- Tham gia
- 7/3/13
- Bài viết
- 115
- Điểm tương tác
- 52
- Điểm
- 28
1. Tích Pháp sư Dạ Xoa.
Kính chào Quý Trưởng bối.
Vô Ưu xin nhắc đến Gương cầu pháp tiền thân đức Phật.
kiếp qúa khứ cách đây đã khá lâu xa có một ông vua tên là Tu Lâu Bà ở Châu Diêm Phù Đề, cai trị tám mươi bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám mươi ức Tụ Lạc, hai vạn bà Phu nhân và một vạn quan Đại thần.
Đối với thời ấy, phúc đức và thế lực của vua Tu Lâu Bà không ai bì kịp, nhân dân thuở đó đức vua, được an lạc thái bình, mưa hòa gió thuận, vui sướng vô cùng vô tận!
Một hôm vua tự nghĩ rằng: - "Đối với vật chất ta đã giúp dân được đầy đủ, nhưng về tinh thần giải thoát cho con người chưa có. Nếu con người chỉ sống theo vật chất, sống theo tình dục, tâm như gỗ đá, tâm như cát sỏi tha hồ cho bốn tướng sinh, già, bệnh, chết lôi quanh, thì không khác chi thú vật, ăn no nằm mát, phơi mình trên đám phân tro, cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng lẽ đó là lỗi ở ta, ta có trách nhiệm tìm đường giải thoát cho họ".
Nghĩ thế rồi Ngài ra yết thị và báo cho thiên hạ biết rằng: "Nếu ai biết đạo giải thoát của Phật dạy nói cho ta hay, muốn dùng gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ".
Tuyên lệnh đã lâu, nhưng không thấy ai đến nói, nhà vua luôn luôn mong mỏi, và tâm ý lúc nào cũng không được vui!
Sau đó ông Tỳ Sa Môn, là một ông vua cõi trời Tứ Thiên Vương thấy vậy bèn đến thử Ngài như sau.
Ông biến hình làm một con qủi Dạ Xoa, mặt xanh lè, mắt đỏ như huyết, răng to như quả chuối măn, mọc chìa ra ngoài, tóc dựng ngược, mồm phun lửa đến cung vua giựt lấy bảng rồi nói: - Các ông vào báo cho nhà vua biết, tôi có Phật Pháp, nhà vua muốn nghe, tôi sẽ giảng cho.
Quan Môn Giám nhận lời, vào tâu vua rằng:
- Tâu bệ hạ ngoài thành có một người hình thể khá sợ, tự nói có Phật Pháp, và xin nói cho bệ hạ nghe, việc đó thế nào xin cho hạ thần được rõ?
Nhà vua nghe nói, vui vẻ đội mũ mặc áo chỉnh tề, tự ra đón tiếp mời vào chánh điện và nhường ngồi trên ngai vàng, thết đãi một cách rất trọng hậu.
Sớm ngày mai nhà vua bày một tòa cao đẹp, trà nước xong xuôi, đánh trống ca nhạc rước Pháp sư thăng tòa thuyết pháp, Pháp sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Lúc đó có đông đủ quan quân, dân chúng, nhà vua ra lễ bái Pháp sư, rồi quỳ xuống xin Pháp sư thuyết pháp.
Pháp sư nói:
- Học pháp rất khó, ông muôn được nghe không phải dễ.
Nhà vua thưa rằng: - Kính thưa Pháp sư! Thương đến chúng tôi là kẻ ngu si, việc nghe Pháp phải đúng lễ thế nào, xin cho chúng tôi được rõ.
Pháp sư nói: - Nếu nhà vua đem vợ yêu con quí cho ta ăn, thì ta sẽ nói cho nghe.
Nghe xong nhà vua vui vẻ thọ giáo, bái tạ lui ra trở về cung gọi vợ con nói:
- Tôi xin nói để các người hay: vợ chồng cha con, yêu nhau trong vòng sinh tử, ân ái có ngày biệt ly, tôi muốn tìm con đường giải thoát, cho tôi và lũ ngươi, vì thế tôi muốn đem thân mạng của lũ ngươi dâng Pháp sư để cầu thành Phật; ý thế nào cho tôi được rõ?
Nghe xong hoàng hậu và thái tử liền quỳ xuống, xin tuân lời chỉ giáo.
Được sự đồng ý rồi nhà vua liền đem vợ con dâng Pháp Sư. Pháp sư nhận rồi, ngồi trên tòa cao, giữa đám hội đông người nghiểm nhiên ngồi ăn, nháy mắt đã ăn hết, mọi người thấy thế đều lắc đầu, lè lưỡi, kinh sợ hãi hùng.
Khi đó quần thần, dân chúng, thấy nhà vua hành động như vậy, ai nấy đều không bằng lòng, và cho nhà vua qúa ư mê chấp. Song họ có biết đâu nhà vua làm những việc mà người đời không ai làm được. Họ như con ếch nằm trong đáy giếng, chưa bao giờ nhìn thấy biển Đông. Sự nhìn xa trông rộng không phải kẻ phàm ngu có thể so sánh.
Tiếp đến Pháp Sư đọc bài thơ như sau:
Nhất thiết hành vô thường.
Sinh giả giai thị khổ!
Ngũ ấm không vô tướng.
Vô hữu ngã, ngã sở.
Nghĩa là:
Hết thảy đều vô thường,
Sinh ra tất phải khổ!
Năm ấm không có tướng.
Ta và của đều không.
Nhà vua nghe xong vui vẻ khôn xiết! Sai người chép lấy, để ban phát cho mọi người trong nước, bắt ai cũng phải tụng đọc.
Bấy giờ Pháp Sư (quỉ Dạ Xoa) thấy vua có vẻ bình thản như vậy, liền hiện lại nguyên hình, nói rằng: "Quí hóa nhà vua! Biết tôn trọng Chánh Pháp như vậy không bao lâu Ngài sẽ được thành Phât". Nói xong, bỗng nhiên lại thấy phu nhân và thái tử hãy còn toàn vẹn.
Kính thưa Ngài! Vua Tu Lâu Bà thuở đó chính là ngài đấy. Xưa kia Ngài đã hy sinh vì Pháp như vậy, sao nay Ngài nỡ bỏ chúng sinh để vào Niết Bàn?
Kính chào Quý Trưởng bối.
Vô Ưu xin nhắc đến Gương cầu pháp tiền thân đức Phật.
kiếp qúa khứ cách đây đã khá lâu xa có một ông vua tên là Tu Lâu Bà ở Châu Diêm Phù Đề, cai trị tám mươi bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám mươi ức Tụ Lạc, hai vạn bà Phu nhân và một vạn quan Đại thần.
Đối với thời ấy, phúc đức và thế lực của vua Tu Lâu Bà không ai bì kịp, nhân dân thuở đó đức vua, được an lạc thái bình, mưa hòa gió thuận, vui sướng vô cùng vô tận!
Một hôm vua tự nghĩ rằng: - "Đối với vật chất ta đã giúp dân được đầy đủ, nhưng về tinh thần giải thoát cho con người chưa có. Nếu con người chỉ sống theo vật chất, sống theo tình dục, tâm như gỗ đá, tâm như cát sỏi tha hồ cho bốn tướng sinh, già, bệnh, chết lôi quanh, thì không khác chi thú vật, ăn no nằm mát, phơi mình trên đám phân tro, cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng lẽ đó là lỗi ở ta, ta có trách nhiệm tìm đường giải thoát cho họ".
Nghĩ thế rồi Ngài ra yết thị và báo cho thiên hạ biết rằng: "Nếu ai biết đạo giải thoát của Phật dạy nói cho ta hay, muốn dùng gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ".
Tuyên lệnh đã lâu, nhưng không thấy ai đến nói, nhà vua luôn luôn mong mỏi, và tâm ý lúc nào cũng không được vui!
Sau đó ông Tỳ Sa Môn, là một ông vua cõi trời Tứ Thiên Vương thấy vậy bèn đến thử Ngài như sau.
Ông biến hình làm một con qủi Dạ Xoa, mặt xanh lè, mắt đỏ như huyết, răng to như quả chuối măn, mọc chìa ra ngoài, tóc dựng ngược, mồm phun lửa đến cung vua giựt lấy bảng rồi nói: - Các ông vào báo cho nhà vua biết, tôi có Phật Pháp, nhà vua muốn nghe, tôi sẽ giảng cho.
Quan Môn Giám nhận lời, vào tâu vua rằng:
- Tâu bệ hạ ngoài thành có một người hình thể khá sợ, tự nói có Phật Pháp, và xin nói cho bệ hạ nghe, việc đó thế nào xin cho hạ thần được rõ?
Nhà vua nghe nói, vui vẻ đội mũ mặc áo chỉnh tề, tự ra đón tiếp mời vào chánh điện và nhường ngồi trên ngai vàng, thết đãi một cách rất trọng hậu.
Sớm ngày mai nhà vua bày một tòa cao đẹp, trà nước xong xuôi, đánh trống ca nhạc rước Pháp sư thăng tòa thuyết pháp, Pháp sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Lúc đó có đông đủ quan quân, dân chúng, nhà vua ra lễ bái Pháp sư, rồi quỳ xuống xin Pháp sư thuyết pháp.
Pháp sư nói:
- Học pháp rất khó, ông muôn được nghe không phải dễ.
Nhà vua thưa rằng: - Kính thưa Pháp sư! Thương đến chúng tôi là kẻ ngu si, việc nghe Pháp phải đúng lễ thế nào, xin cho chúng tôi được rõ.
Pháp sư nói: - Nếu nhà vua đem vợ yêu con quí cho ta ăn, thì ta sẽ nói cho nghe.
Nghe xong nhà vua vui vẻ thọ giáo, bái tạ lui ra trở về cung gọi vợ con nói:
- Tôi xin nói để các người hay: vợ chồng cha con, yêu nhau trong vòng sinh tử, ân ái có ngày biệt ly, tôi muốn tìm con đường giải thoát, cho tôi và lũ ngươi, vì thế tôi muốn đem thân mạng của lũ ngươi dâng Pháp sư để cầu thành Phật; ý thế nào cho tôi được rõ?
Nghe xong hoàng hậu và thái tử liền quỳ xuống, xin tuân lời chỉ giáo.
Được sự đồng ý rồi nhà vua liền đem vợ con dâng Pháp Sư. Pháp sư nhận rồi, ngồi trên tòa cao, giữa đám hội đông người nghiểm nhiên ngồi ăn, nháy mắt đã ăn hết, mọi người thấy thế đều lắc đầu, lè lưỡi, kinh sợ hãi hùng.
Khi đó quần thần, dân chúng, thấy nhà vua hành động như vậy, ai nấy đều không bằng lòng, và cho nhà vua qúa ư mê chấp. Song họ có biết đâu nhà vua làm những việc mà người đời không ai làm được. Họ như con ếch nằm trong đáy giếng, chưa bao giờ nhìn thấy biển Đông. Sự nhìn xa trông rộng không phải kẻ phàm ngu có thể so sánh.
Tiếp đến Pháp Sư đọc bài thơ như sau:
Nhất thiết hành vô thường.
Sinh giả giai thị khổ!
Ngũ ấm không vô tướng.
Vô hữu ngã, ngã sở.
Nghĩa là:
Hết thảy đều vô thường,
Sinh ra tất phải khổ!
Năm ấm không có tướng.
Ta và của đều không.
Nhà vua nghe xong vui vẻ khôn xiết! Sai người chép lấy, để ban phát cho mọi người trong nước, bắt ai cũng phải tụng đọc.
Bấy giờ Pháp Sư (quỉ Dạ Xoa) thấy vua có vẻ bình thản như vậy, liền hiện lại nguyên hình, nói rằng: "Quí hóa nhà vua! Biết tôn trọng Chánh Pháp như vậy không bao lâu Ngài sẽ được thành Phât". Nói xong, bỗng nhiên lại thấy phu nhân và thái tử hãy còn toàn vẹn.
Kính thưa Ngài! Vua Tu Lâu Bà thuở đó chính là ngài đấy. Xưa kia Ngài đã hy sinh vì Pháp như vậy, sao nay Ngài nỡ bỏ chúng sinh để vào Niết Bàn?
Last edited by a moderator: