Khai thị - Hòa Thượng Tuyên Hóa

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Tình Ái và Dục Vọng là Tảng Ðá Buộc Chân Người Tu Ðạo

Cho đến hơi thở cuối cùng, cũng nên đối xử tốt với mọi người, nhưng đừng để tình ái xen vào.



Trong nghiệp sinh tử, tình ái và dục vọng là gốc chướng Ðạo. Là người tu Ðạo, bất luận đối với người hoặc đồ vật, nếu sinh ra lòng ái dục thì sẽ chướng ngại sự tu hành, làm mình không phát triển được. Nói một cách rõ ràng hơn, ái dục là sinh tử, sinh tử chính là ái dục. Ái dục là nguồn gốc của sinh tử. Nếu không phá vỡ tình ái dục vọng vô minh, thì mình sẽ không thể ra khỏi biển lớn sinh tử. Làm sao để thoát sinh tử? Rất giản dị, chỉ cần "đoạn dục khử ái," nghĩa là dứt dục vọng, trừ ái tình, chẳng cách nào khác hơn.

Người tu Ðạo đừng nên suy nghĩ về tình ái dâm dục, càng không nên có hành vi yêu đương. Ðối với bất cứ người nào, không nên sinh lòng yêu đương; hễ có lòng yêu đương thì gốc khổ không thể tránh được; vì có lòng yêu đương thì khó thoát vòng sinh tử.

Có người nói: "Con người là động vật có tình cảm, chuyện ăn uống và dâm dục là việc tự nhiên." Chính bởi vì nhân duyên đó, nên cần phải tu Ðạo. Trong Kinh Tứ-Thập-Nhị-Chương có dạy rằng:

Mình xem những người già như mẹ mình, những người lớn tuổi như chị, những cô trẻ là em và những đứa nhỏ là con. Hãy Sinh ra lòng độ thoát họ và diệt trừ những niệm ác.

Là kẻ tu đạo mình phải luôn luôn quán tưởng như vậy. Nếu quả không có ái, phải chăng khi gặp người khác mình cứ ngậm miệng chẳng để ý đến họ? Không đúng! Mình không chấp trước vào tình ái, không sinh lòng yêu đương, nhưng không sinh ra lòng ruồng ghét kẻ khác, cũng không thể nói rằng: "Bởi vì tôi không thương người ta nên tôi phải ghét họ." Ðó là điều sai lầm. Như vậy thì thế nào là đúng? Tức là không thương mà cũng chẳng ghét ai. Không thương, không ghét chính là Trung-đạo.

Tu hành là tu cái gì? Chính là tu pháp Trung-đạo. Ðối đãi với người mình luôn luôn bình đẳng, dùng tâm từ bi; nhưng phải luôn cẩn thận, chớ để rớt vào cạm bẫy ái tình.

Quý-vị nên chú ý! Ðừng nên bị tình ái làm cho mê hoặc. Nếu có người gởi cho quý-vị phong thơ tình, quý-vị cảm thấy lòng mình vui mừng, giống như có con thỏ nhảy nhót, con tim hết sức hoan hỉ, cho rằng hễ có kẻ yêu mình, là chuyện tốt. Sự thật là người yêu quý-vị chỉ muốn kéo quý-vị đọa lạc mà thôi.

Quý-vị thiện-tri-thức nên tựa vào chỗ này mà dụng công phu, phải thật sự hiểu rằng: "Ái tình là thứ phiền hà vô cùng." Từ vô lượng kiếp tới nay, sở dĩ sanh tử không thể chấm dứt được là vì sao? Chính là bị hai chữ "ái tình" làm hại. Nếu như mình có thể "đoạn dục khử ái" thì mới có thể siêu thoát Tam-giới, không còn sanh tử nữa.

Thứ mình thích thì mình yêu, không thích thì ghét bỏ. Hễ khi thích, tức là mình đã sinh lòng yêu thương. Hễ khi ghét lòng mình sinh ra sự ghét hận. Cả hai thứ, yêu, ghét đều là do tình cảm mà có. Người tu hành xử lý sự việc không dựa vào tình cảm. Tuy nhiên cũng không thể giống như ông Quan Công, ngồi chễm chệ trên bàn xử lý, người ta đảnh lễ, ông cũng không thèm nhìn tới. Ðối với người, mình phải có sự hòa nhã, lễ độ, không nên cống cao, ngạo mạn, coi thường kẻ khác.

Tóm lại, đối với người khác mình phải có lòng từ bi, tìm phương tiện giúp đỡ họ. Lúc nào cũng nên nghĩ đến người khác và khiến họ sinh lòng hoan hỉ. Cho đến hơi thở cuối cùng, cũng nên đối xử tốt với mọi người, nhưng đừng để tình ái xen vào. Các vị nhớ lấy! Ðó là pháp môn vô cùng trọng yếu.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Hãy Nỗ Lực vì

Hòa Bình Thế Giới

Nếu trong vũ trụ đầy chính khí an lành,

trái đất sẽ không bùng vỡ.




Thế giới hiện tại là do nhiều quốc gia hợp thành. Mỗi một quốc gia gồm nhiều gia đình làm nên. Mỗi gia đình gồm nhiều người tạo thành. Vì vậy mỗi cá nhân có quan hệ liên đới rất lớn đối với toàn thể thế giới.

Nếu lòng người trên thế gian thanh tịnh, không có tư tưởng nhiễm ô thì thế giới nhất định sẽ hòa bình không có chiến tranh. Ngược lại, lòng người ô nhiễm thì thế giới sẽ trở thành xấu xa. Ðạo lý này con người ai cũng hiểu nhưng họ không thực hành. Biết mà cố phạm lỗi, đó thực là đáng thương xót vậy.

Sở vị hảo, yếu tòng tâm tác khởi.

Sở vị hoại, dã tòng tâm tác khởi,


Nghĩa là:

Ðiều tốt là do tâm tạo ra.

Ðiều xấu cũng từ tâm làm nên.

Thế giới hiện tại đang tới chỗ sống buổi sáng nhưng không chắc sẽ có buổi chiều. Bởi vì sao? Bởi vì địa cầu sắp đi đến chỗ bùng nổ, đã đến lúc vô cùng nguy hiểm. Tại sao địa cầu đi đến chỗ bùng vỡ? Ðó là vì "tham, sân, si," ba thứ ác khí trùm tỏa khắp mọi nơi. Nếu trái đất bị hủy diệt thì con người chẳng còn tồn tại được nữa.

Tuy vậy, con người không để tâm nghiên cứu vấn đề này, suốt ngày cứ sống trong sự mê muội, chết đi trong mộng mơ. Ðể thời gian trôi đi một cách hồ đồ, không biết rằng sự nguy hiểm trùng trùng. Có người chỉ quan tâm đến sự nguy hiểm trước mắt, nhưng không biết nghĩ đến cứu cánh của tương lai. Họ chỉ lo rằng loài người càng ngày càng đông thêm, sợ rằng không có thực phẩm ăn, không có áo quần mặc, không có nhà cửa ở, không có tài nguyên, nhiên liệu. Họ cho những vấn đề này là vấn đề trọng yếu. Kỳ thật những vấn đề đó còn nhỏ, vì tới lúc ấy, mọi sự tự nhiên sẽ được giải quyết.

Thật ra vấn đề "sanh tử" của mọi người mới là vấn đề trọng đại. Giây phút này mình còn, nhưng phút sau không còn nữa, trong chớp mắt mình sẽ ra đi. Cái chết sẽ tới ngay trên đầu mà mình không hay. Thương thay con người đối với vấn đề nghiêm trọng như vậy mà rất lãnh đạm, coi như chuyện chiêm bao vậy. "Từ đâu mình sanh ra, chết đi về đâu?" Không ai biết cả. Cho dù có biết, mình sẽ làm sao đây? Biện pháp duy nhất là "cải ác hướng thiện" (sửa bỏ điều ác, chỉ làm điều thiện). Sửa đổi con người chính mình, đừng sinh lòng ích kỷ, tư lợi, mà phải có lòng từ bi; vì lợi ích tất cả chúng sinh và phải học tập tinh thần của Bồ-tát.

Hành vi của mọi người là do tâm chi phối. Bởi vì tâm nên mình biến thành các loài trong mười Pháp-giới. Một niềm thiện thì sinh lên trời; một niệm ác thì bị đọa địa ngục. Rằng:

Nhất niệm giác tựu thị Phật,

Nhất niệm mê tức chúng sinh.


Nghĩa là:

Một niệm giác ngộ thì là Phật,

Một niệm hồ đồ thì là chúng sinh
.

Nói một cách giản dị là khi có tư tưởng lợi ích cho kẻ khác, đó là Bồ-tát; một tư tưởng làm lợi ích cho chính mình, thì đó là chúng sinh. Một ý niệm hồi quang phản chiếu, tìm giải đáp nơi chính mình, thì đó là A-la-hán và Bích-chi Phật. Một ý niệm tách rời sự giác ngộ, lăn theo bụi đời đó là phàm phu; một ý niệm xa lìa bụi đời để trở về với giác ngộ tức là thánh nhân. Cho nên cả hai mặt xoay qua đổi lại thật dễ như trở bàn tay vậy.

Thế giới tốt hay xấu đều do một niệm trong tâm mình tạo thành. "Con người ai cũng có lòng lành thì thế giới sẽ yên trụ mãi mãi; con người có lòng ác thì thế giới sẽ hủy diệt." Ðó là đạo lý rất hiển nhiên. Ðạo Phật dạy người ta làm điều thiện, biết rõ nhân quả. Làm điều thiện nhiều, làm công đức nhiều, cũng có nghĩa rằng đừng có tranh, đừng có tham, không mong cầu gì cả, chẳng ích kỷ, cũng chẳng tự lợi và không nói láo. Nếu được như vậy thì thế giới sẽ từ chỗ nguy hiểm mà trở nên an ninh. Cho nên nói: "Nhất thiết duy tâm tạo." Tức là tất cả mọi thứ đều do tâm mà ra. Tâm tạo ra thế giới, tâm cũng có thể hủy diệt thế giới. Tâm tạo ra thiên đường, tâm cũng có thể tạo ra địa ngục.

Gia đình là do mọi người làm thành, con người là do vọng tưởng mà thành hình. Nếu đem vọng tưởng xấu sửa đổi thành vọng tưởng tốt lành thì đó là người tốt. Nếu đem ý niệm thiện mà biến thành ý niệm xấu thì đó là người ác. Ðó là sự khác biệt giữa người ác và người lành.

Chúng ta là những người tu hành thì phải "Siêng tu Giới, Ðịnh, Huệ. Trừ bỏ tham, sân, si." Ðó là điều kiện căn bản của sự tu hành. Là người học Phật-pháp, trước hết mình phải "không làm điều ác và làm tất cả những điều thiện." Ðó cũng chính là điều căn bản. Nếu ai cũng làm theo điều này thì thế giới sẽ trở nên tốt lành; khí lành sẽ gia tăng và ác khí sẽ giảm thiểu. Nếu trong vũ trụ đầy dẫy những chính khí an lành, thì trái đất sẽ không bùng vỡ.

Làm sao cho thế giới yên ổn, an lành? Chỉ còn biện pháp duy nhất là mình tới học Phật-pháp nơi đạo tràng có chính pháp, rồi sửa đổi lỗi lầm của mình để trở thành người mới. Mọi người ai cũng bỏ điều ác, làm điều lành thì thế giới sẽ không có ba thứ tai nạn, tám thứ khốn khổ. Con người ai cũng sống trong hòa bình thương yêu lẫn nhau, không còn tranh, không còn tham nữa. Ðó là thế giới đại đồng.

Hy vọng rằng lúc đó những người không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng sẽ vì gia đình, vì tổ quốc, vì thế giới bỏ đi những tánh tham lam, làm những việc lợi ích cho xã hội. Mình cũng nên biết rằng "tài sản là những vật ngoài thân." Sanh ra, mình không đem chúng tới, chết đi, cũng chẳng mang chúng theo.

Khi sự hắc ám của người ác được hào quang của người thiện chiếu soi làm tan mất, thì lúc đó thế giới không còn bị ác khí bao trùm, địa cầu mới không bị hủy diệt. Ðạo lý này tuy rất giản dị nhưng mình phải biết dụng công thâm hậu thì mới có hiệu quả được. Quý-vị nên từ nơi "tâm" mà hạ thủ việc tu, cải tạo thế giới, khiến cho thế giới được bình an.

Vị lãnh tụ của mình, chính là cái "tâm." Nếu tâm xấu thì thân thể đầy đủ tật bệnh, gặp đủ thứ tai nạn bất ngờ. Chúng ta cần phải phản tỉnh, kiểm thảo, nếu có tội lỗi phải mau mau sám hối. Bởi vì:

Di thiên đại tội,

Nhất sám tiện diệt.

Nghĩa là:

Tội lỗi đầy trời,

Một niệm sám hối, hết thảy sạch tiêu.


Tất nhiên, mình phải thành tâm sám hối thì mới tiêu tai. Ðừng nên coi là chuyện đùa, ban ngày làm chuyện ác, ban đêm sám hối, tin rằng có thể tiêu trừ. Nếu như có tư tưởng như vậy, thì chẳng những tội chẳng tiêu mà còn nặng thêm nữa. Bởi vì sao? Mình đã biết tội, mà cố phạm nữa thì không thể nào tha thứ được.
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Ðả Thiền Thất Phải

Khắc Kỳ Thủ Chứng

Cần chân thật dụng công tham thiền.

Có bản lĩnh thật sự thì mới đáng kể.


Hôm nay là ngày đầu thiền thất. Hy vọng quý-vị nổ lực tham thiền. Chớ lãng phí cơ hội khai ngộ.

Ðả thất thì phải khắc kỳ thủ chứng. Không thể ngồi trên thiền sàng mà khởi lên vọng tưởng. Như vậy thì chỉ cô phụ công việc tham thiền của mình mà thôi. Quý-vị vọng tưởng điều gì? Vọng tưởng có nhiều thứ không giống nhau, nhưng tóm lại đều là những thứ vọng tưởng không có biên tế. Có người có vọng tưởng như vầy: "Kỳ này tới tham thiền thất hy vọng sẽ khai ngộ, sẽ đắc đại trí huệ. Sau khi khai ngộ, nhất định tôi sẽ tuyên bố trước thế giới tin tức đặc biệt này, khiến toàn thế giới đều biết rằng tôi là người đã khai ngộ và để cho mọi người phải cung kính tôi."

Quý-vị hãy nghĩ xem, người có tư tưởng như vậy phải chăng là đã khai ngộ? Tôi dám chắc rằng, tuyệt đối y chưa khai ngộ! Tại sao vậy? Bởi vì mới ngồi lên thiền sàng mà vọng tưởng đã đầy dẫy như thế, nếu không vì cầu danh thì cũng là cầu lợi. Vì danh lợi mà dụng công thì làm sao khai ngộ được.

Có người lại có vọng tưởng như sau: "Kỳ thiền thất này ta nhất định sẽ khai ngộ! Ta sẽ là người khai ngộ đầu tiên trong khóa thiền này. Kẻ khác không khai ngộ, chỉ có mình ta là độc nhất khai ngộ, đó thật là một chuyện hết sức vinh quang vậy!" Thậm chí có những kẻ không hiểu biết gì về khai ngộ, tự mình mạo xưng là khai ngộ. Ði đâu cũng tuyên bố là mình đã khai ngộ rồi, lừa bịp đại chúng khiến họ phải cung kính. Ðó là thứ "ngư mục hỗn châu," (trợn mắt cá để người khác tưởng lầm là hạt ngọc). Những tư tưởng ấu trĩ như vậy thật là đáng buồn cười. Hy vọng quý-vị đừng có những vọng tưởng đó. Phải "cước đạp thật địa" nghĩa là chân phải đứng vững trên mặt đất, dụng công tham thiền để có bản lãnh chân thật thì đó mới là đáng kể.

Có người thì có vọng tưởng như vậy: "Mình phải nhất định khai ngộ; khai ngộ rồi thì người ta mới đến cúng dường; có cúng dường thì lúc đó mới xây chùa lớn, làm một vị pháp chủ, tín đồ mới lại thân cận cúng dường và mình sẽ trở thành một vị đại pháp sư vang danh thiên hạ; ai cũng biết mình là danh tiếng cao ngất." Quý-vị phải biết những kẻ không học, không tài, không thuật, mà thọ sự cúng dường thì lương tâm làm sao an ổn được.

Bây giờ nói về tư thế tọa thiền, mình cần phải ngồi cho đúng mới có ích lợi cho thân tâm. Nếu không, tọa thiền không có giá trị gì. Trong khi tọa thiền, trước hết phải để thân tâm mình tự nhiên nhẹ nhàng, không nên gấp rút khẩn trương. Tốt nhất là ngồi thế kiết già, đó là thế căn bản của pháp ngồi thiền.

Thế kiết già phu tọa (hoặc là thế kiết già) là gì? Tức là lấy chân trái để lên chân mặt, sau đó để chân mặt lên đùi trái. Ðó là thế Kim-cang tọa, nghĩa là thế kiên cố bất động. Trong quá khứ chư Phật đã ngồi thế Kim-cang tọa mà thành Phật; tư thế này có thể hàng phục thiên ma và chế chỉ ngoại đạo. Khi chúng thấy mình ngồi trong tư thế này thì chúng liền thối lui, không dám lại quấy phá.

Sau khi đã ngồi kiết già rồi, mắt phải nhìn vào chóp mũi, không được nhìn phía đông cũng không được nhìn phía tây. Ðó gọi là:

Nhãn quán tỷ, tỷ quán khẩu, khẩu quán tâm.

Nghĩa là:

Mắt nhìn mũi, mũi hướng về miệng, miệng hướng về tâm.

Như vậy thì mình mới có thể nhiếp trì được thân tâm; đem tâm đang chạy loạn xạ đó mà định trụ lại, không cho nó chạy ra bên ngoài nữa. Khi được như vậy thì gọi là:

Chuyên nhất tất linh,

Phân chi tất tệ
.

Nghĩa là:

Tâm chuyên nhất, mới linh cảm.

Tâm phân tán, thì bế tắc.


Mình cần phải đoan nghiêm chính tọa, xương sống phải thẳng, đầu phải ngay, không cúi về trước cũng chẳng ngã ra sau; không nghiên bên trái hoặc ngã bên phải. Mình phải ngồi như cái chuông lớn, vững vàng không động đậy. Ðừng ngồi giống như cái chuông treo, lắc qua bên đông lắc qua bên tây. Ngồi kiết già là tư thế thích hợp nhất để tham thiền.

Người sơ học sẽ cảm thấy không quen, nào là đau chân, mỏi lưng, không nên coi đó là quan trọng. Mình cần phải cắn răng chịu đựng, nhẫn nại một thời gian lâu dài thì tự nhiên hiện tượng đó không còn nữa. Ðó gọi là "cửu tọa hữu thiền" nghĩa là ngồi lâu tự nhiên sẽ có thiền, tự nhiên sẽ đắc được thiền vị.

Thế nào gọi là thiền vị? Thiền vị tức là đắc được sự an lạc của thiền định, nếm được mùi vị khinh an nhẹ nhàng. Mùi vị đó thật là ảo diệu vô cùng, không thể dùng tâm tư cũng không thể dùng ngôn ngữ diễn tả được. Cũng giống như người uống nước, tự y mới biết nóng hay lạnh; mình cũng không thể dùng ý dùng tâm mà hội được, không thể dùng ngôn ngữ mà truyền đạt. Quý-vị muốn biết thiền vị đó là ngọt hay đắng thì phải nổ lực tham thiền, tới được cảnh giới tương ưng thì tự nhiên sẽ hiểu được mùi vị đó. Cho nên quý-vị phải tham thiền. Tham tới lúc "thủy lạc thạch xuất" nghĩa là nước cạn thì đá sẽ lộ ra, lúc đó mình mới nếm được thiền vị.

Thiền thì không thể nói được, cần phải tham. Nên thiền tông thì không lập văn tự, không lập chữ nghĩa, là truyền thừa ở ngoài giáo điển. Trực chỉ tâm của con người để mình thấy tánh, lập tức thành Phật.

Người tham thiền, khi tham đến chỗ hỏa hầu của mình đã đủ thì tuyệt đối không còn nổi giận nữa, không còn tranh luận với người khác, tới chỗ gọi là vô-tranh tam-muội. Lại cũng không cầu danh, cầu lợi; coi phú quý như giọt sương trên lá, công danh như bọt nước trên ngói. Trong khoảnh khắc giọt sương, hơi nước sẽ tan mất đi. Người chân chánh tu hành thì xa lánh danh lợi; không vì danh lợi mà giao động tâm mình.

Quý vị muốn trắc nghiệm kẻ đó có chân chính tu hành hay không, thì coi tâm hắn có bị danh lợi làm giao động chăng? Nếu y cầu danh không được thì nổi nóng, cầu lợi không xong thì tức giận, nổi phừng ngọn lửa vô minh, tánh dữ như cọp, hung tợn hơn ai hết, không cần hỏi mình cũng biết nhất định y là kẻ cầu danh lợi rồi.

Ðời nhà Thanh, hoàng đế Càn Long có lần đi tới Kim Sơn Thiền Tự ở tỉnh Trấn Giang để thưởng ngoạn phong cảnh. Nơi sông Trường Giang hoàng đế hỏi Pháp Thanh Thiền-sư rằng: "Trên giòng sông này một ngày có bao nhiêu con thuyền qua lại?" Thiền-sư đáp rằng: "Chỉ có hai lần thuyền qua lại." Vua Càn Long không hiểu hỏi: "Ông làm sao mà biết được chỉ có hai lần thuyền qua lại?" Thiền-sư trả lời: "Một con thuyền gọi là danh, một con thuyền gọi là lợi."

Do chuyện này mình biết rằng những kẻ độ thuyền qua sông, nếu không vì danh cũng vì lợi. Nhưng họ không biết rằng kẻ cầu danh thì chết vì danh, kẻ cầu lợi chết vì lợi. Cuối cùng chỉ tay trắng tới gặp ông Diêm Vương.

Cho nên:

Vạn bang đãi bất khứ.

Chỉ hữu nghiệp tùy thân.


Nghĩa là:

Mọi thứ nào đem đặng.

Chỉ nghiệp là theo hoài.


Người tu đạo nếu không có lòng nóng giận, có thể nhẫn nhục, nại khổ thì dễ thành pháp khí, có thể ở trong Phật-giáo là bậc đống lương, là bậc rường cột, có thể đem Phật-giáo truyền bá sâu rộng. Người tu mà thường hay nổi nóng là người phá hoại Phật-giáo, là kẻ làm hại tập thể.

Phật-giáo mới tới Tây-phương (tức là nước Mỹ) trồng xuống khoảng đất thanh tịnh hạt nhân bồ đề, hiện tại bắt đầu manh nha sinh xuất ra mạ. Hy vọng quý-vị là những người làm vườn tốt, siêng năng tưới nước bón phân khiến được tươi tốt, rồi tương lai cây cao lớn khai hoa và kết quả bồ đề.

Những người ở trong Vạn Phật Thánh Thành đối với chuyện nói năng cần phải chú ý, không được nói bừa bãi, không được tùy ý nói chuyện thị phi. Vạn Phật Thành Thành là nơi thánh địa thanh tịnh để tu Ðạo, không thể có những ngôn ngữ của bàng môn tả đạo. Các vị cần biết rằng đối diện với vạn Phật thì làm sao mình có thể ăn nói loạn xạ được? Quý-vị phải nhớ lấy!

Bịnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu sinh.

Nghĩa là:

Bịnh do miệng mà vào, họa cũng do miệng mà ra.

Ðây là câu danh ngôn rất chí lý; quý-vị nói gì cũng phải suy nghĩ ba lần rồi mới nói, để tránh nói những điều sai với nhân quả. Lời nói ra rồi thì không những mình phải chịu trách nhiệm đối với pháp luật, mà còn chịu báo ứng đối với luật nhân quả nữa.

Phật-giáo là tôn giáo đề xướng tinh thần "vô ngã" cho nên không chấp nhận chuyện bói toán, coi tử vi, phong thủy, hay coi tướng số. Những chuyện đó đều đi ngược lại với Phật-pháp, cho nên mình phải cấm chỉ chuyện phổ biến nó. Nếu như quý-vị tin vào những thứ tà pháp đó thì tự nhiên chấp nhận cái "ngã" của mình tồn tại, tất cả là vì mình. Hễ có cái của mình, thì mình luôn luôn tìm cách vì mình mà tính toán, vì mình mà chẳng vì người khác; như vậy thì không còn gì là Phật-pháp nữa.

Phật-pháp thì dạy con người không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ. Còn phong thủy thì dạy người ta tranh, dạy người ta cầu, ích kỷ, dạy họ tự lợi, dạy họ nói láo. Thậm chí còn nói láo rằng trong một trăm ngày thì có thể đại phát tài, có thể làm quan. Người có lòng tham thì liền tin lời của y. Thật ra đại tài chưa phát mà tiểu tài đã hao đi, vì phải đem tiền đi trả lễ cho ông thầy bói rồi. Bói như vậy chẳng khác nào bảo người đó đi cướp tiền ngân hàng để lập tức được phát tài, không cần một trăm ngày cũng đã phát rồi.

Lại nữa, nếu ông thầy bói biết chỗ nào có phong thủy tốt có thể phát tài, có thể thăng quan tiến chức thì tại sao bản thân y không dùng mà nói cho người khác biết? Thật là vô lý! Hy vọng những người thông minh như quý-vị đừng nên mê tín bị những kẻ đó lừa bịp.

Y học, bói toán, tinh văn, tướng số, y bốc tinh tướng ở trong Phật-giáo là một trong năm nghề người tu đạo không nên làm. Y tức là bác sĩ trị bệnh cho người khác (người tại gia làm bác sĩ được, song kẻ xuất gia không làm). Bói toán biết chuyện tốt xấu kiết hung. Tinh tức là tinh văn coi tinh tú biết được chuyện tốt xấu kiết hung. Tướng tức là tướng mạo, coi biết được mệnh vận thuận hay nghịch. Ðó là những điều mê tín. Mình phải biết rằng đạo lý "nhân định thắng thiên" con người có thể thắng được trời.

Người xuất gia tu đạo, sinh tử là chuyện không sợ, hà huống là những chuyện nhỏ nhặt này? Những thứ đó có gì mà phải lấy làm lạ. Người xuất gia là người siêu xuất ra số mạng.

Siêu xuất tam giới ngoại,

Bất tại ngũ hành trung.


Nghĩa là:

Vượt ra khỏi tam giới,

Không ở trong ngũ hành.


Nếu tính tướng mạng, phong thủy, đó là những thứ mà những kẻ thế tục mới tin. Mình phải hiểu rằng vận mệnh con người đều do nghiệp lực chiêu cảm mà sinh ra. Mình đừng để tập khí dắt dẫn, đừng để vật dục làm mê mờ; cần phải tự sáng tạo vận mạng cho chính mình, phải làm chủ tể vận mạng. Cứ làm nhiều công đức thì sẽ cải tạo vận mạng của mình. Khi gặp nạn tự nhiên sẽ hóa thành kiết tường. Rằng:

Ðản hành hảo sự

Mạc vấn tiền trình.


Nghĩa là:

Cứ làm việc tốt,

Ðừng hỏi chuyện tương lai.


Bây giờ đả thiền thất thì mình phải sáng tạo một sinh mạng mới. Chớ mê tín, phải có chánh tín, chớ nên theo người ta nói ừ thì mình ừ, rồi cứ việc đi theo người khác, họ đi trước mình theo sau, điều đó hết sức sai lầm. Mình phải có Trạch-pháp-nhãn (con mắt biết nhận ra chân lý), biết cái nào đúng cái nào sai, biết phân biệt thiện với ác, trắng với đen; phân minh rõ rệt thì mới không bị điên đảo mê hoặc.

Người tu thiền có thể làm chủ chuyện sinh tử của chính mình, sống chết rất tự do, không còn hạn chế nữa. Nên nói:

Tánh mệnh do ngã bất do thiên.

Nghĩa là:

Tánh mệnh của mình là do mình tạo, không phải do trời.

Chính ông Diêm-la-vương cũng không thể nào khống chế, không làm gì mình được. Tại sao vậy? Bởi vì mình đã ra ngoài cõi Tam-giới rồi.

Thế nào là đến đi một cách tự do? Có nghĩa là đối với chuyện sinh tử mình hết sức tự do, nếu muốn sống thì sống, muốn chết thì chết, tùy tâm mong muốn. Tuy nhiên quý-vị phải chú ý, sự chết này không phải do tự sát, tự uống thuốc độc.

Thân thể của mình cũng giống như căn phòng vậy. Muốn du hành ra ngoài, muốn đến chỗ nào thì tự do mà làm. Muốn hóa thân thành trăm ngàn vạn ức tới tận hư không biến Pháp-giới để giáo hóa chúng sinh thì tùy ý nhậm vận. Nếu không muốn đi du hành thì mình vẫn ở trong căn phòng, không ai có thể tới làm phiền mình cả. Nên hiểu rằng tận hư không biến Pháp-giới, tất cả mọi thứ đều ở trong pháp thân, không có gì chạy ra khỏi pháp thân này.

Quý-vị hết sức siêng năng cần khổ lại tham thiền, ngày đêm không ngừng dụng công, là chỉ vì muốn được tự do trong sinh tử, khống chế được sinh mạng của chính mình, làm chủ chuyện sinh tử. Khi đã làm chủ được thì đó là mình đã tới được cảnh giới sinh tử tự do.

Người tham thiền tham đến chỗ trên không biết có trời, dưới không biết có đất, giữa cũng không thấy có người, cùng với hư không hợp thành một. Tới cảnh giới như vậy sẽ có cơ hội khai ngộ. Lúc ngồi lúc đi đều là cơ duyên để khai trí huệ.

Mình tham câu: "Niệm Phật là Ai?" Niệm Phật là người nào? Người nào đang niệm Phật? Ai là người đang ngồi đây? Người ngồi đây là Ai? Lúc ăn cơm, Ai là người ăn cơm? Lúc ngủ, Ai là người đang ngủ? Phải tìm ra kẻ đó. Tìm tất cả là Tham; tham đến lúc thủy cùng sơn tận thì với một sự chuyển thân mình sẽ khai ngộ. Rằng:

Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ,

Liễu ấm hoa minh hựu nhất thôn.


Nghĩa là:

Núi cùng, sông bặt, tưởng hết đường,

Tàng liễu, hoa giăng, hiện thôn trang.


Núi đã hết, sông đã tận cùng, nghĩ rằng không còn đường đi nữa. Nhưng sau tàng cây liễu, sau đám hoa tươi kia lại xuất hiện một thôn làng.

Lại nói:

Bách xích can đầu trùng tấn bộ,

Thập phương thế giới hiện toàn thân.


Nghĩa là:

Ðầu sào trăm trượng, dấn bước thêm bước,

Mười phương thế giới sẽ hiện thân.


Nếu như không ngồi tịnh tọa, không tham thiền, thử hỏi các vị có biết mình từ đâu sinh ra và chết rồi về đâu không? Các vị nói không biết. Không biết tức là hồ đồ sinh ra, rồi lại hồ đồ chết đi. Cả một đời như thế thì thật đáng thương!

Người dụng công tham thiền khi khai ngộ rồi, nhận thức được bản lai diện mục của mình trước khi được cha mẹ sinh ra. Thoát nhiên hiểu suốt; tất cả những thứ tinh thô đẹp xấu mà người ta khó biết thì tâm mình không có chỗ nào chẳng thấu suốt. Khi tới được cảnh giới đại tạo hóa, thì tương lai sẽ thành Phật đạt tới quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Lão Tử từng nói hai câu như sau:

Thiên hại gia tri mỹ chi vị mỹ, tư ác dĩ.

Giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ.


Nghĩa là:

Thiên hạ biết đẹp là đẹp, ắt đã có cái xấu rồi.

Biết việc lành là lành, hẳn đã có cái không lành rồi.


Người trên thế giới đều biết làm chuyện tốt là tốt, nhưng đến lúc làm thì chẳng tốt đẹp gì. Người ta biết làm chuyện thiện là đúng, đến lúc thử thách tới thì không vượt qua được. Lại bị cảnh giới làm mê hoặc, không làm được việc thiện mà chỉ chạy đi làm chuyện ác.

Người học Phật biết rằng "từ, bi, hỷ, xả," tứ vô lượng tâm là căn bản của pháp hành đạo Bồ-tát nhưng lại không chịu làm. Biết rõ đạo lý thì phải biết công dụng như thế nào? Ngày nào cũng học Pháp "Lục độ," đến lúc gặp thử thách thì bố thí mình không chịu bố thí, trì giới thì chẳng trì giới, nhẫn nhục cũng hết nhẫn nhục, tinh tấn liền mất tinh tấn, thiền định cũng không thiền định, trí huệ thì cũng chẳng có trí huệ. Quý-vị hỏi mình học như vậy thì có ích gì?

Sau đây là ý nghĩa của Lục-độ:

1. Bố-thí: Tức là dùng tài sản vật chất hoặc Phật-pháp để bố thí kẻ khác. Có người lúc cần bố thí thì không chịu bố thí. Ngược lại, y kêu người khác bố thí cho mình, càng nhiều càng tốt. Nói rằng bây giờ tôi không muốn cho anh, anh cần phải bố thí cho tôi! Y luôn tìm cách chiếm tiện nghi, không chịu thua thiệt. Hạng người này lúc nào cũng cho mình là đúng.

2. Trì-giới: Thiên hạ người nào cũng biết trì giới là trì giới, nhưng đến lúc gặp thử thách không những không giữ giới mà lại phá giới nữa. Thọ giới tức là không động tâm. Bất luận cảnh giới nào đến mình cũng không động. Rằng:

Thái Sơn băng tiền tâm bất kinh.

Mỹ sắc đang tiền tâm bất động.


Nghĩa là:

Nếu núi Thái có sập trước mặt, lòng ta chẳng kinh hãi.

Mỹ sắc trước mắt, lòng ta không xao xuyến.


Ðó là định lực có thể chuyển được cảnh giới. Bất kể là cảnh ác hay thiện, thuận hay nghịch, mình đều thản nhiên; không sinh tâm phân biệt thì tự nhiên gió yên sóng lặng.

3. Nhẫn-nhục: Nghĩa là nhẫn thọ những gì không như ý. Nếu có thể nhẫn thọ tất cả những chuyện không đúng với ý mình, thì đó tức là mình chịu khảo nghiệm và chịu thử thách. Nếu mình có thể chịu được thử thách thì có thể qua được "quan" (cửa). Nếu không chịu được thì mình không qua được cửa. Ai cũng biết nhẫn nhục thì sẽ đến được bờ bên kia; nhưng khi cảnh giới tới thì chẳng nhẫn được. Lửa vô minh cao ba thước nổi lên; bao nhiêu công đức kết tụ trong một khoảnh khắc tiêu sạch hết.

4. Tinh-tấn: Khi mình đả thiền thất tức là tinh tấn. Ai ai cũng muốn tinh tấn, nhưng đến lúc tinh tấn thì không chịu tinh tấn, chỉ muốn lười biếng an phận thụt lui, hoặc chạy đi pha trà hoặc cố ý đi nhà vệ sinh, hoặc cố ý xuống bếp để uống trà; tất cả đều là cái cớ để cho qua thời giờ. Khi chưa đả thiền thất thì nói nghe rất là hăng hái, rằng tôi sẽ tham gia thiền thất thật giỏi. Ðến khi thiền thất bắt đầu thì không còn nhớ điều mình thề nguyền lúc trước nữa. Tại sao vậy? Ðây chính là biết rõ mà cố ý phạm lỗi. Tuy biết tham thiền là chuyện tốt mà vẫn cứ lười biếng. Quý-vị nghĩ xem tâm lý mâu thuẩn như vậy làm sao giải quyết đây? Qui củ của thiền đường là nếu người nào không giữ luật lệ sẽ bị đánh; đánh đến lúc nào khai ngộ thì thôi.

5. Thiền-định: Hiện tại tham thiền tức là thời gian dụng công tốt nhất. Tại sao cần phải đả thiền thất? Vì muốn tinh thần được tập trung, tâm không vọng tưởng, khiến trí huệ mình hiện tiền. Cho nên có câu: "Trí huệ giải thoát" tức thiền định là phương pháp khắc kỳ thủ chứng (nghĩa là định kỳ hạn để tu chứng).

6. Trí-huệ: Là thứ đưa mình tới bờ bên kia, liễu sinh thoát tử. Nếu như muốn khai trí huệ mà lười biếng thì sẽ mất đi cơ hội khai ngộ. Nên tham thiền cần phải chăm chú không để thời gian qua uổng vì không biết mình sẽ khai ngộ trong giây phút nào. Có người có vọng tưởng như vầy: "Tôi không muốn có trí huệ vì sự ngu si của tôi cũng tốt lắm mà! Tôi không hiểu mọi chuyện thì cũng chẳng sao." Ðó là thứ gọi là: "Yếm nhĩ đạo linh." Nghĩa là vừa đánh chuông vừa bịt tai (tưởng không ai nghe), mình chỉ tự lừa mình. Ðến lúc chết rồi mới hiểu rằng mình đến thế gian này một cách luống uổng. Lúc đó có hối hận cũng đã muộn rồi.

Phật-giáo ở Mỹ là lúc mới bắt đầu, nên phải có người tu hành chân thật, phải "cung hành thực tiễn" tức là thực sự tu hành. Cần chuyên nhất tu hành, tự mình cải bỏ lỗi lầm để tu hành, sửa đổi tập khí mà tu hành, phải làm gương cho kẻ khác thì tiền đồ Phật-giáo mới sáng lạng được. Nếu như mới bắt đầu mà không có người chơn chánh tu hành làm mô phạm, không có ai phát tâm bồ đề, thì Phật-giáo ở Tây-phương không thể hưng thịnh được. Do đó sự hưng thạnh của Phật-giáo phải do các vị thanh niên đảm nhận.

Hiện tại hai vị "Tam bộ nhất bái" là những vị tu hành rất thành tâm, có thể nói là tiên phong mở đường cho Phật-giáo vậy. Các vị đó trên đường lộ, đi ba bước lạy một lạy, không phải vì cầu phước báo cho mình, mà vì muốn cầu hòa bình toàn thế giới. Hơn hai năm qua, hai vị đó nhịn đói nhịn khát, nhẫn lạnh nhẫn nóng, chịu gió chịu mưa hết sức cực khổ. Tu hành như vậy không phải là chuyện người thường có thể làm đặng. Các vị đó nhẫn chịu những thứ mà người khác không nhẫn chịu được, nhường nhịn những cái mà người khác không thể nhường nhịn được, ăn những đồ ăn mà người khác không muốn ăn, mặc những quần áo mà người khác chê không thèm mặc. Bất kể là gió thổi hay mưa rơi vẫn cứ lạy Phật không ngừng, cũng không cần biết là trời nóng hay lạnh, đói hay khát, không ngừng nghỉ, cũng không giải đãi, không lười biếng, ngày ngày đều tụng kinh sáng chiều hai thời, mỗi giờ mỗi phút không bao giờ lười biếng an phận. Hai vị đó tinh tấn nổ lực tu hành là vì muốn Phật-giáo có thể phát triển khắp nơi trên toàn thế giới. Hai vị tu hành cực khổ như vậy, không phải vì danh cũng chẳng phải vì lợi, mà vì muốn lấy trách nhiệm của Phật-giáo làm trách nhiệm của chính mình. Tinh thần đó thật là đáng khen ngợi.

Quý-vị phải học cho bằng công hạnh của hai vị Tam-bộ Nhất-bái. Lấy họ làm gương soi để mình phản tỉnh. Xem đối với Phật-giáo mình đã cống hiến được những gì, chuyện mình làm là vì mình hay vì Phật-giáo? Nếu như vì mình, thì hãy sinh tâm hết sức hổ thẹn, lập tức sửa đổi hành vi không chánh đáng đó. Nếu vì Phật-giáo thì mình cần phải nổ lực hơn nữa, cần phải cổ võ khiến Phật-giáo phát triển, bảo vệ Phật-giáo, cần phát bồ đề tâm, hành Bồ-tát đạo, lúc nào cũng muốn kẻ khác được an lạc, không tính toán riêng tư cá nhân, đó mới là tinh thần của Bồ-tát đạo.

Quý-vị ở trong thiền đường, lúc đi lúc ngồi cho là khổ sở nhưng nếu so với hai vị Tam-bộ Nhất-bái thì sự khổ sở ấy thật là hết sức sung sướng vậy. Quý-vị cần thể nghiệm điều này một cách sâu xa, đừng để mất cơ hội. Hai vị hành giả đó nếu không phát tâm bồ đề, không hành Bồ-tát đạo thì đương nhiên là chẳng thể hoàn tất cuộc hành trình của họ được.

Ở thiền đường quý-vị đừng nên sinh tâm vọng tưởng; thân ở trong thiền đường mà tâm thì đến thế giới khác du ngoạn, đó tức là đầy dẫy vọng tưởng, có thể ảnh hưởng đến tâm tu đạo của mình; quý-vị phải nhớ lấy! Không được để cho thời gian trôi qua một cách lãng phí mà mình phải nắm lấy thời cơ, chụp lấy cơ hội khai ngộ. Nếu mình chuẩn bị như vậy thì không hổ thẹn với chính mình, còn ngược lại thì chỉ là nói suông mà thôi.
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Làm Vừa Ðủ là Trung-Ðạo

Gấp thì đứt, chậm thì lỏng.

Không chậm, không gấp mới thành công.



Pháp môn tham thiền, cần hồi quang phản chiếu ở mọi thời mọi lúc một cách tự nhiên. Mình không được quá gấp rút, cũng không được quá chậm chạp; nên có câu nói rằng:

Khẩn liễu băng, mạn liễu tông

Bất khẩn bất mạn tài thành công.


Nghĩa là:

Gấp thì đứt, chậm thì lỏng

Không chậm, không gấp mới thành công.


Không gấp không chậm là trung đạo; đi đứng nằm ngồi đều không rời "cái nầy," xa rời khỏi "cái nầy" tức là sai lầm. "Cái nầy" là cái gì? Ðó chính là Trung-đạo liễu nghĩa.

Tham thiền không được đi vào cực đoan, không được quá lố cũng không được thiếu hụt; quá lố hay thiếu hụt đều không phải là Trung-đạo. Không rơi vào "không," cũng không rơi vào "hữu," không rơi vào hai biên tế, mới gọi là Trung-đạo. Nên nói rằng: "Trung-đạo chính là phi không phi hữu" (chẳng không mà cũng chẳng có), cũng có nghĩa là chân không diệu hữu. Không chấp trước chân không, nhưng cũng đừng quái ngại diệu hữu. Chân không diệu hữu đều không thể nắm bắt, cũng không thể xả bỏ. Nắm cũng không được, bỏ cũng không xong, đó chính là cảnh giới của chân không diệu hữu.

Người dụng công cần phải có thủy có chung (có đầu có đuôi) thì mới thành tựu được. Rằng: "Quán triệt thủy chung." Không thể một ngày tu rồi mười ngày nghỉ Ố nhất bộc thập hàn Ố nghĩa là một ngày hơ ấm, mười ngày bỏ lạnh. Không được gặp chuyện khó khăn liền thối lui, đi được nửa đường rồi bỏ cuộc, người như vậy là kẻ không có chí khí. Cổ nhân nói:

Tu Ðạo bất phạ mạn, chỉ phạ trạm.

Nghĩa là:

Người tu đạo không sợ chậm, chỉ sợ đứng một chỗ.

Lúc thường dụng công tham thiền, mình nên chú ý vào thoại đầu, dùng Kim-cang bảo kiếm (tức là trí huệ) để chặt hết vọng tưởng. Vọng tưởng hết, thì trí huệ hiện tiền. Có trí huệ quang minh, mới phá tan vô minh hắc ám. Vô minh phá trừ rồi, mình thoát khỏi Tam-giới, hết sinh tử, lúc đó mới ra khỏi vòng tròn định mạng (thập nhị nhân duyên).

Người dụng công tu đạo cần có tâm nhẫn nại. Bất luận trường hợp khó khăn gian khổ nào, cũng cần nhẫn thọ. Nhẫn nại thì mới tới được bờ bên kia. Vì vậy trong khi đả thiền thất đừng nên sợ khổ. "Khổ tận cam lai" nghĩa là đắng hết, ngọt lại. Nếu mình chưa lặn xuống tận đáy, mình sẽ không bao giờ vươn lên tận chóp đỉnh. Căn nhà cao hằng ngàn trượng đều từ nơi mặt đất xây lên, không phải xây lên trong hư không. Bởi thế cần hạ thủ tham thiền nơi chốn căn bản, tức là trừ bỏ vọng tưởng. Nếu mình có thể ngừng vọng tưởng, thì lúc đó:

Tâm thanh, thủy hiện nguyệt,

Ý định, thiên vô vân.



Nghĩa là:

Lòng trong suốt, trăng hiện bóng nước.

Ý an định, trời xanh không mây.


Khi lòng thơi thản, trăm nạn tiêu hết. Ý yên định, mọi chuyện an bình. Rằng:

Tâm chỉ niệm tuyệt chân phú quý.

Tư dục đoạn tận chân phước điền.


Nghĩa là:

Tâm ngừng, niệm dứt là giàu sang thật.

Lòng tư dục cạn, ruộng phước mới chân.


Tham thiền tức là dứt hết vọng, chỉ còn sự chân thật (khử vọng tồn chân). Cũng giống như sàng cát đãi vàng vậy; ở trong cát mà tìm vàng đó là chuyện rất khó khăn. Tuy nhiên, nếu mình muốn tìm vàng thì phải tìm trong cát, tất phải có lòng nhẫn nại. Quý-vị có muốn hiểu rõ Phật tánh của mình không? Muốn được minh tâm kiến tánh chăng? Vậy thì phải nhẫn nại tu hành, nhẫn nại tham thiền, nghiên cứu, lâu dần thì tất nhiên sẽ quán thông, sẽ khai ngộ; "ồ! Thì ra là vậy."

Khi tham thiền thì mình đừng để ý đến chuyện khác, cứ một mực tham câu "Niệm Phật là Ai?" Phải tìm cho ra "Ai" đó, chỉ khi nào tìm ra rồi thì lúc đó mới ngừng tham. Công phu mình đã đến chỗ thuần thục rồi, thì tự nhiên sẽ gặt hái được kết quả tốt.

Khi ngồi trong thế kiết già, đem chân trái gác lên đùi phải, đem chân phải gác lên đùi trái. Ðó là vì chân trái thuộc về dương, chân phải thuộc về âm. Cho nên khi ngồi thiền, chân trái (dương) thì ở phía trên, chân phải (âm) thì ở phía dưới, đó cũng giống như là vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi (tức là âm và dương). Tuy ý nghĩa như vậy; nhưng để cho tiện, quý-vị muốn bỏ chân trái ở dưới, chân phải ở trên cũng được; bởi vì Pháp thì không nhất định, tùy theo thói quen của mỗi người, không cần phải chấp trước một phương pháp, một tư thế cố định nào cả. Ðể chân trái ở trên chân phải là một phương pháp mà thôi, không phải là một quy luật tuyệt đối; rằng quý-vị phải tuân theo như vậy.

Nói tóm lại, kiết già phu tọa là thế mình dễ nhập định nhất. Nếu mình có thể nhập định trong lúc đi thì ngồi hay không ngồi đều không thành vấn đề. Cảnh giới lúc nhập định thì không có một chút vọng tưởng nào, trong tâm một niệm chẳng nẩy sinh, bụi trần chẳng nhiễm. Nếu có thể đi đứng nằm ngồi không sinh một niệm nào, không nhiễm ô bụi trần thì đó là lúc dụng công đấy. Không nhất định ngồi mới gọi là dụng công tham thiền.
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Phật Pháp rất Bình Ðẳng

Trong Phật-giáo một phần công,

một phần tội đều chẳng bao giờ sai lạc.




Phật-pháp rất thâm áo. Khi ở trong Phật-pháp mình không cảm thấy chỗ nào tốt, khi ở ngoài Phật-pháp mình cũng chẳng thấy chỗ nào xấu. Song, trong Phật-giáo một phần công, một phần tội đều chẳng bao giờ sai lạc. Ðạo Phật hết sức tự do, bình đẳng, chẳng có chuyên chế, cũng chẳng đi vào chỗ cực đoan.

Tại sao nói là hết sức bình đẳng? Bởi vì tất cả chúng sinh, bất luận là ngạ quỷ địa ngục, hung thần ác thú, kẻ dữ người xấu, nếu phát tâm tu hành, quay đầu về bến, đều có thể thành Phật. Không giống như thuyết ngoại đạo rằng: "Kẻ ác người xấu thì vĩnh viễn là xấu ác, không có cách gì có thể độ được. Hoặc rằng mãnh hổ ác thú vì tánh tình vô cùng tàn bạo, sẽ không được cứu vớt."

Ðời nhà Minh bên Trung Hoa có vị Ðại-sư tên là Liên Trì. Ngài có một đệ tử là con cọp, thường hay ở bên cạnh để hộ vệ Ngài. Nhưng vì cọp là loài ác thú, nên mọi người thấy đều sợ hãi. Do đó, Ðại-sư mới dạy con cọp nầy, rằng mỗi lần đi ra đi vô thì không được đi thẳng; con cọp liền nghe lời Ngài, khi ra vô đều đi lui. Nên mọi người không còn sợ, vì biết là cọp thiện. Con cọp nầy cũng biết đi khắp nơi để hóa duyên cho Liên Trì Ðại-sư. Khi người ta thấy con cọp thiện này tới, ai nấy đều tranh nhau bố thí cúng dường. Thành ra cọp cũng có thể quy y Tam-bảo, hộ trì Phật-pháp, và có thể thành Phật vậy.

Phật-giáo hết sức là tự do, bởi vì giáo lý trong Kinh Phật chỉ khuyên dạy người ta làm thiện tránh ác. Làm ác thì tự mình thọ quả báo. Nhưng Phật-giáo cũng không bắt ép người ta làm chuyện tốt, cũng không dọa rằng: "Nếu không nghe lời, chuyên tạo ác nghiệp thì bị bỏ vào tù." Bởi vì mọi thứ đều do tâm tạo, thiên đường hay địa ngục đều do tư tưởng và nghiệp lực của mình tạo thành. Phật-pháp dạy người ta rằng: "Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành." Nghĩa là đừng làm chuyện ác, chỉ làm tất cả điều lành, đồng thời xiển minh đạo lý nhân quả, không sai lạc được dù đối với việc nhỏ như sợ tóc, để người ta nhận thức được chân lý siêu xuất luân hồi.
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Ðại Thiện Ðại Ác

Vượt Ra Ngoài Số Mạng

Vận mệnh có thể sửa đổi,

khả năng sửa đổi ở trong tay mình.


Xưa kia có một vị họ Viên hiệu Liễu Phàm, tên Học Hải, là một danh nho đời nhà Minh, lúc nhỏ chàng hay đọc sách nhưng phụ thân muốn chàng học nghề thuốc để tế thế cứu người, cho nên chàng liền cải đổi học y. Về sau, chàng gặp một vị tướng số râu dài nói với chàng rằng: "Ngài có số làm quan, ngài nên đọc sách để có thể làm quan lớn. Vào ngày đó tháng đó thì ngài sẽ đậu tú tài; năm đó tháng đó ngày đó ngài sẽ được làm huyện quan, bổng lộc rất nhiều, bao nhiêu đó... Rồi năm nọ tháng kia ngài sẽ được thăng quan tiến chức bỗng lộc bao nhiêu bao nhiêu... Cho đến năm năm mươi bốn tuổi, ngày 14 tháng 8 nửa đêm ngài sẽ mệnh chung, suốt đời không có con cái gì cả." Do vậy cho nên Viên Học Hải mới đổi môn học, thì quả đúng như lời toán số, mười phần linh nghiệm. Bởi vì mệnh vận đã định rồi cho nên chàng chẳng cần tinh tấn, chẳng cầu tiến bộ. Suốt ngày chỉ du sơn ngoạn thủy.

Một hôm nọ chàng tới núi Thê Hà, tại đó có một vị thiền sư tên là Vân Cốc. Khi chàng tới bái kiến vị thiền sư này; Thiền-sư Vân Cốc liền đưa cho chàng một bồ đoàn. Hai người ngồi đối diện như vậy suốt ba ngày, thiền sư cảm thấy rất là kỳ lạ, hỏi rằng: "Ngài từ đâu tới? Có thể ba ngày đêm ngồi bất động chẳng có vọng tưởng, hẳn rằng ngài là một vị kỳ nhân tu đạo."

Họ Viên đáp: "Bởi vì tất cả mọi sự đều do vận mệnh an bài, nên tôi chẳng tham chẳng cầu, chẳng có vọng tưởng gì cả."

Vị thiền sư nghe nói liền tiếp lời: "Tôi tưởng ngài là một bậc phi thường, nhưng hóa ra ngài chỉ là một kẻ phàm phu tục tử."

Họ Viên nghe thế, lấy làm không vui, mới hỏi rằng: "Sao thiền sư nói tôi chỉ là một kẻ phàm phu tục tử?"

Thiền sư trả lời: "Nếu không phải là phàm phu thì tại sao lại bị vận mệnh trói buộc?"

Họ Viên liền hỏi: "Vận mệnh trốn thoát được chăng?"

Thiền sư đáp rằng: "Ngài là kẻ thư sinh đọc sách, sao lại không biết trong Kinh Dịch có một câu nói rất rõ là: "Thú kiết tỵ hung," nghĩa là tới chỗ tốt, tránh chỗ xấu. Nếu mà số mạng không thể trốn được thì làm sao tới chốn an tường, tránh xa điềm dữ.

Họ Viên nghe thấy liền đại ngộ, lập tức đổi tên mình thành Liễu Phàm. Ý nói rằng từ ngày hôm nay về sau mình không còn là kẻ phàm phu nữa. Từ đó về sau, chàng luôn làm việc thiện, tích phước tích đức khiến những điều mà vị tướng số nói không còn linh nghiệm nữa. Viên Liễu Phàm sống đến hơn tám mươi tuổi, có ba người con. Bởi vậy vận mệnh không phải là nhất định, điều tốt xấu kiết hung cũng không phải nhất định. Cổ nhân nói rằng: "Quân tử tạo mệnh." Người có đạo đức, chính nhân quân tử thì có thể sửa đổi được vận mệnh, siêu xuất khỏi số mệnh mình.

Tại sao có điều chẳng lành xảy ra? Ðó là vì trong tâm mình chẳng lành, mình luôn trồng những thứ nhân ác thì đương nhiên sẽ gặt những thứ ác báo. Nếu như mình có thể sửa đổi lỗi lầm, làm lành tránh dữ, thì mình có thể thú kiết tỵ hung. Từ chuyện này mà suy ra rằng vận mệnh có thể thay đổi, mà chính năng lực thay đổi đó lại ở trong tay mình. Rằng: "Ðại thiện đại ác, vượt ra ngoài số mạng."
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Xin Bồ-tát Làm Tiêu Ðộc Cho Toàn Cầu

Dùng cam lồ và nước pháp tẩy trừ độc khí trên thế giới. Ðộc tiêu một phần, thế giới bình an thêm một phần.




Tại sao ta đả Ðịa Tạng Thất? Bởi vì hiện tại thế giới có quá nhiều tai nạn, nên chúng ta cần Ngài Ðịa Tạng Bồ-tát dùng sức bổn nguyện làm tiêu mọi tai nạn.

Ðịa Tạng Bồ-tát rất tôn trọng đạo hiếu, bởi vì Ngài đời đời kiếp kiếp luôn là người con hiếu thảo với cha mẹ. Ðây không phải là chuyện dễ dàng, bởi vì chính từ sự khốn khổ gian nan mà Ngài tu luyện thành đạo. Cha mẹ Ngài không tin Tam-bảo, nhưng Ngài phải thuận ý họ, dùng mọi thứ thiện xảo phương tiện để khuyến dụ các vị đó sinh lòng chính tín nơi Tam-bảo. Nơi nào Ngài tới, Ngài đều làm hạnh Bồ-tát, chẳng lộ hình tướng, không chấp trước. Không có hình tướng là bởi vì Ngài không kể công, không tự mình khen đức hạnh. Cũng giống như khi cứu độ chúng sinh, Ngài lại nói rằng là chúng sinh tự độ, không muốn chúng sinh cám ơn Ngài, đảnh lễ Ngài.

Khi Ngài ở địa vị Bồ-tát, Ngài không nghĩ rằng mình cao minh hơn các vị Bồ-tát khác; hoặc là mình có thệ nguyện vĩ đại, có lòng từ bi rộng lớn hay có thần thông quảng đại hơn hết. Ngài không có những tư tưởng đó. Mọi việc làm của Ngài, nhất cử nhất động, nhất ngôn nhất hạnh đều coi như vô sự: Việc mình đem hết sức hết lòng ra làm mà không thấy mình có làm, không sinh lòng kiêu hãnh, cũng không làm kẻ khác chú ý. Ngài chỉ nghĩ rằng đó là bổn phận của Ngài, Ngài không kể lể công trạng, vì thế Ngài cảm động được tất cả chúng sinh, khiến họ tán thán xưng dương ca ngợi Ngài, thậm chí cả Phật cũng khen ngợi Ngài nữa. Phật không tùy tiện khen ngợi kẻ khác, chỉ khi nào có kẻ xứng đáng thì Phật mới khen mà thôi. Bởi vì Ðịa Tạng Bồ-tát không kể công, Ngài cũng không tuyên truyền công đức của mình nên cảm ứng đạo giao. Cảm ứng đạo giao đó không phải do dùng thủ đoạn, hay mánh khóe mà được. Nó tới một cách tự nhiên. Người tu Ðạo chúng ta phải học tinh thần thề nguyện vô biên của đức Ðịa Tạng:

Ðịa ngục vị không, thệ bất thành Phật.

Chúng sinh độ tận, phương chứng bồ-đề.


Nghĩa là:

Ðịa ngục chưa trống, thề chưa thành Phật.

Chúng sinh độ hết, mới chứng bồ-đề.


Hàng năm chúng ta đả thất, bởi vì muốn thế giới tiêu trừ độc khí. Hiện tại không khí rất ô nhiễm, vũ trụ đầy các thứ khí độc, mà tất cả những phương pháp đều không thể trừ được nó, chỉ có cách là chúng ta phải chí tâm thành khẩn, cầu chư Phật Bồ-tát phóng quang, tiêu trừ những thứ độc khí đó, làm khí độc vô hình vô ảnh đó tiêu tan đi. Nên ở Vạn Phật Thánh Thành, mọi việc làm, đều có quan hệ đến sự an nguy của toàn thế giới. Ở trong đạo tràng này, quý-vị còn không thành tâm, thì thế giới ắt tăng thêm nguy hiểm hơn!

Nhân loại tạo ra quá nhiều ác nghiệp và sức người khó tiêu trừ chúng được. Hôm nay nhân ngày vía Ngài Ðịa Tạng Bồ-tát, chúng ta đồng tâm, hết sức chí thành niệm "Ðịa Tạng Vương Bồ-tát"; kỳ vọng rằng có thể cảm động được lòng từ bi của Bồ-tát, khiến Ngài giúp thế giới được tới chỗ bình an vô sự. Có được cảm ứng nầy hay không, đều do sự thành tâm của quý-vị cả. Sức của một người thì không đủ, phải cần sức lực của đại chúng. Cho nên nói: Ðại chúng chí thành, hợp tâm hợp lực, cùng nhau cầu đảo cho thế giới hòa bình.

Bây giờ trong tâm quý-vị đã hiểu rằng, thế giới đầy tai ách này chẳng có hòa bình. Bởi vậy hiện tại các đạo tràng trên thế giới đều cầu đảo sự hòa bình. Ðầu tiên cả là do Phật-giáo Giảng Ðường, Kim Sơn Thánh Tự đề xướng, sau đó những nơi khác ở Hương Cảng, Ðài Loan đều làm theo; đó cũng chứng minh rằng thế giới đang lâm vào tình trạng rất khó khăn nguy hiểm. Tuy nhiên, chơn chính cầu đảo cho hòa bình thế giới thì có đạo tràng ở Vạn Phật Thánh Thành. Tại sao vậy? Bởi vì ở đây tổ chức pháp-hội gì, đều không hy vọng có đại thí chủ tới cúng dường tiền bạc, mỗi năm tổ chức một cách âm thầm; cứ tới ngày giờ là tổ chức. Chẳng cần biết là có trai chủ hay không; cứ theo thường lệ mà tiến hành, coi đó là bổn phận của mình, không tự hào, không mảy may tính toán chuyện lợi hại gì. Mình chỉ hy vọng rằng Phật sẽ phóng quang gia bị sớm tiêu trừ tất cả những độc khí trên thế giới. Quán Âm Bồ-tát dùng nước cam lồ, quán đỉnh khiến chúng sinh tai tiêu bệnh trừ, tội diệt phước sinh. Ðịa Tạng Bồ-tát dùng nguyện lực quảng đại của Ngài làm chúng sinh ly khổ đắc lạc, tiêu tan hết tai nạn ách chướng. Niệm Quán Âm Bồ-tát, niệm Ðịa Tạng Bồ-tát tức là giúp cho thế giới được tiêu độc, nhưng không cần dùng thuốc sát trùng, chỉ cần dùng nước cam lồ pháp thủy để tiêu trừ độc khí trên thế giới. Tiêu đi một phần thì thế giới có thêm một phần bình an. Khi độc khí không còn nữa, lúc đó chúng sinh sẽ được hưởng phước, nhân loại sẽ được an lành!
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Phật Pháp Là Gì?

Tu đạo tức là "quay ngược lại."


Thế nào là Phật-pháp? Phật-pháp tức là thế gian pháp. Song nó là pháp mà người thế gian không muốn làm. Người đời ai cũng bận rộn lăng xăng, mà phát xuất điểm không ngoài lòng ích kỷ riêng tư, chỉ lo bảo vệ thân mạng và của cải chính mình. Phật-pháp thì đại công vô tư (chỉ có công ích không có tư lợi) đem lợi ích đến mọi người. Khi học Phật-pháp, trong mọi việc làm mình hãy nghĩ đến người khác. Hãy xem nhẹ cái "tôi" này, quên mình vì người và chớ làm kẻ khác bực dọc phiền não. Ðó chính là Phật-pháp. Song phần lớn người ta không nhận thức rõ ràng được điểm này. Vì thế trong Phật-giáo xảy ra đủ thứ tranh chấp, cãi vã, phiền não, thị phi. Chẳng khác gì, hoặc tệ hơn, chốn trần tục của người đời nữa. Những người này một đằng học Phật, một đằng tạo tội nghiệp. Vừa lập chút công, lại vừa tổn chút đức. Do đó, chẳng những họ không mang lợi ích cho đạo Phật, mà ngược lại làm tổn hại đạo Phật. Việc ấy đức Phật gọi rằng: "Con giòi trong thân sư tử, gặm nhấm thịt sư tử."

Là đệ tử Phật, nếu mình ích kỷ, tự lợi, không biết nhìn xuyên suốt (khán phá), không chịu buông bỏ (phóng hạ), thì sao tương ưng với Phật-pháp được? Người học Phật cần:

Chân nhận tự kỷ thác

Mạc luận tha nhân phi

Tha phi tất ngã phi

Ðồng thể danh đại bi.


Nghĩa là:

Tự nhận rõ mình lỗi.

Chớ nói người khác sai.

Họ sai tức mình sai.

Ðồng thể là đại bi.


Muốn hiểu chân lý đạo Phật thấu đáo, trước tiên mình cần tự tu nhẫn nhục, bố thí. Thế mới đưa tới thành tựu. Mình cần "xoay ngược lại," tức là phải tách biệt với người đời, không a dua theo trào lưu. Tu đạo mình cần "Ðổi ngược lại." Nghĩa là sao? Tức là: "Nhường cho người việc tốt, tự mình lãnh việc xấu." Buông bỏ bản ngã hẹp hòi để hoàn thành Ðại Ngã.

Phàm là đệ tử của tôi, các vị đều là máu thịt nơi thân tôi. Bất luận là máu thịt nào bị cắt xén, tôi cảm thấy đau đớn lắm. Bất kỳ nơi nào chảy máu, đều làm tổn thương nguyên khí của tôi. Do đó các vị hãy đoàn kết với nhau. Vì muốn làm Phật-giáo rạng rỡ vẻ vang, các vị cần chịu đựng những chuyện thiệt thòi mà không ai chịu nổi, phải nhẫn những thứ nhục nhã mà không ai nhẫn nổi. Phải để lòng dạ rộng rãi, làm gì cũng cần thật thà. Mình không thật thà thì Phật Bồ-tát biết hết đó. Làm sao mình lừa bịp chư Phật Bồ-tát được. Các vị hãy kiểm thảo lỗi lầm của mình, thành tâm sửa đổi điều sai trái, chân chính nhận thức những thái độ, hành vi điên đảo, không hợp đạo lý của mình. Cứ thành thật, quên phứt mình đi để phục vụ toàn thể Phật-giáo và xã hội.

Bất kỳ một tổ chức, một xã hội nào trên thế giới cũng đầy dẫy chuyện tranh chấp, đấu tranh vô cùng phức tạp. Chúng ta hãy cải thiện tình trạng này trong các chùa thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới như Vạn Phật Thánh Thành, Kim Sơn Thánh Tự, Kim Luân Thánh Tự... Tuy mình không thể sửa đổi hoàn hảo ngay lập tức, hãy từng bước sửa đổi tới lúc hết sức hoàn thiện, triệt để và rốt ráo. Bất kỳ lúc nào mình cũng cần giữ gìn hành vi và chí nguyện cao thượng để triển khai rạng rỡ Phật-giáo. Ðó là trách nhiệm cần có của mỗi Phật tử. Nếu Phật-giáo không hưng thạnh, đó là do mình chưa tận tình làm tròn trách nhiệm. Chớ nên đẩy trách nhiệm lên kẻ khác. Nếu làm được thế, chẳng bao lâu Phật-giáo nhất định rạng rỡ, lan rộng khắp mọi nơi trên thế giới.

Là đệ tử Phật, phải chăng mình cầu Phật gia bị hằng ngày? Cầu Phật giúp mình phát tài, thăng quan hoặc khai trí huệ? Phải chăng mình chỉ cầu Phật giúp mình, chẳng hề suy nghĩ tự hỏi mình có cống hiến, đóng góp gì cho Phật-giáo chăng? Mình có chân thật chăng? Ðây là điểm mà mình phải thường hồi quang phản chiếu.

Lúc quy y, các vị phát bốn nguyện rằng:

1) Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ: Hãy tự hỏi mình: "Ta độ được ai chưa?" Nếu đã độ rồi thì hãy độ thêm nữa. Nếu chưa độ ai hãy phát tâm độ chúng sanh.

2) Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn: Phiền não thì nhiều vô cùng tận. Chỉ cần ta biến đổi chúng hóa ra bồ đề. Mình đã biến đổi chúng chưa? Nếu chưa, thì hãy mau mau biến đổi chúng.

3) Pháp môn vô lượng thệ nguyện học: Hãy tự kiểm thảo: "Ta có học Phật-pháp chăng? Ta có ra sức vì đạo Phật chưa? Phải chăng ta học một cách cứng ngắc, không biết làm sao vận dụng nó, rồi một ngày tu luyện, mười ngày bỏ bê?"

4) Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành: Trong thiên hạ không có pháp môn gì siêu thoát và cứu cánh hơn đạo Phật cả. Song ta đã chân chính phát tâm thành Phật chưa? Không những ta phải thành Phật mà còn phải độ hết thảy chúng sanh thành Phật nữa.


Nhìn lại quá khứ, đức Phật Thích Ca đã tu phước tu huệ suốt ba A-tăng-kỳ kiếp, vun trồng tướng hảo cả trăm kiếp. Ngài đã từng xả thân mạng để đổi lấy nửa câu kệ pháp. Tinh thần ấy thật vĩ đại quá! Sự chân thành cầu Pháp của Ngài thật cao thượng! Mình phải bắt chước tinh thần ấy.

Ðã hơn 3, 4 năm nay, mỗi tháng tôi đều đến Kim Luân Thánh Tự ở Los Angeles. Tôi cảm thấy các vị chưa đắc được lợi ích chân chính của Phật-pháp; cũng chưa thật sự thể hội được tinh thần vĩ đại của Phật-pháp. Các vị đã đặt mình ra ngoài Phật-pháp, chưa thâm nhập gì cả.

Nếu muốn Phật-giáo hưng thạnh, mình phải sửa đổi từ chính bản thân mình trước. Hãy đem lòng chân thật, hy sinh nổ lực vì đạo Phật. Chớ nên biết có phạm vi nhỏ hẹp quanh mình. Phải lấy pháp giới làm bản thể; chỗ ứng dụng, chốn hành động của mình bao trùm hư không. Rằng: "Hãy sinh cái tâm không dựa, không trước vào đâu cả." (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm). Nếu ai cũng làm như vậy thì Phật-giáo sẽ rạng rỡ lắm.
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Vô Qui Củ Bất Thành Phương Viên

Không Nhẫn chịu được cũng phải gắng nhẫn chịu. Ðừng sợ đau, đừng đi loanh quanh luẩn quẩn. Nếu không thì sẽ không đạt được định.

Trong thời gian đả thiền thất, mọi người phải hiểu qui củ thiền đường. Khi chưa đánh mõ thì không ai được chạy hoặc đi cả. Nếu mình không giữ qui củ, không nghe theo hiệu lệnh tức là phạm qui củ. Trong thiền đường có quy luật của thiền đường. Sau khi khai tịnh, vị sư Duy-na phải nhìn xem mọi người đã mang giầy dép xong chưa, sau đó mới gõ một tiếng khánh. Chờ mọi người đứng lên rồi, thầy Duy-na mới đánh tiếp hai tiếng mõ. Hai tiếng mõ chưa đánh, dù mọi người đã đứng lên, không ai được phép đi cả. Ðó là qui củ rất đơn giản. Quý-vị phải hiểu nó. Nếu vừa khai tịnh mà đánh mõ ngay, người còn chưa đứng lên thì làm sao đi? Nếu phải chờ thêm ba phút nữa cũng không sao. Vì có nhiều người ngồi lâu bị tê chân, đứng lên còn không được thì làm sao đi? Ðó là tri thức rất là phổ thông trong thiền đường mà quý-vị cần phải hiểu.

Tôi biết có nhiều người ngồi lâu chân bị tê rồi khóc ròng. Khóc thì chẳng có ích lợi gì cả. Càng khóc thì càng đau. Cái chân nó đâu có nói rằng: "Nếu bạn khóc thì tôi sẽ hết đau!" đâu.

Nhiều người cho rằng ngồi thiền là điều rất tốt. Kỳ thật, ngồi thiền là nhẫn chịu sự khổ. "Càng tốt" tức là "càng khổ" vậy. Mọi người ở đây, hai giờ rưỡi sáng đã dậy rồi, ban ngày chỉ có một giờ để nghỉ ngơi rồi tiếp tục công phu cho đến mười hai giờ đêm. Mỗi ngày chỉ ngủ có hai, ba tiếng đồng hồ. Ðó là dụng công mà quên tánh mạng của mình. Cũng có thể nói là "Xả tử hoán sinh" (vất cái chết, đổi lấy sự sống). Rằng:

Xả bất liễu tử, hoán bất liễu sinh,

Xả bất liễu giả, thành bất liễu chân.


Nghĩa là:

Không bỏ được cái chết,

sao đổi được cái sinh.

Không bỏ được cái giả,

sao thành được cái thật.


Quý-vị nếu không chịu được khổ làm sao hưởng được phước. Nên muốn đến được chỗ chân chính công phu thì phải nhẫn khổ nại lao, phải nghiến răng chịu chân đau. Thật sự cái đau nầy có thể chẳng đau. Song vì mình muốn đau nên nó mới đau, nó bắt mình phải chịu khổ. "Nhẫn bất năng nhẫn" đó là nhẫn cái đau của chân này. Khi đau, nếu mình không nhẫn nại được, thì coi như mình không vượt qua được thử thách. Mình nhất định muốn đem toàn thân, tất cả cơ quan nầy phá hủy nó đi. "Cơ quan" tức là ám chỉ sự đau khổ của thân, hoặc chỉ chỗ đau nhức, hoặc chỉ chuyện phiền não. Nếu ngay lúc đau đớn mình có thể nhẫn chịu, không sinh phiền não, đó chính là công phu. Nếu như không nhẫn được, thì coi như không vượt qua thử thách. Có người đến đây, chỉ một ngày cũng không chịu nổi, cứ muốn trốn đi. Quý-vị hiện giờ đã vượt qua nhiều ngày, là chuyện không phải tầm thường đâu.

Phần đông các cô đều sợ đau chân. Song ở chỗ này chịu đau khổ được như vậy, nhất định là đã trồng được thiện căn thâm hậu, thì tương lai chủng tử bồ-đề nầy nhất định sẽ nẩy mầm, đạt được kết quả. Cho nên nói rằng "công bất đường quyện" nghĩa là công làm không uổng, mình dụng công bao nhiêu, sẽ đạt được bấy nhiêu, không sợ thời gian trôi qua lãng phí đâu.

Tu hành cần phải có "sinh nhẫn" nghĩa là nhẫn những thứ mà khó nhẫn. "Pháp nhẫn" là nhẫn sự sinh diệt tướng của các Pháp. Nhẫn chịu không được cũng phải gắng nhẫn chịu, đừng sợ đau, đừng đi loanh quanh luẩn quẩn, nếu không thì sẽ không đạt được định. Cần nhất là phải nhìn thấy các Pháp đều là không, nhìn thấu suốt và buông bỏ được. Từ nơi sinh nhẫn và pháp nhẫn, mình sẽ ngộ được đến vô sinh pháp nhẫn. Ðó gọi là "Bất kiến hữu thiểu Pháp sinh, Bất kiến hữu thiểu Pháp diệt." Nghĩa là: Chẳng thấy có chút Pháp gì sinh. Chẳng thấy có chút Pháp gì diệt.
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Khi Ðắm Trước Hương Vị Thiền

Thì Mọi Chuyện Ðều Sai Lầm

Mình chỉ chờ đợi thiền vị đến,

một khi chờ đợi thì quên dụng công.




Tọa thiền đừng tham đắc vị thiền. Thế nào là vị thiền? Ðó tức là cảm giác sung sướng của thiền. Ngồi một thời gian khá lâu, tự nhiên mình sẽ có cảm giác rất là tự tại, thoải mái và sung sướng vô cùng. Nếu mình tham trước cảnh giới tự tại sung sướng đó, thì không dễ dàng mà tiến bộ. Mình sẽ ngưng trệ, cứ khởi ý tìm lại thiền vị đó. Nếu như cảnh giới đó qua rồi, lại đi tìm cầu rằng: "Khi nào thì tôi sẽ có được cảnh giới như vậy nữa? Cảnh giới vô nhân, vô ngã, vô chúng sinh, vô thọ giả, vô phiền, vô não, hết sức tự tại an lạc đó, đến lúc nào thì tôi được nữa?...." Khi chờ đợi thiền vị nầy đến, thì mình sẽ quên dụng công, đây gọi là chấp trước vào vị thiền.

Người tọa thiền cần vô quái vô ngại, vô tham vô cầu, vô hỷ vô ưu, vô khủng vô bố. Nên đem thân mình ví như là hư không trong Pháp-giới vậy, không cần phải chấp trước tham cầu. Nếu có tham cầu thì sẽ rớt vào đệ nhị nghĩa.

Sau đây là bốn cảnh giới:

1. Sơ Thiền Thiên, Ly Sinh Hỷ Lạc Ðịa: Nghĩa là mình sẽ ly khai được phiền não của chúng sinh, đắc được món ăn thiền, sung mãn Pháp hỷ an lạc, ra khỏi sự mê đảo của chúng sinh và hướng tới con đường bồ-đề của thánh nhân. Ðạt tới cảnh giới thiền này thì không được mạo xưng, không được tự mình nói ra, mà phải được một vị thiện-tri-thức ấn chứng cho.

Cảnh giới này có cách để chứng minh: Tức là khi hơi thở của mình ngừng lại không còn hô hấp nữa, nhưng không phải là chết, đây tức là nhập định hay nhập sơ thiền. Sơ thiền này khác hẳn với sự ngủ nghỉ, quý-vị đừng cho rằng ngủ tức là nhập định. Ngủ không những là còn hô hấp, mà nhiều người còn ngáy pho pho khiến kẻ khác nghe như sấm vậy. Bởi vậy sự hô hấp của quý-vị đã ngừng hay chưa, những vị thiện-tri-thức nhìn sẽ biết ngay. Có kẻ nói rằng: "Tôi cảm thấy là tôi không còn hô hấp nữa." Ðó tức là giả, tức là mạo xưng. Nếu mà biết thì mình vẫn chưa nhập được sơ thiền. Nên không thể đem nhãn hiệu giả ra rao bán được.

Nếu muốn phân tích tường tận e phải viết cả khối sách. Nếu nói nhiều quá, sẽ sinh ra chướng ngại cho quý-vị. Nên nói một chút thôi, để tránh quý-vị đừng sinh ra tâm cống cao tà kiến, rằng mình đã nhập vào sơ thiền; cho mình như vậy, tức là lừa dối kẻ khác.

2. Nhị Thiền Thiên, Ðịnh Sinh Hỷ Lạc Ðịa: Cảnh giới này thì cao hơn một bước, không những hô hấp đã đoạn rồi, mà mạch tim cũng ngừng lại. Cảnh giới này không phải mình có thể biết hoặc là có thể nói ra. Nếu nói mình đã đạt cảnh giới đó, thì thử hỏi làm sao cảm thấy nó? ắt hẳn mình chưa hề nhập định, rồi lại mạo xưng để lừa người khác chăng?

3. Tam Thiền Thiên, Ly Hỷ Diệu Lạc Ðịa: Tới được cảnh giới này thì hô hấp và mạch tim đều ngừng lại, đến ý niệm cũng không còn. Tới cảnh giới này thì mình ra khỏi sự hoan hỷ, xả đi vị thiền, không còn đắm trước gì nữa. Cảnh giới nầy so với sơ thiền và nhị thiền thì cao hơn nhiều, lúc bấy giờ thì mọi sợi tóc mình cũng sinh ra hoan hỷ khác thường, lông mày con mắt đều tươi cười hết sức vui sướng vô ngần.

3. Tứ Thiền Thiên, Xả Niệm Thanh Tịnh Ðịa: Ðến lúc nầy tất cả mọi thứ đều là không, "nhất niệm bất sinh toàn thể hiện" Nghĩa là khi một niệm chẳng dấy lên, chân tâm bản thể hiện bày. Tới được chỗ:

Thiên đàm hữu thủy thiên đàm nguyệt.

Vạn lý vô vân vạn lý thiên.


Nghĩa là:

Ao hồ ngàn nước, ngàn trăng hiện.

Vạn dặm không mây, vạn dặm xanh.


Ở cảnh giới nầy thì mọi nơi đều thuyết Pháp cho mình nghe. Bởi vì "Lạc hoa lưu thủy diễn Ma-ha," nghĩa là hoa rơi, nước chảy đều như nói Pháp Ðại-thừa. Cảnh giới nầy mình không biết được nó đâu, và cũng không được nói rằng: "Tôi đến được Tứ Thiền Thiên rồi." Nếu vậy là mình sinh ra đại ngã mạn, nói ra lời hết sức láo lếu. Ðiều nầy cũng cần phải có vị thiện-tri-thức ấn chứng cho mình thì mới đúng được.

Tại sao gọi thiện-tri-thức là người có con mắt sáng? Bởi vì vị đó có thể nhìn và biết ngay công phu của mình đã đến trình độ nào rồi. Nếu mình muốn khảo nghiệm Ngài, thì cứ thử xem! Ngài chẳng quan tâm gì đến điều đó cả. Nếu là chân chính thiện-tri-thức thì không có cách gì bị chúng ta khảo nghiệm đặng. Ngài không vì lẽ bị hỏi mà liền nói toạc ra đâu. Chỉ cần mình thân cận với Ngài sau một thời gian lâu, thì Ngài sẽ nói cho mình biết. Nhưng chưa chắc là Ngài nói rõ hết đâu. Có lúc Ngài dùng ví dụ hoặc chỉ thuyết vài câu đơn giản mà thôi. Cho nên mình không thể đi đâu cũng đánh chuông nổi trống mà nói rằng: "Tôi đã thành Phật rồi!" Nói như vậy là hết sức láo lếu, làm trò hề, tương lai sẽ đọa địa ngục, bị cắt lưỡi. Ðó là điều hết sức đáng thương xót vậy.
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Ðạo Tràng Tốt Khó Tìm

Muốn tu hành mà không gặp đạo tràng tốt thì cũng không thể tu được.




Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta tạo tội lỗi, thói xấu quá nhiều. Không biết hối cải cũng không biết tu hành, nên thói xấu mỗi ngày một gia tăng, trí huệ mỗi ngày một giảm dần; nghiệp chướng càng ngày càng thêm nặng. Bởi vì những lý do đó nên con người muốn tu cũng không phải dễ; muốn học để thành người tốt cũng rất khó, muốn xuất gia lại càng khó hơn, vì bị mọi thứ nghịch cảnh, nghiệp chướng ràng buộc. Khi ở nơi nhân địa, mình ngu si không biết nên tạo ra tội nghiệp dẫy đầy, chẳng sợ nhân quả báo ứng. Vì thế bây giờ muốn tu Ðạo thì đủ thứ nghiệp chướng từ khắp mọi nơi kéo về, đủ thứ chướng duyên phát sinh. Có người vì hoàn cảnh gia đình không cho phép, có người vì đất nước, lại có người vì thái độ, hành động, hay công ăn việc làm khiến sinh ra đủ thứ trở ngại, không cho phép họ tu hành.

Cho nên muốn chân chính tu Ðạo thì khó như muốn lên trời vậy. Song, tuy khó khăn khốn khổ như vậy thì lại không tu sao? Không phải đâu! Càng khổ thì càng phải tu, mình phải làm điều khó làm. Nếu không ở chỗ khốn khổ gian nan mà bắt đầu, thì mãi mãi mình không thể phá trừ được hết nghiệp chướng. Vì thế mình phải tu nhẫn nại; phải nhẫn nại những thứ mà không ai nhẫn được, nhường nhịn những thứ mà không ai muốn nhường, làm chuyện mà chẳng ai chịu làm, ăn những thứ không ai thèm ăn, chịu những thứ không ai chịu nỗi. Cứ như vậy ngày tháng tích lũy, thì công đức sẽ tăng gia, tội nghiệt giảm ít, trí huệ tăng trưởng, và nghiệp chướng tiêu dần.

Bởi vì xưa nay nghiệp chướng từng chút, từng chút kết lũy mà thành. Bây giờ thì cũng từng chút, từng chút giảm nhẹ đi. Cũng như lúc trời lạnh vậy, càng ngày càng lạnh, cho tới mùa đông thì lạnh đến cực điểm, sau đó lại bắt đầu nắng ấm. Tuy nhiên, không thể lập tức ấm liền được, phải từ từ mỗi ngày một ấm lần, ấm lần tới lúc vào hè. Mùa nóng thì ví như lúc mình không còn chướng ngại; mùa lạnh ví như là lúc nghiệp chướng còn sâu dày.

Bây giờ chúng ta tu hành, tham thiền cũng tốt, niệm Phật cũng tốt. Bất luận là tu pháp gì, mình cần kiếm việc để làm, đừng cho tâm trống không, vì nó sẽ suy nghĩ vẫn vơ và vọng tưởng. Mình cần phải lấy thời gian suy nghĩ vẫn vơ đó mà niệm Phật, trì Chú, tụng Kinh; không để thời gian trôi qua lãng phí. Nếu không tu, tâm mình sẽ mặc tình suy nghĩ vẫn vơ, thật là lãng phí tinh thần; kết cuộc, chẳng chuyện gì thành tựu cả. "Nhân thân nan đắc. Phật-pháp nan văn. Phật quốc nan sinh. Thiện-tri-thức nan ngộ. Hảo đạo tràng nan phùng." Tức là thân người khó được. Phật-pháp khó được nghe. Nước Phật khó sinh. Thiện-tri-thức khó gặp. Ðạo tràng tốt khó tìm.

Muốn tu hành mà không gặp được đạo tràng tốt thì cũng không thể tu hành. Nên mình cần có đạo tràng tốt. Ở Vạn Phật Thánh Thành, muốn đả thiền thất thì có chỗ đả thiền thất, muốn niệm Phật thì có chỗ niệm Phật, muốn sám hối thì có chỗ sám hối. Quý-vị muốn thế nào cũng đều có cả. Chỉ cần quý-vị tu hành, không lãng phí thời gian, chân thật dụng công là được rồi.

Bất luận vị nào phát tâm nguyện dụng công, thì tôi sẽ tình nguyện làm hộ-pháp cho vị đó, giúp quý-vị dụng công tu hành. Bởi vì khi xưa tôi muốn dụng công mà không tìm được đạo tràng tốt để dụng công. Tôi đến nơi nào cũng gặp đầy dẫy những chuyện nhỏ nhặt, chi tiết phiền hà. Ví như ở thiền đường, quý-vị phải học cách đánh chuông, đánh bảng, rồi đến lúc nào thì phải đi tuần tra, phải học pha trà, uống trà rồi đi thâu những chum trà, và đủ thứ chuyện lặt vặt khác. Nếu quý-vị muốn dụng công thì chuyện uống trà, thâu chum trà hoặc là lúc đi tuần, lúc đánh bảng, đánh mõ, chỉ là sự dụng công một cách hời hợt mà thôi. Học những việc lặt vặt đó cũng mất hết ba tuần lễ mới xong. Thông thường đả thiền thất chỉ một hay hai tuần, nếu phải học những việc linh tinh đó, cũng đủ hết thời giờ rồi.

Hiện tại ở Vạn Phật Thánh Thành, quý-vị tham thiền, niệm Phật hoặc phiên dịch hay nghiên cứu kinh điển, tu cách gì cũng tốt cả. Nói tóm lại, nếu quý-vị chuyên tâm nghiên cứu thì mọi phương tiện đều có sẵn, không cần phải làm những chuyện phiền phức khác. Ở đây, mọi chuyện rất là đơn giản. Vị nào làm Duy-na thì chỉ cần biết làm sao chỉ tịnh, khai tịnh là được rồi. Ở đây mà quý-vị còn không biết dụng công thì chẳng biết ở chỗ nào quý-vị mới dụng công được. Ðây là nơi hết sức thuận tiện, đầy đủ phương tiện để dụng công. Nếu quý-vị một mặt dụng công, một mặt nghĩ vẫn vơ, nào là: "Cơm trưa hôm nay không ngon. Trời lạnh lẽo quá, sao mà ngủ được." Nếu như cứ vọng tưởng vô ích như vậy, thì chỉ phí thời gian mà thôi. Quý-vị cần chuyên tâm, chú ý, đem toàn tánh mạng ra mà dụng công mới được.

Xả bất liễu tử, hoán bất liễu sinh.

Xả bất liễu giả, thành bất liễu chân.


Nghĩa là:

Không được sự chết, sao đổi được sự sống.

Không bỏ được cái giả, sao thành đặng cái chân.


Không phải chỉ ở trong Niệm Phật Ðường, hoặc trong Thiền Ðường mới dụng công mà ở mọi lúc, mọi nơi, đều phải dụng công. Dụng công có nghĩa rằng con mắt không bị đối tượng quan sát làm cho chuyển; lổ tai không bị âm thanh làm giao động, lưỡi không bị mùi vị làm cho thèm muốn; mũi không bị hương thơm làm cho hứng thú; thân không bị xúc chạm làm cho rung động; ý không bị tư tưởng pháp trần làm cho xoay chuyển. Không bị tất cả mọi thứ cảnh giới làm chuyển xoay mà ngược lại, mình có thể xoay chuyển được cảnh giới. Ðó chính là dụng công.

"Hành trụ tọa ngọa bất ly liễu cá, ly liễu giá cá tựu thị thác quá." Nghĩa là: Ði đứng nằm ngồi đừng lìa "nó," lìa "nó" tức là sai lầm. Do đó, mỗi giờ mỗi phút mình phải luôn luôn chuyên tâm chú ý, chế ngự ý niệm của mình; giơ cao Kim-cang Trí-huệ-vương Bảo-kiếm chặt sạch mọi phiền não ma quân.

Hỏi: Mình phục vụ đại chúng nhưng lại bị họ mắng chửi thì phải làm sao?

Ðáp: Nếu phục vụ đại chúng, mà bị phỉ báng thì mình càng cố gắng hơn nữa. Nếu chỉ vì bị người ta chửi mắng mà bỏ làm, thì mình không có thành tâm.

Hỏi: Vì sao hiện tại Phật-giáo đồ không chịu hiểu chính pháp, chỉ mong cầu thần thông? Vì sao hiện giờ đa số tín đồ tham tiền?

Ðáp: Vấn đề nầy rất là quan trọng bởi vì hiện tại con người đều bị trúng độc của đồng tiền. Ở trên mặt đồng tiền có chất độc vô cùng. Có thể nói là ma quỷ bôi thứ độc ấy lên đồng tiền khiến con người khi tiếp xúc với nó đều quên mọi sự. Cho đến cha mẹ cũng quên, chỉ biết tiền mà thôi. Coi tiền thân thiết hơn tất cả mọi thứ. Vì đồng tiền mà tạo ra đủ thứ tội nghiệp. Ngay cả người trong Phật-giáo cũng tìm đủ phương pháp, bất chấp thủ đoạn, hoặc nói chuyện phong thủy, hoặc nói có mật pháp; họ có lòng tham còn nhiều hơn người không học Phật-pháp nữa; lòng tham của họ còn cao hơn cả trời xanh. Ðó là mạt pháp. Mạt pháp tức là không có người hiểu rõ đạo lý nữa. Nếu muốn đừng sa vào lỗi lầm nầy, thì chỉ có cách là giữ Sáu Ðại Tông-chỉ của Vạn Phật Thánh Thành. Ðó là: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối. Sáu điều nầy có thể cải biến được phong khí của mạt pháp. Quý-vị đừng coi Sáu Tông-chỉ của Vạn Phật Thánh Thành này là đơn giản, bình thường. Quý-vị không đủ tư cách để học, cũng chẳng đủ tư cách để nghe. Tôi nói Sáu Ðại Tông-chỉ nầy là để cho hai vị hành giả Tam-bộ Nhất-bái, (thầy Hằng Thật và thầy Hằng Triều) nghe. Bởi vì tôi thấy hai vị đó hết sức kham khổ tu hành, nếu không nói cho họ pháp chân chính thì thật là đáng tiếc. Cho nên Sáu Ðại Tông Chỉ nầy là để phá những sự hiểu biết sai lầm, nó là cây gậy hàng phục ma quân (hàng ma trượng).

Nói đến thần thông thì phải biết rằng không phải do cầu mà được; nó do tu mà thành. Tuy rằng cũng do tu mà thành nhưng cũng đừng coi nó là quan trọng. Thần thông, trong Phật-giáo, không có gì là đáng kể vì cũng giống như dùng một con dế nhỏ đi dọa con nít mà thôi. Thực sự nó không có gì quan trọng. Người học Phật, nếu có ý niệm cầu thần thông thì tự nhiên sẽ tu sai lạc, không còn chân chính là tín đồ Phật-giáo nữa.

Hỏi: Tại sao người ta không lạy Ngài Tam Tạng Huyền Trang mà lại lạy Tôn Ngộ Không? Tôn Ngộ Không có thật hay không?

Ðáp: Bởi vì Tôn Ngộ Không có Kim-cô-bổng lại biết Cân-đẩu-vân, có thể lên trời xuống đất, không chỗ nào mà không tới được, nên người nào cũng thích Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng đều là những nhân vật có thật. Nhưng họ là những thứ tinh linh không có hình tướng, tới để giúp đỡ vị Tam Tạng đi qua Tây Thiên (Ấn Ðộ) thỉnh kinh. Những vị đó không phải là những người mà ta có thể dùng phàm phu nhục nhãn mà thấy được. Bởi vì họ không có phàm phu thực thể, mà họ chỉ là những linh tánh. Ngài Huyền Trang là người tu hành chân thật, nhưng Ngài không biết pháp Cân-đẩu-vân cũng không đại náo thiên cung. Ngài chỉ biết chân thật tu hành, y chiếu theo ba chữ: Kiên, Thành, Hằng (kiên trì, thành khẩn, thường hằng không đổi), nhất tâm đi thỉnh kinh, làm lợi ích cho chúng sinh, nên cảm động được Tôn Ngộ Không, Sa Tăng, Bát Giới tới hộ trì Ngài.
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Si Ái Triền Miên

Sự tai hại nhất trên đời là ái tình sâu đậm.

Việc cao thượng nhất là tu đạo thanh tịnh.




Quý-vị xem gốc cây nầy gồm có hai nhánh, song đôi hợp thành một, nhánh trên nhánh dưới kết hợp với nhau, quý-vị biết đó là gì không? Ðây là do vô lượng kiếp về trước có một đôi nam nữ thương yêu nhau rất sâu đậm. Hai người đó phát nguyện rằng: "Tại thiên, nguyện tác tỷ dực điểu. Tại địa, nguyện vị liên lý chi." Nghĩa là nếu sinh lên trời thì làm đôi uyên ương hai cánh liền nhau, nếu sinh dưới đất thì nguyện làm gốc cây liền cành. Ðôi nam nữ nầy rất chung tình, nên kết làm vợ chồng. Cả hai người có một sở thích giống nhau, đó là: ham tiền. Người đàn ông thì thí mạng để kiếm tiền, người đàn bà thì thích phung phí tiền, cho nên có qua có lại hết sức hợp tình hợp ý.

Tuy nhiên, bởi vì yêu nhau quá đậm đà nên tạo ra tội nghiệp cũng hết sức sâu dầy. Ðời đời kiếp kiếp sinh ra trầm luân, đọa lạc vào đường súc sanh, trở thành ngạ quỷ, cuối cùng đọa địa ngục. Ðến nay đôi vợ chồng nầy biến thành thảo mộc. Gốc cây nầy đáng lẽ gồm có hai nhánh, nhưng nó lại sinh trưởng cùng một chỗ, nên mãi mãi ràng buộc với nhau không xa lìa. Quý-vị thấy không, nhánh bên trái bao quanh lấy nhánh bên phải, nhánh bên phải cũng nhào sang ôm lấy nhánh bên trái, giống như đàn ông đàn bà hai người ôm nhau vậy. Ðó mới thấy rằng đôi nam nữ nầy tập khí ái tình si mê, hạ liệt bao kiếp rất sâu đậm. Ngày nay chúng thành loại thảo mộc mà cũng không bỏ được lòng si ái đó. Ở giữa hai gốc nầy có một cục đá, mà hai người nầy quý như châu báu. Cục đá đó là gì? Nguyên lai nó là trương mục ngân hàng của hai vị đó trong tiền kiếp.

Mấy năm trước có lần chúng tôi vào thành thuyết Pháp. Khi đi ngang qua bờ sông thấy gốc cây nầy, liền nhặt đem về. Quý-vị nhìn xem: đầu gốc cây nầy bị chặt đứt, rễ cũng bị chặt mất luôn, lộ ra hai nhánh rất khô cằn, song hai nhánh cây nầy vẫn triền miên ôm chặt lấy nhau. Quý-vị không thấy đó đáng thương xót sao?

Như vậy đủ thấy rằng tình yêu càng sâu đậm thì càng nguy hiểm. Ðây không phải là chuyện nói chơi nói giỡn đâu. Có người trong bụng nghĩ rằng: "Thầy ơi! Thầy nói Pháp này tôi không thể tin được, bởi vì nó không có chứng minh, không hợp lý. Ðại khái Thầy muốn dọa con nít, nói lời chiêm bao thôi." Tin hay không là do quý-vị, tôi không có cách nào làm quý-vị tin được bởi vì đây là Pháp rất khó nói, khó thuyết. Người đã mê luyến ái thì dù mình có nói cách nào đi nữa họ vẫn không thức tỉnh, không chấp nhận được. Sự tai hại nhất trên đời là ái tình sâu đậm. Việc cao thượng nhất là tu đạo thanh tịnh. Không phải người ta không biết lý ấy; biết nhưng cố phạm là vì chẳng cách gì dứt bỏ thói quen đã làm trong nhiều kiếp trước.

Tục ngữ Trung Hoa có câu rằng: "Khi tay đã cầm cây củi khô rồi, thì y khó chịu bỏ ra để đổi lấy cành hoa." Ðó là muốn ví dụ những người luôn luôn chấp trước vào tình yêu. Nếu mình nói với họ rằng, hãy bỏ đi những thứ luyến ái đó để tu Ðạo là điều quý hơn, chắc chắn họ sẽ cố chấp không muốn quay đầu lại. Rằng:

Thiên vũ tuy khoan, nan nhuận vô căn chi thảo.

Phật môn tuy quảng, nan độ bất tín chi nhân.


Nghĩa là:

Trời mưa rưới nước khắp nơi,

song khó tươi nhuận cây cỏ không gốc.

Cửa Phật tuy rộng thênh thang,

mà vẫn khó độ kẻ chẳng lòng tin.


Tôi đã bảo tồn gốc cây nầy lâu năm rồi. Có nhiều người tôi không muốn cho họ thấy bởi vì có nói pháp nầy cho họ, họ cũng chẳng tin. Tôi phải chờ cho thời điểm chín mùi rồi tôi mới nói. Ngày 24 tháng 10, quý-vị từ khắp nơi xa xôi đến đây để triều bái, tôi đem gốc cây nầy ra Vạn Phật Ðiện. Tuy nhiên cho đến ba tuần sau tôi mới nói là vì nếu không nói thì e chẳng còn thời gian nữa; nên bất kể là quý-vị có tin hay không, tôi cứ kể nhân duyên của gốc cây nầy cho quý-vị nghe.
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Nỗi Bất Hạnh của Cửa Phật

Tới lúc chết rồi mà vẫn cho là bí mật, bí mật, bí mật... Mật đến chỗ rơi vào địa ngục vẫn còn mật.




Tôi vừa nói cho quý-vị nghe công án của gốc cây đó, quý-vị không tin cũng chẳng sao. Bây giờ chúng ta thảo luận đến vấn đề sau đây, tuyệt đối không thể không tin được.

Tại sao con người phải học Phật-pháp? Ðộng cơ tối thượng không ngoài ý muốn "ly khổ đắc lạc, liễu sinh thoát tử." Song chẳng may nhiều người có chí thoát đường mê nhưng lại đi vào đường mê.

Theo Phật-giáo vì muốn thoát luân hồi nhưng bởi chẳng cẩn thận nên rất dễ rớt vào mê hồn trận. Nếu không biết khéo dùng trạch-pháp-nhãn, sáng suốt mà lựa Pháp, thì dễ bị những thứ tà tri tà kiến làm mê hoặc, rồi đi làm những việc không nên làm.

Thí dụ như muốn ly khổ đắc lạc, song lỡ xẩy chân rơi vào cửa địa ngục. Lại còn những chuyện tệ hại hơn nữa, tức là trong Phật-giáo Mật-tông có kẻ dạy phương pháp gọi là Song Tu Pháp. Họ nói chỉ cần niệm thần chú gì gì đó, trai, gái cùng nhau tu pháp "Hoan Hỷ Thiền." Còn nói đó là pháp cao nhất, không những thỏa mãn được lòng dâm dục, mà còn có thể tức khắc thành Phật. Song, thành Phật đâu phải dễ dàng như vậy! Nếu không cắt đứt lòng dâm dục, mà thành Phật, thì rất là vô lý. Trong thiên hạ không có đạo lý nào như vậy cả.

Ðời nay, đa số con người đều tham tu cho mau cho chóng, thích đi đường tắt. Hễ nghe nói có phương pháp huyền diệu thì liền bị mê hoặc, rồi rớt vào lưới ma, tới lúc chết rồi mà vẫn cho là bí mật, bí mật, bí mật... mật đến chỗ rơi vào địa ngục vẫn còn mật
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Kiếp Sau Muốn Làm "Liên-Thể-Anh"

Ðồng tính luyến ái là trái ngược lại với đạo lý trời đất; hoàn toàn sai với luân thường.




Ý kiến tôi vừa phát biểu không phải thái quá hay nguyền rủa ai đâu. Trong Phật-giáo thật sự có những hành vi bại hoại tổn đức như vậy. Do đó Phật-giáo mới không hưng thịnh được.

Chuyện nầy mình sẽ không bàn tới nữa, song còn vấn đề nghiêm trọng hơn, nó liên quan đến toàn nhân loại, không thể không đề cập tới. Ðó là chuyện đồng tính luyến ái càng ngày càng nhiều. Cũng như ở Nữu Ước (New York) và Cựu Kim Sơn (San Francisco) có tới hơn mười vạn kẻ đồng tính luyến ái. Thậm chí có nhiều nhà chức trách công khai nhận rằng mình là đồng tính luyến ái và tán thành chuyện này; lại còn hô hào xã hội chấp nhận sự kết hôn giữa những kẻ đồng tính luyến ái ấy. Chúng ta phải biết rằng đồng tính luyến ái là trái ngược lại lý tự nhiên, ngược lại với luân thường đạo lý. Trào lưu nầy là do yêu ma quỷ quái khơi động; như châm dầu vào lửa, khiến con người sớm đọa địa ngục.

Vừa rồi tôi nói tới sự yêu đương ngu si của nam nữ, họ thề rằng: "Tại thiên, nguyện tác tỷ dực điểu. Tại địa, nguyện vi liên lý chi." Nghĩa là trên trời thì nguyện làm đôi uyên ương. Dưới đất thì nguyện làm cây liền cành. Trai gái kết hôn là chuyện thông thường, nên cổ nhân có câu: "Nam nữ chi sự nhân chi đại luân" nghĩa rằng chuyện nam nữ là chuyện luân thường của loài người. Nếu mình muốn đi thuận với con đường sinh tử thì mình kết hôn, sinh con, điều đó chẳng đi ngược lại với trời đất. Song nếu mình đồng tính luyến ái là trái ngược lại với đạo lý trời đất; hoàn toàn sai với luân thường. Quả báo là mình sẽ sinh ra làm liên-thể-anh, hai đứa trẻ sinh ra tay chân dính liền nhau. Hiện tại trên thế giới xuất hiện rất nhiều đứa trẻ như vậy. Trong tương lai không xa sẽ còn xuất hiện nhiều thú vật thân thể dính liền như thế. Bởi vì những người nầy đã làm chuyện yêu quái, những chuyện thấp hèn, hạ tiện, cho nên sẽ đọa làm súc vật.

Do đó nếu quý-vị chưa học Phật, nên ở ngoài đời không giữ qui củ, làm bừa bãi, thì không có gì lạ. Còn nếu quý-vị học Phật rồi, thì cần phải hiểu sâu xa đạo lý nhân quả, đừng phạm tội lỗi. Phải hết sức cẩn thận, thật cẩn thận.
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Tham Thiền:

Tham Thiền Trước Nhất Cần Xây Nền Tảng

Nền không vững, nhà sẽ lung lay,

Gió thổi thì ngã, mưa to liền sập.




Người học Phật có kẻ thích tham thiền, có người thích học Kinh, thuyết Pháp, nghiên cứu Luật Tông, Mật-tông hay Tịnh-độ Tông. Bất luận là thích tông phái nào, quý-vị cần kiên tâm trì chí, dụng công tu hành thì mới thành tựu.

Nếu không chuyên tâm nhất chí thì học gì cũng như không. Mình tham thiền hai ngày rưỡi lại nghĩ muốn niệm Phật, niệm Phật nửa ngày lại muốn học Luật, học Luật chưa bao lâu lại muốn học Mật; mục tiêu rối loạn không chuyên nhất được. Tại sao mình không thể chuyên nhất? Tại vì mình còn hướng ngoại truy cầu. Chân đạp hai chiếc thuyền cùng một lúc, không biết đi lên Giang Bắc tốt hay đi xuống Giang Nam hay? Vì vậy, cả một đời vẫn cứ lầm lẫn.

Vì thế tham thiền lúc nào cũng phải tinh tấn, một giây cũng không được làm biếng, tham cho tới lúc:

Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ,

Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn.


Nghĩa là:

Núi cùng, sông bặt, tưởng hết đường,

Tàng liễu, hoa giăng, hiện thôn trang.


Tức là mình sẽ thấy một bầu trời khác, sẽ thấy được sự diệu thú thiên nhiên vô cùng. Nhưng mình cần phải tham thiền đến cực điểm, đến chỗ "đăng phong tạo cực" nghĩa là lên tới đỉnh cao nhất, đạt tới chỗ tột bực thì mới có một chút hy vọng; nhưng hy vọng đó cũng không nhiều lắm. Tuy có một chút hy vọng nhưng mình cũng đừng chấp đắm vào hy vọng đó. Nếu không mình sẽ tạo thêm sự phiền toái, tức là chấp vào cái không có ý nghĩa gì cả. Tham thiền là phải chân thật mà dụng công.

Trước hết cả mình phải biết luyện cho chân biết nghe lời, không làm loạn cũng không làm đau. Làm thế nào để chân không còn đau nữa? Có thần chú nào niệm cho chân hết đau? Hoặc giả là mình phải uống thứ thuốc gì đó thì chân sẽ bớt đau. Không phải thế đâu! Mình cần phải trải qua cơn đau nhức đó một thời gian, dần dần chân mình mới chịu nghe lời mà hết đau. Nếu mình không nhẫn nại được cái đau, vừa mới đau lại đổi chân, thì cái chân vĩnh viễn sẽ không bao giờ chịu nghe lời mình; bởi vì mình đã chìu chuộng nó quá mức. Khi chân đau mình phải dọa nó như dọa con nít. Nếu cha mẹ thương không cho con chịu khổ, thì tương lai những đứa đó không cách gì chịu đựng được khổ. Cái chân cũng như con nít vậy, mình sợ nó đau nhức thì lúc nào nó cũng đau nhức. Lúc chân đau tất nhiên mình thấy đau, lúc chân không đau, mình cũng thấy nhức nhối là bởi vì mình đã tập cho nó có một thói quen xấu.

Mình phải luyện cho cái chân, cái lưng biết nghe mình; để chúng không còn đau không còn nhức; rồi thì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều nghe lời mình cả, sáu căn nầy không còn chạy ra ngoài mà truy cầu nữa. Không bị sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp làm cho xoay chuyển. Không bị lục căn, lục trần chuyển động thì đó chính là biết dụng công. Cho nên nói:

Nhãn quán hình sắc nội vô hữu.

Nhĩ thính trần sự tâm bất tri.


Nghĩa là:

Mắt thấy hình sắc nhưng lòng chẳng màng.

Tai nghe âm thanh song tâm chẳng biết.


Mình phải thường hồi quang phản chiếu. Ðừng truy cầu những điều bên ngoài, luôn luôn trụ vào pháp môn căn bản, tức là tham thoại đầu "Ai là người niệm Phật?" Tức là làm sao nắm được gốc, đừng chạy theo ngọn. Ðối với những vấn đề chi tiết nhỏ nhặt, đừng nên để tâm âu lo, như vậy thì từ từ sẽ hiểu thấu mọi sự.

Lúc tu thiền, khi chưa biết tập luyện làm sao để ngồi kiết già hay bán già cho thật vững vàng thì đừng nên ham học làm sao tham thiền. Bởi vì nền tảng chưa vững chắc cơ mà! Do đó, trước tiên phải xây nền tảng thiệt tốt rồi mới tham thiền.

Như tuần đầu tiên, mình phải san bằng mặt đất. Xây nhà, trước hết phải dọn sạch đất đai, đạp bằng nó ra.

Vào tuần thứ hai thì phải đặt móng. Xây móng cần tốn nhiều công phu; tức là mình phải tu hạnh nhẫn nại: chịu đau, chịu đói, chịu khát, chịu rét; bất kỳ hoàn cảnh gì mình cũng phải chịu đựng. Tuy đây là việc tốn công tốn sức, song nó là việc tất yếu phải làm. Ðất cần được đạp bằng, móng cần xây cho chắc thì nhà dựng lên mới kiên cố. Nếu gió thổi, nhà sập hay mưa tạt, nhà rã thì tức là móng đặt không chắc chắn, nền xây chẳng vững vàng vậy.

Ðến tuần thứ ba thì có thể dựng cột, trụ, bắt kèo, khung cột, mái chèo.

Qua tuần thứ tư, thì xây tường, bắt cửa, đóng cửa sổ, lợp ngói. Ðó là thứ tự xây nhà: Ta không thể "Cuốc một phát mà đào thành giếng" được. Không việc gì làm mà thành công tức khắc.

Tham thiền hay niệm Phật cũng vậy; học Giáo, tu Mật, tập Luật đều như vậy cả. Tức là phải hết sức chuyên tâm chú ý. Tâm phải thành khẩn, đừng tham muốn thứ cao siêu xa vời, đừng nghe người ta nói Mật-tông tốt, thì chạy theo Mật-tông. Ðừng dại mà mê muội, tới lúc chết vẫn không tỉnh ngộ. Không chấp nhận những bằng chứng trước mắt, thì thật là mình mê quá độ. Mật, mật rồi chẳng biết do đâu, bổng chết mất. Thật là bí mật. Do đó mật thì đúng là mê. (Hai chữ này, tiếng Tàu phát âm giống nhau) Ủ Hết sức mê muội.

Quý-vị học Phật cần phải nghiên cứu chân lý đừng nên nghe theo một cách mù quáng. Mình cần phải: "Thân cận hữu đức, viễn ly hương nhân." Nghĩa rằng cần phải gần gũi những bậc đức độ và xa lánh những kẻ tà ác. Kẻ xấu ác là thứ chuyên lừa người. Người có đức độ thì không gạt ai cả. Kẻ vô đức thì luôn dùng những thủ đoạn xảo trá; thì làm sao có đức được. Chỉ có những ai không lừa bịp thì càng ngày công đức càng nhiều; lúc đó đức hạnh mới tồn tại được. Quý-vị phải quan sát và phán xét người khác ở khía cạnh nầy. Ðừng nhìn vẻ bên ngoài mà nói rằng: "Ôi! Tôi thấy anh chàng đó rất đức độ, thật là một vị thiện-tri-thức." Thực ra chẳng xác thực, bởi vì quý-vị phải rõ thân thế anh chàng đó ra sao? Hiểu rõ thì mới đáng kể.

Trong thời mạt pháp con người đều phạm chứng bệnh thông thường là hay nói những chuyện xa vời, lấy lỗ tai thay cho con mắt, nghe người khác nói tốt là chạy theo liền. Chạy theo như vậy tốt xấu thế nào không cần biết, thậm chí bị người ta lừa mà vẫn chưa tỉnh ngộ. Học theo những điều mê tín tài sắc, phong thủy, bói toán, đều là những thứ hết sức đáng thương xót.

Hôm nay tôi đọc báo thấy ở tỉnh Phước Kiến, Trung Hoa Ðại Lục, có sáu đứa trẻ, trốn ra biển tự sát để thành tiên. Ðó là lý do gì? Là bởi vì do những thứ tà thuyết làm mê hoặc lòng người. Họ nói rằng nếu ai làm ác thì thành quỷ, làm tốt thì thành thần, thành tiên. Thế nào là chuyện tốt? Là đừng có sợ chết. Bởi vì ở nơi thôn xóm xa xăm, nhiều đứa trẻ rất là chân thật, chất phát, nên nghe thế chúng tin ngay. Tin là người tốt thì không sợ chết, mà khi chết có thể thành tiên, nên sáu đứa trẻ nầy tự sát tập thể để mong thành tiên. Chúng nghĩ rằng "Hồi xưa có tám ông tiên, đại khái là do tự sát tập thể. Nay mình cần phải tự sát tập thể để thành sáu ông tiên, khỏi bị trôi trong lục đạo luân hồi." Cho nên chúng tự sát tập thể để thành tiên.

Chúng nó có thể thành tiên hay không? Tôi có thể chứng minh rằng chúng chẳng thành tiên. Tại sao chúng chẳng thành tiên? Bởi vì chúng hết sức si mê. Người thành tiên rất thông minh chẳng ngu si. Chẳng vị tiên nào không hiểu chân lý, không biết phải trái đúng sai. Làm thế nào chúng đồng thời tự sát như thế để thành tiên? Nếu như thành tiên quá dễ dàng như vậy thì sao đại chúng không mau tự sát để thành tiên cho rồi. Ðây là chuyện không thể có được. Những người nhà quê đó hết sức là đáng thương. Ðui mù tin theo tà thuyết khiến bọn trẻ chết oan uổng. Ðây là chuyện thật đáng thương xót.

Bây giờ lại hỏi rằng vì sao mấy đứa nhỏ không sợ chết, lại muốn thành tiên? Là vì hoàn cảnh bức bách mà thành. Thấy rằng đời sống con người cũng không hơn gì cái chết. Làm người giống như khúc thịt biết đi thì có ý nghĩa gì đâu? Nên mới tìm đường giải thoát: cùng tự sát tập thể. Sáu đứa trẻ đó viết trên giấy chữ "Tử" ngàn lần như vậy. Ngày nào cũng viết chữ chết, chết, chết... Từ sáng đến chiều cứ nghĩ đến chữ chết. Bởi vậy những đứa trẻ nầy dại dột, bị chuyện mê tín dụ hoặc khiến quên mất hẳn mục tiêu lẫn phương hướng chính đáng.

Là Phật-tử, chúng ta không nên mê tín mà phải trừ mê tín. Thế nào là mê tín? Tức là hồ đồ, nghe theo những điều người ta nói mà không suy xét. Người ta nói gì mình cũng tin cả, tin một cách mơ hồ, nên gọi là mê tín. Mê tín chưa phải đáng sợ, đáng sợ nhất là tin cái điều mê, tin thứ ngoại đạo điên đảo. Có những người tự cho mình là thông minh, song điều chánh thì không tin mà gặp điều giả là tin ngay, đó là mê trong mê. Họ không nhận thức được chân lý, đem điều chân thật cho là giả dối, đem điều giả dối cho là chân thật. Cũng như sáu đứa trẻ đó, vốn muốn chết để thành tiên. Ðó là một phương pháp để lừa gạt người nhưng sáu đứa trẻ đó lại tin theo. Nếu dạy chúng rằng tu hành mới thành tiên, e rằng chúng nó chẳng tin. Bởi vậy trên thế giới rất nhiều kẻ đáng thương xót và vô số những chuyện đáng tiếc. Một lời khó diễn bày hết được.
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Quang Âm Thiên và Khoa Học

Khoa học vốn không hiện hữu. Bởi vì mình gọi nó là khoa học nên nó là khoa học.

Hỏi: Phật-giáo nói: "Thủy tổ của loài người từ Quang Âm Thiên tới." Ðiều nầy phải chăng là mâu thuẩn với lý luận của khoa học? Ví như, khoa học có thuyết tiến hóa, nói rằng con người biến hóa từ trạng thái vi sinh vật tối sơ, trãi qua không biết bao nhiêu ức triệu kiếp, từ từ tiến hóa, cuối cùng mới biến thành khỉ rồi sau đó biến thành người. Ðiều này hợp với Phật lý chăng?

Ðáp: Con người từ Quang Âm Thiên lại; song không phải từ bảy ức triệu năm trước đâu, có lẽ cả bảy ức ức triệu năm trước họ đã hiện hữu ở đây rồi. Các vị trời ở Quang Âm Thiên tới nhân gian, không phải kẻ hoàn thiện gì mà họ đã mất trí huệ rồi. Vì sao? Thì cũng giống như khi mình đầu thai thác sanh vậy. Lúc ban sơ khi thế giới chưa có nhân loại, chưa được khai hóa, toàn là hỗn độn (như cái trứng gà vậy). Các vị trời bay tới thế giới này, đông như ruồi, nghĩ rằng ở đây có đồ ăn ngon lành lắm. Các vị ấy từ Quang Âm Thiên xuống, có lẽ đã du hành một thời gian rất lâu mới tới được địa cầu, hệt như hỏa tiển phóng lên không gian, bay vào quỷ đạo trãi qua thời gian nhiều năm mới tới đây. Các vị trời tới địa cầu chẳng có mục đích gì đặc biệt. Các vị ấy du hành, rồi lạc mất phương hướng, nên tới địa cầu hốt hoảng cả lên. Sau khi tới địa cầu thì họ không còn thông minh như khi ở trên trời nữa. Họ chỉ còn lại một thứ tánh giác tri mà thôi, không như lúc còn ở trên cõi trời. Cũng giống như con người vốn thông minh nhưng khi chết rồi đầu thai ra thành con nít thì quên hết chuyện quá khứ. Cũng giống như người bị đụng xe, hôn mê bất tỉnh, chẳng còn tri giác việc gì cả.

Tuy nói rằng họ từ Quang Âm Thiên xuống, song họ đã dần dà mất hết đức tánh và trí huệ sẵn có, chỉ còn lại một chút xíu tánh giác tri mà thôi. Tuy là từ trời xuống, song chỉ một số ít thôi, không ai biết là bao nhiêu. Không có lịch sử để tra khảo, thời gian cũng quá lâu xa, nên không cách gì kiểm chứng đặng.

Ðiều mình gọi là "khoa học," thì cũng không có gì là khoa học. Ðây chỉ là một danh từ, mình đặt tên nó là "khoa học." Kỳ thật, nó chỉ là một thứ lý luận, lý tánh. Lý luận ấy viên mãn hay chăng? Phải dựa vào kiến giải và năng lực hiểu biết của các bạn. Nhiều vị hiểu rộng lắm. Song có kẻ khác thì chưa học qua khoa học, không hiểu khoa học là gì. Phải chăng kẻ chưa học qua khoa học thì chẳng có khả năng lý luận? Không phải! Bất luận là học hay không, tự tánh mỗi người đều có khả năng lý luận. Chớ nói rằng học qua khoa học thì mới có khoa học (hiểu khoa học), chưa học qua khoa học thì không có khoa học (không hiểu khoa học). Cũng giống như Phật tánh, ai ai cũng sẵn có.

Khoa học chỉ là một bộ phận nhỏ nơi Phật tánh. Nó không phải là một thứ lý luận hoàn hảo nhất. Bạn nói rằng người ta nghiên cứu khoa học như thế như thế đó, và viết ra luận án như thế như thế đó; kỳ thật đó chỉ là một sự điên đảo chấp trước của con người. Giống như "gắn một cái đầu lên trên đầu mình" (làm việc chấp trước, vô ích, ngược đời). Không có việc gì cần, mà cố tìm việc lăng xăng. Lăng xăng bận rộn tìm kiếm mãi, thì chẳng tìm ra ất giáp gì cả. Dù là nghiên cứu khoa học, nghiên cứu mãi, họ chẳng thể tới đặng chân chính kết luận.

Con người ta quá chấp trước vào khoa học, cho rằng nó là hay nhất. Kỳ thật mọi thứ đều có sẵn trong tự tánh của ta, không cần mình hướng ngoài tìm kiếm. Khi bạn tìm bên ngoài, bạn sẽ mãi mãi chẳng tìm ra. Bạn nói tìm ra nó rồi Ố đúng là thứ thiệt; song nó chỉ là đồ giả mà thôi. Bởi vì cái chân thật thì không thể tìm ra hay nói đến. Khoa học vốn không hiện hữu (không có thực thể) bởi vì mình đặt tên nó là khoa học, nên gọi là khoa học.
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Tánh, Thức, Ý, Tâm

Không bị ngoại cảnh chi phối, đó chính là tu hành. Bị ngoại cảnh chuyển, tức là đọa lạc.




Hỏi: Tánh, thức, ý và tâm khác nhau như thế nào?

Ðáp: Như đứa con nít mới sinh ra đời rất là vô tư, không có quan niệm gì về mình, về chúng sinh, về thọ mạng, thì đó cũng ví như là "Tánh." Khi đứa con nít biết được làm sao để bú sữa mẹ thì đó ví như là "Thức". Sau khi uống sữa mẹ, lại biết mặc áo, không mặc áo thì cảm thấy lạnh, biết hổ thẹn; rồi cảm thấy đói, khát, lạnh, nóng, thì giai đoạn đó ví như là "Ý." Cho tới khi lớn lên, lúc đó lại muốn cái này cái nọ, đó là có "Tâm" vậy. Ðây là bốn thứ tâm, nhưng cũng có thể nói là một, chúng nó hổ tương quan hệ không thể phân ly được, vì cùng một nhà. Tuy là bốn danh từ khác nhau nhưng bản tánh lại là một. "Nghiệp" là hậu quả căn bản mà chúng tạo nên.

Bây giờ nói rộng ra một chút, thế nào gọi là "Phật." "Tánh" tức là Phật. Thế nào là Thần? "Thức" của mình tức là thần. "Ý" là tâm phân biệt và "Tâm" là sự suy nghĩ vọng tưởng. Bản "Tánh" thì lúc nào cũng quang minh sáng suốt, không có mình, không có người, không có rơi vào số lượng. Nhưng khi có "Thức" rồi thì rơi vào danh số, rớt vào phân biệt. "Ý" cũng là sự phân biệt, cũng gọi là thức thứ sáu. Thức nầy so ra thì rất vẩn đục. Ngược lại thức thứ bảy và thức thứ tám thì thanh tịnh một chút. Thức có tám loại: mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý là sáu thức đầu, cộng thêm thức thứ bảy và thức thứ tám. Bản thân của thức thì không phải là tám cái mà vì trên mặt danh từ nên phải phân làm tám. Nhưng nói một cách tổng quát thì chỉ là một, một nhưng lại có tám cương vị khác nhau. Tuy có tám cương vị khác nhau nhưng vẫn do một thức chi phối khống chế. Tám mà một, một mà tám. Tám không ngại một, một không ngại tám. Từ nơi một sinh ra tám, từ nơi tám thâu hồi thành một, đó gọi là thức.

"Ý" tức là tâm phân biệt của mình, tức là thức thứ sáu. "Tâm" không những phân biệt mà đầy dẫy vọng tưởng. Trong sáu thức đầu có thể nói là loại có tánh tri giác, là do nơi lục căn phát sáu thứ tri giác đó. Sáu căn tức là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý; phát xuất ra thấy (thị giác), nghe (thính giác), ngửi (khứu giác), nếm (vị giác), sờ (xúc giác), hiểu (tri giác). Con người tạo tội nghiệp là ở nơi sáu căn đó, tu hành cũng từ nơi sáu căn này. Nếu không bị ngoại cảnh chi phối thì đó chính là tu hành. Nếu bị cảnh giới bên ngoài làm cho xoay chuyển thì tức là đọa lạc.
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Thật Ðau Lòng Cho

Nền Giáo Dục Hiện Tại

Luôn luôn y theo tinh thần đại công vô tư,

Quang minh lỗi lạc, với tinh thần vô úy.




Ngày nay nền giáo dục trong rất nhiều nước đang bị suy sụp. Tuy nhiên vẫn có một số người phấn tấn nổ lực mong cứu vãn cơn nguy trầm luân đạo đức. Việc làm của kẻ phấn tấn nổ lực so với kẻ đọa lạc giống như tạt một ly nước để dập tắt căn nhà đang cháy lớn. Nguyên nhân vì sao nền giáo dục sụp đổ như vậy? Ðó là do con người, những vị nhân sĩ trong nền giáo dục không chịu cải thiện, không biết cầu tiến. Tuy thấy học sinh càng ngày càng đọa lạc, giết người, phóng hỏa, cướp giựt, hút ma túy, nhưng họ coi những chuyện này như không. Thậm chí còn công khai cổ vỏ học sinh hút ma túy, phá thai, tự do phóng túng, mặt tình dùng thuốc ngừa thai v. v... Những hành vi tồi tệ ấy chỉ làm ý chí học sinh lụn bại, lương tri tiêu tán.

Tuy nhiên một số nhà giáo dục vẫn còn có tâm tận tụy; hết sức hô hào để cứu vãn sự trầm luân đó; vì thanh niên mà vun đắp lại cơ sở tốt đẹp. Nhưng phần đông kẻ làm giáo dục thì tâm lý tối tăm, cổ xúy những chuyện dâm dục, bại hoại luân lý, tổn thương thuần phong, khiến chí nguyện của thanh niên, những bậc anh hùng, hiền tài, bị sụp đổ, thiện căn giảm sút, đứt đoạn. Trước khi khai phát trí huệ chân chính, họ đã học toàn những thứ điên đảo xằng bậy.

Có những nhà giáo dục, thậm chí hô hào cải tạo nhân tâm. Nhưng những kẻ đó là giặc ở trong làng đạo đức. Bởi vì họ dùng thứ văn chương bại hoại để che đậy những thứ xấu xa; cực lực phản đối nền giáo dục chân chính là nền giáo dục có tính cách xây dựng. Họ giống như những kẻ đui mê hoặc những kẻ vô tri. Những điều này làm cho người ta đau khổ và lo lắng.

Những nhân sĩ phục vụ trong nền giáo dục, phải luôn luôn y theo tinh thần đại công vô tư, quang minh lỗi lạc, có tinh thần vô úy để gây dựng lên tầng lớp thanh niên biết làm chủ tương lai. Ðược vậy thì mình sẽ không xấu hổ với lương tâm, không hổ thẹn làm thầy kẻ khác. Nếu quý-vị không sửa đổi những lỗi lầm đó, đầy dẫy những tà tri, tà kiến, những hiểu biết sai lầm, những sự đố kỵ chướng ngại, chỉ muốn cầu danh mong lợi, đè người khác xuống để mình đứng lên trên, luôn luôn có hành vi hư ngụy lừa dối, thì nền giáo dục vĩnh viễn không chấn hưng được. Những bậc anh tài sẽ bị mai một, tiền đồ của quốc gia cũng sẽ rất nguy hiểm. Hy vọng các nhà giáo dục hô hào để thanh niên chú ý. Luôn luôn tìm phương kế để cứu vãn tầng lớp thanh niên, để họ khỏi phải rơi vào con đường bế tắc, rồi đọa lạc. Ðược vậy thì thực là diễm phúc cho xã hội quốc gia lắm.
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Tham Thiền Cần Có Con Mắt Biết Chọn Pháp

Nếu không nhận thức được pháp môn chân chính, thì có thể đi vào con đường tà đạo.




Người học Phật-pháp cần phải có Trạch-pháp-nhãn, tức là con mắt biết chọn Pháp; biết cái nào là Pháp, cái nào không phải Pháp; cái nào đen, cái nào trắng, cái nào thiện, cái nào ác. Phải nhớ đừng nhận lầm cái giả là thiệt, đen cho là trắng, trắng cho là đen, hoặc lấy thiện làm ác, lấy ác làm thiện. Ðó đều là điên đảo. Khi mình muốn nhận thức những Pháp như vậy, cần phải có con mắt gọi là Trạch-pháp-nhãn.

Trước tiên hãy rũ bỏ ngã tướng. Nếu có ngã tướng thì sẽ sinh ra đủ thứ chướng ngại, cũng không có trí huệ nữa. Có ngã tướng thì tự sinh ra tâm ích kỷ, rồi tiếp theo đó sinh ra tâm tư lợi, tâm truy cầu, tâm tham lam. Khi cầu không được, tham không xong, thì lại sinh ra tâm đấu tranh, cùng người tranh cường luận thắng.

Nếu như không có "ngã tướng," thì có cái gì gọi là "ngã"? Ai là cái ngã? Cái ngã này là ai? Quý-vị suy nghĩ, tham nó. Như tham câu "Niệm Phật là Ai?" Câu "Niệm Phật là Ai?" nầy là tham chớ không phải để niệm. Nếu mình niệm tới niệm lui thì vô ích, mình phải tham nó. Tham thì tựa như lấy cái dùi đục mà dùi; dùi mãi tới lúc nào đâm thủng nó được thì tức là mình triệt ngộ.

Nhất thời bất minh bạch, nhất thời đô yếu tham;

Thời thời bất minh bạch, thời thời đô yếu tham.


Nghĩa là:

Lúc nào chưa hiểu rõ, lúc đó cần phải tham.

Mọi lúc chưa hiểu rõ, mọi lúc cần phải tham.


Tham thiền cũng không phải đoán mò, nếu như mình cứ đoán rằng "Tôi niệm Phật à? Anh niệm Phật? Người đó niệm Phật? Ai niệm Phật?" Ðoán tới đoán lui đều đoán không đúng. Mình cần phải tìm ra "Ai." Chữ "Ai" nầy chính là Kim-cang-vương Bảo-kiếm, tức là lưỡi kiếm trí huệ. Nếu dùng lưỡi kiếm trí huệ nầy mà chặt đứt hết các vọng tưởng khác, thì trí huệ tự nhiên hiện tiền.

Nếu không nhận thức, không hiểu rõ pháp-môn tham-thiền, mà cho rằng pháp-môn nầy cũng giống như pháp-môn niệm Phật, nghĩ rằng niệm càng nhiều càng tốt (thay vì tham) thì đó là điều hết sức là sai lầm. Không cần niệm cho nhiều, chỉ cần kéo hơi cho dài, tham cho nhiều, mấy giờ đồng hồ cũng được. Thậm chí tham đến tám vạn đại kiếp cũng không gián đoạn, thì đó mới là chân chính tham thiền.

Tại sao phải tham câu "Niệm Phật là Ai?" Chữ "Ai" nầy cũng là đã nhiều lời. Nhưng vì chúng ta giống như con khỉ, lúc nào cũng muốn tìm cái nầy cái nọ để làm. Do đó chữ "Ai" để mình đi tìm, thì vọng tưởng mới hết. Nghĩa là dùng chữ "Ai" nầy giống như lấy độc trị độc. Tham thiền tức là quét sạch bụi (vọng tưởng). Khi mình không còn vọng tưởng thì mới đúng là "thời thời thường phất thức." Nghĩa là lúc nào cũng quét sạch. Tại sao cần phải quét bụi? Bởi vì không muốn cho tâm bám đầy bụi, mình muốn "quét sạch tất cả mọi Pháp, xa rời tất cả mọi tướng." Ðó là pháp-môn tham thiền.

Nếu mình không có con mắt chọn Pháp, không hiểu biết được chân pháp, thì mình không biết thế nào là tham thiền. Không biết tham thiền thì chỉ phí công lao tu tập. Nếu không nhận thức được pháp môn chân chính thì có thể đi vào con đường tà đạo, nên Trạch-pháp-nhãn, con mắt biết chọn pháp, rất quan trọng.
 

vô tâm

Registered
Phật tử
Tham gia
1 Thg 8 2016
Bài viết
73
Điểm tương tác
7
Điểm
8
Ðắc Nhất Vạn Sự Tất

Ai hiểu được số không này, thì người đó có thể tu hành chứng quả.




Chư Pháp tùng duyên sinh,

Chư Pháp tùng duyên diệt.

Ngã Phật Ðại Sa-Môn,

Thường tác như thị thuyết.


Nghĩa là:

Các Pháp do duyên sinh,

Các Pháp do duyên diệt.

Ðức Phật Ðại Sa-Môn,

Thường nói lý như vậy.


Tất cả mọi Pháp đều do nhân duyên sinh ra, rồi cũng do nhân duyên tiêu diệt. Ðó là đạo lý luân hồi, cũng là đạo lý: "Vật cực tắc phản, bỉ cực thái lai." Nghĩa rằng vạn vật hễ biến thiên đến cực điểm phía nầy rồi thì sẽ quay đầu để tới cực điểm phía kia. Khi bế tắc cùng cực thì rồi sẽ hanh thông. Ðó là Pháp tương đối trên thế gian nầy vậy.

Pháp tương đối ví như sự tốt đẹp đến cực điểm rồi sẽ biến thành xấu, xấu đến cực điểm lại biến thành tốt. Cũng như con người sinh ra là điều tốt, nhưng khi chết đi lại là điều xấu, điều hủy hoại. Sinh, trụ, dị, diệt; sinh xong rồi sẽ trụ, trụ rồi sẽ biến dị, biến dị rồi sẽ hủy diệt. Sinh, lão, bệnh, tử cũng đồng đạo lý như vậy; sinh ra rồi từ từ sẽ già, già rồi có bịnh, bịnh rồi sẽ chết. Ðó là thứ pháp nhân duyên. Con người ai cũng sống, thích sống, và ai cũng phải chết, nhưng lại sợ chết. Nếu mình không thích sống mà cũng không sợ chết, thì đó là một loại định lực. Như người ta thường hay sợ quỷ, nhưng tại sao lại sợ? Bởi vì quỷ thì xấu xa hung ác, có thể hại người và làm chết người. Cho nên, người ta đều sợ quỷ, đó là hiện tượng sợ chết mà thôi. Nếu như mình không sợ chết, thì mình không sợ bất cứ cái gì. Bất luận là quỷ thần, yêu ma, quái vật, mình cũng không sợ; không gì làm cho mình sợ cả. Còn sự sợ hãi là còn chưa có định lực. Hết mọi sự sợ hãi thì đó mới là chánh định, chánh thọ, mới có định lực. Có định lực thì con người mới:

Túng ngộ phong đao thường đản đản,

Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn
.

Nghĩa là:

Ðứng trước mũi kiếm vẫn ngang nhiên,

Dù ép độc dược cũng bình thường.

Ý rằng nếu có người đem dao tới chặt đầu mình, hoặc là dùng độc dược để giết hại, mình cũng không lo sợ, trong tâm không hề giao động. Ðó là vì sao? Vì mình đã thoát khỏi sinh tử "Sở tác dĩ biện, bất thọ hậu hữu." Nghĩa là "xong xuôi những việc cần làm, từ đây chẳng phải đầu thai làm gì." Cho nên nói nếu được "một" thì mọi sự đều xong.

Nhưng được "một" đây cũng vẫn chưa hẳn là đủ, phải làm cho "một" nầy trở về bản nguyên của nó: trở về số không. Số không là đạo lý rất linh diệu, khó có thể diễn bày được. Ai hiểu được số không này, thì người đó có thể tu hành chứng quả. Làm sao để hiểu số không nầy? Trước hết phải hiểu số một. Bởi vì "Ðắc nhất vạn sự tất," nghĩa là được một thì vạn sự đều xong. Cái một này xa rời ngôn ngữ, văn tự, ra khỏi tâm sở duyên, quét sạch tất cả Pháp, xa rời tất cả tướng. Lại nói rằng: "Nhất pháp bất lập, vạn sự giai không." Nghĩa là chẳng lập một pháp gì, mọi sự thảy đều không. Quý vị muốn tới cảnh giới và đạo lý này, thì trước hết phải tới "một," quý vị đừng coi thường số "một" này.

Thiên đắc nhất dĩ thanh,

Ðịa đắc nhất dĩ ninh,

Nhân đắc nhất dĩ thánh.


Nghĩa là:

Trời được "Một" nên trong,

Ðất được "Một" nên yên,

Người được "Một" thành Thánh.


Tại sao trời che phủ được vạn vật? Là vì trời được số "một" này. Tại sao mặt đất làm chỗ dựa cho vạn vật? Là vì đất được số "một" này. Nếu như đất mất số một thì đất sập, núi băng, động đất, nước biển nổi trào, đủ thứ tai họa phát sinh. Nếu nơi nào mất số "một" này, thì nơi đó sẽ sinh ra đủ thứ tai họa. Nếu số "một" này không mất thì mọi nơi trên mặt đất đều bình an.

"Nhân đắc nhất dĩ thánh." Nếu con người thật sự tới được số "một" này thì có thể ra khỏi luân hồi, chứng thánh quả, khai trí huệ. Bởi vì con người mất số "một" nên kẹt trong luân hồi, xoay chuyển trong lục đạo, chịu đủ thứ phiền não vô minh. Tám vạn bốn ngàn phiền não đều do mất số "một" này mà sinh ra. Muốn về lại "một" thì trước tiên phải biến phiền não thành Bồ-đề, biến sinh tử thành Niết-bàn; dễ như trở bàn tay vậy, không khó khăn lắm đâu! Song vì lẽ gì ta chẳng biến phiền não sinh tử thành Bồ-đề Niết-bàn được? Bởi vì do mình đã mất đi số "một" này, và chạy tới số hai, ba, rồi đến số mười, từ số mười tới số một trăm, rồi vô tận; nên trăm ngàn vạn ức thứ phiền não mới sinh ra. Bởi thế số "một" này rất quan trọng. Tuy nhiên, bởi vì mình đã mất số "một" này, muốn trở về nó không phải là dễ. Từ số "một" mà muốn phản bổn hoàn nguyên, trở lại số không thì lại càng khó khăn hơn nữa.

Tôi nói cho quý-vị một ví dụ đơn giản khác. Lúc nào gọi là "một"? Còn lúc nào gọi là "không?" Ðối với con gái, từ một tới mười bốn tuổi, đối với con trai từ một tới mười hai tuổi, trong giai đoạn đó, chưa mất đi số "một." Thời gian nào là số "không?" Từ lúc nhập thai cho đến lúc sinh ra, đó là giai đoạn mình ở trong số "không." Lúc đó thì tất cả những thứ phiền não vọng tưởng, tham, sân, si đều không có. Cho tới lúc biết ăn, đói rồi sinh lòng tham ăn, giận dữ, ngu si bắt đầu phát sinh; nhưng lúc nầy cũng chưa mất đi số "một," đây chính là khởi đầu cuộc sống làm người. Từ số "không" biến thành "một," thì số "một" này vẫn còn là số rất hoàn chỉnh, vì nó là sự bắt đầu của mọi sự. Cho tới khi trải qua những diễn biến trong đời, những thứ khác sẽ cộng thêm vào số "một" này, để biến thành hai, hai thành ba, ba thành bốn, và cứ thế tăng lên, càng tăng thì gánh nặng càng lớn, và con người càng trở nên ngu si hơn.

Tánh tức là số "không," số "không" cũng tức là tánh. "Không" tánh có nghĩa là chẳng có gì cả, chính là:

Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai?

Nghĩa là:

Xưa nay chẳng có vật gì,

Thì sao có chỗ bụi trần bám vô.

Tu hành cần phải tu đến chỗ "hồ tôn xích tử," nghĩa là tâm như đứa con nít, tâm không có bất cứ điều gì. Giống như đứa con nít vậy, tức là phản lão hoàn đồng. Song, phản lão hoàn đồng không phải là nói rằng mình đi uống sữa, mà chính là muốn mình không còn tham, sân, si, mạn, nghi. Ðây mới gọi là phản bổn hoàn nguyên; chẳng khác gì với tri kiến của đứa con nít, rất là thiên chân, không tà lự, không một chút giải đãi lười biếng, cũng không có tâm tham tiện nghi, hoặc là tâm thị phi. Ðó chính là "Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai" vậy.

Tu Ðạo mình cần hiểu rõ đạo lý này thì mới có thể chân chính giác ngộ. Tại sao mình phải nghe giảng kinh? Bởi vì mình muốn phản bổn hoàn nguyên. Tại sao lại muốn tu hành? Cũng vì muốn phản bổn hoàn nguyên, quét sạch mọi vẫn đục trong tâm. Chớ dụng công nơi nhân ngã thị phi. Nếu có ai nói câu gì trái ý thì mình thấy khó chịu, không vui. Ðụng một sợi tóc, mình cũng hết sức đau đớn khó chịu. Nhỏ một giọt mồ hôi để làm lợi cho thiên hạ thì cũng chẳng chịu làm. Ðó đều là tinh thần hết sức ích kỷ, không thể tu Ðạo được.

Người tu Ðạo cần phải vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả (không thấy có mình, không thấy có người, không thấy có chúng sinh, không thấy có thọ mạng). Vô ngã không có nghĩa là mình không làm mà kêu kẻ khác làm giùm mình. Vô nhân không có nghĩa là tới lúc ăn uống lại nói: "ồ! Vì vô nhân, tôi ăn thêm một chút cũng chẳng can gì, tức là không có ai khác." Cho dù lúc nầy mình không còn nhân tướng (chẳng thấy có kẻ khác) đi nữa, nhưng kẻ khác vẫn còn nhân tướng kia mà. Lúc tranh chấp, đánh lộn, thì lại "vô chúng sanh tướng." Hoặc lúc ăn thịt thì lại "Vô thọ giả tướng." Tức là miếng thịt không có thọ mạng. Tất cả đều là kiến giải sai lầm. Như vậy thì nên làm thế nào?

Thế nào là kiến giải đúng:

1. Vô Ngã Tướng (không thấy có mình): Tức là không cống cao ngã mạn, không tính toán lợi lộc cho mình.

2. Vô Nhân Tướng (không thấy có người): Nghĩa là mình không chướng ngại, không làm chuyện bất lợi cho kẻ khác.

3. Vô Chúng Sinh Tướng (không thấy có chúng sinh): Nghĩa là coi vạn vật đều đồng một thể với chính mình.

4. Vô Thọ Giả Tướng (không thấy có thọ mạng): Mọi chúng sinh có quyền sống, bởi thế chúng ta không thể đoạt hoặc giết hại bất kỳ sinh mạng nào Ố kể cả người và động vật.


Do đó, khi tu Ðạo, bất kỳ lúc nào, đừng vì mình mà mong cầu, đừng vì mình mà tính toán. Hãy luôn nghĩ đến kẻ khác.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên