- Tham gia
- 27/11/06
- Bài viết
- 423
- Điểm tương tác
- 79
- Điểm
- 28
Ý NGHĨA ĐỘC ĐẠO
TRONG THIỀN QUÁN TỨ NIỆM XỨ
TN HỮU LIÊN
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:Nội dung kinh Niệm Xứ (Satipatthànasutta)TRONG THIỀN QUÁN TỨ NIỆM XỨ
TN HỮU LIÊN
NỘI DUNG
Để việc tu hành đạt đến lợi lạc cao nhất, điều quan trọng nhất, hành giả phải học thông hiểu rành nội dung của bài kinh, và phải xem đây là một công thức tối cần không thể thiếu đối với việc hành thiền Phật giáo, vì tất cả những lời chỉ dẫn trực tiếp hay gián tiếp của Đức Thế Tôn về việc hành thiền quán đều được ghi lại một cách khúc chiết rõ ràng và giản dị, ai học rồi cũng có thể hiểu được và hành theo. Những gì là nội dung của kinh?
1.1. Duyên khởi:
Kinh Niệm xứ do Đức Phật thuyết giảng cho các Tỳ kheo tại đô thị Kammàssadhamma, xứ Kuru, nay là thủ đô Delhi của Ấn Độ.
1.2. Chánh kinh:
Bài kinh tập trung về bốn nền tảng hay cơ sở thực hành quán niệm (Tứ Niệm Xứ) gồm thân (kàya) thọ (vedanà) tâm (citta) pháp (dhamma), được Đức Phật gọi là con đường độc nhất (ekàyana-magga) đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn. Bốn cơ sở quán niệm gồm:
1/ Quán thân trên thân.
2/ Quán thọ trên các cảm thọ.
3/ Quán tâm trên tâm.
4/ Quán pháp trên các pháp.
1.2.1. Quán thân trên thân : (kàye kàyanupassanà)
Đề mục quán thân trên thân bao gồm sáu phương pháp quán niệm :
1.2.1.1. Quán niệm hơi thở : Vị hành giả tìm nơi thanh vắng như khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống … ngồi kiết già, lưng thẳng, an trú niệm trước mặt, tỉnh giác quán niệm hơi thở vào ra.
- Thở : vô dài, tuệ tri “tôi thở vô dài” : thở ra dài, tuệ tri “ tôi thở ra dài”
- Thở : vô ngắn, tuệ tri “ tôi thở vô ngắn” thở ra ngắn, tuệ tri “ tôi thở ra ngắn”
- “Cảm giác toàn thân” tôi sẽ thở vô; “Cảm giác toàn thân” tôi sẽ thở ra.
- “An tịnh thân hành” tôi sẽ thở vô; “An tịnh thân hành” tôi sẽ thở ra.
Khi thực hành pháp quán niệm trên, vị hành giả cần tuệ tri hay chú tâm nhận biết về hoạt động của hơi thở ; giống như người thợ quay, khi quay dài biết rõ mình đang quay dài ; hay quay ngắn biết rõ mình đang quay ngắn. Vị hành giả thực hành như vậy, thì được gọi là sống quán thân trên nội thân ; hay sống quán thân trên ngoại thân ; hay sống quán thân trên nội, ngoại thân; hay sống quán tánh sanh khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt tận trên thân, hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. “Có thân đây” vị ấy an trú chánh niệm như vậy với hy vọng hướng đến chánh trí chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước bất kỳ vật gì trên đời.
1.2.1.2. Quán niệm các oai nghi cử chỉ của thân: Vị hành giả khi đi, biết rõ: “tôi đi” hay khi đứng, biết rõ: “tôi đứng”; hay khi ngồi, biết rõ: “tôi ngồi”; hay khi nằm, biết rõ : “ tôi nằm”. Thân thể được sử dụng như thế nào, vị ấy biết rõ như thế ấy.
1.2.1.3. Quán các hành tướng: Vị hành giả khi bước tới bước lui, biết rõ việc mình đang làm ; khi ngó tới ngó lui, biết rõ việc mình đang làm ; khi mang áo Tăng già lê ( sanghàti ), mang y bát , ăn uống , nhai nếm, đại tiện, tiểu tiện, đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, thức, nói năng, hay im lặng đều biết rõ việc mình đang làm.
1.2.1.4. Quán niệm các thân phần: Vị hành giả chánh niệm quán sát thân gồm 32 vật bất tịnh – tóc, lông móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, não, hoành, cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước khớp xương, nước tiểu. Khi thực hành pháp này, vị hành giả cần phải tuệ trí hay biết rõ từng thân phần của cơ thể, tựa như một người phân biệt rõ các loại ngủ cốc được trộn lẫn với nhau trong một cái túi.
1.2.1.5. Quán niệm vị trí các giới hay các yếu tố (dhàtu) trên thân: Vị hành giả quán sát vị trí thuộc địa, thủy, hỏa, phong và sự sắp đặt của chúng trên thân. Vị ấy phân biệt rõ vị trí và sự sắp đặt của bốn yếu tố đất, nước, lửa, gió trong thân thể tựa như người đồ tể thiện xảo phân biệt rõ từng phần thân thể con bò bị xẻ thịt.
1.2.1.6. Quán niệm các giai đoạn phân hủy của tử thi : Vị hành giả quán niệm về tám giai đoạn phân hủy của thi thể, biết rõ tính chất, biết rõ bản chất không thể khác của thân thể:
(a). Thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa một, hai, ba ngày, trương phồng lên, xanh đen lại, thối nát ra.
(b). Thi thể bị các loại quạ, diều hâu, kênh kênh, chó, giả can, côn trùng ăn.
(c).Thi thể với bộ xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, được các đường gân cột lại.
(d).Thi thể với bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính thịt, nhưng còn dính máu được các đường gân cột lại.
(e).Thi thể chỉ còn xương nằm rải rác chổ này chổ kia.
(f).Thi thể chỉ còn toàn xương trắng như vỏ ốc.
(g).Thi thể chỉ còn là một đống xương lâu hơn một năm.
(h).Thi thể chỉ còn xương tan thành tro bụi.
1.2.2. Quán thọ trên các cảm thọ(vedanàsu_vedanànupassanà):
Vị hành giả tập trung quán niệm và biết rõ ba cảm thọ: lạc thọ (Sukhavedanà) khổ thọ (Dukkhavedanà) bất khổ bất lạc thọ( adukkham_ asukhavedanà) về ba cảm thọ đấy là thuộc về vật chất hay không thuộc về vật chất : ví dụ khi cảm giác lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy biết rõ từng loại cảm thọ mình đang cảm nhận. Tương tự, khi cảm giác lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, liên hệ đến vật chất hay không liên hệ đến vật chất ; vị ấy biết rõ từng loại cảm thọ của mình đang cảm nhận.
Vị hành giả thực hành như vậy thì được gọi là sống quán thọ trên các nội thọỉ; hay sống quán thọ trên các ngoại thọ; hay sống quán thọ trên các nội, ngoại thọ; hay sống quán tánh diệt tận trên các thọ; hay sống quán tánh sanh khởi trên các thọ hay sống quán tánh sanh diệt trên các thọ; “Có thọ đây”, vị ấy an trú chánh niệâm như vậy, với hy vọng đạt đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa không chấp trước bất cứ một vật gì trên đời.
1.2.3.Quán tâm trên tâm( citte_cittanupassanà):
Vị hành giả tập trung theo dõi và biết rõ 16 loại tâm qua tám cặp :
(1). Tâm có tham hay tâm không có tham.
(3). Tâm có sân hay tâm không có sân.
(5). Tâm có si hay tâm không có si.
(7). Tâm có tập trung hay tâm tán loạn.
(9). Tâm quảng đại hay tâm không quảng đại.
(11). Tâm giới hạn hay tâm vô thượng.
(13). Tâm có định hay tâm không có định.
(15). Tâm giải thoát hay tâm không giải thoát.
Vị hành giả tập trung theo dõi và biết rõ về 16 loại tâm như thế thì được gọi là quán tâm trên nội tâm ; hay sống quán tâm trên ngoại tâm ; hay sống quán tâm trên nội, ngoại tâm ; hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm ; hay sống quán tánh diệt tận trên tâm ; hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm. “Có tâm đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy với hy vọng đạt được chánh trí, chánh niệm và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước bất cứ một thứ gì trên đời.
1.2.4. Quán pháp trên các pháp (dhammesu_dhammanupassanà):
Đề mục này bao gồm các pháp quán niệm như sau:
1.2.4.1.Quán niệm về năm triền cái (pãnca nìvaranas) : Vị hành giả phải xét xem tâm mình, nếu có ái dục ( kàmacchanda) ; biết rõ nội tâm tôi có ái dục, không có ái dục, biết rõ nội tâm tôi không có ái dục ; đối với ái dục chưa sanh nay sanh khởi hay ái dục đã sanh nay được đoạn diệt, hay ái dục đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy biết rõ như vậy.
Đối với các triền cái còn lại như : sân hận (byapàda/ pàtigha), hôn trầm thụy miên (thìnamiddha), trạo hối (uddhaccakkucca), nghi (vicikicchà). Vị hành giả thực hành quán niệm trên thì được gọi là sống quán pháp trên các nội pháp ; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp ; hay sống quán pháp trên các nội ngoại pháp ; hay sống quán tánh sanh khởi trên các pháp ; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp ; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. “Có pháp đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy với hy vọng đạt được chánh trí, chánh niệm và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước bất cứ một vật gì trên đời.
1.2.4.2. Quán niệm về năm thủ uẩn ( pãnca_upàdanakkhandhas): Vị hành giả tập trung suy tư, biết rõ về năm thủ uẩn : sắc, thọ, tưởng, hành, thức, sự tập khởi và sự đoạn diệt của chúng.
1.2.4.3. Quán niệm về sáu nội ngoại xứ (cha_ajjhattikababra_àyatanas) : Vị hành giả quán niệm và biết rất rõ mắt (cakkhu) và các sắc (rùpa), biết rõ do duyên mắt và các sắc, kiết sử (samyojana) sanh khởi ; đối với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi ; hay kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt ; hay kiết sử đã được đoạn diệt tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy biết rõ như vậy. Vị ấy thực hành và biết rõ như trên đối với các nội và ngoại xứ còn lại, tức là, tai (sota) và tiếng (sadda), mũi (ghàna) và hương (gandha) , lưỡi (jivhà) và vị (rasa), thân (kàya) và cảm xúc (photthabba), ý (mana) và pháp (dhamma).
1.2.4.4. Quán niệm bảy giác chi ( satta_sambhojjhangà) : Vị hành giả xem xét tâm mình, nếu có niệm giác chi (sati_sambhojjhangà) biết rõ “nội tâm tôi có niệm giác chi”; hay không có niệm giác chi biết rõ “nội tâm tôi không có niệm giác chi”, đối với niệm giác chi chưa sanh nay sanh khởi, hay niệm giác chi đã sanh nay được tu tập viên thành, vị ấy biết rõ như vậy. Vị ấy thực hành xem xét như vậy đối với các giác chi còn lại nghĩa là trạch pháp giác chi (dhamma vicaya sambhojjhangà), tinh tấn giác chi (viriya samghojjhangà), hỷ giác chi (pìti sambhojjhanmà), khinh an giác chi (passadhi sambhojjhangà), định giác chi (samàdhi sambhojjhangà), xả giác chi (upekkhà sambhojjhangà).
1.2.4.5. Quán niệm về bốn sự thật : ( cattàri ariyasaccani ) : Vị hành giả xem xét và biết rõ như thật về khổ (dukkha), khổ tập (dukkhasamudaya), khổ diệt (dukkhanirodha) và con đường đưa đến khổ diệt (dukkhanirodhagàminì-magga).
1.3. Kết luận: Thành quả sự tu tập Tứ Niệm Xứ :
Đức Phật kết thúc bài kinh bằng lời tuyên bố rằng tuỳ thuộc ý chí và nỗ lực, vị nào thực hành bốn Niệm Xứ này trong thời gian bảy năm… bảy tháng … thậm chí trong bảy ngày, có thể đạt được hai quả vị : chánh trí ngay trong hiện tại ( ditthadhamme annà) hay quả bất hoàn (anàgàmita), nếu còn hữu dư y ( upàdisesa). Các Tỳ kheo hoan hỷ tín tín thọ lời thế tôn dạy.
1.4. Những lời dạy của Đức Thế Tôn liên hệ Tứ Niệm Xứ:
Ngoài bản kinh này, Đức Thế Tôn còn có những lời dạy căn bản về pháp môn Tứ Niệm Xứ này như sau : “Này các Tỳ kheo, con đường để diệt trừ dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, con đường để diệt trừ dục ái, hữu ái, vô minh ái đó chính là Tứ Niệm Xứ”ù[5-296]. Nhưng chúng ta ai cũng biết chính dục ái, hữu ái, vô minh ái, hoặc dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, thuộc về tập đế trong tứ thánh đế và cũng là toàn bộ nguyên nhân sanh tử, khổ đau. Để đoạn trừ chúng chính là Tứ Niệm Xứ.”
Một lời dạy về Tứ Niệm Xứ “Này các Tỳ kheo cho đến khi nào các người tu tập giới khéo thanh tịnh, trên cơ sở giới khéo thanh tịnh này các ông hành trì Tứ Niệm Xứ theo ba phương diện là: nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục tham ưu ở đời”. [5 – 222]
Và hơn thế nữa, Sàriputta hoàn toàn tin rằng Tứ Niệm Xứ là truyền thống và chứng đắc Phật quả của ba đời chư Phật. “Bạch Đức Thế Tôn, phàm có những bậc Alahán, Chánh Đẳng Chánh Giác nào trong quá khứ, tất cả bậc Đức Thế Tôn ấy, sau khi đoạn tận năm triền cái, những pháp làm uế nhiễm tâm, làm yếu kém trí tuệ, sau khi khéo an trú tâm trên Tứ Niệm Xứ, sau khi như thật tu tập bảy giác chi đã chứng ngộ chánh đẳng chánh giác.
Bạch Thế Tôn, phàm có những bậc Alahán Chánh Đẳng Chánh Giác nào thời vị lai, tất cả các BậcThế Tôn ấy sau khi đoạn tận năm triền cái, các pháp làm uế nhiễm tâm, làm yếu ớt trí tuệ, sau khi khéo an trú tâm trên bốn Niệm xứ, sau khi như thật tu tập bảy giác chi sẽ chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Còn Đức Thế Tôn, Bạch Thế Tôn là bậc A_la_hán Chánh Đẳng Chánh Giác, sau khi đoạn tận năm triền cái, những pháp làm uế nhiễm tâm, làm yếu kém trí tuệ, sau khi khéo an trú tâm trên Tứ Niệm Xứ, sau khi như thật tu tập bảy giác chi chứng ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác” [5_251-252].
Và một lời dạy khác nữa về Tứ Niệm Xứ là : “Tứ niệm xứ này, này các Tỳ kheo, nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn tuyệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết Bàn” [5_280].
Do vậy, điều này đã được nói lên : “ Đây là con đường độc nhất, này các Tỳ kheo, để thanh tịnh hóa chúng sanh, để nhiếp phục sầu bi, để đoạn tận khổ đau, để thành đạt chánh đạo, để chứng đắc Niết bàn, đó là Tứ Niệm Xứ”.
Hay nói khác đi, Tứ Niệm Xứ là con đường duy nhất để đi đến giải thoát và nói đến đạo Phật là nói đến Tứ Niệm Xứ, hễ nói đến giải thoát là nói đến Tứ Niệm Xứ, phi Tứ Niệm Xứ không tìm thấy giải thoát. Giả như có ai đó nói rằng . “ có thể có một con đường khác để có thể đi đến giải thoát” thì tôi đảm bảo con đường đó, bước chân đầu tiên đặt vào giải thoát cũng phải bước qua Tứ Niệm Xứ. Để sáng tỏ ý này, chúng ta bước vào những chương sau.
Sửa bởi Amin: