P

Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
124
Điểm tương tác
12
Điểm
18
BỘ SƯU TẬP CÁC TÁC PHẨM CỦA KHANGSAR TENPAI WANGCHUK



KHO TÀNG TRÂN BẢO

CỦA

BẢN TÍNH NỀN TẢNG



TÁC GIẢ: LONGCHENPA

VỚI PHẦN BÌNH GIẢNG CỦA

KHANGSAR TENPAI WANGCHUK


NGUYÊN TÁC:

THE PRECIOUS TREASURY OF THE FUNDAMENTAL NATURE



Dịch sang tiếng Anh: Nhóm PADMAKARA


Nhóm Dịch Thuật PADMAKARA chân thành cảm ơn sự hỗ trợ hào phóng của tổ chức Tsadra trong việc tài trợ dịch thuật và chuẩn bị cho cuốn sách này.​



Việt dịch: Ẩn Tiên
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
124
Điểm tương tác
12
Điểm
18
NỘI DUNG



Lời Nói Đầu của Jigme Khyentse Rinpoche

Lời Giới Thiệu của Nhóm Dịch Thuật



Phần Một
Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng


Tán Dương

1. Không Tồn Tại

2. Bình Đẳng

3. Hiện Diện Tự Phát

4. Bản Tính Đơn Nhất

5. Những Người Có Thể Được Ban Cho Giáo Lý Này

6. Kết Luận

Phần Hai

Cúng Dường làm Hài Lòng đấng Toàn Tri

Lời Bình Luận về
Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng

Dàn ý Văn Bản

1. Giới thiệu về Chuyên luận

2. Giải thích sâu rộng về chuyên luận của Longchenpa

3. Lời chỉ dẫn cho những người có thể nắm bắt được giáo lý này

4. Kết luận cho toàn thể Chuyên Luận

Ghi Chú
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
124
Điểm tương tác
12
Điểm
18
LỜI NÓI ĐẦU



Ngay từ khoảnh khắc đầu tiên nghe nói về Khangsar Tenpai Wangchuk Rinpoche và lời bình luận của ông về tác phẩm Kho Tàng Quý Giá của Pháp Giới của Longchenpa, tôi đã dâng lên một niềm khao khát sâu xa là mong được nhận giáo lý và sự gia trì từ ông. Tôi đề cập điều này với em trai mình là Pema Wangyal Rinpoche và rất vui mừng khi biết rằng một học trò của Tenpai Wangchuk Rinpoche đã hỏi liệu PAMAKARA có thể dịch các bài viết của ông sang tiếng Anh và các ngôn ngữ phương Tây khác được không.

Thật đáng mừng, khi tình hình tiến triển, chúng tôi rất may mắn được nhận sự trao truyền quý giá từ toàn bộ các tác phẩm của Tenpai Wangchuk đã được xuất bản trực tiếp thông qua những lời truyền khẩu của cháu trai ông và cũng là người nắm giữ dòng truyền, Khenpo Stultrim Zangpo Rinpoche, người đã đến Dordogne vào mùa thu năm 2019. Điều này ứng nghiệm với tiên đoán rằng những lời dạy của chú ông sẽ được truyền bá sang phương Tây. Tôi vô cùng biết ơn ông vì lòng tốt của ông trong chuyến hành trình dài đến Pháp để giảng dạy cho chúng tôi, với ân huệ từ bi, tính thoải mái và giản dị sâu sắc như vậy. Chuyến viếng thăm La Sonnerie ở Dordogne của ông thực sự là một nhân duyên kỳ diệu và cảm động.

Việc dịch các tác phẩm của Tenpai Wangchuk Rinpoche hiện đã bắt đầu. Trong tập sách hiện tại, chúng tôi với phần bình giảng của ông về Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng. Nó là sự khai ngộ trực tiếp vào cái thấy của Đại Toàn Thiện, một điểm để đi vào những giáo lý sâu xa của Longchenpa.

Chúng ta có thể đọc tiểu sử của Tenpai Wangchuk rằng ông có những linh kiến trực tiếp về các vị Phật, Bồ tát, các Không hành nam, Không hành nữ, cũng như các vị Hộ pháp trí tuệ. Do đó chúng ta có thể chắc chắn về tính chính xác trong những lời dạy của ông. Hơn nữa, những lời dạy này có chất lượng rất cao trong việc diễn đạt các vấn đề sâu sắc và phức tạp nhất bằng những thuật ngữ rõ ràng và đơn giản, trong ngôn ngữ rất trực tiếp và dễ tiếp cận.

Trong thời kỳ hỗn loạn này, chỉ cần được nghe tên cuốn sách này đã là một điều may mắn đáng kinh ngạc, chưa nói đến việc có thể đọc, nghiên cứu, hiểu và áp dụng nó vào thực tế. Tôi vô cùng biết ơn không chỉ tác giả phi thường của cuốn sách này, mà còn đối với lòng tốt của cháu trai ông là Tsultrim Zangpo Rinpoche, đối với các dịch giả, nhà xuất bản và những nhà tài trợ hào phóng nhất của chúng tôi, những người đã làm cho cuốn sách này trở thành hiện thực. Tôi cầu nguyện rằng họ sẽ sống lâu và tiếp tục công việc xuất sắc của mình. Thay mặt cho tất cả độc giả sẽ nghiên cứu và thu được lợi ích từ cuốn sách này, tôi hết lòng cảm tạ họ.

Cầu mong ánh sáng của cuốn sách này xua tan những lời dối trá và sai lầm của chủ nghĩa cực đoan, mê lầm, vô minh, thiếu hiểu biết và ích kỷ. Cầu mong chân lý được xác lập và chúng sinh được hưng thịnh trong kinh nghiệm về nó. Cầu cho mọi người thoát khỏi đau khổ, không chỉ chỉ từ vi rút bệnh tật, mà còn từ những ý kiến và niềm tin ngu dại.

Jigme Khyentse Rinpoche​
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
124
Điểm tương tác
12
Điểm
18
LỜI GIỚI THIỆU CỦA NHÓM DỊCH THUẬT

(Padmakara)​

Bản dịch bình luận của Khangsar Tenpai Wangchuk về Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng của Longchenpa là bước đầu tiên trong sự án dịch các tác phẩm được sưu tầm của đại học giả Tây Tạng hiện đại này. Nhiệm vụ đầy tham vọng này được giao cho Nhóm Dịch Thuật Padmakara bởi Tsultrim Zangpo Rinpoche, trụ trì tu viện Khangsar Taklung, và Yingrik Drubpa Rinpoche, cả hai đều là đệ tử của Tenpai Wangchuk (1938 – 2014), cùng với những người được ủy thác di sản văn chương của ông. Bên cạnh phần tự bình luận của chính Longchenpa viết vào thế kỷ 14, đây là bản bình luận đầu tiên và duy nhất từng được viết về Kho tàng của Bản tính Nền tảng.1

Không giống như một bản bình luận chung chung, hoặc “bình giảng ý nghĩa”, được đưa ra bởi Longchenpa để giải thích văn bản gốc của chính ông, bản bình chú của Tenpai Wangchuk là một bản “luận giải từng lời” nên có giá trị không thể đo đếm được đối với các học viên và dịch giả. Trong khi những phần bình giảng ý nghĩa chỉ tập trung vào các ý tưởng được thể hiện trong văn bản thì các bản luận giải từng lời có phong cách căn bản và mô phạm hơn. Chúng khảo sát rất chi tiết ngôn ngữ của các câu gốc, mỗi âm tiết trong đó (thường được biểu thị bằng các công cụ đánh máy) theo truyền thống được kết hợp vào chính văn bản của lời bình luận. Những thuật ngữ khó hiểu, tối nghĩa, lỗi thời, hoặc tiếng địa phương được dịch đúng nghĩa bằng những từ ngữ tương đương, phổ thông và cập nhật hơn, chỉ khi đó ý nghĩa của văn bản mới được làm sáng tỏ. Vì vậy, mục đích của bản luận giải từng lời là để đảm bảo người đọc hiểu càng rõ càng tốt ý nghĩa của các câu thơ gốc, mà ngay cả khi chúng đi kèm với một lời tự bình luận được coi là cách biểu đạt chính trong thông điệp của tác giả. Lợi thế sư phạm của cách tiếp cận này là rõ ràng, và không cần thiết phải nói thêm rằng đối với các dịch giả, những bài bình luận kiểu này là những công cụ vô giá và thường không thể thiếu.

Có lẽ là quá đáng khi nói rằng những lời tự bình luận (là những bình luận được tác giả viết trên các văn bản gốc của chính họ) luôn có ý nghĩa không thay đổi, nhưng điều này dường như chắc chắn là trường hợp của Lochenpa. Cách làm thông thường của ông là trích dẫn các đoạn thơ của chính mình và sau đó mở rộng ý nghĩa của chúng bằng các thuật ngữ chung. Nói cách khác, phần tự bình luận của ông chạy song song với các văn bản gốc, và ông hiếm khi bị vướng mắc bởi những cân nhắc đơn giản về từ vựng hoặc giải thích ẩn dụ hoặc các công cụ thơ văn khác. Điều này có lẽ là do bản thân ông nhận thấy ý nghĩa văn bản của mình là rõ ràng và có lẽ cũng vì chất thơ trong văn bản của ông chống lại phân tích thực dụng. Đôi khi Longchenpa chỉ đơn giản lặp lại bằng văn xuôi những gì ông đã nói một cách trữ tình hơn trong văn bản gốc. Vào những lúc khác, ông mở rộng ý nghĩa của nó bằng cách giải thích dài dòng hơn, hỗ trợ nó bằng nhiều trích dẫn từ kinh điển. Nhưng cũng có lúc, ông lại đi sâu vào các cuộc thảo luận chi tiết và dài dòng về các chủ đề có liên quan. Trong những trường hợp này, dường như văn bản gốc đóng vai trò là chất xúc tác cho phần tự luận, sau đó nó trở thành phương tiện chính và thường là quan trọng cho tư tưởng của ông. Do đó, trong khi những ý tưởng thú vị có thể được chọn lọc và làm sáng tỏ, việc xảy ra khá thường xuyên là những từ khó và những cách diễn đạt thơ mơ hồ trong văn bản gốc được bỏ qua trong im lặng, khiến các dịch giả, những người có nhiệm vụ đó, phải thất vọng, để đi đến chỗ có thể phân biệt ý nghĩa của văn bản gốc và dịch nó sang một ngôn ngữ khác một cách dễ hiểu.

Khi những vấn đề như thế này xuất hiện trong các tác phẩm của những tác giả khác, học viên và độc giả thường có thể hy vọng tìm đến những bản bình luận chi tiết từng chữ của các nhà bình luận thứ ba. Tuy nhiên, trong trường hợp của Longchenpa, ở đây chúng ta đối diện một vấn đề nghiêm trọng, vì không có bình luận của bên thứ ba về các tác phẩm của ông.2 Có lẽ vì sự khó khăn của họ, có lẽ vì sự tôn kính mãnh liệt mà họ đã và đang tiếp tục được mọi người coi trọng, hoặc có lẽ vì rụt rè và sợ bị chỉ trích, trong nhiều thế kỷ qua không ai dám viết ra những văn bản chú giải các tác phẩm của Longchenpa, mặc dù, tất nhiên, dòng chú giải khẩu truyền vẫn tiếp tục được duy trì không gián đoạn.

Trong thời gian gần đây, tình hình bắt đầu thay đổi, nhiều tu viện đã được khôi phục ở các tỉnh miền đông Tây Tạng, các trung tâm học tập mới được thành lập, những nỗ lực lớn lao đã được thực hiện để khôi phục và bảo vệ các truyền thống cổ xưa trong việc nghiên cứu và thực hành. Trong các tổ chức thuộc phái Nyingma, chẳng hạn, các cơ sở rộng lớn của Khenpo Jigme Phuntsok ở Serta Larung Gar hay các tu viện được xây dựng lại bởi Khenpo Taipa Wangchuk ở Khangsar Taklung và Panak ở Golok, điều này đã dẫn đến sự hồi sinh mãnh liệt của hoạt động giảng dạy và thực hành Đại Toàn Thiện và đặc biệt là việc nghiên cứu các tác phẩm của Longchenpa. Là một phần của sáng kiến tuyệt vời này, chính Tenpai Wangchuk đã biên soạn một bộ sưu tập lớn các tác phẩm. Để đáp lại sự quan tâm nhiệt tình và chắc chắn với mong muốn bảo tồn một truyền thống vốn đã mong manh qua những thăng trầm lịch sử, ông đã đưa ra nhiều văn bản về giáo lý Đại Toàn Thiện thuộc loại mà, như được nói, là chưa bao giờ xuất hiện trước đây. Đó là số phận của ông, vì thế tiểu sử của ông mách bảo chúng ta hãy làm điều mà chưa một học giả nào trước ông đã từng làm: diễn đạt bằng văn bản tác phẩm nào đó thuộc dòng truyền thừa chú giải tư tưởng của Longchenpa. Vì thế, trong số những thứ khác, Khangsar Khenpo Tenpai Wangchuk đã biên soạn những luận giải chưa từng có về hai trong số Bảy Kho Báu của Longchenpa: Kho Báu Pháp Giới và Kho Báu Bản Tính Nền Tảng. Hơn nữa, hai bản bình luận này, thật may mắn cho chúng ta, là những bản luận giải từng lời: các giải thích chi tiết về văn bản thực sự của Longchenpa. Được tán dương vì sự rõ ràng và dễ biểu đạt, chúng được biên soạn đặc biệt để cung cấp cho những học viên đầy khát vọng một phương tiện để tiếp cận những giáo lý siêu phàm của Longchenpa.

Như Tenpai Wangchuk nói trong lời mở đầu của phần bình luận thứ hai được dịch ở đây, Kho Báu của Bản Tính Nền Tảng “xác lập một quan điểm cuối cùng về các hướng dẫn cốt lõi thuộc loại bí mật” của Đại Toàn Thiện. Khi được thực hành đúng cách, nó có sức mạnh mang lại cho những người được phú cho nghiệp tốt đạt đến thành tựu cao nhất trong một kiếp sống. Tenpai Wangchuk nói: “Thật có phúc cho ai nhìn thấy, nghe thấy, nhớ lại hoặc chạm vào văn bản này”.

BẢY KHO TÀNG

Bởi vì sự giống nhau về tên của chúng, nên loạt sách Bảy Kho Tàng của Longchenpa hay được nhắc đến, để cho tiện lợi, như thể chúng là những phần được tích hợp vào một bộ sưu tập duy nhất. Tuy nhiên, một cuộc kiểm tra kỹ hơn sẽ tiết lộ rằng cso rất ít cơ sở cho giả định này và chắc chắn không có bằng chứng nào cho thấy chính Longchenpa đã nghĩ về chúng theo cách này. Trong danh mục được soạn thảo tại Tharpa Ling ở Bhutan, Longchenpa đã đề cập đến sáu trong số Bảy Kho Tàng, tất cả ngoài trừ Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng, một cách rời rạc tùy theo chủ đề của chúng mà không có bất cứ dấu hiệu nào về một mối quan hệ đáng kể giữa chúng.

Chỉ có bốn trong số Bảy Kho Tàng được xác định nơi chốn chúng được biên soạn ra là Gangri Thokar, ẩn thất của Longchenpa trên những ngọn núi phía trên thung lũng sông Tsangpo. Không có quyển nào trong Bảy Kho Tàng được xác định niên đại, ngoại trừ bằng chứng rải rác bên trong,3 thì không thể xác lập dứt khoát thứ tự mà chúng được soạn ra. Tuy nhiên, trong thời kỳ Longchenpa rời đến Bhutan năm 1350 ở tuổi 42 để tránh sự thù địch của bá vương Tây Tạng lúc đó là Tai Situ Changchub Gyaltsen, người ta thường cho rằng toàn bộ Bảy Kho Tàng, ngoại trừ Bản Tính Nền Tảng, đã được soạn ra khi Longchenpa vẫn còn là một chàng trai trẻ, để minh họa thực tế rằng ông là một học giả phi thường và đã là bậc thầy giác ngộ cao cấp từ thuở thiếu thời một cách thần kỳ.

Một truyền thống khẩu truyền nói rằng toàn bộ Bảy Kho Tàng đều được sáng tác ở Bhutan nhưng đã bị thất lạc trong một tại nạn thảm khốc khi Longchenpa trở về sau cuộc sống lưu vong vào đầu những năm 1360, khi thư viện và nhiều tác phẩm của ông bị cuốn trôi trên sông. Bảy Kho Tàng, theo diễn tiến của câu chuyện, do đó phải được viết lại ở Gangri Thokar. Tuy nhiên, có nhiều lý do để nghi ngờ tính lịch sử của truyền thuyết này, nhất là việc Longchenpa qua đời năm 1364, chưa đầy ban năm, ba năm tích cực hoạt động, sau khi ông trở về quê hương. Ngoại trừ sự hỗ trợ của các tác nhân siêu nhiên, khó mà tin rằng chúng được biên soạn thêm lần nữa trong khoảng thời gian còn lại. Ngay cả mười năm lưu trú của Longchenpa ở Bhutan dường như là một khoảng thời gian quá ngắn cho việc biên soạn Bảy Kho Tàng, một trong số đó rất dài và phức tạp, đặc biệt là xét về mọi việc khác mà Longchenpa được cho là đã hoàn thành trong khoảng thời gian đó.4

Mối quan tâm khẩn thiết hơn trong bối cảnh hiện tại là Kho Tàng Bản Tính Nền Tảng không được đề cập đến trong danh mục Tharpa Ling, đã được biên soạn vào một thời điểm nào đó trong quãng bảy năm kể từ khi xẩy dựng ngôi đền ẩn mật này vào năm 1353 cho đến khi Longchenpa trở về Tây Tạng vào năm 1360. Và vì lời cuối sách cho biết nó được viết ra ở Gangri Thokar, chẳng phải vô lý khi suy luận rằng quyển cuối của Bảy Kho Tàng đã được soạn ra sau khi Longchenpa trở về từ cuộc sống lưu vong và vì vậy nằm trong số những tác phẩm cuối cùng của ông.

Trong quan điểm dường như không có mối liên hệ nào giữa Bảy Kho Tàng về bản chất (nhưng vì sự giống nhau của chúng về tên gọi) cũng như việc chúng ta không thể xác định niên đại của chúng để lập ra một thứ tự biên soạn, thật khó để tưởng tượng rằng chúng đã được nghĩ đến như một tuyển tập duy nhất do chính tác giả soạn thảo theo một kết hoạch định trước nào đó. Tuy nhiên, điều này chẳng có nghĩa là không thể thấy bất cứ thứ tự nào trong những tác phẩm đặc biệt này.

Khenpo Jigme Phuntsok, người thường giảng nghĩa Bảy Kho Tàng trong một giáo khóa mở rộng cho hàng nghìn học viên, đã nhận thấy trong chúng có một trình tự giảng dạy tự nhiên bất kể ngày tháng được biên soạn.5 Vì mục đích dạy học, ông sắp xếp chúng theo thứ tự dần dần tùy theo chủ đề, bắt đầu với những văn bản chủ yếu đề cập đến các chủ đề kinh điển tổng quat và tiến dần đến những tài liệu tập trung hoàn toàn vào giáo lý Đại Toàn Thiện. Theo sự sắp đặt này, trước hết, ông sẽ giảng Kho Tàng Ngọc Như Ý Kho Tàng Hệ Thống Nguyên Lý,6 về các chủ đề chung và triết học. Tiếp theo là nghiên cứu về Kho Tàng Những Chỉ Dẫn Thiết Yếu,7 là một tuyển tập lớn gồm những câu cách ngôn sáu dòng bao quát hàng loạt các chủ đề về học thuyết được rút ra từ các giáo lý Kinh điển, Mật điển và Đại Toàn Thiện. Phần giới thiệu trực tiếp về Đại Toàn Thiện sẽ theo sau phần trình bày về Kho Tàng của Pháp Giới Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng,8 hai văn bản đầy chất thi ca đẹp đẽ được thiết kế để đưa học viên tiếp xúc trực tiếp và đầy hứng khởi với cái thấy của Đại Toàn Thiện về tính thanh tịnh bản nguyên, cùng với thực hành Trekcho, hay “cắt đứt”. Cuối cùng, khóa học sẽ kết thúc với việc đọc Kho Tàng của Tối Thượng Thừa Kho Tàng của Ngôn Từ và Ý Nghĩa,9 những giảng giải mang tính học thuật về nền tảng lý thuyết của Đại Toàn Thiện, nằm trong số những tác phẩm khó và yêu cầu khắt khe nhất của Longchenpa.



KHO TÀNG CỦA BẢN TÍNH NỀN TẢNG


Trong những trang đầu của bình luận về Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng, Tenpai Wangchuk đề cập tới mối quan hệ chặt chẽ của nó với Kho Tàng của Pháp Giới. Ông nói, cả hai văn bản đều chắt lọc giáo lý của cả ba tầng lớp Đại Toàn Thiện (lớp tâm trí, lớp không gian, và lớp chỉ dẫn cốt lõi), chứa đựng những điểm cốt yếu cho sự hiểu biết về cái thấy và thực hành trekcho, giảng giải về tính thanh tịnh nguyên sơ.

Hơn nữa, hai tác phẩm này được cho là bổ sung nhau về mặt lý thuyết và thực hành. Về lý thuyết, Kho Tàng của Pháp Giới xác lập bản tính của mọi hiện tượng của cả luân hồi và niết bàn không quá nhiều về mặt bản thể học, theo nghĩa chúng thiếu vắng sự tồn tại thực sự, mà về mặt trí tuệ, như một biểu hiện sáng tạo trong sự mở rộng bao la của bản tính tâm trí, “Pháp Giới vô hạn, tỉnh giác mà thôi”. Đây là ghi chú đặc trưng của Đại Toàn Thiện, trong đó trạng thái bản thể luận của vạn sự như được xác lập trong Trung Quán được thay thế bằng nhãn quan thấy mọi hiện tượng là sự phô diễn của tính giác, thanh tịnh bản nguyên và tịnh quang tự phát. Tuy nhiên, đồng thời Tenpai Wangchuk nói rằng Kho Tàng Bản Tính Nền Tảng khác với Kho Tàng Pháp Giới ở chỗ nó áp dụng hiểu biết này vào tâm trí của cá nhân hành giả “trong một sự trình bày có hệ thống về các giai đoạn kế tiếp nhau”. Nó mô tả cách những hành giả đã bước vào con đường Đại Toàn Thiện phải hiểu và liên hệ với chính những hình tướng hiện tượng, cả thế giới bên ngoài lẫn các trạng thái chủ quan bên trong nắm bắt nó. Do vậy các hiện tượng được trình bày dưới dạng bốn nguyên tắc kim cương: đó là sự không tồn tại của chúng, tính bình đẳng của chúng, hiện diện tự phát của chúng, và bản tính đơn nhất của chúng. “Nếu hành giả đem những nguyên tắc giống như thế này vào trong tâm trí mình thì họ sẽ dễ dàng thực hiện lời dạy này một cách tuần tự và có hệ thống”.

Có lẽ có tình trạng chưa rõ ràng ngay lập tức về việc áp dụng những nguyên tắc này vào tâm trí của hành giả như thế nào. Kho Tàng Bản Tính Nền Tảng không phải là một cẩm nang hướng dẫn thực hành. Tuy nhiên, sự mô tả của nó về cách thức xuất hiện các hiện tượng phải được hiểu và liên hệ đến việc giới thiệu học viên khá trực tiếp vào cái thấy và thực hành trekcho. Bốn nguyên tắc kim cương trên thực tế là bốn samaya (giới nguyện mật tông) về không có gì để nắm giữ, bốn cách mà những hành giả đủ tiêu chuẩn của Đại Toàn Thiện phải kinh nghiệm và hiểu các hiện tượng của thế giới bên ngoài được nhận thức bởi các giác quan cũng như các trạng thái tinh thần và cảm xúc chủ quan nắm bắt chúng. Kho Tàng Bản Tính Nền Tảng là sự khám phá sâu sắc và chi tiết về bốn giới nguyện này.

Cần phải hiểu rằng từ “samaya” ở đây được dùng với một ý nghĩa đặc biệt. Nói chung, ở cấp độ mật tông, samaya được hiểu là một lời cam kết, đề cập đến thái độ và hành vi mà các đạo sư và đệ tử cam kết thực hiện một khi quán đỉnh đã được ban ra và nhận được. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện tại, bốn “samaya” thực ra là bốn nguyên tắc, bốn cách hiểu về hình tướng hiện tượng, bắt nguồn từ sự chứng ngộ được tu luyện bởi hành giả Đại Toàn Thiện. Như Dilgo Khyentse Rinpoche từng lưu ý, trong bối cảnh đó, “samaya” ám chỉ trí tuệ bản nguyên bất động của cõi bao la tối thượng. Và “vì mọi thứ đều là sự phô diễn của trí tuệ này, giới nguyện này không thể bị vi phạm”.10

Bốn samaya của không có gì để nắm giữ được đề cập ngắn gọn trong Kho Tàng của Các Phẩm Tính Quý Giá của Jigma Lingpa, và một bản tóm tắt của chúng có thể được tìm thấy trong một bình luận ngắn gọn những hữu ích của Kangyur Rinpoche, bắt đầu bằng sự mô tả về loại người mà họ cần rèn luyện, cụ thể là, những người có khả năng thi hành các giáo lý Đại Toàn Thiện và những người mà bốn mật nguyện là vấn đề sống còn đối với họ. Ông nói:

Những người đã được giới thiệu trọn vẹn vào bản tính của tâm trí và có thể an trú trong đó sẽ nhận ra rằng những hình tướng bên ngoài là không có nền tảng và tỉnh giác bên trong là không có đối tượng. Những người như vậy an trú trong một trạng thái mà họ không phân biệt được điều gì nên được chấp nhận và điều gì cần phải bị từ chối.11

Sau đó ông lưu ý:

Các samaya của “không có gì để nắm giữ” ám chỉ cách mà người ta an trú trong bản tính nền tảng của mọi thứ, trạng thái bất hoại như kim cương, vốn chẳng có khiếm khuyết từ nguyên thủy, không bị chia cắt bởi nhị nguyên. Tâm trí và các hình tướng đều bị chế ngự bởi trí tuệ bản nguyên của pháp thân.12

Những phát biểu ngắn gọn nhưng đầy sức thuyết phục này tập trung vào điểm cốt yếu rằng việc thực hành Đại Toàn Thiện và đặc biệt là trekcho không bắt đầu bằng sự hiểu biết tri thức từ một quan điểm triết học, như trường hợp của các thừa thấp hơn trong giáo lý Phật, mà với sự chứng ngộ và kinh nghiệm vững vàng về bản tính của tâm trí, là thứ trong thực tế tương ứng với cái thấy trực tiếp về chân lý tối thượng trong chính nó. Nói cách khác, điểm khởi đầu cho việc thực hành Đại Toàn Thiện không phải là một sự hiểu biết tri thức mà là một trạng thái chứng ngộ. Trước cơ duyên nhận biết trực tiếp về về bản tính của tâm trí, nghiên cứu tri thức về Đại Toàn Thiện, mối quan tâm được chất chứa vào nó, và bản thân sự thực hành, nói đúng ra đều thuộc về con đường tu tập sơ khởi của nỗi khát khao tìm đạo nhưng lại có tầm quan trọng thiết yếu.

Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng là một bản thuyết trình thấu đáo trong đó mỗi một trong số bốn giới nguyện về “không có gì để nắm giữ” được giải thích trong bốn giai đoạn liên tiếp. Đầu tiên, ý nghĩa của giới nguyện trong câu hỏi (không tồn tại, bình đẳng, hiện diện tự phát, và bản tính đơn nhất) được tuyên bố hay tiết lộ trong một chuỗi những điểm then chốt. Thứ hai,các hiện tượng được khám phá sâu hơn và bản tính của chúng được tóm lược hay thiết yếu hóa dưới dạng giới nguyện trong câu hỏi. Thứ ba, quá trình tương tự được lặp lại nhưng lần này từ quan điểm của chính giới nguyện, nó được chứng minh là bao gồm hoặc gộp vào trong nó toàn bộ tập hợp các hình tướng hiện tượng.Cuối cùng, tất cả những điểm này được mang vào trong sự tập trung để dẫn đến một trạng thái chắc chắn mang tính quyết định.13

Để giới thiệu ngắn gọn về bốn giới nguyện samaya, chúng tôi tjam thời đề xuất tóm tắt sau đây. Chúng tôi đã chỉ ra rằng đặc trưng trong cách tiếp cận của Đại Toàn Thiện không giống như trong Trung Quán, vốn đặt các hiện tượng của thế giới bên ngoài vào phân tích logic như một phương tiện để làm suy yếu sự bám víu của chúng ta vào nó. Thay vào đó, nhiệm vụ là nhận ra bản tính của mọi hình tướng hiện tượng bên trong tâm trí và đạt đến hiểu biết, hay đúng hơn là nhìn thấy trực tiếp, rằng thế giới hiện tượng chẳng là gì khác ngoài sự phô diễn của tính giác. Đạt được và nghỉ ngơi trong sự nhận biết này chính là giải thoát. Vì theo giáo lý của Đại Toàn Thiện, chính xác là do không nhận ra bản chất của các hiện tượng là sự hiển lộ của tính giác, và thay vào đó lại tin rằng chúng tồn tại khách quan, nên chúng sinh lang thang trong những kinh nghiệm ảo tưởng của luân hồi, lầm tưởng rằng các hiện tượng là thật.

Longchenpa nói rằng giống như vũ trụ, dù rộng lớn đến đâu, cũng bị chứa đựng trong chiều sâu của không gian, tương tự với toàn thể thế giới hiện tượng của cả luân hồi và niết bàn, mọi thứ xuất hiện và có thể xuất hiện trong tâm trí của chúng sinh, đều sinh khởi trong sự mở rộng của tính giác thanh tịnh. Mọi hiện tượng không tồn tại bên ngoài tính giác. Ngay cả trong chính tính giác, các hiện tượng chỉ là những hình tướng không có thực thể. Đây là samaya hay nguyên tắc không tồn tại.

Khi yogi an trú trong nhận biết về bản tính tối hậu, trong hiểu biết rằng các hiện tượng là sự phô diễn hư ảo của tính giác, và khi, liên quan đến cùng những hiện tượng tương tự này, mọi nhận thức giác quan được để ngỏ và tự do, không có sự phân biệt hay đánh giá định tính, khi, nói cách khác, các hiện tượng được để mặc như chúng vốn có mà không có sự phán xét, “được an trú trọn vẹn trong sự mở rộng bao la của bản tính tối thượng”, chúng được cho là “bình đẳng”. Tất cả đều hiển lộ phẩm cách như nhau. Đây là samaya của tính bình đẳng bao trùm toàn thể.

Khi tính bình đẳng này được tiến thêm một bước nữa, chúng ta đến với samaya của sự hiện diện tự phát, có lẽ là thứ khó nắm bắt nhất. Nhìn chung, khi mọi thứ được cho là hiện diện tự phát, vấn đề được hiểu là chúng không sinh khởi do các nguyên nhân và điều kiện. Chúng chỉ đơn giản là “ở đó”. Để giải thích đặc tính của hình tướng hiện tượng này, Longchenpa dùng ví dụ về giấc mộng. Mặc dù mọi thứ được kinh nghiệm trong những giấc mơ, đối với người đang nằm mộng, là không thể phân biệt được với những thứ đối diện trong lúc thức, nhưng thực tế là chúng không phát sinh từ sự kết hợp giữa các nguyên nhân và điều kiện như những sự kiện chúng ta gặp lúc thức. Không có sự tồn tại bên ngoài tâm trí của người mơ, những hình ảnh trong mơ xuất hiện đơn giản nhờ “năng lực sáng tạo của trạng thái ngủ”. Chúng “chỉ ở đó”, hiện diện tự phát. Cũng giống như những hình ảnh trong mơ xuất hiện nhờ năng lực sáng tạo của giấc ngủ, các hiện tượng của cuộc sống lúc thức cũng phát sinh nhờ năng lực sáng tạo của tính giác, chúng không tồn tại ngoài tính giác.

Cuối cùng, người ta có thể suy nghĩ thêm rằng bất cứ hiện tượng nào được nhận thức, dù dưới dạng xuất hiện khách quan hay trạng thái chủ quan nhận ra chúng, và bất kể “sắc thái” của chúng là tích cực hay tiêu cực, tốt hay xấu, tất cả đều phát sinh, duy trì, và tàn lụi ngay trong tính giác. Theo nghĩa này, chúng chỉ đơn giản là một tính giác duy nhất. Samaya cuối cùng này là giới nguyện của bản tính đơn nhất.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
124
Điểm tương tác
12
Điểm
18
TÁC GIẢ CỦA BẢN BÌNH LUẬN

Khangsar Tenpai Wangchuk sinh năm 1938 tại quận Akyong Khangsar của Golok, một vùng xa xôi phía đông Tây Tạng hiện giờ thuộc về tỉnh Thanh Hải của Trung Quốc. Không lâu sau khi ra đời, theo báo cáo địa phương, có nhiều dấu hiệu siêu nhiên khác nhau xuất hiện, ông được các lama quan trọng của nhiều trường phái khác nhau công nhận là tái sinh của Panak Ontrul Rigdzin Dorje, một hóa thân của Yudra Nyingpo, một đệ tử của đại dịch giả thế kỷ thứ tám Vairosana, và là một trong 25 đệ tử của Đạo sư Liên Hoa Sinh. Tiểu sử chi tiết, mở đầu tập một trong tuyển tập các tác phẩm của Tenpai Wangchuk, mô tả trí thông minh sớm phát triển và những năng khiếu tâm linh của ông. Năm 1952, ông thọ giới tu sĩ đầu tiên ở tuổi 14 từ Akong Khenpo Lozang Dorje, giám đốc của shedra, hay trường đại học kinh điển của Thosam King, người sau này đã hướng dẫn ông về ba cấp độ giới nguyện của Phật giáo, và ban cho sự truyền trao Con đường Bồ Tát của Shantideva. Năm sau, ở tuổi 15, Tenpai Wangchuk đã chứng tỏ khả năng của mình bằng cách thuyết giảng trước công chúng hai chương đầu của văn bản này. Không lâu sau, ông nhận được từ người nắm giữ ghế lãnh đạo của tu viện Palyul Dimda, sự truyền dạy và giải thích Mật điển Guhyagarbha. Là người gắn bó với phái Nyingma, nhưng những nghiên cứu ban đầu của Tenpai Wangchuk vẫn có phạm vi rộng và phản ánh tinh thần bất bộ phái của phong trào rime. Ông đã nghiên cứu nhiều văn bản về truyền thống Geluk, đặc biệt là các sách giáo khoa của Jamyang Zhepa, người sáng lập đại tu viện Labrang Tashi Khyil ở Amdo, cũng như những tài liệu cơ sở cho các chủ đề, logic, và nhận thức luận được sưu tầm theo chương trình giảng dạy tại Geluk. Đồng thời, ông nhận được trao truyền đầy đủ các tác phẩm của Mipham Rinpoche. Ông bắt đầu nghiên cứu Trung Quán và Bát Nhã ba la mật ở tuổi 16 và trong năm sau đó nhận được những trao truyền các bản văn đề những chủ đề này do đạo sư Jonang nổi tiếng Bamda Thubten Gelek biên soạn.

Năm 18 tuổi, Tenpai Wangchuk hỏi ý kiến thầy mình là Palyul Choktrul Rinpoche và xin phép ông được vào Labrang Tashi Khyil ở Amdo. Tuy nhiên, Palyul Choktrul khuyên ông nên nộp đơn vào Amchok Tsenyi, một tu viện Geluk quan trọng cũng ở Amdo nhưng gần nhà hơn, và tự mình viết thư giới thiệu. Tenpai Wangchuk dành hai năm ở Amchok để nghiên cứu những tác phẩm vĩ đại về logic và nhận thức luận. Ông thăng tiến và nổi bật trên sân tranh luận, đến nỗi người ta nói rằng nếu ông ở lại đó, chắc chắn ông sẽ trở thành một geshe vĩ đại. Tuy nhiên, ông đã trở về nhà ở Khangsar với tư cách là một học giả trẻ đầy hứa hẹn. Vào thời điểm đó, tiểu sử ghi lại, ông đã có dấu hiệu là một terton, hay người khám phá kho tàng tâm linh.

Trong những năm tháng gian khó, giữa tất cả các nghịch cảnh, Tenpai Wangchuk không hề nao núng, ngày càng trở nên dũng cảm và có tầm vóc đạo đức. Ông tiếp tục việc học của mình, tham khảo nhiều vị thầy khác nhau trong vùng và thỉnh cầu sự hướng dẫn, đặc biệt là từ Domsta Terton Dudul Wangdrak Dorje và anh trai ông là Domtsa Namgyal. Cũng vào lúc đó, Tenpai Wangchuk đã bí mật nhận được những giáo lý quan trọng về Đại Toàn Thiện, như mật điển Bản Tính Nền Tảng Tự Sinh Khởi 15 và Sự Tinh Luyện của Nhận Thức 16 của Dudjom Lingpa.

Tiểu sử cho chúng ta biết rằng, không nản lòng trước tất cả các dày vò và thiếu thốn dành riêng cho giới tu sĩ và lama như ông. Tenpai Wangchuk đã có thể thực hiện đầy đủ các giáo lý lojong, hay tu tâm, đưa vào con đường bất cứ khó khăn nào ông gặp phải mà không rơi vào tuyệt vọng hoặc đánh mất từ và bi đối với những người đối đầu hoặc cùng cảnh ngộ như ông.

Năm 1971 đánh dấu một sự thay đổi quan trọng trong vận mệnh của Tenpai khi ở tuổi 33, ông được gửi đến Thangkarma, một khu lao động mà thật đáng ngạc nhiên là trong đó có không dưới năm mươi đạo sư và tulku thành tựu cao thu gom từ khắp Tây Tạng. Trong niềm hân hoan, ông thấy mình đang ở trước sự hiện diện của một loạt các bậc giác ngộ, nhiều người trong số họ đã lưu giữ trong ký ức của mình những kho tàng giáo lý khổng lồ và thực sự là toàn bộ các văn bản mà họ đã thuộc lòng. Nhờ đó, giữa tất cả những khó khăn khủng khiếp của cuộc sống trong khu lao động, ông đã có thể hoàn thành việc học của mình, bí mật nhận được những chỉ dẫn thiết yếu từ nhiều bậc thầy mà ông gặp ở đó. Ví dụ, chính tại Thangkarma, ông đã gặp bậc thầy Geluk vĩ đại Alak Yongdzin Lozang Khedrub Gyatso đến từ Labrang Tashi Khyil. Cảm thấy có lòng sùng mộ tự nhiên đối với vị đạo sự vĩ đại của truyền thống Kadam này, Tenpai đã nhận được từ ông Ba Phương Diện Chủ Đạo của Con Đường của Tsongkhapa và hướng dẫn thiết yếu về Các Giai Đoạn của Con Đường, cũng như những điểm cốt yếu của năm văn bản vĩ đại trong chương trình giảng dạy truyền thống của phái Geluk.

Trong số nhiều lama vĩ đại ở Thangkarma, người quan trọng nhất đối với Tenpai là Akyong Togden Lodro Gyatso thuộc phái Nyingma của ông. Trước khi tới đây, bậc thầy phi thường này, một học giả lớn có trí nhớ phi thường, đã sống cuộc đời của một ẩn sĩ lang thang. Giống Patrul Rinpoche trước đây, ông là một người lang thang không nhà cửa và hoàn toàn không có tài sản. Đã quen sống trong hang động và những nơi trú ẩn tạm bợ, ông đã hoàn toàn quen với những khó khăn về vật chất. Ông chỉ ăn những gì tình cờ tìm được hoặc những gì được cho, chỉ có một chiếc áo da cũ để che lưng và đã quen đi chân trần trên tuyết. Người ta có thể tưởng tượng rằng những khó khăn vật chất của khu lao động sẽ khó mà có thể ảnh hưởng đến một yogi như vậy, người dù sao cũng là một bậc thầy về tu tâm. Đối với ông cũng như Tenpai và các bậc đại sư khác trong cùng môi trường, những người gây khó khăn khổ sở cho họ chẳng là gì khác ngoài đối tượng của bi tâm và trợ duyên cho thực hành nhẫn nhục. Phù hợp với giáo lý rằng những vị Bồ Tát mang lại lợi ích cho những người làm hại họ, tiểu sử Tenpai cho chúng ta biết nhờ đạo hạnh hoàn hảo của các vị thầy này, những kẻ hung ác đã được đưa đến ngưỡng cửa giải thoát.17

Lodro Gyatso được tôn kính như một hóa thân của Vairotsana, dịch giả lỗi lạc nhất của Tây Tạng thời kỳ đầu. Cuộc gặp gỡ giữa ông và Tenpai (người mà, sẽ được nhắc lại, là một hóa thân của đại đồ đệ của Vairotsana, Yudra Nyingpo) đã đánh thức mối liên hệ cổ xưa giữa hai đạo sư. Mặc dù giữa họ chỉ cách nhau tám tuổi, Tenpai coi Lodro Gyatso như vị thầy đã thất lạc từ lâu của mình và nhận từ ông nhiều trao truyền và giáo huấn thiết yếu. Quá trình này được tạo điều kiện thuận lợi hơn rất nhiều từ 1973 trở đi, khi Lodro, Tenpai và một số người khác được chuyển đến khu lao động khác, trong đó quy chế thoải mái hơn và họ được phép nghỉ ngơi thường xuyên. Chính trong những dịp này, Tenpai đã nhận trao truyền từ Lodro nhiều tác phẩm của Longchenpa, Jigme Lingpa và những vị khác. Đặc biệt, ông đã hai lần nhận được những hướng dẫn khẩu truyền về Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng, trên cơ sở đó cuối cùng ông đã soạn thảo ra luận giải của mình.

Qua giai đoạn đó, Tenpai lên đường trở về Khangsar, nơi ông cống hiến phần đời còn lại của mình cho việc giảng dạy. Những tu viện Khangsar Taklung và Panak mà ông khôi phục đã phát triển nhanh chóng thành những cơ sở rộng lớn và cuối cùng là nơi ở của hàng nghìn học viên.

Tenpai Wangchuk, hóa thân của Yudra Nyingpo (một trong 25 học trò thân cận nhất của Đạo sư Liên Hoa Sinh), là một terton. Truyền thống terma, hay kho tàng tâm linh, tức là những giáo lý mà Đạo sư Liên Hoa Sinh được cho là đã cất giấu trong những tầng sâu nhất trong tâm thức các đệ tử của ngài, sẽ được tiết lộ bởi những hóa thân sau này của họ vào những thời điểm thuận lợi trong tương lai, là một đặc trưng chủ yếu của phái Nyingma.18 Cách thức mà những terme (kho tàng) này hiển lộ ra rất phức tạp và bí ẩn. Chúng xuất hiện theo ba cách: terme tâm, trực tiếp trong tâm của người khám phá kho tàng; terma đất, trong hình dạng của những vật thể vật chất được cất giấu ở những nơi chốn cụ thể, quang cảnh của chúng đánh thức trong tâm vị terton ký ức về những giáo huấn nguyên thủy của Guru Rinpoche; và cách thứ ba là qua các linh ảnh thanh tịnh.19 Tiểu sử cho thấy rằng khả năng phát lộ kho tàng giáo lý đã thức tỉnh trong dòng tâm thức của Tenpai khi ông còn trẻ. Nhiều kho tàng xuất hiện với ông dưới dạng terma tâm hoặc linh ảnh thanh tịnh, mà ông cảm thấy buộc phải viết ra nhưng đã bị thất lạc theo thời gian. Một số còn dang dở và cuối cùng bị chính Tenpai đốt cháy. Tuy nhiên, khi hoàn cảnh thuận lợi hơn, Tenpai đã phát lộ một số giáo khóa thực hành quan trọng, hoặc là terma tâm, hoặc terma đất. Những học thuật này đã được ông cam kết viết ra và bảo quản trong các tác phẩm sưu tầm của mình. Trong trường hợp terma đất, việc khám phá những vật thể vật chất được Guru Rinpoche cất giấu một cách kỳ diệu bên trong, như được nói là “tinh hoa của các nguyên tố” thường được thực hiện trong những điều kiện bí mật nghiêm ngặt nhất. Tuy nhiên đôi khi và chắc chắn là để khơi dậy niềm tin nới các học trò, Tenpai đã thực hiện hành động phi thường này trước sự chứng kiến của những đám đông lớn.

Là một vị thầy thiện xảo và không biết mệt mỏi, Tenpai cũng là một nhà văn có nhiều tác phẩm phong phú, đã sáng tác một loạt các tác phẩm quan trọng và say mê, một số trong đó đang được biên tập. Tại thời điểm được viết ra, bộ sưu tập có tám cuốn pecha Tây Tạng hay năm tập sách kiểu phương Tây. Là một phần của nỗ lực to lớn được thực hiện để tái lập thực hành Phật giáo ở Tây Tạng, Tenpai đã bảo toàn nhiều giáo lý đáng lẽ có thể bị thất lạc. Ông cam kết sẽ viết bằng hình thức rõ ràng và dễ tiếp cận với nhiều hướng dẫn thiết yếu liên quan đến cả Kinh điển, Mật điển, và đặc biệt nhất là giáo lý Đại Toàn Thiện.Chúng bao gồm các bình giảng của Jigme Lingpa trong Trí Tuệ Vô Song 20 và Mipham Rinpoche trong Ngọn Hải Đăng của Tính Xác Thực.21 Như chúng tôi đã đề cập, có lẽ điều phi thường nhất trong số đó là những bản bình luận không được đoán trước của ông về hai trong số Bảy Kho Tàng của Longchenpa: một bản bình luận lớn trong 450 trang về Kho Tàng của Pháp Giới và một bản giải nghĩa ngắn hơn về Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng được dịch ra ở đây.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
124
Điểm tương tác
12
Điểm
18
ĐẠI TOÀN THIỆN, DỊCH THUẬT, BÍ MẬT

MỘT CẢNH BÁO CHO ĐỘC GIẢ


Ở phần cuối của Kho Tàng Bản Tính Nền Tảng, Longchenpa đưa ra một mô tả khá ngắn gọn về loại người mà văn bản này được soạn thảo dành cho họ, những người mà ông cho là có thể hiểu và thực hiện bốn samaya về không có gì để nắm giữ. Ông thảo luận về những phẩm chất cần thiết của thầy và trò, và đối với các học viên, ông phân biệt rõ ràng những người nên được ban giáo lý với những người nên bị từ chối. Khenpo Tenpai Wangchuk bình luận khá chi tiết về những vấn đề này, mô tả sự cần thiết và lý do cho bí mật xung quanh giáo lý Đại Toàn Thiện.

Trong bối cảnh rộng hơn của mật tông, một số lý do theo truyền thống được đưa ra để giữ bí mật, che giấu giáo lý đối với những người tiếp nhận không phù hợp và đối với công chúng nói chung, những người chưa nhận quán đỉnh. Như được cho biết rằng mục đích của việc giữ bí mật là để duy trì tính toàn vẹn của chính các giáo lý và để bảo toàn tính thanh tịnh và công hiệu của dòng truyền thừa trong việc ban lực gia trì hay truyền trao năng lực tâm linh, là một đặc trưng tổng quát của mật thừa đối với các phương tiện thiện xảo. Ngoài ra, một điểm mà Tenpai nhấn mạnh, giữ bí mật cũng được xem như một phương tiện để bảo vệ những người không đủ phẩm chất khỏi những học thuyết có tiềm năng gây nguy hiểm cho họ. Trong bối cảnh hiện tại, điều này để cập đến đặc điểm trái ngược của một số học thuyết mật tông, chẳng hạn, những tuyên bố về tính hiệu quả như tính giác thì siêu việt sự vận hành của luật nhân quả về nguyên nhân và hậu quả, rằng từ điểm nhìn của tính giác thì những hiện tượng cho dù là “tốt” hay “xấu” chỉ là những hình tướng tuy rõ ràng như không tồn tại. Đối với những người hiểu sai giáo lý này và những người không được bảo vệ và giám sát từ một vị thầy đủ tiêu chuẩn, thì nguy hiểm sẽ nhiều gấp đôi.

Trước hết, ý tưởng cho rằng tốt và xấu là những thuật ngữ tương đối và có một cấp độ hiểu biết nào đó có thể vượt qua chúng có thể dẫn đến tình trạng mà theo truyền thống gọi là đánh mất phẩm hạnh trong cái thấy. Điều này phát sinh do không phân biệt được hiểu biết thuần túy tri thức với sự chứng ngộ tinh thần sâu sắc đích thực, dẫn đến ý tưởng sai lầm rằng vì tất cả đều là tính không, hay chỉ là sư phô diễn của tính giác, nên hạnh kiểm trong hành vi của một người là vấn đề không quan trọng, và rằng, trong thực hành, “mọi thứ đều chấp nhận được”. Tuy nhiên, sự hiểu biết tri thức thông thường không thể bão bỏ luật nhân quả. Quá trình nghiệp báo của hạnh phúc và đau khổ vẫn tiếp tục diễn ra theo lộ trình của nó, và hành động tiêu cực, bất kể ý tưởng nào mà người ta có thể ấp ủ về nó, đều dẫn đến sự chìm đắm đạo đức và tâm hồn không thể tránh khỏi. Trên thực tế, giáo lý đã nhiều lần cảnh báo về mối nguy hiểm này. Trong lời khuyên cho vua Trisong Detsen về thực hành mật tông, Guru Rinpoche được cho là đã nói: “Cái thấy hòa hợp với Pháp Thân, nhưng hạnh kiểm lại hòa hợp với con đường Bồ Tát”.22 Còn trong một dịp khác, ông nói một câu nổi tiếng: “Cái thấy của tôi cao hơn bầu trời, nhưng sự chú ý vào các hành động của tôi và hậu quả của chúng còn mịn hơn bột mì”.23

Nguy hiểm thứ hai của việc nói một cách thiếu thận trọng về các mật điển đối với đại chúng là những người không được chuẩn bị để tiếp nhận chúng có thể bị sốc và kết quả là có thể chỉ trích và bác bỏ chúng. Hành động này sẽ cắt đứt bất kỳ mối liên hệ nào mà họ có thể có với những giáo lý mật thừa, họ sẽ không bao giờ gặp lại chúng nữa và sẽ lang thang trong đau khổ trong nhiều kiếp sau. Một lần nữa, đây là một chủ đề được nhắc lại định kỳ trong giáo lý Phật phổ thông, trong đó mối nguy hiểm khi nói ra những vấn đề sâu sắc cho những người chưa được chuẩn bị đã được trình bày rõ ràng.24

Liên quan đến những nguy hiểm này, Tenpai nói mạnh mẽ và rõ ràng về sự cần thiết phải giữ bí mật những giáo lý cao hơn đối với những người chưa đủ phẩm chất để tiếp nhận chúng:

Chúng thậm chí không nên được nói ra trong một cơn gió thổi về hướng của họ ... Hành giả không nên có xu hướng giải thích những giáo lý bí mật cho những người không phù hợp. Không nên phát ra một âm tiết nào cho họ. Không nên đặt các kinh văn vào tay họ. Hành giả phải giữ bí mật.25

Đọc một tuyên bố như vậy, độc giả phương Tây hiện đại có thể phản ứng một cách buồn bã rằng bất kể tình huống nào có thể xảy ra ở những khu vực nhất định và trong những thời điểm nhất định ở Tây Tạng truyền thống, thì bây giờ đã quá muộn cho những cảnh báo như vậy. Trong thế giới ngày nay, bất kể bao nhiêu giáo lý được coi là bí mật đến đâu thì cũng đã được dịch và có sẵn trên thị trường hoặc có thể tải ngay xuống máy tính cá nhân của một người. Quảng cáo trên các tạp chí thời đại mới có thể chứa đựng những thông báo về những giáo lý cao cấp dành cho bất cứ ai có thời gian rảnh rỗi và đủ tiền để trả đăng ký theo dõi các khóa hướng dẫ yoga bí mật, từ tập trung vào các kinh mạch vi tế đến thiền định liên quan tới các cấp độ cao nhất của Đại Ấn và Đại Toàn Thiện.

Phản ứng trước thực tế này của cuộc sống hiện đại, một số vị thầy Tây Tạng đã nhấn mạnh dứt khoát rằng một số văn bản nhất định không nên được dịch, hoặc nếu có thì không nên xuất bản. Xem xét cách tiếp cận truyền thống của người Tây Tạng đối với việc đọc các văn bản tôn giáo tương phản với thái độ tìm hiểu tư do và cởi mở điển hình của độc giả phương Tây, quan điểm này ở một mức độ nào đó có thể hiểu được. Tuy nhiên, suy nghĩ cẩn thận cho thấy rằng việc cấm dịch thuật và xuất bản nói chung là một câu trả lời không thỏa đáng cho vấn đề hiện tại và không thể là câu trả lời đúng. Vai trò của dịch thuật chỉ đơn giản là mở rộng sang một ngôn ngữ khác cho việc truyền bá và bảo tồn các giáo lý. Đó là sự phục vụ dành cho các tác giả ban đầu, xuất phát từ cùng những mục đích đã thúc đẩy việc sáng tác văn bản của họ ngay từ đầu. Mục đích của nó là cung cấp khả năng tiếp cận Học thuyết cho những người muốn nghiên cứu nó bằng cách loại bỏ một trở ngại không thể vượt qua ngăn cản họ làm như vậy. Sự truyền bá của Phật Pháp qua nhiều thế kỷ, khắp Ấn Độ và xa hơn nữa, là một lịch sử dịch thuật. Việc phản đối biên dịch các kinh văn dường như lạc nhịp một cách kỳ lạ với một trong những đặc điểm cơ bản của chính truyền thống Phật giáp Tây Tạng, vốn được thiết lập, từ gốc rễ tới các nhánh, trên một khối lượng lớn, cả công truyền và bí truyền, từ các giáo lý được biên dịch.

Hơn nữa, không thể phủ nhận là sau khi dịch xong, nhiệm vụ tiếp theo là cung cấp cho những người cần nó. Điều không thể tránh khỏi là sẽ xuất bản trong một khuôn khổ hoặc hình thức nào đó. Trên thực tế, đây chính là nơi những khó khăn bắt đầu. Vì điều tự nhiên là các dịch giả của những kinh văn Đại Toàn Thiện, chẳng hạn, nên để ý rằng bằng cách khiến các văn bản hiện hữu trên thực địa lần đầu, họ đang góp phần vào việc phổ biến công khai các giáo lý vốn chỉ dành cho một nhóm người tiếp cận hạn chế và do đó đang tham gia vào việc phản bội lại phong ấn bí mật. Để bảo vệ chống lại tình trạng này, và như một phương tiện để đảm bảo rằng các giáo lý bí mật tìm được đích đến thích hợp và không rơi vào tay kẻ xấu, một số người nghĩ rằng nên tạo ra một loại hệ thống phân phối hạn chế nào đó. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy những kế hoặc như vậy chỉ có hiểu quả ở quy mô nhỏ trong phạm vi giới hạn của một nhóm khá hạn chế học viên mà danh tính của họ được biết và thuộc về một tổ chức nơi lưu giữ hồ sơ về những giáo lý và quán đỉnh đã được ban. Có thể trong những môi trường như vậy, việc phân phối văn bản sẽ được giám sát hiệu quả. Tuy nhiên, trong trường hợp của toàn thể cộng đồng Phật tử nói tiếng Anh, tình hình lại hoàn toàn khác. Căn cứ vào thực tế của ngành xuất bản hiện đại và những hoạt động tiếp thị giúp việc đó trở nên khả thi cũng như tính chất của internet nơi có quá nhiều tài liệu bị sao chép trái phép và có thể được tải xuống phi bản quyền, tính hiệu quả của các kế hoạch phân phối hạn chế như vậy là rất đáng nghi ngờ.

Được tư vấn gần đây về vấn đề có vẻ khó giải quyết này, Alak Zenkar Rinpoche (người có lẽ đã làm nhiều hơn bất cứ ai đang sống để bảo tồn di sản văn học Tây Tạng khỏi bị lãng quên thông qua công việc không mệt mỏi của mình là tìm kiến, biên tập và xuất bản các tài liệu Phật giáo trên quy mô lớn) đã trả lời rằng trong trường hợp dịch thuật và phổ biến kinh văn, yếu tố chính là động cơ. Nếu một người biên dịch và phổ biến các giáo lý bí truyền của các tantra và Đại Toàn Thiện một cách bừa bãi như một phương tiện kiếm sống hay như một cách để nâng cao danh tiếng của mình, nếu, nói cách khác, người đó cố tình đi ngược lại ý định của tác giả và những đòi hỏi của truyền thống, thì hành động của người đó chắc chắn là sai lầm. Mặt khác, nếu việc dịch thuật được thực hiện theo hướng dẫn của bậc thầy và với ý định chân thành trong việc tạo ra những văn bản không thể thiếu đối với những người cần chúng và những ai sẽ thực hành chúng, rõ ràng là người đó đang phục vụ truyền thống và sứ mệnh của các tác giả nguyên thủy. Trong trường hợp đó, Alak Zenkar nhận xét, làm sao có thể mắc lỗi được?

Đây có phải là một cầu trả lời hợp lý? Từ quan điểm của người dịch, và có thể là của cả nhà xuất bản, phải thừa nhận rằng đó có lẽ là câu trả lời khả thi duy nhất. Tuy nhiên, đối với độc giả tương lai, có lẽ còn có điều gì đó cần nói thêm. So với những vấn đề mà các dịch giả kinh văn bí truyền phải đối mặt, hoàn cảnh khó khăn của hành giả Phật giáo lại khác. Vì ngay cả khi người dịch có thể kêu gọi sự trong sáng trong ý định của chính họ, thì vẫn đúng là do việc đọc các kinh văn quá sớm cùng với những hiểu lầm có thể xảy ra từ việc này, bản thân người đọc có thể gặp rủi ro, do đó vẫn là đối tượng cần lo ngại.Cách duy nhất là phải trình bày rõ ràng một cách tẻ nhạt và thu hút trí thông minh cũng như tính chính trực của tất cả những độc giả có thiện chí. Những giáo lý bí mật thực sự được mở ra cho bất cứ ai sẵn lòng đi theo con đường truyền thống của lễ quán đỉnh, hướng dẫn, thực hành sơ khởi, và duy trì các giới nguyện samaya.

Những người đã được hướng dẫn theo phương pháp truyền thống sẽ không cần phải được nhắc nhở về tầm quan trọng của quán đỉnh, truyền thừa, và hướng dẫn truyền miệng, ba yêu cầu cho mọi thực hành mật tông. Hơn nữa, bất kể tính phức tạp của các vấn đề vừa được mô tả ra sao, nó vẫn đúng ở cấp độ hành vi cá nhân, việc hành xử theo những cách thức do truyền thống quy định vẫn hoàn toàn cần thiết. Những hành giả nghiêm túc của Phật giáo Tây Tạng, những người có may mắn được kết nối với những vị thầy chân chính thông qua việc nhận quán đỉnh và chỉ dẫn truyền miệng, quả thực đã nắm giữ được bí mật. Trên thực tế, họ không đề cập hay thảo luận cởi mở về những giáo lý mà họ đã nhận được hoặc những bài thiền mà họ đang tu tập. Ở cấp độ này, việc thực hành vẫn là một chủ đề bí mật không thể xâm phạm.

Tuy nhiên, đối với những người mới bắt đầu trên con đường và có thể chưa biết về khía cạnh này của Phật giáo Tây Tạng, cùng với những người vì tò mò đáng khen ngợi đã mua cuốn sách này và đã đọc đến nay, điều quan trọng cần nhấn mạnh là việc tiếp nhận và thực hành các giáo lý mật tông nói chung và Đại Toàn Thiện nói riêng chỉ nên được theo đuổi trong bối cảnh mối quan hệ với một vị thầy đủ tiêu chuẩn. Nếu thiếu kết nối này thì tốt hơn là không nên đọc thêm. Tốt hơn là nên giữ cuốn sách này một cách an toàn và kính cẩn cho đến khi các kết nối thích hợp được tạo ra và các giáo lý và quán đỉnh cần thiết đã được nhận. Điều quan trọng cần nhớ là sự trao truyền năng lực gia trì qua trung gian truyền thống sống động của các vị đạo sư giác ngộ là một thành phần không thể thiếu của phương pháp Đại Toàn Thiện, nếu không có nó thì việc giới thiệu vào bản tính của tâm trí sẽ không diễn ra. Cuối cùng, cũng nên nhớ rằng các tác giả Tây Tạng của những kinh văn Đại Toàn Thiện luôn đặt tác phẩm của họ dưới sự giám hộ của những vị bảo vệ tâm linh đầy quyền năng, kết quả là việc lạm dụng các kinh văn và giáo lý có thể dẫn đến bất hạnh. Có thể, có lẽ là có khả năng, một số độc giả hiện đại nhất định sẽ có xu hướng coi những cảnh báo này là mê tín dân gian. Tuy nhiên, nhiệm vụ của chúng tôi là làm rõ chúng và nhắc lại lời khuyên truyền thống rằng, từ một thực hành tự biên tự diễn được theo đuổi một cách riêng tư mà không tham chiếu tới truyền thống, thì thành tựu là thứ không nên mong đợi.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
124
Điểm tương tác
12
Điểm
18
LỜI CẢM ƠN

Mùa thu năm 2019, Tsultrim Zangpo Rinpoche, cháu trai và là người thừa kế tinh thần của Kyabje Tenpai Wangchuk và trụ trì tu viện Khangsar Taklung, đã đến thăm Dordogne, Pháp, cùng với Yingrik Drubpa Rinpoche và một số lama khác. Sau khi chính thức yêu cầu Padmakara dịch các tác phẩm được sưu tập bởi Tenpai Wangchuk, Tsultrim Zangpo Rinpoche được yêu cầu đến Dordogne và ban những trai truyền cần thiết. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên của chúng tôi là bảy tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với ông và Yingrik Drubpa Rinpoche, người chủ trì chính của dự án, vì lòng tốt của họ trong việc thực hiện chuyến hành trình dài và gian khổ đến Pháp, và vì tính kiên nhẫn và tử tế mà Tsultrim Zangpo Rinpoche đã ban các quán đỉnh, đọc các truyền trao và bình giảng bằng lời trong thời gian vài tuần.

Sau đó chúng tôi phải ghi âm lại lời cảm ơn của mình tới Jigme Khyentse Rinpoche và Tulku Pema Wangyal Rinpoche, đã tiếp đón ông và đoàn tùy tùng tại La Sonnerrie ở Saint Leon-sur-Vezere, Dordogne. Đối với công việc phía trước, chúng tôi đặc biệt muốn cám ơn Pema Wangyal Rinpoche vì nguồn cảm hứng không ngừng của ông và đã liên tục nhắc nhở chúng tôi rằng khi đối mặt với một nhiệm vụ lâu dài và dương như vô tận với khó khăn dường như không thể thực hiện được, bước đầu tiên là khát vọng. Cuối cùng, chúng tôi vô cùng biết ơn sự trợ giúp của Khenchen Pema Sherab ở tu viện Namdrolling ở Ấn Độ, người đã làm sáng tỏ nhiều điểm khó hiểu và nếu không có sự giúp đỡ của họ thì bản dịch văn bản hiện tại này đã không thể được thực hiện. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, chúng tôi xin sám hối bất kỳ sai sót nào trong bản dịch, khẩn cầu lòng từ bi và kiên nhẫn của các dakini và các vị Hộ Pháp.

Bản dịch này được thực hiện bởi Helena Blankleder và Wulstan Fletcher của Nhóm Dịch Thuật Padmakara.

PHẦN MỘT

KHO TÀNG TRÂN BẢO CỦA BẢN TÍNH NỀN TẢNG



TÁN DƯƠNG​



Kính lễ Phổ Hiền vinh quang!



Đức Phật đầu tiên,

Nền tảng của giác ngộ thực sự,

Vượt trên mọi thay đổi và hiện diện của chính nó,

Không gian của tinh túy kim cương, không thể phá hủy

Đây là bản tính của tâm trí,

Hoàn thiện tự nhiên vĩ đại.

Tôi không lấy gì và tôi không bỏ gì

Không có gì đến và chẳng có gì đi.

Như vậy tôi cúi đầu đỉnh lễ.



Sự mở rộng của bản tính không thể diễn tả được của mọi hiện tượng,

Đỉnh cao của mọi quan điểm và khác biệt với tất cả chúng,

Ý nghĩa siêu việt tất cả của Đại Toàn Thiện

Bây giờ tôi sẽ giải thích theo sự chứng ngộ của tôi.

Hãy lắng nghe!



Cái thấy tối thượng và tinh túy

Thuộc về tâm trí, không gian, lớp hướng dẫn cốt lõi

Nằm trong sự không tồn tại, bình đẳng,

Hiện diện tự phát, bản tính đơn nhất.

Mỗi một trong số bốn thứ này lần lượt có bốn khía cạnh:

Những điểm chính yếu của chúng được tiết lộ, tinh túy hóa, thu gọn lại,

Khi đó có được niềm tin rõ ràng về chúng.



1. KHÔNG TỒN TẠI



1. Đầu tiên tôi chứng minh nguyên tắc không tồn tại.

Không tồn tại nghĩa là sự vắng mặt của bản thể nội tại.

Trong sự mở rộng vĩ đại của tâm trí giác ngộ, giống như không gian,

Bất cứ thứ gì xuất hiện đều không có bản thể nội tại.

2. Trong sự mở rộng bao la, tử cung của không gian,

Vũ trụ, chúng sinh nó chứa đựng,

Và bốn nguyên tố trong dòng chảy không ngừng

Chỉ là những hình tướng trống rỗng không có bản tính cố hữu,

Mọi sự xuất hiện trong tâm trí giác ngộ

Đều chỉ là nhau.

3. Những phản chiếu huyễn ảo, dù chúng xuất hiện thế nào,

Đều không thật, trống rỗng trong bản tính.

Tương tự, mọi sự vật trong thế giới hiện tượng,

Ngay trong khoảnh khắc xuất hiện,

Không bao giờ hoạt động ngoài tâm trí giác ngộ,

Chúng không tồn tại thực sự.

4. Những hình ảnh trong mơ, không bao giờ hoạt động ngoài trạng thái ngủ,

Ngay trong khoảnh khắc chúng được nhìn thấy, hoàn toàn không có thật

Tương tự, mọi thế giới hiện tượng,

Cả luân hồi và niết bàn,

Không bao giờ vận động ngoài tâm trí giác ngộ.

Nó không có thật, không có các đặc tính.

5. Mặc dù các hiện tượng xuất hiện trong tâm trí,

Chúng không phải là tâm trí và không tách rời khỏi tâm trí.

Chúng không tồn tại

Tuy nhiên, giống như ảo ảnh, xuất hiện rõ ràng.

Chúng không thể diễn tả, và không thể tưởng tượng.

Chúng thách thức sự biểu lộ.

Do đó hãy hiểu rằng mọi hiện tượng

Xuất hiện trong tâm trí là không tồn tại

Ngay trong khoảnh khắc chúng được nhận biết.

6. Giống như các đối tượng bề ngoài về bản thể là không tồn tại

Chủ thể, tâm trí giác ngộ cũng vậy

Giống như không gian, không có tồn tại về bản chất của nó.

Không thể diễn tả, không thể suy lường và không thể diễn tả

Đó là điều mà bạn nên hiểu.

7. Bởi vì trong trí tuệ bản nguyên tự sinh khởi,

Tinh hoa tối thượng,

Không có nhân chẳng có quả,

Vực thẳm bao la của luân hồi được vượt qua.

Bởi vì chẳng có tốt hay xấu,

Nên luân hồi và niết bàn đều giống nhau.

Bởi vì không sai lệch cũng chẳng che chướng,

Ba hiện hữu đều được hiểu rõ ràng.

8. Trong bản tính của tâm trí, giác ngộ, giống như không gian,

Không có các mặt, không phương hướng, không chia tách.

Trong đó không có cái thấy, không có thiền định,

Và không có thệ nguyện để tuân thủ.

Trong đó không có hoạt động nỗ lực;

Không có bức màn nào che chắn trí tuệ nguyên thủy.

Không có tu tập về nền tảng, không có con đường để đi qua.

Không có “thứ vi tế”;

Vì (thô và tế) không phải là hai,

Không có liên kết nào giữa chúng.

Quy kết về tồn tại hay không tồn tại đều bị siêu vượt;

Như vậy không có tốt hay xấu.

Tất cả là một sự mở rộng, trong đó như trên một hòn đảo vàng,

Không có sự khác biệt.

Bản tính tự sinh khởi của tâm trí,

Giống như không gian phi hiện hữu,

Bất chấp sự mô tả và biểu lộ.

9. Bởi vì tinh hoa tối thượng

Tính giác, mở rộng, không bị ngăn ngại

Không thể được tạo dựng,

Nó không được cải thiện bằng đạo hạnh,

Nó không thể bị thay đổi,

Nên cái ác không thể làm hại nó.

Bởi vì không có hành động cũng như kết quả của nó,

Không có sự chín muồi của niềm vui và nỗi buồn.

Vì trong đó không có tốt và xấu,

Không có gì để lấy hay bỏ,

Không có luân hồi, không có niết bàn.

Bởi vì không có suy nghĩ và không có biểu hiện,

Tỉnh giác là một không gian thiếu vắng những phiền phức như vậy.

Vì không có tiền kiếp hay hậu kiếp,

Dòng tái sinh chỉ là sự quy kết.

Cái gì sinh? Ai được sinh ra và ở đâu?

Có hoạt động gì ở đó? Kết quả chín muồi của nó là gì?

Mọi thứ giống như không gian.

Hãy nghĩ về nó và nghiền ngẫm về nó.

10. Dù bạn có thể khảo sát bằng suy luận,

Cân nhắc, suy ngẫm hết lần này tới lần khác,

Các hợp phần của mọi sự vật đều không có thực tại.

Vì không có một phần tử đơn lẻ nào được tìm thấy,

Chẳng có khoảng khắc nào không phân chia,

Không có thứ được nhận biết và không có chủ thể nhận biết,

Ngay trong khoảnh khắc này, mọi thứ an định

Trong bản tính nền tảng tinh túy.

Khi khảo sát, vạn sự không tồn tại.

Tương tự, khi bỏ qua khảo sát,

Chúng cũng không có sự tồn tại.

Ngay cả ở mức độ thông thường,

Vì chẳng có gì được tìm thấy,

Mọi hiện tượng trong tất cả các khía cạnh và mọi lúc

Không có sự tồn tại.

Hãy hiểu rằng chúng giống như ảo ảnh huyễn thuật,

Thiếu vắng mọi thực tại.

11. Ngay trong khoảnh khắc đối diện

Những giấc mơ và ảo ảnh huyễn thuật,

Chúng sinh non trẻ bám dính một cách ngu dại

Vào tồn tại giả định của chúng

Và bị chúng dẫn dắt.

Nhưng những ai đã hiểu bản chất của chúng

Chẳng thể bị lừa dối theo cách đó.

Trong cùng cách thức như vậy, những người không biết

Vạn sự không tồn tại

Bám luyến vào mọi thứ như thể có thật,

Và bị chúng kiểm soát, họ quay cuồng trong luân hồi.

Yogi thành thạo trong hiểu biết chân như thực tại

Xác dịnh rằng mọi thứ đều thiếu vắng sự tồn tại đích thực

Ngay trong khoảnh khắc họ nhận biết chúng.

Do đó, họ tìm thấy sự tự do

Trong không gian pháp tính vượt ngoài

Luật nhân và quả của nghiệp báo.

12. Bản tính giác ngộ của tâm trí

Không thường hằng cũng chẳng gián đoạn.



Đó là nơi trú ngụ tự nhiên của trí tuệ nguyên thủy

Không có chủ thể nhận biết và đối tượng được nhận biết.

Tỉnh giác, trần trụi và không có nguyên nhân và kết quả,

Là nơi trú ngụ của cõi giới đơn nhất đó

Trong đó không có đức hạnh và tội lỗi.

Tỉnh giác, mở rộng, không bị cản trở, thoát khỏi trung tâm và ngoại vị,

Là nơi trú ngụ của tuệ tâm

Của pháp thân Phổ Hiền.

Tinh hoa cốt lõi của sự không tồn tại,

Tỉnh giác, tự nhận thức và giác ngộ,

Được hiển lộ rõ ràng.

Nó hoàn toàn thanh tịnh và không có đối tượng,

Trí tuệ bản nguyên của Đấng Chiến Thắng.

13. Trong trường hợp của những yogi ảo tưởng,

Kinh nghiệm tự có về tính giác

Phát sinh như sự trình diễn không ngừng của những sự vật không tồn tại

Những yogi đó tin tưởng rằng trong thời điểm xuất hiện,

Các hiện tượng không có sự tồn tại.

Do đó họ không tạo ra chút nỗ lực nào

Chấp nhận cái này, từ chối cái kia.

Với tâm trí khoáng đạt không chút bận tâm,

Họ nghỉ ngơi trong trạng thái để mặc

Mọi thứ như chúng là.

14. Chúng sinh non tẻ, bị lôi cuốn bởi những thứ không tồn tại,

Giống những con thú đang khát đi tìm nước trong ảo ảnh.

Mong tìm thấy chân lý trong những học thuyết giả tạo, sai lầm

Họ bị lừa dối trong những giáo lý khác nhau,

Tưởng rằng chúng là chân thật.

Bây giờ nếu sai lầm này của tri thức thông thường,

Thuộc về các thừa tiệm tiến, tổng cộng có tám,

Nó không được loại trừ, tinh hoa tối thượng không được nhận ra.

15. Atiyoga là sự mở rộng tối thượng,

Siêu việt từng phạm trù.

Không có bất cứ thứ gì, chỉ là bản tính như không gian.

Ngay trong khoảnh khắc này không có chuyển động nào dù là nhỏ nhất

Từ cảnh giới nền tảng của pháp thân.

Khi bạn nghỉ ngơi trong sự mở rộng nguyên sơ,

Đại lạc tự nhiên sẽ tự hiện diện.

16. Nếu tính giác, trạng thái bí mật của trí tuệ,

Bạn không chứng ngộ,

Bạn sẽ không tìm thấy giải thoát

Thông qua những hành động thiện hạnh bạn có thể tạo dựng.

Bạn không hiểu sao?

Mọi thứ có điều kiện (các pháp hữu vi) đều biến mất,

Định mệnh sẽ tan rã.

Làm sao nút thắt chặt này

Của thân, lời và tâm trí

Có thể tiếp xúc với

Tinh hoa tối thượng và bất hoại?

17. Vì vậy, nếu bạn mong ước chứng ngộ

Bản tính nền tảng tuyệt luân của mọi hiện tượng,

Hãy từ bỏ mọi thứ như trò chơi trẻ con,

Chúng trói buộc và làm bạn kiệt sức

Trong thân, khẩu, ý của bạn

Trạng thái không tồn tại, sự mở rộng

Không có hoạt động của tâm trí, là bản chất của mọi hiện tượng.

Đó là pháp tính, nơi trú ngụ

Của Đại toàn thiện tự nhiên.

Trong trạng thái toàn khắp này không có hành động,

Vốn vượt ngoài mọi suy nghĩ,

Hãy chứng kiến tính bình đẳng vĩ đại và không được tạo dựng

Sự xác thực tuyệt đối sẽ đến, nó siêu việt

Nhân quả và gắng sức.

18. Trong tâm tỉnh giác, không có đối tượng bên ngoài nào để nhận biết

Không có chủ thể bên trong nhận biết.

Khi tỉnh giác, không có thời gian và không gian.

Sự tỉnh giác vượt qua các hiện tượng sinh và diệt.

Nó thanh tịnh như không gian

Chẳng loại xe cộ nào dẫn bạn tới được đó.

Mọi suy nghĩ về nó đều sai lầm,

Vì họ theo đuổi các hiện tượng với một nhân dạng.

Hãy vứt bỏ nền tảng này vì sự chệch hướng và các mức màn che chướng.

Hãy tin rằng mọi thứ không có sự phân biệt

Có bản tính của Phổ Hiền,

Trạng thái toàn khắp và vĩ đại của tính không.

Hãy giữ trạng thái của pháp tính

Vượt trên mọi biến đổi và vận động.

Bằng cách này, bạn bay lên giữa không gian như bầu trời của cái thấy,

Sự mở rộng nguyên thủy vốn nghỉ ngơi không có cực biên

Tất cả những điểm then chốt về sự không tồn tại của mọi hiện tượng

Đều được trình bày ở đây.

19. Những điểm then chốt về không tồn tại

Của mọi hiện tượng đã được tiết lộ như vậy.

Sau đó, trong trạng thái không thiền định,

Nơi mọi thứ được để yên và không bị tác động vào, chỉ như nó đang là,

Một trạng thái không chấp nhận hay bác bỏ bất cứ chuyện gì xảy ra,

Những điểm giống nhau này được tinh túy hóa trong sự tỉnh giác:

Sự quân bình, tính bình đẳng trong sự mở trộng quảng đại của tâm trí.

20. Đại lạc tự nhiên,

Không gian kim cương bất hoại,

Trong sự hấp thu tối hậu nó là sự hiện diện tự thân

Không cần tu luyện nó.

Nó ở đó mọi lúc như dòng sông tuôn chảy.

Nếu bạn ở trong trạng thái bình thản, trong một trạng thái

Thoát khỏi mọi sắp đặt,

Nó sẽ biểu lộ rõ ràng và tự nhiên.

21. Khi bạn an trú đúng cách trong pháp tính tựa không gian,

Không có thay đổi hay chuyển động nào

Do đó, không có việc lang thang và không có sự vắng mặt giống nhau.

Sự mở rộng tối thượng này, tối cao và vô tận,

Hiện diện không thể tách rời trong mọi sự vật.

Nó không phải là một cảnh giới mà ngôn từ có thể diễn tả

Những người mà trí tuệ nở hoa,

Những người tỉnh giác đến không thúc ép

Những tâm tâm trí không bị cản trở

Dù họ đã tham gia vào nghiên cứu

Những yogi kinh nghiệm điều không thể diễn tả và không thể nghĩ bàn

Hoàn toàn chắc rằng trạng thái này

Siêu việt cả chỉ dẫn lẫn không chỉ dẫn

Họ không tìm thấy thiền định hay bất cứ thứ gì để thiền trên đó

Và do vậy họ không cần tieu diệt

Những kẻ thù của hôn trầm và trạo cử.

22. Những hình tướng và tâm trí

Là tự do và mở rộng ngay từ khởi đầu

Không tồn tại trong bản thể

Những hình tướng ảo tưởng

Có như là trạng thái tự nhiên của chúng

Sự mở rộng bao la của tính bình đẳng, pháp tính

Không ngừng tồn tại trong pháp thân,

Sinh khởi và lắng xuống nối tiếp,

Trụ lại trong sự mở rộng của lạc thọ.

Sinh khởi, chúng khởi sinh tự phát

Giữ nguyên bản tính của chúng

Tàn lụi, chúng lắng xuống tự phát

Giữ nguyên bản tính của chúng

Chúng sinh, trụ, hoại diệt

Trong sự mở rộng của pháp tính.

Chúng chẳng đến từ đâu,

Chỉ là sự pho diễn của pháp thân.

Chúng là những hình tướng trống rỗng

Của sự tự kinh nghiệm trong tính giác.

Chúng không khác nhau;

Chúng chẳng tốt lẫn xấu,

Hãy an trú trong tinh hoa tối thượng của chúng.

23. Bất cứ thứ gì có thể khởi sinh, bất cứ thứ gì có thể xuất hiện,

Bất cứ trạng thái nào của chuyển động hay tĩnh tại có thể xuất hiện

Năm độc và những thứ còn lại,

Phát sinh từ năng lực sáng tạo của tính giác

Khi bản tính của chúng được phát hiện trong khoảnh khắc khởi sinh

Những hình tướng biểu hiện tượng tự này đến cùng sự cạn kiệt của chúng.

Chúng biến mất không để lại bất kỳ dấu vết nào.

Khi tâm trí nhận biết các đối tượng của nó,

Điểm then chốt là để mặc tất cả như chúng đang là

Trong tính bình đẳng của chúng.

Điểm chính yếu là bỏ lại tất cả không dấu vết

Giống như đường bay của mộy con chim

Bên trong trí tuệ bản nguyên, tự sinh khởi.

Điểm quan trọng là mọi thứ

Và sự mở rộng tối thượng là một,

Như nước và các cơn sóng của nó.

Mọi sự là, ngay từ đầu, đều được bản tính hóa

Bên trong điểm chính yếu này của bí mật vĩ đại.

Chỉ cần biết điều này cũng mang lại giải thoát,

Vì nó đơn giản là bản chất của các hiện tượng.

24. Không ngừng bên trong sự mở rộng vĩ đại,

Tính giác, tự nhận thức,

Tất cả đều khởi sinh bình đẳng và trụ lại bình đẳng,

Tất cả đều bình đẳng khi tan hoại, không tốt không xấu.

Chẳng có gì không bình đẳng với tính giác,

Chẳng có gì không an trú,

Và chẳng có gì không tan hoại bên trong đó.

Mọi thứ đều được bản tính hóa.

Như sự mở rộng bao la nguyên thủy

Của trạng thái giác ngộ.

25. Trong tính giác, hiện diện tự phát và không tạo tác,

Cái thấy về trạng thái tự nhiên và bao la

Khởi sinh không nỗ lực.

Điểm chính yếu của tâm trí giác ngộ,

Nằm ngoài luật nhân quả,

Siêu vượt tội lỗi và đức hạnh,

Được bản tính hóa như là pháp tính bất biến.

26. Không tồn tại, nó như khôn gian trong bản chất của nó,

Bao gồm mọi thứ trong đó không có ngoại lệ.

Giống như không gian bao gồm thế giới và cư dân của nó,

Các hiện tượng, kinh nghiệm của tâm trí bình thường,

Được bao gồm toàn bộ trong tính không nguyên sơ vĩ đại.

27. Luân hồi chỉ là một cái tên.

Nó vượt ngoài tiến trình nhân quả,

Vượt trên mọi nỗ lực và mọi đảm nhiệm.

Thiện và ác chẳng giúp cũng chẳng hại;

Chúng là hai trạng thái trống rỗng.

Giải thoát cũng chỉ là một danh xưng,

Và không có niết bàn.

Chẳng có gì để đạt được hay làm được

Bằng các phương tiện của mười nguyên tố.

28. Không ngừng nỗ lực trong cái chỉ có thể mang lại mệt mỏi

Thì giống như trẻ con xây lâu đài trên cát.

Tất cả đều được định sẵn sẽ sụp đổ. Mọi nhân và quả,

Mọi thiện và bất thiện hạnh, mọi cố gắng và nỗ lực

Vạn sự ngay từ đàu đã được gộp vào trong sự không tồn tại.

29. Những yogi của Atiyoga tinh túy

Những giáo lý dựa trên nhân quả,

Được thiết kể để hướng dẫn những người đơn giản,

Tạo nên con đường cho những người kém may mắn hơn,

Những người tiến bộ trên con đường đi lên theo từng giai đoạn.

Họ nên thu gom bản tính của tâm trí mình,

Siêu việt mọi hiện tượng,

Vào trong sự trống vắng như không gian của mọi hành động.

30. Chúng sinh bị lạc đường bởi hành động

Hãy nhìn vào những hình tướng lừa dối của luân hồi.

Chúng sinh bị ảnh hưởng bởi những nỗ lực của họ

Hãy nghĩ đến vòng quay của đau khổ,

Từ tội lỗi và đức hạnh dẫn đến một

Dòng chảy vô tận của khổ sở và hạnh phúc.

Thông qua những hành động của họ, chúng sinh lang thang

Trong luân hồi các cõi cao và thấp.

Không có cơ may nào cho họ chạy trốn

Khỏi đại dương của sự tồn tại.

31. Nếu bạn cắt đứt dòng chảy thiện hạnh và bất thiện hạnh

An trú trong pháp tính và không bao giờ rời khỏi nó,

Bạn sẽ là một yogi của đại bí mật tối thượng.

Thoát khỏi mọi nỗ lực và cố gắng, bạn sẽ đạt tới

Nền tảng nguyên thủy và ngồi trên ngai hoàng gia

Của pháp thân hằng hữu.

32. trong mỗi khoảnh khắc mọi sự xuất hiện,

Chúng vượt ngoài mọi quan niệm sai lầm

Và mọi ngôn ngữ diễn đạt tên gọi và ý nghĩa

Mọi hành động và nỗ lực đều dựa trên nguyên nhân và kết quả của nó,

Chấp nhận cái tốt, từ chối các xấu

Tất cả đều là những thứ không tồn tại

Và mọi hành động không tồn tại, chỉ như không gian.

Bất cứ ai biết được điều này thì đã thu gom

Vạn sự vào trong trạng thái không tồn tại.

33. Niềm tin chắc chắn rằng mọi hiện tượng là không tồn tại

Chủ yếu đạt được như sau.

Bởi vì sự thế giới hiện tượng,

Mọi thứ trong luân hồi và niết bàn,

Đều không có bản thể tự tính,

Nó siêu việt các trạng thái tồn tại,

Bởi vì nó không ngừng xuất hiện

Nó siêu việt trạng thái không tồn tại,

Chẳng tồn tại và chẳng không tồn tại,

Nó siêu việt trạng thái của cả hai,

Không phải cả hai,

Nó vượt qua trạng thái chẳng là gì.

Vừa chẳng là gì vừa chẳng phải không là gì,

Nó là tinh hoa tối thượng

Vượt ngoài mọi suy nghĩ và ngôn từ,

Nằm ngoài mọi chỉ dấu.

34. Bản tính mọi hiện tượng là thanh tịnh nguyên thủy,

Nhưng chúng sinh non trẻ, không biết điều này,

Chấp nhận một số thứ này và từ chối một số thứ khác.

Bám dính vào những quan điểm khác nhau của mình, họ vĩnh viễn bị trói buộc.

Bám luyến và những đặc tính mà họ cảm nhận, họ đau khổ làm sao!

Bám víu vào một cái ngã trong cái không tồn tại, họ mê lầm làm sao!

Bám chặt vào những phương diện của cái vô phương diện, họ mệt mởi biết bao!

Không ngừng trôi dạt trong luân hồi, họ đáng thương biết bao!

35.Mặt trởi của thực tại tối thượng, tính giác, tự sinh

Bị che phủ bởi những đám mây trắng thiện hạnh

Và những đám mây đen tội lỗi.

Và nó tràn ngập bởi những tia sét:

Đắm mình trong nỗ lực chấp nhận và chối bỏ.

Chúng sinh đó bị ướt đấm trong mưa như thác lũ

Những hình tướng giả tạo của hạnh phúc và đau khổ

Những thứ này làm cho hạt giống luân hồi chín muồi

Như mùa vụ của sáu cõi luân hồi.

Chúng sinh bị dày vò, và họ đáng thương làm sao!

36. Như dây thừng và xích vàng ràng buộc ngang nhau,

Các trạng thái thiện và bất thiện hạnh

Ràng buộc tinh túy tối thượng như nhau.

Những đám mây, dù đen hay trắng, che phủ bầu trời ngang nhau.

Tương tự, thiện hạnh và bất thiện hạnh đều che khuất tính giác ngang nhau.

Do đó, điều quan trọng cần hiểu

Rằng các yogi đã chứng ngộ chân như

Nhìn xa hơn luật nhân quả của đức hạnh và tội lỗi.

37. Trí tuệ tự sinh khởi lên từ bên trong.

Đêm đen của nhân quả tiêu tan.

Những đám mây lớn của thiện và ác tan biến.

Mặt trời của ánh sáng tối thượng

Chiếu sáng bầu trời pháp giới

Bạn đạt được sự xác thực rõ ràng và rốt ráo.

Bạn có được sự xác tín này

Mà không cần mười yếu tố.

Nhờ đó, mọi thừa nhân quả đều bị vượt qua.

38. Bạn dạt được sự xác tín rõ ràng

Rằng tỉnh giác tự nhận thức, rộng mở, không bị ngăn ngại,

Thoát khỏi mọi hình tướng,

Vượt trên mọi thiền định tập trung vào một đối tượng,

Thoát khỏi mọi cấu trúc khái niệm

Là trạng thái trong đó mọi hiện tượng đều cạn kiệt.

Tất cả đều cạn kiệt trong tâm tỉnh giác.

Tỉnh giác, cũng vậy, là một hiện tượng,

Tự nó đi đến chỗ cạn kiệt.

“Cạn kiệt”, “không cạn kiệt”

Yogi hiểu rằng cả hai đều không thực.

Họ được thuyết phục vượt qua mọi nghi ngờ

Rằng mọi thứ siêu việt tồn tại và không tồn tại

Định nghĩa và biểu lộ

Không có một điểm tham chiếu, nghĩ “nó là thế này”

Các yogi được bao bọc trong sự bao la toàn khắp.

Đối với họ mọi hiện tượng đều cạn kiệt,

Vượt ngoài tâm trí bình thường.

Và đối với những yogi như vậy đây quả là một niềm vui

Một niềm vui là trạng thái liền mạch của pháp tính!

Trong đó, các yogi trong quá khứ, tương lại,

Và hiện tại đều hòa nhập

Với sự mở rộng tối thượng đơn nhất của tâm trí tuệ.

Sự giác ngộ của những yogi đó ngang bằng

Với chư Phật và những người an trú trong minh giác (vidyadhara).

39. Cùng sự mở rộng này, không thay đổi,

Vô điều kiện, không thể phân chia

Là không gian của trí tuệ bản nguyên tự sinh

Siêu việt mọi nỗ lực và cố gắng.

Đó là cùng sự mở rộng trong đó các hiện tượng

Vượt ngoài mọi cái tên đơn thuần,

Mọi ý nghĩ và mọi diễn tả.

Và trong sự mở rộng tối hậu của Phổ Hiền,

Vốn thoát khỏi mọi hành động,

Mọi thứ ở đó xuất hiện

Chẳng là gì khác ngoài sự mở rộng bao la của Phổ Hiền.

Và trong sự mở rộng tối hậu của Phổ Hiền

Không có các hình tướng, chẳng có tính không;

Không có cả tốt và xấu.

Khi cái không tồn tại được coi là có tồn tại,

Các nhãn hiệu được nhận dạng được gắn lên

Những thứ chỉ là ảo tưởng sai lầm.

Nhưng ngay cả khi việc dán nhãn diễn ra,

Không có ảo tưởng và không có sự vắng mặt của ảo tưởng.

Một niềm tin rõ ràng nhờ vậy đã có được

Rằng các hiện tượng siêu việt mọi danh tự

Đó là bản tính nền tảng

Của đại toàn thiện tự nhiên.

40. Như vậy bạn xác thực rõ ràng rằng

Trong thế giới hiện tượng, luân hồi và niết bàn,

Chẳng phải là những ảo tưởng cũng chẳng phải không ảo tưởng,

Và niết bàn đó đạt được không phải bằng cách xa lánh luân hồi.

Bạn định rõ rằng các hiện tượng chẳng sinh cũng chẳng bất sinh.

Mọi đối tượng mà bạn bám dính vào, khởi nguồn, đoạn diệt,

Tồn tại, không tồn tại, tất cả giờ đều được vượt qua.

Hãy tin rằng mọi thứ chẳng tịnh lẫn bất tịnh,

Bạn nhìn chúng như một không gian bình đẳng,

Không tốt để được chấp nhận,

Cũng chẳng xấu, để bị từ chối.

Bạn đạt đến niềm tin chắc chắn rằng vạn sự

Đều ở trong sự mở rộng bao la của Phổ Hiền.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
124
Điểm tương tác
12
Điểm
18
2. BÌNH ĐẲNG



Khi bản tính nền tảng của các hiện tượng

Tính không tồn tại của chúng, được lĩnh hội đúng đắn,

Bản tính bình đẳng của chúng được hiểu,

Theo các giáo huấn của Atiyoga

Đỉnh cao của mọi thừa,

Tâm trí bao la và rộng lớn của Phổ Hiền,

Vĩ đại nhất của vĩ đại,

Như bầu trời, vượt ngoài cả trung tâm và chu vi.

Nó có đặc tính đại bình đẳng toàn vẹn.

1. Bản tính nền tảng, như nó là,

Của những thứ thuộc về thế giới hiện tượng

Và của tâm trí giác ngộ không hình dạng

Không bao giờ tách khỏi trạng thái

Thoát khỏi cấu trúc khái niệm.

Ơ đây không có trong tâm, không ngoại vi, vô niệm

Sự bình đẳng của nó tồn tại

Trong một trạng thái rộng mở không gián đoạn.

2. Mọi thứ xuất hiện như những đối tượng của giác quan,

Trong khoảnh khắc xuất hiện,

Đều không có thực chất, không có cấu phần

Một trạng thái bình đẳng vô hạn và toàn khắp.

Tâm trí, tính giác, tự nhận thức không thể

Bị phân chia thành những khoảnh khắc, trước đó và sau đó.

Nó là một trạng thái như không gian

Của tính bình đẳng vô hạn và toàn khắp.

Quá khứ đã qua, tương lai chưa hình thành.

Giây phút hiện tại không ở lại.

Tất cả đều không có nền tảng trong tâm trí giác ngộ,

Tất cả đều không có gốc rễ, không có thực chất,

Vượt ngoài tầm chỉ dẫn.

Về bản chất nó là một trạng thái hoàn toàn bình đẳng,

Sự bao la quảng đại của không gian.

3. Trong tinh hoa tối thượng thoát khỏi mọi cực đoan,

Không rơi vào bên này hay bên kia,

Không tìm được cái thấy và không có quán đỉnh,

Không mandala, không trì tụng mật chú,

Không có nền tảng, không có các con đường, và không có giới nguyện;

Không có tu tập và không có tiến trình trên con đường.

Tất cả đều vô căn cứ. Trong không gian bao la (của tính giác),

Chúng là một trạng thái bình đẳng vô tận, thâm nhập vạn hữu.

Tất cả đều tồn tại trong pháp tính, tâm trí giác ngộ.

4. Như được hiểu rằng mọi thứ

Dù chúng xuất hiện theo cách nào,

Đều bởi bản tính của chúng không có nguồn gốc,

Không trụ hay diệt,

Chúng đều hiện diện tự phát.

Chúng chẳng tồn tại và chẳng không tồn tại;

Chúng vượt ngoài tầm mọi định niệm.

Chúng hoàn toàn thanh tịnh, và trong pháp tính,

Đại toàn thiện,

Chúng là một trạng thái bình đẳng vô tận, bao trùm toàn thể.

5. Tỉnh giác, trí giác ngộ,

Tối thượng và tinh túy,

Không được nhìn thấy trong các cực đoan;

Nó vượt xa các đặc trưng riêng biệt.

Ngôn từ và suy lý vô dụng để chứng thực được nó.

Nó nằm ngoài các biểu tượng.

Nó chẳng tăng trưởng cũng không suy giảm.

Nó không thường hằng cũng chẳng gián đoạn.

Nó không đến cũng chẳng đi.

Trong sự mở rộng bao la của tính bình đẳng tự nhiên của nó,

Tất cả hoàn toàn không tì vết

Tính bình đẳng nguyên vẹn

Không có giới hạn và ngả về một phía.

6. Không có hy vọng hay sợ hãi

Về việc ban tặng trí tuệ.

Do vậy, bất cứ cái gì sinh khởi

Tất cả chỉ là sự bình đẳng không gián đoạn, vô tận, bao trùm toàn thể.

Trong sự rộng mở liên tục, tự sinh, không chướng ngại,

Không có bất cứ nguy cơ nào sẽ bị vướng mắc

Trong cái lồng bám luyến.

7. Mọi hiện tượng đều chìm xuống

Vào trạng thái bình đẳng.

Bản tính của chúng vượt ra ngoài ranh giới

Của chấp nhận và từ chối.

Giống như vũ trụ và cư dẫn của nó

Trống rỗng trong sự rộng mở bao la của không gian

Chấp nhận và bác bỏ, ưa thích và chán ghét

Tất cả đều tan biến trong không gian nguyên thủy.

Chúng chẳng đi đâu khác.

Khi những ý nghĩ không để lại dấu vết

Trở thành trạng thái bình đẳng vô tận và bao trùm

Bên trong tỉnh giác liên tục và không gián đoạn

Biên giới bám dính của một người

Của cả hy vọng và sợ hãi đều được vượt qua.

Chốt buộc, đối tượng được nhận thức

Và người nhận thức, bị xé ra.

Thành phố của những hình tướng giả dối trong luân hồi bị trống rỗng.

8. Mọi thứ rõ ràng bên ngoài,

Cùng với tất cả trạng thái tinh thần bên trong,

Đều biểu hiện như vở kịch

Của năng lực sáng tạo trong tâm trí.

Những người hiểu rằng mọi thứ

Ngay từ đầu đã là tính không và tính bình đẳng

Tiết lộ điểm then chốt của các hiện tượng:

Chúng đều bình đẳng.

9. Mọi khía cạnh về bản chất của các hiện tượng đều là tinh túy hóa

Như tính giác của bạn, sáng tỏ và trống rỗng,

Trí tuệ bản nguyên, tính bình đẳng

Cái sau không bị ràng buộc, hạn chế, bởi người nhận thức.

Nó siêu việt mọi đối tượng được nhận thức.

Trong đó không gì có thể

Đóng vai trò là mục tiêu, không có gì để đề cập tới.

Cảnh giác, tỉnh táo, mở rộng, không xao lãng,

Đó là trạng thái của trí tuệ nơi mà tâm lý cạn kiệt

Trạng thái như bầu trời, vô tận, trùm khắp của tính bình đẳng

Siêu việt thiền định và không thiền định:

Không gian vĩ đại của trí tuệ Phổ Hiền.

10. Trong sự mở rộng bao la của tính giác trống rỗng, chói ngời này

Các đặc điểm phong phú của những hiện tượng

Không ngừng xuất hiện.

Các giác quan cảm thụ chúng tươi mới;

Tính giác, bản tính của các hiện tượng, hiện diện rõ ràng.

Hình tướng không bị ngăn trở.

Dù nó sinh khởi thế nào,

Tâm trí vẫn trong lạc thọ.

Sáu thức đều thư giãn.

Sự mở rộng này của trí tuệ nguyên thủy tự sinh,

Cởi mở, khoáng đạt, không trong không ngoài,

Là trạng thái tịnh quang. Nó hiện diện bên trong chính nó

Trạng thái tự nhiên tối cao không có mọi sự sắp đặt.

11. Khi tâm thức bạn không lo lắng,

Như một người chẳng còn gì nữa để làm,

Và, không căng thẳng hay buông lỏng,

Tâm và thân nghỉ ngơi thư giãn,

Tỉnh giác, bình đẳng vô tận, trùm khắp,

Vô nhiễm như không gian,

Nghỉ ngơi trong pháp giới,

Không bao giờ rời xa.

12. Khi pháp tính được nhận ra, sáng ngời và trống rỗng,

Mọi ràng buộc đều lắng xuống trong sự mở rộng của nó.

Tính giác được hiển lộ

Như tính bình đẳng, không gián đoạn, trùm khắp.

Không bị trói buộc bởi bám chấp, nó siêu việt mọi suy nghĩ.

Tất cả đều hội tụ trong

Không gian hoàn toàn bình đẳng và đơn nhất của trí tuệ.

Hỷ lạc tâm hòa lẫn với lạc thọ bình an

Trạng thái của tâm giác ngộ

Nơi mà bên ngoài và bên trong là một vị.

Khi đó bản tính nền tảng được thấy,

Pháp tính nơi tất cả đều đến chỗ cạn kiệt.

13. Trong khoảnh khắc khi đối tượng,

Hoạt động của giác quan và ý đồ của tâm trí gặp nhau,

Trong sự bình lặng của tâm,

Các hình tướng rộng mở và an lạc.

Trong trạng thái chói ngời trong trẻo tự nhiên này,

Không bị trói buộc bởi bám chấp và dính mắc,

Điểm mấu chốt của các hiện tượng

Là chúng được tinh túy hóa như sự bình đẳng toàn vẹn.

14. Trong không gian nơi mà các đối tượng, tâm trí và sự dính mắc

Đã được đoạn trừ,

Tỉnh giác, thoát khỏi ký ức và các ý niệm,

Ích kỷ, và tức giận,

Được bao gồm trong tính trong sáng nguyên sơ của sự bình đẳng.

Đó là vũ điệu kim cương của pháp tính không giới hạn, không gián đoạn

Sự mở rộng của chân như, trí tuệ bản nguyên của bình đẳng tính

Được đánh dấu ngay từ đầu với dấu ấn

Của trí tuệ Phổ Hiền.

15. Giống như các giấc mơ đa dạng đều được bao gồm trong giấc ngủ

Và là những nhận thức trống rỗng, sai lầm của tâm trí,

Cũng vậy, vũ trụ và chúng sinh

Toàn thể trong luân hồi và niết bàn

Được bao gồm bên trong tâm trí.

Chúng xuất hiện trong sự mở rộng của tâm trí;

Chúng không có tồn tại đích thực.

16. Giống như trong lòng của sự rộng mở bao la,

Vũ trụ và chúng sinh nó chứa đựng,

Trong tất cả sự bao la vĩ đại đó

Là tính bình đẳng không gián đoạn

Vượt ngoài trung tâm và chu vi,

Cũng vậy bên trong tầm với của tính giác,

Mọi hình tướng của vật và tâm

Mọi thứ cả bên ngoài và bên trong đều bình đẳng:

Mọi nhận thức của tâm trí đều được bao gồm trong tính không.

Điều này chứng tỏ mọi hiện tượng

Đều được bao gồm trong tâm giác ngộ

Rằng sự bình đẳng không nghiêng về bên này hoặc bên kia,

Vì nó thoát khỏi người nhận biết

Và các đối tượng bị nhận biết.

17. Tâm giác ngộ bao gồm mọi hiện tượng

Tự nó được bao gồm trong tính đại bình đẳng,

Không có mọi cực đoạn và rơi vào một phía.

Giống như không gian bao la quảng đại,

Chứa đựng cả vũ trụ và chúng sinh,

Nó không có trung tâm và ngoại vi.

Nó vượt ngoài cả suy nghĩ và mọi sự diễn đạt.

18. Tính giác là điều kiện lớn của tính bình đẳng.

Thoát khỏi mọi cực đoan.

Vạn sự thuộc thế giới hiện tượng,

Luân hồi và niết bàn,

Không ngừng xuất hiện trong đó.

Nhưng khoảnh khắc chúng xuất hiện,

Tâm trí và mọi hiện tượng

Không thể xác định được cái này hoặc cái kia.

Chúng được bao gồm trong sự bình đẳng của pháp tính.

19. Dấu ấn của tâm giác ngộ,

Vượt ngoài thứ mà không ai có thể đi đến,

Được sắp đặt nguyên thủy trên mọi hiện tượng

Bởi sự bao la rộng mở, Phổ Hiền.

Được gói gọn trong trí tuệ của đạo sư

Thế tôn của chúng sinh, vua của Pháp.

Trạng thái thức tỉnh nguyên sơ này

Được niêm phong bằng ấn ký của bản tính kim cương.

Ý nghĩa cuối cùng của bí mật phi thường

Nằm ngoại phạm vi của mọi người

Ngoài trừ những ai có may mắn bậc nhất

Nguyên tác của đỉnh cao kim cương,

Vượt trên mọi thay đổi và chuyển động

Không gian vĩ đại của tính giác, tự nhận thức,

Trạng thái sáng ngời

Khó được chứng ngộ, dù nó nằm bên trong chính bạn.

Chỉ thông qua lòng tốt của đạo sư tôn kính,

Vị thầy, Pháp vương, nó mới được nhận ra.

Như vậy mọi hiện tượng được cho là

Được bao gồm trong tính bình đẳng liên tục.

20. Khi đó đạt được niềm tin rõ ràng:

Tinh túy tối thượng của các hiện tượng

Là tính bình đẳng.

Mọi thứ bên ngoài là trống rỗng và không sinh.

Chúng không ở lại; chúng không đến hoặc đi.

Chúng vượt ngoài mọi chỉ dấu và diễn đạt.

Mọi trạng thái bên trong xuất hiện đều liên tục lắng xuống.

Không tìm thấy chúng

Như đường chim bay ngang trời.

21. Giống như các hiện tượng và trạng thái tinh thần,

Tính giác tự sinh cũng vậy

Không có sự tồn tại dù chỉ là một cái tên đơn giản.

Nó vượt ngoài mọi chỉ dẫn và diễn tả,

Mọi suy diễn khái niệm.

Vì giống như không gian nó không hoạt động,

Nó là một trạng thái của tính không.

Thoát khỏi hành động, thoát khỏi mọi nỗ lực,

Nó vượt trên cả thiện lẫn ác, mọi đức hạnh và tội lỗi

Nó vượt ngoài luật nhân quả;

Mười nhân tố của mật tông không có chỗ trong đó.26

Nó là một không gian rộng lớn, hoàn toàn bình đẳng

Vượt ngoài mọi chỉ dấu và biểu hiện

Bên trong tính giác, thiện và bất thiện hạnh

Là trống rỗng nguyên thủy; chúng chưa bao giờ là như vậy.

Một sự xác tín rõ ràng như vậy được đạt tới

Đó là bản tính này, không thể nghĩ bàn, không thể diễn tả,

Là đại toàn thiện

Vượt xa tầm với của tâm thức bình thường.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
124
Điểm tương tác
12
Điểm
18
3. HIỆN DIỆN TỰ PHÁT

1. Và bây giờ bản chất của sự hiện diện tự phát được tiết lộ.

Nó tồn tại, không phải do ai tạo ra, ngay từ đàu,

Giống như viên ngọc cung cấp mọi thứ, tâm trí giác ngộ

Là nền tảng và nguồn gốc của mọi thứ trong luân hồi và niết bàn.

2. Mọi sự xuất hiện trong thế giới hiện tượng

Tất cả đều biểu hiện trong không gian.

Tương tự, cả luân hồi và niết bàn

Không ngừng xuất hiện trong tâm trí giác ngộ.

Giống như những giấc mơ khác nhau xuất hiện trong lúc chúng sinh ngủ

Sáu cõi luân hồi và tam giới

Biểu hiện trong tâm trí.

Vạn sự, ngay trong khoảnh khắc xuất hiện,

Tồn tại trong nhận thức.

Chúng là những hình tướng vĩ đại của nền tảng,

Trống rỗng như hiện diện tự phát.

3. Nền tảng và những hình tướng phát sinh ở đó

Không đồng nhất và cũng không khác biệt

Những hình tướng của nền tảng là tự hiện diện

Hiện diện tự phát

Khởi sinh từ cánh cổng của tính giác.

Niết bàn và luân hồi, sự phô diễn năng lực sáng tạo của nó,

Xuất hiện rõ ràng: thanh tịnh hoặc bất tịnh.

Nhưng ngay trong khoảnh khắc xuất hiện,

Chúng không tốt cũng không xấu:

Chúng là sự mở rộng tối hậu đơn nhất.

4. Khi năm ánh sáng chiếu ra không bị cản trở

Từ một quả cầu pha lê,

Những ánh sáng giống nhau này được cảm nhận

Tùy theo màu sắc khác nhau của chúng.

Không tốt cũng chẳng xấu,

Chúng là sự biểu lộ

Của một quả cầu pha lê duy nhất.

Nền tảng, tính giác, tự nhận thức,

Cũng giống như quả cầu pha lê này,

Tính không của nó là pháp thân,

Sự phát quang chói lọi của nó là báo thân,

Và nền tảng không che chướng của nó cho sự hiển lộ

Là hóa thân.

Ba thân trong sự mở rộng của nền tảng

Đều là hiện diện tự phát.

5. Khi những hình tướng xuất hiện trong nền tảng

Ba thân thanh tịnh, sự tự kinh nghiệm của chư Phật,

Cũng như các hiện tượng bất tịnh

Của cả vũ trụ và chúng sinh

Tất cả do bản tính của chúng

Trống rỗng, sáng chói, và đa dạng.

Tất cả đều là hiển lộ của pháp thân,

Của báo thân và hóa thân.

Các hình tướng biểu hiện của nền tảng (ba thân)

Đều là hiện diện tự phát

Tính giác và các kinh nghiệm của nó.

Đừng tìm kiếm chúng ở nơi khác.

Khi phân tích này được hiểu chính xác,

Mọi hiện tượng trong cả luân hồi và niết bàn

Sẽ được nhận ra như cõi tịnh độ của ba thân

Hiện diện tự phát trong tâm trí giác ngộ.

6. Các thân và trí tuệ

Của chư Phật trong ba thời,

Thân, ngữ, và tâm

Của chúng sinh trong ba cõi,

Và nghiệp và phiền não

Mọi thứ thuộc về thế giới hiện tượng

Chẳng là gì khác ngoài tâm trí giác ngộ.

7. Trong sự bao la của hiện diện tự phát

Được tìm thấy từ nền tảng nơi mọi thứ khởi sinh.

Mọi thứ xuất hiện có hình dạng

Thế giới bên ngoài và cư dân của nó

Không thuộc bên này cũng chẳng phải bên kia.

Tất cả xuất hiện như bánh xe trang hoàng

Cho thân giác ngộ.

Âm thanh và ngôn ngữ,

Xuất sắc, trung bình hay thấp kém,

Không phân biệt bên này hay bên kia

Tất cả đều xuất hiện như bánh xe trang hoàng

Của lời giác ngộ.

Tâm phàm phu và trí nguyên thủy,

Giác ngộ và không có giác ngộ,

Không phân biệt bên này hay bên kia

Tất cả xuất hiện như bánh xe trang hoàng

Cho trí giác ngộ.

Tương tự, các phẩm tính và hành động giác ngộ

Không thuộc bên này hay bên kia.

Pháp giới do vậy là viên ngọc quý

Đáp ứng mọi mong muốn.

Không cần phải cố gắng

Vì mọi thứ xuất hiện tự nhiên.

Đây là lý do nó được gọi

Là trí tuệ bản nguyên, tự sinh khởi và hiện diện tự nhiên.

8. Nền tảng, hiện diện tự nhiên,

Của vạn sự

Là tâm trí giác ngộ,

Luôn hiện diện tự phát.

Do đó, không cần phải

Tìm kiếm ba thân,

Vì bạn đã có chúng tự nhiên ở bên trong chính bạn.

Trong luật nhân quả liên quan đến thiện và ác,

Bạn không cần phải nỗ lực.

An trú trong trạng thái tự nhiên,

Bạn sẽ được coi là một yogi thoát khỏi mọi hành động,

Thoát khỏi nỗ lực trong chấp nhận hay từ chối.

Trong sự mở rộng bao la của hiện diện tự nhiên

Nó là của bạn ngay từ đầu.

Do đó, đừng tạo ra nỗ lực trong pháp tính!

9. Ngay cả sự giác ngộ

Của tất cả đấng chiến thắng, trong quá khứ, hiện tại và tương lai,

Là hiện diện tự phát

Như đại lạc của trạng thái tự nhiên.

Vì vậy, không có khởi nguồn

Của những giáo lý về luật nhân quả

Được thiết kế cho những người kém may mắn,

Mà hãy quan sát bản tính như không gian,

Siêu việt hành động có chủ ý.

10. Chân như như nó đang là

Giờ đây không cần phải thành tựu.

Bên trong sự hiện diện tự phát,

Nguyên thủy và không tạo dựng,

Hãy từ bỏ hy vọng và sợ hãi bên trong tâm trí bạn

Liên quan đến việc truyền thừa và tiếp nhận

(Về năng lượng gia trì của thầy)

Chỉ chứng ngộ sự mở rộng tối thượng

Đó là sự hiện diện tự phát

Và do đó không cần phải tìm kiếm.

11. Giống như mỗi và mọi vật

Là sự phô diễn của pháp thân,

Báo thân và hóa thân

(Bộ ba không tạo tác

Của bản tính, đặc trưng, và năng lực nhận biết),

Cũng vậy, luân hồi và niết bàn tự chúng là ba thân,

Sự mở rộng của tâm trí giác ngộ,

Hiện diện tự phát như tính bình đẳng vĩ đại không được tạo dựng,

Luân hồi, bởi vậy, không cần phải từ bỏ,

Niết bàn, tương tự, không cần đạt được.

Sự quy kết và phủ nhận liên hệ đến chúng lắng xuống.

Luân hồi và niết bàn

Trú ngụ bên trong tinh túy tối thượng.

Điều này tiết lộ điểm then chốt:

Các hiện tượng tồn tại bên trong tâm trí giác ngộ,

Hiện diện tự nhiên ngay từ đầu.

12. Vạn sự giờ đây được tinh túy hóa

Là hiện diện tự phát.

Năm đại nguyên tố,

Thế giới biểu hiện và cư dân của nó,

Xuất hiện như những vị thầy, tất cả đều hiện diện tự nhiên,

Trong trạng thái mà, ngay lúc đầu,

Đã thoát khỏi mọi suy nghĩ lan man.

Khi không còn suy nghĩ về ta và người,

Chúng tự bản chất là thanh tịnh.

Chúng được tinh túy hóa như tâm trí của chính bạn,

Thoát khỏi mọi hoạt động và nỗ lực.

Đừng ngăn chặn các hình tướng,

Mà để mặc sáu thức

Trong một trạng thái thư giãn.

13. Tính giác, hiện diện tự nhiên,

Phát quang chói ngời,

Là nguồn gốc nền tảng của tất cả.

Điểm chính yếu là để yên

Không chỉnh sửa năm cửa ngõ giác quan

Và không có các suy gnhix qua lại.

Nhận biết trạng thái pháp thân

Hiện diện tự nhiên, tỉnh giác và trống rỗng.

Chắc chắn về nó; để tự do

Khỏi mọi vận hành khái niệm.

14. trong cõi bao là và thanh tịnh

Của tính giác không bị ngăn trở, tự nhận thức,

Mọi hình tướng, đối tượng, các trạng thái tinh thần

Là một trạng thái không gián đoạn của tính bình đẳng.

Chúng đều được bản thể hóa

Sự một sự liền mạch của hiện diện tự nhiên,

Thiền định nhất tâm tự nhiên.

Vào mọi lúc như dòng nước mạnh mẽ,

Trí tuệ bản nguyên,

Không do tu luyện thông qua thiền định của hành giả

Mà hiện diện tự phát, không ngừng.

Tinh hoa cốt tủy của mọi hiện tượng

Là sự mở rộng, nguyên thủy, tự sinh khởi,

Mà trong mức độ trọn vẹn của nó

Tương ứng với trí tuệ thực sự của Phổ Hiền.

15. Gốc rễ của mọi hiện tượng

Là tâm trí giác ngộ

Giống như không gian

Tính tương tự có thể áp dụng cho tất cả.

Vạn sự được chứa đựng trong vực sâu không gian,

Và tất cả đều thuần khiết trong bản chất

Không có nỗ lực hay cố gắng.

Tương tự, một trạng thái vượt ngoài các hành động có chủ ý,

Vượt xa tầm với của tâm trí bình thường,

Nơi mọi thứ xuất hiện

Được để nguyên như chúng đang là

Nó tại đây được tinh túy hóa

Điểm chính yếu của các hiện tượng,

Hiện diện tự nhiên

Cả ngoài và trong.

16. Trong chân như không có khởi nguồn, không kết thúc,

Không đi không đến (và còn lại).

Trong Đấng chiến thắng được tụ hợp

Sự tập trung không dao động

Của hiện diện tự phát.

Trong trạng thái này, siêu việt hành động,

Các hiện tượng được tinh túy hóa.

17. Vạn sự được bao gồm trong hiện diện tự nhiên.

Mọi thế giới hiện tượng, hiện diện tự phát,

Là sự tự kinh nghiệm của tính giác.

Luân hồi và niết bàn,

Hiện diện tự phát, và sự biểu lộ của tính giác.

Cũng vậy, tâm giác ngộ, ngay từ đầu,

Đã hiện diện tự nhiên,

Mọi hiện tượng chẳng là gì khác

Ngoài hiện diện tự phát.

18. Hiện diện tự phát

Là bản tính của tâm trí.

Và do đó nền tảng hay gốc rễ,

Tinh hoa (của các hiện tượng),

Được tụ hợp trong tâm giác ngộ.

Không cần ở đó để tìm kiếm nó

Bằng các phương tiện của mười yếu tố.

Nó hiện diện tự nhiên;

Không cần cố gắng để có nó

Bằng phương tiện của cái thấy và thiền định tập trung.

Không cần đạt được nó bằng các phương tiện ngoại lai,

Như trong hệ thống nhân quả.

Không cần bận tâm

Với hy vọng và sợ hãi về nó.

Ngay bây giờ trong hiện tại

Hiện diện tự nhiên là pháp thân nguyên thủy.

19. Bản tính của tâm trí là một sự mở rộng vô hạn

Của không gian vượt trên mọi thay đổi.

Từ sự mở rộng này mà ba thân,

Luân hồi và niết bàn tự phát xuất sinh,

Mặc dù chúng không bao giờ rời khỏi nó.

Sự biểu lộ của nó vô cùng đa dạng:

Một kho tàng của những hình tướng huyễn ảo

Của năng lực nhận thức

Khởi sinh đơn độc như sự hiện diện tự nhiên:

Phổ Hiền.

Ngài do vậy là đạo sư của luân hồi và niết bàn

Vì chúng chưa bao giờ đi lạc đến nơi nào khác

Từ đây, sự mở rộng tối hậu.

Phổ Hiền do vậy là tất cả;

Chẳng có gì ở đó mà không thể là như vậy.

Tất cả là sự mở rộng, hiện diện tự nhiên,

Của bản tính kim cương.

Mọi sự đều được bao gồm từ nguyên thủy

Bên trong hiện diện tự nhiên.

20. Một nhận định rõ ràng như vậy đã đạt được

Về bản tính hiện diện tự phát của chúng.

Bên trong hiện diện tự phát,

Siêu việt mọi ranh giới,

Bên ngoài và bên trong,

Mọi thứ chỉ là sự tự kinh nghiệm của tính giác.

Chúng không đi cũng không đến

Chúng nằm ngoài khẳng định và phủ định,

Vạn sự là tính bao la trùm phủ toàn thể

Không có mọi chiều hướng, lên và xuống.

Hoàn toàn vô định, hoàn toàn vô hạn,

Không thể tưởng tượng, chẳng thể trình bày,

Chúng không thể được xác định.

21. Bởi vì các pháp,

Do bản tính, thanh tịnh khởi nguyên,

Vì, do đặc tính, chúng là hiện diện tự nhiên,

Thoát khỏi mọi cực đoan:

Tồn tại, không tồn tại, thường hằng, gián đoạn.

Đây là bản tính bất nhị, tâm giác ngộ.

22. Do bản tính, thanh tịnh bản nguyên

Không tồn tại như bất cứ thứ gì.

Đặc điểm của nó giống như không gian

Và thanh tịnh từ nguyên thủy,

Trong chính nó, hiện diện tự phát

Không được tạo ra bởi bất cứ ai.

Sự khởi sinh của nó là không ngừng,

Và bất cứ cái gì cũng có thể biểu hiện.

Nó là cội nguồn của cả luân hồi và niết bàn.

Nó không có khởi đầu trong quá khứ,

Và trong tương lai nó không có kết thúc.

23. Hiện diện tự nhiên vô định, vô sinh

Là nền tảng tối hậu. Cách mà mọi thứ khởi sinh,

Vô thủy vô chung,

Không thể ngăn chặn.

Cách mọi thứ là, không có bản thể cố hữu

Không thể được xác định.

Các thức mọi thứ lắng xuống, không có đặc tính cố hữu

Không thể bị gián đoạn.

Niềm tin rõ ràng như vậy đã đạt được

Rằng sau đó cũng vậy

Vạn sự trú ngụ trong nền tảng

Từ đó chúng khởi sinh.

Điều này được gọi là “tan biến trong pháp thân,

Cạn kiệt trong sự mở rộng tối thượng”.

24. Như những đám mây tan vào bầu trời từ nơi chúng đến

Và như ánh sáng pha lê rút vào trong pha lê,

Luân hồi và niết bàn

(Những hình tướng của nền tảng

Khởi sinh từ nền tảng)

Giữ vững bản tính thanh tịnh, nguyên sơ của chúng

Trong nền tảng tối hậu.

Một niềm tin rõ ràng đã đạt được

Rằng vạn pháp được tập hợp

Trong tính bao la của địa tầng căn bản

Của sự hiện diện tự nhiên.

Mọi vận hành tinh thần tan biến tự nhiên

Trong sự mở trống không có hoạt động nhận thức.

25. Khi mọi thứ lúc này xuất hiện

Mọi đối tượng của sáu thức giác quan

Tan biến vào địa tầng căn bản, pháp thân,

Bạn sẽ hoàn toàn tin rằng

Cả bên ngoài và bên trong hòa quện với nhau

Trong sự mở rộng bao la: hiện diện tự phát.

Bạn sẽ hoàn toàn tin rằng

Cả luân hồi và niết bàn,

Tự kinh nghiệm của tính giác,

Là tâm giác ngộ, không có hình dạng,

Trạng thái tỉnh thức biểu lộ.

Tương tự, nếu bạn để mặc các hình tướng và hoạt động tinh thần

Trong trạng thái tự nhiên của chúng, không gian tịnh quang,

Không tạo ra khác biệt giữa chúng,

Giữ vững dòng chảy tự nhiên không tạo dựng ý niệm,

Bạn sẽ hoàn toàn tin rằng

Chúng là trống rỗng, phát quang chói ngời

Của tính giác, hiện tại và tức thời

Đây được gọi là “trụ vững trong cõi báu”.

26. Nếu giờ đây bạn thiếu niềm tin minh bạch

Trong địa tầng căn bản của bao la tối thượng,

Không phải sau này bạn sẽ tìm thấy

Tự do trong nền tảng nguyên thủy.

Nếu tự do trong nền tảng rộng mở mà bạn không đạt được,

Sự thiền định cứng nhắc của bạn không dẫn đến giải thoát

Mà dẫn đến những cõi trời bậc cao.

Cho nên bây giờ điều tối quan trọng

Là ấp ủ niềm tin minh bạch

Về loại tập trung

Nơi bạn nghỉ ngơi tự nhiên

Bên trong tính uyên nguyên của sự mở rộng tối cao.

27. Bạn sẽ đi đến niềm tin rõ ràng

Rằng mọi thứ là tính giác

Hiện diện tự phát.

Bạn sẽ đến niềm tin rõ ràng

Rằng hiện diện tự phát

Là địa tầng căn bản

Của tính thanh tịnh bản nguyên.

Bạn sẽ đến niềm tin rõ ràng

Rằng thanh tịnh bản nguyên là thoát khỏi

Tham chiếu, tư tưởng, biểu đạt.

Đây là niềm tin rõ ràng, dứt khoát

Về hiện diện tự phát.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
124
Điểm tương tác
12
Điểm
18
4. BẢN TÍNH ĐƠN NHẤT

1. Và bây giờ bản tính duy nhất (của các hiện tượng) được hiển bày.

Tính giác duy nhất là nền tảng của mọi hiện tượng.

Dù có vẻ nhiều đến đâu,

Chúng cũng không dao động khỏi bản tính duy nhất của mình.

Như nó được nói vậy. Gốc rễ duy nhất và chỉ một của chúng

Là trí tuệ bản nguyên tự sinh khởi.

Trong một số trường hợp nhất định, từ một viên ngọc duy nhất,

Lửa và nước, khác biệt và phân minh, có thể đều xuất hiện.

Tuy nhiên gốc rễ của chúng là một, lưu ly thuần khiết quý giá.

Cũng vậy, mặc dù từ một tính giác, tự nhận thức,

Niết bàn và luân hồi cùng khởi sinh,

Gốc rễ của chúng là một, trí giác ngộ tối thượng.

Sự khác biệt chia tách chúng là ảo tưởng,

Phát tích từ nhận biết hay không nhận biết về tính giác..

2. Thế giới hiện tượng, luân hồi và niết bàn,

Mọi sự xuất hiện trong tính giác,

Trong khoảnh khắc chúng được nhận thức,

Chỉ có bản tính của tính không mà thôi.

Chúng giống ảo ảnh huyễn thuật, các giấc mộng,

Như ánh trăng phản chiếu trong nước.

Hoàn toàn không và bản nguyên không,

Vượt ngoài suy diễn khái niệm,

Chúng ngụ trong tính giác,

Như không gian, phi chất thể,

Nền tảng hình tướng của chúng.

Vì mọi thứ đều ở trong một sự mở rộng,

Thanh tịnh nguyên sơ,

Không có nhị nguyên, không “hai”.

Tất cả tụ họp trong một cõi duy nhất,

Pháp thân không có cạnh, góc. Emaho!

3. Cái xuất hiện như năm yếu tố

Chính cái đó là tâm giác ngộ.

Nó không khuyaasy động từ một trạng thái: bình đẳng không sinh.

Các hình tướng của các chúng sinh hữu tình

Chẳng là gì ngoài hình dáng trống rỗng của sáu cõi.

Những hình tướng của nền tảng không tách rời

Khỏi điều kiện của tính giác.

Hạnh phúc và đau khổ đều có thể xuất hiện,

Nhưng chúng đồng thể duy nhất,

Tâm giác ngộ.

Chúng không dao động khỏi một và chỉ một

Trí tuệ bản nguyên tự sinh.

Cho nên bạn cần hiểu

Các hiện tượng chẳng là gì ngoài sự mở rộng tối thượng đơn nhất,

Trạng thái của tính không.

Chúng không sinh, tâm giác ngộ.

4. Bên trong chiều kích tối hậu này,

Sự mở trống bao la của tính giác, tự nhận thức,

Ở đó trú ngụ trí tuệ độc nhất

Của các Đấng chiến thắng, quá khứ, hiện tại và tương lai.

Đừng nghĩ nó đa dạng,

Vì nó siêu việt mọi ý nghĩ về nhiều thành phần.

Nó là cung điện của tinh hoa

Của giác ngộ không dao động,

Nơi chẳng có gì ngoài trí tuệ nguyên thủy, tự sinh, trú ngụ.

5. Nó như viên ngọc như ý

Kho tàng của mọi hiện tượng,

Cõi Phật của ba thân,

Hiện diện tự phát.

6. Sự mở rộng vĩ đại duy nhất

Chẳng được ai tạo ra.

Mọi sự chẳng ngoại lệ

Đều hiện ra từ nó

Là nền tảng căn bản đơn nhất

Từ đó chúng đến.

Vì nguyên nhân của nó mà kết quả quay về.

Nền tảng này là sự bao la

Của pháp tính sáng ngời và trống rỗng.

Nó vượt qua mọi giới hạn, mọi chiều hướng;

Nó ở mọi nơi, như không gian thanh tịnh, không vết nhơ.

7. Người tạo ra vạn vật, luân hồi và niết bàn,

Là một và tự sinh.

Nhưng gốc rễ của nó, tính giác, không ai tạo ra được.

Vượt mọi hành động và nỗ lực, nó an trú như không gian.

Sự ví dụ và thứ được ví dụ xuất hiện

Là một sự mở rộng quảng đại

Nơi mọi quy kết và từ chối đều yên lặng.

8. Trong tinh hoa tối thượng

Siêu việt tồn tại và không tồn tại,

Bất cứ thứ gì xuất hiện đều không ngừng biểu lộ,

Bản tính của chúng là một sự rộng mở không thể tưởng tượng và không thể diễn bày

Vượt ngoài tính quy ước của cả lời nói và ngôn ngữ.

9. Trong tâm giác ngộ,

Tinh hoa mà mọi thứ đều nảy sinh,

Không có nhị nguyên nhưng lại đa dạng không đếm xuể.

Chư Phật, chúng sinh, thế giới hiện tượng,

Thế giới và cư dân của nó hiện diện rõ ràng.

Tuy nhiên chúng không rời khỏi chân như, pháp tính duy nhất.

10. Vạn sự đều liên kết với một và chỉ một thứ này

Trong đó chúng được bao gồm hoàn hảo.

Đây là phẩm tính tối cao của tâm giác ngộ.

Ngay từ giây phút một thứ xuất hiện trong nó,

Quan niệm sai lầm rằng nó khác với nó

Bị loại trừ.

Nên hiểu rằng những sự vật bên ngoài

Chẳng là gì ngoài sự phát sáng trống trải

Của bản tính bất nhị trong tâm trí

Trong khi những sự vật bên trong tâm trí

Chỉ là tính giác trần trụi và rộng mở,

Không một cũng chẳng nhiều.

Sự chứng ngộ rằng bản tính của chúng

Là sự mở rộng tối thượng, đơn nhất

Tiết lộ điểm chính yếu của tính giác.

11. Trong nhất vị, mọi thứ đều được tinh túy hóa.

Mọi đối tượng xuất hiện đều hư ảo;

Chúng là trạng thái của tính không.

Tuy nhiên chúng xuất hiện,

Nghỉ ngơi mà không sắp đặt trong tính giác duy nhất.

Bất kể thứ gì xuất hiện,

Chỉ duy nhất một tính không sáng ngời xuất sinh.

12. Những ý niệm, những hình tướng tâm trí,

Tan biến tự nhiên.

Bất cứ chuyển động nào đến

Trong trạng thái tính không,

Chỉ cần nghỉ ngơi bên trong dòng chảy tự nhiên, thư giãn.

Thông qua chuyển động và sử sinh sôi các ý niệm của bạn,

Trí tuệ của pháp tính sẽ xuất hiện rõ ràng.

13. khi bạn thấy các đối tượng giác quan

Và tâm trí liền mạch giống nhau,

Khi, không tập trung và tham chiếu,

Bạn nghỉ ngơi trong trạng thái thanh tịnh tự nhiên không dấu vết.

Ngay trong sự phát quang mà nó biểu lộ

Trí tuệ bản nguyên của tuệ giác sâu xa.

14. Tinh túy hóa vào trong một tinh hoa

Ba điểm chính yếu này

Rằng chứng ngộ và không chứng ngộ

Đều bình đẳng từ nguyên thủy,

Rằng tâm và vật không thể phân chia

Là bình đẳng trong pháp thân,

Rằng những lỗi lầm và che chướng là không thể tách rời

Từ sự bình đẳng của pháp tính

Bạn không ngừng giữ vững thực tại tối hậu.

Không từ chối hoặc chấp nhận, bạn sẽ tìm thấy

Tinh hoa tối thượng.

Không đến và không đi, bạn an trú

Trong sự chứng ngộ về pháp tính.

Tất cả hội tụ trong trạng thái này

Nơi cả chuyển động và thay đổi đều bị siêu việt.

15. Như không gian là sự bao la quảng đại,

Tâm trí của các Đấng chiến thắng.

Vượt trên sự loại bỏ và đạt được,

Đó là sự đại mở rộng, một cõi giới duy nhất.

Tự do trong chính nó, vượt ngoài mọi trạng thái

Của giác ngộ và không giác ngộ.

Nơi sự cạn kiệt của mọi hiện tượng được đạt tới

Trong tính bình đẳng trùm khắp vượt xa tâm trí bình thường.

Trên đỉnh ngọn cờ chiến thắng, không bao giờ hạn xuống,

Mặt trời và mặt trăng chiếu sáng vô số thế giới.

16. Mọi thứ được bao gồm

Bên trong tính giác, duy nhất và tự nhận thức,

Vạn sự trong thế giới hiện tượng,

Toàn thể luân hồi và niết bàn,

Xuất hiện vô cùng, vô tận

Sinh khởi từ sự mở rộng tối thượng.

Do đó, sự mở rộng từ nơi chúng xuất hiện

Bao gồm chúng.

17. Ngay cả bây giờ, khi nhiều thứ khác nhau xuất hiện,

Chúng không rời khỏi tính giác lạc đi đâu khác.

Các hình tướng do vậy được bao hàm

Bên trong sự mở rộng bao la, tính giác tự sinh.

18. Sinh và diệt liền lạc,

Chúng hòa tan vào sử mở rộng tối thượng.

Các hình tướng chẳng là gì khác

Ngoài tâm giác ngộ.

Mọi thứ được bao gồm bên trong

Pháp tính nguyên thủy duy nhất,

Nền tảng cho sự cạn kiệt của chúng.

19. Được bao hàm trong một tính giác duy nhất,

Các hiện tượng không bao giờ rời khỏi tính giác,

Tinh hoa của giác ngộ,

Vượt trên mọi chuyển động và thay đổi.

Chúng được bao hàm bên trong tinh hoa tối thượng;

Chúng ngụ trong sự mở rộng, không thay đổi, không phức hợp.

20. Một niềm tin rõ ràng đã đạt được

Rằng mọi hiện tượng là một, duy nhất,

Trí tuệ nguyên sơ tự sinh khởi,

Sự mở rộng tối thượng,

Vô thủy và vô chung.

Tất cả được chứa đựng trong đó.

Mọi chuyển động của tâm trí lắng xuống,

Và tất cả an trú trong pháp tính, tinh hoa tối thượng.

21. Do đó, các đối tượng bên ngoài, và tâm trí bên trong,

Các hiện tượng của cả luân hồi và niết bàn

Khi thô được phân tích thành vi tế,

Không còn ý niệm về một phần nào còn lại.

Do vậy bạn tin tưởng rõ ràng

Rằng chúng chỉ là sự mở rộng bao la,

Trống rỗng ngay từ đầu, giống như không gian.

22. Tâm giác ngộ, khi phân tích,

Được tìm thấy không có thực chất.

Nó không có nguồn gốc, không nơi trú ngụ;

Nó không đến không đi.

Nó trốn tránh mọi chỉ dấu và biểu đạt.

Bạn đạt đến một niềm tin rõ ràng

Rằng đó là không gian trí tuệ

Nó siêu việt trí phàm phu.

Nó không phải là một thực thể với các đặc trưng,

Để có thể định nghĩa là cái này hay cái khác.

Không thể biết thông qua các ngôn từ,

Nó không thể được diễn tả.

23. Bạn đạt được niềm tin rõ ràng

Rằng mọi thứ trong thế giới hiện tượng

Thuộc về luân hồi và niết bàn

Là sự rộng mở,

Không có sự vận động tinh thần và đặt tên,

Bạn đạt đến một niềm tin rõ ràng

Rằng mọi thứ là sự mở rộng quảng đại,

Tính giác, trống rỗng, và không sinh,

Trí tuệ bản nguyên tự nhận biết.

Bạn đạt đến một niềm tin rõ ràng

Răng mọi thứ khởi sinh từ tâm giác ngộ

Chẳng là gì ngoài sự mở rộng quảng đại

Vượt trên biết và không biết,

Bạn đạt đến niềm tin rõ ràng rằng mọi hiện tượng,

Trống rỗng nguyên sơ và hoàn toàn trống không,

Cấu thành sự mở rộng quảng đại,

Bất động và bất biến suốt ba thời.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
124
Điểm tương tác
12
Điểm
18
5. NHỮNG NGƯỜI MÀ GIÁO LÝ NÀY

CÓ THỂ ĐƯỢC BAN CHO



1. Tinh túy của thừa sâu sắc nhất này

Chỉ nên được tiết lộ riêng

Cho những ai rõ ràng có

May mắn và trí thông minh cao nhất.

Nó nên được giữ lại

Đối với những người cố chấp bám dính vào

Những thừa thấp hơn và nguyên tắc nhân quả,

Với những người kém may mắn và kém thông minh hơn.

2. Từ những người chỉ trích thầy mình,

Những người bộc lộ giận duẽ với thân tộc kim cương,

Người phản bội bí mật, nói về nó công khai,

Không tin tưởng và nắm chặt, vào một khuynh hướng xấu xa,

Người mải mê với những thứ phù du

Phải giữ bí mật giáo lý đối với tất cả những người này.

3. Những người có phẩm chất cao nhất, được phú cho may mắn,

Là những chiếc bình thích hợp cho Đại Toàn Thiện.

Họ tôn trọng đạo sư của mình và sở hữu kiến thức sâu rộng.

Họ hoan hỷ và rộng lượng,

Họ là người bạn trung thành và hào phóng.

Họ không có suy nghĩ tham vọng

Và có ít bám luyến.

Họ từ bỏ mọi mối quan tâm về cuộc sống hiện tại

Và có ý định đạt được giác ngộ của mình.

Được phú cho niềm tin và tính siêng năng,

Họ có thể giữ bí mật.

Đây là những người

Nên được ban giáo lý.

4. Với những món quà, họ nên làm hài lòng thầy mình,

Và trong tinh thần cam kết

Họ nên hết lòng khẩn cầu hướng dẫn.

Khi lời dạy đã được ban,

Họ nên thực hiện đúng đắn

Và đạt tới trình độ cạn kiệt mọi hiện tượng

Trong bản tính nền tảng.

5. Các đạo sư phải rất uyên bác,

Sở hữu mọi đức tính cần thiết.

Họ nên khảo nghiệm học trò mình

Và dần dần ban cho những chỉ dẫn then chốt.

Nhưng họ nên giữ những giáo lý này

Từ những người nhận không thích hợp.

Họ nên đánh dấu chúng với niêm phong bí mật

Và giấu chúng bằng con dấu ủy thác của mình.

6. Đối với những đứa con trong tim đạo sư,

May mắn có năng lực cao,

Các giáo lý tinh yếu, có ý nghĩa tối hậu,

Nên được ban truyền.

7. Và đến lượt họ không được tiết lộ cho tất cả mọi người

Tinh túy này, tối thượng và không bị suy vong.

Chúng phải được giữ không bị suy tàn

Như tinh hoa thực hành của chúng.

Nếu cánh cửa bí mật bị xâm phạm,

Sự trừng phạt chắc chắn sẽ đến.

Do giải thích sai,

Giáo lý tinh hoa sẽ xa lánh.

Các đệ tử do đó phải giữ bí mật

Và duy trì sự đồng hành vui vẻ với thầy mình.

Họ sẽ đạt tới ngay trong đời này

Vương quốc vĩnh cửu của pháp thân.



6. KẾT LUẬN

1. Giáo lý này đã tiết lộ

Trực tiếp, không che giấu điều gì,

Cái thấy của Đại Viên Mãn siêu phàm và bí mật

Cầu mong nó tự nhiên và không cần nỗ lực

Mang chúng sinh, không bỏ sót một ai,

Tới giải thoát trong không gian của nền tảng nguyên sơ.

2. Lời dạy này, bao trùm tất cả

Mọi cái thấy thấp hơn,

Là đỉnh cao của tất cả các thừa,

Không gian rộng lớn của vua garuda vĩ đại.

Cầu mong cho lời dạy Atiyoga này,

Vượt trội hơn mọi giáo lý khác,

Được lan truyền khắp mười phương.

Cầu mong ngọn cờ chiến thắng của nó không bao giờ bị hạ xuống.

3. Ba lớp, chín không gian

Đều được gom tụ trong bốn nguyên tắc.

Cái thấy cuối cùng của toàn bộ mười sáu đoạn

Được giải thích trong Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng này,

Mà Longchen Rabjam Zangpo

Đã biên soạn hoàn hảo.

4. Cái thấy cuối cùng được chứa đựng

Trong năm chủ đề của Kho Tàng

Của Bản Tính Nền Tảng


Được trang hoàng hoàn hảo với sự giàu có,

Vừa thâm sâu vừa rộng lớn.

Nó được làm đẹp bằng sự lộng lẫy

Của ngôn từ và ý nghĩa trong nó.

Hãy để chúng đệ tử may mắn

Nhận lấy đại hoan hỷ trong đó.



Đến đây là kết thúc Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng. Nó được sáng tác bởi Longchen Rabjam, một yogi của thừa tối cao.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Bên trên