A

Đại Thừa có phải do đức Phật thuyết hay không?

An Bình

Registered
Phật tử
Tham gia
27/8/16
Bài viết
30
Điểm tương tác
3
Điểm
8
Chúng ta không nên quá quan tâm tới vấn đề Đại Thừa có phải do đức Phật thuyết hay không vì điều này rất rõ ràng như ban ngày:


TƯ TƯỞNG ĐẠI THỪA LÀ BÌNH ĐẲNG ĐÃ CÓ TỪ THỜI ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ còn tại thế và phát triển rộng thêm lên, còn KINH ĐIỂN ĐẠI THỪA THÌ CHẮC CHẮN LÀ KHÔNG PHẢI DO PHẬT DẠY.

Chúng ta hãy xem xét điều này:

1/ Kinh điển đại thừa chính là nguyên nhân 1 phần khiến cho Phật Giáo bị tiêu diệt ở Ấn Độ. Tại sao? Tại vì việc các hệ phái Đại Thừa tôn xưng đức Phật là một nhập thể siêu việt, huyễn hoặc thần thoại đầy truyền thuyết và vay mượn hình ảnh các thần linh từ các giáo phái đa thần như Bà La Môn, các thần chú của thánh thư Vệ Đà làm nên các hình tượng Phật, Bồ Tát trong kinh điển Đại Thừa..thì Bà La Môn cũng có thể nói là Đức Phật và giáo pháp của Ngài là hóa thân của 1 vị thần nào đó trong Bà La Môn chẳng hạn?


Về điểm này rõ ràng các Bà La Môn đã tinh khôn hơn các người sáng lập kinh điển Đại Thừa vì họ dám chấp nhận thay đổi tư tưởng trong hệ tư tưởng Bà La Môn ngàn đời để công nhận và thâu tóm Phật Giáo thành 1 bộ phận của họ để bảo vệ quyền lợi giai cấp của họ, để đấu tranh với Phật Giáo đang truyền bá tư tưởng bình đẳng.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

An Bình

Registered
Phật tử
Tham gia
27/8/16
Bài viết
30
Điểm tương tác
3
Điểm
8
2/ Kinh điển Đại Thừa không phải là chánh pháp của ĐứcPhật mà chỉ là một sự tôn xưng Phật giáo và suy diễn một cách thái quá của những người đệ tử của đức Phật lai căn Bà La Môn với Phật Giáo.


Có thể vì đặc thù bối cảnh tranh chấp tôn giáo Ấn Độ thời đó: những vị Bà La Môn cố gắng duy trì sự cạnh tranh với Phật Giáo bằng cách nghiên cứu và chấp nhận 1 số giáo lý Phật Đà vào tư tưởng của họ để lôi kéo quần chúng về quyền uy biến hóa các vị thần (điều này có thể là hấp dẫn với các giai cấp ít học ) thì những vị đệ tử Phật Giáo thay vì thực tập tứ điệu đế, tứ niệm xứ để đạt Vô Ngã, Vô Tướng.. thì họ lại dẫn bày lời dạy của đức Phật hoặc trích dẫn kinh Phật và diễn bày tô vẽ bằng các thần thoại siêu nhiên để diễn giải rộng ra các tư tưởng đó.


Điều này vô tình làm cho kinh điển Đại Thừa có màu sắc thần bí, mê tín và không khác gì các chủ thuyết mà đức Phật đã dạy, nhất là khi suy diễn về nghiệp, phước đức, lễ lạy , trì chú.. trong khi đó thời đức Phật, ngài chỉ nhấn mạnh việc tập trung điều phục tâm ý và không trả lời các vấn đề mang tính hý luận hay chủ thuyết.


Việc này có thể là ngay trong giáo đoàn khất sĩ thời đó đã có nhiều bất mãn và các vị đệ tử này và hậu duệ của họ sau này đã tự suy diễn theo ý riêng của mình mà thành lập nên kinh điển Đại Thừa.

3/ Xuyên suốt thời đức Phật, ta thấy rằng ngài sách tấn các đệ tử lo thực tập giáo pháp để đạt thảnh thơi an lạc là chính, đó là hoa trái của hạnh phúc trong thực tại mà không trả lời các vấn đề siêu hình, không tuyên thuyết thần chú vớ vẩn.


Kinh điển Đại thừa có quá nhiều thần chú, và có thể là vay mượn từ kho tàng thần chú Vệ Đà của Bà La Môn. Kinh điển Đại Thừa cũng hay suy diễn các tư tưởng của Đức Phật vay mượn từ các giáo lý được ngài tuyên thuyết một cách rộng rãi và hầu như là mang tính thần thoại siêu hình mà không có một cơ sở nào, có tính chất luận bàn về vũ trụ.



Chúng ta cũng nên lưu ý rằng: xã hội tôn giáo Ấn Độ cổ thời Đức Phật rất chú trọng việc lý giải về vũ trụ, về ngã..Chính vì điểm này mà Phật nói kinh Phạm Võng và khuyên các đệ tử không nên kẹt vào hý luận hay các chủ thuyết vô ích không đưa tới đâu cả, bởi hý luận hay chủ thuyết chỉ là sự ức đạt của trí năng vẫn còn nằm trong cái lưới tri kiến phân biệt.
 

An Bình

Registered
Phật tử
Tham gia
27/8/16
Bài viết
30
Điểm tương tác
3
Điểm
8
4/ Chúng ta không phủ nhận rằng tư tưởng Đại Thừa là tư tưởng Phật Giáo, nhưng chỉ là 1 phần tư tưởng phật giáo. Trong kinh điển Đại Thừa, danh từ Phật (người tỉnh thức, bậc giác giả) đã bị lạm dụng quá mức và cho rằng Phật là vị còn hơn cả siêu nhân.


Kinh điển Đại Thừa có lẽ xuất phát từ sự giải phóng niềm tin cho giới cư sĩ tại gia rằng tất cả ai cũng có Phật tính và đều có thể thành Phật. Sự giải phóng này cũng là do sự chấp thủ của giới khất sĩ cố chấp thời đó (cái mà người ta gọi là Tiểu Thừa).


Chính sự hiểu sai về giáo pháp và chấp thủ đúng sai, có thể và không thể ..phân biệt như thế mới chính là nguyên do gây chia rẽ giáo đoàn và mất niềm tin nơi giới Phật tử tại gia, chia rẽ giáo phái hình thành các hệ tư tưởng khác nhau. Nhưng xét riêng ở Ấn Độ thời bấy giờ thì đây chính là thời cơ tốt cho giới Bà La Môn hạ bệ Phật giáo, khôi phục quyền kiểm soát theo tư tưởng phân chia giai cấp.

5/ Chúng ta không nên quá quan trọng rằng: kinh nào là do Phật lịch sử thuyết, kinh nào là phi Phật thuyết. Điều đó không quan trọng. Điều quan trọng mà tôi tin chắc rằng: giáo lý của đức Phật là thực tập chứ không phải để cất giữ. Thực tập quán niệm, nắm giữ hơi thở, quán sát lục căn, lục trần, lục thức để đạt tới phép quán Không, Vô Ngã... để thể nhập với tự tính Chân Như thực tại chứ không phải là lễ phật niệm phật niệm thần chú là có thể có nhiều công đức (chỉ là sự kính trọng chánh pháp mà thôi). Nếu lễ lạy, trì chú có công năng giải thoát thì Phật đã không thể chinh phục đại đức Uruvela kassapa theo Phật Giáo.

" Giả dụ có người muốn qua sông mà không muốn lội, không muốn bơi, cũng không muốn chèo, trái lại chỉ đứng bên sông này mà cầu khẩn bờ bên kia, hy vọng bờ bên kia sẽ qua tới bên này cho mình bước lên, thì tôn giả nghĩ sao?"

" Cũng như vậy thôi, tôn giả Kassapa! Nếu không tu tập quán chiếu để diệt trừ vô minh, và các phiền não khác thì ta không đạt tới bến bờ giải thoát được, dù ta có tế lễ khẩn cầu suốt cả cuộc đời ta."
 

An Bình

Registered
Phật tử
Tham gia
27/8/16
Bài viết
30
Điểm tương tác
3
Điểm
8
6/ Tôi rất tâm đắc lời Phật dạy như sau: " chánh pháp không phải vì có nhiều người theo mới là chánh pháp. Chánh pháp không phải vì ít người theo mà không phải là chánh pháp".


Tôi không quan tâm việc kinh điển Đại Thừa do ai tạo ra, vì về nội dung tư tưởng lẫn tinh thần trong đó có thể cho ta câu trả lời rằng: người còn kẹt vào Ta mới cho rằng giáo pháp Ta đang theo mới là chánh pháp, là hy hữu. Và như vậy Ta phải xưng dương và tán thán giáo pháp này để truyền bá rộng khắp.

Một tổ chức, một hệ tư tưởng một khi đã phát triển cao độ, đi vào quy mô tổ chức khoa học và lớn mạnh thì cái lý tưởng ban đầu của nó là gì, hợp thời hay lỗi thời cũng không còn quan trọng nữa và cũng chẳng có ý nghĩa gì, vấn đề quan trọng là nó phải duy trì và chỉnh sửa trong tự thân nếu không muốn tan rã. Ví như Hội Tam Hoàng ngày nay là một tổ chức mafia người Hoa toàn cầu, nhưng ngày xưa thành lập để đấu tranh cho quốc gia trong thời kỳ Trung Quốc loạn lạc bị nước ngoài lấn áp, lấy thời đại tam Hoàng làm lý tưởng tế độ. Hồng Hoa Hội cũng thế ( một tổ chức phản Thanh phục Minh ngày xưa nhưng ngày nay là một tổ chức xã hội đen nửa thương nghiệp). Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày nay cũng vậy, họ tuyên bố là xem xét lại hệ tư tưởng và đường lối kinh tế chính trị, có lẽ vì nguyên nhân thời cuộc mà họ tự cho là hệ tư tưởng đã xưa cũ rồi (?)

Thực tại là hệ phái Đại Thừa được các nước chấp nhận và dễ đi vào quần chúng, dễ gần với các tôn giáo đa thần vì phật giáo đại thừa cũng có vô số hình tượng phật và bồ tát để thờ phụng, lễ lạy và vô số thần chú để trì niệm. Hình ảnh đức Phật Thích ca và giáo pháp của Ngài có vẻ được diễn giải bằng những luận cứ khác, có phần xem nhẹ thực tập trong giờ phút hiện tại để đạt được an lạc và hạnh phúc. Kinh điển cũng đi rất xa nguồn gốc, và để biện giải, người ta gán cho sự thực tập chánh pháp thời đức phật lịch sử là Tiểu thừa (?) mà lại đi thực hành nhiều pháp môn rất gần với mê tín dân gian.


Giới luật cũng bị sửa đổi theo thời cuộc và sự phát triển kinh tế của từng quốc gia qua từng thời đại (điều này có thể tạm chấp nhận nhưng không được quên nguồn gốc chính của nó). Và hình ảnh đức Phật lịch sử chỉ còn giá trị là người khai sáng ra Phật Giáo, và được thần thánh hóa để viện dẫn trong các kinh, luận của đại thừa. Thậm chí, hình ảnh đức Phật còn được viện dẫn trong Bà La Môn với hóa thân là vị thần nào đó của cõi trời nữa (!).

Xét về phương diện tư tưởng, ta có thể hoàn toàn chấp nhận Đại Thừa là sự phát triển sâu rộng của Phật Giáo, còn thực tế kinh điển lịch sử thì khó có thể chấp nhận là do Phật Thuyết (không phải vì lý do ra đời muộn).


Đứng về hệ tư tưởng, Phật Giáo Đại Thừa là sự phát triển tiếp nối sau khi Phật nhập diệt. Nhiều nhà tu hành theo đạo Phật, khi nhập định đạt huệ nhãn có thể thấy các cõi giới hoạt động ở các tần số cao hơn mà người bình thường không thể nào đạt được.Các cõi giới của chư Phật, các vị Bồ Tát như Quán Thế Âm… cũng là hoàn toàn có thể liên thông được. Nhưng trong kinh điển Đại thừa hư cấu quá nhiều vị Bồ Tát hư huyễn chỉ để minh định 2 điều: chánh pháp đã có rộng khắp vũ trụ chứ không phải đợi đến thời kỳ Đức Phật Thích Ca lịch sử ra đời và cũng để nhấn mạnh quả vị Bồ Tát trong đại thừa kinh điển với sáu ba la mật.

Nếu kẹt vào chấp thủ có-không, chúng ta sẽ khó mà chấp nhận kinh điển Đại Thừa.


Tuy nhiên, trong suốt 45 năm hoằng pháp, đức Phật mới nói pháp vi diệu tùy theo căn cơ chúng sanh. Và nếu chấp vào tư tưởng pháp do phật thuyết và phi phật thuyết thì ta không thể chấp nhận đại thừa và Phật Giáo sẽ không thể nào phát triển và truyền bá hoàn cầu.


Vì sao? Vì thời đức phật lịch sử là đạo phật nguyên thủy cổ sơ, yếu chỉ thực tập là chính, nhưng khi đạt được và thể nhập vào chánh pháp rồi thì cần phải thực tập cao hơn, như chúng ta phải học hết cấp 1, rồi tuần tự học lên cấp 2, cấp 3, tốt nghiệp tú tài, đại học và sau đại học… rõ ràng một em bé đang học cấp 1 sẽ khó có thể chấp nhận và không hiểu được trình độ kiến thức ở cấp 2,3 hay đại học được. Và do đó nó sẽ phủ nhận rằng kiến thức đó là không đúng.

Tuy nhiên việc tô vẽ thần thánh siêu nhiên trong kinh điển đại thừa là không cần thiết, dù rằng ta vẫn chấp nhận tư tưởng đại thừa có thể là 1 nền tảng tư tưởng triết học phật giáo cao hơn. Ở đây chỉ là xét về mặt phát triển tư tưởng triêt học phật giáo thôi.


Còn cá nhân tôi, kinh điển Đại Thừa với nhiều hư cấu đã không thể nào là do phật lịch sử thuyết dù kinh có nói như vậy. Dù rằng kinh điển đại thừa có thể đã nêu lên 1 trạng thái thiền định của huệ nhãn và không phải hoàn toàn vô căn cứ khi đề cập về các vấn đề siêu hình, các cõi giới, các Bồ Tát có hạnh nguyện rộng lớn độ sinh.


Bởi nếu không là sự thật thì không thể nào phát sinh trong kinh điển được, dù là ở thời nào. Nhưng rõ ràng là vẫn có sự vay mượn các hình ảnh thần linh và thần chú từ văn hóa tôn giáo Ấn Độ thời đó. Việc đồng hóa và du nhập giữa các tôn giáo trong một xã hội mà nhu cầu tâm linh được xem trọng, là không thể tránh khỏi, dù là một phần hay tất cả.

Khi một cái gì đó quá thành công thì sẽ làm nảy sanh lòng ganh tỵ và ghen ghét.







Tôi có cảm tưởng rằng kinh điển Đại Thừa ngày nay mang dáng dấp của Bà La Môn, là kết quả tất yếu trong thời kỳ phục hưng Bà La Môn và thâu tóm giáo lý Phật Đà. Ảnh hưởng của nó có thể đã tác động tới các tác giả các bộ kinh Đại Thừa phát triển, là những người sống vào thời kỳ đó (thế kỷ thứ I trước CN đến thế kỷ thứ IV sau CN).

Tôi tự hỏi rằng: làm sao mà số lượng các vị Phật, Bồ Tát, trang phục của các Ngài, thần chú của các Ngài lại nhiều đến như vậy? Hoàn toàn giống kho tàng các vị thần, các thần chú tế lễ bí mật trong thánh thư Vệ Đà, ngay cả trang phục các vị thần trong Bà La Môn và các tôn giáo khác cũng chỉ có sai khác chút ít. Liệu có sự vay mượn nào chăng?

Phật giáo đại thừa có lẽ đã và đang thành công trong việc truyền bá và làm cho hình ảnh thực sự của đấng pháp vương lịch sử bị lu mờ, yếu chỉ giáo pháp thực hành thân tâm bị phai nhạt, chỉ còn lại hình ảnh 1 vị thần thánh siêu nhân nói các kinh đại thừa và hơi ích kỷ, vì "nếu ai không kính tin kinh này, nói lời thô ác mắng nhiếc chê bai sẽ bị đọa vào địa ngục,v..v.."


Tôi có cảm tưởng rằng kinh điển Đại Thừa ngày nay mang dáng dấp của Bà La Môn, là kết quả tất yếu trong thời kỳ phục hưng Bà La Môn và thâu tóm giáo lý Phật Đà. Ảnh hưởng của nó có thể đã tác động tới các tác giả các bộ kinh Đại Thừa phát triển, là những người sống vào thời kỳ đó (thế kỷ thứ I trước CN đến thế kỷ thứ IV sau CN).


Tôi tự hỏi rằng: làm sao mà số lượng các vị Phật, Bồ Tát, trang phục của các Ngài, thần chú của các Ngài lại nhiều đến như vậy? Hoàn toàn giống kho tàng các vị thần, các thần chú tế lễ bí mật trong thánh thư Vệ Đà, ngay cả trang phục các vị thần trong Bà La Môn và các tôn giáo khác cũng chỉ có sai khác chút ít. Liệu có sự vay mượn nào chăng?


Phật giáo đại thừa có lẽ đã và đang thành công trong việc truyền bá và làm cho hình ảnh thực sự của đấng pháp vương lịch sử bị lu mờ, yếu chỉ giáo pháp thực hành thân tâm bị phai nhạt, chỉ còn lại hình ảnh 1 vị thần thánh siêu nhân nói các kinh đại thừa và hơi ích kỷ, vì "nếu ai không kính tin kinh này, nói lời thô ác mắng nhiếc chê bai sẽ bị đọa vào địa ngục,v..v.."

Nhưng với thế giới phương Tây ngày nay, với nhiều vị học giả nghiên cứu và quy y Phật Pháp, họ có khuynh hướng tìm hiểu thật chân giáo pháp của đấng Đạo Sư lịch sử chứ không tin vào truyền thuyết phủ đầy hào quang không căn cứ.Cái gì thịnh tất suy. Chính sự quá huyền thoại của kinh điển Đại Thừa có thể sẽ làm cho kinh Phật Giáo Đại Thừa khó có thể chấp nhận trong tương lai. Còn về mặt tư tưởng đại thừa, đó là thành quả của nhiều thế hệ tiếp nối đức Phật, không phải vì phi phật thuyết mà không nên phụng hành những điều mà ta cho là sát hợp.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
-----------------------------------
 

An Bình

Registered
Phật tử
Tham gia
27/8/16
Bài viết
30
Điểm tương tác
3
Điểm
8
Lưu ý: Bài viết ở trên chỉ là cung cấp một quan điểm cá nhân về Phật giáo Đại Thừa VÀ CHỈ MANG TÍNH CHẤT THAM KHẢO
 

ngokhong

Registered
Phật tử
Tham gia
2/12/09
Bài viết
826
Điểm tương tác
6
Điểm
18
Lưu ý: Bài viết ở trên chỉ là cung cấp một quan điểm cá nhân về Phật giáo Đại Thừa VÀ CHỈ MANG TÍNH CHẤT THAM KHẢO

Đối với tôi,bài viết khá hay,tác giả có những suy nghĩ,tìm tòi nghiêm túc nhưng giá như có thêm nhiều ví dụ dẫn chứng về sự giống nhau giữa Đạo Phật và Đạo Bà la môn thì sẽ tốt hơn ... Tuy nhiên,đúng như bạn an bình viết,đó chỉ là tham khảo,tùy mỗi người đánh giá và cảm nhận.
 

Trì Quốc Thiên Vương

Registered
Phật tử
Tham gia
29/6/17
Bài viết
1
Điểm tương tác
0
Điểm
1
6/ Tôi rất tâm đắc lời Phật dạy như sau: " chánh pháp không phải vì có nhiều người theo mới là chánh pháp. Chánh pháp không phải vì ít người theo mà không phải là chánh pháp".


Tôi không quan tâm việc kinh điển Đại Thừa do ai tạo ra, vì về nội dung tư tưởng lẫn tinh thần trong đó có thể cho ta câu trả lời rằng: người còn kẹt vào Ta mới cho rằng giáo pháp Ta đang theo mới là chánh pháp, là hy hữu. Và như vậy Ta phải xưng dương và tán thán giáo pháp này để truyền bá rộng khắp.

Một tổ chức, một hệ tư tưởng một khi đã phát triển cao độ, đi vào quy mô tổ chức khoa học và lớn mạnh thì cái lý tưởng ban đầu của nó là gì, hợp thời hay lỗi thời cũng không còn quan trọng nữa và cũng chẳng có ý nghĩa gì, vấn đề quan trọng là nó phải duy trì và chỉnh sửa trong tự thân nếu không muốn tan rã. Ví như Hội Tam Hoàng ngày nay là một tổ chức mafia người Hoa toàn cầu, nhưng ngày xưa thành lập để đấu tranh cho quốc gia trong thời kỳ Trung Quốc loạn lạc bị nước ngoài lấn áp, lấy thời đại tam Hoàng làm lý tưởng tế độ. Hồng Hoa Hội cũng thế ( một tổ chức phản Thanh phục Minh ngày xưa nhưng ngày nay là một tổ chức xã hội đen nửa thương nghiệp). Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày nay cũng vậy, họ tuyên bố là xem xét lại hệ tư tưởng và đường lối kinh tế chính trị, có lẽ vì nguyên nhân thời cuộc mà họ tự cho là hệ tư tưởng đã xưa cũ rồi (?)

Thực tại là hệ phái Đại Thừa được các nước chấp nhận và dễ đi vào quần chúng, dễ gần với các tôn giáo đa thần vì phật giáo đại thừa cũng có vô số hình tượng phật và bồ tát để thờ phụng, lễ lạy và vô số thần chú để trì niệm. Hình ảnh đức Phật Thích ca và giáo pháp của Ngài có vẻ được diễn giải bằng những luận cứ khác, có phần xem nhẹ thực tập trong giờ phút hiện tại để đạt được an lạc và hạnh phúc. Kinh điển cũng đi rất xa nguồn gốc, và để biện giải, người ta gán cho sự thực tập chánh pháp thời đức phật lịch sử là Tiểu thừa (?) mà lại đi thực hành nhiều pháp môn rất gần với mê tín dân gian.


Giới luật cũng bị sửa đổi theo thời cuộc và sự phát triển kinh tế của từng quốc gia qua từng thời đại (điều này có thể tạm chấp nhận nhưng không được quên nguồn gốc chính của nó). Và hình ảnh đức Phật lịch sử chỉ còn giá trị là người khai sáng ra Phật Giáo, và được thần thánh hóa để viện dẫn trong các kinh, luận của đại thừa. Thậm chí, hình ảnh đức Phật còn được viện dẫn trong Bà La Môn với hóa thân là vị thần nào đó của cõi trời nữa (!).

Xét về phương diện tư tưởng, ta có thể hoàn toàn chấp nhận Đại Thừa là sự phát triển sâu rộng của Phật Giáo, còn thực tế kinh điển lịch sử thì khó có thể chấp nhận là do Phật Thuyết (không phải vì lý do ra đời muộn).


Đứng về hệ tư tưởng, Phật Giáo Đại Thừa là sự phát triển tiếp nối sau khi Phật nhập diệt. Nhiều nhà tu hành theo đạo Phật, khi nhập định đạt huệ nhãn có thể thấy các cõi giới hoạt động ở các tần số cao hơn mà người bình thường không thể nào đạt được.Các cõi giới của chư Phật, các vị Bồ Tát như Quán Thế Âm… cũng là hoàn toàn có thể liên thông được. Nhưng trong kinh điển Đại thừa hư cấu quá nhiều vị Bồ Tát hư huyễn chỉ để minh định 2 điều: chánh pháp đã có rộng khắp vũ trụ chứ không phải đợi đến thời kỳ Đức Phật Thích Ca lịch sử ra đời và cũng để nhấn mạnh quả vị Bồ Tát trong đại thừa kinh điển với sáu ba la mật.

Nếu kẹt vào chấp thủ có-không, chúng ta sẽ khó mà chấp nhận kinh điển Đại Thừa.


Tuy nhiên, trong suốt 45 năm hoằng pháp, đức Phật mới nói pháp vi diệu tùy theo căn cơ chúng sanh. Và nếu chấp vào tư tưởng pháp do phật thuyết và phi phật thuyết thì ta không thể chấp nhận đại thừa và Phật Giáo sẽ không thể nào phát triển và truyền bá hoàn cầu.


Vì sao? Vì thời đức phật lịch sử là đạo phật nguyên thủy cổ sơ, yếu chỉ thực tập là chính, nhưng khi đạt được và thể nhập vào chánh pháp rồi thì cần phải thực tập cao hơn, như chúng ta phải học hết cấp 1, rồi tuần tự học lên cấp 2, cấp 3, tốt nghiệp tú tài, đại học và sau đại học… rõ ràng một em bé đang học cấp 1 sẽ khó có thể chấp nhận và không hiểu được trình độ kiến thức ở cấp 2,3 hay đại học được. Và do đó nó sẽ phủ nhận rằng kiến thức đó là không đúng.

Tuy nhiên việc tô vẽ thần thánh siêu nhiên trong kinh điển đại thừa là không cần thiết, dù rằng ta vẫn chấp nhận tư tưởng đại thừa có thể là 1 nền tảng tư tưởng triết học phật giáo cao hơn. Ở đây chỉ là xét về mặt phát triển tư tưởng triêt học phật giáo thôi.


Còn cá nhân tôi, kinh điển Đại Thừa với nhiều hư cấu đã không thể nào là do phật lịch sử thuyết dù kinh có nói như vậy. Dù rằng kinh điển đại thừa có thể đã nêu lên 1 trạng thái thiền định của huệ nhãn và không phải hoàn toàn vô căn cứ khi đề cập về các vấn đề siêu hình, các cõi giới, các Bồ Tát có hạnh nguyện rộng lớn độ sinh.


Bởi nếu không là sự thật thì không thể nào phát sinh trong kinh điển được, dù là ở thời nào. Nhưng rõ ràng là vẫn có sự vay mượn các hình ảnh thần linh và thần chú từ văn hóa tôn giáo Ấn Độ thời đó. Việc đồng hóa và du nhập giữa các tôn giáo trong một xã hội mà nhu cầu tâm linh được xem trọng, là không thể tránh khỏi, dù là một phần hay tất cả.

Khi một cái gì đó quá thành công thì sẽ làm nảy sanh lòng ganh tỵ và ghen ghét.







Tôi có cảm tưởng rằng kinh điển Đại Thừa ngày nay mang dáng dấp của Bà La Môn, là kết quả tất yếu trong thời kỳ phục hưng Bà La Môn và thâu tóm giáo lý Phật Đà. Ảnh hưởng của nó có thể đã tác động tới các tác giả các bộ kinh Đại Thừa phát triển, là những người sống vào thời kỳ đó (thế kỷ thứ I trước CN đến thế kỷ thứ IV sau CN).

Tôi tự hỏi rằng: làm sao mà số lượng các vị Phật, Bồ Tát, trang phục của các Ngài, thần chú của các Ngài lại nhiều đến như vậy? Hoàn toàn giống kho tàng các vị thần, các thần chú tế lễ bí mật trong thánh thư Vệ Đà, ngay cả trang phục các vị thần trong Bà La Môn và các tôn giáo khác cũng chỉ có sai khác chút ít. Liệu có sự vay mượn nào chăng?

Phật giáo đại thừa có lẽ đã và đang thành công trong việc truyền bá và làm cho hình ảnh thực sự của đấng pháp vương lịch sử bị lu mờ, yếu chỉ giáo pháp thực hành thân tâm bị phai nhạt, chỉ còn lại hình ảnh 1 vị thần thánh siêu nhân nói các kinh đại thừa và hơi ích kỷ, vì "nếu ai không kính tin kinh này, nói lời thô ác mắng nhiếc chê bai sẽ bị đọa vào địa ngục,v..v.."


Tôi có cảm tưởng rằng kinh điển Đại Thừa ngày nay mang dáng dấp của Bà La Môn, là kết quả tất yếu trong thời kỳ phục hưng Bà La Môn và thâu tóm giáo lý Phật Đà. Ảnh hưởng của nó có thể đã tác động tới các tác giả các bộ kinh Đại Thừa phát triển, là những người sống vào thời kỳ đó (thế kỷ thứ I trước CN đến thế kỷ thứ IV sau CN).


Tôi tự hỏi rằng: làm sao mà số lượng các vị Phật, Bồ Tát, trang phục của các Ngài, thần chú của các Ngài lại nhiều đến như vậy? Hoàn toàn giống kho tàng các vị thần, các thần chú tế lễ bí mật trong thánh thư Vệ Đà, ngay cả trang phục các vị thần trong Bà La Môn và các tôn giáo khác cũng chỉ có sai khác chút ít. Liệu có sự vay mượn nào chăng?


Phật giáo đại thừa có lẽ đã và đang thành công trong việc truyền bá và làm cho hình ảnh thực sự của đấng pháp vương lịch sử bị lu mờ, yếu chỉ giáo pháp thực hành thân tâm bị phai nhạt, chỉ còn lại hình ảnh 1 vị thần thánh siêu nhân nói các kinh đại thừa và hơi ích kỷ, vì "nếu ai không kính tin kinh này, nói lời thô ác mắng nhiếc chê bai sẽ bị đọa vào địa ngục,v..v.."

Nhưng với thế giới phương Tây ngày nay, với nhiều vị học giả nghiên cứu và quy y Phật Pháp, họ có khuynh hướng tìm hiểu thật chân giáo pháp của đấng Đạo Sư lịch sử chứ không tin vào truyền thuyết phủ đầy hào quang không căn cứ.Cái gì thịnh tất suy. Chính sự quá huyền thoại của kinh điển Đại Thừa có thể sẽ làm cho kinh Phật Giáo Đại Thừa khó có thể chấp nhận trong tương lai. Còn về mặt tư tưởng đại thừa, đó là thành quả của nhiều thế hệ tiếp nối đức Phật, không phải vì phi phật thuyết mà không nên phụng hành những điều mà ta cho là sát hợp.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
-----------------------------------

"Tôi tự hỏi rằng: làm sao mà số lượng các vị Phật, Bồ Tát, trang phục của các Ngài, thần chú của các Ngài lại nhiều đến như vậy? Hoàn toàn giống kho tàng các vị thần, các thần chú tế lễ bí mật trong thánh thư Vệ Đà, ngay cả trang phục các vị thần trong Bà La Môn và các tôn giáo khác cũng chỉ có sai khác chút ít. Liệu có sự vay mượn nào chăng?"

Tôi cùng có thắc mắc như chủ bút. Tôi nghĩ nếu không có vết tích gì như UFO thì tôi không tin. Còn nếu đã có vô số vết tích, tranh ảnh, tượng mô tả hình dáng của ma quỷ, thần, thánh, Bồ Tát, Phật, lại còn rất nhiều tài liệu chỉ đường hướng dẫn mình đi tìm, vô số phương tiện hiện đại. Thì dại gì có thời gian không đi tìm thử một phen cho ra nhẽ xem sao. Đã tìm thì phải tìm cho bằng thấy. Thấy rồi mới tin. Tin rồi mới theo.

Tôi có ý nghĩ, nếu biết là có nhiều vị thần trong tôn giáo khác, nếu họ có thật, thì họ hộ trì Phật giáo vẫn tốt hơn là với tâm thái chống đối. Tôi thắc mắc, nếu như một vị thần trong tôn giáo khác, nay muốn đi theo Phật pháp, thì họ có được gọi là những vị thần trong Phật giáo hay không. Hay họ vừa mang danh Phật tử, lại vừa tiếp tục là vị thần đại diện cho một tôn giáo, niềm tin nào đó?

Tôi được biết Phật tử dù có thần thông, cũng không được lộ ra. Nhưng nếu lộ ra mà có lợi ích cho chúng sanh, hướng họ đến Phật đạo thì có nên hay không? Sử dụng như thế nào?..v.v...
 

VO-NHAT-BAT-NHI

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
23/8/10
Bài viết
3,832
Điểm tương tác
766
Điểm
113
"Tôi tự hỏi rằng: làm sao mà số lượng các vị Phật, Bồ Tát, trang phục của các Ngài, thần chú của các Ngài lại nhiều đến như vậy? Hoàn toàn giống kho tàng các vị thần, các thần chú tế lễ bí mật trong thánh thư Vệ Đà, ngay cả trang phục các vị thần trong Bà La Môn và các tôn giáo khác cũng chỉ có sai khác chút ít. Liệu có sự vay mượn nào chăng?"

Tôi cùng có thắc mắc như chủ bút. Tôi nghĩ nếu không có vết tích gì như UFO thì tôi không tin. Còn nếu đã có vô số vết tích, tranh ảnh, tượng mô tả hình dáng của ma quỷ, thần, thánh, Bồ Tát, Phật, lại còn rất nhiều tài liệu chỉ đường hướng dẫn mình đi tìm, vô số phương tiện hiện đại. Thì dại gì có thời gian không đi tìm thử một phen cho ra nhẽ xem sao. Đã tìm thì phải tìm cho bằng thấy. Thấy rồi mới tin. Tin rồi mới theo.

Tôi có ý nghĩ, nếu biết là có nhiều vị thần trong tôn giáo khác, nếu họ có thật, thì họ hộ trì Phật giáo vẫn tốt hơn là với tâm thái chống đối. Tôi thắc mắc, nếu như một vị thần trong tôn giáo khác, nay muốn đi theo Phật pháp, thì họ có được gọi là những vị thần trong Phật giáo hay không. Hay họ vừa mang danh Phật tử, lại vừa tiếp tục là vị thần đại diện cho một tôn giáo, niềm tin nào đó?

Tôi được biết Phật tử dù có thần thông, cũng không được lộ ra. Nhưng nếu lộ ra mà có lợi ích cho chúng sanh, hướng họ đến Phật đạo thì có nên hay không? Sử dụng như thế nào?..v.v...

Chúng ta đều là hậu thế. Phật dạy răng chớ vội tin các điều được truyền lại. Hãy thực tập và chiêm nghiệm. Và phải nhớ rằng năng lực chúng ta có giới hạn, cái hiểu cũng chưa được nhiều, chưa có tam minh lục thông giải thoát thì chớ nên chê bai những điều được cho là Phật dạy, vì lỡ như đó là lời Phật dạy mà ta chê bai thì mang tội địa ngục.
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
28/7/16
Bài viết
1,837
Điểm tương tác
904
Điểm
113
Chúng ta không nên quá quan tâm tới vấn đề Đại Thừa có phải do đức Phật thuyết hay không vì điều này rất rõ ràng như ban ngày:


TƯ TƯỞNG ĐẠI THỪA LÀ BÌNH ĐẲNG ĐÃ CÓ TỪ THỜI ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ còn tại thế và phát triển rộng thêm lên, còn KINH ĐIỂN ĐẠI THỪA THÌ CHẮC CHẮN LÀ KHÔNG PHẢI DO PHẬT DẠY.

Chúng ta hãy xem xét điều này:

1/ Kinh điển đại thừa chính là nguyên nhân 1 phần khiến cho Phật Giáo bị tiêu diệt ở Ấn Độ. Tại sao? Tại vì việc các hệ phái Đại Thừa tôn xưng đức Phật là một nhập thể siêu việt, huyễn hoặc thần thoại đầy truyền thuyết và vay mượn hình ảnh các thần linh từ các giáo phái đa thần như Bà La Môn, các thần chú của thánh thư Vệ Đà làm nên các hình tượng Phật, Bồ Tát trong kinh điển Đại Thừa..thì Bà La Môn cũng có thể nói là Đức Phật và giáo pháp của Ngài là hóa thân của 1 vị thần nào đó trong Bà La Môn chẳng hạn?


Về điểm này rõ ràng các Bà La Môn đã tinh khôn hơn các người sáng lập kinh điển Đại Thừa vì họ dám chấp nhận thay đổi tư tưởng trong hệ tư tưởng Bà La Môn ngàn đời để công nhận và thâu tóm Phật Giáo thành 1 bộ phận của họ để bảo vệ quyền lợi giai cấp của họ, để đấu tranh với Phật Giáo đang truyền bá tư tưởng bình đẳng.

Chào ngoại đạo An Bình,

1. "Các hệ phái đại thừa tôn xưng Đức Phật là một nhập thế siêu việt, huyễn hoặc thần thoại..."

Hệ phái nào của Đại thừa tôn xưng như thế ? Tôn xưng ở chỗ nào ?

Thế nào là một nhập thế siêu việt ? Đức Phật tại sao lại không thể là một nhập thế siêu việt ?

Năng lực của đức Phật tới cảnh giới nào bạn có biết chăng ?


2. "...vay mượn hình ảnh các thần linh từ các giáo phái đa thần như Bà La Môn, các thần chú của thánh thư Vệ Đà làm nên các hình tượng Phật, Bồ Tát trong kinh điển Đại Thừa"

Sự vay mượn hình ảnh từ các giáo phái khác thể hiện ở chỗ nào ?

Thần linh là có hay không ?

Danh xưng chủng loại năng lực của thần linh bạn biết được bao nhiêu ?

Giới hạn nào cho rằng, các tôn giáo khác có quyền nêu xưng các thần linh, còn đạo Phật thì lại không thể ?

Đạo Phật nói tới thần linh ở khía cạnh nào bạn có biết ?

3.
An Bình đã viết:
2/ Kinh điển Đại Thừa không phải là chánh pháp của Đức Phật mà chỉ là một sự tôn xưng Phật giáo và suy diễn một cách thái quá của những người đệ tử của đức Phật lai căn Bà La Môn với Phật Giáo.

4/Chúng ta không phủ nhận rằng tư tưởng Đại Thừa là tư tưởng Phật Giáo, nhưng chỉ là 1 phần tư tưởng phật giáo. Trong kinh điển Đại Thừa, danh từ Phật (người tỉnh thức, bậc giác giả) đã bị lạm dụng quá mức và cho rằng Phật là vị còn hơn cả siêu nhân.

Cái gì là tư tưởng Đại thừa ?

Cái gì là tư tưởng Phật giáo ?

Cái gì là chánh Pháp của đức Phật ?

Tư tưởng Phật giáo và chánh pháp của đức Phật là đồng hay là khác ? khác ở chỗ nào ?

4.
An Bình đã viết:
5/ Chúng ta không nên quá quan trọng rằng: kinh nào là do Phật lịch sử thuyết, kinh nào là phi Phật thuyết. Điều đó không quan trọng. Điều quan trọng mà tôi tin chắc rằng: giáo lý của đức Phật là thực tập chứ không phải để cất giữ....

Bạn biết được những hình thức thực tập nào của Đại thừa Phật Pháp ?

Bạn đã thử thực tập một trong số các hình thức tu tập đó chưa ?


 

thanhvan

Registered
Phật tử
Tham gia
9/9/13
Bài viết
156
Điểm tương tác
56
Điểm
28
em chào bác ạ

Trích dẫn Gửi bởi An Bình
Chúng ta không nên quá quan tâm tới vấn đề Đại Thừa có phải do đức Phật thuyết hay không vì điều này rất rõ ràng như ban ngày:


TƯ TƯỞNG ĐẠI THỪA LÀ BÌNH ĐẲNG ĐÃ CÓ TỪ THỜI ĐỨC PHẬT LỊCH SỬ còn tại thế và phát triển rộng thêm lên, còn KINH ĐIỂN ĐẠI THỪA THÌ CHẮC CHẮN LÀ KHÔNG PHẢI DO PHẬT DẠY.

Chúng ta hãy xem xét điều này:

1/ Kinh điển đại thừa chính là nguyên nhân 1 phần khiến cho Phật Giáo bị tiêu diệt ở Ấn Độ. Tại sao? Tại vì việc các hệ phái Đại Thừa tôn xưng đức Phật là một nhập thể siêu việt, huyễn hoặc thần thoại đầy truyền thuyết và vay mượn hình ảnh các thần linh từ các giáo phái đa thần như Bà La Môn, các thần chú của thánh thư Vệ Đà làm nên các hình tượng Phật, Bồ Tát trong kinh điển Đại Thừa..thì Bà La Môn cũng có thể nói là Đức Phật và giáo pháp của Ngài là hóa thân của 1 vị thần nào đó trong Bà La Môn chẳng hạn?


Về điểm này rõ ràng các Bà La Môn đã tinh khôn hơn các người sáng lập kinh điển Đại Thừa vì họ dám chấp nhận thay đổi tư tưởng trong hệ tư tưởng Bà La Môn ngàn đời để công nhận và thâu tóm Phật Giáo thành 1 bộ phận của họ để bảo vệ quyền lợi giai cấp của họ, để đấu tranh với Phật Giáo đang truyền bá tư tưởng bình đẳng.
Này an bình hay bình an thì mặc kệ ông.
Trước khi xét lời ông nói tôi muốn xác định cụ thể Phật là gì? ông nói cho rõ nhé.
Nếu có hoặc không thì nói cho cụ thể một tí theo hiểu biết của ông mà có liên quan đến những bài ông đã đăng tải?
theo ông Phật nói gì cho chúng sinh?
Ông tin chúng sinh hay tin Phật?
 

123456789

Registered
Phật tử
Tham gia
14/6/09
Bài viết
491
Điểm tương tác
76
Điểm
28
Hôm nay 123456789 xin KHẲNG ĐỊNH MỘT CÁCH CHẮC CHẮN RẰNG ĐẠI THỪA LÀ CHÂN THẬT PHẬT NÓI!

Những người bên Phật Giáo Tiểu Thừa sở dĩ họ chỉ chấp nhận Nikaya lý do là vì trong Trường Bộ Kinh, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Tụng Phẩm 3 có nói rằng:

"Này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy, các Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để cho phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người? Chính là Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Thần túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ-đề phần, Tám Thánh đạo phần."
Những pháp trên là 37 Phẩm Trợ Đạo bên Tiểu Thừa. Tuy trên nhiên thật tế, thì ngoài 37 Phẩm Trợ Đạo bên Tiểu Thừa ra, Đức Phật còn thuyết nhiều pháp môn khác nữa. Mà trong đó một số những pháp môn đó là thuyết riêng cho Chư Bồ Tát cầu Trí Tuệ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Phật Toàn Giác, đó là những pháp như Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, Niệm Phật Tam Muội... được nói trong Kinh Điển Đại Thừa. Và cũng vì lý do đó nên các pháp mà Chư Hiền Thánh A La Hán chứng đắc giải thoát và Chư Phật Chánh Đẳng Giác chứng đắc giải thoát là khác nhau. Vì nếu như Đức Phật chỉ thuyết duy nhất 37 Phẩm Trợ Đạo, thì các vị A La Hán cũng sẽ có trí tuệ để biết Giới Đức, Pháp, Trí Tuệ, An Trú, Giải Thoát như Chư Phật Thế Tôn vậy. Nhưng ngay cả bậc thượng thủ Thanh Văn A La Hán là ngài Xá Lợi Phất cũng không thể biết được Giới Đức, Pháp, Trí Tuệ, An Trú, Giải Thoát của Chư Phật là như thế nào, vì vậy lẽ dĩ nhiên là ngoài 37 Phẩm Trợ Đạo bên Tiểu Thừa ra, nhất định còn phải có các Pháp Đại Thừa dành cho Chư Bồ Tát, Những Người Có Căn Cơn Đại Thừa để được trí tuệ Giới Đức, Pháp, Trí Tuệ, An Trú, Giải Thoát như Chư Phật Thế Tôn vậy.

Sau đây là một đoạn Kinh văn trong Kinh Tự Hoan Hỷ số 28 của Trường Bộ Kinh.
Này Sàriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong quá khứ, các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của tất cả các vị Thế Tôn - Giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị Thế Tôn là như vậy, Trí Tuệ chư vị Thế Tôn là như vậy, An Trú chư vị Thế Tôn là như vậy, Giải Thoát chư vị Thế Tôn là như vậy?

- Bạch Thế Tôn, không!

- Này Sàriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong tương lai, các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của tất cả các vị Thế Tôn - Giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị Thế Tôn là như vậy, Trí Tuệ chư vị Thế Tôn là như vậy, An Trú chư vị Thế Tôn là như vậy, Giải Thoát chư vị Thế Tôn là như vậy?

- Bạch Thế Tôn, không!

- Này Sàriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong hiện tại Ta là vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của Thế Tôn - Giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị Thế Tôn là như vậy, Trí Tuệ chư vị Thế Tôn là như vậy, An Trú chư vị Thế Tôn là như vậy, Giải Thoát chư vị Thế Tôn là như vậy?

- Bạch Thế Tôn, không!

- Này Sàriputta, hãy xem! Ngươi không có trí tuệ biết được tâm tư của chư vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở quá khứ, ở hiện tại và ở tương lai!
Xem đoạn Kinh trên chúng đã thấy rất rõ ràng Đức Phật nói về những bậc Chánh Đẳng Giác trong thời hiện tại chính là Chư Phật đang hiện diện khắp mười phương, vì mỗi một thế giới có một bậc Chánh Đẳng Giác ở đời, và ở đây chúng ta hãy xem kỹ đoạn Kinh bên dưới Đức Phật nói trong một thế giới chứ không nói là chỉ trong thế giới (tức là riêng thế giới này), vì vậy ngoài một thế giới ra còn có nhiều thế giới khác nữa vì hư không vô biên nên thế giới cũng vô số, và những thế giới đó được nói rõ trong Kinh Điển Đại Thừa. Kinh Tăng Chi Bộ Kinh tập I, trang 37 chép rằng:
"Sự kiện này không xảy ra, này các Tỳ kheo, không có được trong một thế giới có hai vị A la hán Chánh đẳng giác, không trước không sau, xuất hiện một lần. Sự kiện này không xảy ra. Và sự kiên này có xảy ra, này các Tỳ-kheo. Trong một thế giới, chỉ có một vị A la hán Chánh đẳng giác, xuất hiện, sự kiện này có xảy ra".
Đức Phật đã thuyết 84,000 pháp môn khác nhau tùy theo căn cơ mỗi người mà thực hành để được sự giải thoát. Và dĩ nhiên 84,000 pháp môn khác nhau đồng nghĩa với việc có tới 84,000 con đường khác nhau để dẫn đến sự giải thoát. Trong Kinh Tiểu Thừa Nikaya, Tiểu Bộ Trưởng Lão Tăng Kệ, Chương Mười Bảy - Phẩm Ba Mươi Kệ, Số 260 Ananda như sau:
Một hôm Moggallàna người chăn bò, hỏi ngài (Ananda) lời dạy của đức Phật là gì, có bao nhiêu giáo lý tất cả. Vị Trưởng lão (Ananda) trả lời:

1025. Ta nhận từ đức Phật,
Tám mươi hai ngàn pháp,
Còn nhận từ Tỷ-kheo,
Thêm hai ngàn pháp nữa,
Tổng cộng tám tư ngàn,
Là pháp ta chuyển vận.
BẰNG CHỨNG để xác nhận một cách chắc chắn rằng 84,000 pháp môn khác nhau chứ không phải chỉ trùng lập đi lập lại trong 37 Phẩm Trợ Đạo là trong Trường Bộ Kinh, 26. Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống có ghi chép rõ ràng như sau:
Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người lên đến tám vạn tuổi, có Thế Tôn tên là Metteyya sẽ ra đời, là vị A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn; như Ta nay sanh ra ở đời này, là bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Vị này tự mình biết, chứng, và tuyên thuyết quả đất này, gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, Thế giới này với Sa môn, Bà la môn, loài Trời, loài Người; như Ta hiện nay tự mình biết, chứng và tuyên thuyết quả đất này, gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, Thế giới này với Sa môn, Bà la môn, loài Trời và loài Người. Vị này sẽ thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa lý văn tự đầy đủ và tuyên thuyết đời sống phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh; như Ta hiện nay thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa lý văn tự đầy đủ và tuyên thuyết đời sống phạm hành hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh. Vị này sẽ có khoảng vài ngàn vị Tỷ kheo Tăng đoàn; như Ta hiện nay có khoảng vài trăm vị Tỷ kheo Tăng đoàn vậy.

Này các Tỷ kheo, vua Sankha sẽ cho thiết lập cung điện mà vua Mahà Panada đã thiết lập. Sau khi thiết lập, vua trú tại đó. Sau vua lại bố thí cung điện ấy, dâng cúng cho các vị Sa môn, Bà-la-môn, các hàng bần cùng, du đãng, ăn xin, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình dưới sự chỉ đạo của Thế Tôn Metteyya, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Vị này xuất gia như vậy, sống một mình, biệt lập, tinh tấn, TRÌ CHÚ, chuyên tâm, chẳng bao lâu chứng được vô thượng phạm hạnh, mà vì mục đích này các thiện nam tử đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Với vô thượng phạm hạnh này, ngay trong hiện tại, vị này tự tu, tự chứng, đạt đến và an trú.
Pháp môn Trì Chú là Mật Tông của bên Phật Giáo Đại Thừa. Trong Tam Tạng Pali Nikaya Tiểu Thừa không có dạy tới phương pháp, nhưng lại có nhắc đến, và thực hành Trì Chú vẫn chứng được vô thượng phạm hạnh. Như vậy thì 84,000 pháp môn được xác quyết một cách chắc chắn rằng là 84,000 con đường khác nhau để dẫn đến giải thoát là Sự Thật! Và muốn biết phương pháp Trì Chú như thế nào để được giải thoát thì hãy xem nơi các Kinh Điển Đại Thừa, Đức Phật đã dạy rất rõ ràng rồi.

Nguyên bản Pali (câu 1029) về phần ngài Ananda đã nhận được 84,000 pháp môn như sau:

Dvāsītiṃ buddhato gaṇhiṃ dve sahassāni bhikkhuto, caturāsītisahassāni ye me dhammā pavattino.

Và đã được Tỳ Khưu Indacanda dịch như sau:

Tôi đã tiếp nhận tám mươi hai ngàn từ đức Phật, hai ngàn từ vị tỳ khưu, tám mươi bốn ngàn Pháp (uẩn) này là có sự vận hành.

Rõ ràng uẩn đã được thầy Indacanda mở hoặc thêm vào còn bản Pali chính thống chỉ có chữ dhammā (Pháp Môn hay Giáo Pháp) chứ hoàn không có chữ Dhammakhandha pháp uẩn gì ở đây hết. Vào đây để tải nguyên bản về xem: tamtangpaliviet.net

Ngoài ra trong thời pháp đầu tiên khi Đức Phật thuyết pháp Tiểu Thừa để dần dần tế độ chúng sanh, lúc bây giờ ngài Xá Lợi Phất đã chứng đắc giải thoát và là bậc thượng thủ Thanh Văn cũng đã khen ngợi Đức Phật nói pháp ngày càng cao thượng và thâm thúy hơn, thì làm sao mà Đức Phật chỉ thuyết vòng vòng các pháp như Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên.... được, vì khi nào chứng Tứ Diệu Đế thì mới đắc được quả vị A La Hán, mà ngài Xá Lợi Phất đã chứng đắc A La Hán và là bậc thượng thủ rồi, thì Đức Phật mỗi ngày lại vẫn còn thuyết pháp cao thượng hơn pháp trước, vậy pháp đó là pháp gì? dĩ nhiên là Giáo Pháp Đại Thừa rồi. Trong Kinh Tự Hoan Hỷ ngài Xá Lợi Phất nói như sau:
“Và nay ở đây, con một thời yết kiến Thế Tôn để nghe pháp. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết pháp cho con, mỗi pháp lại cao thượng, thâm thúy hơn pháp trước, hắc pháp và bạch pháp đều được đề cập, đối chiếu. Bạch Thế Tôn, nhờ Thế Tôn thuyết pháp cho con, mỗi pháp lại cao thượng, thâm thúy hơn pháp trước, hắc pháp và bạch pháp đều được đề cập, đối chiếu như vậy, nên trong sự thâm hiểu Chánh pháp, một pháp được con thâm hiểu trọn vẹn, đó là lòng tin của con vào vị Bổn Sư - Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng và chúng Tăng đã khéo hành trì.”
Còn nữa, một số những người bên Tiểu Thừa phỉ báng nói là Phật Giáo Đại Thừa giống Bà La Môn ngoại đạo này nọ..., nhưng hãy xem trong Kinh Pháp Cú Phẩm Bà La Môn kệ 402 của Phật Giáo Tiểu Thừa, Đức Phật đã nói chính những người đã được Giải Thoát thì cũng được gọi là Bà La Môn. Vậy chẳng lẽ nói rằng Phật Giáo Tiểu Thừa cũng giống Ba La Môn sao? Tại sao đi chấp hình tướng bê ngoài làm gì. Cái quan trọng là sự GIẢI THOÁT của Phật Giáo và Ngoại Đạo để tận diệt luân hồi khổ đau là khác nhau. Vì vậy xin làm ơn hãy từ bỏ ngay cái lời nói thô bỉ phỉ báng đem Phật Giáo chân chính Đại Thừa lại đi so sánh với ngoại đạo đấy đi.
402. "Ai tự trên đời này,
Giác khổ, diệt trừ khổ,
Bỏ gánh nặng, giải thoát,
Ta gọi Bà-la-môn.
Phật Giáo chúng ta đều dựa trên nền tảng nhân quả, biết bao nhiêu người Trì Chú Đại Bi, Niệm Phật Bồ Tát, Đọc Tụng Thánh Điển Đại Thừa... theo truyền thống Phật Giáo Đại Thừa, đã nhận được biết bao nhiêu sự mầu nhiệm linh ứng như tai qua nạn khỏi, bệnh nặng được lành, người qua đời thì lưu lại xá lợi lấp lánh như Chư Hiền Thánh hoặc hiện tượng như còn sống hồng hào tốt... và nhiều vô lượng những điều tốt lành khác. Nếu Phật Giáo Đại Thừa không phải là Phật Giáo chân chính thì những người đó không thể nhận được những sự màu nhiệm linh ứng được, tại vì đã phạm phải tội Tà Kiến rất nặng, xuyên tạc phỉ báng Như Lai tạo điều vô phước và đem lại bất hạnh cho đa số, bất lạc cho đa số, bất lợi cho đa số, đưa đến bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người, và đại vọng ngữ khi đọc những Kinh không đúng chánh pháp. Như trong Tăng Chi Bộ, Chương Một Pháp có ghi chép:
Phẩm Phi Pháp (2)

33-42 Phi Pháp

33. - Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ phi pháp là pháp, sở hành của những vị ấy, này các Tỷ-kheo, đem lại bất hạnh cho đa số, bất lạc cho đa số, bất lợi cho đa số, đưa đến bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy tạo điều vô phước, và khiến cho diệu pháp biến mất.

34. Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ pháp là phi pháp, sở hành của những vị ấy, này các Tỷ-kheo, đem lại bất hạnh cho đa số, bất lạc cho đa số, bất lợi cho đa số, đưa đến bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy tạo điều vô phước, và khiến cho diệu pháp biến mất.

35-42. Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ phi luật là luật,... nêu rõ luật là phi luật,... Như Lai không nói lên, tuyên bố là Như Lai có nói lên, không tuyên bố là Như Lai không nói lên, ... Như Lai có nói lên, tuyên bố là Như Lai không nói lên, không tuyên bố là Như Lai có nói lên, ... Như Lai không thực hành, tuyên bố là Như Lai có thực hành,... Như Lai thực hành, tuyên bố là Như Lai không thực hành,... Như Lai không chế đặt, tuyên bố là Như Lai có chế đặt... Như Lai có chế đặt, tuyên bố là Như Lai không chế đặt... Sở hành của những vị ấy, này các Tỷ-kheo, đem lại bất hạnh cho đa số, bất lạc cho đa số, bất lợi cho đa số, đưa đến bất hạnh đau khổ cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy tạo điều vô phước, và khiến cho diệu pháp biến mất.
Nhưng vì Phật Giáo Đại Thừa là Giáo Pháp Chân Chính do chính Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên thuyết, nên đã biết bao nhiêu người nhận được biết bao nhiêu sự lợi lạc linh ứng không thể nghĩ bàn, được Chư Thiên Long Bát Bộ giữ gìn, cho nên những ai tu theo Phật Giáo Đại Thừa là đi theo con đường chân chính của Đức Phật và tạo phước đức đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại hạnh phúc an lạc cho chư Thiên và loài Người. Như trong Kinh Tăng Chi Bộ, Chương Một Pháp cũng ghi chép:
1-10 Phi Pháp

1. - Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ phi pháp là phi pháp, các Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, sở hành như vậy, đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại hạnh phúc an lạc cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy tạo phước đức và an trú diệu pháp này.

2. - Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ nêu rõ pháp là pháp, các Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, sở hành như vậy, đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại hạnh phúc an lạc cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy tạo phước đức và an trú diệu pháp này.

3-10. Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ phi luật là phi luật... luật là luật... Như Lai không nói lên, tuyên bố là Như Lai không nói lên, ... Như Lai có nói lên, tuyên bố là Như Lai có nói lên, ... Như Lai không thực hành, tuyên bố là Như Lai không thực hành, ... Như Lai có thực hành, tuyên bố là Như Lai có thực hành, ... Như Lai không chế đặt, tuyên bố là Như Lai không chế đặt, ... Như Lai có chế đặt, tuyên bố là Như Lai có chế đặt...Các vị Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, sở hành như vậy, đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy tạo phước đức và an trú diệu pháp này.
Nghi vấn tiếp theo "Phải chăng có phải là ác ma thiên thị hiện những điều linh ứng đó để phá hoại?"

Trả lời: Hoàn toàn sai lầm, cảnh giới của Phật Giáo Đại Thừa là nói về những điều Chư Phật Bồ Tát, Hiền Thánh với đầy đủ tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả và Bồ Đề Tâm lợi ích cho tất cả mọi loài chúng sanh, là theo truyền thống của Chư Phật Chánh Đẳng Giác. Khác hẳn với cảnh giới của Ác Ma Thiên vốn Tham Lam, Ích Kỷ, Dục Lạc và không muốn đem lại lợi ích cho chúng sinh, như khi xưa Ác Ma Thiên đã cản trở không cho Phật Thành Đạo, và khi Phật Thành Đạo rồi lại thỉnh mau vào Niết Bàn. Hơn nữa Ác Ma Thiên không thể thị hiện những điềm linh ứng đó được, vì Ác Ma Thiên chỉ ở tầng trời Dục Giới, nhưng còn rất nhiều Chư Thiên Hộ Pháp cao hơn Ác Ma Thiên ở tầng trời Sắc Giới như Phạm Thiên Sahampati... đã khuyến thỉnh Phật vì lợi ích cho chúng sanh mà thuyết pháp. Những Phạm Thiên Hộ Pháp ở tầng trời Sắc Giới có tuổi thọ dài lâu và sức mạnh hơn hẳn Ác Ma Thiên, các vị ấy đã từ bỏ tham dục và đang thọ hưởng hạnh phúc của thiền-na và đã vượt khỏi cảnh giới thống trị Dục Giới của Ác Ma Thiên. Lại có Tịnh Cư Thiên, cảnh giới hoàn toàn tinh khiết. Đây là cảnh giới tuyệt đối riêng biệt của các vị Bất lai (A-na-hàm, Anāgāmi) cũng hộ trì Phật Pháp nên một mình Ác Ma Thiên làm sao mà có đủ quyền năng thể thị hiện những điều trái nhân quả và trái chánh pháp được?

Hơn nữa nếu Ác Ma Thiên thật sự đủ quyền năng diệt Phật Pháp, thì đã biến hóa cho các Kinh Sách ngoại đạo thần thông hơn Kinh Phật để chúng sanh tin theo mà mất hết huệ nhãn rồi, cớ chi Ác Ma lại tạo thêm Phật Giáo mới (lại bao gồm giáo lý Phật Giáo Cũ) và hiện linh ứng làm gì để chúng sanh tin theo Phật Pháp để gieo duyên lành giải thoát khỏi cảnh giới của Ác Ma? Với lại nếu Ác Ma Thiên đủ quyền năng như vậy thì có thể làm cho các Kinh Sách Phật Giáo biến mất hết từ lâu xưa rồi. Và Ác Ma đã có thể biến hóa những người làm nhiều việc ác khi chết để lại được những tướng lành và xá lợi hay làm việc ác mà được quả báo tốt đẹp rồi rồi. Nhưng Ác Ma Thiên hoàn toàn không đủ khả năng để biến hóa những điều trái nhân quả và trái ngược chánh pháp được, vì còn có Chân Lý Nhân Quả và Chư Thiên Hộ Pháp Cao Hơn nữa. Trong sử Cao Tăng Truyện đã được chứng kiến bởi những người thời đó, và chuyện viết về vua quan thì không thể giỡn chơi được, khi Phật Giáo mới truyền đến Trung Quốc được ghi chép lại như sau:
SA MÔN NHIẾP MA ÐẰNG, TRÚC PHÁP LAN đến LẠC DƯƠNG

Các ông Thái Âm... đến nước Nguyệt Chi, một lãnh thổ gần Thiên Trúc, gặp hai Phạm tăng là Ma Ðằng và Pháp Lan muốn dâng kinh tượng đến nước Trung Hoa, bèn cùng trở về phương Ðông. Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười (67 TL) đến Lạc Dương. Ma Ðằng vào triều hiến kinh tượng. Vua rất vui truyền đến ở Hồng Lô Tự, Pháp Lan đi đến sau.

Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười bốn (Kỷ Tỵ) vua xuống chiếu ở ngoài cửa Tây Ung lập riêng một chùa, mời hai ngài đến ở. Vì Bạch Mã chở kinh đến nên đặt tên chùa là Bạch Mã. Vua đến chùa hỏi Ma Ðằng:

- Sau khi Phật ra đời vì sao không giáo hóa đến đây?

Ma Ðằng đáp:

- Nước Ca tỳ la vệ ở Ấn Ðộ, ba đời chư Phật trong tam thiên đại thiên thế giới, trăm ức nhật nguyệt đều ở đây xuất hiện. Thiên thần rồng quỷ có nguyện lực đều sanh ở đó nhận sự giáo hóa, ngộ đạo. Chỗ khác Phật tuy không đến, nhưng ánh sáng chiếu khắp mọi nơi. Một ngàn năm trăm năm đều có thánh nhân truyền lời dạy của Phật đến để giáo hóa.

Vua rất vui. Hai ngài hỏi tiếp:

- Phía Ðông chùa có quán gì?

Vua đáp:

- Xưa có đống đất tự nhiên nổi lên, dẹp đi lại nổi, đêm có ánh sáng lạ, dân gọi là mộ Thánh. Do đó thờ, nghi là thần Lạc Dương.

Ma Ðằng nói:

- Theo Kim Tạng ở Thiên Trúc ghi. Vua A Dục chôn Xá lợi Phật khắp thiên hạ tới 84,000 chỗ. Nay ở Trung Hoa có mười chín chỗ, đây là một.

Vua thất kinh liền đến lễ bái. Chợt có một vầng ánh sáng tròn hiện trên mộ, ba thân hiện trong ánh sáng. Thị vệ hô “Vạn tuế!”. Vua mừng nói:

- Nếu không gặp hai đại sĩ, đâu biết được Di hựu của Thượng Thánh.

Rồi xuống chiếu xây tháp lên trên theo cách thức của hai ngài. Tháp hoàn thành có chín tầng, cao hai trăm thước. Năm sau ánh sáng lại hiện, có cánh tay sắc vàng lộ trên đỉnh tháp ca thước như trong lưu ly thấy hương trời. Vua lại đến chiêm bái. Ánh sáng theo bước chân xoay vòng, từ ngọ đến giờ thân (3 giờ chiều) mới diệt.

Vua đối với Phật pháp rất kính tín. Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười bốn (71 TL), đạo sĩ Ngũ Nhạc là Trữ Thiện Tín, Phí Thúc Tài... đố kỵ, bài xích nói:

- Phật pháp hư ngụy.

Ma Ðằng, Pháp Lan tâu vua:

- Pháp xuất thế của Phật, nước lửa chẳng thể hoại. Xin vua cho cùng đạo sĩ thí nghiệm.

Vua sắc Thiện Tín... đem hết kỳ kinh, bí quyết sẵn có cùng sa môn đem kinh Phạn vào ngày rằmg tháng Giêng, lập đàn đốt để nghiệm. Các kinh của đạo sĩ đều bị đốt sạch, chỉ có kinh tượng Phật vẫn còn nguyên. Bọn Thiện Tín xấu hổ chết. Bao nhiêu đạo sĩ đều đê đầu khâm phục. Ngài Pháp Lan ở trong đại chúng xướng kệ:

Chồn chẳng phải sư tử
Ðèn chẳng phải sáng trời trăng
Ao không có sức chứa của sông biển
Gò chẳng tươi tốt như núi rừng
Mưa pháp rưới thế giới
Giống lành được nứt mầm
Hiển thông pháp hy hữu
Nơi nơi giáo hóa quần sanh.

(Hổ phi sư tử loại
Ðăng phi nhật nguyệt minh
Trì phi giang hải nạp
Khưu vô sơn nham vinh
Pháp vân thùy thế giới
Thiện chủng đắc khai manh
Hiển thông hi hữu pháp
Xứ xứ hóa quần sanh).

Vua càng thêm kinh dị. Hai tăng học chữ Tàu, sau dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương, Thập Ðịa Ðoạn Kết, Phật Bổn Sanh, Pháp hải Tạng, Phật Bổn Hạnh ... năm kinh.

Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười sáu (73 TL) Nhiếp Ma Ðằng nhập diệt. Trúc Pháp Lan tự dịch năm bộ kinh mười ba quyển.
Nghi Vấn Tiếp Theo: Đức Phật A Di Đà và cõi Tây Phương Cực Lạc nói trong Kinh Điển Đại Thừa không có sự chứng minh trong lịch sử khoa học làm sao mà tin đây?

Trả Lời: Vậy tại sao lại đi tin những điều được nói trong Kinh Điển Tiểu Thừa như cõi trời Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới... Chư Thiên, Đế Thích, Phạm Thiên Sahampati.... (những điều mà phàm phu không thấy) chúng cũng không có sự chứng minh trong lịch sử khoa học đó? Hơn nữa những người được vãng sanh lưu lại xá lợi vật chứng và nhận được sự mầu nhiệm từ Phật Giáo Đại Thừa từ ngàn xưa cho tới tận hôm nay bây giờ đã khuyến hóa biết bao nhiêu người trở về với Chánh Pháp Đại Thừa chân thật của Phật.
THẾ GIỚI TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC LÀ CHÂN THẬT

19400004_806290819548156_6267268263444021634_n.jpg


Kinh A Di Đà Đức Phật dạy rằng: "Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó."

Hòa Thượng Thích Thiền Tâm khai thị rằng;

Người muốn học Phật không nên đem trí phàm phu mà suy lường cảnh thánh. Đừng nói đâu xa, ngay ở Việt Nam ta, khi cụ Phan Thanh Giản đi sứ sang Pháp trở về thuật lại, nói bên ấy đèn không đốt mà cháy, xe thuyền không ngựa kéo người bơi mà tự chạy. Cụ có vịnh hai câu thi:

Bá ban xảo kế tề thiên địa.
Duy hữu tử sanh tạo hóa quyền!

Hai câu này ngụ ý khen người Pháp trăm việc hay khéo sánh bằng trời đất, duy có sự sống chết là còn thuộc quyền tạo hóa định đoạt mà thôi! Vua Tự Đức và triều thần nghe nói thế đều không tin. Đến như ông Nguyễn Tri Phương là chỗ bạn thân, cũng mĩm cười cho là cụ Phan đi xa về nói khoác. Thử hỏi: - Vua Tự Đức cùng triều thần đều tự nhận mình là người học thức, cho sự việc đó tai không nghe, mắt không thấy, vượt quá sức tưởng tượng, nên không tin. Nhưng các điều ấy quả thật không có chăng? Lấy một việc nhỏ này suy ra, ta thấy nếu đem những định kiến theo tai nghe mắt thấy và sự tưởng nghĩ phàm thường mà đo lường cảnh thánh đều thành sai lạc.

Hơn nữa, nếu không có Phật A Di Đà tiếp dẫn, tại sao nhiều người niệm Phật khi sắp chết biết trước ngày giờ, thấy các cảnh tướng Tây Phương, cùng Phật, Bồ Tát hiện thân đón rước? Nếu cõi Cực Lạc là hư huyền, tại sao có những vị tu Tịnh Độ trong lúc hiện tiền bỗng được tâm khai thấy rõ ràng cảnh Tây Phương trang nghiêm y như lời Phật nói? Đệ tử của Phật hay người muốn học Phật mà không lấy lời Phật dạy trong kinh làm mực thước, thử hỏi còn lấy chi để làm chỗ tựa nương? Cho nên do theo cách suy lường dựa theo lời Phật nói và SỰ HIỆN CHỨNG CỦA NHỮNG NGƯỜI TU, ta phải tin rằng những sự trang nghiêm ở Cực Lạc đều có thật.
Còn nhiều điều mà cái trí tuệ của chúng ta chưa biết hết được, nên 123456789 xin nhắc lại những bạn phỉ báng Phật Giáo Đại Thừa, cái tội lỗi đi chia rẽ toàn thể Phật Giáo là rất nhiều, có thể nói gần giống na ná như là Phá Hòa Hợp Tăng vậy, mà cái tội Phá Hòa Hợp Tăng là phải đọa địa ngục trọn kiếp. Như trong Kinh Tiểu Bộ, Kinh Phật Thuyết Như Vậy (Như Thị Ngữ), Chương Một, Phẩm 2 ghi chép như sau:
(XVIII) (Ek II, 8) (It. 10)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có một pháp khởi lên ở đời, khi khởi lên đem lại bất hạnh cho nhiều người, đem lại bất lợi cho nhiều người, đem lại không lợi ích cho nhiều người, đem lại bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người.

Thế nào là một pháp? Phá hòa hợp Tăng. Này các Tỷ-kheo, khi chúng Tăng bị phá hoại, thì có những tranh luận với nhau, có những mắng nhiếc lẫn nhau, có những ngăn cách lẫn nhau, có những từ bỏ lẫn nhau. Ở tại đấy, những người không hòa hợp, không đi đến hòa hợp và những người có hòa hợp, sự nhất trí đi đến nơi khác.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Bị rơi vào đọa xứ,
Bị rơi vào địa ngục,
Trú đến trọn cả kiếp,
Người phá hòa hợp Tăng.
Ưa thích phá hòa hợp,
An trú trên phi pháp,
Rơi rớt, vượt ra khỏi.
An ổn khỏi khổ ách;
Kẻ phá sự hòa hợp,
Của Tăng chúng hòa hợp,
Bị nung nấu trọn kiếp,
Trong cảnh giới địa ngục.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.
Lời Sau Cùng: Trong Tam Tạng Kinh Luật Luận Pali của Phật Giáo Tiểu Thừa hoàn toàn không có một lời của Đức Phật hay Hiền Thánh A La Hán nào phỉ báng Đại Thừa, chính những người đời sau này đã tự bịa ra theo tri kiến cá nhân và phỉ báng nói Đại Thừa nói không phải là Phật Pháp. Vì vậy nên một khi đã quyết định theo Phật Giáo và trở thành Phật Tử thì hãy quyết lòng nghe theo Phật, không nghe theo người. Trên đường tu hành, gặp bất cứ một người nào, dù chức phận, địa vị, danh tiếng cao tới đâu, những điều họ nói ra không có trong Kinh Phật, quyết không được nghe theo. Những lý luận hay ho, những triết lý cao siêu, những sự thuyết giảng bóng bẩy... nhưng chỉ dựa theo tri kiến cá nhân, không y cứ vào kinh điển, không nên tham đắm chấp vào.

Thời mạt pháp, thế gian nhiễu loạn, thường phát sinh những sự cám dỗ khá lòe loẹt... nhất là những tà kiến sai lầm có sức thu hút rất lớn, khiến mọi người dễ tin theo. Vì vậy phải hết sức cẩn thận, không nên hiếu kỳ nhiều. Đức Phật dạy trong Kinh Điển như thế nào thì ta cứ đặt trọn vẹn tất cả niềm tin y theo đó mà thực hành không nghi ngờ thì chắc chắn sẽ được lợi ích lớn chân thật.

Tà kiến sai lầm hiện nay đầy dẫy rất nhiều, phải chủ tâm luôn đề phòng cảnh giác, nếu không thì chúng ta sẽ rất dễ vướng vào cái bẫy vòng tay của ma vương, lúc đó ân hận không còn kịp nữa.

Hãy luôn ghi khắc trong tâm nhớ hai câu này, thì may ra có thể tránh khỏi được những tà thuyết hiện nay.

"Y Pháp Bất Y Nhân" (Y Theo Pháp, Không Y Theo Người)
"Ly Kinh Nhất Tự, Tức Đồng Ma Thuyết" (Lìa Kinh Một Chữ, Tức Là Ma Nói)

Ngài Thích Thiền Tâm, Thánh Tăng cận đại cũng từng nói "Pháp Đại Thừa, đã là đại pháp tất nói nhiều cảnh giới siêu việt khác thường, nên có những điều mà trí huệ phàm phu không thể suy lường nổi. Khi xưa trên hội Linh Sơn, đức Thế Tôn nói Kinh Pháp Hoa, có năm ngàn bậc Đại Đức Thanh Văn, đã chứng từ sơ quả Tu Đà Hoàn đến đệ tứ quả A La Hán, không tin tưởng lui ra khỏi Pháp tịch. Đối với cảnh chính đức Phật còn tại thế thân nói pháp, với các vị Thanh Văn thánh giả trí huệ đã siêu thường, mà còn có sự không tin, thì ta thấy pháp Đại Thừa chẳng phải dễ tin hiểu. Cho nên trong kinh Đại Thừa, có nhiều chỗ đức Phật bảo đừng nói cho kẻ nhiều kiến chấp, thiếu lòng tin nghe, vì e họ sinh lòng khinh báng mà mang tội. Đến khi Đại Thừa pháp được lan truyền rộng, các vị cổ đức khuyên người học Phật khi nghiên cứu về loại kinh này, chỗ nào dùng trí huệ hiểu được cố nhiên là tốt, chỗ nào suy gẫm không thấu triệt vẫn đặt trọn vẹn niềm tin nơi lời của đức Thế Tôn. Như thế mới tránh khỏi tội lỗi khinh báng đại pháp, và không mất phần lợi ích."

Và sau đây mình xin trích lại lý do tại sao phải Kính Tin Kinh Điển Đại Thừa:
Thứ nhất, từ xưa đến này những ai trì tụng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa được rất nhiều sự linh ứng, bản thân mình cũng đã cảm nhận được sự nhiệm màu này. Bạn có thể thỉnh một quyển Kinh Diệu Pháp Liên Hoa về xem phần trì tụng linh ứng có ghi chép lại mỗi thời điểm và mỗi nơi khác nhau. Bạn có lẽ nghi ngờ sự xác thật của những việc đó. Tuy nhiên khi những truyện linh ứng về Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có sự chứng kiến bởi rất nhiều người vào thời điểm đó, nên mới ghi chép xuống và được sự xem xét và chứng nhận bởi những người vào thời điểm đó. Nếu như là không thật là lừa đảo, thì Đạo Phật đã không tồn tại hơn ngàn năm nay tại Trung Quốc rồi, vậy thì làm sao lòng tin và lòng sùng mộ Đạo Phật của những người Trung Quốc thời đó làm sao mà tồn tại được, nếu như là bịp bợm thì những người vào thời điểm đó đã biết từ lâu và ngăn chặn lại rồi.

Thứ hai, trước khi Kinh Diệu Pháp Liên Hoa được truyền vào Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc... thì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã tồn tại ở Ấn Độ và được các Chư Tăng bên Ấn Độ trì tụng rồi. Và bạn nên nhớ rằng thời đó chính là thời CHÁNH PHÁP, chứ chưa phải Tượng Pháp và Mạt Pháp nhé.

Thứ ba, thuở xưa có nhiều bậc hiền thánh chứng đạo rất nhiều, nếu thánh điển Đại Thừa nếu không phải là Phật thuyết tức là hậu hoạn cho Phật Pháp, thì đã bị các bậc hiền thánh khắp nơi hộ trì Phật Pháp, chư Thiên hộ pháp, và Bồ Tát Di Lặc trên cung Trời Đâu Suất (Đại Thừa và Tiểu Thừa điều chấp nhận Bồ Tát Di Lặc là chân thật) ngăn chặn lại từ lâu rồi, làm gì mà còn tồn tại được cho tới bây giờ.

Thứ tư, khi bắt đầu kinh văn tôi nghe như vầy... gồm có Chư Bồ Tát tên... Chư Hiền Thánh Thanh Văn tên... Chư Thiên Long Bát Bộ tên... vậy thì bạn hãy thử nghĩ xem, nếu như không phải là Phật Pháp chân chính thì khi đọc tụng lên, thì chuyện gì sẽ xãy ra chắc bạn đã hiểu rõ.

Thứ năm, Chư Tăng Hiền Thánh vào thời kỳ Chánh Pháp thuở xưa là những bậc phạm hạnh uy nghiêm, những bậc nắm giữ giáo pháp chân chính của Phật, đệ tử chân chánh của Phật đã vì sứ mạng truyền bá Phật Pháp khắp thế gian cho tất cả chúng sanh được lợi lạc, vậy thì nếu chúng ta không đặt niềm tin vào Kinh Điển Phật Pháp và Chư Tăng Hiền Thánh đệ tử Phật vậy chúng ta phải đặt niềm tin vào ai bây giờ nữa đây?

Thứ sáu, đức Như Lai Thế Tôn là bậc nhất thiết trí đầy đủ tất cả trí tuệ, nếu thánh điển Đại Thừa không phải Phật nói thì Đức Phật đã tiên đoán từ thuở trước rồi, chứ làm sao mà để xãy ra hậu hoạn trong giáo lý Phật Pháp được.

Thứ bảy, thời này là mạt pháp, ma quỷ có thể biến hình và trà trộn, vào các thành phần tri thức... nói cái này cái kia làm cho chúng ta nghi ngờ giáo pháp của Phật, rồi dần dần không chịu tu nữa, riết rồi bị lạc vào tà kiến chủ nghĩa duy vật hồi nào không hay. Vì vậy nên hãy cẩn trọng.
Nam Mô A Di Đà Phật
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Bên trên