng được sống sót đã chẳng thể tính được, huống chi là từ một người cho tới mười, một trăm, một ngàn, một vạn người, sẽ trở thành không phóng sanh mà thường hành phóng sanh rộng khắp vậy! Gần đây sát kiếp ngập tràn, hễ giặc cướp kéo đến, dân chúng đều gặp cảnh lầm than, đôi bên chẳng hề biết nhau, vừa thấy nhau liền giết phăng, hoặc đánh đập, tra khảo, nung đốt để lòi ra tiền của. Luận theo cuộc sống hiện thời, quả thật là mắc họa ngang xương! Nhưng hễ có quả ắt phải có nhân, có nhân ắt phải chuốc lấy quả! Thử nghĩ xem, người đời vì bụng miệng mà giết hại sanh mạng đủ mọi nỗi thảm khốc, ai có thể chịu đựng được? Nhưng do quen thói, chẳng những không sanh lòng thương xót, lại ngược ngạo nẩy lòng vui sướng, đến nỗi tuần hoàn báo đền, trở thành kiếp vận lớn lao này! Chư Phật, Bồ Tát vì cứu sát kiếp mà hiện thân trong dị loại, cũng bị con người giết. Đã giết rồi, thấy các tướng lạ mới biết là do Phật hiện, nhân đấy ai nấy đều kiêng giết. Trong năm Dân Quốc 20 (1931), Quang từng vì ông Lưu Công Lỗ ở Quý Trì (thuộc tỉnh An Huy) viết bài tán làm lời bạt cho bài ký [về chuyện] tượng Phật hiện trên răng hàm lợn như sau:
<I><P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hết thảy chúng sanh, đều có Phật tánh. Do mê trái nên đánh mất lẽ chánh, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, ăn thịt kẻ khác để bồi bổ cái thân mình. Sát nghiệp đã kết, trải nhiều kiếp giết lẫn nhau. Đức Như Lai thương xót, bèn làm thuyền từ, khơi mở giáo huấn lớn lao về lòng Từ. Người ta vẫn không tin nên Phật bèn đặc biệt hiện hình dáng để mong chúng sanh tùy thuận [lời Phật dạy]. Vỏ nghêu sò, hông bò, móng dê, răng lợn, yếm rùa, đều có hình Phật ngự [trong ấy]. Có người họ Chức vào đời Tống giết lợn quăng đầu, chó giữ bốn ngày chẳng dám táp. Đuổi chó chẻ xương, trên răng hàm lợn hiện hình Phật. Mắt biếc, búi tóc xoắn ốc, nghiễm nhiên là bậc Đại Giác. Trước khi chưa giết, [mọi người] đều nói là "súc sanh", đã giết xong mới biết là Phật. Do vậy, biết sát sanh chẳng khác gì giết Phật, dẫu chẳng phải do Phật hiện cũng là vị lai Phật. Giết để ăn thịt, tội quá non biển! Hãy gấp đau đáu ngăn dè, hòng được giải thoát! Anh em họ Triều làm văn tán dương, nghĩa lý uyên thâm, văn từ sáng đẹp, ông Thiên Trì biên chép, các vị đề tựa, viết lời bạt, để làm bài cảnh sách vĩnh viễn nhằm khơi gợi hậu giác. Đã hiểu nghĩa này, ai dám giết chóc? Tranh thành, giành đất sẽ chấm dứt ngay. Ông Lưu ở Quý Trì, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, bảo tồn sách của ông Từ, lời đề tựa, lời bạt đều phù hợp, sai con là Công Lỗ đem đưa cho xem, kính viết mấy lời tỏ bày chí hướng của tôi. Nguyện kẻ thấy nghe sẽ ăn chay kiêng giết, chắc chắn trong đời này sẽ về Cực Lạc".</I><P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lời bạt này tuy văn từ thô thiển, nhưng cũng có thể [làm cho] người xem sanh lòng cảm động. Kính sao lục nguyên văn để mong dứt diệt si tâm của kẻ ham giết ăn thịt, phát khởi thiện niệm kiêng giết ăn chay. Phật, Bồ Tát hiện thân trong dị loại để dứt sát kiếp cho cõi đời, thấy trong khắp các sách vở. Đọc phần Hiện Tướng Trong Loài Vật của sách Quán Âm Bổn Tích Tụng sẽ biết được đại khái. Do đức Phật thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật nên chẳng nỡ tàn sát lẫn nhau, [kẻo bị] vĩnh viễn chìm đắm trong ác đạo. Đây chính là những thứ biến hiện khiến cho con người thấy nghe mà kinh sợ, chẳng thể không suy nghĩ cặn kẽ sâu xa ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>14. Bi ký về việc Linh Nham Sơn Tự xây dựng tháp Phổ Đồng cho tứ chúng</B>
(năm Dân Quốc 27 - 1938)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Con người sống trong thế gian thật giống như huyễn hóa, dẫu thọ trăm tuổi cũng chỉ là một khoảng khảy ngón tay. Lúc sanh ra cũng tùy theo túc nhân (nhân trong đời trước) mà đến, lúc chết cũng tùy theo hiện nhân (cái nhân trong đời này) mà đi. Dẫu sẵn đủ Phật tánh thường trụ bất biến, tịch - chiếu viên dung, nhưng do mê chưa ngộ nên ngược ngạo nương vào sức công đức của Phật tánh ấy để khởi Hoặc tạo nghiệp luân hồi sáu nẻo, há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? Đức Như Lai thương xót nên khi họ còn sống bèn dạy tu tịnh hạnh để mong bỏ mê về với ngộ, lìa vọng theo về chân ngõ hầu khôi phục Phật tánh sẵn có, sau khi chết bèn hỏa thiêu thân xác nhằm chỉ rõ sáu Trần không có Thể, năm Uẩn đều là không, đích thân chứng được diệu tâm thường trụ. Ở Tây Vực có bốn cách an táng:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Một là thả trôi trong nước, tức là bỏ trong các sông rạch cho cá, rùa ăn.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Hai là hỏa thiêu, dùng lửa đốt xác ngõ hầu phá được Ngã Chấp.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Ba là chôn xuống đất, tức vùi kín trong huyệt để [thân xác] khỏi bị phơi bày. Nước ta thường chú trọng chôn xuống đất; nhưng biển dâu biến đổi, đường đất nhiều lượt thay đổi, đào mộ lộ xương, thảm thương tột cùng!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Bốn là thi lâm (rừng thây), tức bỏ xác trong rừng cho chim thú ăn. Nay tại Ngoại Mông Cổ<SUP><B>(53)</B></SUP>, bỏ xác trong đồng hoang để nuôi chim, thú.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từ khi Phật pháp truyền sang phương Đông, Tăng chúng đều [an táng theo cách] hỏa thiêu. Những bậc cao nhân thông đạt, sùng tín Phật pháp đời Đường đời Tống cũng thường dùng cách này vì Phật pháp trọng thần thức, chỉ sợ đắm chấp thân xác, chẳng thể giải thoát được! Thiêu đi thì sẽ biết đấy chẳng phải là ta, không còn đắm chấp nữa. Lại vì [người đã khuất] tụng kinh niệm Phật, mong họ chứng được Pháp Thân. Nho giáo trọng hình tích, còn thần thức thăng hay giáng trọn chẳng để ý tới, nên làm quan quách<SUP><B>(54)</B></SUP> cho bền chắc để mong xác thân thường còn, chẳng bị biến hoại. Hiện nay, cả nước mở mang đường tàu hỏa, đường xe hơi, đào lên những hài cốt vô chủ nhiều không thể kể xiết, thảm thương chẳng nỡ nhìn! Những bậc cao nhân hiểu biết đều muốn sửa đổi cách an táng. Chùa Thiên Ninh ở Thường Châu có tháp Tứ Chúng Phổ Đồng: Đào một cái huyệt lớn, trong chia thành bốn ngăn, phía trên xây tháp bốn mặt, mỗi mặt đều trổ cửa. Phàm tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, hay ưu bà di đều đem các túi đựng cốt đặt vào trong những lỗ huyệt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mùa Xuân năm ngoái, chùa Linh Nham dựng tháp này, phỏng theo cách ấy nhưng sửa đổi thành hai loại Phổ Thông và Đặc Biệt. Phổ Thông là phía dưới đào bốn cái huyệt, phía trên dựng bốn cái tháp, xương của chúng nào thì đặt túi đựng cốt vào trong lỗ huyệt thuộc tháp của chúng đó. [Tháp] Đặc Biệt là phía trên dựng khám thờ Phật để thờ Tây Phương Tam Thánh, phía sau làm một cái khám nhỏ đề thờ bài vị của người nhập tháp. Phía dưới dùng xi măng (cement) xây thành tầng ngầm, chia ra hai gian Đông và Tây. Mỗi gian chia thành bốn khu, mỗi khu nhìn ra hai hướng, mỗi hướng gồm sáu nhóm, mỗi nhóm là bao nhiêu đó ô đựng cốt, tổng cộng là một ngàn ba trăm chín mươi chín ô. Gian phòng thờ được chia thành bốn bộ phận: một là tỳ kheo, hai là tỳ kheo ni, ba là ưu bà tắc, bốn là ưu bà di. Hỏa thiêu xong, đựng tro trong hũ sứ, đem từ khám thờ Phật xuống đặt trong tầng ngầm. Nếu đã nạp lệ phí, ghi danh sẵn, ước định sẽ đặt vào nhóm nào, ô nào thì bất luận nhập tháp lúc nào vẫn xếp theo đúng ước định. Nếu không, người nhập tháp trước sẽ được xếp đằng trước, người nhập sau xếp đằng sau. Phía trên [tầng ngầm] xây năm gian nhà lớn, ba gian chính giữa là khám thờ Phật, phía dưới là tháp đặc biệt. Bốn tháp ở phía Đông và phía Tây sau khám thờ chính là tháp Phổ Thông. Hai gian hai bên dùng làm chỗ ở cho vị trông coi nhang đèn, nước nôi và những vị già cả không thể ở chung với chúng được. Chuyên nhất niệm Phật suốt năm để người mất thường được nghe Phật hiệu, phẩm sen tăng cao, người còn sống đau đáu nghĩ tới vô thường, gấp cầu vãng sanh. Âm - dương đều được lợi, cùng gội ân sâu khế lý khế cơ. Kẻ thấy nghe phát tâm cùng tu diệu đạo <I>"tâm làm, tâm là"</I>, ngõ hầu phàm phu sát đất cậy vào Phật lực siêu phàm nhập thánh. Đã dự vào hải hội sẽ đoạn Hoặc chứng Chân ngay trong đời này, thật là nhân duyên tối thắng để liễu sanh tử, mà cũng là chỗ quy túc tốt lành nhất sau khi hết tuổi thọ! Tụng rằng:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Tịnh Độ đại pháp môn,
Mười phương Phật cùng khen,
Mất - còn siêng tu trì,
Chóng được lên bờ giác.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(53) Gọi là Ngoại Mông Cổ nhằm để phân biệt với Nội Mông Cổ. Khi người Mông Cổ chiếm Trung Hoa lập ra nhà Nguyên, Hốt Tất Liệt sát nhập đất đai Mông Cổ vào lãnh thổ Trung Hoa. Khi Châu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ) lật đổ nhà Nguyên, người Mông Cổ bị đuổi ra ngoài cửa ải, nhưng các vương hầu, tộc trưởng Mông Cổ gây chiến liên miên với nhau nên càng ngày càng suy yếu, phải dựa dẫm vào thế lực của một sắc dân ngày càng quật cường là dân Mãn Châu. Do ngày càng cường thịnh, dân Mãn Châu đã lần lượt biến các bộ tộc Mông Cổ thành chư hầu của họ. Khi Mãn Châu chiếm được Trung Hoa lập ra đế quốc Đại Thanh, toàn bộ đất đai Mông Cổ một lần nữa lại bị sát nhập vào lãnh thổ Trung Hoa. Ngoại Mông Cổ là vùng nằm gọn trong địa bàn nước Cộng Hòa Mông Cổ ngày nay (đa số là dân Mông Cổ sắc tộc Khalkha), còn Nội Mông Cổ bao gồm phần đất sát với Vạn Lý Trường Thành, có rất đông người Mông Cổ sinh sống, chủ yếu là các sắc tộc Hung Nô, Ô Hoàn, Tiên Ty, Đột Quyết và Đông Hồ (hai tộc này là người Mông Cổ). Khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thành lập, Nội Mông Cổ trở thành một đặc khu tự trị với thủ phủ là Hohot.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(54) Quách: Giới quyền quý thời cổ khi mai táng, ngoài quan tài còn thêm một lớp bọc nữa gọi là Quách. Sách Châu Lễ, thiên Địa Quan ghi: <I>"Bất quyền giả vô quách"</I> (kẻ không có quyền thế thì quan tài không có quách).</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>15. Bài ký về chuyện cư sĩ Châu Tử San sanh Tây</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cư sĩ húy Dục Anh, hiệu Tử San, là cháu đích tôn của vị đại thương gia đất Cát An tỉnh Giang Tây tức tiên sinh Châu Phù Cửu. Mất cha mẹ từ bé, do bà nội là Đàm Thái Phu Nhân chăm bẵm thành người, bẩm tánh thông minh, sáng suốt, hiếu học, ưa tìm tòi, nhân từ, hòa nhã, lòng dạ rỗng rang tựa hang trống, sanh trưởng trong nhà phú quý nhưng chẳng có mảy may thói quen kiêu căng, xa hoa. Ra làm quan, hoàn toàn chú trọng trung thực, giữ lòng từ ái. Từ bạn đồng liêu, thân hữu cho đến tôi tớ, nếu ai trái ý chưa hề hiện vẻ giận dữ, thốt lời thô tháo! Luôn luôn tươi tỉnh, hòa nhã, chuyện nghịch xảy đến bèn thuận chịu. Đến khi cáo quan về ở ẩn, đóng cửa ngầm tu dưỡng, ngẫu nhiên đọc nội điển (kinh Phật) liền biết Phật pháp là căn bản của hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian, tạo phước lợi cho xã hội, phổ độ chúng sanh đều toàn nhờ vào Phật pháp cả! Vì thế, liền quy y với lão pháp sư Đế Nhàn chùa Quán Tông, được đặt pháp danh là Trí Tạng. Từ đấy, ăn chay trường, niệm Phật, kiêng giết, bảo vệ sanh vật, đối xử người khác bằng lòng khoan dung, trung hậu, tự sống đạm bạc, bạn bè thường vay mượn nhưng chẳng nề hà, hết thảy chuyện lành đều khảng khái giúp cho thành tựu. Nêu gương giúp kẻ đói rét là chuyện thường làm, thực hiện những điều lành thế gian đều dùng tâm Bồ Đề để hồi hướng hòng tạo duyên tăng thượng thù thắng nhất hòng vãng sanh Tây Phương. Lại thấy lòng người hiểm ác, thời sự mỗi ngày một sai trái nên càng dốc sức làm lành, lòng ưa - chán<SUP><B>(55)</B></SUP> càng sâu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm Dân Quốc 21 (1932), tức năm Nhâm Thân, nhằm độ tuổi tri mạng (50tuổi), ngày mồng Tám tháng Tư gặp đúng hôm thánh đản đức Thích Ca Văn Phật<SUP><B>(56)</B></SUP>, vào lúc bảy giờ sáng, ông thị hiện chút bệnh nhẹ, cảm thấy hông lưng đau nhức, bảo người xoa nắn nhè nhẹ cho dễ chịu. Tự mình ngồi xếp bằng ngay ngắn hướng về Tây, chuyên tâm xưng niệm A Di Đà Phật. Thanh âm rõ ràng, rồi cúi đầu qua đời. Người nắn lưng thấy [cư sĩ] im lặng hồi lâu chẳng ừ hử gì liền thăm dò hơi thở nơi mũi mới biết cư sĩ đã bỏ báo thân này vãng sanh Tây Phương rồi! Lúc ấy mùi hương lạ ngập nhà, năm ngày sau mới tan. Tướng lành như vậy có thể nói là chánh niệm phân minh, xả báo an tường như nhập Thiền Định, tức là được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương chẳng còn mảy may nghi ngờ, bàn tán chi nữa! Ôi! Đang trong lúc kiếp trược khổ chẳng kham nổi này, cư sĩ đến lúc lâm chung mới thị hiện chút bệnh, chỉ trong khoảnh khắc liền ngồi mà mất, đã nêu tấm gương lớn cho những kẻ chịu đựng khổ sở chẳng kham nổi! Cư sĩ Ngô Nam Phố gởi chuyện này cho Quang, nhân vậy bèn ghi lại những nét chánh yếu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(55) Ưa cõi Cực Lạc, chán cõi Sa Bà.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(56) Thích Ca Văn hay gọi đủ là Thích Ca Văn Ni là cách phiên âm khác của chữ Thích Ca Mâu Ni (đa phần các bản kinh dịch trước thời pháp sư Cưu Ma La Thập dùng cách phiên âm này). Chẳng hạn như trong Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự Kinh (mất tên người dịch), có ghi: <I>"Kim ngã tác Thích Ca Văn Ni Phật, tánh Cù Đàm"</I> (nay ta là Thích Ca Văn Ni Phật, họ Cù Đàm). Phẩm Nhập Lục Đạo Chúng Sanh của Bồ Tát Tùng Đâu Thuật Giáng Thần Mẫu Thai Thuyết Phổ Tế Kinh (Bồ Tát từ trời Đâu Suất giáng thần vào thai mẹ nói kinh cứu tế rộng khắp) do ngài Trúc Pháp Niệm dịch có câu: <I>"Thích Ca Văn Ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hạnh Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn nay đang ở trong thai mẹ rộng nói pháp tạng vô thượng thâm yếu"</I>. Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh Kinh (do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn) khi nhắc đến danh hiệu đức Phật Thích Ca đều viết là Thích Ca Văn v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>16. Bi ký về ao phóng sanh của Liên Hoa Am tại Thường Thục</B>
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Càn là đại phụ, Khôn là đại mẫu, dân là ruột thịt của ta, loài vật giống như ta, đấy chính là chí hướng chủ yếu "coi dân và loài vật giống như nhau" của nhà Nho, nghiêm cấm gây đọa thai, phá trứng, ắt sẽ khiến cho chim - thú - cá - rùa đều được sống yên vui. Đấy chính là lối cai trị bằng đức hòng thắng tàn bạo, trừ khử giết chóc của bậc thánh vương. Đó là vì đức lớn của trời đất là Sanh, nỗi khổ lớn của người lẫn vật là Giết. Thắng tàn bạo, trừ giết chóc phải từ chuyện nhỏ mà thành lớn, thương người yêu vật phải từ dễ đến khó. Nếu chẳng hàm dưỡng lòng nhân từ, khoan thứ từ cái gốc ắt sẽ đến nỗi bỏ nhỏ lấy lớn, bỏ dễ lấy khó, hằng ngày tàn sát mà cứ lầm lạc muốn yêu người thương vật, ắt chỉ thành chuyện nói xuông, quyết khó thể thực hiện được chuyện ấy! Vì sao nói thế? Trẻ nhỏ, kẻ bình thường đều có thể thực hiện chuyện yêu thương loài vật thì do làm lâu ngày bụng dạ sẽ đầy ắp nhân từ, mai sau có địa vị, nắm quyền cai trị, sẽ che chở dân đen lớn lao; dẫu ẩn cư trong một làng cũng có thể dùng thân làm gương để thay đổi phong tục. Như vậy thì cái đạo thương dân phải vun bồi từ lòng yêu vật mới có thể viên mãn trọn khắp không điều tệ! Chẳng xuất phát từ lòng yêu thương loài vật thì trong đời này tợ hồ cũng chẳng có chi đáng áy náy, nhưng trong tương lai ắt phải lo nghĩ lớn lao, bởi đã gieo cái nhân tàn sát loài vật sẽ khó thể tránh cái quả tuần hoàn báo đền. Nguyện những ai có lòng thương người hãy suy nghĩ cặn kẽ! Chuyện phóng sanh vốn nhằm để khơi gợi thiện tâm nơi con người hiện tại và tương lai, ngõ hầu họ sẽ kiêng giết, ăn chay, làm cho khắp các loài hàm thức được sống yên vui, đều trọn hết tuổi thọ. Gần là dứt được cái nhân giết chóc, xa là diệt được sát quả; nhỏ là trọn tấm lòng thuần nhân của ta, lớn là dứt sát kiếp cho cả thế giới. Đừng bảo đấy chẳng phải là chuyện cấp bách, rồi coi thường bỏ qua!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Liên Hoa Am bốn mặt đều là nước, chính giữa nổi lên một bãi bồi, cất am trên ấy, thờ Tây Phương Tam Thánh, chuyên thỉnh vị Tăng có giới đức làm Trụ Trì. Cảnh sắc thanh u, chẳng bén hồng trần, tu trì nghiêm mật, giới đức lan xa, dùng cừ chặn khúc sông trước mặt am làm ao phóng sanh. Từ đời Minh đến nay, thời gian đã lâu xa. Hiện tại có những vị thân sĩ trong ấp như Cù Lương Sĩ, Bàng Đức Siêu v.v… hết sức muốn chỉnh đốn, và muốn làm sáng tỏ ý nghĩa trọng yếu và lợi ích của việc phóng sanh, cậy tôi soạn bài văn để thưa cùng bậc sáng suốt trong mai sau. Trộm nghĩ: Phóng sanh vốn nhằm để đề xướng kiêng giết ăn chay. Nếu con người ăn chay trọn đời sẽ trở thành không phóng mà hóa ra là phóng sanh lớn lao vậy! Nay sao chép lại bài thơ răn đừng ăn thịt của cư sĩ Hoàng Sơn Cốc để mong mọi người lúc ăn thịt hãy suy nghĩ lại, ắt sẽ chẳng nỡ lòng ăn mà lòng chẳng dám ăn cũng bừng bừng dấy lên! Thơ rằng:
<p style="padding-left: 56px;">Ngã nhục, chúng sanh nhục,
Danh thù, thể bất thù,
Bổn thị nhất chủng tánh,
Chỉ vi biệt hình khu,
Khổ não tùng tha thụ,
Phì cam vi ngã nhu,
Mạc giao Diêm Quân đoán,
Tự sủy ứng hà như?
<BR><I>(Thịt ta, thịt chúng sanh,
Danh khác, thể vốn đồng,
Vốn cùng một chủng tánh,
Chỉ hình hài khác nhau!
Khổ não chúng hứng chịu,
Béo ngon ta hưởng riêng,
Chớ đợi Diêm La xử
Tự suy sẽ biết mà!)</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bài thơ này ý vị làm sao! Trung hậu, khoan thứ sẽ cách đạo chẳng xa, điều gì chẳng mong người khác làm cho chính mình thì chớ gây cho người khác, đấy chính là đại kinh đại pháp thành thủy thành chung để yêu người thương vật vậy. Do vậy, chẳng cần phải nói cặn kẽ về những nghĩa lý sâu xa nhân quả ba đời, luân hồi sáu nẻo. Nguyện những ai thấy nghe đều suy nghĩ sâu xa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>17. Bi ký thuật công đức trùng tu Di Lặc Lâu Các của Linh Nham Sơn Tự</B>
(năm Dân Quốc 29 - 1940, cuối Hè năm Canh Thìn)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Di Lặc là đấng giáo chủ của thế giới Sa Bà sẽ giáng sanh trong tương lai, Lâu Các là phòng ốc nơi đức Di Lặc ở khi Thiện Tài đi về phương Nam tham học. Nhà nhiều tầng là Lâu, lầu cao là Các. Lâu các này thắng diệu khôn sánh, phàm phu, Nhị Thừa, Quyền Vị Bồ Tát đều chẳng thể thấy được! Đấy chính là báo cảnh do công đức thắng diệu thượng cầu hạ hóa của đức Di Lặc từ vô lượng kiếp đến nay cảm thành. Thiện Tài đã tham học với hai vị thiện tri thức là Đức Sanh và Hữu Đức<SUP><B>(57)</B></SUP> xong, họ lại dạy Thiện Tài đi qua Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng Đại Lâu Các trong vườn Đại Trang Nghiêm ở nước Hải Ngạn tại phương Nam thỉnh giáo Di Lặc Bồ Tát: <I>"Vị Bồ Tát ấy ắt sẽ có thể vì ngươi nói diệu pháp khế lý khế cơ rốt ráo, khiến cho ngươi được đại lợi ích"</I>. Do vậy, Thiện Tài cực lực đối trị tập khí phiền não, cực lực tu trì đạo Giới - Định - Huệ, đến trước Tỳ Lô Giá Na Đại Lâu Các ở nước Hải Ngạn, năm vóc mọp sát đất, nguyện thấy đức Di Lặc, nói kệ tán thán, bèn thấy Di Lặc Bồ Tát từ chỗ khác đi tới.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiện Tài đảnh lễ, Di Lặc đối trước đại chúng cùng đi với Ngài, tán thán Thiện Tài là chân Phật tử, là chân pháp khí. Lại vì Thiện Tài nói đủ mọi công đức của tâm Bồ Đề hòng bồi đắp nền tảng thành Phật, dạy vào trong Đại Lâu Các quan sát trọn khắp sẽ biết rõ cách học Bồ Tát hạnh. Học xong sẽ thành tựu vô lượng công đức. Thiện Tài bạch rằng: "Kính xin Đại Thánh mở cửa lâu các cho con được vào!" Ngài Di Lặc khảy ngón tay ra tiếng, cửa liền mở ra, bảo Thiện Tài vào. Vào xong cửa đóng lại. Thấy lâu các ấy rộng rãi vô lượng giống như hư không. Mặt đất và cung điện, hết thảy vật cúng đều dùng vô lượng các thứ báu để hợp thành. Lại thấy trong ấy có vô lượng trăm ngàn các thứ lâu các nhiệm mầu, mỗi mỗi rộng lớn nghiêm trang, đẹp đẽ, đều bằng với hư không, chẳng ngăn ngại nhau, cũng chẳng tạp loạn. Nơi mỗi một chỗ thấy hết thảy chỗ, trong hết thảy chỗ đều thấy như thế. Khi đó, Thiện Tài rạp mình lễ kính, vừa mới mọp đầu đã tự thấy thân mình trọn khắp trong hết thảy các lâu các, lễ khắp hết thảy Phật - Pháp - Tăng, thấy đủ các thứ cảnh giới tự tại chẳng thể nghĩ bàn, như là: Hoặc thấy đức Di Lặc vừa mới phát tâm Bồ Đề hành đạo Bồ Tát, thân cận vị thiện tri thức nào, chứng tam-muội nào cho đến đích thân chứng được Pháp Thân, trong mười phương pháp giới, trải qua số kiếp nhiều như số vi trần trong cõi Phật hiện những thân tam thừa lục đạo để giáo hóa, mỗi mỗi đều thấy trọn vẹn và hết thảy chư Phật trong mười phương thế giới từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật độ sanh và nhập Niết Bàn, pháp tồn tại lâu - mau, cũng đều thấy trọn vẹn. Thiện Tài ở trong lâu các thượng cầu hạ hóa, trải số kiếp nhiều như số vi trần trong cõi Phật siêng năng, chuyên ròng tu trì đủ mọi diệu hạnh mà chẳng mỏi mệt, nhất tâm tiến thẳng đến Vô Thượng Bồ Đề.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi ấy, Di Lặc Bồ Tát liền thâu hồi thần lực, vào trong lâu các, khảy ngón tay ra tiếng, bảo Thiện Tài: <I>"Thiện nam tử! Hãy dậy đi, pháp tánh như vậy đó. Đây chính là trí biết các pháp của Bồ Tát, [biết các pháp] là tướng được hiện bởi nhân duyên tụ tập. Tự tánh như thế giống như huyễn, như mộng!"</I> Do vậy, Đại Lâu Các ấy chính là pháp giới tạng. Phàm tất cả những sự vi diệu trong pháp giới không gì chẳng thấy trọn vẹn trong lâu các này. Đó gọi là <I>"mười pháp giới xưa - nay, từ đầu đến cuối chẳng lìa một niệm hiện tại, vô biên cõi nước, ta - người chẳng cách biệt chừng bằng mảy lông!"</I> Nếu không có thần thông đạo lực của Di Lặc, Thiện Tài cạn lòng thành tận lòng kính, làm sao đạt được như vậy?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đời gần đây, các nơi không nơi nào chẳng thờ tượng Di Lặc nơi tiền điện, chẳng gọi là Di Lặc Điện mà lại gọi là Thiên Vương Điện, đúng là coi ngài Di Lặc như khách ăn nhờ ở đậu các Thiên Vương, quá mất ý nghĩa tôn kính! Linh Nham tu bổ tiền điện, nhân đấy tôi bèn nói nguyên cớ với giám viện là đại sư Diệu Chân, lại trích lục chương Thiện Tài tham học với ngài Di Lặc từ kinh Hoa Nghiêm để chứng tỏ ngài Di Lặc đức vượt trỗi Thập Địa, đạo đã chứng Đẳng Giác, từ bi cứu vớt chúng sanh, nếu không phải là Phật sẽ chẳng thể biết được! Do vậy, bèn đặt tên [cho tiền điện] là Di Lặc Lâu Các để mong sau này ai bước vào đó sẽ đều giống như Thiện Tài hoặc trong đời này hoặc trong đời mai sau, ai nấy đích thân chứng được đạo trong lâu các, để an ủi tấm lòng đại từ bi "luôn dạy cho người đương thời" của ngài Di Lặc.
Hơn nữa, các nơi thờ tượng Di Lặc chính là tượng Bố Đại hòa thượng do ngài Di Lặc thị hiện vào cuối đời Đường. Nay đã biết là do Di Lặc thị hiện thì cố nhiên hãy nên thờ bổn tượng vi diệu trang nghiêm. Nhằm tỏ rõ ngài đang sống trên Đâu Suất Thiên nên tạc tượng ngài đội mũ Ngũ Phật để làm tiêu thức<SUP><B>(58)</B></SUP>. Lược thuật duyên khởi để bảo cùng người thông sáng mai sau, hiểu tôi hay trách tội tôi, tôi cũng chẳng màng! Chuyện tu bổ điện từ đầu đến cuối, công đức của đàn na tín chủ được ghi cặn kẽ trong tấm bia khác, nên chẳng ghi lại tường tận ở đây!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(57) Đức Sanh đồng tử (Śrī-Sambhava) là vị thứ năm mươi mốt trong số năm mươi ba vị thiện tri thức được Thiện Tài đến tham học. Vị này cùng với Hữu Đức đồng nữ cùng ở tại thành Diệu Ý Hoa Môn, đều đã chứng môn giải thoát của Bồ Tát, do tịnh trí quán sát thấy các thế gian đều là huyễn trụ, đều do nhân duyên sanh cho đến các việc biến hóa điều phục của hết thảy các vị Bồ Tát đều là huyễn trụ, đều do nguyện và trí hợp lại mà thành vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(58) Tiêu thức là những vật dụng nhằm biểu thị hạnh nguyện, phương tiện của một vị Phật hay một vị Bồ Tát, chẳng hạn tiêu thức của ngài Quán Âm là bình cam lộ với nhành dương liễu, tiêu thức của Địa Tạng Bồ Tát là viên minh châu và tích trượng, tiêu thức của Văn Thù Bồ Tát là thanh kiếm trí huệ v.v... Trong Mật Tông thường tạc tượng Di Lặc Bồ Tát cầm tháp báu (tượng trưng cho Tỳ Lô Giá Na Lâu Các) đội mũ Ngũ Phật và mặc y phục cõi trời, ngồi thõng hai chân (ngụ ý Ngài vẫn chưa thành Phật).</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>PHỤ LỤC</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Toa chế thuốc hoàn tiêu đờm chữa ho</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cách chế tạo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dùng Kinh Giới, Cát Cánh, Tử Uyển, Bách Bộ, Bạch Tiền, Trần Bì, Tang Bạch Bì, Cam Thảo<SUP><B>(59)</B></SUP>, mỗi thứ một lạng, đều để tươi nghiền nát thành bột mịn, lại thêm vào hai lạng hạt củ giền<SUP><B>(60)</B></SUP> tươi để nghiền. Lại dùng một lượng lá Tỳ Bà<SUP><B>(61)</B></SUP> nấu nước để lọc nước cốt hạt củ giền, rồi thêm vào hai lạng nước cốt củ giền tươi, hòa [chất bột của những thứ thuốc nói trên] với nước cốt củ giền vò thành hoàn, thêm vào hai hay ba lạng bách luyện mật<SUP><B>(62)</B></SUP> nữa là được. Mỗi hoàn nặng hai tiền năm phân<SUP><B>(63)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Cách uống</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dùng nước sôi để chiêu thuốc, mỗi lần uống một hoàn, trẻ nhỏ thì giảm xuống một nửa. Mỗi ngày sáng dậy lúc chưa ăn gì và lúc tối sắp đi ngủ, uống mỗi lúc một lần.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bài thuốc này vốn trích từ sách Y Học Tâm Ngộ Nghiệm Phương Tân Biên nhưng thiếu Trần Bì, Cam Thảo. Hơn nữa, mỗi thứ đều sao rồi mới chế thuốc, uống vào sợ rằng gây khô háo<SUP><B>(64)</B></SUP>, nay thêm vào Tang Bạch Bì, và lại dùng lá Tỳ Bà, hạt củ giền, nước cốt củ giền, vò thành hoàn. Các thứ thuốc đều nghiền tươi. Từ đấy áp dụng không ai chẳng công hiệu, phong - hàn - đàm - nhiệt đều thích hợp! Nhiếp Vân Đài ghi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôi bị trúng gió ho húng hắng, xin được từ chỗ cư sĩ Vân Đài mười mấy hoàn, uống mấy hoàn liền khỏi bệnh. Những hoàn thuốc còn lại cùng với số xin thêm từ Tam Lạc Xã đem gởi tặng cho người khác, họ đều khen là linh nghiệm. [Do vậy] đặc biệt ghi thêm toa thuốc vào đây. Nguyện người đọc dựa theo toa chế thuốc nhằm tạo tiện lợi cho người khác thì công đức vô lượng. Đức Sâm ghi thêm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(59) Kinh giới (Schizonepeta Tenuifolia) là một loại rau thơm thuộc họ Bạc Hà, có vị hơi the, thường được dùng như rau thơm ăn chung với rau muống chẻ, nhất là khi ăn bún riêu! Cây này được dùng rất phổ biến trong các bài thuốc Nam để chữa ho, cảm lạnh, xông hơi v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cát Cánh (Balloon Flower - Platycodon grandiflorus) là một loại thân thực vật, hoa màu từ tím đậm đến nhạt, hình như hoa loa kèn, có năm cánh, ta thường gọi là Hoa Chuông Tím, thân có chất nhựa thơm dịu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tử Uyển (Tatarian Astert - Asteris Radix) thuộc họ Cúc, thân ngầm. Bộ phận chính để làm thuốc là phần thân ngầm và rễ, có vị ngọt đắng và thơm nhẹ, chủ yếu dùng để trừ đàm trong Đông Y.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bách Bộ (Stemona Root - Radix Stemonae) là một loại thực vật lá to, bóng mượt nhưng hẹp và dài, mọc rất chậm nên còn gọi là Mạn Sanh Bách Bộ, phần để làm thuốc chính là phần thân ngầm của nó.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bạch Tiền (Willowleaf Swallowwort - Cynanchum stauntonii) là một loài thực vật có thân hình trụ dài, cành thường cong quẹo, có màu trắng ngả vàng hoặc vàng nâu, phần để làm thuốc chính là phần thân ngầm và rễ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trần Bì: Vỏ cam hay quýt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tang Bạch Bì: Chất vỏ trắng lấy từ rễ cây dâu tằm (Mulberry tree).
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(60) Nguyên văn La Bặc. Theo từ điển Hán Việt, chữ La Bặc thường dịch là củ cải trắng; thế nhưng theo Wikipedia phiên bản tiếng Hán, chúng tôi thấy chữ La Bặc được dùng để chỉ ba loại khác nhau: Bạch La Bặc (củ cải trắng), Thanh La Bặc (củ su hào) và Anh Đào La Bặc (củ radish, ta thường gọi là củ giền, hay củ La Đì). Do trong đoạn dưới ông Nhiếp Vân Đài nói dùng La Bặc để giảm tính khô nóng của các vị thuốc nên chúng tôi dịch là củ Radish vì củ cải trắng quá hàn và hạt củ cải trắng lẫn hạt su hào đều có chất độc có thể gây chết người, có lẽ không thích hợp để chữa bệnh ho.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(61) Tỳ Bà (Japanese plum, Loquat - Eriobotrya Japonica), còn gọi là Lô Quất, thường thấy ở Trung Hoa và Nhật Bản, là một loại cây thân mộc, xanh tươi quanh năm, lá to xanh thẫm, bóng mướt, mặt dưới lá nâu nhạt, thuôn dài như hình dáng giống thân đàn tỳ bà, hoa có mùi thơm ngọt, năm cánh, sắc trắng. Trái có hình bầu dục hoặc thuôn như trái lê, mọc thành chùm, dày đặc, sớ thịt của trái Tỳ Bà hơi giống thịt trái lê, có vị ngọt nhẹ, hơi chua.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(62) Bách Luyện Mật: Mật ong được đun sôi riu riu cho bốc hơi bớt chất nước, nhằm cô đặc lại.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(63) Một Tiền 3,73 gram, một Tiền gồm 10 Phân. Như vậy, hai Tiền năm Phân là 2,5 x 3,73 gr = 9,325 gram.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(64) Nguyên văn là Táo, ý nói người bệnh uống vào cảm thấy nóng, bức rức, uống nhiều nước vẫn thấy khát, ta thường gọi là "khô háo".</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<p style="padding-left: 56px;"><B>IV. TỤNG TÁN</B>
(phụ thêm phần kệ)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>1. Phật Bảo Tán</B>
<p style="padding-left: 56px;">Phật bảo khen ngợi khôn cùng,
Từ trần kiếp<SUP><B>(65)</B></SUP> trước chứng Đại Hùng,
Thường trụ Tịch Quang bi tâm sâu,
Hóa hiện độ quần mông<SUP><B>(66)</B></SUP>,
Thuyết pháp khế cơ cùng khế lý,
Chấn động điếc - đui trong chín cõi,
Linh Sơn pháp hội nguyện tương phùng,
Thọ ký, rạng tông phong.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(65) Trần kiếp: Gọi đủ là "trần điểm kiếp" hoặc "vi trần số kiếp" tức số kiếp (kalpa) nhiều như số vi trần. Đôi khi còn nói là "Phật sát vi trần số kiếp" (số các kiếp nhiều như số vi trần trong một cõi Phật).
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(66) Quần mông: Những kẻ tăm tối, chỉ những chúng sanh bị phiền não vô minh che lấp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>2. Pháp Bảo Tán</B>
<p style="padding-left: 56px;">Ngợi khen Pháp Bảo khó lường thay!
Không - Hữu thể - dụng thảy trọn bày,
Mảy trần chẳng lập muôn đức trội,
Vô trụ tâm quang tỏa rạng ngời,
Chân - Tục cùng còn, cùng diệt mất,
Thế nào mới có thể tán dương?
Chứng đến chỗ không gì để được,
Ắt đáng xưng là Pháp Trung Vương.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>3. Tăng Bảo Tán</B>
<p style="padding-left: 56px;">Tăng Bảo thật chẳng thể nghĩ bàn,
Bổn - Tích thánh - phàm há dễ hay!
Ngài Văn Thù thầy bảy đức Phật,
Còn hiện tướng Hàn Sơn si ngây.
Phàm tăng tận lực tu Tam Học (Giới - Định - Huệ)
Gánh vác đạo Bồ Đề Như Lai.
Do vậy, hai khuôn mẫu rộng lớn,
Pháp đạo phàm - thánh mãi truyền trì.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>4. Tán dương tượng Phật Dược Sư</B>
<p style="padding-left: 56px;">Mười hai đại nguyện đức khó lường,
Xưng danh liền được thoát khổ ương,
Đến khi nghiệp tận tình không ấy,
Đông - Tây cõi giác vốn chân thường!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>5. Dược Sư Phật kệ</B>
<p style="padding-left: 56px;">Dược Sư Như Lai Lưu Ly Quang,
Thệ nguyện rộng sâu đời khó lường!
Hiển: sanh điều lành, nhóm phước khánh.
Mật: khiến diệt ác, tiêu họa ương.
Dẹp khổ: cốt sao sạch nhị tử<SUP><B>(67)</B></SUP>,
Ban vui: muôn đức ắt phô bày.
Pháp giới thánh - phàm đều quy mạng,
Gội ân mau chứng được chân thường.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(67) Nhị tử: Biến dịch sanh tử và phần đoạn sanh tử.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>6. Tán dương tượng Phật A Di Đà</B>
<p style="padding-left: 56px;">Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Nghịch ác hướng lòng cũng tiếp nghênh,
Xen trộn đúng - sai không chọn lựa,
Vì thương những kẻ Phật chưa thành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>7. Tán dương kinh tháp Phật A Di Đà</B>
<p style="padding-left: 56px;">Bảo tháp nguy nga tột hư không,
Vô biên pháp tạng chứa vào trong,
Cực Lạc trang nghiêm đều hiện trọn,
Di Đà quang thọ vẹn hình dung,
Sáu phương chư Phật thường ca ngợi,
Chín giới chúng sanh trọn hướng lòng,
Một câu sáu chữ hồng danh gọn,
Quy căn kết đảnh thật mênh mông!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>8. Tán dương tượng Tây Phương Tam Thánh</B>
<p style="padding-left: 56px;">Tam Thánh vô tâm đều đã chứng,
Vô tâm ứng trọn hữu tâm nhân,
Dẫn khắp chúng sanh về Cực Lạc,
Thân - tâm trọn không, chẳng dấu hằn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>9. Tán dương tháp Đa Bảo</B>
<p style="padding-left: 56px;">Đa Bảo Như Lai,
Vì thỏa nguyện xưa,
Hiển trọn Thật Tế,
Hiện tháp vọt lên.
Hiển Bổn để làm khuôn mẫu lớn,
Mọi kẻ thấy nghe lên bến kia.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>10. Tán dương tượng Quán Thế Âm Bồ Tát</B>
<p style="padding-left: 56px;">Khắp trần sát cõi thảy hiện thân,
Thương nhất Sa Bà lũ thế nhân,
Hễ còn ai đó chưa thành Phật,
Tầm thanh cứu khổ chửa nguôi lòng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>11. Kệ tán dương Quán Thế Âm Bồ Tát</B>
<p style="padding-left: 56px;">Quán Âm thệ nguyện diệu khôn lường,
Cảm ứng tùy cơ há trễ tràng!
Cứu khổ tầm thanh: từ hút sắt<SUP><B>(68)</B></SUP>,
Hiện thân thuyết pháp: nước in trăng,
Cứu vớt muôn sự trần sát cõi,
Sa Bà càng nặng tấm lòng Từ,
Ân sâu hết kiếp khen sao trọn,
Che chở quần manh khắp xót thương.
<BR>Quán Âm thệ nguyện thật mênh mông,
Độ mọi chúng sanh lìa cõi khổ,
Hưng khởi từ bi khắp sát trần,
Phổ Môn mỗi mỗi đều thâu nhiếp,
Nay ứng hiện khắp băm hai thân,
Khiến chúng rốt ráo chứng tâm Phật,
Cung kính thường xưng niệm Quán Âm,
Cát khánh thường hưởng, chướng dứt bặt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(68) Từ hút sắt: Nam châm hút sắt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>12. Kệ hồi hướng cho Quán Âm Thất</B>
<p style="padding-left: 56px;">Nguyện do công đức trì tụng này,
Liền cảm được Đại Sĩ gia bị,
Tiêu trừ ta - người nghiệp xưa nay,
Thiện căn ta - người cùng tăng trưởng,
Bao kiếp giữ mãi Đại Sĩ tâm,
Khắp cõi thường hành Đại Sĩ sự,
Gây tạo lợi ích tột vị lai,
Khiến mọi hữu tình chẳng họa hại.
<BR>Nguyện do công đức này,
Tiêu trừ nghiệp xưa - nay,
Tăng trưởng mọi phước huệ,
Viên thành thắng thiện căn,
Tất cả đao binh kiếp,
Cùng với nạn đói khát,
Đều bị diệt trừ sạch,
Thế giới mãi thanh bình,
Mưa gió thường thuận hòa,
Nhân dân đều an ninh,
Pháp giới các hàm thức,
Cùng chứng vô thượng đạo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>13. Kệ khánh chúc Quán Âm</B>
<p style="padding-left: 56px;">Đoan tọa Phổ Đà thường nhập Định,
Chúng sanh hễ cầu, trọn rủ lòng,
Muốn biết nghĩa cảm ứng huyền diệu,
Xin nhìn trăng rọi khắp muôn sông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>14. Sửa đổi cho đúng bài kệ tán dương đức Quán Âm thường được lưu truyền trong cõi đời</B>
<p style="padding-left: 56px;">Quán Âm Bồ Tát đức tối ưu,
Chánh Pháp Minh Phật chứng đã lâu,
Ân sâu lồng lộng trùm muôn cõi,
Kim Phật vòi vọi ngự trên đầu,
Nước bình cam lộ gột trần cấu,
Tay phóng hào quang diệt ưu sầu,
Hễ trần sát cảm, trần sát ứng,
Vầng trăng in bóng trọn muôn sông.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>15. Tán dương tượng Đại Thế Chí Bồ Tát</B>
<p style="padding-left: 56px;">Như con nhớ mẹ siêng niệm Phật,
Nhiếp trọn sáu căn tai lắng nghe,
Vâng theo lời Đại Sĩ khai thị,
Quả giác ắt khế hợp nhân tâm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>16. Kệ tán dương Đại Thế Chí Bồ Tát</B>
<p style="padding-left: 56px;">Thế Chí Bồ Tát đức vô biên,
Phù tá Di Đà thả từ thuyền,
Cứu khổ hệt như Quán Tự Tại,
Dẫn dắt về Tây tợ Phổ Hiền.
Tu nhân dùng trọn căn - trần - thức,
Chứng quả đều đạt viên thông thường,
Nhiếp người niệm Phật về Tịnh Độ,
Ân này muôn kiếp dễ đâu quên!
<BR>Đại Thế Chí lợi sanh sâu rộng,
Chuyên chú trọng pháp môn Niệm Phật.
Như con nhớ mẹ nhớ Thế Tôn,
Liền được gội ngay ân đức Phật,
Khế hợp quả giác lẫn nhân tâm,
Lập tức trở về với nguồn cội,
Nhiếp trọn sáu căn diệu khó lường,
Nguyện khắp chín giới thường vâng giữ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>17. Tán dương tượng Địa Tạng Bồ Tát</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cao cả thay Đại Sĩ! Thệ nguyện rộng sâu, nghĩ thương chúng sanh luân hồi kiếp dài lâu, vận lòng Bi đồng thể, khởi lòng Từ vô duyên, thường ở trong địa ngục để mong cứu kẻ bị treo ngược<SUP><B>(69)</B></SUP>. Chúng sanh độ hết mới chứng Bồ Đề, địa ngục chưa trống thề chẳng muốn thành Phật. Do nhân duyên ấy, chư Phật ngợi khen. Huống chi những kẻ đang trong lục đạo há nên chẳng bi luyến? Hư không có cùng tận, nhưng thệ nguyện vô cùng. Muốn báo ân sâu, riêng in tôn kinh. Nguyện kẻ thấy nghe đều cùng sanh tịnh tín, lần lượt lưu truyền, lợi ích vô tận.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(69) Cứu giúp kẻ bị treo ngược: Chữ "treo ngược" (đảo huyền - Ullambana) chỉ những người có tội sau khi đã chết bị đọa trong địa ngục, chịu những hình phạt khổ sở giống như bị treo ngược đầu xuống.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>18. Kệ tán dương Địa Tạng Bồ Tát</B>
<p style="padding-left: 56px;">Đại Sĩ thệ nguyện há thể lường,
Lòng bi trọn khắp cõi vô ương,
Chúng sanh độ hết mới xong thệ,
Địa ngục trống rồi nguyện mới thôi.
Giáo hóa nhiều người thành Phật đạo,
Tự thân vẫn hiện tướng Thanh Văn,
Chúng sanh và Phật tánh vốn một,
Cùng muốn ta người chứng Pháp Vương<SUP><B>(70)</B></SUP>.
<BR>Địa Tạng Bồ Tát đại từ bi,
Thệ nguyện vĩnh viễn chẳng hề hết,
Giáo hóa thành Phật số khôn xiết,
Vẫn hiện oai nghi bậc Thanh Văn,
Đến khi địa ngục độ hết sạch,
Mới chịu thị hiện chứng Bồ Đề,
Khẩn nguyện ban ân khắp u - hiển,
Cùng theo hải hội dự liên trì.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(70) Nguyên văn là Cứu Cánh Tức. Trong nguyên bản có ghi thêm một đoạn chú thích như sau: <I>"Ngài Trí Giả thuộc tông Thiên Thai đã dùng khái niệm Lục Tức để giải thích về Phật. Một là Lý Tức Phật, hai là Danh Tự Tức Phật, ba là Quán Hạnh Tức Phật, bốn là Tương Tự Tức Phật, năm là Phần Chứng Tức Phật, sáu là Cứu Cánh Tức Phật"</I>. Cứu Cánh Tức Phật chính là quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, do đức Phật còn được gọi là Pháp Vương nên chúng tôi chuyển dịch chữ Cứu Cánh Tức thành Pháp Vương cho thuận với âm vận của bài kệ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>19. Kệ tán dương Di Lặc Bồ Tát</B>
<p style="padding-left: 56px;">Đấng Bổ Xứ Từ Vô Năng Thắng<SUP><B>(71)</B></SUP>
Thường ngự Đâu Suất diễn viên âm,
Hiện thân trần sát nào ai biết?
Tâm cùng pháp giới tự dung thông,
Dốc cạn kho tàng trong đãy vải,
Tươi cười bình đẳng ban thế nhân,
Nguyện cùng Di Đà thương tiếp dẫn,
Khéo trong ba hội<SUP><B>(72)</B></SUP> chứng Nhất Chân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(71) Ngài Di Lặc Bồ Tát họ Di Lặc (Maitreya: lòng Từ), tên là A Dật Đa (Ajita - dịch nghĩa là Vô Năng Thắng: Không ai hơn được). Vì thế, đôi khi tên Ngài được dịch nghĩa là Từ Thị Vô Năng Thắng. Do đó, câu này có thể hiểu: Ngài là đấng từ bi không ai hơn được, hoặc chỉ có thể hiểu đơn giản đây là tên họ đầy đủ của Ngài.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(72) Khi ngài Di Lặc thành Phật, sẽ ba lần chuyển pháp luân (tam chuyển pháp luân), mỗi lần chuyển pháp luân đó được gọi là một hội thuyết pháp (chứ không có nghĩa Ngài chỉ thuyết pháp có ba lần), xin xem chi tiết trong kinh Quán Di Lặc Hạ Sanh. Tam Chuyển Pháp Luân là ba giai đoạn giáo hóa của đức Phật, gồm Căn Bản Pháp Luân, Chi Mạt Pháp Luân và Nhiếp Mạt Quy Bổn Pháp Luân. Căn Bản Pháp Luân tức là những giáo pháp dạy cho hàng đại Bồ Tát chứng ngộ cảnh giới siêu việt của Phật, tương ứng với thời Hoa Nghiêm. Chi Mạt Pháp Luân là những giáo pháp dành cho mọi căn tánh nhằm hướng dẫn họ bước vào Phật đạo, lần lượt dạy từng bậc, từng lớp theo mức độ kiến giải cao dần để dẫn nhập họ từ Tiểu Thừa bước vào Đại Thừa. Cuối cùng là Nhiếp Mạt Quy Bổn Pháp Luân tức là nói ra chân tướng sự thật Nhất Thừa, gộp ba thừa vào một thừa, khiến mọi căn cơ đều liễu ngộ căn bản pháp luân, tương ứng với thời Pháp Hoa Do Ngài thành Phật dưới cội Bồ Đề, những cành nhánh của cây Bồ Đề ấy giống như những con rồng đang phun ra những đóa hoa, nên cây Bồ Đề ấy được gọi là cây Long Hoa. Vì thế, kinh sách nhà Phật thường gọi ba hội thuyết pháp của Đương Lai Di Lặc Tôn Phật là <I>"Long Hoa Tam Hội"</I>. Do không hiểu rõ ý nghĩa chữ Long Hoa, Tam Chuyển Pháp Luân, cũng như sự thị hiện giáng sanh của chư Phật, rất nhiều thứ ngoại đạo mượn danh Phật giáo đã lập lờ đánh lận con đen rao giảng Thượng Đế sai Di Lặc Bồ Tát mở hội Long Hoa để thanh lọc chúng sanh, lập đại hội Vạn Linh. Theo họ, hội Long Hoa đã bắt đầu diễn ra từ năm 1992 (sic!), thế gian đang bước vào thời Hạ Nguơn (Nguyên), sắp tận thế, phải tu theo đạo của họ thì mới được quần tiên tiếp dẫn sanh về thiên giới!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>20. Kệ tán dương Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát</B>
<p style="padding-left: 56px;">Văn Thù Bồ Tát đức khôn lường,
Thành Phật Long Chủng Thượng Pháp Vương,
Do thương chúng sanh mê tự tánh,
Riêng giúp Thích Ca mở đạo mầu,
Thầy bảy vị Phật thể khôn thấu,
Mẹ chư Bồ Tát dụng khôn ngằn,
Thường trụ Tịch Quang ứng mọi cảm,
Muôn sông khắp hiện bóng muôn trăng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(Long Chủng Thượng Phật chính là danh hiệu khi ngài Văn Thù đã thành Phật trong kiếp quá khứ, hãy nên biết là vị Long Chủng Thượng Tôn Phật được nói trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội là vị khác).
<p style="padding-left: 56px;">Văn Thù phù tá Pháp Vương,
Trí huệ chỉ Phật suy lường được thôi,
Chấn hưng Viên Đốn đạo huyền,
Người nghe tình kiến bỗng nhiên mất liền,
Bồ Đề tràng hiểu cội nguồn,
Ân quang nguyện gội giống như Thiện Tài,
Rốt ráo chứng được chân thường.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>21. Kệ tán dương Phổ Hiền Bồ Tát</B>
<p style="padding-left: 56px;">Bồ Tát từ bi khó thuật trần,
Thánh - phàm đều được chứng viên nhân,
Nhất tâm chẳng trụ, siêu các vị,
Mười nguyện dẫn về, nối Năng Nhân<SUP><B>(73)</B></SUP>,
Tam thừa đều được khế quả giác,
Quần manh mau được thoát phiền trần,
Khăng khắng tuân lời răn thanh tịnh,
Chắc chắn đời này thấu bổn chân.
<BR>Đức Phổ Hiền hạnh nguyện sâu thẳm,
Khuyên người phát Bồ Đề đại tâm,
Dạy cho Tam Hiền, Thập Địa thánh,
Đều cùng được thấy Di Đà Tôn,
Mười đại nguyện vương nếu tuân giữ,
Lợi ích chỉ Phật kham tuyên bày,
Quả giác, nhân tâm cùng lặng bặt,
Pháp Thân thanh tịnh chứng lên ngay.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(73) Năng Nhân (Śākya), còn được phiên âm là Thích Ca, tức họ của đức Phật. Đức Phật Thích Ca là một vị hiền nhân (Muni, còn dịch là Tịch Mặc) xuất thân từ dòng họ Thích Ca nên có hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Năng Nhân có nghĩa là "người ban bố, thực hiện lòng nhân". Do vậy, hiểu theo nghĩa hẹp, chữ Năng Nhân chỉ cho Phật Thích Ca; nhưng hiểu theo nghĩa rộng thì đây là danh xưng chung để tán dương các đức Phật. Riêng đối với danh hiệu Thích Ca Mâu Ni Phật, tổ Ấn Quang còn giảng thêm: <I>"Năng Nhân nghĩa là rộng độ chúng sanh; Tịch Mặc là triệt chứng tự tánh"</I> (xin xem trong bài Duyên Khởi của Phật Học Đồ Thư Quán Phước Châu trong phần "Những bài viết khác" của Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>22. Kệ tán dương Trí Tích Bồ Tát</B>
<p style="padding-left: 56px;">Lâu xa hầu Đa Bảo,
Đến lễ Thích Ca Tôn<SUP><B>(74)</B></SUP>,
Dạo khắp sát trần Phật quốc độ,
Riêng thương chúng sanh cõi Sa Bà,
Tượng vẽ hiện oai thần.
Xiển dương Phật hóa đời Lương,
Muốn cho tể tướng triều Đường kính tin.
Hiện thân Sư trị bệnh người,
Đại điện được bóng tháp ngời rợp che,
Bí tạng của đức Như Lai,
Ai lên nơi đó tức thời hiểu ra,
Giếng đào trên đỉnh non xa,
Uống vào Bát Nhã đạo huyền đều thông.
Tranh ngài vẽ tướng đang ngồi,
Dợm mình như thể sắp dời chân đi.
Tay cầm gậy giữ thẳng,
Trực chỉ pháp Bất Nhị,
Tuy chẳng phải đích tổ<SUP><B>(75)</B></SUP>,
Truyền tâm chùa Linh Nham,
Quả thật là khách quý,
Trong biển khổ độ sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(74) Theo phẩm Hiện Bảo Tháp kinh Pháp Hoa, khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật đang giảng kinh Pháp Hoa, từ dưới đất vọt lên tháp báu chứa toàn thân xá-lợi của Phật Đa Bảo, tán thán và chứng minh cho pháp hội Pháp Hoa. Trí Tích Bồ Tát là một trong số những vị thượng thủ theo hầu Phật Đa Bảo đến dự hội Pháp Hoa, đàm luận Phật pháp với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tôn giả Xá Lợi Phất và Long nữ (con gái của vua rồng Ta Kiệt La).
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(75) Chữ "đích tổ" ở đây được dùng với ý nghĩa là vị tổ khai sáng một ngôi chùa. Trí Tích Bồ Tát chỉ là một vị Tăng nhập chúng tại Linh Nham Sơn Tự thời Lương, chứ không phải là tổ sư khai sáng ngôi chùa, nên không phải là đích tổ của Linh Nham.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>23. Tán dương Trí Tích Bồ Tát</B>
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xét nghĩ Bồ Tát, bi trí rộng sâu, ở phương dưới thường hầu Đa Bảo Phật, thị hiện dấu tích khắp trần sát, hiện thân nơi tượng vẽ, Linh Nham đạo trường tồn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>24. Tán dương Tịnh Độ Tổ Đường</B>
(năm Dân Quốc 27 - 1938)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Một tông Tịnh Độ khởi nguồn từ đức Phổ Hiền, Viễn công nối tiếp nguồn pháp ở Chấn Đán, trong - ngoài rộng lưu truyền, khiến cho khắp mọi phàm - thánh chứng Niết Bàn ngay trong đời này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>25. Tán dương tượng Viễn Công đại sư</B>
(năm Dân Quốc 24 - 1935)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xét nghĩ Viễn Công, thừa nguyện tái lai, sáng lập Liên Tông, thỏa Phật bổn hoài, khiến các phàm - thánh nhớ niệm Phật danh, cậy Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Bậc đã đoạn Hoặc liền chứng Vô Sanh. Bậc chứng Vô Sanh mau tròn Phật quả. Dùng Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm, cảm ứng đạo giao lợi ích thật sâu. Chưa thấy kinh Niết Bàn đã tuyên giảng [Phật tánh] thường trụ, chưa đọc phẩm Hạnh Nguyện đã khuyên khắp mọi người về Tây, lập ra được pháp ngầm hợp ý kinh. Bậc hộ pháp Bồ Tát thể hiện sự đại giác của chính mình. La Thập dâng kinh càng thêm tán thán sâu đậm. Tăng sĩ Tây Vực sanh lòng ngưỡng mộ, tâm hương liền dâng. Hơn ngàn năm qua, chẳng được nghe viên âm. May còn di giáo để hòng noi theo. Kính nguyện thầy ta, sẽ lại thị hiện giáng sanh, dẫn khắp quần luân cùng lên cõi Ngũ Thanh<SUP><B>(76)</B></SUP>. In di cảo của Ngài để mô tả chân dung đạo pháp của Ngài, hòng kẻ thông sáng mai sau sẽ bắt chước theo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(76) Ngũ Thanh: Tên gọi khác của Cực Lạc, do cõi ấy không có năm thứ nhơ uế (Ngũ Trược) nên gọi là Ngũ Thanh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>26. Tán tụng mười hai vị Tổ của Liên Tông</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) <B>Sơ Tổ Đông Lâm Lô Sơn Huệ Viễn đại sư đời Tấn</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dùng pháp đặc biệt vĩnh viễn làm khuôn phép cho đời, ý chỉ ngầm hợp với phẩm [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện, lưu thông khắp trong ngoài nước, khiến cho kẻ tầm thường lẫn bậc cao nhã giải quyết đại sự xong xuôi ngay trong đời này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mở nguồn Liên Tông khiến Trung Hoa được phước, thỏa thích bổn hoài của Phật, lập phương tiện, viên âm vừa được xiển dương, sĩ phu đều về với Lô Sơn, đại pháp sắp hoằng khai, [sơn thần hiển thần thông chuyển vật liệu xây dựng] Thần Vận Điện, hết thảy pháp môn lưu xuất từ đây, hết thảy hạnh môn được thực hiện từ đây, khiến cho các tông đều quy hướng, muôn sông đổ về biển, nương theo hạnh nguyện.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) <B>Nhị Tổ Trường An Quang Minh Thiện Đạo đại sư đời Đường</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư sống vào đầu đời Đường, các tông đều hưng thịnh, đề xướng Tịnh Độ thỏa lòng mọi người, Phật lực ai dám sánh bằng? Nếu chịu gieo lòng thành, Tây Phương quyết định vãng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đời truyền tụng Sư là Phật A Di Đà thị hiện, đề xướng giáo nghĩa niệm Phật trọn vẹn, phong phú, thiết tha răn người học phải khiêm nhường, cũng như phải cực lực ưa - chán<SUP><B>(77)</B></SUP>; về mặt Giải phải thông thạo hết thảy pháp, nhưng về Hạnh chỉ chọn lấy một pháp vừa khế cơ khế lý. Niệm Phật tỏa hào quang khích lệ đại chúng, hãy nên xem lời Ngài như do chính đức Phật nói.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) <B>Tam Tổ Nam Nhạc Ban Châu Thừa Viễn đại sư đời Đường</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thân gầy mặt bẩn, hầu bên Di Đà. Thần thức ngài Pháp Chiếu du hành [đến cõi Cực Lạc] vãng cảnh<SUP><B>(78)</B></SUP>, Phật chỉ ngôi đình ghi danh ngài [Thừa Viễn], môn đình từ đấy được kế tục, tâm pháp vĩnh viễn truyền dương.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ban Châu<SUP><B>(79)</B></SUP> khổ hạnh đời khó thể chịu đựng được, nhịn cơm dùng bùn đất làm món ăn, thường đem những điều trọng yếu trong kinh và danh hiệu Phật ghi khắp trên các lối ngõ, đá núi. Niệm Phật, Phật dạy pháp đặc biệt, kẻ đến học dùng pháp ấy để an cái tâm, thiên tử nghe tên hướng về Nam vọng bái, vì thế đạo phong lưu truyền bốn biển.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) <B>Tứ Tổ Ngũ Đài Trúc Lâm Pháp Chiếu đại sư đời Đường</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xét nghĩ Tứ Tổ đức cao đẹp đáng khâm phục, được Phật, thầy chỉ dạy cõi Cực Lạc, đức Văn Thù dạy túc nhân, khiến cho khắp mọi người thấu đạt bổn chân ngay trong đời này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tại Hành Châu<SUP><B>(80)</B></SUP> thấy được thánh cảnh trong bát, mỗi điều đều đích thân tạo dựng nơi non Ngũ Đài. Nơi Tịnh Độ được thấy sư Thừa Viễn. Tại Trúc Lâm<SUP><B>(81)</B></SUP> cung kính nhận lãnh lời ngài Văn Thù dạy dỗ. Tiếng niệm Phật vang khắp ngã đường Tinh Châu. [Đường] Đại Tông sai sứ dâng chiếu thỉnh: "Niệm Phật rốt ráo mầu nhiệm như thế nào?" [Sư đáp]: <I>"Khiến được mau thành đạo Bồ Đề</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) <B>Ngũ Tổ Tân Định Ô Long Thiếu Khang đại sư đời Đường</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tránh bàn đến thế đế, nên đã bảy tuổi vẫn chưa nói. Thốt lời bèn kinh động trời người. Rộng kết duyên Tịnh Độ, cho tiền trẻ nhỏ, ai nấy đều gieo chín phẩm sen.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lên bảy tuổi trọn chẳng thốt một lời, thốt lời liền xưng danh hiệu Thế Tôn. Vừa đọc bài Tây Phương Văn của ngài Thiện Đạo liền biết Tịnh Độ là nơi đáng nương tựa, đem tiền dụ trẻ niệm Di Đà, chưa lâu sau tiếng niệm Phật vang khắp nẻo đường. Niệm Phật, tượng Phật từ miệng bay ra, có ai thấy nghe chẳng tuân theo lời dạy?
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) <B>Lục Tổ Hàng Châu Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư đời Tống</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Một bộ Pháp Hoa, một trăm lẻ tám Phật sự, bốn thứ liệu giản lợi lạc kẻ ngu lẫn người thông sáng, muôn điều thiện xét suy, mong siêu bạt trọn khắp, vãng sanh cõi Cực Lạc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thấy các chúng sanh đều là Phật, chỉ nghĩ cứu sanh mạng quên luật nước. Bị giải ra chợ [hành hình] tâm vui vẻ<SUP><B>(82)</B></SUP>, sắc mặt chẳng đổi, được xá tội liền thỏa nguyện xuất gia. Công khóa mỗi ngày là "một trăm lẻ tám Phật sự, tụng một bộ Pháp Hoa, niệm Phật mười vạn tiếng". Nếu chẳng phải là bậc Đại Quyền thị hiện trong thế gian, ai có thể dựng được pháp tràng như thế?
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(7) <B>Thất Tổ Hàng Châu Chiêu Khánh Tỉnh Thường đại sư đời Tống</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hâm mộ đạo Lô Sơn, nối gót liên xã, trích máu biên chép phẩm Tịnh Hạnh, tể tướng [Vương Đán] theo về dưới tòa. Một trăm hai mươi vị chí hướng lớn lao, cao nhã, nguyện phỏng theo các ngài Long - Mã (Long Thọ, Mã Minh) [vãng sanh].
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hâm mộ đạo phong Lô Sơn lập tịnh xã, do vì đời sau ít người thực hành, liền tùy theo sự việc mà phát thệ một trăm bốn mươi mốt nguyện để ai nấy đều được an trụ nơi Bồ Đề. Tể tướng Vương Đán đã quy y, công khanh một trăm hai mươi người được un đúc. Tuy trong Diêm Phù phò tá cơ đồ nhà vua, vẫn chẳng bằng vãng sanh cõi Cực Lạc hưởng phước nhà Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(8) <B>Bát Tổ Hàng Châu Vân Thê Châu Hoằng đại sư đời Minh</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">Vừa trụ tại Vân Thê đã chấm dứt được nạn hổ. Lúc hạn hán, [dân chúng] cầu thỉnh, [Sư] niệm Phật mưa liền tuôn xuống thỏa lòng dân mong mỏi. Thôn dân đều cảm thán, sắm gỗ lo liệu, đạo tràng được trùng hưng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">Thuở nhỏ nghe niệm Phật ý đã quyết, về sau răn môn đồ đừng làm trò quái gở<SUP><B>(83)</B></SUP>, hạnh là khuôn mẫu cho thế gian, lời lẽ là pháp tắc cho cõi đời. Chú trọng Tịnh Độ và quy giới. Chống đỡ sóng cuồng thật khế lý, khế cơ. Xiển minh Phật tâm, đuổi ong, rết. Khiến cho khắp mọi phàm phu đầy dẫy triền phược cậy vào Phật từ lực, lên cõi sen.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(9) <B>Cửu Tổ Bắc Thiên Mục Linh Phong Trí Húc đại sư đời Thanh</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngay từ nhỏ đã tin Phật, theo mẹ lễ tụng, đến lúc đi học theo đạo Nho liền phóng túng, đọc bộ Trúc Song Tùy Bút<SUP><B>(84)</B></SUP> bèn tự trách, tận lực hoằng dương Đại Thừa, mong cho mọi người cùng thoát khỏi hầm bẫy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tông thừa giáo nghĩa thảy dung thông. Sở ngộ giống hệt như Phật chẳng khác biệt. Hoặc nghiệp chưa đoạn thì [giống như] bát đĩa [chưa nung], gặp mưa liền rã, uổng công lao đã [tu tập] từ trước. Do vậy, tận lực tu hạnh Niệm Phật. Quyết muốn trong đời này thoát khỏi bẫy lồng. Rát miệng thiết tha khuyên người học đạo, có sanh về được Tây Phương thì mới có thể kế thừa đấng Đại Hùng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(10) <B>Thập Tổ Ngu Sơn Phổ Nhân Hành Sách đại sư đời Thanh</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">Xiển dương Tịnh Độ, khẩn thiết ít ai bằng, dùng lòng tín nguyện sâu để dốc cạn lòng thành tu tập. Tâm và Phật đôi bên khế hợp, muôn niệm đều dứt, quyết định thoát gò khổ.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">Hám Sơn nguyện xưa chưa làm trọn, nên lại thị hiện giáng sanh làm Triệt Lưu<SUP><B>(85)</B></SUP>, quở trách <I>"kẻ tu phước cõi trời đúng là bọn Xiển Đề, Chiên Đà La"</I><SUP><B>(86)</B></SUP>. Tâm tánh của Phật và ta vốn chẳng khác. Phật là đã thành, ta chưa tu. Muốn được tâm và Phật đều không sai khác, hãy nên cầu nơi "nhớ Phật, niệm Phật!"
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(11) <B>Thập Nhất Tổ Hàng Châu Phạm Thiên Thật Hiền đại sư đời Thanh</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">Bốn mươi tám nguyện, kính phỏng theo Di Đà, một trăm lẻ tám bài thơ hay hơn Sở Ca<SUP><B>(87)</B></SUP>, người nghe chán Sa Bà, khiến kẻ chần chừ phấn khởi chứng Ba La Mật Đa.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">Thâm nhập kinh tạng rất khó khăn mà Ngài đích thân chứng được, triệt ngộ tâm rồi tận lực hoằng dương Tịnh tông. Muốn cho người đời biết nguyên do, viết văn làm thơ nêu bày Phật lệnh: <I>"Phát tâm Bồ Đề để dẫn đường, chân tín nguyện hạnh làm đường lối thực hiện. Nếu đầy đủ được những pháp thù thắng ấy, sẽ siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(12) <B>Thập Nhị Tổ Hồng Loa Tư Phước Tế Tỉnh đại sư đời Thanh</B> (tức Triệt Ngộ đại sư)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thông trọn kinh sử, mong làm người hướng dẫn cho cõi đời, vừa bị bệnh liền biết [thông thạo kinh sử] chẳng thể nương cậy được, nghiên cứu chỗ uyên áo của các tông, thấy đều khó chứng được, bèn chuyên chú nơi giáo pháp Tịnh Độ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp ngữ dạy đại chúng lợi ích rất nhiều. Kệ niệm Phật thảy bao la. Toàn chân biến thành vọng chỉ do tâm này. Toàn vọng biến thành chân cũng chẳng có gì khác. Bất biến tùy duyên nên tùy tịnh, tùy duyên bất biến chớ thuận theo sai ngoa. Nếu ai nấy y theo nghĩa này để tu trì thì quang thọ sẽ giống như đức Di Đà.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(76) Ngũ Thanh: Tên gọi khác của Cực Lạc, do cõi ấy không có năm thứ nhơ uế (Ngũ Trược) nên gọi là Ngũ Thanh.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(77) Ưa mến Cực Lạc, nhàm chán cõi Sa Bà.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(78) Theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, ngài Pháp Chiếu nhập Định, thần thức đến cõi Cực Lạc, thấy bên cạnh Phật Di Đà có một vị Tăng gầy gò đứng hầu, mặt nám đen, mặc áo rách, bèn hỏi thì được biết đó là ngài Thừa Viễn ở Nam Nhạc. Do Tổ Thừa Viễn không muốn mất thời gian hóa duyên để chuyên dành trọn thời gian tu trì, nên ẩn cư trong rừng sâu, thường móc bùn đất ăn thay cơm đỡ đói hòng chuyên tu tập. Do vậy, Ngài gầy nhom, mặt nám đen, quần áo rách rưới.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(79) Ban Châu gọi đủ là Ban Châu Tam Muội (Pratyutpanna-Samādhi), đôi khi còn đọc là Bát Châu Tam Muội là một trong các phép tu Định. Phép này còn được dịch là Thường Hành Tam Muội, Ban Châu Định, Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội hoặc Phật Lập Tam Muội. Căn cứ theo những điều được dạy trong kinh Ban Châu Tam Muội (Pratyutpanna Buddha Sammukhāvasthita Samādhi Sūtra) do ngài Chi Lâu Ca Sấm dịch vào năm Quang Hòa thứ hai (179) đời Hán Linh Đế thì để tu pháp này, trong vòng 49 ngày, ngoại trừ lúc ăn uống ra, hành giả đều phải luôn kinh hành, mỗi bước đều niệm A Di Đà Phật, ý quán tưởng Phật, tam nghiệp tương ứng, cho nên cách tu này được gọi chung là “tam nghiệp vô gián”. Theo sử truyện, tại Lô Sơn, tổ Huệ Viễn đã đề xướng cách tu này đầu tiên. Các vị Thiện Đạo, Trí Khải, Huệ Nhật, Thừa Viễn, Pháp Chiếu đều tiếp tục hoằng dương cách này, vì nếu người dụng công khẩn thiết, chí thành, trong Định sẽ thấy được Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(80) Hành Châu nay là thành phố Hành Dương thuộc tỉnh Hồ Nam, khác với Hàng Châu thuộc tỉnh Giang Tô.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(81) Thoạt đầu Tổ đã hâm mộ di phong của tổ Huệ Viễn, tu Niệm Phật tam-muội, trong Định thấy chính mình qua cõi Cực Lạc gặp được tổ Thừa Viễn thân gầy áo rách đứng hầu bên Phật Di Đà, khi xuất định bèn sang Nam Nhạc y chỉ với ngài Thừa Viễn. Khi Tổ ngụ tại chùa Vân Phong ở Hành Châu đã thấy thánh cảnh Ngũ Đài hiện trong bát cháo. Khi được biết đó là thánh cảnh Ngũ Đài, tháng Tư năm sau, Tổ lên Ngũ Đài triều bái, đến chùa Phật Quang, chợt thấy có hai đồng tử đến đón, dẫn vào chùa Trúc Lâm, được hai vị Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền dạy cho pháp yếu Niệm Phật cũng như dạy phương pháp Ngũ Hội Niệm Phật (tức niệm Phật gồm năm đoạn với tiết tấu khác nhau), rồi hai vị Bồ Tát bảo Tổ lui ra. Trong lúc theo đồng tử trở ra, Tổ ngầm bẻ cây đánh dấu để sau này có dịp trở lại, nhưng lúc ngoảnh lại, đã thấy tất cả đều biến thành đồng hoang núi vắng, hai đồng tử cũng mất dạng. Bi thương khôn xiết, Tổ lập chùa Trúc Lâm Đại Thánh tại đó để kỷ niệm pháp duyên hy hữu ấy. Nhạc phổ Ngũ Hội Niệm Phật hiện đã thất truyền, khúc Ngũ Hội Niệm Phật đang lưu hành hiện thời do người đời sau soạn ra, chứ không phải là nguyên khúc do Bồ Tát truyền dạy cho tổ Pháp Chiếu. Người đương thời thường cho rằng Tổ là hóa thân của ngài Thiện Đạo (theo Ngũ Đài Sơn Linh Tích, không rõ tác giả, Hòa Tục Xuất Bản Xã, Đài Loan, ấn hành năm 1995).
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(82) Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ vừa là tổ thứ sáu của Tịnh Độ, vừa là tổ thứ ba của Pháp Nhãn Tông bên Thiền. Theo Tống Cao Tăng Truyện và Cảnh Đức Lục, Tổ họ Vương, tự là Xung Huyền, hiệu Bão Nhất Tử, nguyên quán tại Đan Dương, sau dời qua Dư Hàng. Từ bé, Tổ từ năm sáu tuổi đã ngưỡng mộ Phật giáo, không ăn mặn. Đến tuổi trưởng thành, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, thường tụng kinh Pháp Hoa, làm chức quan coi kho cho Tiền Văn Mục Vương xứ Ngô Việt, rồi đến năm 28 tuổi, Ngài được thăng lên chức Hoa Đình Trấn Sứ, trông kho quân nhu. Ngài thường lấy tiền trong kho để mua cá, tôm đem phóng sanh đến nỗi tiền trong kho bị thiếu hụt. Sự việc vỡ lỡ, Tiền Văn Mục Vương hạ lệnh giải Ngài ra chợ chém. Tiền Văn Mục Vương sai người theo dõi xem Ngài phản ứng ra sao, thấy Ngài trong khi ngửa cổ đợi đao phủ xuống tay, nét mặt thật vui sướng, hân hoan. Giám trảm quan hỏi duyên cớ, Tổ đáp: <I>"Ta dùng tiền trong kho để phóng sanh, chứ chẳng dùng riêng cho mình một đồng nào nên tâm không thẹn thùng"</I>. Do vậy, Tiền Văn Mục Vương bèn hạ lệnh tha, Tổ bèn đi xuất gia với Thúy Nham thiền sư tại chùa Long Sách.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(83) Một môn nhân của tổ Liên Trì ẩn cư trên núi thường nhập định dự đoán mưa nắng, nói chuyện hậu vận, tai họa cho người khác. Tổ gởi thư quở trách, khuyên hãy chú tâm tu luyện hầu được giải thoát hơn là phô phang huyền thuật.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(84) Trúc Song Tùy Bút là một tác phẩm của tổ Vân Thê Liên Trì gồm ba quyển được biên soạn vào năm Vạn Lịch 43 (1615), gồm hơn bốn trăm bài viết ngắn trình bày những nhận định của Tổ Liên Trì về Thiên Thai, Thiền, Tịnh v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(85) Triệt Lưu là pháp tự của tổ Hành Sách.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(86) Chiên Đà La (Candāla), còn phiên âm là Chiên Trà La, dịch nghĩa là Nghiêm Xí (hừng hực dữ dội), Bạo Lệ (tàn nhẫn dữ dội), Chấp Ác, Hiểm Ác, Chủ Sát Nhân, Trị Cẩu Nhân v.v... Chiên Đà La vốn là một danh xưng chỉ giai cấp hạ tiện nhất trong hệ thống giai cấp của Ấn Độ thời cổ. Bọn họ chuyên làm những nghề coi ngục, buôn bán, đồ tể, đánh cá, chôn người chết, quét dọn nhà vệ sinh v.v... Do nghề nghiệp bị coi là nhơ uế và bị xã hội ruồng rẫy, khinh rẻ, đa số rất hung bạo, tham lam và tìm mọi cách bòn rút khi những người thuộc giai cấp trên có việc phải nhờ đến họ. Theo luật Mã Nỗ (Manu) của đạo Bà La Môn, những người bị xếp vào hạng Chiên Đà La là con của đàn ông thuộc giai cấp Thủ Đà La (Sudra) lén ăn nằm với nữ nhân thuộc dòng Bà La Môn. Bọn họ bị cấm bước vào đền thờ Ấn Độ giáo vì sợ hình bóng của họ sẽ làm ô uế tượng thần! Kinh Phật mượn từ ngữ này để chỉ những kẻ tánh tình bạo ác, hung hăng, không biết nhân từ, lễ nghĩa, chứ không hàm ý miệt thị giai cấp như trong kinh điển Bà La Môn.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(87) Sở Ca là những khúc hát bằng tiếng nước Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc. Khi quân Hán của Lưu Bang vây hãm quân Sở của Hạng Vũ tại Cai Hạ (nay thuộc huyện Linh Bích, tỉnh An Huy), Hạng Vũ vẫn còn rất đông quân, Trương Lương bèn bày kế cho người thổi sáo và hát những điệu dân ca nước Sở, quân Hạng Vũ động lòng nhớ nhà, đào ngũ gần hết. Do đó, từ ngữ "Sở Ca" thường được dùng để chỉ những câu hát mang tính chất lay động lòng người, khiến người khác thay đổi chí hướng. 108 bài thơ được nhắc đến ở đây là 108 bài thơ khuyên tu, tán dương Tịnh Độ do tổ Thật Hiền đã viết.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>27. Tán dương tượng Triệt Ngộ thiền sư</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bậc tuấn kiệt làng Nho, đấng khôi hùng cửa Phật, sư tử hùng mạnh nơi hang Thiền, rồng thần nơi biển Giáo, nghiên cứu Từ - Hiền<SUP><B>(88)</B></SUP> nhưng hoằng dương giáo pháp Thiên Thai, trụ trì chùa Thiền thổi gió sen, chỉ mong khế cơ cùng khế lý, chẳng tính môn đình là dị hay đồng, nêu tỏ ý nghĩa "làm Phật, là Phật", phá sạch sự tối tăm chấp lý phế sự, đang lúc tà thuyết tung hoành trong đời ác này, kẻ nhỏ nhoi, người có địa vị lớn lao không đâu chẳng noi theo!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(88) Từ là Từ Ân tông (Duy Thức tông), Hiền là Hiền Thủ tông (Hoa Nghiêm tông).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>28. Tán dương tượng Đạt Ma Tổ Sư</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đặc biệt từ trời Tây đến đây truyền Phật tâm, Đông Độ vốn nhiều kẻ căn cơ Đại Thừa. Sau đấy một chiếc dép trở về Tây<SUP><B>(89)</B></SUP>, con cháu khắp cõi rền tiếng huyền diệu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(89) Theo truyền thuyết, tổ Bồ Đề Đạt Ma thị tịch vào ngày mồng Năm tháng Mười nhằm năm Đại Thống thứ hai (536) đời Ngụy Văn Đế. Đến ngày 18 tháng Chạp năm ấy, môn nhân đưa pháp thể tới chôn tại núi Hùng Nhĩ (tỉnh Hà Nam), dựng tháp thờ tại chùa Định Lâm. Ba năm sau, Tống Vân được vua Ngụy sai sang sứ Tây Vực, khi trở về đến Thông Lãnh (tức cao nguyên Pamir hiện thời), gặp Tổ quảy một chiếc dép phiêu diêu đi một mình, liền hỏi: "Sư đi đâu vậy?" Tổ đáp: "Ta trở về Tây Thiên!" Tống Vân trở về, thuật lại chuyện ấy, môn nhân đào mộ, mở quan tài ra chỉ thấy trong ấy có một chiếc dép. Triều đình bèn sai đem chiếc dép ấy về thờ tại chùa Thiếu Lâm. Về sau, đến năm Khai Nguyên thứ 15 (727) đời Đường, có kẻ trộm lấy đưa về thờ tại chùa Hoa Nghiêm trên Ngũ Đài, đến nay không biết đã thất lạc về đâu!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>29. Tán dương tượng Tế Công thiền sư</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhằm khơi gợi lòng chân tín nguyện cho chúng sanh, nên hiển lộ đủ mọi đại thần thông, chẳng giả khùng điên để che mắt mọi người, làm sao trụ mãi trong cõi đời để đánh động bọn điếc - đui?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>30. Ca tụng Nam Bình Tông Thừa<SUP>(90)</SUP></B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Túy Bồ Đề, Bồ Đề túy. Kẻ vô trí chớ theo đuổi. Nếu nhận lầm phương hướng, muôn kiếp thường đọa lạc Nê Lê<SUP><B>(91)</B></SUP>. Nguyện người học khéo phân biệt: Thuận tâm nghịch tích<SUP><B>(92)</B></SUP> là phương cách tối thượng, [nhưng] nếu không có mắt chọn lựa pháp chân chánh, chắc chắn sẽ bị tổn hại không lợi ích.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(90) Núi Nam Bình là một trong mười thắng cảnh vùng Tây Hồ (nằm ở phía Tây Hàng Châu, tỉnh Giang Tây), cảnh núi đẹp đến nỗi họa sĩ Trương Trạch Đoan đời Tống đã vẽ một bức họa rất nổi tiếng với tựa đề Nam Bình Vãn Chung Đồ (Bức họa tiếng chuông chiều tại Nam Bình). Trên núi có rất nhiều ngôi chùa nổi tiếng, nổi tiếng nhất là chùa Hưng Giáo (đại bản doanh của phái Sơn Gia tông Thiên Thai) và Tịnh Từ. Trong bài tụng này, tổ Ấn Quang ca ngợi tông phong của chùa Tịnh Từ. Ngô Việt Vương Tiền Hoằng Thục xây chùa Tịnh Từ tại núi Nam Bình vào năm Hiển Đức nguyên niên (954) đời Hậu Châu, thoạt đầu chùa mang tên Huệ Nhật Vĩnh Minh Tự (đến đời Tống Thái Tông đổi thành chùa Thiên Ninh, rồi thành Tịnh Từ), thỉnh ngài Đạo Tế (tức Tế Điên hòa thượng) đến trụ trì, Ngài trở thành tổ khai sơn của chùa. Sư tính đúc tượng mười tám vị La Hán, chưa tâu lên, vua đã mộng thấy mười tám người khổng lồ đến tìm, bèn giúp cho Sư hoàn thành chí nguyện. Khi ngài Đạo Tế thị tịch năm Kiến Long thứ hai (961) đời Tống, vua bèn thỉnh ngài Vĩnh Minh Diên Thọ từ chùa Linh Ẩn về Trụ Trì, chấn hưng tông phong mạnh mẽ, độ hơn 1.700 đệ tử xuất gia. Tổ hằng ngày làm 108 Phật sự, niệm Phật mười vạn tiếng, tụng hết một bộ Pháp Hoa khiến khắp xa gần đều ngưỡng mộ tông phong chùa Tịnh Từ. Ngài Vĩnh Minh cũng đã soạn bộ Tông Kính Lục (100 quyển) lừng danh tại chùa Tịnh Từ. Túy Bồ Đề là xước hiệu của ngài Tế Điên vì Ngài thường làm ra vẻ điên cuồng, hay uống rượu say sưa, nhưng mỗi lời Ngài nói ra không câu nào chẳng hợp Thiền cơ, khiến người hữu duyên nghe xong tỉnh ngộ sâu xa.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(91) Nê Lê (Naraka), còn phiên âm là Na Lạc, Na Lạc Ca, Na La Kha, hay Nại Lạc, dịch nghĩa Khổ Khí, Khổ Cụ, chính là địa ngục. Chữ Nê Lê bao gồm những ý nghĩa "tối tăm, không đúng, chẳng thể vui sướng". Theo Câu Xá Quang Ký quyển tám, chữ Na Lạc nghĩa là "người", Ca nghĩa là "ác". Như vậy Na Lạc Ca là người tạo nhiều tội ác, bị đọa vào trong ấy vì thế gọi là Na Lạc Ca. Có thuyết giải thích Ca có nghĩa là "vui sướng", Nại là "không", Lạc là "cùng với, tương ứng". Như vậy, Nại Lạc Ca nghĩa là "chẳng tương ứng với vui sướng", hoặc "chẳng thể cứu vớt được"!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(92) Do ngài Đạo Tế thường thị hiện những hạnh trái nghịch phạm hạnh xuất gia như uống rượu, ăn thịt chó, nhằm ẩn giấu thần thông để hóa độ người hữu duyên, nên có nhiều kẻ tưởng lầm tu Thiền đã giải ngộ rồi thì không cần giữ giới luật nữa, cứ phóng túng làm càn, nên tổ Ấn Quang khuyên: "Nếu nhận lầm phương hướng, muôn kiếp thường đọa lạc Nê Lê. Nguyện người học khéo phân biệt". Sở dĩ gọi là "thuận tâm nghịch tích" vì ngài Đạo Tế là bậc kim thân La Hán, tâm đã giác ngộ thanh tịnh ("thuận tâm") nhưng thị hiện những hành vi trái với oai nghi của người xuất gia nhằm ẩn giấu thân phận, nên gọi là "nghịch tích" (thể hiện hành vi trái nghịch).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>31. Tán dương bài ký "hình Phật hiển hiện trên răng lợn" của ông Lưu Công Lỗ ở Quý Trì</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hết thảy chúng sanh, đều có Phật tánh. Do mê trái nên đánh mất lẽ chánh, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, ăn thịt kẻ khác để bồi bổ cái thân mình. Sát nghiệp đã kết, trải nhiều kiếp giết lẫn nhau. Đức Như Lai thương xót, bèn làm thuyền từ, khơi mở giáo huấn lớn lao về lòng Từ. Người ta vẫn không tin nên Phật bèn đặc biệt hiện hình dáng để mong chúng sanh tùy thuận [lời Phật dạy]. Vỏ nghêu sò, hông bò, móng dê, răng lợn, yếm rùa, đều có hình Phật ngự [trong đó]. Có người họ Chức vào đời Tống giết lợn quăng đầu, chó giữ [đầu lợn] bốn ngày chẳng dám táp. Đuổi chó chẻ xương, trên răng hàm lợn hiện hình Phật. Mắt biếc, búi tóc xoắn ốc, nghiễm nhiên là bậc Đại Giác. Trước khi chưa giết, [mọi người] đều nói là "súc sanh", đã giết xong mới biết là Phật. Do vậy, biết sát sanh chẳng khác gì giết Phật, dẫu chẳng phải do Phật hiện thì cũng là vị lai Phật. Giết để ăn thịt, tội quá non biển! Hãy gấp đau đáu ngăn dè, hòng được giải thoát!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Anh em họ Triều làm văn tán dương, nghĩa lý uyên thâm, văn từ sáng đẹp, ông Thiên Trì biên chép, các vị đề tựa, viết lời bạt, để làm bài cảnh sách vĩnh viễn nhằm khơi gợi hậu giác. Đã hiểu nghĩa này, ai dám giết chóc? Tranh thành, giành đất sẽ chấm dứt ngay. Ông Lưu ở Quý Trì, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, bảo tồn sách của ông Từ, lời đề tựa, lời bạt đều phù hợp, sai con là Công Lỗ đem đưa cho xem, liền kính viết mấy lời tỏ bày chí hướng của tôi. Nguyện kẻ thấy nghe sẽ ăn chay kiêng giết, chắc chắn trong đời này sẽ về cõi Cực Lạc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>32. Tán dương tượng Niệm Thành đại sư</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nghĩ tới đức lớn của Ngài, ước mong khôi phục Linh Nham, sau cơn tai kiếp một mình ở trong lòng tháp, gặp được ông Bành lên chơi núi, hứa tra xét ruộng đất của nhà chùa, dần dần trở thành chốn danh lam.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>33. Bài ca tụng nhân dịp Cô Nhi Viện tại Thượng Hải khánh thành nhà mới</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Giúp đỡ cô nhi, tài cao chót vót. Nếu chẳng cứu giúp, sống bằng cách nào? Đã được nuôi dạy, chánh khí ắt thành. Hoặc là công, thương, học hành, cày cấy, là hiền, là thiện, tốt lành, thuần thục, chăm giữ đạo nghĩa, tuy hèn vẫn vinh. Huống chi chẳng ít anh tuấn lỗi lạc. Do vậy biết rằng: Nuôi dạy cô nhi, lợi ích sâu rộng, lời ông Tử Dư thật đã nghĩ chín, chỉ nguyện người nhân, cùng sẵn từ bi, nhà viện tuy thành, nhu cầu vẫn thiếu, ai nấy ra tay, giúp cho hoàn thành. Thương con của người, con ta ắt nhờ. Hiền thiện tiếp nối, nêu gương cho đời, lợi người, tự lợi, nhân quả như thế, chớ nên chẳng tin. Lời Phật chẳng dối!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>34. Ca tụng pháp môn Tịnh Độ thù thắng</B>
(chỉ do pháp môn này thù thắng mà bà Trí Nghi được vãng sanh)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp môn Tịnh Độ dạy dỗ không phân biệt, phàm - thánh, trí - ngu đều được bình đẳng nhiếp thọ. Hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực, chỉ có mỗi pháp này hoàn toàn cậy vào Phật lực, Phật lực khác biệt tự lực một trời một vực. Tín nguyện ức niệm quyết định sanh về nước Phật. Bao nhiêu người tín niệm, bấy nhiêu người vãng sanh. Phật có lời thệ nguyện, nay đã tỏ lộ dấu hình: Nữ sĩ Trí Nghi tâm niệm Phật tha thiết, niệm chưa được mấy năm đã được Phật đón tiếp. Nguyện người thấy nghe ai nấy chăm chú tu trì, để dự vào hội Liên Trì, vui sướng nào hơn!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>35. Ca tụng chuyện sanh Tây của cư sĩ Từ Úy Như</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cao cả thay ông Từ! Xưa đã trọn đủ huệ căn, hiếu hữu, nhân từ, tận hết bổn phận, trọn vẹn luân thường, nghiêm cẩn tuân theo lời tổ tiên giáo huấn, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, tu hạnh niệm Phật, mong sanh cõi Tịnh. Tuổi trung niên tận lực đảm nhiệm việc khắc in kinh điển để nối tiếp huệ mạng của Phật hòng giúp cho cả Mật lẫn Hiển. Thời cuộc chẳng yên, càng ưa - chán thiết tha, nương nguyện về Tây, đại sự giải quyết xong, được Phật thọ ký, liền trở lại Sa Bà, tiếp dẫn khắp hàm thức cùng thân cận Di Đà.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>36. Ca tụng đức cao đẹp của ông Sa Tuyết Phảng</B>
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cao cả thay cụ Sa, túc căn rất sâu, hiếu hữu nhân từ, cả làng cùng khâm phục, tuổi đã tám mươi mới tu Tịnh Độ, phát trọn ba tâm, mong sanh Thượng Phẩm, tâm sẵn có, tâm tạo tác, tâm làm, tâm là. Giải lẫn hạnh đều viên dung, Lý - Sự nhất trí. Vì thế, khi lâm chung được an nhiên qua đời, đỉnh đầu ấm, vẻ mặt rạng rỡ, để biểu thị đã thật sự đến được [Cực Lạc].
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>37. Ca tụng chuyện quy Tây của cư sĩ Khuất Tử Kiến</B>
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật tâm và chúng sanh tâm, về bản thể vốn chẳng hai. Do nhân duyên mê - ngộ nên [tâm] chẳng khác mà [tướng] thành sai khác. Nếu chịu trái nghịch trần lao, kiêm trì thánh hiệu Phật, hễ được vãng sanh Tây Phương thì sẽ đích thân đến được bờ giác. Cao đẹp thay ông Tử Kiến! Túc căn thật sâu, thác sanh vào gia đình đời đời thiện lương, giữ tấm lòng trung hậu, khoan dung. Chuộng nghĩa, khinh tài, thân - sơ đều bình đẳng quan tâm. Có tư cách lỗi lạc, nhưng chuyên trọng niệm Phật. Tịnh nghiệp đã chín muồi, biết trước lúc nào sẽ đi, quyến thuộc đều nhất tâm niệm Phật tương trợ. Vì thế, được nương nhờ Phật lực vãng sanh cõi Cực Lạc. Di tướng<SUP><B>(93)</B></SUP>] càng thêm rạng rỡ, ai nấy đều khen là lạ lùng, đặc biệt. Các hành nhân đời Mạt muốn thoát khỏi bẫy sanh tử, chỉ có một pháp Niệm Phật là có thể dự vào bậc thánh trong đời này. Nêu toát yếu đại lược hòng lưu lại vĩnh viễn cho con cháu, mong ai nấy đều noi theo đức của người xưa thân cận Di Đà Thế Tôn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(93) Chỉ thân xác, vẻ mặt của ông Khuất Tử Kiến sau khi đã mất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>38. Ca tụng đức cao đẹp của cư sĩ Trương Miện Đường</B>
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cao đẹp thay ông Miện Đường! Thừa nguyện thị hiện giáng sanh. Đang trong lúc kiếp nạn ngập trời này, biển cả, đất liền đầy dẫy cọp, kình, nhân dân bị nuốt cắn, phát tâm dẹp cho yên. Do vậy, vào quân ngũ, dùng đức giáo hóa binh lính, lấy nhân nghĩa làm vũ khí, dùng nhân quả làm lũy thành. Phàm đóng quân chỗ nào, tiếng khen ngợi vang rền truyền đến đất Tô. Trừ bạo, an dân lành, hoằng pháp độ hữu tình, ma tà, ngoại đạo đều dẹp yên, Phật nhật được chiếu rạng. Chán nghiệp võ theo nghề văn. Sắt - cầm thường trỗi tiếng. Giảm bớt sự phiền toái trong việc cai trị nên được nhiều lúc rảnh rỗi. Niệm Phật có chương trình nhất định. Dùng móng tay vẽ tượng Tam Thánh, tinh diệu khôn sánh tầy. Phàm có ai thấy nghe, tâm đều hướng về Cực Lạc. "Tâm làm Phật là Phật", Quán Kinh nghĩa rộng sâu. Sự thế gian, xuất thế, đều lấy gốc nơi lòng thành, nguyện khắp người mọi giới, nghe phong thái đều dấy lòng hành theo, ngõ hầu từ nay trở đi thiên hạ thường thái bình.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>39. Ca tụng hạnh cao đẹp của cụ bà họ Từ, mẹ ông Châu</B>
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cao đẹp thay Châu mẫu! Xưa có huệ căn, thờ mẹ nuôi em, tiếng khen rộn xóm làng. Gả về nhà ông Châu, giúp chồng làm điều nhân, sửa đổi nghề nghiệp trước, lòng Từ không ai bằng. Trông nom gia đình, dạy con, buôn bán, làm lành, phàm tính toán những gì đều hợp tình lý, lòng mong lợi lạc, giúp người, tài lẫn pháp cùng thí. Xót thương chỉ dạy, không điều nhỏ nhặt nào chẳng quan tâm đến. Những gì cụ tích tụ [cho riêng mình] suốt cả một đời, chỉ chứa được đầy tráp. Xét về đạo Nho, hạnh của cụ phù hợp với lẽ Đại Đồng, xét nơi đạo Thích, hạnh cụ khế hợp pháp Tứ Nhiếp. Phong thái cao đẹp của hai bà Phi, ba bà Thái vẫn chưa mất; cho nên viết đại lược để nêu gương cho người sau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>40. Ca tụng liệt nữ Trương San Trinh</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chánh khí trong trời đất, được con người thực hiện rộng rãi. Nam - nữ tuy sai khác, lý này cố nhiên chẳng sai biệt. Do cùng sẵn đủ Phật tánh, tức là cái được gọi là "bỉnh di" (vâng giữ luân thường), nhưng phải khéo mở rộng sự ấy, [muốn] làm thánh hiền phải lấy đó làm nền tảng. Tiếc thay con người trong thời gần đây, cứ coi điều hay là chuyện tệ. Tận lực trừ cho hết sạch phạm vi giữa nam - nữ, gọi luyến ái là cao thượng, coi trinh tiết là tỳ vết! Đúng là muốn cho người trong khắp cõi đời giống hệt như cầm thú. Cao cả thay cô Trương San Trinh! Dẫu chết chí chẳng dời, không được mẹ thông cảm, dùng kéo tự rạch [cổ]. Tuy là con nhà nông, nhưng đáng là điển hình cho nữ giới. Dùng thân phụ trợ Danh Giáo<SUP><B>(94)</B></SUP>, đáng gọi là đại trượng phu. Người tuy đã qua đời, trinh đức chẳng hề mất. Tiếc rằng chưa biết Phật pháp, rốt cuộc khó thoát khỏi bẫy phàm. Nếu sanh được lòng tín nguyện, chí tâm niệm A Di Đà, ắt được Phật tiếp dẫn, vãng sanh ao bảy báu. Thấy Phật nghe diệu pháp, tiến dần lên chứng được Bồ Đề. Đến tận cùng kiếp vị lai, thường làm thầy trời - người.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(94) Theo tác phẩm Thiên Hạ Tàn Cuộc (tác giả Đàm Bá Ngưu, nhà xuất bản Đồng Tâm, Hoa Lục, 2006): <I>"Chữ Danh tương đương với 'hình thái ý thức' trong ngôn ngữ hiện thời, tức là vận dụng lịch sử và kinh nghiệm cá nhân, phương pháp lý luận suy diễn từ nguyên nhân đến hậu quả để đề ra một khái niệm, hay một nguyên tắc hòng định khuôn mẫu cho nếp sống. Giáo tức là dạy dỗ, tuyên truyền sao cho mỗi cá nhân đều sống sao cho đạt được những mục đích chuẩn mực đã đặt ra trong Danh"</I>. Như vậy, Danh Giáo có thể hiểu đại lược là những chuẩn mực về luân lý, đạo đức được đề cao trong xã hội.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>41. Ca tụng hạnh đẹp của cư sĩ Trình Chí Bằng ở Vụ Nguyên</B>
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sanh trong đời nay mà hành đạo xưa. Nêu gương cho làng ấp. Giữ chí khí, tiết tháo của Liêm Lạc<SUP><B>(95)</B></SUP>. Tin sâu Phật pháp, chẳng tập tành lỗi lầm "trong lòng tuân phụng ngoài mặt chống trái" [của bọn Trình - Châu]. Nguyện sanh về Liên Bang, lúc mất được cảm ứng đạo giao thù thắng. Ôi! Con người như vậy là trụ đá giữa dòng chảy, là hướng dẫn tốt lành trong đường mê. Do vậy bèn viết đại lược để bảo với người thông sáng đời mai sau.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(95) Liêm Lạc nói đủ là "Liêm Lạc Quan Mân" là bốn đại học phái Lý Học đời Tống, Liêm là phái Lý Học của Châu Đôn Di ở Liêm Khê, Lạc là phái Lý Học của Trình Di ở Lạc Dương, Quan là phái Lý Học của Trương Tải ở Quan Trung, còn Mân là phái Lý Học của Châu Hy ở đất Mân Việt (Phước Kiến).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>42. Bài ca tụng nhân dịp minh thọ<SUP>(96)</SUP> trăm tuổi của cụ Tề Dữu Nam và Kim phu nhân</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông Tề hiếu hữu đức siêu quần, phu nhân càng giúp nêu gương thơm. Chớ bảo bình sinh lo buôn bán, phải biết toàn thân đầy học thức. Học thức ấy thật sự có thể lưu tiếng thơm suốt cả một đời. Tiếc chưa được nghe Phật pháp, ngộ nguồn tâm. May có con cháu vừa hiền vừa hiếu, cầu siêu mong cha mẹ được sanh về cõi trời Cực Lạc. Cực Lạc vui sướng khôn lường! Luôn được đích thân chầu hầu bậc cổ Giác Hoàng<SUP><B>(97)</B></SUP>. Chứng Vô Sanh Nhẫn nương Bi nguyện, riêng đến cõi này làm thuyền Từ. Thuyền Từ thả trong biển khổ, khiến cho khắp mọi người về Tây bỏ Đông. Đến ngày tự lợi lợi tha đều viên mãn, sẽ trong pháp giới xưng Đại Hùng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(96) Minh thọ là sinh nhật của người đã mất.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(97) Giác Hoàng là một danh hiệu tôn xưng đức Phật, ý nghĩa giống như chữ Giác Vương. Do A Di Đà Phật đã thành Phật từ mười kiếp trước nên gọi là "cổ Giác Hoàng".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>43. Bài tụng hồi hướng cho khắp mọi người trong hiện tại ấn tống và vĩnh viễn lưu truyền Văn Sao</B>
(năm Dân Quốc 16 - 1927)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp môn Tịnh Độ là pháp giới tạng, khế cơ và khế lý, thật là vô thượng. Bậc Đẳng Giác đại thánh, kẻ nghịch ác tiểu phàm, Luật - Giáo - Thiền - Mật, đều khắp bao hàm. Mười phương chư Phật hết kiếp tuyên dương vẫn khó nói trọn diệu nghĩa, công huân lạ lùng. Huống chi tôi là kẻ tầm thường phàm tục, ngẫu nhiên nêu tỏ được một hạt bụi trong cõi đất, một giọt nước trong biển cả, thật quá nhỏ nhoi! Tự lượng kém hèn, nếu chẳng phải đức Phật sẽ không thể độ được, cũng có những người cùng chí hướng chỉ chuyên chú nơi chuyện này; do vậy mới có đủ mọi thứ lời lẽ hủ bại. Giãi bày lòng ngu thành, chứ nào phải hoằng dương Tịnh Độ! Do các cư sĩ nghĩ những lời lẽ ấy có lợi cho hàng sơ cơ, ấn hành nhiều lượt để mong [hàng sơ cơ] có chỗ nương tựa. Có ông Diệp Đức Quảng bỏ ra ba ngàn đồng, tính để làm ấn phí mong sách được lưu truyền rộng rãi. Trong tháng Tám, thành Thiểm Tây bị vây hãm, [tình thế] rất đáng buồn, cầu cứu giải vây, liền dùng hết số tiền ấy để cứu đói. Phàm có các thiện sĩ tùy ý quyên góp giúp đỡ, [ấn tống] năm ba ngàn bộ, vẫn gom thành đủ số. Nguyện những người bỏ tiền và những ai đọc tụng đều tiêu trừ nghiệp chướng, tăng cao nền phước, cửa nhà yên vui, thân tâm bình yên, mạnh khỏe, sống dự vào bậc thánh, thác về Tây Phương. Tổ tiên đã khuất, oán thân bao đời, đều nhờ lòng Từ của Phật mà chứng được diệu tâm vốn có. Can qua vĩnh viễn chấm dứt, lễ nghĩa nhân nhượng thịnh hành, nhân dân yên vui, thiên hạ thái bình, trọn báo tứ ân, giúp đều ba cõi, pháp giới chúng sanh cùng chứng Bồ Đề.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Phụ Lục:</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Toa thuốc thần hiệu Bạch Phàn<SUP>(98)</SUP> Cứu Mạng</B>
(Bạch Phàn còn gọi là Minh Phàn hoặc Phàn Thạch)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phàm ăn nhầm hà đồn<SUP><B>(99)</B></SUP> hoặc hết thảy những món độc khác, hoặc do sự việc [trái ngang] bức bách, ý muốn coi rẻ mạng sống, toan tự tận, nuốt nha phiến, tỳ sương, đằng hoàng<SUP><B>(100)</B></SUP>, hết thảy những thứ có thể hủy hoại tạng phủ con người khiến cho con người mất mạng, tức những thứ được đặt tên là độc vật và uống lầm những loại thuốc độc v.v... đều có thể dùng một cục bạch phàn nghiền nát, dùng nước sôi hòa tan, hòa thêm chừng mấy chén nước lạnh, cốt sao nước phèn vẫn giữ được tánh chất, mùi vị chua rít đậm đặc là được. Liền bảo người bị nạn uống mấy chén nước phèn ấy, chưa đầy một khắc đồng hồ, sẽ ói hết sạch những thứ độc vật đã ăn vào, liền bảo toàn được tánh mạng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu như ăn phải chất độc thời gian quá lâu, đổ nhiều nước phèn cho lọt vào bụng cũng vẫn có thể cứu chữa được! Dẫu cho tạng phủ đã bị hư hoại, cứu vãn không kịp, cũng không có hại gì. Xét ra, bạch phàn tánh mát, vị chua rít, giải được các chất độc, vì thế rất thích hợp. Cũng có thể dùng bài thuốc này để chữa trị chứng hoắc loạn (bệnh dịch tả). Bài thuốc này do y sĩ Phùng Văn Phù ở Thiên Tân trải hơn mười năm kinh nghiệm, áp dụng trăm lần đều công hiệu, nhiều lần chứng kiến hiệu quả thần kỳ. In toa thuốc lưu truyền rộng rãi ngõ hầu cứu giúp rộng khắp quả thật là dụng tâm của người nhân từ, quân tử, Hơn nữa, bạch phàn ở chỗ nào cũng mua được, giá lại phải chăng. Nguyện người đọc lưu tâm [dùng bài thuốc này] làm phương tiện cứu người, công đức sẽ chẳng thể nghĩ bàn. Liền đem công đức cứu người ấy hồi hướng Tây Phương thì cũng có thể dùng làm duyên tăng thượng thù thắng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(98) Bạch Phàn (Alumen) thường được gọi là phèn trắng, hay phèn chua, thường có màu trong suốt hoặc trắng ngả vàng, có công thức hóa học là KAl(SO4)2·12H2O. Đông Y thường dùng Bạch Phàn để giải độc sát trùng, chữa ghẻ, hoặc uống để cầm máu, chữa thổ tả, trừ phong đàm.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(99) Hà Đồn (globefish, puffer fish), có tên khoa học Takifugu Rubripes, là một loại cá rất độc, hình dáng giống cá Nóc bên ta, thân hình tròn ung ủng, đuôi và vây ngắn củn, trông giống như quả cầu nhỏ bị thổi phình lên nên còn có tên là Khí Cổ Ngư (cá trông như cái trống bơm căng) hoặc Xuy Đỗ Ngư (cá thổi phình bụng). Do thịt loại cá này ăn rất ngon, nên người Hoa xếp nó vào Trường Giang Tam Tiễn (ba món tươi ngon của sông Trường Giang), tức Hà Đồn, Đao Ngư, và Thời Ngư (cá cháy), nhưng trong mình Hà Đồn nó chứa một lượng chất độc có thể giết chết được ba mươi người trưởng thành (theo Wikipedia). Nếu không biết cách khử chất độc trên da cá, ăn vào sẽ bị trúng độc. Người Nhật gọi loại cá này là Fugu và chế biến thành một món Sushi rất đắt tiền, người đầu bếp làm món này khi được mướn phải trình cho nhà hàng văn bằng chứng nhận anh ta đã được huấn luyện cách chế biến đúng mức. Tuy thế, mỗi năm tại Nhật vẫn có cả trăm trường hợp chết vì trúng độc do ăn món cá này.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(100) Tỳ Sương (Arsenic Trioxide) còn gọi là Thạch Tín, chất độc không giết chết người ngay nếu uống với liều lượng nhỏ. Trong thế kỷ 18-19, do chưa hiểu biết về độc tánh của chất này, Âu Tây vẫn dùng một loại thuốc chứa chất Thạch Tín mang tên Arsphenamine để chữa bệnh!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đằng Hoàng (Garcinia Morella) là chất nhựa trích từ một loài cây leo thuộc họ Đằng Hoàng (Clusiaceae) thường có hoa đơn màu vàng, mọc thành chùm, trổ từ kẽ lá, lá hình trứng. Chất keo Đằng Hoàng thường được dùng trong Đông Y để cầm máu, sát trùng, chữa bệnh phù thũng. Do họ Đằng Hoàng có nhiều loại cây hình dạng tương tự nên khi thu thập chế biến rất dễ hái lầm loại có chất độc.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<p style="padding-left: 56px;"><B>V. NHỮNG BÀI VIẾT KHÁC</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>1. Lâm chung tam đại yếu</B> (Ba điều quan trọng nhất lúc lâm chung)
(năm Dân Quốc 19 - 1930)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ðiều bi thảm nhất trong thế gian không chi bằng cái chết, nhưng người trong khắp cả cõi đời, không một ai may mắn thoát được! Vì vậy, người có tâm muốn lợi mình lợi người chẳng thể không sớm lo liệu. Thật ra, một chữ CHẾT vốn chỉ là giả danh, do kỳ hạn của quả báo chiêu cảm từ [các nhân] đời trước đã hết nên bỏ tấm thân này rồi lại thọ cái thân khác vậy. Kẻ chẳng biết Phật pháp thì đúng là không tìm được cách gì, chỉ đành mặc cho nghiệp xoay chuyển. Nay đã được nghe pháp môn Tịnh Ðộ phổ độ chúng sanh của đức Như Lai thì phải nên tín nguyện niệm Phật, sắp đặt sẵn tư lương vãng sanh, hầu mong thoát được nỗi khổ luân hồi sanh tử giả huyễn, chứng sự vui Niết Bàn thường trụ chân thật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu ai có cha, mẹ, anh, em và các quyến thuộc mắc phải bệnh nặng, bệnh tình khó bề thuyên giảm thì hãy nên phát tâm hiếu thuận, từ bi, khuyên họ niệm Phật cầu sanh Tây phương và trợ niệm cho họ để mong người bệnh nhờ đó sau khi chết liền được sanh về Tịnh Ðộ. Sự lợi ích như thế làm sao diễn tả được? Nay tôi nêu lên ba điều trọng yếu để làm căn cứ hòng thành tựu sự vãng sanh cho người lâm chung; lời lẽ tuy thô vụng, quê kệch, nhưng ý vốn lấy từ kinh Phật. Gặp được nhân duyên này đều nên làm theo. Ba điều trọng yếu vừa nói đó chính là:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">* Một là khéo chỉ dạy, an ủi, khiến [người sắp mất] sanh chánh tín.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">* Hai là mọi người thay phiên niệm Phật để giúp tịnh niệm [cho người sắp mất].
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">* Ba là hết sức tránh dời động, khóc lóc, kẻo làm hỏng việc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu có thể tuân theo ba pháp này để hành thì chắc chắn sẽ tiêu trừ được túc nghiệp, tăng trưởng Tịnh nhân (cái nhân để vãng sanh Tịnh Độ), được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây phương. Hễ đã được vãng sanh thì sẽ siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, dần dần tấn tu ắt sẽ đạt tới viên thành Phật quả mới thôi. Sự lợi ích như vậy hoàn toàn nhờ vào sức trợ niệm của quyến thuộc. Có thể làm được như thế mới là chân hiếu đối với cha mẹ, mới thật là chân đễ<SUP><B>(1)</B></SUP> đối với anh em trai, chị em gái, mới thật là chân từ đối với con cái, mới thật là chân nghĩa, chân huệ đối với bằng hữu và đối với mọi người; dùng những điều ấy để vun bồi cái nhân Tịnh Ðộ của chính mình, khơi gợi lòng tin tưởng của những đồng nhân, lâu ngày chày tháng nào có khó gì mà chẳng tập thành lề thói được. Nay tôi sẽ trình bày từng điều một để chẳng đến nỗi có những điều không thích đáng lúc lâm chung vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>a. Ðiều thứ nhất là khéo chỉ bày, an ủi, khiến cho [người sắp mất] sanh chánh tín</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiết tha khuyên người bịnh buông xuống hết thảy, [chỉ] nhất tâm niệm Phật. Nếu như cần phải giao phó việc gì thì phải mau giao phó. Giao phó xong thì chẳng đếm xỉa đến nữa, chỉ nghĩ ta nay sắp theo Phật vãng sanh cõi Phật; tất cả sự giàu sang, vui sướng, quyến thuộc thế gian, các thứ trần cảnh đều là chướng ngại, thậm chí khiến ta mắc hại. Vì thế, chẳng nên sanh một niệm quyến luyến, vướng mắc. Phải biết: Một niệm chân tánh của chính mình vốn chẳng có chết. Sự chết vừa mới nói đó chỉ là xả thân này để lại thọ cái thân khác mà thôi! Nếu chẳng niệm Phật thì sẽ phải thuận theo nghiệp lực thiện, ác để lại thọ sanh trong nẻo lành, đường dữ (Đường lành là trời - người. Đường ác là súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. A Tu La vừa gọi là đường lành vừa gọi là đường ác vì họ tu nhân cảm quả đều là thiện - ác xen tạp). Nếu như trong lúc lâm chung, nhất tâm niệm Nam Mô A Di Ðà Phật thì do tâm niệm Phật chí thành ấy, ắt quyết định cảm được Phật dấy lòng từ bi lớn lao, đích thân tiếp dẫn khiến cho ta được vãng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thêm nữa, đừng nghi rằng: Ta là nghiệp lực phàm phu, chỉ do niệm Phật trong một thời gian ngắn sao lại có thể thoát khỏi sanh tử, vãng sanh Tây phương? Nên biết rằng: Vì đức Phật đại từ bi nên dẫu là kẻ tội nhân Thập Ác, Ngũ Nghịch rất nặng, lúc lâm chung tướng địa ngục đã hiện ra, mà nếu có thiện tri thức dạy cho niệm Phật bèn niệm mười tiếng hoặc chỉ một tiếng thì cũng được Phật tiếp dẫn, vãng sanh Tây phương. Hạng người ấy chỉ niệm mấy câu còn được vãng sanh, sao còn cho rằng ta nghiệp lực nặng nề, niệm Phật ít ỏi rồi sanh lòng nghi ư? Phải biết: Chân tánh vốn sẵn có của chúng ta và chân tánh của Phật chẳng hai; chỉ vì ta Hoặc nghiệp sâu nặng nên chẳng thọ dụng được! Nay đã quy mạng nơi Phật như con nương về với cha, chính là trở về với quê nhà ta vốn sẵn có, chứ nào có phải là điều gì ra ngoài khả năng của ta đâu! Hơn nữa, xưa kia, đức Phật đã phát nguyện: <I>"Nếu có chúng sanh nghe danh hiệu của ta mà chí tâm tin ưa, dẫu chỉ mười niệm mà nếu chẳng được vãng sanh thì chẳng lấy ngôi Chánh Giác"</I>. Vì thế, hết thảy chúng sanh lúc lâm chung phát tâm chí thành niệm Phật cầu sanh về Tây phương thì không một ai là chẳng được Ngài rủ lòng Từ tiếp dẫn. Ngàn vạn phần chẳng được hoài nghi nữa! Hoài nghi tức là tự mình lầm lạc, họa ấy chẳng nhỏ đâu!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Huống hồ, lìa khỏi thế giới khổ não này sanh về thế giới vui vẻ kia là chuyện hết sức sung sướng, hãy nên sanh tâm hoan hỷ, ngàn vạn phần chẳng được sợ chết! Dẫu sợ chết vẫn chẳng thể không chết, lại còn đâm ra mất phần vãng sanh Tây phương nữa, vì tâm mình trái với tâm Phật rồi! Dẫu Phật sẵn lòng đại từ bi cũng không làm thế nào được đối với chúng sanh chẳng nương theo lời dạy của Phật! Vạn đức hồng danh của Phật A Di Ðà giống như lò luyện lớn lao; tội nghiệp trong nhiều kiếp của chúng ta như một mảnh tuyết trong hư không. Nghiệp lực phàm phu do bởi niệm Phật nên nghiệp liền tiêu diệt, giống như mảnh tuyết ở gần bên lò lửa lớn liền bị tiêu hết chẳng còn gì nữa. Vả lại, huống chi nghiệp lực đã tiêu thì bao nhiêu thiện căn sẽ tự nhiên tăng trưởng thù thắng; sao lại còn ngờ chẳng được vãng sanh và Phật chẳng đến tiếp dẫn nữa ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mềm mỏng, uyển chuyển chỉ dạy, an ủi như thế thì người bệnh sẽ có thể tự sanh tâm chánh tín. Ðấy chính là những điều chỉ dạy cho người bệnh. Còn như những việc chí thành, tận hiếu mà ta phải nên làm thì cũng chỉ chú trọng ở những điểm ấy; chớ nên thuận theo thói tục van cầu thần thánh, tìm thầy chạy thuốc. Mạng lớn đã sắp hết thì làm sao quỷ thần, thuốc men giữ cho người ấy khỏi chết được! Nếu đã nhọc lòng vì những sự vô ích như thế thì lòng thành khẩn đối với một sự niệm Phật sẽ bị xen tạp, không cách gì cảm thông [đức Phật] được! Nhiều kẻ lúc cha mẹ lâm chung chẳng tiếc tiền của, mời khá nhiều thầy thuốc đến khám. Ðấy gọi là mua tiếng hiếu, muốn được người đời khen ta tận hiếu đối với cha mẹ; nào hay trời đất, quỷ thần thật sự xét soi [tường tận] nỗi lòng. Vì vậy, đối với những sự thuộc về chuyện tống táng cha mẹ mà quá sức phô trương thì nếu chẳng mắc thiên tai ắt cũng bị nhân họa. Kẻ làm con chỉ nên chú trọng những gì thần thức của cha mẹ đạt được! Lời xưng tụng của người đời cố nhiên chẳng đáng cho kẻ sáng mắt nhếch mép cười, lẽ đâu lại dốc lòng mong mỏi, thật chỉ khiến cho ta mắc phải cái lỗi bất hiếu to lớn mà thôi!
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>b. Thứ hai là mọi người thay phiên niệm Phật để giúp tịnh niệm [cho người chết]</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trước đó, đã chỉ dạy người bệnh khiến cho kẻ ấy sanh chánh tín; nhưng vì người bịnh tâm lực yếu ớt, đừng nói chi hạng người lúc còn khỏe mạnh chưa bao giờ niệm Phật, chẳng dễ gì niệm liên tục lâu dài được, ngay cả người chuyên trọng niệm Phật đến lúc ấy cũng hoàn toàn nhờ vào người khác trợ niệm thì mới có thể hữu hiệu. Vì vậy, quyến thuộc trong nhà hãy nên cùng nhau phát tâm hiếu thuận, từ bi, vì người ấy trợ niệm Phật hiệu. Nếu bệnh tình còn chưa đến nỗi sắp chết vào bất cứ lúc nào thì nên chia ban niệm Phật. Nên chia thành ba ban, mỗi ban hạn định mấy người. Ban đầu tiên niệm Phật ra tiếng, ban thứ hai và thứ ba niệm thầm. Niệm một tiếng đồng hồ thì ban thứ hai niệm tiếp; ban thứ nhất, ban thứ ba niệm thầm. Nếu có chuyện nhỏ thì nên lo liệu trong lúc niệm thầm; còn trong lúc trực ban trọn chẳng nên bỏ đi. Ban thứ hai niệm xong, ban thứ ba niệm tiếp. Xong rồi liền trở lại từ đầu. Niệm một tiếng, nghỉ hai tiếng; [như vậy thì niệm] suốt cả ngày đêm thì cũng không mệt nhọc lắm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phải biết: Chịu giúp người đạt được Tịnh niệm vãng sanh thì cũng sẽ được hưởng quả báo có người trợ niệm. Chớ có nói "chỉ vì cha mẹ nên mới phải tận hiếu như vậy", đối với người dưng cũng nên vun bồi ruộng phước của chính mình, trưởng dưỡng thiện căn của chính mình thì mới đúng là cái đạo tự lợi, chứ chẳng phải chỉ vì người khác mà thôi! Thành tựu một người được vãng sanh Tịnh Ðộ chính là thành tựu một chúng sanh làm Phật. Công đức như thế há thể nghĩ lường được ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ba ban liên tục, tiếng niệm Phật chẳng ngớt. Nếu sức bệnh nhân niệm được thì nương theo đó niệm nho nhỏ theo. Chẳng thể niệm nổi thì lắng tai nghe kỹ, tâm không có niệm gì khác thì tự có thể tương ứng với Phật vậy. Tiếng niệm Phật chẳng nên quá to; niệm to sẽ hao hơi, khó niệm lâu được; cũng chẳng thể quá nhỏ khiến cho bệnh nhân nghe chẳng rõ. Chẳng nên niệm quá mau, cũng chẳng nên quá chậm. Quá mau bệnh nhân niệm theo chẳng nổi, dẫu có lắng nghe [tiếng niệm] cũng khó nghe rõ. Quá chậm thì chẳng tiếp hơi nổi nên cũng khó có ích. Nên niệm chẳng lớn tiếng, chẳng nhỏ tiếng, chẳng rề rà, chẳng gấp gáp; từng chữ phân minh, từng câu rành mạch khiến cho từng chữ, từng câu lọt tai thấu dạ bịnh nhân; như vậy thì dễ có sức [niệm theo]. Đối với pháp khí dùng để niệm Phật, chỉ nên dùng dẫn khánh, hết thảy các thứ khác nhất loạt chẳng nên dùng. Tiếng dẫn khánh trong trẻo khiến tấm lòng người nghe thanh tịnh. Tiếng mõ trầm đục chẳng thích hợp cho việc trợ niệm khi lâm chung.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại nữa, nên niệm Phật hiệu gồm bốn chữ. Lúc bắt đầu thì niệm vài câu sáu chữ; rồi sau đó chuyên niệm bốn chữ A Di Ðà Phật, chẳng niệm Nam Mô. Do ít chữ dễ niệm nên bệnh nhân sẽ niệm theo được hoặc nhiếp tâm lắng nghe, đều đỡ tốn tâm lực. Quyến thuộc trong nhà niệm như vậy mà thỉnh thiện hữu bên ngoài đến thì cũng niệm như vậy. Dù nhiều người hay ít người đều phải niệm như thế, chẳng nên niệm một chốc lại ngưng nghỉ, rồi lại niệm khiến cho bịnh nhân niệm Phật gián đoạn. Nếu gặp lúc ăn cơm thì nên ăn vào lúc thay phiên, đừng ngớt tiếng niệm Phật. Nếu như lúc bịnh nhân sắp tắt hơi thì cả ba ban nên cùng niệm cho đến tận sau khi đã tắt hơi hẳn rồi mới lại chia ba ban niệm suốt ba tiếng đồng hồ nữa. Sau đấy, mới ngưng niệm để lo liệu, sắp đặt mọi việc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong lúc niệm Phật, chẳng để cho bè bạn đến trước bệnh nhân thăm hỏi, vỗ về. Ðã có lòng đến thăm thì hãy theo đại chúng niệm Phật mấy thời. Ấy mới là tấm lòng yêu mến chân thật, có ích cho bịnh nhân. Còn nếu cứ theo thói tục thường tình thì chính là đã xô người ta xuống biển. Tình ấy tuy đáng cảm, nhưng [để xảy ra] sự ấy thật đáng đau đớn. Toàn là cậy vào người chủ chốt hiểu rõ đạo lý, bảo trước với người [đến thăm] để khỏi tổn thương tình cảm, lại khỏi gây hại cho bệnh nhân bị phân tâm chẳng được vãng sanh vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>c. Thứ ba là kiêng dè dời động, khóc lóc để khỏi làm hỏng đại sự</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lúc người bệnh sắp chết chính là lúc phân biệt giữa thánh, phàm, người, quỷ, [tình trạng khác nào] ngàn cân [treo] đầu sợi tóc; quan trọng cùng cực! Chỉ nên dùng Phật hiệu để chỉ dạy thần thức của người ấy, trọn chẳng nên tắm rửa, thay áo, hoặc dời chỗ nằm. Mặc kệ [người ấy] nằm - ngồi như thế nào, cứ để yên người đó trong tư thế ấy, chẳng nên dời động chút nào. Cũng chẳng nên đối trước [người ấy] mà lộ vẻ buồn bã, thương xót, hoặc đến nỗi khóc lóc. Vì khi đó [người sắp chết] thân chẳng tự chủ được; hễ lay động là toàn thân lẫn chân tay đều bị đau đớn như bị bẻ, chặt, giằng xé. Hễ đau đớn thì sanh tâm sân hận nên [tâm] niệm Phật bị ngưng dứt. Mang tâm sân hận ra đi, phần nhiều bị đọa vào độc loại (những loài vật hung dữ, độc địa như rắn, bò cạp, rết...), đáng sợ hãi quá sức! Nếu [người sắp chết] thấy [thân quyến] đau đớn, khóc lóc thì tâm mến luyến phát sanh nên [tâm] niệm Phật cũng bị ngừng nghỉ. Vì mang tâm ái luyến mà ra đi nên đến nỗi đời đời, kiếp kiếp chẳng được giải thoát.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lúc ấy, có lợi nhất thì không gì bằng nhất tâm niệm Phật; điều gây hại nhất không chi bằng vọng động, khóc than. Nếu như vọng động, khóc than đến nỗi [người chết] sanh lòng sân hận hay mến luyến thì dẫu có muốn sanh Tây phương, cả vạn trường hợp cũng chẳng được một!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thêm nữa, người sắp chết hơi nóng rút từ dưới rút lên trên là tướng siêu thăng, còn [hơi nóng] từ trên rút xuống dưới là tướng đọa lạc. Vì vậy, có thuyết:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Ðảnh thánh, nhãn thiên sanh
Nhân tâm, ngạ quỷ phúc
Súc sanh tất cái ly,
Ðịa ngục cước bản xuất.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng nếu mọi người chí thành trợ niệm thì [người chết] ắt tự có thể sanh thẳng về Tây phương; chẳng nên thăm dò nhiều lượt khiến cho khi thần thức [người chết] chưa rời [khỏi xác], có thể sẽ do bị kích thích như vậy mà tâm sanh phiền đau nên chẳng được vãng sanh. Lỗi lầm ấy thật là vô lượng vô biên. Xin các thân hữu ai nấy đều khẩn thiết niệm Phật, chẳng cần thăm dò hơi nóng cuối cùng bị lạnh đi ở chỗ nào. Kẻ làm con hãy nên lưu tâm điều này mới là hiếu thật sự. Nếu cứ thuận theo các tình cảm thông tục trong thế gian thì chính là xô người thân xuống biển khổ chẳng thương xót, mong một lũ vô tri vô thức xúm lại khen ngợi ta đã tận hiếu! Hiếu như vậy thì có khác chi là tình yêu của La Sát Nữ!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh dạy: <I>"La Sát Nữ ăn thịt người, bảo: Vì ta yêu ngươi nên ăn thịt ngươi!"</I> Kẻ vô tri kia thể hiện lòng hiếu khiến cho người thân mất vui bị khổ, há chẳng phải là giống hệt cái tình yêu người của La Sát Nữ hay sao? Tôi nói ra lời này, chẳng phải là không đếm xỉa tình người, chỉ là muốn cho ai nấy đều xét rõ sự thực, cốt sao người chết vãng sanh, kẻ còn sống được phước, để thỏa tấm lòng thành sắt son của con hiền, cháu thảo thương yêu người thân, chẳng ngờ lời lẽ dường như quá khích. Người thương yêu cha mẹ thật sự ắt sẽ lượng thứ cho.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thuyết: Ðảnh thánh, nhãn sanh thiên... là nói về khi người đã tắt hơi, toàn thân đã lạnh, chỉ còn đảnh đầu ấm thì ắt là siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Nhãn sanh thiên là nếu mắt và trán còn nóng thì sanh trong thiên đạo. Riêng chỗ ngực còn ấm thì sanh vào nhân đạo. Riêng bụng còn nóng thì sanh trong ngạ quỷ đạo. Riêng đầu gối còn nóng thì sanh trong súc sanh đạo. Riêng bàn chân còn nóng thì sanh địa ngục đạo. Ðấy là do hai nghiệp thiện, ác đã tạo của người ấy lúc còn sống đến giờ đây cảm hiện như thế, chứ chẳng thể dựa vào thế lực nào để làm giả ra như vậy được. Khi đó, nếu bệnh nhân có thể chí thành niệm Phật, lại thêm sức của quyến thuộc và bạn lành trợ niệm chắc chắn có thể đới nghiệp vãng sanh, siêu phàm nhập thánh vậy. Chẳng cần phải để ý thử sờ xét nghiệm, đến nỗi làm hỏng việc! Mong mỏi lắm thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Chân đễ: Tình thương yêu, hòa thuận thật sự đối với anh em.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>2. Tịnh Độ Chỉ Yếu</B> (Chỉ bày những điều trọng yếu trong pháp môn Tịnh Độ)
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong giáo pháp suốt cả một đời đức Như Lai, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn. Bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài được, tội nhân nghịch ác cũng có thể dự vào trong ấy. Chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà thoát khỏi luân hồi; ngay trong một đời này quyết định lên cõi Phật! Chúng sanh đời Mạt căn cơ kém hèn, bỏ pháp môn này làm sao yên được? Phàm những ai tu Tịnh nghiệp thì điều thứ nhất là phải giữ tịnh giới nghiêm ngặt; điều thứ hai là phải phát Bồ Đề tâm; điều thứ ba là phải đầy đủ lòng tín nguyện chân thật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Giới là cơ sở, nền tảng của mọi pháp, Bồ Đề tâm là chủ soái của tu đạo, tín nguyện nhằm dẫn đường cho việc vãng sanh. Pháp môn Tịnh Độ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông: Không tin sao có thể phát nguyện cho được? Không có nguyện làm sao khởi hạnh? Không có diệu hạnh trì danh, làm sao chứng điều đã tin, mãn điều đã nguyện cho được? Được vãng sanh hay không hoàn toàn là do có tín nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp hoàn toàn do trì danh sâu hay cạn! Tín - Nguyện - Hạnh như ba chân của cái đỉnh, thiếu một sẽ đổ nhào.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu chẳng chú trọng tín nguyện, chỉ mong trì danh cho đạt được nhất tâm, dẫu đạt được nhất tâm sâu xa, cũng khó thể liễu sanh thoát tử! Vì sao vậy? Do Phiền Hoặc chưa hết sạch, chẳng thể cậy vào tự lực để liễu sanh tử được. Tín nguyện đã không có, chẳng thể cậy vào Phật lực để liễu sanh tử! Đời có kẻ ham cao chuộng xa, thường phô phang tự lực, miệt thị Phật lực; chẳng biết từ sống đến chết không chuyện gì chẳng cậy vào sức người khác nhưng chẳng lấy đó làm thẹn, sao riêng đối với đại sự liễu sanh tử và Phật lực lại chẳng muốn tiếp nhận, [chắc là] mất trí điên khùng nên mới đến nỗi như vậy! Hành giả Tịnh tông hãy nên thống thiết răn dè!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đối với pháp tắc tu trì, hãy nên thường như con nhớ mẹ, đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, im lặng, qua lại, một câu Phật hiệu miên miên mật mật! [Dẫu gặp] bất cứ sự duyên nào cũng chẳng để cho gián đoạn, nhiếp trọn sáu căn tịnh niệm tiếp nối. Người làm được như thế chắc chắn vãng sanh! Lại phải nên tâm niệm nhân từ, rộng lượng, tánh khí khiêm nhường, thuận thảo, nhẫn được những điều người khác chẳng thể nhẫn, hành được những điều người khác chẳng thể hành, chịu cực nhọc thế cho người khác, thành tựu điều tốt đẹp cho người ta. Thường nghĩ mình sai quấy, đừng bàn lỗi của kẻ khác! Bậc Đẳng Giác Bồ Tát trong mười hai thời lễ mười phương Phật để sám trừ túc nghiệp, huống là kẻ còn đang trong địa vị phàm phu! Hãy nên thường hổ thẹn, nào dám ỷ y! Nếu ỷ y, dẫu có tu trì thảy đều thuộc về ma nghiệp. Con người như thế chớ nên thân cận, để khỏi đến nỗi lâu ngày đều bị biến đổi giống như họ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phải vâng giữ chắc tông chỉ, chẳng bị xoay chuyển bởi kinh giáo và lời lẽ của thiện tri thức rồi bỏ pháp này tu pháp khác. Pháp môn này chính là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo dưới hóa độ chúng sanh. Hết thảy pháp môn không pháp nào chẳng từ pháp giới này lưu xuất; hết thảy hạnh môn không môn nào chẳng trở về pháp giới này. Vì thế, [pháp này] được chín giới cùng hướng về, mười phương chung khen ngợi, ngàn kinh đều xiển dương, muôn luận cùng tuyên nói. Bọn ta là hạng mạt học sao lại lập dị, tự chuốc lấy tội khiên tự lầm, lầm người ư? Nguyện hãy suy nghĩ sâu xa, xin hãy suy nghĩ sâu xa!</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>3. Trình bày ý nghĩa ẩn kín nơi cuốn Hành Dư Nhật Khóa của Lâm Văn Trung Công</B>
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xem cặn kẽ khắp những bậc đại trung đại hiếu thuở xưa, lập đại công, dựng đại nghiệp, đạo che trùm thời ấy, đức thấu đến hậu thế, hạo khí lấp trời đất, lòng tinh trung mờ nhật nguyệt đều do học Phật đắc lực mà ra. Những nhà Nho trong cõi đời chẳng biết gốc đạo, chỉ thấy được dấu vết đã bộc lộ, chẳng biết đến cội nguồn của cái tâm, khiến cho cái gốc bị ẩn kín chẳng hiển lộ, tiềm tàng chẳng tỏ rõ. Do những Nho sĩ câu nệ thường đố kỵ Phật, nên [những vị danh nhân] phần nhiều chú trọng tiềm tu mật chứng, chẳng tự bộc lộ. Nếu xét kỹ hành vi của bọn họ, ắt sẽ có những điểm chẳng thể giấu được. Nếu con cháu chẳng đầy đủ chánh tri kiến ắt chỉ sợ bị kẻ tục Nho chê cười, nên cũng chẳng chịu xiển dương. Do nhân duyên này, khiến cho tiềm đức u quang<SUP><B>(2)</B></SUP> ẩn mất không được nghe đến nhiều lắm!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong bộ Cựu Đường Thư<SUP><B>(3)</B></SUP>, phàm những sự tích về Phật pháp và ngôn luận trao đổi giữa các bậc sĩ đại phu và cao tăng đều được chọn lọc những điều trọng yếu để ghi chép lại. Âu Dương Tu soạn bộ Tân Đường Thư<SUP><B>(4)</B></SUP> đã gạt bỏ hơn hai ngàn điều. Bộ Ngũ Đại Sử<SUP><B>(5)</B></SUP> cũng vậy. Ấy là do chỉ sợ thiên hạ đời sau biết Phật pháp hữu ích cho thân tâm tánh mạng, cho nền chánh trị của nước nhà, rồi sẽ học theo! Những sử quan khác đa phần thuộc loại tri kiến hẹp hòi câu nệ ấy. Vì vậy, sự tiềm tu mật chứng của những bậc đại nhân xưa kia đều chẳng được biết đến!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Văn Trung Công Lâm Tắc Từ học vấn, trí thức, chí khí, tiết tháo, trung nghĩa đều ít thấy trong đời Thanh trước kia. Tuy bận bịu việc nước, ông chẳng hề gián đoạn việc tu trì Tịnh nghiệp chút nào vì học Phật chính là căn bản của học vấn, chí khí, tiết tháo, trung nghĩa vậy. Đã có được căn bản này thì ứng xử đều thích đáng, xử sự đều hợp lẽ. Đấy chính là nguyên do vì sao bậc đại nhân đời xưa vượt trỗi những hạng tầm thường. Một bữa nọ, chắt của Văn Trung Công là ông Tường, tự là Bích Dư, đưa cho tôi xem cuốn kinh gồm các bài kinh chú Di Đà, Kim Cang, Tâm Kinh, Đại Bi do Văn Trung Công đã đích thân viết, trang bìa ghi "Tịnh Độ Tư Lương". Trên mặt cái hộp đựng sách đề Hành Dư Nhật Khóa (Khóa tụng hằng ngày trong lúc ngồi xe).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đủ biết Văn Trung Công ngầm tu pháp môn Tịnh Độ, tuy ra vào, đi lại, vẫn chẳng chịu bỏ phế. Do dùng để trì tụng lúc đi xe, cuốn kinh ấy chỉ dài khoảng bốn tấc, rộng ba tấc. Chữ viết cung kính, mực thước, không một nét bút nào cẩu thả, đủ thấy lòng cung kính, chí thành của ông, chẳng dám coi thường, chểnh mảng chút nào! Bản kinh ấy mỗi trang gồm sáu hàng, mỗi hàng gồm mười hai chữ. Bích Dư sợ thủ bút của tiên nhân lâu ngày bị mất đi, liền cho sắp xếp thành sách in theo lối thạch bản để mong được lưu truyền trong nhân sĩ các giới, ngõ hầu [mọi người] đều biết Văn Trung Công suốt đời tu trì, cốt sao ai nấy gặp việc nhân chẳng nhường, thấy người hiền mong được bằng. Do vậy, sẽ cùng mong vượt ngũ trược lên chín phẩm. [Ông Bích Dư] sai Quang lược thuật nguyên ủy, Quang từ bé đã nghe danh ngưỡng vọng Văn Trung Công, nay biết ông tu trì nghiêm mật như thế, thật có thể nói là bậc thừa nguyện tái lai, hiện thân tể quan để thuyết pháp. Nguyện những người thấy nghe sẽ nhất trí tiến hành, cùng noi theo vết chân thì quốc gia may mắn lắm, mà nhân dân cũng may mắn lắm thay
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Tiềm đức u quang: Những đức hạnh tốt đẹp ngầm kín, không bộc lộ.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Cựu Đường Thư được biên soạn dưới đời Hậu Tấn. Năm Thiên Phúc thứ sáu (941), Tấn Cao Tổ (Thạch Kính Đường) sai bọn văn thần Trương Chiêu Viễn, Giả Vĩ... soạn bộ sử về triều Đường do tể tướng Triệu Oánh làm Tổng Giám Tu (Chief Editor). Đến năm Khai Vận thứ hai (845) sách mới hoàn thành. Lúc ấy, Lưu Hú đã thay Triệu Oánh làm Tể Tướng nên sách ghi tên vị Tổng Giám Tu là tể tướng Lưu Hú. Thoạt đầu, sách mang tên là Đường Thư, đến đời Tống khi nhóm các văn thần do Âu Dương Tu cầm đầu biên soạn bộ sử mới về nhà Đường, liền đổi tên tác phẩm này thành Cựu Đường Thư. Bộ Cựu Đường Thư dày đến 200 quyển, chép những sự kiện lịch sử từ năm Vũ Đức nguyên niên (618) đời Đường Cao Tổ đến năm Thiên Hựu thứ tư (907) đời Đường Ai Đế.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Bộ Tân Đường Thư do các văn thần Âu Dương Tu, Tống Kỳ, Phạm Trấn, Lã Hạ Khanh cùng biên soạn, tổng cộng gồm 225 quyển. Do Tống Nhân Tông chê bộ Đường Thư biên chép lộn xộn, nhiều chi tiết thừa thãi, văn phong không rõ ràng, nên năm Khánh Lịch thứ tư (1044) xuống chiếu sai Âu Dương Tu, Phạm Kỳ v.v... sửa chữa, tu đính bộ Đường Thư tạo thành bộ sử mới. Bộ sử mới biên soạn trong suốt 17 năm mới xong. So với bộ Cựu Đường Thư, văn phong Tân Đường Thư tao nhã hơn, những bài viết dài hơn, hoa mỹ hơn, nhưng nội dung, dữ liệu chỉ bằng 7/10 bộ sử cũ. Tư Mã Quang khi soạn bộ Tư Trị Thông Giám chỉ sử dụng dữ liệu từ bộ Cựu Đường Thư; ông chê Tân Đường Thư chỉ có ưu điểm văn phong tao nhã, chứ đã tùy tiện lược bớt quá nhiều những sự kiện lịch sử, nhất là những dữ kiện về mối quan hệ ngoại giao giữa Đại Đường và các nước lân cận, lược bỏ truyện ký của những nhân vật có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng học thuật thời ấy như các ngài Huyền Trang và Nhất Hạnh (vì các vị đó là cao tăng nhà Phật), cũng như thiếu hẳn khí thế bi tráng khi mô tả sự kiện như trong bộ Cựu Đường Thư, nhiều sự kiện bị họ Âu tùy tiện sửa đổi theo thiên kiến nên không đáng được coi như một sử liệu khả tín. Sau này, Ngô Chẩn đã viết cuốn Tân Đường Thư Củ Mậu (uốn nắn những sai lầm trong bộ Tân Đường Thư) để nêu lên bốn trăm sáu mươi điều sai lầm trong bộ Tân Đường Thư, đồng thời phê phán rất nặng: <I>"Không biết cách san định những điểm trọng yếu, chỉ biết tuân theo những gì mình ưa thích!"</I>. Học giả Vương Hân Phu còn chê thẳng thừng: "Bọn Âu Dương Tu chỉ biết viết văn, coi thường khảo chứng!"
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) Ngũ Đại Sử gồm hai bộ Cựu và Tân. Cựu Ngũ Đại Sử vốn có tên là Lương Đường Tấn Hán Châu Thư, nên thường được gọi tắt là Ngũ Đại Sử, được biên soạn từ tháng Tư năm Khai Bảo thứ sáu (973) đến tháng Mười năm Khai Bảo thứ bảy (974) theo lệnh của Tống Thái Tổ, do Tiết Cư Chánh cầm đầu một nhóm văn thần chấp bút. Bộ sử này chép những sự kiện lịch sử từ năm Khai Bình nguyên niên (907) đời Hậu Lương đến năm Hiển Đức thứ bảy (960) đời Châu Thế Tông (tức năm nhà Hậu Châu bị Bắc Tống diệt), gồm 150 quyển. Về sau, Âu Dương Tu tự biên soạn tu chỉnh bộ Ngũ Đại Sử, đặt tên là Ngũ Đại Sử Ký (đến thời Càn Long được gọi là Tân Ngũ Đại Sử), bộ sử mới được hoàn tất vào năm Hoàng Hựu thứ năm (1053), nhưng chỉ cất giữ tại tư gia, không phổ biến. Đến khi Âu Dương Tu mất, người nhà dâng lên triều đình, được phê chuẩn lưu hành. Khi bộ này được lưu hành, bộ Cựu Ngũ Đại Sử dần dần biến mất. Theo những sử quan thời cổ như Tư Mã Quang nhận định, khi biên soạn Tân Ngũ Đại Sử, Âu Dương Tu đã tùy tiện cắt xén những dữ liệu lịch sử theo thiên kiến yêu - ghét cá nhân, thiếu hẳn tính công bình, cẩn trọng cần có nơi một sử quan. Do vậy, đến thời Càn Long, dựa vào những phần được bảo tồn trong bộ Vĩnh Lạc Đại Điển đời Minh và hai mươi bộ sách giá trị khác như Sách Phủ Nguyên Giám, Thái Bình Ngự Lãm, Tư Trị Thông Giám Khảo Dị, Cẩm Tú Vạn Hoa Cốc, Thiên Trung Ký, Cổ Kim Tánh Thị Thư Biện Chứng v.v... Thanh triều đã cố gắng phục hồi diện mạo của bộ Cựu Ngũ Đại Sử, quy định bộ Cựu Ngũ Đại Sử là chánh sử, còn Tân Ngũ Đại Sử chỉ được coi như một tác phẩm văn chương. Ngô Chẩn (một học giả đời Thanh) đã biên soạn cuốn Ngũ Đại Sử Toản Ngộ (tập hợp những sai lầm trong bộ Ngũ Đại Sử) ba quyển để nêu lên những điều sai lầm nặng nề trong bộ Tân Ngũ Đại Sử. Sau đấy, Ngô Lan Đình đời Thanh cũng soạn bộ Ngũ Đại Sử Ký Toản Ngộ Phụ gồm sáu quyển để nêu tiếp những sai lầm trong bộ sử của Âu Dương Tu mà Ngô Chẩn chưa nhắc đến. Các sĩ phu nổi tiếng đời Thanh như Cố Viêm Vũ, Tiền Đại Hân cũng chê Âu Dương Tu luôn tự phụ đã viết sử theo phong cách kinh Xuân Thu, nhưng hoàn toàn chẳng hiểu thấu đáo cách viết sử của kinh Xuân Thu cũng như không phân biệt được sự khác biệt giữa viết sử và viết văn!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>4. Nêu tỏ ý nghĩa giáo dục trong gia đình là căn bản khiến cho thiên hạ thái bình</B>
(năm Dân Quốc 27 - 1938)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đời đã loạn đến cùng cực rồi, ai nấy đều mong mỏi bình trị nhưng chẳng biết cội gốc thì có mong cầu cũng uổng công! Hãy nên gấp biết cái gốc nằm ở đâu! Sự dạy dỗ của người mẹ trong gia đình chính là căn bản khiến cho hiền tài được dấy lên đông đảo, thiên hạ thái bình. Chẳng chú trọng nơi ấy, làm sao đạt được bình trị? Mẹ dạy dỗ thì thứ nhất là thai giáo. Thai giáo chính là dạy dỗ về bẩm tánh, phẩm chất từ thuở đầu. Phàm nữ nhân sau khi có thai, hãy chú trọng suy nghĩ, tưởng niệm, xử sự sao cho chỉ một bề chân thành, cẩn trọng. Nhất cử nhất động chẳng trái lẽ chánh. Nhất là phải nên vĩnh viễn dứt trừ những món tanh tưởi, hằng ngày thường niệm Phật khiến cho thai nhi được bẩm thụ chánh khí của mẹ, thì lúc sanh nở ắt được yên vui không khổ sở, sanh được đứa con tướng mạo đoan nghiêm, tánh tình từ thiện, thiên tư thông minh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đến lúc con bắt đầu hiểu biết, liền nói cho nó nghe về đạo lý làm người, như hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ v.v... và tội phước nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo chuyển biến, khiến cho trong tâm nó thường luôn có những điều kiêng sợ, có những điều mong mỏi, hâm mộ. Lại dạy nó niệm Phật, niệm Quán Thế Âm để mong tăng phước, tăng thọ, tránh tai, tránh nạn. Chẳng cho phép nó nói lời dối trá, nói lời thị phi, đánh người, chửi người, chẳng cho nó giẫm đạp giấy có viết chữ, giẫm đạp ngũ cốc, giẫm đạp hết thảy các món đồ vật. Chẳng cho nó ăn uống bừa bãi, chẳng cho nó tụ tập chơi giỡn cùng bọn trẻ cùng xóm. Hơi lớn lên, bèn dạy nó đọc thuộc sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, Văn Xương Âm Chất Văn, Quan Đế Giác Thế Kinh, để cho nó biết có khuôn pháp để noi theo, có những điều ngăn cấm. Đối với mỗi điều đều nói sơ lược đại ý để làm phương tiện hướng dẫn hòng mai sau nó học hành sẽ được lợi ích.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lúc bé như thế, càng học hành sẽ càng hiền thiện, lo gì nó chẳng đạt đến địa vị thánh hiền, rạng mày nở mặt tổ tông! Nếu không, cứ mặc cho nó quen thói kiêu căng, nuôi thành phường bại hoại, dẫu có thiên tư cũng chẳng biết học hành là để học làm thánh hiền nên càng học càng thêm tồi bại! Những kẻ đại gian đại ác xưa nay đều là những kẻ có thiên tư tốt đẹp, có bản lãnh lớn lao, chỉ vì cha mẹ, thầy giáo của chúng đều chẳng biết dạy chúng học thành thánh hiền, tận lực thực hiện, chỉ dạy bọn chúng học văn tự để làm căn cứ hòng đối phó với đời, mưu cầu lợi lộc, trí thức hèn tệ đến tột cùng, đến nỗi những thảm kịch phế kinh điển, phế luân thường, tranh thành giành đất tàn sát lẫn nhau ồ ạt diễn ra. Mối họa loạn ấy đều do cha mẹ, thầy giáo chẳng biết phương cách dạy dỗ con em mà ra. Dù chính họ chẳng làm điều ác lớn lao nào, nhưng cái tội hoại loạn thế đạo nhân tâm cũng sẽ khiến cho họ đời đời kiếp kiếp cùng chịu ác báo giống như con em!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì thế, tôi nói: <I>"Dạy con là căn bản khiến thiên hạ thái bình, nhưng dạy con gái càng quan trọng hơn nữa"</I> do con người thuở thơ ấu chuyên cậy vào mẹ dạy dỗ. Cha chẳng thể thường ở trong nhà, còn mẹ thường chẳng rời con. Nếu mẹ hiền lương, có trí huệ thì hành vi, lời lẽ đều đáng làm gương, [con cái] thấy nghe quen mắt, trong tâm đã thành nề nếp, lại do thường xuyên răn dạy, đã tập quen thành tánh như vàng lỏng đúc thành đồ dùng, nếu cái khuôn đúc tốt đẹp, chắc chắn chẳng đến nỗi đúc ra vật xấu xí! Vì thế, dạy dỗ con gái so ra càng khẩn yếu hơn dạy con trai. Bởi lẽ, hiền mẫu do hiền nữ mà có, nếu không có hiền nữ, làm sao có hiền mẫu cho được? Không có hiền mẫu thì lại làm sao có được con cái hiền lương cho được?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đạo lý cực bình thường ấy ai cũng đều có thể làm được! Điều đáng đau tiếc là quá ít người đề xướng khiến cho những kẻ làm mẹ chỉ biết nuông chiều mù quáng, những kẻ làm cha cũng chẳng khéo dạy. Đến khi con vào trường học hành, kẻ làm thầy cũng do thuở bé chẳng nghe được nghĩa lý này, vì thế cũng trọn chẳng biết học hành là để học làm thánh hiền, chẳng dạy học trò tận tụy thực hành đạo do thánh hiền đã nói, chỉ học văn tự hòng mưu cầu lợi lộc, chẳng hề biết học làm thánh hiền có lợi ích không chi lớn hơn, chính bản thân mình và con cháu đời đời kiếp kiếp hưởng dùng chẳng hết. Còn mưu cầu lợi lộc, nếu mưu cầu một cách tốt đẹp thì chẳng qua đạt được phú quý nhỏ nhoi trong đời này mà thôi! Nếu mưu cầu xấu xa, trong đời này những kẻ thân bại danh liệt, con chết yểu, cháu tuyệt diệt đâu đâu cũng có!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Con người cùng trời đất được gọi là Tam Tài là vì có công năng “dùng tiên giác để giác ngộ kẻ hậu giác, kế tục bậc thánh đời trước, mở lối cho người học đời sau”; do vậy mới được tôn xưng như thế. Nếu chẳng chú trọng học làm thánh hiền sẽ là thây đi thịt chạy, chỉ biết niềm vui ăn uống, trai gái, còn khác gì cầm thú nữa đâu? Một chữ "người" còn là mạo danh, há còn có thể cùng với trời đất xưng là Tam Tài nữa ư? Nhưng con người tánh vốn lành, ai nấy đều có thể làm Nghiêu - Thuấn, ai cũng đều có thể thành Phật, nhưng kẻ chẳng thể làm Nghiêu - Thuấn, chẳng thể thành Phật thì chỉ có tánh đức, trọn chẳng có tu đức "đánh đổ lòng ham muốn xằng bậy để khôi phục lễ nghĩa, dứt lòng tà, giữ lòng thành và tu Giới - Định - Huệ, đoạn tham - sân - si". Tu đức ấy lúc ban đầu là do cha mẹ hiền, sư trưởng khơi gợi vậy, kế tiếp là do chính mình khăng khăng nỗ lực tu trì. Dẫu chưa thể đạt đến địa vị Nghiêu - Thuấn hay địa vị Phật, nhưng đã khác hẳn một trời một vực với kẻ hạ ngu hằng ngày chôn vùi trong nhân dục rồi!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh Thư chép: <I>"Duy thánh võng niệm tác cuồng, duy cuồng khắc niệm tác thánh"</I> (Chỉ vì thánh đánh mất niệm mà thành cuồng, chỉ vì kẻ cuồng khắc chế được ý niệm mà thành thánh). Kinh dạy: "Hễ mê thì Phật chính là chúng sanh, ngộ rồi thì chúng sanh chính là Phật". Ta may mắn có căn cơ làm Nghiêu - Thuấn, thành Phật, là trang nam tử hào hùng, há chịu bỏ mặc cho tánh đức này bị vùi lấp trong nhân dục, vĩnh viễn làm chúng sanh hạ ngu trầm luân trong biển khổ ư? Nguyện những người làm cha mẹ, làm sư trưởng, làm con cái, làm học trò trong cõi đời ai nấy đều gắng sức thì nước ta thật may mắn mà toàn cầu cũng may mắn lắm thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>5. Nêu tỏ ý nghĩa ẩn tàng của Phật Quang Phân Xã tại Xung Điền, Vụ Nguyên</B>
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật quang là tâm quang. Tâm quang ấy chúng sanh và Phật đều cùng có, bình đẳng giống hệt như nhau, nơi Phật chẳng tăng thêm, nơi chúng sanh chẳng giảm bớt. Vì thế, lúc mới thành Chánh Giác, đức Thế Tôn than thở sâu xa: <I>"Hết thảy chúng sanh đều đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng vì chưa ngộ nên chẳng tránh khỏi biến trí huệ đức tướng ấy thành vô minh nghiệp thức, mê tâm đuổi theo cảnh, trái giác hiệp trần, ví như đi mãi trong đêm dài, chẳng thấy được đường chánh, chẳng va tường đụng vách thì cũng đọa hầm sụp hố, luân hồi lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra!"</I> Đức Như Lai thương xót, thị hiện giáng sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, tùy thuận cơ nghi, diễn nói các pháp, chỉ dạy thể tướng của nhất tâm, nói ra nhân quả ba đời, pháp thế gian lẫn xuất thế gian không gì chẳng trọn khắp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại muốn lợi lạc khắp ba căn nên đặc biệt mở ra một môn Tịnh Độ, ngõ hầu hết thảy dù thánh hay phàm đều cùng trong đời này cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương hòng siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, đích thân chứng được tâm quang mà Phật và chúng sanh đều cùng có, cũng như [chứng được] tánh thể vô lượng quang thọ. Lại còn rủ lòng từ tiếp dẫn đến tột cùng đời vị lai, ngõ hầu pháp giới chúng sanh đều được đẫm Phật quang, cùng chứng tâm quang. Quang quang chiếu sáng lẫn nhau, thành một thế giới Thường Tịch Quang mới thôi! Đấy chính là cội nguồn của việc cư sĩ Dịch Viên lập ra Phật Quang Xã.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn những gì được đề xướng trong liên xã thì trọn chẳng lập ra cách thức sai khác, tức là ai nấy đều dốc tâm thực hiện ngay trong những cư xử thường ngày của chúng ta, có nghĩa là "cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành", mỗi mỗi đều nghiêm túc trọn hết bổn phận. Như thế thì chính là người lành "chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành". Hơn nữa, trong khi đi lại, nói năng, làm lụng, đi, đứng, nằm, ngồi, [luôn luôn] chấp trì một câu thánh hiệu A Di Đà Phật, dùng vạn đức hồng danh của Phật để hun đúc nghiệp thức vô minh của chính mình, hun đúc lâu ngày thì vô minh nghiệp thức ấy sẽ biến thành trí huệ đức tướng. Thanh Lương quốc sư nói: <I>"Phàm phu cắm cúi niệm Phật, niệm đến cùng cực sẽ có thể ngầm thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu"</I>, chính là nói về điều này vậy. Huống chi dùng lòng tin sâu đậm, nguyện thiết tha để cảm Phật, Phật sẽ dùng thệ nguyện từ bi nhiếp thọ; do đó được cảm ứng đạo giao, vạn người tu vạn người về. Lòng từ của đức Như Lai, sự nhiệm mầu của pháp môn không chi hơn được! Nếu không có túc căn sẽ chẳng thể gặp gỡ!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cư sĩ [Giang] Dịch Viên đã đạt được lợi ích sâu xa, lại còn khuyên dạy người trong ấp cùng tu pháp này. Do vậy, người do nghiệp tiêu trí rạng mà vãng sanh và những người cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh kể sao cho xiết! Vì thế, các vị thiện sĩ ở Xung Điền nghe tiếng tăm dấy lòng noi theo, lập riêng phân xã để mong cư dân lân cận sẽ cùng được đẫm Phật quang, cùng sanh về Cực Lạc, đủ thấy con người có cùng một tâm này, tâm cùng một lý này, đã gieo thiện căn sâu xa trong nhiều đời nhiều kiếp vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phải biết: Phật pháp vốn là tâm pháp, là gốc của hết thảy các pháp thế gian. Nếu biết Phật pháp thì đạo "cách vật, trí tri, chánh tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" của thế gian đều được viên mãn rốt ráo. Nếu không, chỉ là bày biện nơi cành nhánh, chứ trọn chẳng được lợi ích thật sự nơi căn bản: Vì cái thân mưu tính sẽ chẳng thể vượt ra ngoài thân xác, vì đất nước mưu tính sẽ chẳng thể khiến cho phong thái đại đồng được thông suốt. Bậc thượng mà còn như thế thì bậc hạ cần chi phải nói nữa! Ngu phu, ngu phụ nếu y theo pháp môn Tịnh Độ do đức Phật đã nói để tu trì thì khi còn sống sẽ tận hết bổn phận, trọn hết tình nghĩa để trở thành hiền thiện, mất đi sẽ cao đăng chín phẩm sen liễu sanh thoát tử. Bậc hạ mà còn được như thế huống gì là bậc thượng! Nguyện những thiện tín tham dự liên xã và những ai thấy nghe trong hiện tại, tương lai, đều cùng nhờ vào tâm quang để đề cao Phật quang thì xã hội may mắn lắm mà thiên hạ cũng may mắn lắm thay!</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>6. Nêu tỏ ý nghĩa ẩn kín của việc thành lập Phật Quang phân xã tại nội thành Vụ Nguyên</B>
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật quang là tâm quang. Tâm quang ấy nơi phàm chẳng giảm, tại thánh không tăng. Chỉ vì chúng sanh chưa ngộ nên chẳng thể thụ dụng được, lại ngược ngạo nương vào sức tâm quang ấy để khởi Hoặc tạo nghiệp, luân hồi lục đạo trọn chẳng ngừng nghỉ. Vì thế, đức Phật tùy thuận căn cơ của chúng sanh, vì họ nói nhân quả của các pháp môn Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ v.v… và lý tánh sâu mầu trạm tịch viên dung Thường - Lạc - Ngã - Tịnh để chúng sanh y theo đó tu tập, sẽ có ngày tự viên mãn Bồ Đề, rốt ráo đích thân chứng được tâm quang ấy chiếu khắp pháp giới.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nho giáo cũng hết sức chú trọng pháp nhân quả. Vì thế, Khổng Tử khen ngợi Châu Dịch, vừa mở đầu liền nói: <I>"Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương"</I> (Nhà tích thiện niềm vui có thừa, nhà tích điều bất thiện tai ương có thừa). Cuối cùng, Ngài nói: <I>"Một Âm, một Dương gọi là đạo"</I>. Phàm tích thiện hay tích bất thiện, đó là nhân; dư khánh, dư ương chính là quả. Đức Phật nói nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo chính là nêu bày nhân quả đến rốt ráo vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có người bảo nhân quả là Tiểu Thừa, chẳng chịu đề xướng, đấy đều là hạng chuyên bàn xuông, chẳng tu thật đức! Đức Như Lai thành Chánh Giác, chúng sanh đọa ác đạo đều chẳng ra ngoài nhân quả, sao lại riêng coi là Tiểu Thừa ư? Như [Khổng Tử] nói "một Âm một Dương gọi là Đạo", thì cái Đạo vừa nói ấy thật sự là đạo gì? Chẳng phải là đạo Thành và Minh hợp nhất đó ư? Thành chính là Minh Đức, tức diệu tánh bất sanh bất diệt vốn sẵn có trong tâm chúng ta, đấy chính là Tánh Đức. Do không có công phu khắc phục [phiền não] nên chẳng thể hiển hiện được; vì thế gọi nó là Âm. Minh chính là như chữ Minh [thứ nhất] trong câu <I>"minh Minh Đức"</I> (làm sáng tỏ đức sáng), tức là công phu <I>"triêu càn tịch dịch</I><SUP><B>(6)</B></SUP>, <I>gắng sức tu trì"</I>, tức Tu Đức. Do những sự thuộc về Tu Đức hiển hiện rõ ràng nên gọi là Dương. Dốc công Tu Đức đến cùng cực thì Tánh Đức sẽ tỏ lộ trọn vẹn, Thành và Minh hợp nhất, tức là cái thường được gọi là <I>"minh Minh Đức chỉ ư chí thiện"</I> (làm sáng Minh Đức, ở yên nơi tốt lành tột cùng). Công phu phía trước điều này (tức những phương cách tu tập để đạt đến <I>"minh Minh Đức chỉ ư chí thiện"</I>) là cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, còn sự nghiệp phía sau điều này (tức những diệu dụng được thể hiện sau khi đã đạt đến <I>"minh Minh Đức chỉ ư chí thiện"</I>) là tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng [nếu] chỉ dùng [những công phu tu tập] Thành và Minh hợp nhất <I>"minh Minh Đức, chỉ ư chí thiện"</I> này để đạt tới "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" thì chưa thể nào đạt như vậy được, cho nên mới [cần phải] có những điều khiến cho chính ta không thể không làm như vậy được (tức là những điều khiến cho chúng ta phải gắng sức cách vật, trí tri, chánh tâm, thành ý). Thế nào là "những điều khiến cho chính ta không thể không làm như vậy được?" Chính là nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo! Kẻ tuy chí ngu quyết cũng chẳng chuộng hung ghét lành, vui mừng vì bị tai họa! Nghe <I>"chất chứa điều thiện ắt sự vui có thừa, chất chứa điều bất thiện ắt tai ương có thừa"</I>, người hiền ắt sẽ càng thêm siêng tu, kẻ không ra gì cũng phải gắng sức làm lành. Cố gắng lâu ngày, nghiệp sẽ tiêu, trí sẽ rạng, không có lầm lỗi, đức được sáng tỏ, xưa kia là kẻ chẳng ra gì, nay là bậc đại hiền.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do vậy biết đối với việc tự tu thì đạo Thành - Minh đã đủ rồi, nhưng để dạy người khác, nếu chẳng dùng nhân quả để giúp vào thì cũng khó khiến cho trọn hết mọi người đều tuân theo được! Kết hợp hai pháp nhân quả và Thành - Minh thì mới là đạo kế thiên lập cực<SUP><B>(7)</B></SUP> nêu gương mẫu cho muôn đời của thánh nhân, đấy cũng chính là ánh sáng sẵn có trong tự tâm và Phật quang phổ chiếu pháp giới vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bất Huệ thường nói: <I>"Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh"</I>. Muốn vãn hồi kiếp vận, cứu chữa nhân tâm nhưng chẳng chú ý điều này thì giống như tìm cá trên cây! Bọn Tống Nho khí lượng hẹp hòi, trộm cắp những nghĩa trọng yếu trong kinh Phật để phát huy tâm pháp của thánh nhân Nho giáo đời trước, muốn cho kẻ học đời sau chẳng nghe tới Phật pháp nên âm thầm sùng phụng, bề ngoài chống trái, càng ra sức bài bác [Phật pháp], cho là thật sự chẳng hề có những chuyện nhân quả luân hồi như đức Phật đã nói, Ngài chỉ nhờ vào đó để gạt gẫm hàng ngu phu ngu phụ tuân phụng giáo pháp của Ngài mà thôi! Do báng Phật nên tuy là nhân quả do thánh nhân đã nói cũng như những sự tích luân hồi sanh tử được chép trong các bộ Sử Ký, Hán Thư họ đều chẳng buồn nhắc tới, chỉ lấy "trọn hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận, chánh tâm, thành ý" để làm căn bản trị mình, trị người, trị nước mà thôi!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Họ lại còn nói con người chết rồi, hình hài đã mục nát, thần thức cũng phiêu tán, dẫu có chém - chặt - xay - giã thì lấy gì để thực hiện? Hơn nữa, thần thức đã phiêu tán, còn ai để thác sanh? Kẻ nói như vậy chẳng những phản bác Phật pháp mà còn hết sức phản bác những sự tích về thác sanh, biến hóa được chép trong Tứ Thư, Ngũ Kinh và Sử Ký, Hán Thư, riêng muốn dùng những cách ngăn lấp hậu học ấy khiến cho hàng hậu học đời đời chẳng được nghe Phật pháp để không ai biết những gì chính họ (tức bọn Tống Nho) đã đạt được [là do đâu mà có] và nhờ đó Nho Giáo cũng sẽ hưng thịnh. Họ chẳng biết cội gốc đã bị tổn thương thì cành nhánh làm sao tươi tốt cho được!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từ đấy trở đi, phương cách để duy trì thế đạo nhân tâm chỉ là "trọn hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận, chánh tâm, thành ý" mà thôi, hoàn toàn phế bỏ sự lý nhân quả thiện ác là cái thúc đẩy người khác chẳng thể không trọn hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận, chánh tâm, thành ý! Cõi đời bậc đại hiền thì ít, kẻ [căn cơ] trung hạ lại nhiều. Nếu coi nhân quả là hư vô, con người chết đi sẽ vĩnh viễn diệt mất thì chính là lấp mất con đường gắng sức làm lành của kẻ trung hạ, mở tung đầu mối cho kẻ cuồng vọng phóng túng chẳng kiêng dè! Đến khi gió Âu vừa thổi qua, bồng bột ngả theo, lại bị biến đổi dữ dội đến tận gốc, rốt cuộc đến nỗi phế kinh điển, phế luân thường, bỏ lòng hiếu, vứt lòng thẹn, mà vẫn khoe khoang, chẳng biết hổ thẹn. Nếu như lý nhân quả chẳng bị bài xích, đả phá, có ai chịu xướng lên những vở tuồng xấu ác ấy để chuốc lấy quả báo vĩnh viễn đọa trong ác đạo ư? Các vị tiên sinh [bên Nho giáo] chỉ biết dùng kiểu đó để bảo vệ đạo Nho, chẳng ngờ do đấy mà đạo Nho bị diệt! Học thuyết gây lầm lạc cho người khác, còn quá nước lũ, mãnh thú, chẳng đáng sợ hay sao?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Gần đây, phong hóa trong cõi đời ngày một đi xuống, những người hữu tâm ai nấy đều đề xướng học Phật. Tại Vụ Nguyên, kể từ khi được cư sĩ Giang Dịch Viên đề xướng đến nay, nhân sĩ cả một vùng đua nhau phụ họa, đã có nhiều nơi lập phân xã. Ấy là vì mong được nhờ Từ quang của đức Phật để từ đó bỏ ác tu thiện, tiêu tai, lành bệnh, giặc cướp nhiều phen chẳng kéo đến, tật dịch nhiều phen không xảy ra, hễ mưa nắng trái thời thì niệm Phật cầu đảo bèn được ứng nghiệm. Người cả một vùng khâm phục lời lẽ của Dịch Viên giống như bảy mươi người khâm phục Khổng Tử<SUP><B>(8)</B></SUP> vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay tại huyện thành cũng lập phân xã, trước khi mở cửa, cư sĩ Tề Dụng Tu xin Bất Huệ lược thuật những nét chánh yếu dù ẩn hoặc hiển về Phật quang, cho nên tôi trình bày những chuyện trong hơn tám chín trăm năm qua để bậc thông sáng mai sau có cái để soi xét. Còn đối với những người ắt dốc sức thực hành thì [hãy nên] giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, vâng giữ tám đức "hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ", thực hiện tám sự "cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", lại còn phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật, tự hành dạy người cùng sanh về Tây Phương, cùng chứng vô lượng thọ, vô lượng quang để tâm quang của mỗi người cùng với Phật quang thường tịch và tâm quang từ Hạnh Đàn<SUP><B>(9)</B></SUP> Tứ Thủy chiếu rọi lẫn nhau thì quốc gia may mắn lắm mà pháp đạo cũng may mắn lắm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) <I>"Triêu càn tịch dịch"</I> vốn là một thành ngữ phát xuất từ một câu nói trong sách Châu Dịch: "Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược lệ, vô cữu" (Quân tử suốt ngày từ sáng đến tối cẩn thận dè dặt, không có chút coi thường, chểnh mảng nào, nên không lầm lỗi). Do vậy, <I>"triêu càn tịch dịch"</I> có thể hiểu là luôn cố gắng cẩn thận, giữ gìn, không coi thường, buông lung ý niệm.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(7) <I>"Kế thiên lập cực"</I> là một thành ngữ hiểu theo nghĩa đen là kế thừa ngôi vua, do vua được xưng tụng là thiên tử (con trời), ngôi vị cao nhất trong vạn dân, nên gọi là <I>"kế thiên lập cực"</I>. Hiểu theo nghĩa rộng, "kế thiên lập cực" là kế thừa đạo trời, dự vào ngôi vị cao cả, tức ngôi vị thánh nhân, thuận theo mạng trời, được vạn dân ngưỡng vọng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(8) Theo Pháp Ngôn Nghĩa Sớ của Dương Hùng, chữ “thất thập tử” phát xuất từ một câu nói của Khổng Tử: "Tốc tai, thất thập tử chi tiếu Trọng Ni" (Nhanh chóng thay, bảy mươi người có thể giống như Trọng Ni vậy). Tiếp đó, Dương Hùng đã dẫn các lời chú giải như sau: <I>"Nhan Sư Cổ chú thích: Thất thập tử nghĩa là [trong số] bảy mươi hai người đệ tử thấu đạt đạo của thầy, chỉ nêu số người đã học thành cái đạo của thầy nên nói là bảy mươi"</I>. Ở đây, Tổ Ấn Quang đã mượn thành ngữ này để khen ngợi ông Giang Dịch Viên cũng như khen ngợi những người do khâm phục ông Giang đã tự đề xướng tu trì Tịnh nghiệp tại các nơi giống như học trò Khổng Tử đã truyền bá cái đạo của thầy vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(9) Hạnh Đàn là tên gọi ngôi nhà nơi Khổng Tử dạy học tại huyện Tứ Thủy thuộc nước Lỗ xưa kia (nay thuộc địa phận tỉnh Sơn Đông). Hạnh Đàn tại Khổng Miếu hiện thời là một công trình được xây dựng từ đời Kim trên nền cũ của ngôi trường ấy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>7. Trình bày ý nghĩa ẩn kín của chữ Nhân</B> (<B>人</B>)
(năm Dân Quốc 27 - 1938, giảng cho một đệ tử)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Con người là một sinh vật trần trụi, thân bất quá mấy thước, tuổi thọ chẳng quá mấy chục năm, lại cùng với trời cao đất dầy dài lâu không lường xưng là Tam Tài, nghĩa ấy như thế nào? Phải biết: "Tài" là danh xưng của đức năng. Trời có đức năng che phủ trọn khắp, sanh thành trưởng dưỡng muôn vật; đất có đức năng chuyên chở trọn khắp, hàm dưỡng, bồi đắp muôn vật. Con người lấy việc "phụ trợ quyền sanh thành, dưỡng dục của trời đất, kế tục bậc thánh đời trước, khơi lối cho người học đời sau" làm đức năng. Nếu không có đức năng của con người [bổ trợ] thì đức năng của trời đất vẫn còn thiếu sót. Do được đức năng "giúp đỡ, kế thừa, khơi lối" của con người [bù đắp] mà đức năng của trời đất được viên mãn, đầy đủ, theo chiều dọc cùng khắp ba đời, theo chiều ngang trọn khắp mười phương. Con người cùng với trời đất được xưng là Tam Tài là vì lẽ đó! Đức năng của con người nói tổng quát có bốn điều:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Nhân (<B>人</B> - con người) tức là Nhân (<B>仁</B>), tức lòng nhân từ trắc ẩn, tự lợi, lợi tha, vì thế gọi là Nhân.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Nhân là Nhẫn (<B>忍</B>), chịu thương chịu khó, đảm đương nhiệm vụ chống trời đỡ đất, vì thế gọi là Nhân.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Nhân là Nhiệm (<B>任</B>), tận lực đảm nhiệm tám đức "hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ" sao cho không bị khiếm khuyết. Vì thế gọi là Nhân (Tám sự này thất phu thất phụ cũng đều làm được. Đấy chính là đại sự "giúp đỡ quyền sanh thành, trưởng dưỡng của trời đất, kế tiếp bậc thánh đời trước, khơi lối cho người học đời sau, chống đỡ trời đất" vậy. Nếu coi thường hoặc quên mất một hai sự, hoặc cả tám sự đều quên, sẽ trở thành kẻ giả dối mạo danh con người, chứ không phải là con người thật sự sánh cùng trời đất xưng là Tam Tài. Nếu suy gẫm như thế thì mong thành thánh, thành hiền, học làm Phật, làm Tổ ắt sẽ dư dùng).
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Nhân là Tận (<B>盡</B>), tận hết đạo luân thường của Nho giáo để giữ vẹn luân thường, tận hết đạo tâm tánh của Phật giáo để chứng tâm, vì thế gọi là Nhân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ý nghĩa của chữ Nhân lớn lao thay! Nguyện hết thảy những người cùng hàng ai nấy gánh vác bốn nghĩa của chữ Nhân thì nào phải chỉ mình nước ta may mắn, mà thật ra muôn nước trong thiên hạ đều hưởng may mắn sâu xa. Nếu nói: "Ông nói như thế, ông có thực hiện được mỗi một điều ấy không thiếu sót hay chăng?" Thưa rằng: "Con chim sắp chết tiếng kêu cũng bi thương, con người sắp chết cũng nói lời phải. Tôi xót cho tôi mỗi điều đều thiếu sót, chỉ mong sao hết thảy những người cùng hàng điều nào cũng chẳng thiếu sót, để mỗi một người cùng hàng lúc tuổi thọ đã hết sẽ khỏi phải xót xa sâu đậm giống như tôi vậy! Ông chẳng thấy trong kinh Vị Tằng Hữu Nhân Duyên con dã can<SUP><B>(10)</B></SUP> thuyết pháp, trời Đế Thích vái lạy mà nghe đó ư? Nếu người trong khắp cõi đất đều là trời Đế Thích thì cũng chẳng đến nỗi con dã can phải mở miệng, sao ông lại cố chấp tướng nhân ngã để rồi trách móc tôi vậy? Tôi biết lỗi rồi, từ rày chẳng dám nói nữa!"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(10) Theo Phật Quang Từ Điển, Dã Can (Śrgāla) còn được phiên âm là Tất Già La, là một loại cáo nhỏ. Nhưng trong Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa, ngài Huyền Trang lại giảng: <I>"Dã Can, tiếng Phạn là Tất Già La, sắc vàng lẫn xanh, giống như con chó, sống thành bầy, tối đến tru lên giống như tiếng sói tru. [Chữ Dã Can] đôi khi được viết thành Xạ Can"</I>. Như vậy, có lẽ Dã Can là một loài sói hay chó rừng thì đúng hơn, không biết đây có phải là một loài chó rừng mà người Anh - Mỹ thường gọi là Jackal hay không?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>8. Nêu tỏ ý nghĩa ẩn kín của việc học nghề Y</B>
(năm Dân Quốc 27 - 1938, nói với đệ tử là Châu Thanh Thái)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật là Đại Y Vương trị khắp những bệnh thân - tâm sanh tử cho chúng sanh, nhưng đại bệnh sanh tử do tâm khởi, nên trước hết phải [lấy] trị tâm bệnh làm điều kiện tiên khởi. Nếu có thể tu trì theo đúng pháp thì thân bệnh cũng sẽ nhờ đó mà được trị lành. Thân bệnh có ba thứ: một là túc nghiệp, hai là nội thương, ba là ngoại cảm. Trong ba thứ bệnh này chỉ có túc nghiệp là khó trị! Nếu có thể dốc lòng thành, cạn lòng kính, phát đại Bồ Đề tâm tự lợi, lợi tha niệm thánh hiệu "Nam-mô A Di Đà Phật" và "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát" để siêu độ những oan gia đối đầu đã bị [người bệnh] hãm hại trong những đời trước. Nếu họ (tức những oan gia đối đầu ấy) lìa khổ được vui thì người bệnh sẽ tiêu nghiệp, lành bệnh; họ chẳng những không còn quấy phá mà trái lại còn cảm cái ơn siêu độ nên sẽ âm thầm phù hộ. Phàm những ai mắc bệnh này và những người chữa trị bệnh ấy đều không thể không biết đến nghĩa này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hai là nội thương, hoặc do dụng tâm quá độ, hoặc do rượu chè, sắc dục, tiền bạc, hút sách, đối với mỗi thứ đều tham ưa. Nếu có thể giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành và dùng thuốc chữa trị ắt sẽ dễ lành bệnh. Nếu chẳng chú ý nơi căn bản, chỉ cậy vào thuốc men, cũng khó thấy được hiệu quả. Dù có hiệu quả, vẫn khó giữ cho vĩnh viễn không bị tái phát.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ba là ngoại cảm, chỉ cần làm theo như cách đã nói trong phần nội thương trên đây. Dẫu có bị trúng phải gió, lạnh, nắng, mưa bên ngoài cũng hết sức dễ chữa. Nếu chẳng chú ý ngăn ngừa giận dữ, gạt bỏ ham muốn, dứt lòng tà, giữ lòng thành thì tuy là bệnh ngoại cảm vẫn chẳng dễ gì chữa trị vì bị tổn thương từ căn bản mà chỉ trị nơi cành nhánh, thật khó được lợi ích! Do vậy, thánh nhân giữ yên đất nước khi chưa loạn, bảo vệ thân khi chưa bệnh, tuy không có kỳ tích bình trị, bảo vệ, nhưng sự bình trị, bảo vệ cũng lớn lắm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôi hoàn toàn chẳng biết gì về thuốc men, nhưng rất mong cho người đời đều không bệnh tật, hằng ngày trì chú Đại Bi gia trì vào nước sạch, có người mắc bệnh ngặt lâu ngày, thầy thuốc Bắc, thuốc Tây đều chẳng chữa được, [tôi cho người ấy uống nước đã được trì chú Đại Bi], dạy người ấy kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật và niệm Quán Âm, nếu thật sự chí thành sẽ lập tức xoay chuyển được tình thế, không lâu sau tự lành bệnh. Dẫu chẳng thể lành ngay, quyết cũng chẳng lẽ nào bị bệnh nặng thêm, lại còn có thể tiêu trừ ác nghiệp, tăng trưởng thiện căn, lại chẳng tốn kém chi!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông muốn học Y, tuy chú trọng nơi châm cứu, dược phẩm, nhưng cần phải phát đại Bồ Đề tâm, thường dùng thánh hiệu của Phật, Bồ Tát và chú Đại Bi khắp vì ta - người trì tụng, để mong đôi bên cùng được thân tâm an lạc trong đời này, lâm chung quyết định vãng sanh Tây Phương thì chẳng uổng là đệ tử Phật, tùy phần tùy sức thực hiện đạo lợi khắp ta - người. Nếu giống như những gã thầy thuốc tầm thường trong cõi đời chỉ cầu lợi, chẳng coi trọng chuyện cứu chữa người bệnh, dẫu cho giàu nứt đố đổ vách cũng chỉ được kết quả là chính mình vĩnh viễn đọa trong ác đạo, con cháu hoặc thành phường bại hoại, hoặc rốt cuộc bị tuyệt diệt! Uổng có cơ hội tự lợi lợi tha mà lại ngược ngạo biến thành cái quả tự hại, hại người, chẳng đáng thương sao? Chẳng đáng sợ sao? Sách Cảm Ứng Thiên có câu: <I>"Họa phước không cửa, chỉ do con người tự chuốc lấy"</I>, người thông minh trong cõi đời phần nhiều đều muốn hưởng phước lạc, đâm ra chuốc lấy họa ương. Nếu ông chẳng thuận theo thói đó, ắt sẽ được "danh xứng với thật", là bậc đại quốc thủ. Nếu không, chỉ trở thành kẻ giặc cho dân mà thôi! Lấy - bỏ thế nào, mong ông hãy tự chọn lựa!</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>9. Pháp ngữ dạy thầy Hoa Quyền đang bị bệnh</B>
(năm Dân Quốc 21 - 1932)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Con người sống trong thế gian ai cũng chẳng thể nào tránh khỏi nỗi khổ tật bệnh, chết chóc! Trong khi những sự khổ như vậy xảy ra, chỉ nên buông xuống muôn duyên, nhất tâm niệm "Nam mô A Di Đà Phật". Nếu hơi thở ngắn thì chỉ niệm bốn chữ A Di Đà Phật, nhất tâm cầu Phật từ bi tiếp dẫn ông vãng sanh Tây Phương. Trừ một niệm ấy ra, trong tâm chẳng được khởi lên mảy may tưởng niệm khác biệt nào, cũng đừng mong bệnh chóng lành, cũng chớ có tưởng niệm cầu thần cầu trời giáng phước. Hễ có những thứ tưởng niệm ấy, tâm ông sẽ bị cách ngăn với tâm đức A Di Đà Phật; do vậy sẽ chẳng hưởng được sức gia bị do lòng từ của Phật. Ông phải hiểu rằng: Trời đất cha mẹ đều chẳng thể làm cho ông thoát luân hồi sanh tử được, chỉ có đức A Di Đà Phật là có thể làm cho ông thoát luân hồi sanh tử!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Giả sử ông chịu buông xuống hết thảy, nhất tâm niệm Phật thì nếu tuổi thọ chưa hết sẽ được chóng lành. Nếu tuổi thọ đã hết, liền vãng sanh Tây Phương; nhưng chớ nên cầu bệnh chóng lành, chỉ nên cầu mau được vãng sanh. Nếu tuổi thọ đã hết mà cầu lành bệnh sẽ chẳng được vãng sanh. Cầu vãng sanh thì nếu tuổi thọ chưa hết sẽ mau được lành bệnh. Vãng sanh Tây Phương có những điều hay chẳng thể nói trọn, so với những kẻ sanh lên cõi trời làm thiên đế, thiên vương vẫn cao cả hơn vô số vô lượng vạn vạn vạn vạn lần.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ông đừng có si tâm vọng tưởng sợ chết. Có cái tâm sợ chết sẽ chẳng thể vãng sanh được! Chúng ta sống trong thế gian giống như loài giòi trong hầm phân, tù nhân trong lao ngục, khổ chẳng chịu đựng được! Vãng sanh Tây Phương như thoát khỏi hầm phân, lao ngục, đến quê nhà thanh tịnh an lạc tiêu dao tự tại, há nên sợ chết? Nếu có tâm niệm sợ chết, sẽ vĩnh viễn chịu khổ trong sanh tử luân hồi, vĩnh viễn chẳng có thuở thoát khổ. Nếu ông niệm ra tiếng được thì cũng nên niệm nhỏ tiếng, chẳng thể niệm ra tiếng nổi thì niệm thầm trong tâm, tai nghe người khác niệm, trong tâm cũng niệm như thế. Mắt lại dõi nhìn A Di Đà Phật (tức đức Phật được thờ trong thất), trong tâm tưởng đến A Di Đà Phật. Hễ có những niệm khác khởi lên, hãy nên tự trách: "Ta muốn cậy vào Phật lực vãng sanh Tây Phương, sao lại khởi lên những thứ ý niệm này làm hỏng đại sự của ta?"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu ông chịu niệm theo như lời tôi nói, chắc chắn được vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, bao kiếp vĩnh viễn thường hưởng khoái lạc, trọn chẳng phải thấy nghe mảy may sự khổ gì, há còn có những thứ khổ não tật bệnh như thế này hay sao? Nếu gặp lúc trong tâm dấy lên phiền não, phải hiểu rằng đấy chính là do ác nghiệp trong đời trước xui khiến, muốn phá hoại đạo vãng sanh Tây Phương của ta, muốn khiến cho ta vĩnh viễn bị khổ vì sanh tử luân hồi, ta nay hiểu được nó muốn hại ta, ta chẳng để cho nó xoay chuyển, trừ chuyện niệm Phật ra, chẳng nghĩ đến chuyện gì khác. Như vậy thì tâm tâm tương ứng với Phật, được Phật tiếp dẫn, sẽ liền vãng sanh. Hãy nhớ kỹ lời tôi thì sẽ tự mau được lợi ích không chi lớn hơn được!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>10. Pháp ngữ dạy mẹ con ông Ân Đức Tăng</B> (hai bài)
(năm Dân Quốc 25 - 1936)
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Hai chữ "nhân quả" gồm trọn hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian, trọn hết không bỏ sót gì. Do vậy, chẳng riêng gì Phật giáo đề cao [nhân quả] mà pháp thế gian cũng chẳng bỏ qua [nhân quả]. Trong sách Nho đã sớm để lại giáo huấn rõ ràng. Kinh Dịch chép: <I>"Tích thiện dư khánh, tích bất thiện dư ương"</I> (tích chứa điều thiện niềm vui có thừa, tích chứa điều bất thiện tai ương có thừa), kinh Thư ghi: <I>"Tác thiện giáng tường, tác bất thiện giáng ương"</I> (làm lành thì điều tốt lành sẽ giáng xuống; làm điều chẳng lành, tai ương sẽ giáng xuống) chẳng phải là nói về nhân quả hay sao? Nhưng hết thảy những chuyện kỳ kỳ quái quái, thiện thiện ác ác được biên chép trong bộ Xuân Thu Tả Truyện đều là những ghi chép thật sự về nhân quả. Nếu người đời sau đọc bộ sách ấy, xét nghĩ những chuyện ấy sẽ thấy rành rành họa phước vô thường, báo ứng chẳng sai vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do có quỷ thần, dè dặt kinh sợ, bậc thượng trí sẽ mạnh mẽ dấy lên chí hướng ưu thời mẫn thế, gắng tu đức của chính mình; kẻ hạ ngu cũng biết nể sợ, chẳng dám làm ác. Vì thế, nhân quả thật sự là sự phòng ngừa lớn lao để ràng buộc lòng người, đáng để phụ trợ cho những chỗ mà sự cai trị của nhà vua chưa được thấu tới, mà cũng là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh, và cũng là mấu chốt khiến cho đất nước yên ổn hay loạn lạc, hưng thịnh hay suy vi từ xưa đến nay vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hiện thời thế đạo ngày một suy vi, lòng người chìm đắm, sở dĩ tệ hại đến cùng cực như thế này đều là vì chẳng hiểu rõ lý nhân quả báo ứng mà ra. Lý nhân quả chẳng được sáng tỏ thì tuy cái nhân gần là do bị ảnh hưởng bởi những học thuyết mới, nhưng thật ra cái nhân xa là do Tống Nho bác Phật đã ươm thành. Ấy là vì [từ khi] học thuyết Tống Nho được xướng suất mạnh mẽ: "Quỷ thần chỉ là lương năng của hai khí (Âm - Dương), con người chết đi thần hồn cũng phiêu tán, dẫu có chém - chặt - xay - giã sẽ thực hiện vào đâu, quân tử có làm gì để làm lành thì chuyện làm lành ấy cũng chẳng thật, cần gì phải bàn đến nhân quả?" Phàm "không làm gì mà là làm lành" chỉ để nói với bậc thượng trí, chứ đối với hạng người từ bậc trung trở xuống, ắt phải nhờ vào khuyên bảo "hãy có làm"<SUP><B>(11)</B></SUP>] thì mới là lành. Nay nói: "Chẳng làm gì mà là làm" sẽ ngăn trở con đường hướng thiện của người khác!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thánh nhân dùng thần đạo để lập giáo, ngầm khen ngợi thần minh, từ kết quả truy ngược về cội nguồn nên biết được lẽ sanh tử. Tinh - khí là vật, du hồn biến chuyển, do vậy biết được tình trạng của quỷ thần. Nay coi quỷ thần là hư vô, hoang đường, tức là đã phế trừ giáo huấn của các bậc tiên vương! Nếu chết đi đã thành đoạn diệt, không nhân quả, không báo ứng thì hết thảy hạnh nghịch ác hễ tỏ được cái chí thì đâu cần kiêng sợ gì mà không làm cơ chứ? Loạn thiên hạ, gây họa cho nhân loại, ắt đều bắt nguồn từ đây! Bọn Trình - Châu chỉ biết cổ vũ "quân tử không làm gì chính là làm lành", chẳng thèm lo tới chuyện "bọn tiểu nhân không kiêng sợ nên cứ làm ác" hay sao? Trong thiên hạ, bậc quân tử thì ít, tiểu nhân lại nhiều, lời lẽ của bọn Trình - Châu lợi thiên hạ thì ít, hại thiên hạ cũng nhiều, chẳng đáng đau xót ư? Nhưng cái thuyết Lý Học của bọn Trình - Châu phần nhiều lấy từ các [nghĩa lý trong] kinh Phật, nhưng họ lại toan dùng đó để tự khoe tài, đã học được từ người ta lại ngược ngạo bảo người ta chẳng bằng mình, bịt tai trộm linh, trong lòng sùng phụng, mặt ngoài chống trái, thậm chí chẳng tiếc công đàn áp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thật sự là vì đâu mà lại như thế? Đáp: Do tri kiến môn đình và muốn được phối hưởng<SUP><B>(12)</B></SUP> trong Văn Miếu mà thôi! Bọn họ chỉ vì tri kiến môn đình, gây họa hoạn vô cùng cho hậu thế. Đấy cũng là điều bọn Trình - Châu chẳng lường tới, nhưng những người có lòng [lo cho đời] đều đau đớn sâu đậm! Trình - Châu từng là những bậc đại Nho một thời dưới đời Tống, công duy trì nhân luân kỷ cương của họ đâu thể không tính kể tới, nhưng lập luận của họ chẳng tránh khỏi trái nghịch tiên thánh, gây lầm lạc cho đời sau. Bọn ta đọc sách để học đòi cổ nhân, há chẳng suy xét sâu xa ư?
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Hiện nay muốn xương minh sự lý nhân quả và phương pháp thực hành [điều đó] thì trước hết phải thực hiện bằng sự giáo dục trong gia đình; nhưng giáo dục trong gia đình lại phải lấy phụ nữ làm chủ thể. Bởi lẽ, đời có mẹ hiền thì mới có con hiền. Noi theo bậc hiền mẫu thời cổ, thực hiện thai giáo: un đúc bẩm chất từ lúc ban đầu, nuôi nấng, dạy dỗ từ khi chưa sanh ra ngõ hầu con sẽ tập quen thành tánh. Như ba bà Thái đời Châu (Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự) ngầm giúp đỡ chồng, dạy con từ lúc nó còn nằm trong thai, đều là bậc thánh nhân trong nữ giới, quả thật họ đã lập nên nền tảng mở mang vương nghiệp nhà Châu. Tôi thường nói: <I>"Quyền trị quốc bình thiên hạ hàng nữ nhân nắm quá nửa"</I>. Lại nói: <I>"Dạy con gái là cái gốc để tề gia, trị quốc"</I> tức là nói đến chuyện "trọn hết đạo làm vợ, giúp chồng dạy con". Nữ giới ngày nay phần nhiều chẳng hiểu nghĩa này, lầm lạc muốn tham gia chánh trị nắm quyền, tính làm đại sự, bỏ mặc đạo căn bản là vun bồi gia đình. Điều này quả thật gom sắt của muôn nước chín châu cũng chẳng đúc được cái lỗi lầm lớn lao ấy<SUP><B>(13)</B></SUP>, thật đáng cảm khái sâu xa! Thế nào là đạo căn bản để vun bồi gia đình? Chính là hễ dạy dỗ con cái, ắt phải khi con đang còn trong độ tuổi măng sữa, trước hết phải làm cho nó biết về thuyết nhân quả báo ứng thì đối với hết thảy những hành vi nghịch ác nó sẽ tự kiêng sợ chẳng dám làm. Giảng giải sách nhân quả không chi hay bằng Cảm Ứng Thiên<SUP><B>(14)</B></SUP> và Âm Chất Văn<SUP><B>(15)</B></SUP>. Hai cuốn sách ấy phải thường giảng nói, ắt sẽ tự có lợi ích không chi lớn bằng! Bởi lẽ, trẻ thơ thiên tánh chưa xấu xa, lời lành dễ tiếp nhận, tập quen từ bé, lâu ngày sẽ thành bản tánh, đến khi lớn lên sẽ chẳng thay đổi được! Gốc chánh nguồn trong được bắt nguồn từ đấy! Vì thế, kinh Dịch chép: <I>"Mông dĩ dưỡng chánh, thánh công dã"</I> (Dạy cho trẻ thơ điều đúng đắn, có công như thánh nhân vậy).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngày nay thiên hạ sở dĩ đại loạn đều là do cha mẹ chẳng hiểu nguyên lý giáo dục đã ươm thành vậy. Bởi lẽ đã chẳng thể dùng thai giáo để dạy dỗ điều lành từ đầu, lại còn chẳng thể dùng nhân quả để răn nhắc lúc sau. Căn bản đã hỏng thì sẽ bừa bãi, tràn lan chẳng thể nào thâu thập được. Do vậy mới xướng lên những thuyết bất hiếu, không cần cha mẹ, mới bàn đến chuyện cách mạng gia đình không kiêng dè chi! Dẫn đến [tình cảnh] bạn bè chơi với nhau vì lợi lộc hòng bán chác, vợ chồng hợp lại hay chia tay nhau giống như cầm thú, chôn vùi đạo nghĩa liêm sỉ, thiên lý tuyệt diệt [như] nước lũ cuồn cuộn tận trời chẳng biết khi nào ngừng. Dẫu Khổng Tử, Thích Ca sống trong thời buổi này cũng không có cách gì cứu giúp được, nguy ngập vậy thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Làm như thế nào đây? Đáp: Đường lối để cứu vãn chỉ có cách chú trọng giáo dục gia đình sao cho ai nấy giảng rõ sự lý nhân quả cho con cái hòng vun bồi căn bản mà thôi! Đã gieo thiện nhân ắt gặt thiện quả, mới hòng có hy vọng trong tương lai lòng người biến đổi tốt đẹp, phong tục dần dần thuần lương, thiên hạ nước nhà thái bình vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(11) Ý nói: Phải tích cực làm lành (tức là có thực hiện điều thiện thì mới là làm lành), chứ không phải như bọn Lý học rêu rao "hễ có làm gì để làm lành thì là ác". Các nhà Lý Học không hiểu thánh hiền đạo Nho dạy "không có gì để làm mới là làm lành" chính là làm lành nhưng không chấp trước vào việc làm lành, làm lành với tâm không phân biệt, tự nhiên làm lành như đói cần ăn, khát cần uống, nên làm lành mà cũng như không làm lành.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(12) Văn Miếu là nơi thờ Khổng Tử và 72 môn đệ (Thất Thập Nhị Hiền). Tại Văn Chỉ (một hình thức thu gọn của Văn Miếu tại mỗi làng), những người có chí khí, danh tiết cao đẹp trong làng cũng được thờ trong gian bên cạnh hoặc nơi bàn thờ phụ, gọi là "thờ phối hưởng".
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(13) Câu nói này vốn dựa theo ý một câu nói của La Thiệu Uy vào cuối đời Đường. Theo Tư Trị Thông Giám, nguyên văn câu nói của La Thiệu Uy là: <I>"Hợp lục châu tứ thập tam huyện thiết bất năng chú thử thác"</I> (Gộp sắt của bốn mươi ba huyện trong sáu châu cũng không đúc được lỗi lầm này). Nguyên lai, vào cuối đời Đường, các phiên trấn (những tướng lãnh nắm giữ binh quyền tại các địa phương) thế lực rất lớn. Khi Điền Thừa Tự giữ chức Tiết Độ Sứ vùng Ngụy Bác (bao gồm sáu châu Ngụy, Bác, Tương, Vệ, Bối, Đàn, nay thuộc vùng duyên hải của Bột Hải thuộc phía Bắc Hoàng Hà) đã tuyển lựa những quân sĩ thân tín, chu cấp hậu hĩnh, huấn luyện kỹ càng, tổ chức thành một đội quân tự vệ, gọi là Nha Quân. Đến khi La Thiệu Uy làm Tiết Độ Sứ vùng Ngụy Bác, do thấy Nha Quân thế lực quá lớn, kiêu binh tung hoành không thể kiềm chế được, thậm chí đôi khi còn làm loạn, giết cả Tiết Độ Sứ. Năm Thiên Hựu thứ hai đời Đường Chiêu Tông, một viên chỉ huy của Nha Quân là Lý Công Toàn gây binh biến, La Thiệu Uy bèn cầu cứu viên Tiết Độ Sứ có thế lực mạnh nhất thời ấy là Vũ Châu Ôn (ông này làm Tiết Độ Sứ vùng Tuyên Vũ, nay thuộc huyện Khai Phong, tỉnh Hà Nam). Châu Ôn liền phái bảy vạn nhân mã tiến vào Ngụy Bác, giết được tám ngàn Nha Quân, dần dần dẹp tan sự đối kháng của Nha Quân. Để cung cấp cho quân đội của Châu Ôn, La Thiệu Uy đã phải tốn hơn nửa ức tiền, giết đến gần bảy chục vạn trâu dê cho quân Châu Ôn ăn trong nửa năm, tốn kém lương thảo vô số. Lúc quân Châu Ôn rút đi, lại còn phải biếu tặng cả trăm vạn quan tiền. Từ đấy, vùng Ngụy Bác suy sụp, kiệt quệ, hoàn toàn không còn sức đối kháng ngoại địch. Như vậy, tuy La Thiệu Uy trừ được mối lo do Nha Quân gây ra, nhưng cũng đồng thời tự diệt sạch lực lượng chính bảo vệ vùng Ngụy Bác, hoàn toàn chịu sự chi phối của Châu Ôn. Do đó, La Thiệu Uy mới hối hận thốt lên thời than thở như vậy. Từ câu nói ấy đã phát sanh thành ngữ "chú thành đại thác" vốn thường được dùng để chỉ lỗi lầm chết người do ham mối lợi nhỏ trước mắt mà ra.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(14) Theo thiên Nghệ Văn Chí trong Tống Sử và sách Quận Trai Độc Thư Phụ Chí, ẩn sĩ Lý Xương Linh đời Tống đã biên soạn cuốn Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, thác danh Thái Thượng Lão Quân giáng cơ. Tuy thế, các nhà nghiên cứu vẫn chưa đồng ý ai thật sự là tác giả của cuốn sách này. Do nội dung sách này khuyến thiện làm lành rất tích cực, nó được người Trung Hoa rất ngưỡng mộ, cũng như được rất nhiều người viết lời chú giải. Sách càng được nổi tiếng lưu hành mạnh mẽ hơn khi được học giả Huệ Đống đời Thanh chú giải tường tận, cho đến hiện thời cuốn sách này vẫn được lưu hành rất rộng và được Phật môn Trung Hoa rất coi trọng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(15) Âm Chất Văn tên gọi đầy đủ là Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn, chưa rõ ai là tác giả. Châu Khuê đời Thanh khi giảo chánh cuốn Âm Chất Văn Chú đã nhận định: <I>"Âm Chất Văn nói những chuyện liên quan đến đời Tống, ắt phải do người đời Tống biên soạn"</I>. Học giả Tửu Tỉnh Trung Phu của Nhật lại cho rằng tác phẩm này phải được hình thành vào cuối đời Minh, nhưng không đưa bằng chứng đủ tính thuyết phục nào. Dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của Âm Chất Văn, các đạo sĩ đã biên soạn Văn Đế Cứu Kiếp Kinh và Văn Đế Diên Tự Kinh để tiếp tục xiển dương tư tưởng khuyến thiện trừng ác trong Âm Chất Văn. Âm Chất Văn thác danh Văn Xương Đế Quân giáng cơ. Văn Xương Đế Quân vốn còn gọi là Tử Đồng Đế Quân, theo truyền thuyết vốn là Trương Á Tử, làm quan đời Tấn, chết trận, được dân chúng lập miếu thờ, rất hiển linh. Do các đạo sĩ đời Tống - Nguyên viết truyện nói ông Trương được Thượng Đế sắc phong làm Tử Đồng Đế Quân và đã nhiều lần giáng thế, được thiên đình giao cho nhiệm vụ chưởng quản phủ Văn Xương chuyên coi về việc học hành, thi cử, quan chức của thế gian nên còn có tên là Văn Xương Đế Quân. Do vậy, năm Diên Hựu thứ ba (1316) đời Nguyên, vua đã sắc phong cho Văn Xương Đế Quân một tước hiệu thật dài "Tử Đồng Thần Vi Phụ Nguyên Khai Hóa Văn Xương Tư Lộc Hoằng Nhân Đế Quân". Chữ Âm Chất phát xuất từ thiên Hồng Phạm sách Thượng Thư: <I>"Duy thiên âm chất hạ dân"</I> thường được giải thích là "trời ngấm ngầm bảo vệ, che chở muôn dân". Từ đó, Âm Chất được hiểu là làm những việc công đức ngấm ngầm, không khoe khoang, rêu rao cho người khác biết. Đặc điểm của Âm Chất Văn là dung thông những quan điểm của Tam Giáo, đặc biệt đề cao nhân quả, luân hồi, báo ứng, nên rất được Phật môn Trung Hoa coi trọng.</P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>11. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường</B> (hai mươi bảy câu)
(năm Dân Quốc 21 - 1932)
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Hỏi: Nguyên nhân khiến đệ tử tin Phật bắt nguồn từ việc nghiên cứu thuật Thôi Miên. Xưa kia con đã nghe tục ngữ có câu: <I>"Chín lần tu làm thiên tử, mười lần tu làm Phật"</I>, nghĩ rằng tu mười đời mới thành tựu được, thường sợ bỏ dở giữa đường, phí sạch hết công lao [tu tập] từ trước. Nếu sớm biết sẽ thành tựu ngay trong đời này thì đã sớm niệm Phật rồi. Tuổi con đã hai mươi bảy, rất hối hận đã phát tâm trễ tràng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: <I>"Chín lần tu làm thiên tử, mười lần tu làm Phật"</I> chính là lời nói nhảm của kẻ chẳng biết gì về Phật pháp. Người biết Phật sẽ trọn chẳng nói câu đó. Pháp môn Tịnh Độ chính là cậy vào Phật lực để liễu sanh tử, đều phải có đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, quyết định mong cầu đến lúc lâm chung vãng sanh Tây Phương. Nếu chẳng cậy vào Phật lực mà muốn liễu sanh tử thì ngàn đời vạn kiếp chẳng thể liễu thoát rất nhiều!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Hỏi: Con tin tưởng tịnh tâm sẽ thành Phật, giống như trong thuật Thôi Miên ắt phải trầm tĩnh rồi sau đấy mới có hiện tượng chẳng thể nghĩ bàn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Tịnh tâm niệm Phật quán Phật sẽ dễ tương ứng với Phật. Nếu có lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, chắc chắn được vãng sanh, rồi sẽ dần dần tấn tu, ắt sẽ thành Phật. Đừng nên nói "hiện tại tịnh tâm sẽ được thành Phật!"
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Hỏi: Con tin tưởng nhờ cậy vào Phật lực, như trong thuật Thôi Miên tự thôi miên chính mình sẽ khó hơn bị người khác thôi miên. Vì thế biết là Tự Lực chẳng bằng Tha Lực.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Hết thảy pháp môn đều phải cậy vào Tự Lực để đoạn Hoặc chứng Chân hầu liễu sanh thoát tử, như người thọt chân tự đi, một ngày khó đi được trăm dặm. Pháp môn Tịnh Độ nương vào sức Từ của Phật sẽ có thể đới nghiệp vãng sanh, giống như kẻ thọt chân ngồi trên bánh xe báu của Chuyển Luân Thánh Vương, trong một ngày đến khắp bốn châu, làm sao có thể lấy chuyện Thôi Miên để chứng minh cho được!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Hỏi: Miệng niệm Phật, tâm tưởng Phật, [vậy thì] đức Phật được tưởng ấy có giống như [đức Phật được tưởng trong] phép Quán thứ tám<SUP><B>(16)</B></SUP> của Quán Kinh hay không?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Quán tưởng phải bắt đầu tu tập từ phép Quán thứ mười ba<SUP><B>(17)</B></SUP>. Nếu không, cảnh tế tâm thô, khó thể thành tựu, hoặc nếu như dụng tâm không thích đáng sẽ dấy lên ma sự.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) Hỏi: Như khi gặp nguy hiểm, lâm vào tình thế chẳng thể cùng một lúc kiêm tụng các chú thì hãy nên ứng dụng như thế nào?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Gặp phải tai nạn cực nguy hiểm, chỉ nên niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát là đỡ tốn tâm lực nhất, [lại] có cảm ứng nhiều nhất.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) Hỏi: Nếu chuyên tụng Phật hiệu, hiệu lực so với thần chú như thế nào?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Phật hiệu và thần chú có công đức giống hệt như nhau, chỉ do lòng chí thành thì mới có cảm ứng. Nếu trong tâm trước hết đã khởi lên ý niệm coi thường Phật hiệu thì sẽ chẳng có lợi ích gì, vì đã không chí thành lại còn ngờ vực nên chẳng được lợi ích chân thật.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(7) Hỏi: "Duy tâm Tịnh Độ tự tánh Di Đà" với "Tịnh Độ và đức Phật ở Tây Phương" là một nhưng mà hai, là hai nhưng mà một phải không?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Có duy tâm Tịnh Độ thì mới sanh về Tây Phương Tịnh Độ. Nếu tự tâm chẳng tịnh, làm sao vãng sanh được? Dẫu là kẻ tội nhân nghịch ác nhưng do niệm Phật mười tiếng bèn được vãng sanh là vì tịnh tâm niệm Phật mà cảm được [quả báo] vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ. Trong đời lắm kẻ tưởng "duy tâm là không có cõi nước", trở thành tri kiến của tà ma, ngoại đạo! Loại tà kiến tựa hồ là đúng nhưng thật ra là sai ấy chiếm hơn quá nửa đến nỗi người niệm Phật chẳng được lợi ích thật sự, mà vẫn tưởng mình là cao minh, chẳng biết đấy là tà kiến "chấp lý phế sự, tự lầm, lầm người!" Do tự tánh Di Đà nên phải niệm đức Di Đà ở Tây Phương để cầu vãng sanh hòng tấn tu dần dần để có đích thân chứng được Di Đà nơi tự tánh. Nếu chỉ chấp vào tự tánh Di Đà, chẳng niệm đức Di Đà ở Tây Phương, dẫu có ngộ thật sự vẫn không thể liễu sanh tử được! Huống chi những kẻ nói lời ấy toàn là bọn chấp chặt một bề, toàn là phường nói xuông! "Là một nhưng hai" là chuyện trước khi thành Phật, "tuy hai nhưng một" là chuyện sau khi đã thành Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(8) Hỏi: <I>"Sanh thì quyết định sanh, đi thì chẳng thật sự đi"</I>, sanh và đi đều chỉ cho điều gì?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: <I>"Sanh thì quyết định sanh"</I> là nói theo mặt Sự. "Đi chẳng thật sự đi" là nói theo mặt Lý. Chẳng biết cội nguồn của Sự - Lý thì tốt hơn là hãy chất phác niệm Phật theo sự tướng. Nếu không, ắt sẽ trở thành bọn tà ma, ngoại đạo chấp lý phế sự.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(9) Hỏi: Người tên X... nọ khi mạng chung chợt nói: "Tịnh Độ ngay trong góc sân", vậy cõi đất này là Tịnh Độ ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Đấy chính là nghĩa lý "duy tâm Tịnh Độ" phát hiện. "Duy tâm Tịnh Độ" chính là cảnh của một mình người đó, ngoài ra đều là duy tâm uế độ. Há có nên dựa theo cái thấy của người ấy để phán đoán ư?
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(10) Tụng kinh có phải là để làm cho chính mình sanh tâm hoan hỷ, chán lìa, hay là còn có tác dụng chi khác?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Ông tụng kinh chỉ biết cầu hoan hỷ cho chính mình, đáng tiếc là vô biên diệu nghĩa bị ông xem chẳng đáng một đồng!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(11) Hỏi: Hiểu Đệ Nhất Nghĩa là như thế nào?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Hiểu Đệ Nhất Nghĩa tức là triệt ngộ diệu lý Thật Tướng, duy tâm tự tánh.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(12) Hỏi: Cái tánh còn lại sau khi chết, [cái tánh đi] vãng sanh, và Phật tánh có những điểm giống nhau, khác nhau như thế nào?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Cái tánh của hết thảy chúng sanh trước khi sanh ra sau khi chết đi, cái tánh vãng sanh và Phật tánh [ba tánh ấy] đồng nhưng bất đồng, bất đồng nhưng đồng. Gọi là đồng vì bản thể của tâm tánh không hai. Nói là bất đồng vì do mê hay ngộ nên sai khác vời vợi một trời, một vực! Do có nghĩa này nên dạy người đoạn Hoặc chứng Chân để mong đích thân chứng được tâm tánh vốn đồng ấy. Chỉ có Thể là đồng, nhưng do mê chưa chứng nên bày ra đủ mọi pháp khiến cho họ bỏ vọng về với chân, trái trần hiệp giác hòng đích thân chứng được. Cách tu rất nhiều, chỉ có niệm Phật cầu sanh Tây Phương là dễ thực hiện nhất, dễ thành tựu nhất!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(13) Hỏi: Phật dạy tu Quán chính là vì chúng sanh đời sau ác trược chẳng lành bị năm thứ khổ bức bách mà lập giáo. Nếu dùng Thôi Miên để bộc lộ Thiên Nhãn Thông ngõ hầu nói ra để chứng minh thì hiển hiện cõi nước Cực Lạc cũng chẳng phải là chuyện khó. Huống chi rất cần chứng minh cho việc niệm Phật, sao không khuyên người tu Quán mà lại bảo đó là chuyện khó khăn?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Thôi Miên là do sức [huyễn] thuật, há phải là thật sự có Thiên Nhãn Thông ư? Người thật sự có Thiên Nhãn Thông há chịu để cho người khác thôi miên! Ông nay đã học Phật, hãy nên chuyên chí học Phật. [Muốn] hiện cõi Cực Lạc, chỉ dùng tịnh tâm mà niệm cho chuyên nhất thì sẽ làm được. Ví như mài gương, mài đến cùng cực thì [gương] tự nhiên tỏa sáng. Dùng thuật Thôi Miên để hiện thì trước hết tâm đã chẳng tịnh, niệm cũng chẳng chuyên nhất, ví như dùng bột trắng xoa lên gương mà cứ mong gương tỏa sáng, chẳng biết là đã phủ lấp tấm gương càng dầy vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(14) Hỏi: Tu Quán có phải là cậy vào Phật lực hay không? Trong phép Quán thứ mười ba [của Quán Kinh] có nói: <I>"Vô Lượng Thọ Phật thân lượng vô biên, tâm lực của phàm phu chẳng thể thấu hiểu được, nhưng do sức túc nguyện của đức Như Lai ấy nên có kẻ ức tưởng ắt được thành tựu"</I>. Điểm khác biệt giữa phép Quán này và tham Thiền là gì? So với tham Thiền có dễ hơn hay không?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Tham Thiền chỉ cốt suy cứu tự tâm, niệm Phật kiêm cậy vào Phật lực. Hai pháp đạt đến rốt ráo viên thành thì hoàn toàn giống như nhau, nhưng dụng công trong lúc tu trì thì rất khác biệt. Ví như đi đường ngồi thuyền hay ngồi xe khác nhau, nhưng về đến nhà thì giống như nhau.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(15) Hỏi: Tu Quán là tưởng hay là quán, hay dùng cả quán lẫn tưởng? Lấy gần hay lấy xa?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Hai chữ "quán tưởng" há nên chia ra làm đôi! Nhiếp tâm để tưởng chính là quán. Ông nghĩ là hai tức là trở thành chỉ biết [mười bằng] một nhân với mười, chẳng biết [con số mười ấy] nó cũng là hai lần năm. Hơn nữa, quán tưởng sao có thể chia ra thành gần hay xa cho được!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(16) Hỏi: Mỗi phép Quán phải cần [tu tập] tối thiểu bao nhiêu ngày?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Ông cho rằng tu một phép Quán này mấy ngày, rồi sẽ tu pháp Quán khác đó ư? Chẳng biết đức Phật tuy nói mười sáu phép Quán nhưng thoạt đầu hãy nên thực hành phép Quán thứ mười ba thì mới là tu khế lý khế cơ.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(17) Hỏi: Thoạt đầu là tưởng tượng thì chẳng phải là lan man ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Đã biết như trên đã nói thì cứ dựa theo đó mà suy.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(18) Hỏi: Phép Quán đầu tiên là nhất tâm tưởng mặt trời, hay là phải ngầm trì danh hiệu?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Quán và Trì Danh vốn là một chuyện, ông cho rằng khi quán thì chẳng thể trì danh, chẳng được trì danh hay sao?
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(19) Hỏi: Khi ngồi thì tu Quán, những lúc khác thì trì danh, so với chuyên trì một thứ thì là hơn hay kém?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Có cái tâm trầm tĩnh, kín đáo, thuần túy thì tu Quán cũng tốt mà trì danh cũng hay. Nếu không, so ra trì danh ổn thỏa hơn, bởi tâm chí sôi động, hời hợt, vọng động mà tu Quán thì sẽ bị nhiều ma sự.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(20) Hỏi: Quán thấy cõi nước Cực Lạc thì đấy có phải là Tịnh Độ thật sự hay là tướng giả hiện?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Quán thấy Cực Lạc chính là do duy tâm biến hiện, bảo đó là giả thì trở thành gã đứng ngoài cửa mất rồi!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(21) Hỏi: Quán thấy cõi Cực Lạc và được nghe pháp thì có phải là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông hay không?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Đấy chính là do sức Quán tạo nên. Nếu là Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ thì không cần quán cũng vẫn thấy nghe được.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(22) Hỏi: Có người nói thấy Phật chính là [thấy] vị Phật ở trong tâm chứ không phải là [thấy] vị Phật ở Tây Phương. Nếu đúng như vậy thì khi vãng sanh, vị Phật trong tâm có hiện ra hay không? Hay là A Di Đà Phật đến tiếp dẫn?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Lâm chung thấy Phật chính là đức Phật do tự tâm cảm thành, chớ nên quy hết về tự tâm rồi nói rằng "không có chuyện Phật đến đón!"
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(23) Hỏi: Còn như khi tu phép Quán thứ mười ba, lúc ấy có thể tùy ý vãng sanh hay không? Hay phải đợi đến khi lâm chung mới có thể vãng sanh?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Nghiệp báo chưa tận, làm sao vãng sanh ngay được? Xưa kia cũng có người [làm được như vậy], nhưng không thể áp dụng cho hết thảy mọi người được!
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(24) Hỏi: Quán đến khi thấy Phật nghe pháp rồi, mỗi ngày lại quán có cần phải bắt đầu quán từ phép Quán đầu tiên hay không?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Quán tưởng thì chỉ cần quán sao cho đắc lực, cần gì phải từ đầu đến đuôi, hằng ngày tập đi tập lại! Phật nói ra mười sáu phép Quán thì những phép Quán đầu nhằm khiến cho con người biết đến sự trang nghiêm của Cực Lạc, [các phép Quán] về chín phẩm vãng sanh ở phần sau nhằm làm cho con người biết nhân quả của phép được tu. Mỗi phép Quán đã biết thì qua một phép quán Phật sẽ có thể quán trọn vẹn các phép Quán kia.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(25) Hỏi: Từ phép Quán thứ mười bốn trở đi chính là [quán] các phẩm vãng sanh. Đã không có cảnh để hiện mà dạy quán, nghĩa là làm sao?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Nghĩa này đã nói rồi. Hãy xem những điều đã nói ở phần trên.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(26) Hỏi: Những người vãng sanh trên đây dường như chẳng phải là những vị do tu Quán mà vãng sanh, chẳng biết nên tưởng sự vãng sanh của người tu Quán như thế nào?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Phẩm vị của người vãng sanh muôn sai ngàn khác, trong kinh chỉ dùng chín phẩm để nói tóm gọn, sao ông biết những người vãng sanh trên đây chẳng do tu Quán mà được vãng sanh? Phải biết: Căn tánh con người bất đồng, dẫu chỉ [cùng là] một pháp mà vẫn có cao - thấp rất khác nhau, há nên câu nệ nơi pháp được tu ư? Ấy là do khả năng trong tâm địa của mỗi người, ông cho rằng các vị như Văn Thù, Phổ Hiền… chẳng tu Quán ư?
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(27) Hỏi: Nhớ số niệm Phật: Hít vào niệm sáu câu, thở ra niệm bốn câu là như thế nào? Tâm đã nhớ số lại niệm Phật, rồi lại phải tưởng Phật nữa ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp: Niệm Phật nhớ số là từ một đến ba, từ bốn đến sáu, từ bảy đến mười, sao lại hạn định trong hơi thở? Ông là kẻ học luyện đan vận khí nên mới thấy một hai chữ hơi tương tự, liền nói đó là công phu của họ. Cách niệm Phật nhớ số là vì kẻ vọng tâm khó chế ngự mà đặt ra. Niệm được như thế, ghi nhớ như thế, lắng nghe như thế, chắc chắn tâm sẽ dần dần điều phục. Ở đây có ai dạy ông thêm vào hai chữ "tưởng Phật" đâu? Ở đây là tùy tiện niệm, nào phải bận tâm thở ra hay hít vào? Nếu hít thở như thế lâu ngày sẽ bị tổn khí mắc bệnh, chẳng thể không biết [điều này]!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>GHI CHÚ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(16) Phép Quán thứ tám là tổng quán Tây Phương Tam Thánh cùng với cảnh giới trang nghiêm của cõi Cực Lạc, kinh dạy: <I>"Muốn quán Phật Vô Lượng Thọ trước phải tưởng hình tượng làm sao cho khi nhắm mắt, mở mắt đều thấy một tượng báu như sắc vàng Diêm Phù Ðàn, ngồi trên tòa sen kia. Lúc thấy Phật tượng rồi, tâm nhãn tự được mở mang rõ ràng sáng suốt. Bấy giờ hành giả thấy cõi Cực Lạc bảy báu trang nghiêm, như: đất báu, ao báu, hàng cây báu, trên cây có mành báu của chư thiên che phủ, các lưới báu giăng khắp giữa hư không. Khi đã thấy được cảnh tướng rất rõ ràng như nhìn vào bàn tay rồi, lại tưởng hai hoa sen lớn, một ở bên trái, một ở bên phải của Phật, cả hai đều giống như tòa sen trước. Xong lại tưởng hình tượng Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi tòa sen bên trái, tượng Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi tòa sen bên mặt, thân tướng đều rực rỡ như sắc vàng Diêm Phù Đàn..."</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(17) Phép Quán thứ mười ba chỉ quán thân Phật cao một trượng sáu đứng bên ao thất bảo, thân của hai vị Bồ Tát cũng đồng phân lượng, đồng thời giảm bớt rất nhiều chi tiết cho phàm phu dễ quán, chẳng hạn chỉ quán hai vị Bồ Tát khác nhau ở chỗ đức Quán Âm có hóa Phật đứng trên đảnh đầu, còn Đại Thế Chí là bảo bình trên nhục kế.</P>
</span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

I
Trả lời
0
Xem
3K
imported_gioidinhhue
I
Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên