- Tham gia
- 15 Thg 7 2010
- Bài viết
- 2,823
- Điểm tương tác
- 841
- Điểm
- 113
5- DO XÚC-TRẦN MÀ CHỨNG THÁNH
ông Bạt-Đà-Bà-La với mười sáu người bạn Bồ-Tát sơ phát tâm, liền từ chỗ ngồi, đứng dậy đảnh-lễ dưới chân Phật mà bạch rằng :__Kiếp trước, lúc Đức Phật Oai-Âm-Vương ra đời, chúng con nhân đặng gặp Phật, nghe pháp mà xuất-gia, trong ngày chúng Tăng tắm gội, con theo thứ-tự vào nhà tắm, thì thoạt-nhiên ngộ biết thuỷ-trần vốn không rửa bụi trần hay không rửa bụi trần, tâm giác thường vắng-lặng, không có tướng gì ... do tập-quán cũ ấy nhớ mãi cho đến ngày nay, theo Phật xuất-gia được thành bậc vô-học. Đức Oai-Âm-Vương gọi tên con là Bạt-Đà-Bà-La, nhân diệu xúc tỏ bày sáng-suốt, thành vị Phật-tử trụ. Nay Phật hỏi viên-thông, thì như chỗ sở-chứng của con, quán xúc-trần làm nhơn là hơn cả.
LƯỢC GIẢI
Ông Bạt-Đà-Bà-La (Tàu dịch là Thiên-thủ hay Hiền-hộ) nhân quán xúc-trần mà ngộ nhập viên-thông. Xúc là đụng chạm, tiếp-xúc. Cảnh bị biết của thân-căn, hay nói cách khác là cảnh ứng hợp thân cần phát-sanh, nhận biết có lạnh, nóng, trơn, nhám v.v...đều gọi là xúc-trần. Như vậy, xúc-trần được phát-hiện là bởi có thân-căn với sắc-cảnh, thiếu một không thành, xúc-trần hư-dối. Vả lại như khi đối trước một lò lửa, nếu kẻ rét thì có cảm-xúc ấm, còn kẻ ấm thì lại có cảm-xúc nóng thêm. Vậy thì chỉ tuỳ chúng-sanh mà thành lạnh hay nóng, không có thật-thể nhất-định. Đối với nước cũng vậy, khi chúng ta dùng nước tắm gội thân-thể, nước chảy trên mình mà sinh ra cảm-giác thế này thế khác, gọi là xúc-trần. Nhưng xét nghiệm kỹ thì khi ta gọi là tắm rửa, ấy là rửa thân-thể hay rửa bụi trần ? Nếu nói là rửa thân-thể, thì như không có bụi trần thì lấy gì để rửa; nếu nói là rửa bụi trần, thì như nước chảy trên đất cũng gọi là tắm rửa đặng sao ? Thế thì nước, bụi trần, thân-thể vốn thật an-nhiên, nước không phải hay rửa (năng) mà bụi trần và thân-thể không phải bị rửa (sở), cho nên xúc-trần chỉ là tướng giả-dối, đối-đãi theo vọng-nghiệp chúng-sanh không xúc mà hiện xúc; nên xúc-trần đều là như huyễn : phi hữu, phi vô. Ngộ được như vậy mà tu-hành, tức thành bực vô-học.
Ông Ma-Ha Ca-Diếp và Tỳ-kheo-ni Tử-Kim-Quang, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh-lễ dưới chân Phật và bạch rằng :__Con nhớ kiếp trước, trong thế-giới này có nhiều đức Phật ra đời hiệu Nhựt-Nguyệt-Đăng, con được thân-cận nghe pháp tu-học, sau khi Phật diệt-độ thì cúng-dường xá-lợi, đốt đèn nối ánh-sáng, lại dùng vàng tử-kim sáng chói mà thếp hình tượng của Phật. Từ đó đến nay đời đời thân con thường được đầy-đặn, ánh-sáng như đồng vàng tử-kim, còn Tỳ-kheo-ni Tử-Kim-Quang này chính là quyến-thuộc của con, đã từng cùng phát tâm một lúc với con. Con xem thấy thế-gian sáu-trần biến-hoại, nên chỉ đem tâm không-tịch tu-hành, thành diệt-tận-định. Thân-tâm tự-tại hay vượt qua trăm ngàn kiếp, dường như khảy móng tay. Con do quán-sát pháp không-tịch mà thành bậc A-la-hán; đức Thế-Tôn cho con là người tu hạnh đầu-đà bậc nhứt. Diệu-pháp mở sáng, các lậu tiêu trừ. Nay Phật hỏi viên-thông, thì như chỗ sở-chứng của con, quán pháp-trần làm nhơn là hơn cả.
LƯỢC GIẢI
Ông Ma-Ha Ca-Diếp nhơn quán pháp-trần mà ngộ-nhập viên-thông. Pháp trần là tất cả ấn-tượng của tiền trần : sắc, thanh, hương, vị, xúc lưu lại trong tâm ý mà làm cảnh sở duyên cho ý-thức. Tất cả cảnh-giới thế-gian tóm lại không ngoài sáu-trần : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ấy. Những pháp đó luôn luôn biến-chuyển hoặc âm-thầm kín-đáo, hoặc rõ-rệt phô-bày, chứ không niệm nào yên-lặng dừng nghỉ. Vừa vị-lai đã thành hiện-tại, vừa hiện-tại đã thành quá-khứ; như vậy hãy chỉ vào đâu mà cho là có pháp thiệt. Chỉ vào vị-lai ư ? Hay chỉ vào quá-khứ, hiện-tại ? Thiệt không thể chỉ vào đâu được, pháp-trần đã không thiệt, pháp-trần là chơn-không, thì các món thọ tưởng, hư-vọng, phiền-não, nương pháp-trần sanh ra cũng liền tiêu-diệt, phá trừ ý-thức, chứng diệt-tận-định. Khi ấy thân-tâm tự-tại, đối với không-gian cũng như đối với thời-gian : không rời chỗ ngồi mà ở khắp mười phương, vượt trăm ngàn kiếp mà dường như trong giây phút khảy móng tay, thoát ngoài vòng chướng ngại của những sự lâu, mau, xa, gần, hạn cuộc.
Sáu vị trên đây do tu sáu trần mà được chứng quả.
ông Bạt-Đà-Bà-La với mười sáu người bạn Bồ-Tát sơ phát tâm, liền từ chỗ ngồi, đứng dậy đảnh-lễ dưới chân Phật mà bạch rằng :__Kiếp trước, lúc Đức Phật Oai-Âm-Vương ra đời, chúng con nhân đặng gặp Phật, nghe pháp mà xuất-gia, trong ngày chúng Tăng tắm gội, con theo thứ-tự vào nhà tắm, thì thoạt-nhiên ngộ biết thuỷ-trần vốn không rửa bụi trần hay không rửa bụi trần, tâm giác thường vắng-lặng, không có tướng gì ... do tập-quán cũ ấy nhớ mãi cho đến ngày nay, theo Phật xuất-gia được thành bậc vô-học. Đức Oai-Âm-Vương gọi tên con là Bạt-Đà-Bà-La, nhân diệu xúc tỏ bày sáng-suốt, thành vị Phật-tử trụ. Nay Phật hỏi viên-thông, thì như chỗ sở-chứng của con, quán xúc-trần làm nhơn là hơn cả.
LƯỢC GIẢI
Ông Bạt-Đà-Bà-La (Tàu dịch là Thiên-thủ hay Hiền-hộ) nhân quán xúc-trần mà ngộ nhập viên-thông. Xúc là đụng chạm, tiếp-xúc. Cảnh bị biết của thân-căn, hay nói cách khác là cảnh ứng hợp thân cần phát-sanh, nhận biết có lạnh, nóng, trơn, nhám v.v...đều gọi là xúc-trần. Như vậy, xúc-trần được phát-hiện là bởi có thân-căn với sắc-cảnh, thiếu một không thành, xúc-trần hư-dối. Vả lại như khi đối trước một lò lửa, nếu kẻ rét thì có cảm-xúc ấm, còn kẻ ấm thì lại có cảm-xúc nóng thêm. Vậy thì chỉ tuỳ chúng-sanh mà thành lạnh hay nóng, không có thật-thể nhất-định. Đối với nước cũng vậy, khi chúng ta dùng nước tắm gội thân-thể, nước chảy trên mình mà sinh ra cảm-giác thế này thế khác, gọi là xúc-trần. Nhưng xét nghiệm kỹ thì khi ta gọi là tắm rửa, ấy là rửa thân-thể hay rửa bụi trần ? Nếu nói là rửa thân-thể, thì như không có bụi trần thì lấy gì để rửa; nếu nói là rửa bụi trần, thì như nước chảy trên đất cũng gọi là tắm rửa đặng sao ? Thế thì nước, bụi trần, thân-thể vốn thật an-nhiên, nước không phải hay rửa (năng) mà bụi trần và thân-thể không phải bị rửa (sở), cho nên xúc-trần chỉ là tướng giả-dối, đối-đãi theo vọng-nghiệp chúng-sanh không xúc mà hiện xúc; nên xúc-trần đều là như huyễn : phi hữu, phi vô. Ngộ được như vậy mà tu-hành, tức thành bực vô-học.
*
6- DO PHÁP-TRẦN CHỨNG A-LA-HÁNÔng Ma-Ha Ca-Diếp và Tỳ-kheo-ni Tử-Kim-Quang, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh-lễ dưới chân Phật và bạch rằng :__Con nhớ kiếp trước, trong thế-giới này có nhiều đức Phật ra đời hiệu Nhựt-Nguyệt-Đăng, con được thân-cận nghe pháp tu-học, sau khi Phật diệt-độ thì cúng-dường xá-lợi, đốt đèn nối ánh-sáng, lại dùng vàng tử-kim sáng chói mà thếp hình tượng của Phật. Từ đó đến nay đời đời thân con thường được đầy-đặn, ánh-sáng như đồng vàng tử-kim, còn Tỳ-kheo-ni Tử-Kim-Quang này chính là quyến-thuộc của con, đã từng cùng phát tâm một lúc với con. Con xem thấy thế-gian sáu-trần biến-hoại, nên chỉ đem tâm không-tịch tu-hành, thành diệt-tận-định. Thân-tâm tự-tại hay vượt qua trăm ngàn kiếp, dường như khảy móng tay. Con do quán-sát pháp không-tịch mà thành bậc A-la-hán; đức Thế-Tôn cho con là người tu hạnh đầu-đà bậc nhứt. Diệu-pháp mở sáng, các lậu tiêu trừ. Nay Phật hỏi viên-thông, thì như chỗ sở-chứng của con, quán pháp-trần làm nhơn là hơn cả.
LƯỢC GIẢI
Ông Ma-Ha Ca-Diếp nhơn quán pháp-trần mà ngộ-nhập viên-thông. Pháp trần là tất cả ấn-tượng của tiền trần : sắc, thanh, hương, vị, xúc lưu lại trong tâm ý mà làm cảnh sở duyên cho ý-thức. Tất cả cảnh-giới thế-gian tóm lại không ngoài sáu-trần : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ấy. Những pháp đó luôn luôn biến-chuyển hoặc âm-thầm kín-đáo, hoặc rõ-rệt phô-bày, chứ không niệm nào yên-lặng dừng nghỉ. Vừa vị-lai đã thành hiện-tại, vừa hiện-tại đã thành quá-khứ; như vậy hãy chỉ vào đâu mà cho là có pháp thiệt. Chỉ vào vị-lai ư ? Hay chỉ vào quá-khứ, hiện-tại ? Thiệt không thể chỉ vào đâu được, pháp-trần đã không thiệt, pháp-trần là chơn-không, thì các món thọ tưởng, hư-vọng, phiền-não, nương pháp-trần sanh ra cũng liền tiêu-diệt, phá trừ ý-thức, chứng diệt-tận-định. Khi ấy thân-tâm tự-tại, đối với không-gian cũng như đối với thời-gian : không rời chỗ ngồi mà ở khắp mười phương, vượt trăm ngàn kiếp mà dường như trong giây phút khảy móng tay, thoát ngoài vòng chướng ngại của những sự lâu, mau, xa, gần, hạn cuộc.
Sáu vị trên đây do tu sáu trần mà được chứng quả.