123456789

Đại Thừa LÀ Phật Nói

123456789

Registered
Phật tử
Tham gia
14/6/09
Bài viết
491
Điểm tương tác
76
Điểm
28
Xin chào tất cả các đạo hữu,

Trong thời gian mấy năm gần đây, có những kẻ muốn phá hoại phật giáo, nên tuyên nói Đại Thừa không phải Phật Thuyết. Nên hôm nay tôi xin trích một số luận giải khác nhau và lập bài luận nhỏ này để xác nhận rằng Đại Thừa Là Chân Thật Phật Thuyết.

Cầu mong sẽ có nhiều vị sẽ bảo hộ Phật Giáo Đại Thừa, khiến cho chánh pháp mãi mãi trụ tại thế gian. Như Trong Kinh Phật Thuyết Như Vậy (kinh số 98), Đức Phật dạy: "Có hai loại bố thí: Bố thí tài vật và bố thí Pháp. Trong đó, bố thí Pháp là bố thí tối thượng. Có hai sự phân phát: Phân phát tài vật và phân phát Pháp. Trong đó, phân phát Pháp là phân phát tối thượng. Có hai loại giúp đỡ: giúp đỡ bằng tài vật và giúp đỡ bằng Pháp. Trong đó, giúp đỡ bằng Pháp là giúp đỡ tối thượng."

Trong Tăng Chi Bộ, Chương Một Pháp: "Có hai loại bố thí: Bố thí tài vật và bố thí Pháp. Trong đó, bố thí Pháp là tối thắng."

Mong các bạn sau khi xem xong, hãy tư duy suy nghĩ ắt sẽ hiểu rõ rằng, và chấm dứt mọi nghi ngờ!

1. LỊCH SỬ KÊT TẬP KINH ĐIỂN ĐẠI THỪA

Tôi thấy gần đây có nhiều nguồn thông tin đăng rằng, là Phật Giáo Đại Thừa có sau này, nhưng thật ra Phật Giáo Đại Thừa có cùng thời với Phật Giáo Tiểu Thừa, nên Phật Giáo Đại Thừa cũng là Phật Giáo Nguyên Thủy!

Nói về vấn đề này trước hết phải nói rằng, những gì đã xãy ra vào quá khứ, thì người thời đại bây giờ không thể nào biết một cách chính xác được. Từ trước tới giờ đa phần chỉ thấy toàn là trích dẫn những bài của các luận sư Tiểu Thừa nói về lịch sử của kết tập kinh điển của Phật Giáo Tiểu Thừa, nên nay tôi xin trích một số bài của các luận sư nói về lịch sử kết tập của Phật Giáo Đại Thừa, để mọi người cùng tham khảo xem.

1. Tam Luận Huyền Nghĩa nói:

“Như lai nhập diệt ngày rằm tháng 2, chư thánh đệ tử ngày rằm tháng 4 ở trong núi Kỳ xà quật của thành Vương xá, kiết tập 3 tạng. Ngay lúc bấy giờ đã có tên của 2 bộ. Một là Thượng Tọa Bộ, do ngài Đại ca diếp làm thượng tọa. Ngài này hơn ngài Trần Như 1 hạ, lại được Phật đem chánh pháp phó thác, nên gọi là Thượng tọa bộ. Ngài Đại Ca Diếp lãnh đạo chỉ có 500 vị, luận Trí độ nói 1.000 vị.

Hai là Đại Chúng Bộ, là đại chúng ở ngoài cương giới kiết ma, có cả 10.000 vị, do A La Hán Ba Sư Ba (Vaspa) làm chủ tọa. Tên ngài này có nghĩa là Rơi nước mắt, vì ngài thương chúng sinh đau khổ mà rơi nước mắt luôn. Ngài là 1 trong 5 vị tỷ kheo đầu tiên được đức Phật nói Kinh Chuyển Pháp Luân tại vườn nai, tuổi cao hơn cả ngài Đại Ca diếp, giáo thọ cho đại chúng ở ngoài cương giới kiết ma. Do vậy mà có 2 chúng. Chúng của ngài Đại ca diếp có 500 La hán, vào trước trong cương giới kiết ma để kiết tập 3 tạng. Sau đó nhiều vị cũng đến để kiết tập 3 tạng, nhưng ngài Đại ca diếp không cho ai vào cả.

Vì 2 lý do:
1, 500 vị toàn là người thông minh,
2, đã cử hành kiết ma rồi...

Thế rồi 116 năm sau, có người con của một thuyền trưởng tên là Đại thiên, oai nghiêm, thông minh, gia nhập Phật pháp, làm 2 việc. Một, đem các kinh đại thừa xếp vào trong 3 tạng mà giảng giải. Khi một số chư vị A La Hán kiết tập pháp tạng đã lựa bỏ các kinh ấy. Đại chúng bộ thì dùng các kinh đại thừa, còn Thượng tọa bộ thì không dùng. Do vậy mà nổi lên tranh biện”


2. Theo những gì do hai ngài là Chơn Đế và Huyền Trang truyền lại:

Thì lúc diễn ra cuộc kết tập lần thứ nhất tại thành Vương Xá, đặc biệt có Đại Chúng tập kết ở Quật ngoại (10.000 vị, do A La hán Vaspa làm chủ tọa), trong đó có cả Kinh Điển Đại Thừa.

Như vậy nghĩa là Kinh Điển Tiểu Thừa được kết tập cùng thời với Kinh Điển Đại Thừa, đó là chưa kể bên trong ngài A Nan cũng có kết tập Đại Thừa thừa nữa.

Cũng nhờ quyển Tây Vức Ký của ngài Huyền Trang nên hiện nay các nhà sử học mới dễ dàng nghiêng cứu các quốc gia thuở trước ở Ấn Độ.

3. Phân Biệt Công Đức Luận nói:

“Ba tạng là khế kinh, tỳ ni, a tì đàm... Còn Tạp tạng thì không phải 1 người nói, mà hoặc Phật nói, hoặc đệ tử Phật nói, hoặc chư thiên tán dương, hoặc nói đời trước trong 3 vô số kiếp của Bồ tát, văn nghĩa không phải nhất loại, và nhiều hơn cả 3 tạng, nên gọi là Tạp tạng. Lại nữa, khi Phật còn ở đời, A xà thế vương hỏi Ngài về việc làm của Bồ tát, Ngài dạy cho đủ cả... Các Kinh Phương Đẳng Đại Thừa toàn ở trong Bồ Tát Tạng. Tạng này, lúc Phật còn, Ngài đã mệnh danh là Đại Sĩ Tạng. Tôn giả A Nan tụng ra là 4 tạng hiện nay. Hợp với Bồ tát tạng nữa mà nói là 5 tạng... Chỉ có ngài Đại thiên là bậc đại sĩ, kỳ dư toàn là người tiểu căn. Do vậy mà đại thừa khó có ai đương nổi, phần nhiều xu hướng thanh văn.”

4.Luận Kim Cương Tiên nói:

“Xưa, sau khi Đức Như Lai diệt độ, gồm có ba thời kết tập Pháp tạng. Đầu tiên là tại Hang Nhân-đà-la, thuộc thành Vương-xá, năm trăm Tỳ-kheo kết tập Pháp tạng. Các Tỳ-kheo A-la-hán như Tôn giả Xá-lợi-phất v.v… đều tự nêu bày: Kinh ấy v.v… như vậy là Tôi nghe Đức Phật ở tại xứ ấy v.v… thuyết giảng.

Thời sau, vì quốc vương ác hoại diệt Phật pháp, từ đấy trở về sau, lại có bảy trăm Tỳ-kheo, kết tập Pháp tạng lần nữa, đều nói: Kinh nầy v.v… tôi từ ở bên Tỳ-kheo tên v.v… được nghe, không nói tôi từ Phật nghe.”


Thời đại mạt pháp này. Bọn tà ma nói pháp nghe rất có lý vì nó hợp logic, nhưng tất cả đều là sai lạc với chánh pháp, nếu tin theo ắt bị sa đọa ngay. Người xưa từng nói “Ly Kinh Nhất Tự, Tức Đồng Ma Thuyết” là vậy.

Trong quyển Thần Tăng Thiên Trúc có một đoạn như vầy nói về ngài Cưu Ma La Thập “Lần nọ, cư trú tại chùa Tân Tự ở nước Quy Từ, Ngài định mở kinh Phóng Quang Bát Nhã ra đọc tụng, thì ác ma đến quấy phá, khiến kinh văn đều biến thành tờ giấy trắng. Thấy mình bị ác ma quấy nhiễu, Ngài vẫn kiên quyết không chuyển tâm, cứ việc tụng đọc, nên cuối cùng ác ma phải thối lui, và kinh văn hiện ra trở lại.”

Như vậy đủ thấy thần lực của ma thật vô cùng kinh khủng, nên khả năng nhiều khi họ khiến những trang Kinh có từ thời xa xưa cùng thời với Tiểu Thừa và hóa thành mới có sau này, khiến cho các nhà học giả sau khi thu thập được nghiêng cứu và kết luận sai lầm nói Kinh Đại Thừa là mới có sau này là điều hoàn toàn có thể xãy ra!

Xin trích một đoạn trong Nhập Bồ Tát Hạnh của Bồ Tát Tịch Thiên:

Tính chân chánh của Đại thừa

(Thắng Luận) Song giáo lý Đại Thừa
Không do Phật thuyết giảng
Nên không đáng tin cậy.

(Trung Quán) Vậy vì lý do nào
Khiến Tiểu Thừa đáng tin?

(Thắng Luận) Vì tất cả hai phái
[Tiểu Thừa và Đại Thừa]
Đều xác nhận như vậy.

(Trung Quán) Vậy thì lúc trước đây
Các anh chưa chấp nhận
Không lẽ kinh điển ấy
Không phải lời Phật dạy?

43. (Thắng Luận) Chúng vẫn đáng tin cậy
Vì chúng được truyền thừa
Liên tục không gián đoạn.

(Trung Quán) Lý do các anh tin
Kinh điển của Tiểu Thừa
Chẳng khác chúng tôi tin
Kinh điển của Đại Thừa;
Chúng cũng được các Tổ
Nối tiếp nhau truyền thừa
Không bao giờ gián đoạn;
Lại nữa theo các anh
Tất cả kinh điển nào
Được hai phái chấp nhận
Cũng đều là chân lý,
Vậy thì phải chấp nhận
Cả kinh điển Vệ Đà
Và kinh điển ngoại đạo.

44. (Thắng Luận) Kinh điển của Đại Thừa
Thường hay bị tranh cãi
Vì vậy không đáng tin.

(Trung Quán) Vậy kinh của các anh
Cũng nên từ bỏ luôn
Vì chúng bị ngoại đạo
Và nội phái tranh cãi.

Sự truyền thừa giáo lý của Đức Phật không gián đoạn của các bậc thánh tổ sư:

Ngoài ra Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma được truyền thừa Chánh Pháp Nhãn Tạng giáo lý từ thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tới bây giờ ngài nói với Huệ Khả “Xưa Như Lai trao'Chánh pháp nhãn tạng' cho Bồ tát Ca Diếp, từ Ca Diếp chánh pháp được liên tục truyền đến ta. Ta nay trao lại cho ngươi; nhà ngươi khá nắm giữ, luôn với áo cà sa để làm vật tin. Mỗi thứ tiêu biểu cho một việc, ngươi nên khá biết.”

Ngài lại nói thêm "Ta có bộ kinh Lăng Già bốn cuốn, nay cũng giao luôn cho ngươi, đó là đường vào tâm giới, giúp chúng sanh mở được cửa kho tri kiến của Phật. Ta từ Nam Ấn sang đến phương Đông này, thấy Xích Huyện Thần Châu (tên Trung Quốc thời xưa) có đại thừa khí tượng, cho nên vượt qua nhiều nơi, vì pháp tìm người. Nhưng bao nhiêu cuộc gặp gỡ không làm ta mất lòng, bất đắc dĩ phải ừ hử vậy thôi. Nay được ngươi để truyền thọ y pháp, ý ta đã toại!"

Ngài Phật Đà Bạt Đà La (Buddhadhadra), Tàu dịch là Giác Hiền, người nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), vốn là hậu duệ của dòng Thích Ca Cam Lộ Phạn Vương (thuộc dòng dõi của Đức Phật). Những bài kinh kệ mà đồng học phải học trong một tháng, đối với Ngài chỉ cần một ngày là học thuộc. Ngài đã đạt được bậc thánh A Na Hàm, và đã có thần thông bay lên cung trời đảnh lễ đức Di Lặc. Và những kinh do ngài dịch cũng là các Kinh Đại Thừa như kinh Quán Phật Tam Muội Hải (6 quyển), kinh Niết Bàn, Tu Hành Phương Tiện Luận, v.v... Tổng cộng có mười lăm bộ, một trăm mười bảy quyển. Tất cả đều tương hợp với yếu chỉ của kinh điển, và lời dịch cũng rất lưu loát rõ ràng. Và ngài cũng phiên dịch phần đầu của kinh Hoa Nghiêm tại chùa Đạo Tràng. Bản văn dịch rất lưu loát, đạt thấu yếu chỉ của kinh, nên được mọi người tán thán.

Nói tóm lại về quá trình truyền thừa Kinh Điển vô cùng phức tạp, nên không thể có một bằng chứng chuẩn xác dựa theo những gì các học giả hiện nay nói được. Nhất là thời mạt pháp này yêu ma quỷ quái tìm mọi cách để phá hoại Phật Giáo Đại Thừa che lấp tất cả sự thật, nhất là Phật Giáo Đại Thừa, vì giáo pháp Đại Thừa có thể lợi ích và cứu độ tất cả chúng sanh, nên tà ma muốn hủy diệt là chuyện đương nhiên.

2. KINH TIỂU THỪA KHÔNG CÓ MÂU THUẪN VỚI KINH ĐẠI THỪA

Đã không tìm hiểu thì thôi, nhưng nếu tìm hiểu thì phải tìm hiểu kỹ cho tới, đừng có nên lưng chừng, rồi lại nghi hoặc, làm cho tâm thần đau khổ mệt mỏi. Và nên nhớ rằng đức Phật tùy cơ nghi phương tiện nói pháp khác nhau.

1. Trong Kinh Tiểu Thừa nói rằng về việc cầu siêu không có kết quả được ví như lấy một tảng đá lớn ném xuống một hồ nước sâu và cầu nguyện tảng đá ấy hãy nổi lên, hay nhận chìm một ghè sữa đông (sappi) hay một ghè dầu vào trong một hồ nước sâu rồi đập bể ghè ấy, sữa đông hay dầu thời nổi lên trên, rồi cầu nguyện hãy chìm xuống, này sữa đông và dầu, như vậy thì làm sao mà cầu siêu có lợi ích như trong Kinh Đại Thừa nói?

- Đó chỉ là lời phương tiện Phật nói, đức Phật tùy theo căn tánh chúng sanh để thuyết pháp hóa độ cho họ,

Trong Tạng Nikaya Kinh Tiểu Bộ tập 2 truyện Ngạ Quỷ số 5 Chuyện Ngạ Quỷ Ngoại Bức Tường (Tirokuddapeta) nói “Nhà vua ra lệnh chuẩn bị lễ cúng dường hào phóng, và thông báo thời giờ lên đức Thế Tôn, Ngài liền đến Hoàng cung. Bầy ngạ quỷ cũng đến và suy nghĩ: 'Hôm nay chúng ta sẽ hưởng được món gì đó', rồi đứng bên ngoài các bức tường và hàng rào.

Sau đó đức Thế Tôn làm cho mỗi ngạ quỷ đều hiện hình trước nhà vua. Trong khi vua dâng nước rửa, vua hồi hướng công đức ấy cho chúng với những lời này: “Mong công đức này dành cho quyến thuộc ta”. Lập tức xuất hiện các ao sen đầy sen súng cho bọn ngạ quỷ. Chúng tắm rửa và uống nước ở đó, được giảm nhẹ nỗi thống khổ của chúng vì bất hạnh, lao nhọc và khát nước, nên da chúng trở nên vàng ánh.

Nhà vua dâng lễ cúng dường cháo gạo và các thức ăn đủ loại cứng mềm rồi hồi hướng công đứng lễ vật ấy cho chúng. Trong chốc lát liền xuất hiện cho chúng các thực phẩm khác, thậm chí cả thực phẩm thiên giới, khiến chúng hân hoan hưởng thọ.

Nhà vua lại cúng dường y phục và sàng tọa, tinh xá rồi hồi hướng công đức lễ vật ấy. Sau đó liền xuất hiện cho chung các thiên y, thiên cung, sàng tọa, khăn phủ và đồ trang sức. Ðức Thế Tôn quyết định làm cho tất cả hạnh phúc tuyệt vời này của họ được hiển lộ trước vua; khi nhìn thấy vậy, vua vô cùng hoan hỷ.”


Như vậy phương pháp HỒI HƯỚNG hoàn toàn là có kết quả và đúng với chánh pháp Phật Giáo.

2. Tế đàn cầu phước có đúng với Chánh Pháp Phật Giáo không?

- Trong Tăng Chi Bộ I, chương 4, phẩm bánh xe, phần Ujjaya nói “Này Bà La Môn, tại những tế đàn nào, trong ấy không có bò bị giết, không có dê cừu bị giết, không có gà heo bị giết, không có các loại sinh vật khác bị giết hại. Này Bà La Môn, Ta TÁN THÁN loại tế đàn không có sát sinh như vậy, tức là làm bố thí, tế đàn cầu hạnh phúc cho gia đình”

3. Kinh Tiểu Thừa dạy các Kalama mà phải suy xét đúng đắn rồi mới tin, vậy tại sao các Kinh Đại Thừa lại dạy phải có lòng tin tuyệt đối vào Kinh tuyệt đối không được nghi ngờ vậy?

- Vì Kinh Đại Thừa là chân lý chân thật tối cao nhất của Phật Giáo, được các bậc đại trí tuệ khen ngợi, nếu mang tâm nghi ngờ, ắt sẽ dễ đâm ra phỉ báng chánh pháp mà mang tội nghiệp, vì vậy nên cần phải cố gắng thực hành lòng tin tuyệt đối vào những lời dạy tối cao ấy của Phật. Đức Phật dạy các Kalama chỉ là phương tiện để cho các vị ấy khởi tâm tịnh tín đối với Đức Phật để quy y tam bảo, sau khi các vị ấy quy y đặt trọn niềm tin nơi tam bảo rồi, thì Đức Phật mới có thể thuyết những pháp cao hơn như Tứ Thánh Đế để các vị ấy đắc quả.

Ngay cả Kinh Tiểu Thừa dạy cũng phải có niềm tin thì mới được nhiều lợi lạc trong đạo pháp được.

Kinh Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Sumana nói "Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích này cho thiện nam tử có lòng tin. Thế nào là năm?

1. Các Thiện nhân, các Chân nhân, trước hết có lòng thương tưởng đến vị có lòng tin, không có như vậy đối với vị không có lòng tin;

2. Khi đến thăm, trước hết họ đến thăm vị có lòng tin, không có như vậy đối với vị không có lòng tin;

3. Khi chấp nhận, họ chấp nhận (các món ăn) trước hết từ những người có lòng tin, không từ những người không có lòng tin;

4. Họ thuyết pháp trước hết cho những người có lòng tin, không cho những người không có lòng tin;

5. Người có lòng tin, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi lành, cõi Trời.

Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm lợi ích cho thiện nam tử có lòng tin. Ví như, này các Tỷ-kheo, trên khoảnh đất tốt, tại ngã tư đường, có cây bàng to lớn là chỗ nương tựa cho các loài chim chung quanh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thiện nam tử có lòng tin là chỗ nương tựa cho quần chúng, cho các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, cho nam cư sĩ và cho nữ cư sĩ.

Như cây bàng to lớn,
Với cành, lá, trái cây,
Với thân, rễ, đầy trái,
Làm chỗ trú loài chim.
Tại trú xứ thoải mái,
Các con chim làm tổ,
Cần bóng mát, hứng mát,
Cần trái cây, ăn trái.
Cũng vậy, vị trì giới,
Người có lòng tịnh tín,
Khiêm nhường và nhu thuận,
Hiền hòa, lời từ tốn,
Tánh tình thật dịu hiền,
Vị đoạn tham, đoạn sân,
Ðoạn si, không lậu hoặc,
Là ruộng phước ở đời.
Họ đến người như vậy,
Họ thuyết pháp, người ấy
Ðoạn trừ mọi khổ đau,
Vị ấy ở tại đây,
Hiểu biết Chánh pháp ấy,
Viên bản nhập Niết-bàn,
Hoàn toàn không lậu hoặc.


Trong Tương Ưng Bộ tập 1, chương 10, phần Alavaka cũng nói:
"Lòng tin đối người đời,
Là tài sản tối thượng.
Chánh pháp khéo hành trì,
Ðem lại chơn an lạc.
Chân lý giữa các vị,
Là vị ngọt tối thượng.
Phải sống với trí tuệ,
Ðược gọi sống tối thượng."

4. Trong Kinh Tiểu Thừa có nói đến quốc độ trang nghiêm như cõi Cực Lạc trong Kinh Điển Đại Thừa không?

- Hư Không Vô Biên, Thế Giới Vô Số

Trong Kinh Tiểu Thừa là thời pháp đầu tiên, tuy lúc đó đức Phật chưa nói Trực Tiếp nhưng có nói Gián Tiếp là có nhiều Đức Phật đang hiện hữu khắp mười phương như trong trong Kinh Tương Ưng, phẩm Tương Ưng Sự Thật như sau:

- Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời quá khứ, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Ðẳng Giác; tất cả những vị ấy đã như thật chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế.
- Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời vị lai, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Ðẳng Giác; tất cả những vị ấy sẽ chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế.
- Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời hiện tại, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Ðẳng Giác; tất cả những vị ấy hiện đang chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế. Thế nào là bốn?

1. Thánh đế về Khổ
2. Thánh đế về Khổ tập
3. Thánh đế về Khổ diệt
4. Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt

- Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời quá khứ, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Ðẳng Giác; tất cả những vị ấy đã như thật chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế.
- Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời vị lai, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Ðẳng Giác; tất cả những vị ấy sẽ chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế.
- Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời hiện tại, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Ðẳng Giác; tất cả những vị ấy hiện đang chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế.


Còn về quốc độ trang nghiêm, thì trong Trường Bộ Kinh, Kinh Đại Thiện Kiến Vương số 17 có nói về thuở xưa thành Kusinara nơi Đức Phật nhập Niết Bàn lúc trước tên là Kusavati:

"Này Ananda, kinh đô Kusàvati có bảy bức thành bao bọc, một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh, một loại bằng san hô, một loại bằng xa cừ, một loại bằng mọi thứ báu.

Này Ananda, kinh đô Kusàvati có bốn loại cửa: một loại bằng vàng, một loại bằng bạc, một loại bằng lưu ly, một loại bằng thủy tinh. Tại mỗi cửa, có dựng bảy cột trụ, bề cao khoảng ba hay bốn lần thân người. Một cột trụ bằng vàng, một cột trụ bằng bạc, một cột trụ bằng lưu ly, một cột trụ bằng thủy tinh, một cột trụ bằng san hô, một cột trụ bằng xa cừ, một cột trụ bằng mọi thứ báu.

Này Ananda, kinh đô Kasàvati có bảy hàng cây tàla bao học, một hàng bằng vàng, một hàng bằng bạc, một hàng bằng lưu ly, một hàng bằng xa cừ, một hàng bằng san hô, một hàng bằng xa cừ, một hàng bằng mọi thứ báu. Cây tàla bằng vàng, có thân cây bằng vàng, có lá và trái cây bằng bạc. Cây tàla bằng bạc có thân cây bằng bạc, có lá và trái cây bằng vàng. Cây tàla bằng lưu ly, có thân cây bằng lưu ly, có lá và trái cây bằng thủy tinh. Cây tàla bằng thủy tinh, có thân cây bằng thủy tinh, có lá và trái cây bằng lưu ly. Cây tàla bằng san hô, có thân cây bằng san hô, có lá và trái cây bằng xa cừ. Cây tàla bằng xa cừ, có thân cây bằng xa cừ, có lá và trái cây bằng san hô. Cây tàla bằng mọi loại báu, có thân cây bằng mọi loại báu, có là và trái cây bằng mọi loại báu. Này Ananda, khi những cây tàla này được gió rung chuyển, một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê lý khởi lên, cũng như năm loại nhạc khí, khi được một nhạc sĩ thiện xảo tấu nhạc, phát ra một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê ly. Cũng vậy, Ananda, khi những hàng cây tàla này được gió rung chuyển, một âm thanh vi diệu, khả ái, đẹp ý, mê ly khởi lên."


5. Nếu một người phạm nhiều tội nặng, mà chỉ cần ăn chay, sám hối, niệm Phật, tụng Kinh, trì chú... theo Đại Thừa là có thể diệt được tội, sao mà dễ dàng quá vậy?

- Vì nghiệp chỉ là giả dối làm sao có thể so sánh với công đức chân thật vĩ đại của việc của sám hối, niệm Phật, tụng kinh, trì chú được.

Vã lại trong Kinh Tiểu Thừa, Tăng Chi Bộ I, chương 3, phẩm Hạt muối cũng có nói:

"- Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời không có đời sống Phạm hạnh, không có cơ hội để nêu rõ đau khổ được chơn chánh đoạn diệt. Và này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Người này làm nghiệp được cảm thọ như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ quả dị thục như vậy, như vậy". Nếu sự kiện là vậy, này các Tỷ-kheo, thời có đời sống Phạm hạnh, có cơ hội để nêu rõ đau khổ được chơn chánh đoạn diệt.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.

Hạng người như thế nào, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, hạn hẹp, tự ngã nhỏ nhen, sống chịu khổ ít oi. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục.

Hạng người như thế nào, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người thân được tu tập, giới được tu tập, tâm được tu tập, tuệ được tu tập, không có hạn hẹp, tự ngã to lớn, sống đời vô lượng. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.

Ví như, này các Tỷ-kheo, có người bỏ một nắm muối vào trong một chén nước nhỏ. Các Thầy nghĩ như thế nào, này các Tỷ-kheo, nước trong chén ấy có vì nắm muối trở thành mặn và không uống được phải không?

- Thưa đúng vậy, bạch Thế Tôn. Vì cớ sao? Nước trong chén nhỏ này là ít, do nắm muối này, nước trở thành mặn, không uống được.

- Ví như, này các Tỷ-kheo, có người bỏ một nắm muối vào sông Hằng. Các Thầy nghĩ như thế nào, này các Tỷ-kheo, sông Hằng có vì nắm muối trở thành mặn và không uống được phải không?

- Thưa không, bạch Thế Tôn. Vì cớ sao? Lớn là cả khối nước sông Hằng. Khối nước ấy không vì nắm muối này, nước trở thành mặn và không uống được.

- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn, và nghiệp ác ấy đưa người ấy vào địa ngục. Ở đây, này các Tỷ kheo, có người làm nghiệp ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp ác ấy đưa người ấy đến cảm thọ ngay trong hiện tại, cho đến chút ít cũng không thấy được (trong đời sau), nói gì là nhiều.


Và trong Kinh Tiểu Bộ II Phẩm 5, Truyện Lâu Ðài Tiên Nhái (Mandukadevaputta-Vimàna), nhờ nghe Kinh mà thoát được thân thú được sanh làm Chư Thiên như sau:

Bấy giờ, đức Thế Tôn ở tại Campà (Chiêm-bà) trên bờ ao sen Gaggarà. Từ rạng đông, vừa xuất định Ðại bi, Ngài quán sát: 'Hôm nay về buổi chiều lúc Ta thuyết pháp, một con nhái nghe giọng Ta và mải mê theo dõi, liền bị một kẻ nào đó sát hại, sẽ phải chết. Nó sẽ được tái sanh lên thiên giới và sẽ trở lại trong khi hội chúng đang chăm chú nghe, do vậy sẽ có sự thông hiểu Giáo pháp rộng rãi'.

Khi mọi việc trong ngày xong xuôi, Ngài bắt đầu thuyết giảng cho tứ chúng đệ tử tại bờ ao. Lúc ấy một con nhái suy nghĩ: 'Ðây được gọi là pháp', nó liền ra khỏi ao và ngồi ở cuối đám thính chúng.

Một kẻ chăn bò thấy bậc Ðạo Sư thuyết giảng và hội chúng đang yên lặng lắng nghe, bèn đứng dựa vào cây gậy cong và đạp nhằm con nhái. Con nhái được tái sanh vào cõi trời Ba mươi ba trong một Lâu đài bằng vàng rộng mười hai do-tuần và được một đám tiên nữ hầu cận.

Khi suy nghĩ lại nghiệp nào đã khiến cho mình được tái sanh ở đó, vị Thiên tử thấy không có gì ngoài sự chăm chú nghe lời đức Thế Tôn.

Ngay lập tức chàng cùng Lâu đài ấy giáng trần, bước ra ngoài vừa thấy đức Thế Tôn, liền đến yết kiến và cung kính đảnh lễ Ngài. Ðức Thế Tôn muốn thị hiện oai nghi của Ngài bèn hỏi kệ:

1. Chàng Thiên tử sắc đẹp siêu phàm,
Tiên chúng vây quanh đủ lực thần,
Ðang chiếu khắp mười phương sáng chói,
Là ai, chàng đảnh lễ ta chăng?

Vị Thiên tử bèn ngâm kệ giải thích tiền thân của chàng:

2. Con là một nhái bén ngày xưa,
Loài vật sinh ra ở nước hồ,
Trong lúc con nghe Ngài thuyết pháp,
Bỗng con chết bởi chú chăn bò.

3. Ai muốn trong chốc lát tịnh tâm,
Hãy nhìn uy lực đủ thần thông,
Oai nghi, dung sắc, đoàn hầu cận,
Và ánh hào quang của chính con.

4. Những vị chuyên nghe pháp đã lâu,
Bạch Cồ-đàm Phật, đấng ly sầu,
Những người ấy đạt tâm không động,
Ði đến nơi không có khổ đau.

Sau đó đức Thế Tôn, nhìn thấy rõ các khả năng mà hội chúng ấy đã đạt được, bèn thuyết pháp đầy đủ chi tiết. Vào lúc Ngài kết thúc bài giảng, chàng Thiên tử nhái đã được an trú vào quả Dự Lưu. Sau khi cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn, chàng trở về cõi trời.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

123456789

Registered
Phật tử
Tham gia
14/6/09
Bài viết
491
Điểm tương tác
76
Điểm
28
Như Thế Tôn nói, tội phỉ báng Pháp nặng như năm tội nghịch, triền miên trong ác đạo, chịu quả báo khổ, như kệ nói rằng:

Phỉ báng pháp Đại thừa
Quyết định đến đường ác,
Người này chịu nghiệp báo,
Được nói bởi thật trí.

Sống đọa trong địa ngục
Lửa lớn thiêu đốt thân,
Thiêu đốt rất đau khổ,
Tội nghiệp báo tin vậy.

Thiêu đốt, cày sắt lớn
Trọn đủ số năm trăm
Mà cày trên lưỡi kia,
Khắp nghiền thân khổ não.

Nếu từ địa ngục ra,
Lại thọ ác báo khác,
Các căn thường thiếu sứt,
Mãi chẳng nghe âm Pháp

Giả sử nếu được nghe
Bèn lại sinh phỉ báng,
Vì nhân duyên báng Pháp
Lại rơi vào địa ngục.

6. Tại sao trong Buddhavamsa của Nam Tông nói Đức Phật là một vị Bồ-tát bình thường thuộc về huệ lực, tu trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp thực hành 30 Ba La Mật rồi kiếp này mới chứng được đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đạt được tam minh, vậy tại sao trong Kinh Đại Thừa lại nói rằng Đức Phật đã chứng quả Phật từ vô lượng kiếp về trước rồi thị hiện làm Phật trong kiếp này, sự việc là thế nào?

- Trong thời kỳ thuyết pháp cho các chư Thanh Văn, chỉ là quyền giáo chưa phải thật giáo. Tới thời Pháp Hoa đức Phật mới nói giáo pháp thật sự, mới tuyên bày thần thông thật sự của Chư Phật, là điều mà người đời khó có thể tin nhận nổi, chỉ duy trừ những người có căn lành sâu dày thì mới tin nhận đúng như sự thật được.

Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng có nói rõ ràng "Trong đại hội có đến năm ngàn tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di, tức thì đứng dậy khỏi chỗ họ ngồi, đảnh lễ đức Thế Tôn mà lui ra. Những người này gốc rễ tội lỗi về tăng thượng mạn thật là sâu nặng, chưa được tự cho đã được, chưa chứng tự cho đã chứng, lầm lẫn đến thế nên họ không ở lại nghe pháp"

- Tất cả những điều trong Kinh Đại Thừa nói hoàn chân thật tuyệt đối, những điều nghi hoặc trên sẽ được dứt trừ nếu xem kỹ các Truyện Kinh Tiền Thân của Đức Phật trong Kinh Tiểu Bộ là sẽ rõ ngay, ngài thuyết pháp với những bài kệ trí tuệ siêu việt của bậc thánh trong Phật Giáo như vô thường, khổ... (như vậy trong lúc hành Bồ Tát Đạo ngài đã chứng LÂU TẬN MINH: tuệ giác sáng suốt nhận biết các pháp đoạn trừ phiền não mê lầm của mình và của tất cả chúng sinh để được an lạc) trong những lúc thời gian chưa có Phật Giáo.

Thí dụ như trong 70. CHUYỆN HIỀN GIẢ CÁI CUỐC (Tiền thân Kuddàla) của Kinh Tiểu Bộ có đoạn như vầy:

Trong khi nói vậy, Bồ-tát nhìn con sông lớn, khởi lên Thiền quán với đối tượng về nước, đắc Thiền chứng, ngồi trên hư không thuyết pháp cho vua, và đọc bài kệ này:

Chiến thắng ấy không tốt,
Nếu chiến thắng rồi bại.
Chiến thắng thật tốt lành
Là chiến thắng nội tâm.

Nhà vua nghe thuyết pháp, với sự đoạn trừ vọng kiến, các phiền não được đoạn tận, tâm tư hướng về xuất gia. Ngay lúc ấy, tham dục đối với vương vị cũng tiêu diệt.


- Trong lúc ngài hành Bồ Tát Đạo, ngài có trí tuệ siêu việt, có thể nhớ biết tiền kiếp của ngài đã làm những nhân gì, nên nay được quả gì (như vậy trong lúc hành Bồ Tát Đạo ngài đã đắc TÚC MẠNG MÌNH tuệ giác sáng suốt biết rõ các kiếp sống đã qua của mình và của tất cả chúng sinh và THIÊN NHÃN MINH: tuệ giác sáng suốt biết rõ các kiếp sống tương lai của mình và của tất cả chúng sinh diễn biến sinh diệt như thế nào.)

Thí dụ như trong 18. CHUYỆN ÐỒ ĂN CÚNG NGƯỜI CHẾT (Tiền thân Matakabhatta) của Kinh Tiểu Bộ có đoạn như vầy:

- Này dê, sao ngươi lại cười và sao ngươi lại khóc?

Con dê nhờ trí biết được đời trước, nhớ đến việc đã làm của mình, và nói với Bà-la-môn:

- Này Bà-la-môn, thuở trước, giống như ông, ta là một Bà-la-môn học giỏi các chú thuật, muốn cúng dường đồ ăn cho người chết, đã giết một con dê để cúng dường. Vì giết chỉ một con dê, ta bị chém đầu trong bốn trăm chín mươi chín lần sống chết. Nay là lần thứ năm trăm sống chết cuối cùng của ta. Hôm nay, ta sẽ thoát khỏi sự đau khổ ấy. Nghĩ vậy, ta cảm thấy sung sướng, do nhân duyên này ta cười. Còn ta khóc, vì ta nghĩ rằng chỉ vì giết một con dê, ta phải chịu khổ hình chặt đầu đến năm trăm lần. Hôm nay ta sẽ thoát cái khổ ấy. Nhưng Bà-la-môn này, vì giết ta, sẽ như ta chịu khổ hình chặt đầu trải năm trăm đời sống. Vì thương xót ông, nên ta khóc.


7. Trong Kinh Tiểu Thừa nói Đề Bà Đạt Đa trong nhiều kiếp đã hãm hại Đức Phật cho tới tận bây giờ, và nhờ trước khi bị đất rút ông ấy sám hối tội lỗi, nên sau cùng trong tương lai Đức Phật thọ ký cho ông ta chứng đắc quả vị Bích Chi Phật với tên hiệu la Atthissara, vậy tại sao trong Kinh Đại Thừa nói Đề Bà Đạt Đa là Bồ Tát thị hiện nghịch cảnh để giúp Đức Phật đầy đủ sáu pháp ba-la-mật, từ-bi hỷ-xả... và trong tương lai còn thọ ký cho ngài ấy thành bậc chánh đẳng chánh giác hiệu Thiên-Vương Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Ðiều-ngự trượng-phu, Thiên-nhân-sư, Phật Thế-Tôn?

- Trước hết vấn đề mầu nhiệm này vượt ngoài sự hiểu biết của chư Thanh Văn nên không thể dùng Kinh Tiểu Thừa của Thanh Văn để giải đáp được. Tuy nhiên hãy suy nghĩ và xem kỹ lại các Kinh Truyện Tiền Thân của Đức Phật là sẽ rõ như sau:

- Nếu như thật sự Đề Ba Đạt Đa là kẻ thù oan gia thật sự của Bồ Tát trong nhiều kiếp thì làm sao mà ngài có đủ phước đức để đời đời cùng Bồ-Tát gặp gỡ do nghĩa này nên, Đề-Bà Đạt- Đa không phải kẻ thù oan gia của Bồ-Tát. Ví như hai người cùng đang đi, một người đi về hướng Đông, một người hướng Tây, mỗi bước lại cách xa nhau mà thường ngược nhau, làm sao là bạn mà gặp gỡ nhau được? Nếu Đề-Bà Đạt-Đa là oán của Bồ-Tát thì Như Lai Thế Tôn cũng có lỗi lớn.

Hỏi: Có lỗi gì đây?

Đáp: Nếu như thế thì Phật không phải là Nhất thiết trí, cũng không có thần lực, chính là ngu si, ắt chẳng thể ủng hộ chúng sinh; không phải thân kim cương, Như Lai bèn phải còn có nghiệp sót lại không thể dứt trừ sạch.

Làm sao biết Phật không phải Nhất thiết trí? Như Lai tại núi Kỳ- Xà-Quật, bị Đề-Bà Đạt-Đa đẩy đá làm hại mà không giác biết, cho nên phải biết rằng, Như Lai không phải Nhất thiết trí.

Thế nào gọi là không có thần lực? Đề-Bà Đạt-Đa cầm gậy đánh hại mà không thể cấm chế, do đó biết rằng không có thần lực.

Thế nào gọi là ngu si? Hiện thấy hại đến mà không biết trốn, do đó biết là ngu si vậy.

Thế nào gọi là không thể ủng hộ chúng sinh? Đề-Bà Đạt-Đa làm năm tội nghịch mà không cứu độ, do đó biết rằng, không thể ủng hộ chúng sinh.

Thế nào gọi là không phải thân kim cương? Chuyển Luân Thánh Vương dùng chút phúc báu mà không có oán hại, huống gì Như Lai. Chuyển Luân Thánh Vương bị đá đè, thân hiện chảy máu, phải biết Như Lai không phải thân kim cương.

Thế nào gọi là có nghiệp đã làm còn sót , không thể dứt sạch? Bị người khác đánh thì phải biết rằng Như lai còn sót nghiệp không trừ sạch.

Nếu muốn khiến Phật không có lỗi này, thì Như Lai bèn phải trọn diệt oán địch. Chỉ vì phương tiện khéo léo, muốn khiến chúng sinh khởi tâm chán ác mà thị hiện rằng, làm tội nghịch hại bị rơi vào địa ngục. Vì muốn chỉ ra rằng, nghiệp báo không thể hoại. Lại còn muốn người bị rơi vào địa ngục quy y Như Lai, thỉnh Phật cứu hộ. Lại, vì người hào quý thời vị lai vào trong Phật pháp, nếu có người cậy thế lực họ, lại dùng roi gậy đánh người; khiến chúng sinh này bèn nghĩ thế này: Thân của Như Lai còn bị hủy hoại, huống kẻ phàm phu bạc phúc như ta.

- Còn về vấn đề đã thọ ký cho Đề Bà Đạt Đà thành Bích Chi Phật rồi bây giờ thọ ký thành Phật Chánh Đẳng Chánh Giác là như thế nào?

Đáp: Vấn đề này ngoài sự tư duy của chư thánh Thanh Văn, tuy nhiên vấn đề này trong Kinh Địa Tạng của Đại Thừa đã nêu rõ, như có đoạn:

"Đức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi: "Ví dụ trong cõi Tam Thiên Đại Thiên thế giới có bao nhiêu cỏ, cây, lùm, rừng, lúa, đay, tre, lau, núi, đá, bụi bặm, cứ mỗi vật một số, mỗi số là một sông Hằng; rồi cứ số cát trong mỗi sông Hằng, mỗi hạt cát làm một cõi giới; rồi trong mỗi cõi giới, cứ mỗi hạt bụi làm một kiếp; rồi bao nhiêu số bụi chứa trong mỗi kiếp đều đem làm kiếp cả; thì từ lúc Địa Tạng Bồ Tát chứng quả vị Thập Địa đến nay, ngàn lần lâu hơn số kiếp tỷ dụ ở trên, huống là từ những thuở Địa Tạng Bồ Tát còn ở bậc Thanh Văn và Bích Chi Phật!"

Như vậy cho thấy rằng từ địa vị Thanh Văn và Bích Chi Phật có thể phát tâm Bồ Đề (mới là thật sự đi theo con đường của Chư Phật) tiến tu tiếp cho đến khi thành bậc chánh đẳng chánh giác.

Trong quyển Tinh Túy Bát Nhã Tâm Kinh của Đức Đại Lai Lạt Ma thứ 14 có nói "Hãy thử nhìn lại luận cứ của ngài Long Thọ về vấn đề này. Ngài Long Thọ nói rằng nếu giáo lý của thời kỳ chuyển bánh xe chánh pháp thứ nhất, bao gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo, là con đường duy nhất dẫn đến giác ngộ, vậy sẽ không có sự khác biệt giữa đường dẫn đến vô thượng bồ đề của Phật và niết bàn giải thoát của A la hán. Nói cách khác, một người đạt đến niết bàn (giải thoát khổ đau cho chính mình) xét trên cả hai lãnh vực Trí và Dụng, sẽ hoàn toàn giống như người đạt đến trí toàn giác của Phật. Nếu hai quả vị giác ngộ này giống nhau, vậy điểm khác biệt duy nhất chỉ nằm ở thời gian tu: muốn đạt quả vị Phật cần phải tích lũy tư lương tương đương với ba thời kỳ vô số, trong khi thời gian đòi hỏi để đạt quả vị A la hán ngắn hơn vậy nhiều. Theo ngài Long Thọ, quả vị giác ngộ bằng nhau nhưng thời gian tu lại khác nhau xa, lý luận này không thể đứng vững.

Ngài Long Thọ có đề cập đến một quan niệm phổ biến trong các truyền thống Phật giáo Nguyên thủy, cho rằng khi Phật nhập niết bàn - gọi là vô dư niết bàn - nói theo nghĩa thế tục là lúc Phật qua đời – lúc ấy dòng tâm thức của Phật tận diệt. Ngài Long Thọ phân tích nếu thật đúng như vậy, thời gian Phật có thể độ giúp chúng sinh sau khi đạt vô thượng bồ đề thật quá ngắn ngủi, trong khi giúp chúng sinh lại chính là mục tiêu khiến Phật vất vả tích lũy phước trí trên cả ba thời kỳ vô số. Phật rời nếp sống hoàng cung vào năm hai mươi chín tuổi, đạt giác ngộ năm ba mươi sáu, nhập diệt năm tám mươi hay tám mươi mốt tuổi, đếm lại thời gian Phật độ chúng sinh chỉ được vài mươi năm. Theo ngài Long Thọ, sự chênh lệch quá lớn giữa thời gian tu [ba thời kỳ vô số] và thời gian độ sinh sau khi thành đạo [vài mươi năm], là điều không hợp lý.



8. Trong Kinh Tiểu Thừa nói rằng khi một vị A La Hán đã do không chấp trước nên không phiền não, do không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn. Vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa" vậy bây giờ Đại Thừa lại nói các vị A La Hán cần phải phát Bồ Đề Tâm để tiến tu tập thêm nữa, việc này là như thế nào?

- Trước hết phải hiểu cho rõ ràng rằng các Kinh Tiểu Thừa Phật dạy là thời pháp đầu tiên cho chư thánh Thanh Văn là quyền giáo chưa phải thật giáo, các vị A La Hán đã thể nhập vào bất tử, đưa đến cứu cánh bất tử như trong các Kinh Tiểu Thừa Phật Giáo nói, Niết Bàn nghĩa là Chấm Dứt Sanh Diệt chứ không phải là Đoạn Diệt Hư Vô như các Phàm Phu và Ngoại Đạo hiểu làm.

Như trong Kinh Trung Bộ, Kinh Ví Dụ Con Rắn số 22 nói:

Một số Sa-môn, Bà-la-môn xuyên tạc Ta một cách phi chơn, hồ đồ, hư vọng, không thực: "Sa-môn Gotama hủ trương chủ nghĩa hư vô, đề cao đoạn diệt, hủy diệt, sự tiêu diệt các hữu tình". Nhưng này các Tỷ-kheo, Ta không là như vậy, Ta không nói như vậy, Ta không như các Sa-môn, Bà-la-môn ấy đã xuyên tạc một cách phi chơn, hồ đồ, hư vọng, không thật: "Sa-môn Gotama hủ trương chủ nghĩa hư vô, đề cao đoạn diệt, hủy diệt, sự tiêu diệt các hữu tình".

Vì vậy chớ nên hiểu một cách sai lầm rằng Niết Bàn như là một cảnh giới tù túng mới, giam chặt vị A La Hán ấy trong hư không buồn tẻ không còn hay biết gì nữa...

Niết Bàn là giải thoát, không phải là ràng buộc
Niết Bàn là có năng lực làm chủ, không phải không có năng lực làm chủ
Niết Bàn là trí huệ sáng suốt, không phải là hư vô mờ mịt
Niết Bàn là đại bi, không phải là vị kỷ

Thầy Chơn Như nói "Một vị ở trong Niết Bàn vẫn biết rõ tình trạng của Phật Pháp, của Thế Gian và khi cần phải độ là lập trức trở lại liền."

- Không trở lại đây, tức là không còn trở lại 3 cõi (Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới) các vị ấy đã hoàn toàn thoát khỏi luân hồi của ba cõi, có thể được tự do hiện thân tự tại không còn bị ràng buộc bởi khổ hay phiền não nữa. Nên các vị ấy có thể hoàn toàn phát Bồ Đề Tâm để cứu giúp các chúng sanh hữu tình, và tiếp tục tiến tu lên tới quả vị Bồ Tát, rồi dần dần đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
 

123456789

Registered
Phật tử
Tham gia
14/6/09
Bài viết
491
Điểm tương tác
76
Điểm
28
Hôm nay 123456789 xin KHẲNG ĐỊNH MỘT CÁCH CHẮC CHẮN RẰNG ĐẠI THỪA LÀ CHÂN THẬT PHẬT NÓI!

Những người bên Phật Giáo Tiểu Thừa sở dĩ họ chỉ chấp nhận Nikaya lý do là vì trong Trường Bộ Kinh, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Tụng Phẩm 3 có nói rằng:

"Này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy, các Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để cho phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người? Chính là Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Thần túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ-đề phần, Tám Thánh đạo phần."
Những pháp trên là 37 Phẩm Trợ Đạo bên Tiểu Thừa. Tuy trên nhiên thật tế, thì ngoài 37 Phẩm Trợ Đạo bên Tiểu Thừa ra, Đức Phật còn thuyết nhiều pháp môn khác nữa. Mà trong đó một số những pháp môn đó là thuyết riêng cho Chư Bồ Tát cầu Trí Tuệ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Phật Toàn Giác, đó là những pháp như Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, Niệm Phật Tam Muội... được nói trong Kinh Điển Đại Thừa. Và cũng vì lý do đó nên các pháp mà Chư Hiền Thánh A La Hán chứng đắc giải thoát và Chư Phật Chánh Đẳng Giác chứng đắc giải thoát là khác nhau. Vì nếu như Đức Phật chỉ thuyết duy nhất 37 Phẩm Trợ Đạo, thì các vị A La Hán cũng sẽ có trí tuệ để biết Giới Đức, Pháp, Trí Tuệ, An Trú, Giải Thoát như Chư Phật Thế Tôn vậy. Nhưng ngay cả bậc thượng thủ Thanh Văn A La Hán là ngài Xá Lợi Phất cũng không thể biết được Giới Đức, Pháp, Trí Tuệ, An Trú, Giải Thoát của Chư Phật là như thế nào, vì vậy lẽ dĩ nhiên là ngoài 37 Phẩm Trợ Đạo bên Tiểu Thừa ra, nhất định còn phải có các Pháp Đại Thừa dành cho Chư Bồ Tát, Những Người Có Căn Cơn Đại Thừa để được trí tuệ Giới Đức, Pháp, Trí Tuệ, An Trú, Giải Thoát như Chư Phật Thế Tôn vậy.

Sau đây là một đoạn Kinh văn trong Kinh Tự Hoan Hỷ số 28 của Trường Bộ Kinh.
Này Sàriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong quá khứ, các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của tất cả các vị Thế Tôn - Giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị Thế Tôn là như vậy, Trí Tuệ chư vị Thế Tôn là như vậy, An Trú chư vị Thế Tôn là như vậy, Giải Thoát chư vị Thế Tôn là như vậy?

- Bạch Thế Tôn, không!

- Này Sàriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong tương lai, các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của tất cả các vị Thế Tôn - Giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị Thế Tôn là như vậy, Trí Tuệ chư vị Thế Tôn là như vậy, An Trú chư vị Thế Tôn là như vậy, Giải Thoát chư vị Thế Tôn là như vậy?

- Bạch Thế Tôn, không!

- Này Sàriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong hiện tại Ta là vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của Thế Tôn - Giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị Thế Tôn là như vậy, Trí Tuệ chư vị Thế Tôn là như vậy, An Trú chư vị Thế Tôn là như vậy, Giải Thoát chư vị Thế Tôn là như vậy?

- Bạch Thế Tôn, không!

- Này Sàriputta, hãy xem! Ngươi không có trí tuệ biết được tâm tư của chư vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở quá khứ, ở hiện tại và ở tương lai!
Xem đoạn Kinh trên chúng đã thấy rất rõ ràng Đức Phật nói về những bậc Chánh Đẳng Giác trong thời hiện tại chính là Chư Phật đang hiện diện khắp mười phương, vì mỗi một thế giới có một bậc Chánh Đẳng Giác ở đời, và ở đây chúng ta hãy xem kỹ đoạn Kinh bên dưới Đức Phật nói trong một thế giới chứ không nói là chỉ trong thế giới (tức là riêng thế giới này), vì vậy ngoài một thế giới ra còn có nhiều thế giới khác nữa vì hư không vô biên nên thế giới cũng vô số, và những thế giới đó được nói rõ trong Kinh Điển Đại Thừa. Kinh Tăng Chi Bộ Kinh tập I, trang 37 chép rằng:
"Sự kiện này không xảy ra, này các Tỳ kheo, không có được trong một thế giới có hai vị A la hán Chánh đẳng giác, không trước không sau, xuất hiện một lần. Sự kiện này không xảy ra. Và sự kiên này có xảy ra, này các Tỳ-kheo. Trong một thế giới, chỉ có một vị A la hán Chánh đẳng giác, xuất hiện, sự kiện này có xảy ra".
Đức Phật đã thuyết 84,000 pháp môn khác nhau tùy theo căn cơ mỗi người mà thực hành để được sự giải thoát. Và dĩ nhiên 84,000 pháp môn khác nhau đồng nghĩa với việc có tới 84,000 con đường khác nhau để dẫn đến sự giải thoát. Trong Kinh Tiểu Thừa Nikaya, Tiểu Bộ Trưởng Lão Tăng Kệ, Chương Mười Bảy - Phẩm Ba Mươi Kệ, Số 260 Ananda như sau:
Một hôm Moggallàna người chăn bò, hỏi ngài (Ananda) lời dạy của đức Phật là gì, có bao nhiêu giáo lý tất cả. Vị Trưởng lão (Ananda) trả lời:

1025. Ta nhận từ đức Phật,
Tám mươi hai ngàn pháp,
Còn nhận từ Tỷ-kheo,
Thêm hai ngàn pháp nữa,
Tổng cộng tám tư ngàn,
Là pháp ta chuyển vận.
BẰNG CHỨNG để xác nhận một cách chắc chắn rằng 84,000 pháp môn khác nhau chứ không phải chỉ trùng lập đi lập lại trong 37 Phẩm Trợ Đạo là trong Trường Bộ Kinh, 26. Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống có ghi chép rõ ràng như sau:
Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người lên đến tám vạn tuổi, có Thế Tôn tên là Metteyya sẽ ra đời, là vị A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn; như Ta nay sanh ra ở đời này, là bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Vị này tự mình biết, chứng, và tuyên thuyết quả đất này, gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, Thế giới này với Sa môn, Bà la môn, loài Trời, loài Người; như Ta hiện nay tự mình biết, chứng và tuyên thuyết quả đất này, gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, Thế giới này với Sa môn, Bà la môn, loài Trời và loài Người. Vị này sẽ thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa lý văn tự đầy đủ và tuyên thuyết đời sống phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh; như Ta hiện nay thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa lý văn tự đầy đủ và tuyên thuyết đời sống phạm hành hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh. Vị này sẽ có khoảng vài ngàn vị Tỷ kheo Tăng đoàn; như Ta hiện nay có khoảng vài trăm vị Tỷ kheo Tăng đoàn vậy.

Này các Tỷ kheo, vua Sankha sẽ cho thiết lập cung điện mà vua Mahà Panada đã thiết lập. Sau khi thiết lập, vua trú tại đó. Sau vua lại bố thí cung điện ấy, dâng cúng cho các vị Sa môn, Bà-la-môn, các hàng bần cùng, du đãng, ăn xin, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình dưới sự chỉ đạo của Thế Tôn Metteyya, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Vị này xuất gia như vậy, sống một mình, biệt lập, tinh tấn, TRÌ CHÚ, chuyên tâm, chẳng bao lâu chứng được vô thượng phạm hạnh, mà vì mục đích này các thiện nam tử đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Với vô thượng phạm hạnh này, ngay trong hiện tại, vị này tự tu, tự chứng, đạt đến và an trú.
Pháp môn Trì Chú là Mật Tông của bên Phật Giáo Đại Thừa. Trong Tam Tạng Pali Nikaya Tiểu Thừa không có dạy tới phương pháp, nhưng lại có nhắc đến, và thực hành Trì Chú vẫn chứng được vô thượng phạm hạnh. Như vậy thì 84,000 pháp môn được xác quyết một cách chắc chắn rằng là 84,000 con đường khác nhau để dẫn đến giải thoát là Sự Thật! Và muốn biết phương pháp Trì Chú như thế nào để được giải thoát thì hãy xem nơi các Kinh Điển Đại Thừa, Đức Phật đã dạy rất rõ ràng rồi.

Nguyên bản Pali (câu 1029) về phần ngài Ananda đã nhận được 84,000 pháp môn như sau:

Dvāsītiṃ buddhato gaṇhiṃ dve sahassāni bhikkhuto, caturāsītisahassāni ye me dhammā pavattino.

Và đã được Tỳ Khưu Indacanda dịch như sau:

Tôi đã tiếp nhận tám mươi hai ngàn từ đức Phật, hai ngàn từ vị tỳ khưu, tám mươi bốn ngàn Pháp (uẩn) này là có sự vận hành.

Rõ ràng uẩn đã được thầy Indacanda mở hoặc thêm vào còn bản Pali chính thống chỉ có chữ dhammā (Pháp Môn hay Giáo Pháp) chứ hoàn không có chữ Dhammakhandha pháp uẩn gì ở đây hết. Vào đây để tải nguyên bản về xem: tamtangpaliviet.net

Ngoài ra trong thời pháp đầu tiên khi Đức Phật thuyết pháp Tiểu Thừa để dần dần tế độ chúng sanh, lúc bây giờ ngài Xá Lợi Phất đã chứng đắc giải thoát và là bậc thượng thủ Thanh Văn cũng đã khen ngợi Đức Phật nói pháp ngày càng cao thượng và thâm thúy hơn, thì làm sao mà Đức Phật chỉ thuyết vòng vòng các pháp như Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên.... được, vì khi nào chứng Tứ Diệu Đế thì mới đắc được quả vị A La Hán, mà ngài Xá Lợi Phất đã chứng đắc A La Hán và là bậc thượng thủ rồi, thì Đức Phật mỗi ngày lại vẫn còn thuyết pháp cao thượng hơn pháp trước, vậy pháp đó là pháp gì? dĩ nhiên là Giáo Pháp Đại Thừa rồi. Trong Kinh Tự Hoan Hỷ ngài Xá Lợi Phất nói như sau:
“Và nay ở đây, con một thời yết kiến Thế Tôn để nghe pháp. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết pháp cho con, mỗi pháp lại cao thượng, thâm thúy hơn pháp trước, hắc pháp và bạch pháp đều được đề cập, đối chiếu. Bạch Thế Tôn, nhờ Thế Tôn thuyết pháp cho con, mỗi pháp lại cao thượng, thâm thúy hơn pháp trước, hắc pháp và bạch pháp đều được đề cập, đối chiếu như vậy, nên trong sự thâm hiểu Chánh pháp, một pháp được con thâm hiểu trọn vẹn, đó là lòng tin của con vào vị Bổn Sư - Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng và chúng Tăng đã khéo hành trì.”
Còn nữa, một số những người bên Tiểu Thừa phỉ báng nói là Phật Giáo Đại Thừa giống Bà La Môn ngoại đạo này nọ..., nhưng hãy xem trong Kinh Pháp Cú Phẩm Bà La Môn kệ 402 của Phật Giáo Tiểu Thừa, Đức Phật đã nói chính những người đã được Giải Thoát thì cũng được gọi là Bà La Môn. Vậy chẳng lẽ nói rằng Phật Giáo Tiểu Thừa cũng giống Ba La Môn sao? Tại sao đi chấp hình tướng bê ngoài làm gì. Cái quan trọng là sự GIẢI THOÁT của Phật Giáo và Ngoại Đạo để tận diệt luân hồi khổ đau là khác nhau. Vì vậy xin làm ơn hãy từ bỏ ngay cái lời nói thô bỉ phỉ báng đem Phật Giáo chân chính Đại Thừa lại đi so sánh với ngoại đạo đấy đi.
402. "Ai tự trên đời này,
Giác khổ, diệt trừ khổ,
Bỏ gánh nặng, giải thoát,
Ta gọi Bà-la-môn.
Phật Giáo chúng ta đều dựa trên nền tảng nhân quả, biết bao nhiêu người Trì Chú Đại Bi, Niệm Phật Bồ Tát, Đọc Tụng Thánh Điển Đại Thừa... theo truyền thống Phật Giáo Đại Thừa, đã nhận được biết bao nhiêu sự mầu nhiệm linh ứng như tai qua nạn khỏi, bệnh nặng được lành, người qua đời thì lưu lại xá lợi lấp lánh như Chư Hiền Thánh hoặc hiện tượng như còn sống hồng hào tốt... và nhiều vô lượng những điều tốt lành khác. Nếu Phật Giáo Đại Thừa không phải là Phật Giáo chân chính thì những người đó không thể nhận được những sự màu nhiệm linh ứng được, tại vì đã phạm phải tội Tà Kiến rất nặng, xuyên tạc phỉ báng Như Lai tạo điều vô phước và đem lại bất hạnh cho đa số, bất lạc cho đa số, bất lợi cho đa số, đưa đến bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người, và đại vọng ngữ khi đọc những Kinh không đúng chánh pháp. Như trong Tăng Chi Bộ, Chương Một Pháp có ghi chép:
Phẩm Phi Pháp (2)

33-42 Phi Pháp

33. - Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ phi pháp là pháp, sở hành của những vị ấy, này các Tỷ-kheo, đem lại bất hạnh cho đa số, bất lạc cho đa số, bất lợi cho đa số, đưa đến bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy tạo điều vô phước, và khiến cho diệu pháp biến mất.

34. Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ pháp là phi pháp, sở hành của những vị ấy, này các Tỷ-kheo, đem lại bất hạnh cho đa số, bất lạc cho đa số, bất lợi cho đa số, đưa đến bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy tạo điều vô phước, và khiến cho diệu pháp biến mất.

35-42. Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ phi luật là luật,... nêu rõ luật là phi luật,... Như Lai không nói lên, tuyên bố là Như Lai có nói lên, không tuyên bố là Như Lai không nói lên, ... Như Lai có nói lên, tuyên bố là Như Lai không nói lên, không tuyên bố là Như Lai có nói lên, ... Như Lai không thực hành, tuyên bố là Như Lai có thực hành,... Như Lai thực hành, tuyên bố là Như Lai không thực hành,... Như Lai không chế đặt, tuyên bố là Như Lai có chế đặt... Như Lai có chế đặt, tuyên bố là Như Lai không chế đặt... Sở hành của những vị ấy, này các Tỷ-kheo, đem lại bất hạnh cho đa số, bất lạc cho đa số, bất lợi cho đa số, đưa đến bất hạnh đau khổ cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy tạo điều vô phước, và khiến cho diệu pháp biến mất.
Nhưng vì Phật Giáo Đại Thừa là Giáo Pháp Chân Chính do chính Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên thuyết, nên đã biết bao nhiêu người nhận được biết bao nhiêu sự lợi lạc linh ứng không thể nghĩ bàn, được Chư Thiên Long Bát Bộ giữ gìn, cho nên những ai tu theo Phật Giáo Đại Thừa là đi theo con đường chân chính của Đức Phật và tạo phước đức đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại hạnh phúc an lạc cho chư Thiên và loài Người. Như trong Kinh Tăng Chi Bộ, Chương Một Pháp cũng ghi chép:
1-10 Phi Pháp

1. - Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ phi pháp là phi pháp, các Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, sở hành như vậy, đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại hạnh phúc an lạc cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy tạo phước đức và an trú diệu pháp này.

2. - Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ nêu rõ pháp là pháp, các Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, sở hành như vậy, đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại hạnh phúc an lạc cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy tạo phước đức và an trú diệu pháp này.

3-10. Những Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, nêu rõ phi luật là phi luật... luật là luật... Như Lai không nói lên, tuyên bố là Như Lai không nói lên, ... Như Lai có nói lên, tuyên bố là Như Lai có nói lên, ... Như Lai không thực hành, tuyên bố là Như Lai không thực hành, ... Như Lai có thực hành, tuyên bố là Như Lai có thực hành, ... Như Lai không chế đặt, tuyên bố là Như Lai không chế đặt, ... Như Lai có chế đặt, tuyên bố là Như Lai có chế đặt...Các vị Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, sở hành như vậy, đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài Người. Và hơn nữa, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy tạo phước đức và an trú diệu pháp này.
Nghi vấn tiếp theo "Phải chăng có phải là ác ma thiên thị hiện những điều linh ứng đó để phá hoại?"

Trả lời: Hoàn toàn sai lầm, cảnh giới của Phật Giáo Đại Thừa là nói về những điều Chư Phật Bồ Tát, Hiền Thánh với đầy đủ tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả và Bồ Đề Tâm lợi ích cho tất cả mọi loài chúng sanh, là theo truyền thống của Chư Phật Chánh Đẳng Giác. Khác hẳn với cảnh giới của Ác Ma Thiên vốn Tham Lam, Ích Kỷ, Dục Lạc và không muốn đem lại lợi ích cho chúng sinh, như khi xưa Ác Ma Thiên đã cản trở không cho Phật Thành Đạo, và khi Phật Thành Đạo rồi lại thỉnh mau vào Niết Bàn. Hơn nữa Ác Ma Thiên không thể thị hiện những điềm linh ứng đó được, vì Ác Ma Thiên chỉ ở tầng trời Dục Giới, nhưng còn rất nhiều Chư Thiên Hộ Pháp cao hơn Ác Ma Thiên ở tầng trời Sắc Giới như Phạm Thiên Sahampati... đã khuyến thỉnh Phật vì lợi ích cho chúng sanh mà thuyết pháp. Những Phạm Thiên Hộ Pháp ở tầng trời Sắc Giới có tuổi thọ dài lâu và sức mạnh hơn hẳn Ác Ma Thiên, các vị ấy đã từ bỏ tham dục và đang thọ hưởng hạnh phúc của thiền-na và đã vượt khỏi cảnh giới thống trị Dục Giới của Ác Ma Thiên. Lại có Tịnh Cư Thiên, cảnh giới hoàn toàn tinh khiết. Đây là cảnh giới tuyệt đối riêng biệt của các vị Bất lai (A-na-hàm, Anāgāmi) cũng hộ trì Phật Pháp nên một mình Ác Ma Thiên làm sao mà có đủ quyền năng thể thị hiện những điều trái nhân quả và trái chánh pháp được?

Hơn nữa nếu Ác Ma Thiên thật sự đủ quyền năng diệt Phật Pháp, thì đã biến hóa cho các Kinh Sách ngoại đạo thần thông hơn Kinh Phật để chúng sanh tin theo mà mất hết huệ nhãn rồi, cớ chi Ác Ma lại tạo thêm Phật Giáo mới (lại bao gồm giáo lý Phật Giáo Cũ) và hiện linh ứng làm gì để chúng sanh tin theo Phật Pháp để gieo duyên lành giải thoát khỏi cảnh giới của Ác Ma? Với lại nếu Ác Ma Thiên đủ quyền năng như vậy thì có thể làm cho các Kinh Sách Phật Giáo biến mất hết từ lâu xưa rồi. Và Ác Ma đã có thể biến hóa những người làm nhiều việc ác khi chết để lại được những tướng lành và xá lợi hay làm việc ác mà được quả báo tốt đẹp rồi rồi. Nhưng Ác Ma Thiên hoàn toàn không đủ khả năng để biến hóa những điều trái nhân quả và trái ngược chánh pháp được, vì còn có Chân Lý Nhân Quả và Chư Thiên Hộ Pháp Cao Hơn nữa. Trong sử Cao Tăng Truyện đã được chứng kiến bởi những người thời đó, và chuyện viết về vua quan thì không thể giỡn chơi được, khi Phật Giáo mới truyền đến Trung Quốc được ghi chép lại như sau:
SA MÔN NHIẾP MA ÐẰNG, TRÚC PHÁP LAN đến LẠC DƯƠNG

Các ông Thái Âm... đến nước Nguyệt Chi, một lãnh thổ gần Thiên Trúc, gặp hai Phạm tăng là Ma Ðằng và Pháp Lan muốn dâng kinh tượng đến nước Trung Hoa, bèn cùng trở về phương Ðông. Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười (67 TL) đến Lạc Dương. Ma Ðằng vào triều hiến kinh tượng. Vua rất vui truyền đến ở Hồng Lô Tự, Pháp Lan đi đến sau.

Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười bốn (Kỷ Tỵ) vua xuống chiếu ở ngoài cửa Tây Ung lập riêng một chùa, mời hai ngài đến ở. Vì Bạch Mã chở kinh đến nên đặt tên chùa là Bạch Mã. Vua đến chùa hỏi Ma Ðằng:

- Sau khi Phật ra đời vì sao không giáo hóa đến đây?

Ma Ðằng đáp:

- Nước Ca tỳ la vệ ở Ấn Ðộ, ba đời chư Phật trong tam thiên đại thiên thế giới, trăm ức nhật nguyệt đều ở đây xuất hiện. Thiên thần rồng quỷ có nguyện lực đều sanh ở đó nhận sự giáo hóa, ngộ đạo. Chỗ khác Phật tuy không đến, nhưng ánh sáng chiếu khắp mọi nơi. Một ngàn năm trăm năm đều có thánh nhân truyền lời dạy của Phật đến để giáo hóa.

Vua rất vui. Hai ngài hỏi tiếp:

- Phía Ðông chùa có quán gì?

Vua đáp:

- Xưa có đống đất tự nhiên nổi lên, dẹp đi lại nổi, đêm có ánh sáng lạ, dân gọi là mộ Thánh. Do đó thờ, nghi là thần Lạc Dương.

Ma Ðằng nói:

- Theo Kim Tạng ở Thiên Trúc ghi. Vua A Dục chôn Xá lợi Phật khắp thiên hạ tới 84,000 chỗ. Nay ở Trung Hoa có mười chín chỗ, đây là một.

Vua thất kinh liền đến lễ bái. Chợt có một vầng ánh sáng tròn hiện trên mộ, ba thân hiện trong ánh sáng. Thị vệ hô “Vạn tuế!”. Vua mừng nói:

- Nếu không gặp hai đại sĩ, đâu biết được Di hựu của Thượng Thánh.

Rồi xuống chiếu xây tháp lên trên theo cách thức của hai ngài. Tháp hoàn thành có chín tầng, cao hai trăm thước. Năm sau ánh sáng lại hiện, có cánh tay sắc vàng lộ trên đỉnh tháp ca thước như trong lưu ly thấy hương trời. Vua lại đến chiêm bái. Ánh sáng theo bước chân xoay vòng, từ ngọ đến giờ thân (3 giờ chiều) mới diệt.

Vua đối với Phật pháp rất kính tín. Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười bốn (71 TL), đạo sĩ Ngũ Nhạc là Trữ Thiện Tín, Phí Thúc Tài... đố kỵ, bài xích nói:

- Phật pháp hư ngụy.

Ma Ðằng, Pháp Lan tâu vua:

- Pháp xuất thế của Phật, nước lửa chẳng thể hoại. Xin vua cho cùng đạo sĩ thí nghiệm.

Vua sắc Thiện Tín... đem hết kỳ kinh, bí quyết sẵn có cùng sa môn đem kinh Phạn vào ngày rằmg tháng Giêng, lập đàn đốt để nghiệm. Các kinh của đạo sĩ đều bị đốt sạch, chỉ có kinh tượng Phật vẫn còn nguyên. Bọn Thiện Tín xấu hổ chết. Bao nhiêu đạo sĩ đều đê đầu khâm phục. Ngài Pháp Lan ở trong đại chúng xướng kệ:

Chồn chẳng phải sư tử
Ðèn chẳng phải sáng trời trăng
Ao không có sức chứa của sông biển
Gò chẳng tươi tốt như núi rừng
Mưa pháp rưới thế giới
Giống lành được nứt mầm
Hiển thông pháp hy hữu
Nơi nơi giáo hóa quần sanh.

(Hổ phi sư tử loại
Ðăng phi nhật nguyệt minh
Trì phi giang hải nạp
Khưu vô sơn nham vinh
Pháp vân thùy thế giới
Thiện chủng đắc khai manh
Hiển thông hi hữu pháp
Xứ xứ hóa quần sanh).

Vua càng thêm kinh dị. Hai tăng học chữ Tàu, sau dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương, Thập Ðịa Ðoạn Kết, Phật Bổn Sanh, Pháp hải Tạng, Phật Bổn Hạnh ... năm kinh.

Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ mười sáu (73 TL) Nhiếp Ma Ðằng nhập diệt. Trúc Pháp Lan tự dịch năm bộ kinh mười ba quyển.
Nghi Vấn Tiếp Theo: Đức Phật A Di Đà và cõi Tây Phương Cực Lạc nói trong Kinh Điển Đại Thừa không có sự chứng minh trong lịch sử khoa học làm sao mà tin đây?

Trả Lời: Vậy tại sao lại đi tin những điều được nói trong Kinh Điển Tiểu Thừa như cõi trời Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới... Chư Thiên, Đế Thích, Phạm Thiên Sahampati.... (những điều mà phàm phu không thấy) chúng cũng không có sự chứng minh trong lịch sử khoa học đó? Hơn nữa những người được vãng sanh lưu lại xá lợi vật chứng và nhận được sự mầu nhiệm từ Phật Giáo Đại Thừa từ ngàn xưa cho tới tận hôm nay bây giờ đã khuyến hóa biết bao nhiêu người trở về với Chánh Pháp Đại Thừa chân thật của Phật.
THẾ GIỚI TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC LÀ CHÂN THẬT

19400004_806290819548156_6267268263444021634_n.jpg


Kinh A Di Đà Đức Phật dạy rằng: "Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó."

Hòa Thượng Thích Thiền Tâm khai thị rằng;

Người muốn học Phật không nên đem trí phàm phu mà suy lường cảnh thánh. Đừng nói đâu xa, ngay ở Việt Nam ta, khi cụ Phan Thanh Giản đi sứ sang Pháp trở về thuật lại, nói bên ấy đèn không đốt mà cháy, xe thuyền không ngựa kéo người bơi mà tự chạy. Cụ có vịnh hai câu thi:

Bá ban xảo kế tề thiên địa.
Duy hữu tử sanh tạo hóa quyền!

Hai câu này ngụ ý khen người Pháp trăm việc hay khéo sánh bằng trời đất, duy có sự sống chết là còn thuộc quyền tạo hóa định đoạt mà thôi! Vua Tự Đức và triều thần nghe nói thế đều không tin. Đến như ông Nguyễn Tri Phương là chỗ bạn thân, cũng mĩm cười cho là cụ Phan đi xa về nói khoác. Thử hỏi: - Vua Tự Đức cùng triều thần đều tự nhận mình là người học thức, cho sự việc đó tai không nghe, mắt không thấy, vượt quá sức tưởng tượng, nên không tin. Nhưng các điều ấy quả thật không có chăng? Lấy một việc nhỏ này suy ra, ta thấy nếu đem những định kiến theo tai nghe mắt thấy và sự tưởng nghĩ phàm thường mà đo lường cảnh thánh đều thành sai lạc.

Hơn nữa, nếu không có Phật A Di Đà tiếp dẫn, tại sao nhiều người niệm Phật khi sắp chết biết trước ngày giờ, thấy các cảnh tướng Tây Phương, cùng Phật, Bồ Tát hiện thân đón rước? Nếu cõi Cực Lạc là hư huyền, tại sao có những vị tu Tịnh Độ trong lúc hiện tiền bỗng được tâm khai thấy rõ ràng cảnh Tây Phương trang nghiêm y như lời Phật nói? Đệ tử của Phật hay người muốn học Phật mà không lấy lời Phật dạy trong kinh làm mực thước, thử hỏi còn lấy chi để làm chỗ tựa nương? Cho nên do theo cách suy lường dựa theo lời Phật nói và SỰ HIỆN CHỨNG CỦA NHỮNG NGƯỜI TU, ta phải tin rằng những sự trang nghiêm ở Cực Lạc đều có thật.
Còn nhiều điều mà cái trí tuệ của chúng ta chưa biết hết được, nên 123456789 xin nhắc lại những bạn phỉ báng Phật Giáo Đại Thừa, cái tội lỗi đi chia rẽ toàn thể Phật Giáo là rất nhiều, có thể nói gần giống na ná như là Phá Hòa Hợp Tăng vậy, mà cái tội Phá Hòa Hợp Tăng là phải đọa địa ngục trọn kiếp. Như trong Kinh Tiểu Bộ, Kinh Phật Thuyết Như Vậy (Như Thị Ngữ), Chương Một, Phẩm 2 ghi chép như sau:
(XVIII) (Ek II, 8) (It. 10)

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:

Này các Tỷ-kheo, có một pháp khởi lên ở đời, khi khởi lên đem lại bất hạnh cho nhiều người, đem lại bất lợi cho nhiều người, đem lại không lợi ích cho nhiều người, đem lại bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người.

Thế nào là một pháp? Phá hòa hợp Tăng. Này các Tỷ-kheo, khi chúng Tăng bị phá hoại, thì có những tranh luận với nhau, có những mắng nhiếc lẫn nhau, có những ngăn cách lẫn nhau, có những từ bỏ lẫn nhau. Ở tại đấy, những người không hòa hợp, không đi đến hòa hợp và những người có hòa hợp, sự nhất trí đi đến nơi khác.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến.

Bị rơi vào đọa xứ,
Bị rơi vào địa ngục,
Trú đến trọn cả kiếp,
Người phá hòa hợp Tăng.
Ưa thích phá hòa hợp,
An trú trên phi pháp,
Rơi rớt, vượt ra khỏi.
An ổn khỏi khổ ách;
Kẻ phá sự hòa hợp,
Của Tăng chúng hòa hợp,
Bị nung nấu trọn kiếp,
Trong cảnh giới địa ngục.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.
Lời Sau Cùng: Trong Tam Tạng Kinh Luật Luận Pali của Phật Giáo Tiểu Thừa hoàn toàn không có một lời của Đức Phật hay Hiền Thánh A La Hán nào phỉ báng Đại Thừa, chính những người đời sau này đã tự bịa ra theo tri kiến cá nhân và phỉ báng nói Đại Thừa nói không phải là Phật Pháp. Vì vậy nên một khi đã quyết định theo Phật Giáo và trở thành Phật Tử thì hãy quyết lòng nghe theo Phật, không nghe theo người. Trên đường tu hành, gặp bất cứ một người nào, dù chức phận, địa vị, danh tiếng cao tới đâu, những điều họ nói ra không có trong Kinh Phật, quyết không được nghe theo. Những lý luận hay ho, những triết lý cao siêu, những sự thuyết giảng bóng bẩy... nhưng chỉ dựa theo tri kiến cá nhân, không y cứ vào kinh điển, không nên tham đắm chấp vào.

Thời mạt pháp, thế gian nhiễu loạn, thường phát sinh những sự cám dỗ khá lòe loẹt... nhất là những tà kiến sai lầm có sức thu hút rất lớn, khiến mọi người dễ tin theo. Vì vậy phải hết sức cẩn thận, không nên hiếu kỳ nhiều. Đức Phật dạy trong Kinh Điển như thế nào thì ta cứ đặt trọn vẹn tất cả niềm tin y theo đó mà thực hành không nghi ngờ thì chắc chắn sẽ được lợi ích lớn chân thật.

Tà kiến sai lầm hiện nay đầy dẫy rất nhiều, phải chủ tâm luôn đề phòng cảnh giác, nếu không thì chúng ta sẽ rất dễ vướng vào cái bẫy vòng tay của ma vương, lúc đó ân hận không còn kịp nữa.

Hãy luôn ghi khắc trong tâm nhớ hai câu này, thì may ra có thể tránh khỏi được những tà thuyết hiện nay.

"Y Pháp Bất Y Nhân" (Y Theo Pháp, Không Y Theo Người)
"Ly Kinh Nhất Tự, Tức Đồng Ma Thuyết" (Lìa Kinh Một Chữ, Tức Là Ma Nói)

Ngài Thích Thiền Tâm, Thánh Tăng cận đại cũng từng nói "Pháp Đại Thừa, đã là đại pháp tất nói nhiều cảnh giới siêu việt khác thường, nên có những điều mà trí huệ phàm phu không thể suy lường nổi. Khi xưa trên hội Linh Sơn, đức Thế Tôn nói Kinh Pháp Hoa, có năm ngàn bậc Đại Đức Thanh Văn, đã chứng từ sơ quả Tu Đà Hoàn đến đệ tứ quả A La Hán, không tin tưởng lui ra khỏi Pháp tịch. Đối với cảnh chính đức Phật còn tại thế thân nói pháp, với các vị Thanh Văn thánh giả trí huệ đã siêu thường, mà còn có sự không tin, thì ta thấy pháp Đại Thừa chẳng phải dễ tin hiểu. Cho nên trong kinh Đại Thừa, có nhiều chỗ đức Phật bảo đừng nói cho kẻ nhiều kiến chấp, thiếu lòng tin nghe, vì e họ sinh lòng khinh báng mà mang tội. Đến khi Đại Thừa pháp được lan truyền rộng, các vị cổ đức khuyên người học Phật khi nghiên cứu về loại kinh này, chỗ nào dùng trí huệ hiểu được cố nhiên là tốt, chỗ nào suy gẫm không thấu triệt vẫn đặt trọn vẹn niềm tin nơi lời của đức Thế Tôn. Như thế mới tránh khỏi tội lỗi khinh báng đại pháp, và không mất phần lợi ích."

Và sau đây mình xin trích lại lý do tại sao phải Kính Tin Kinh Điển Đại Thừa:
Thứ nhất, từ xưa đến này những ai trì tụng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa được rất nhiều sự linh ứng, bản thân mình cũng đã cảm nhận được sự nhiệm màu này. Bạn có thể thỉnh một quyển Kinh Diệu Pháp Liên Hoa về xem phần trì tụng linh ứng có ghi chép lại mỗi thời điểm và mỗi nơi khác nhau. Bạn có lẽ nghi ngờ sự xác thật của những việc đó. Tuy nhiên khi những truyện linh ứng về Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có sự chứng kiến bởi rất nhiều người vào thời điểm đó, nên mới ghi chép xuống và được sự xem xét và chứng nhận bởi những người vào thời điểm đó. Nếu như là không thật là lừa đảo, thì Đạo Phật đã không tồn tại hơn ngàn năm nay tại Trung Quốc rồi, vậy thì làm sao lòng tin và lòng sùng mộ Đạo Phật của những người Trung Quốc thời đó làm sao mà tồn tại được, nếu như là bịp bợm thì những người vào thời điểm đó đã biết từ lâu và ngăn chặn lại rồi.

Thứ hai, trước khi Kinh Diệu Pháp Liên Hoa được truyền vào Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc... thì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã tồn tại ở Ấn Độ và được các Chư Tăng bên Ấn Độ trì tụng rồi. Và bạn nên nhớ rằng thời đó chính là thời CHÁNH PHÁP, chứ chưa phải Tượng Pháp và Mạt Pháp nhé.

Thứ ba, thuở xưa có nhiều bậc hiền thánh chứng đạo rất nhiều, nếu thánh điển Đại Thừa nếu không phải là Phật thuyết tức là hậu hoạn cho Phật Pháp, thì đã bị các bậc hiền thánh khắp nơi hộ trì Phật Pháp, chư Thiên hộ pháp, và Bồ Tát Di Lặc trên cung Trời Đâu Suất (Đại Thừa và Tiểu Thừa điều chấp nhận Bồ Tát Di Lặc là chân thật) ngăn chặn lại từ lâu rồi, làm gì mà còn tồn tại được cho tới bây giờ.

Thứ tư, khi bắt đầu kinh văn tôi nghe như vầy... gồm có Chư Bồ Tát tên... Chư Hiền Thánh Thanh Văn tên... Chư Thiên Long Bát Bộ tên... vậy thì bạn hãy thử nghĩ xem, nếu như không phải là Phật Pháp chân chính thì khi đọc tụng lên, thì chuyện gì sẽ xãy ra chắc bạn đã hiểu rõ.

Thứ năm, Chư Tăng Hiền Thánh vào thời kỳ Chánh Pháp thuở xưa là những bậc phạm hạnh uy nghiêm, những bậc nắm giữ giáo pháp chân chính của Phật, đệ tử chân chánh của Phật đã vì sứ mạng truyền bá Phật Pháp khắp thế gian cho tất cả chúng sanh được lợi lạc, vậy thì nếu chúng ta không đặt niềm tin vào Kinh Điển Phật Pháp và Chư Tăng Hiền Thánh đệ tử Phật vậy chúng ta phải đặt niềm tin vào ai bây giờ nữa đây?

Thứ sáu, đức Như Lai Thế Tôn là bậc nhất thiết trí đầy đủ tất cả trí tuệ, nếu thánh điển Đại Thừa không phải Phật nói thì Đức Phật đã tiên đoán từ thuở trước rồi, chứ làm sao mà để xãy ra hậu hoạn trong giáo lý Phật Pháp được.

Thứ bảy, thời này là mạt pháp, ma quỷ có thể biến hình và trà trộn, vào các thành phần tri thức... nói cái này cái kia làm cho chúng ta nghi ngờ giáo pháp của Phật, rồi dần dần không chịu tu nữa, riết rồi bị lạc vào tà kiến chủ nghĩa duy vật hồi nào không hay. Vì vậy nên hãy cẩn trọng.
Nam Mô A Di Đà Phật
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Bên trên