BÀI THỨ TÁM
I.- Ông Phú-Lâu-Na hỏi Phật hai câu quan-trọng.
II.- Phật trả lời câu hỏi thứ nhứt.
III.- Phật chỉ cái nguyên-nhơn chung sanh ra hư-không, thế-giới và chúng-sanh.
IV.- Phật chỉ cái nguyên-nhơn riêng và tuần-tự sanh ra vũ-trụ.
V.- Phật chỉ nguyên-nhơn có chúng-sanh (nhơn-sanh).
VI.- Phật chỉ nguyên-nhơn chúng-sanh tiếp-tục sanh.
VII.- Phú-Lâu-Na hỏi tiếp : Chư Phật đã chứng được chơn-tâm thanh-tịnh rồi, vậy chừng nào nổi vọng trở lại.
VIII.- Phật dùng ba thí-dụ để giải-thích.
IX.- Phật trả lời câu hỏi thứ hai của ông Phú-Lâu-Na.
X.- Phật chỉ chơn-tâm tuỳ duyên biến-hiện.
XI.- Chúng-sanh đi ngược với chơn-tâm sáng-suốt và hiệp theo vọng-trần.
XII.- Chư Phật hiệp theo chơn-tâm sáng-suốt.
BÀI THỨ TÁM
I.- ÔNG PHÚ-LÂU-NA HỎI PHẬT HAI CÂU QUAN-TRỌNG
Lúc bấy giờ ông Phú-Lâu-Na Di-Đa-La-Ni-Tử đứng dậy lạy Phật, chắp tay cung kính và thưa rằng :__Bạch Thế-Tôn, trong hàng tứ-chúng, Phật thường khen con thuyết-pháp hơn hết; ở trong hội này con lại chứng được quả vô-lậu. Thế mà hôm nay con nghe Phật nói phép nhiệm-mầu cao-thượng, hãy còn chưa hiểu. Cũng như người điếc đứng xa một trăm bước nghe tiếng muỗi kêu; thấy còn không được, huống chi lại nghe.
Bạch Thế-Tôn :1.- Chơn-tâm này đã vốn thanh-tịnh, tại sao lại sanh ra sơn-hà đại-địa và các chúng-sanh ?
2.- Lại nữa, Phật nói " đất, nước, gió, lửa, tánh nó vắng-lặng thường còn, viên-dung khắp giáp pháp-giới ". Bạch Thế-Tôn, nếu nước khắp tất cả, thì lửa phải tắt, còn lửa biến khắp thời nước phải khô, tánh lửa thì nóng, nước lại lạnh, hai thứ trái nhau, tại sao đồng cùng khắp cả hư-không, mà nó không diệt nhau ? Lại nữa, đất thì có hình-chất, còn hư-không lại trống, tại sao hai thứ đều khắp giáp cả pháp-giới, mà không có chướng-ngại nhau ? Cúi xin đức Như-Lai vén mở ngút mây mờ cho chúng con.
Thưa hỏi xong, ông Phú-Lâu-Na kính-cẩn trở lui, để chờ nghe lời Phật chỉ dạy.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này ông Phú-Lâu-Na hỏi Phật hai điều :1.- Chơn-tâm đã thanh-tịnh tại sao thoạt sanh ra có thế-giới và chúng-sanh ?
2.- Đất, nước, gió, lửa, tánh nó chống trái nhau, tại sao lại dung-hoà được và biến khắp cả pháp-giới ?
Về câu hỏi trước thì trong kinh này Phật đã trả lời rõ rồi. Còn câu hỏi sau chúng ta cũng nên phân biệt cho rõ : Phật nói nước, lửa v.v...biến khắp cả pháp-giới, đó là Phật chỉ về phần "bản-thể" mà nói. Ông Phú-Lâu-Na nghi nước lửa v.v...trái nhau, làm sao đều biến khắp được. Thế là ông Phú-Lâu-Na đứng về phần "hiện-tượng" mà hỏi.
Về hiện-tượng thì có chướng-ngại, còn bản-thể thời không bao giờ chướng-ngại.
II.- PHẬT TRẢ LỜI CÂU HỎI THỨ NHỨT
Phật dạy :__Này Phú-Lâu-Na, như lời ông hỏi "Chơn-tâm đã vốn thanh-tịnh, tại sao lại sanh ra sơn-hà đại-địa, thế-giới và chúng-sanh ".
Vậy ông có thường nghe ta nói :" Chơn-tâm nhiệm-mầu vắng-lặng mà thường sáng-suốt chiếu soi " không ? (Tánh-giác diệu-minh, bản giác minh diệu).
Phú-Lâu-Na thưa :__Bạch Thế-Tôn, con có thường nghe Phật dạy như thế .
Phật hỏi :__Vậy chơn-tâm này, ông cho nó tự có tánh sáng-suốt chiếu soi (phân-biệt) hay là không có sáng-suốt chiếu soi ?
Phú-Lâu-na :__Nó sẵn có tánh sáng-suốt chiếu soi (phân-biệt) nên mới gọi là tâm. Nếu không có tánh sáng-suốt chiếu soi (phân-biệt) thì không gọi là tâm, vì nó không phân-biệt được cái gì cả.
Phật dạy :__Như lời ông nói "nếu nó không sáng-suốt chiếu soi (phân-biệt) thì không phải là tâm, vì nó không phân-biệt được cái gì cả ". Vậy ông có hiểu chăng : nếu có chiếu soi phân-biệt, thì không phải là chơn (vì có năng phân-biệt thì phải có bị phân-biệt), còn không có chiếu soi phân-biệt, thì chẳng phải là tâm. Nếu tâm mà không sáng-suốt thì không phải là chơn-tâm thanh-tịnh rồi.
Ông nên hiểu : Chơn-tâm vẫn sáng-suốt, vì ông vọng chấp cái "sáng-suốt phân-biệt" làm tâm, nên thành ra có năng phân-biệt (tâm) và bị phân-biệt (cảnh).
Chơn-tâm của ông không phải cái "bị phân-biệt", nhưng vì ông khởi ra cái "năng phân-biệt", nên nó (chơn-tâm) trở thành cái "bị phân-biệt" (cảnh). Đã vọng thành cái "bị phân-biệt", cố-nhiên ở nơi ông phải vọng sanh ra cái "năng phân-biệt".
Thế là ở nơi chơn-tâm của ông vẫn thanh-tịnh không có năng và sở, mà thoạt nhiên thành ra có năng và sở (vô đồng dị trung, xí nhiên thành dị ).
LƯỢC GIẢI
Đại-ý đoạn này Phật chỉ cái nguyên-nhân từ chơn-tâm thanh-tịnh, vì vọng-động nổi lên nên sanh ra có thế-giới và chúng-sanh.
Chơn-tâm thanh-tịnh mỗi người đều sẵn đủ. Nếu chấp nó "không có phân-biệt" thì chẳng phải là tâm; còn chấp nó "có phân-biệt" thì chẳng phải là chơn.
Bởi ông Phú-Lâu-Na chấp cái "phân-biệt chiếu soi" làm tâm, nên đã có cái phân-biệt, cố-nhiên phải có cái bị phân-biệt. Thế là năng, sở vừa hiện, thì bỉ, thử rõ-ràng.
Đây là Phật chỉ cái hành-tướng của vọng, từ nơi tâm của mọi người khởi lên một cách rõ-ràng.
Một vọng-niệm vừa nổi lên, thì có trăm ngàn vọng-niệm khác tiếp tục theo sanh ra, cho đến vô cùng vô tận. Nhơn đó mà có hư-không, thế-giới và chúng-sanh đồng thời hiện ra. Cũng như người đương thức (dụ chơn-tâm) bỗng-chốc buồn ngũ nổi lên, (dụ vô-minh vọng-động) chiêm-bao thấy có núi sông, nhà cửa các cảnh-vật hiện ra (dụ hư-không, thế-giới và chúng-sanh).
III.- PHẬT CHỈ CÁI NGUYÊN-NHƠN CHUNG, SANH RA HƯ-KHÔNG, THẾ-GIỚI VÀ CHÚNG-SANH
__Từ một thể chơn-tâm không khác, vì vọng-niệm phân-biệt, có năng sở, bỉ thử sai khác, nên hiện ra có hư-không và thế-giới. Nhơn có hư-không thế-giới nên mới có chúng-sanh. Đã có thế-giới và chúng-sanh lăng-xăng đối-đãi nhau, nên khởi lên vô số vọng-tưởng phân-biệt : tốt, xấu, phải, chẳng v.v...Vì thế mà sanh ra đủ các phiền-não trần-lao nhiễm-ô. Cái có hình -tướng và sanh-diệt là thế-giới, cái không hình tướng và yên-tịnh là hư-không; khác với hư-không, thế-giới là chúng-sanh vậy.
IV.- PHẬT CHỈ NGUYÊN-NHÂN RIÊNG VÀ TUẦN-TỰ SANH RA VŨ-TRỤ
1.- NGUYÊN-NHÂN SANH GIÓ.
__Từ nơi chơn-tâm, do vô-minh vọng-động mà có hư-không. Hư-không mờ-mịt vì vô-minh sanh. Trong "hư-không" có chất động, vì là vọng. Bởi thế nên trong hư-không có gió (phong-luân) để duy-trì thế-giới.
2.- NGUYÊN-NHÂN SANH RA VÀNG NGỌC.
Nhơn hư-không sanh ra gió, và vì nơi tâm chúng-sanh có tánh cố-chấp phân-biệt, cho nên ứng-hiện ra ngoài thế-giới có những thứ cứng chắc là vàng ngọc (vàng ngọc cứng chắc là vì tâm cố-chấp sanh. Nó sáng-ngời là do tâm phân-biệt sanh). Đây là nguyên-nhân có chất kim-khí để bảo-trì thế-giới
3.- NGUYÊN-NHÂN SANH RA LỬA.
Trong tâm chúng-sanh vì có tánh cố-chấp phân-biệt, nên sanh ra chất cứng chắc là kim-khí, và vì có vọng-động mà thành ra gió. Rồi gió thổi kim-khí, nó cọ xát mãi, nóng lên, nên nháng sanh ra ánh-sáng là lửa. Đây là cái nguyên-nhân có lửa để nấu đốt các vật.
4.- NGUYÊN-NHÂN SANH RA NƯỚC.
Chất vàng ngọc vừa sáng ngời và đượm mát. Nhơn lửa xông lên, nên có hơi nước rịnh ra. Đây là cái nguyên-nhân có nước để bao-bọc cả mười phương thế-giới.
LƯỢC GIẢI
Vì tâm vọng-động nên biến hiện ra ngoài thế-giới có gió. Vì tâm cố-chấp, cho nên biến hiện ra ngoài thế-giới có vàng ngọc. Vì tâm nóng-nảy, nên biến-hiện ra ngoài thế-giới có lửa. Vì tâm tham-ái, cho nên biến-hiện ra ngoài thế-giới có nước.
5.- NGUYÊN-NHÂN SANH RA CỒN-ĐẢO VÀ BIỂN.
__Vì tánh lửa bốc lên, còn nước thì lại chảy xuống, nên có chỗ thấp ướt là sông biển, chỗ nỗi lên cao là cồn-đảo. Bởi lửa và nước dung-hoà nhau, cho nên trong biển thỉnh-thoảng bốc lên ánh sáng của lửa, trong cồn-đảo lại có sông rạch thường chảy ra nước.
LƯỢC GIẢI
Trong bộ Tông-cảnh nói :" Vì tâm luyến-ái nên ứng-hiện ra ngoài thành sông biển. Vì tâm cố-chấp nên ứng-hiện ra ngoài thành cồn-đảo, tâm khinh-mạn thành ra gió, tâm nóng-nảy, sân-hận thành ra lửa. Bởi thấy sắc-dục sanh tâm luyến-ái, nên hiện ra ngoài thế-giới : trong cồn-đảo có nước thường chảy. Vì trái với sự thương-yêu thì nổi sân, nên hiện ra ngoài thế-giới : trong biển có lửa phát lên. Tóm lại, bốn đại đều duy tâm biến-hiện (dụ như chiêm-bao, nếu ban ngày nghĩ tưởng cái gì, thì ban đêm hiện ra cảnh ấy).
6.- NGUYÊN-NHÂN SANH RA NÚI.
__Vì thế-lực của nước yếu hơn lửa, nên bị lửa bốc lên kết thành núi cao. Bởi thế nên đập đá thì có lửa, còn đốt quá nóng, thì nó chảy ra nước.
LƯỢC GIẢI
Vì tâm giận nhiều thương ít, nên ứng-hiện ra ngoài thế-giới có núi cao.
7.- NGUYÊN-NHÂN SANH RA CỎ CÂY.
Vì thế-lực của đất yếu hơn nước, cho nên bị nước rút lên làm cỏ cây. Bởi thế nên cỏ cây, nếu bị đốt thì thành tro (đất) còn ép thì nó lại ra nước.
LƯỢC GIẢI
Vì tâm thương-yêu nặng-nề, tánh cố-chấp ít, nên ứng-hiện ra ngoài thế-giới thành cỏ cây.
Tóm lại, vì ở trong tâm chúng-sanh, các vọng-tưởng xen nhau phát-sanh, nên ứng-hiện ra ngoài thế-giới có các cảnh-vật. Bởi nhân-duyên này mà thế-giới nối nhau sanh mãi không dứt.
V.- PHẬT CHỈ NGUYÊN-NHƠN CÓ CHÚNG-SANH (NHƠN-SANH)
__Ông Phú-Lâu-Na, cái "hư-vọng phân-biệt" đó không có gì lạ, chỉ vì ông chấp cái "phân-biệt chiếu soi" làm tâm. Đã có phân-biệt, tất-nhiên phải có cái "bị phân-biệt" đối-đãi nhau. Vì thế nên cái "năng phân-biệt" không vượt ra ngoài cảnh "bị phân-biệt" được. Do nhân-duyên này, nên nghe không ngoài tiếng, thấy không ngoài sắc, ngửi không ngoài mùi, nếm không ngoài vị v.v...vọng thành 6 căn và 6 trần đối nhau, nên phân ra có :thấy, nghe, hay, biết.
Rồi theo nghiệp-lực kéo dẫn, cho nên có những loài sanh con (như người và thú) loài sanh trứng (như chim và cá) loài sanh chỗ ẩm-ướt (như vi-trùng v.v...) loài hoá-sanh (như trời và địa-ngục).
Thần-thức khi đầu thai, nhơn thấy ánh sáng (lửa dục) của cha mẹ phát ra, rồi nó khởi cái "tưởng" chung chạ làm việc dục ấy. Nếu nó sẽ là trai thì ưa mẹ mà ghét cha, còn nó sẽ là gái thì thương cha mà ghét mẹ. Vì tình lưu-luyến nơi ái-dục không rời được, nên nó tự kết-nạp tư-tưởng của nó với tinh-huyết của cha mẹ khi giao-cấu đó, kết thành ra thai. Vì có nhân-duyên với nhau và do đồng-nghiệp kéo dẫn, nên kết thành thai- nghén. Loài sanh thai, sanh trứng, sanh nơi ẩm-thấp, hoặc hoá-sanh đều tuỳ theo nghiệp của mỗi loài mà cảm-ứng.
Loài sanh trứng là do nơi tưởng nhiều, loài sanh thai là do nơi tình nặng, loài thấp sanh là do hiệp với chỗ ẩm-thấp, loài hoá-sanh thì rời cảnh-vật tự nó hoá-hiện. Bốn loài biến-đổi, tuỳ theo nghiệp lành hay dữ mà cảm-thọ quả-báo có thăng và trầm. Do nhân-duyên ấy mà chúng-sanh bỏ thân này thọ thân kia, nối nhau không dứt.