P

Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
129
Điểm tương tác
12
Điểm
18
BỘ SƯU TẬP CÁC TÁC PHẨM CỦA KHANGSAR TENPAI WANGCHUK



KHO TÀNG TRÂN BẢO

CỦA

BẢN TÍNH NỀN TẢNG



TÁC GIẢ: LONGCHENPA

VỚI PHẦN BÌNH GIẢNG CỦA

KHANGSAR TENPAI WANGCHUK


NGUYÊN TÁC:

THE PRECIOUS TREASURY OF THE FUNDAMENTAL NATURE



Dịch sang tiếng Anh: Nhóm PADMAKARA


Nhóm Dịch Thuật PADMAKARA chân thành cảm ơn sự hỗ trợ hào phóng của tổ chức Tsadra trong việc tài trợ dịch thuật và chuẩn bị cho cuốn sách này.​



Việt dịch: Ẩn Tiên
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
129
Điểm tương tác
12
Điểm
18
NỘI DUNG



Lời Nói Đầu của Jigme Khyentse Rinpoche

Lời Giới Thiệu của Nhóm Dịch Thuật



Phần Một
Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng


Tán Dương

1. Không Tồn Tại

2. Bình Đẳng

3. Hiện Diện Tự Phát

4. Bản Tính Đơn Nhất

5. Những Người Có Thể Được Ban Cho Giáo Lý Này

6. Kết Luận

Phần Hai

Cúng Dường làm Hài Lòng đấng Toàn Tri

Lời Bình Luận về
Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng

Dàn ý Văn Bản

1. Giới thiệu về Chuyên luận

2. Giải thích sâu rộng về chuyên luận của Longchenpa

3. Lời chỉ dẫn cho những người có thể nắm bắt được giáo lý này

4. Kết luận cho toàn thể Chuyên Luận

Ghi Chú
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
129
Điểm tương tác
12
Điểm
18
LỜI NÓI ĐẦU



Ngay từ khoảnh khắc đầu tiên nghe nói về Khangsar Tenpai Wangchuk Rinpoche và lời bình luận của ông về tác phẩm Kho Tàng Quý Giá của Pháp Giới của Longchenpa, tôi đã dâng lên một niềm khao khát sâu xa là mong được nhận giáo lý và sự gia trì từ ông. Tôi đề cập điều này với em trai mình là Pema Wangyal Rinpoche và rất vui mừng khi biết rằng một học trò của Tenpai Wangchuk Rinpoche đã hỏi liệu PAMAKARA có thể dịch các bài viết của ông sang tiếng Anh và các ngôn ngữ phương Tây khác được không.

Thật đáng mừng, khi tình hình tiến triển, chúng tôi rất may mắn được nhận sự trao truyền quý giá từ toàn bộ các tác phẩm của Tenpai Wangchuk đã được xuất bản trực tiếp thông qua những lời truyền khẩu của cháu trai ông và cũng là người nắm giữ dòng truyền, Khenpo Stultrim Zangpo Rinpoche, người đã đến Dordogne vào mùa thu năm 2019. Điều này ứng nghiệm với tiên đoán rằng những lời dạy của chú ông sẽ được truyền bá sang phương Tây. Tôi vô cùng biết ơn ông vì lòng tốt của ông trong chuyến hành trình dài đến Pháp để giảng dạy cho chúng tôi, với ân huệ từ bi, tính thoải mái và giản dị sâu sắc như vậy. Chuyến viếng thăm La Sonnerie ở Dordogne của ông thực sự là một nhân duyên kỳ diệu và cảm động.

Việc dịch các tác phẩm của Tenpai Wangchuk Rinpoche hiện đã bắt đầu. Trong tập sách hiện tại, chúng tôi với phần bình giảng của ông về Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng. Nó là sự khai ngộ trực tiếp vào cái thấy của Đại Toàn Thiện, một điểm để đi vào những giáo lý sâu xa của Longchenpa.

Chúng ta có thể đọc tiểu sử của Tenpai Wangchuk rằng ông có những linh kiến trực tiếp về các vị Phật, Bồ tát, các Không hành nam, Không hành nữ, cũng như các vị Hộ pháp trí tuệ. Do đó chúng ta có thể chắc chắn về tính chính xác trong những lời dạy của ông. Hơn nữa, những lời dạy này có chất lượng rất cao trong việc diễn đạt các vấn đề sâu sắc và phức tạp nhất bằng những thuật ngữ rõ ràng và đơn giản, trong ngôn ngữ rất trực tiếp và dễ tiếp cận.

Trong thời kỳ hỗn loạn này, chỉ cần được nghe tên cuốn sách này đã là một điều may mắn đáng kinh ngạc, chưa nói đến việc có thể đọc, nghiên cứu, hiểu và áp dụng nó vào thực tế. Tôi vô cùng biết ơn không chỉ tác giả phi thường của cuốn sách này, mà còn đối với lòng tốt của cháu trai ông là Tsultrim Zangpo Rinpoche, đối với các dịch giả, nhà xuất bản và những nhà tài trợ hào phóng nhất của chúng tôi, những người đã làm cho cuốn sách này trở thành hiện thực. Tôi cầu nguyện rằng họ sẽ sống lâu và tiếp tục công việc xuất sắc của mình. Thay mặt cho tất cả độc giả sẽ nghiên cứu và thu được lợi ích từ cuốn sách này, tôi hết lòng cảm tạ họ.

Cầu mong ánh sáng của cuốn sách này xua tan những lời dối trá và sai lầm của chủ nghĩa cực đoan, mê lầm, vô minh, thiếu hiểu biết và ích kỷ. Cầu mong chân lý được xác lập và chúng sinh được hưng thịnh trong kinh nghiệm về nó. Cầu cho mọi người thoát khỏi đau khổ, không chỉ chỉ từ vi rút bệnh tật, mà còn từ những ý kiến và niềm tin ngu dại.

Jigme Khyentse Rinpoche​
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
129
Điểm tương tác
12
Điểm
18
LỜI GIỚI THIỆU CỦA NHÓM DỊCH THUẬT

(Padmakara)​

Bản dịch bình luận của Khangsar Tenpai Wangchuk về Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng của Longchenpa là bước đầu tiên trong sự án dịch các tác phẩm được sưu tầm của đại học giả Tây Tạng hiện đại này. Nhiệm vụ đầy tham vọng này được giao cho Nhóm Dịch Thuật Padmakara bởi Tsultrim Zangpo Rinpoche, trụ trì tu viện Khangsar Taklung, và Yingrik Drubpa Rinpoche, cả hai đều là đệ tử của Tenpai Wangchuk (1938 – 2014), cùng với những người được ủy thác di sản văn chương của ông. Bên cạnh phần tự bình luận của chính Longchenpa viết vào thế kỷ 14, đây là bản bình luận đầu tiên và duy nhất từng được viết về Kho tàng của Bản tính Nền tảng.1

Không giống như một bản bình luận chung chung, hoặc “bình giảng ý nghĩa”, được đưa ra bởi Longchenpa để giải thích văn bản gốc của chính ông, bản bình chú của Tenpai Wangchuk là một bản “luận giải từng lời” nên có giá trị không thể đo đếm được đối với các học viên và dịch giả. Trong khi những phần bình giảng ý nghĩa chỉ tập trung vào các ý tưởng được thể hiện trong văn bản thì các bản luận giải từng lời có phong cách căn bản và mô phạm hơn. Chúng khảo sát rất chi tiết ngôn ngữ của các câu gốc, mỗi âm tiết trong đó (thường được biểu thị bằng các công cụ đánh máy) theo truyền thống được kết hợp vào chính văn bản của lời bình luận. Những thuật ngữ khó hiểu, tối nghĩa, lỗi thời, hoặc tiếng địa phương được dịch đúng nghĩa bằng những từ ngữ tương đương, phổ thông và cập nhật hơn, chỉ khi đó ý nghĩa của văn bản mới được làm sáng tỏ. Vì vậy, mục đích của bản luận giải từng lời là để đảm bảo người đọc hiểu càng rõ càng tốt ý nghĩa của các câu thơ gốc, mà ngay cả khi chúng đi kèm với một lời tự bình luận được coi là cách biểu đạt chính trong thông điệp của tác giả. Lợi thế sư phạm của cách tiếp cận này là rõ ràng, và không cần thiết phải nói thêm rằng đối với các dịch giả, những bài bình luận kiểu này là những công cụ vô giá và thường không thể thiếu.

Có lẽ là quá đáng khi nói rằng những lời tự bình luận (là những bình luận được tác giả viết trên các văn bản gốc của chính họ) luôn có ý nghĩa không thay đổi, nhưng điều này dường như chắc chắn là trường hợp của Lochenpa. Cách làm thông thường của ông là trích dẫn các đoạn thơ của chính mình và sau đó mở rộng ý nghĩa của chúng bằng các thuật ngữ chung. Nói cách khác, phần tự bình luận của ông chạy song song với các văn bản gốc, và ông hiếm khi bị vướng mắc bởi những cân nhắc đơn giản về từ vựng hoặc giải thích ẩn dụ hoặc các công cụ thơ văn khác. Điều này có lẽ là do bản thân ông nhận thấy ý nghĩa văn bản của mình là rõ ràng và có lẽ cũng vì chất thơ trong văn bản của ông chống lại phân tích thực dụng. Đôi khi Longchenpa chỉ đơn giản lặp lại bằng văn xuôi những gì ông đã nói một cách trữ tình hơn trong văn bản gốc. Vào những lúc khác, ông mở rộng ý nghĩa của nó bằng cách giải thích dài dòng hơn, hỗ trợ nó bằng nhiều trích dẫn từ kinh điển. Nhưng cũng có lúc, ông lại đi sâu vào các cuộc thảo luận chi tiết và dài dòng về các chủ đề có liên quan. Trong những trường hợp này, dường như văn bản gốc đóng vai trò là chất xúc tác cho phần tự luận, sau đó nó trở thành phương tiện chính và thường là quan trọng cho tư tưởng của ông. Do đó, trong khi những ý tưởng thú vị có thể được chọn lọc và làm sáng tỏ, việc xảy ra khá thường xuyên là những từ khó và những cách diễn đạt thơ mơ hồ trong văn bản gốc được bỏ qua trong im lặng, khiến các dịch giả, những người có nhiệm vụ đó, phải thất vọng, để đi đến chỗ có thể phân biệt ý nghĩa của văn bản gốc và dịch nó sang một ngôn ngữ khác một cách dễ hiểu.

Khi những vấn đề như thế này xuất hiện trong các tác phẩm của những tác giả khác, học viên và độc giả thường có thể hy vọng tìm đến những bản bình luận chi tiết từng chữ của các nhà bình luận thứ ba. Tuy nhiên, trong trường hợp của Longchenpa, ở đây chúng ta đối diện một vấn đề nghiêm trọng, vì không có bình luận của bên thứ ba về các tác phẩm của ông.2 Có lẽ vì sự khó khăn của họ, có lẽ vì sự tôn kính mãnh liệt mà họ đã và đang tiếp tục được mọi người coi trọng, hoặc có lẽ vì rụt rè và sợ bị chỉ trích, trong nhiều thế kỷ qua không ai dám viết ra những văn bản chú giải các tác phẩm của Longchenpa, mặc dù, tất nhiên, dòng chú giải khẩu truyền vẫn tiếp tục được duy trì không gián đoạn.

Trong thời gian gần đây, tình hình bắt đầu thay đổi, nhiều tu viện đã được khôi phục ở các tỉnh miền đông Tây Tạng, các trung tâm học tập mới được thành lập, những nỗ lực lớn lao đã được thực hiện để khôi phục và bảo vệ các truyền thống cổ xưa trong việc nghiên cứu và thực hành. Trong các tổ chức thuộc phái Nyingma, chẳng hạn, các cơ sở rộng lớn của Khenpo Jigme Phuntsok ở Serta Larung Gar hay các tu viện được xây dựng lại bởi Khenpo Taipa Wangchuk ở Khangsar Taklung và Panak ở Golok, điều này đã dẫn đến sự hồi sinh mãnh liệt của hoạt động giảng dạy và thực hành Đại Toàn Thiện và đặc biệt là việc nghiên cứu các tác phẩm của Longchenpa. Là một phần của sáng kiến tuyệt vời này, chính Tenpai Wangchuk đã biên soạn một bộ sưu tập lớn các tác phẩm. Để đáp lại sự quan tâm nhiệt tình và chắc chắn với mong muốn bảo tồn một truyền thống vốn đã mong manh qua những thăng trầm lịch sử, ông đã đưa ra nhiều văn bản về giáo lý Đại Toàn Thiện thuộc loại mà, như được nói, là chưa bao giờ xuất hiện trước đây. Đó là số phận của ông, vì thế tiểu sử của ông mách bảo chúng ta hãy làm điều mà chưa một học giả nào trước ông đã từng làm: diễn đạt bằng văn bản tác phẩm nào đó thuộc dòng truyền thừa chú giải tư tưởng của Longchenpa. Vì thế, trong số những thứ khác, Khangsar Khenpo Tenpai Wangchuk đã biên soạn những luận giải chưa từng có về hai trong số Bảy Kho Báu của Longchenpa: Kho Báu Pháp Giới và Kho Báu Bản Tính Nền Tảng. Hơn nữa, hai bản bình luận này, thật may mắn cho chúng ta, là những bản luận giải từng lời: các giải thích chi tiết về văn bản thực sự của Longchenpa. Được tán dương vì sự rõ ràng và dễ biểu đạt, chúng được biên soạn đặc biệt để cung cấp cho những học viên đầy khát vọng một phương tiện để tiếp cận những giáo lý siêu phàm của Longchenpa.

Như Tenpai Wangchuk nói trong lời mở đầu của phần bình luận thứ hai được dịch ở đây, Kho Báu của Bản Tính Nền Tảng “xác lập một quan điểm cuối cùng về các hướng dẫn cốt lõi thuộc loại bí mật” của Đại Toàn Thiện. Khi được thực hành đúng cách, nó có sức mạnh mang lại cho những người được phú cho nghiệp tốt đạt đến thành tựu cao nhất trong một kiếp sống. Tenpai Wangchuk nói: “Thật có phúc cho ai nhìn thấy, nghe thấy, nhớ lại hoặc chạm vào văn bản này”.

BẢY KHO TÀNG

Bởi vì sự giống nhau về tên của chúng, nên loạt sách Bảy Kho Tàng của Longchenpa hay được nhắc đến, để cho tiện lợi, như thể chúng là những phần được tích hợp vào một bộ sưu tập duy nhất. Tuy nhiên, một cuộc kiểm tra kỹ hơn sẽ tiết lộ rằng cso rất ít cơ sở cho giả định này và chắc chắn không có bằng chứng nào cho thấy chính Longchenpa đã nghĩ về chúng theo cách này. Trong danh mục được soạn thảo tại Tharpa Ling ở Bhutan, Longchenpa đã đề cập đến sáu trong số Bảy Kho Tàng, tất cả ngoài trừ Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng, một cách rời rạc tùy theo chủ đề của chúng mà không có bất cứ dấu hiệu nào về một mối quan hệ đáng kể giữa chúng.

Chỉ có bốn trong số Bảy Kho Tàng được xác định nơi chốn chúng được biên soạn ra là Gangri Thokar, ẩn thất của Longchenpa trên những ngọn núi phía trên thung lũng sông Tsangpo. Không có quyển nào trong Bảy Kho Tàng được xác định niên đại, ngoại trừ bằng chứng rải rác bên trong,3 thì không thể xác lập dứt khoát thứ tự mà chúng được soạn ra. Tuy nhiên, trong thời kỳ Longchenpa rời đến Bhutan năm 1350 ở tuổi 42 để tránh sự thù địch của bá vương Tây Tạng lúc đó là Tai Situ Changchub Gyaltsen, người ta thường cho rằng toàn bộ Bảy Kho Tàng, ngoại trừ Bản Tính Nền Tảng, đã được soạn ra khi Longchenpa vẫn còn là một chàng trai trẻ, để minh họa thực tế rằng ông là một học giả phi thường và đã là bậc thầy giác ngộ cao cấp từ thuở thiếu thời một cách thần kỳ.

Một truyền thống khẩu truyền nói rằng toàn bộ Bảy Kho Tàng đều được sáng tác ở Bhutan nhưng đã bị thất lạc trong một tại nạn thảm khốc khi Longchenpa trở về sau cuộc sống lưu vong vào đầu những năm 1360, khi thư viện và nhiều tác phẩm của ông bị cuốn trôi trên sông. Bảy Kho Tàng, theo diễn tiến của câu chuyện, do đó phải được viết lại ở Gangri Thokar. Tuy nhiên, có nhiều lý do để nghi ngờ tính lịch sử của truyền thuyết này, nhất là việc Longchenpa qua đời năm 1364, chưa đầy ban năm, ba năm tích cực hoạt động, sau khi ông trở về quê hương. Ngoại trừ sự hỗ trợ của các tác nhân siêu nhiên, khó mà tin rằng chúng được biên soạn thêm lần nữa trong khoảng thời gian còn lại. Ngay cả mười năm lưu trú của Longchenpa ở Bhutan dường như là một khoảng thời gian quá ngắn cho việc biên soạn Bảy Kho Tàng, một trong số đó rất dài và phức tạp, đặc biệt là xét về mọi việc khác mà Longchenpa được cho là đã hoàn thành trong khoảng thời gian đó.4

Mối quan tâm khẩn thiết hơn trong bối cảnh hiện tại là Kho Tàng Bản Tính Nền Tảng không được đề cập đến trong danh mục Tharpa Ling, đã được biên soạn vào một thời điểm nào đó trong quãng bảy năm kể từ khi xẩy dựng ngôi đền ẩn mật này vào năm 1353 cho đến khi Longchenpa trở về Tây Tạng vào năm 1360. Và vì lời cuối sách cho biết nó được viết ra ở Gangri Thokar, chẳng phải vô lý khi suy luận rằng quyển cuối của Bảy Kho Tàng đã được soạn ra sau khi Longchenpa trở về từ cuộc sống lưu vong và vì vậy nằm trong số những tác phẩm cuối cùng của ông.

Trong quan điểm dường như không có mối liên hệ nào giữa Bảy Kho Tàng về bản chất (nhưng vì sự giống nhau của chúng về tên gọi) cũng như việc chúng ta không thể xác định niên đại của chúng để lập ra một thứ tự biên soạn, thật khó để tưởng tượng rằng chúng đã được nghĩ đến như một tuyển tập duy nhất do chính tác giả soạn thảo theo một kết hoạch định trước nào đó. Tuy nhiên, điều này chẳng có nghĩa là không thể thấy bất cứ thứ tự nào trong những tác phẩm đặc biệt này.

Khenpo Jigme Phuntsok, người thường giảng nghĩa Bảy Kho Tàng trong một giáo khóa mở rộng cho hàng nghìn học viên, đã nhận thấy trong chúng có một trình tự giảng dạy tự nhiên bất kể ngày tháng được biên soạn.5 Vì mục đích dạy học, ông sắp xếp chúng theo thứ tự dần dần tùy theo chủ đề, bắt đầu với những văn bản chủ yếu đề cập đến các chủ đề kinh điển tổng quat và tiến dần đến những tài liệu tập trung hoàn toàn vào giáo lý Đại Toàn Thiện. Theo sự sắp đặt này, trước hết, ông sẽ giảng Kho Tàng Ngọc Như Ý Kho Tàng Hệ Thống Nguyên Lý,6 về các chủ đề chung và triết học. Tiếp theo là nghiên cứu về Kho Tàng Những Chỉ Dẫn Thiết Yếu,7 là một tuyển tập lớn gồm những câu cách ngôn sáu dòng bao quát hàng loạt các chủ đề về học thuyết được rút ra từ các giáo lý Kinh điển, Mật điển và Đại Toàn Thiện. Phần giới thiệu trực tiếp về Đại Toàn Thiện sẽ theo sau phần trình bày về Kho Tàng của Pháp Giới Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng,8 hai văn bản đầy chất thi ca đẹp đẽ được thiết kế để đưa học viên tiếp xúc trực tiếp và đầy hứng khởi với cái thấy của Đại Toàn Thiện về tính thanh tịnh bản nguyên, cùng với thực hành Trekcho, hay “cắt đứt”. Cuối cùng, khóa học sẽ kết thúc với việc đọc Kho Tàng của Tối Thượng Thừa Kho Tàng của Ngôn Từ và Ý Nghĩa,9 những giảng giải mang tính học thuật về nền tảng lý thuyết của Đại Toàn Thiện, nằm trong số những tác phẩm khó và yêu cầu khắt khe nhất của Longchenpa.



KHO TÀNG CỦA BẢN TÍNH NỀN TẢNG


Trong những trang đầu của bình luận về Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng, Tenpai Wangchuk đề cập tới mối quan hệ chặt chẽ của nó với Kho Tàng của Pháp Giới. Ông nói, cả hai văn bản đều chắt lọc giáo lý của cả ba tầng lớp Đại Toàn Thiện (lớp tâm trí, lớp không gian, và lớp chỉ dẫn cốt lõi), chứa đựng những điểm cốt yếu cho sự hiểu biết về cái thấy và thực hành trekcho, giảng giải về tính thanh tịnh nguyên sơ.

Hơn nữa, hai tác phẩm này được cho là bổ sung nhau về mặt lý thuyết và thực hành. Về lý thuyết, Kho Tàng của Pháp Giới xác lập bản tính của mọi hiện tượng của cả luân hồi và niết bàn không quá nhiều về mặt bản thể học, theo nghĩa chúng thiếu vắng sự tồn tại thực sự, mà về mặt trí tuệ, như một biểu hiện sáng tạo trong sự mở rộng bao la của bản tính tâm trí, “Pháp Giới vô hạn, tỉnh giác mà thôi”. Đây là ghi chú đặc trưng của Đại Toàn Thiện, trong đó trạng thái bản thể luận của vạn sự như được xác lập trong Trung Quán được thay thế bằng nhãn quan thấy mọi hiện tượng là sự phô diễn của tính giác, thanh tịnh bản nguyên và tịnh quang tự phát. Tuy nhiên, đồng thời Tenpai Wangchuk nói rằng Kho Tàng Bản Tính Nền Tảng khác với Kho Tàng Pháp Giới ở chỗ nó áp dụng hiểu biết này vào tâm trí của cá nhân hành giả “trong một sự trình bày có hệ thống về các giai đoạn kế tiếp nhau”. Nó mô tả cách những hành giả đã bước vào con đường Đại Toàn Thiện phải hiểu và liên hệ với chính những hình tướng hiện tượng, cả thế giới bên ngoài lẫn các trạng thái chủ quan bên trong nắm bắt nó. Do vậy các hiện tượng được trình bày dưới dạng bốn nguyên tắc kim cương: đó là sự không tồn tại của chúng, tính bình đẳng của chúng, hiện diện tự phát của chúng, và bản tính đơn nhất của chúng. “Nếu hành giả đem những nguyên tắc giống như thế này vào trong tâm trí mình thì họ sẽ dễ dàng thực hiện lời dạy này một cách tuần tự và có hệ thống”.

Có lẽ có tình trạng chưa rõ ràng ngay lập tức về việc áp dụng những nguyên tắc này vào tâm trí của hành giả như thế nào. Kho Tàng Bản Tính Nền Tảng không phải là một cẩm nang hướng dẫn thực hành. Tuy nhiên, sự mô tả của nó về cách thức xuất hiện các hiện tượng phải được hiểu và liên hệ đến việc giới thiệu học viên khá trực tiếp vào cái thấy và thực hành trekcho. Bốn nguyên tắc kim cương trên thực tế là bốn samaya (giới nguyện mật tông) về không có gì để nắm giữ, bốn cách mà những hành giả đủ tiêu chuẩn của Đại Toàn Thiện phải kinh nghiệm và hiểu các hiện tượng của thế giới bên ngoài được nhận thức bởi các giác quan cũng như các trạng thái tinh thần và cảm xúc chủ quan nắm bắt chúng. Kho Tàng Bản Tính Nền Tảng là sự khám phá sâu sắc và chi tiết về bốn giới nguyện này.

Cần phải hiểu rằng từ “samaya” ở đây được dùng với một ý nghĩa đặc biệt. Nói chung, ở cấp độ mật tông, samaya được hiểu là một lời cam kết, đề cập đến thái độ và hành vi mà các đạo sư và đệ tử cam kết thực hiện một khi quán đỉnh đã được ban ra và nhận được. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện tại, bốn “samaya” thực ra là bốn nguyên tắc, bốn cách hiểu về hình tướng hiện tượng, bắt nguồn từ sự chứng ngộ được tu luyện bởi hành giả Đại Toàn Thiện. Như Dilgo Khyentse Rinpoche từng lưu ý, trong bối cảnh đó, “samaya” ám chỉ trí tuệ bản nguyên bất động của cõi bao la tối thượng. Và “vì mọi thứ đều là sự phô diễn của trí tuệ này, giới nguyện này không thể bị vi phạm”.10

Bốn samaya của không có gì để nắm giữ được đề cập ngắn gọn trong Kho Tàng của Các Phẩm Tính Quý Giá của Jigma Lingpa, và một bản tóm tắt của chúng có thể được tìm thấy trong một bình luận ngắn gọn những hữu ích của Kangyur Rinpoche, bắt đầu bằng sự mô tả về loại người mà họ cần rèn luyện, cụ thể là, những người có khả năng thi hành các giáo lý Đại Toàn Thiện và những người mà bốn mật nguyện là vấn đề sống còn đối với họ. Ông nói:

Những người đã được giới thiệu trọn vẹn vào bản tính của tâm trí và có thể an trú trong đó sẽ nhận ra rằng những hình tướng bên ngoài là không có nền tảng và tỉnh giác bên trong là không có đối tượng. Những người như vậy an trú trong một trạng thái mà họ không phân biệt được điều gì nên được chấp nhận và điều gì cần phải bị từ chối.11

Sau đó ông lưu ý:

Các samaya của “không có gì để nắm giữ” ám chỉ cách mà người ta an trú trong bản tính nền tảng của mọi thứ, trạng thái bất hoại như kim cương, vốn chẳng có khiếm khuyết từ nguyên thủy, không bị chia cắt bởi nhị nguyên. Tâm trí và các hình tướng đều bị chế ngự bởi trí tuệ bản nguyên của pháp thân.12

Những phát biểu ngắn gọn nhưng đầy sức thuyết phục này tập trung vào điểm cốt yếu rằng việc thực hành Đại Toàn Thiện và đặc biệt là trekcho không bắt đầu bằng sự hiểu biết tri thức từ một quan điểm triết học, như trường hợp của các thừa thấp hơn trong giáo lý Phật, mà với sự chứng ngộ và kinh nghiệm vững vàng về bản tính của tâm trí, là thứ trong thực tế tương ứng với cái thấy trực tiếp về chân lý tối thượng trong chính nó. Nói cách khác, điểm khởi đầu cho việc thực hành Đại Toàn Thiện không phải là một sự hiểu biết tri thức mà là một trạng thái chứng ngộ. Trước cơ duyên nhận biết trực tiếp về về bản tính của tâm trí, nghiên cứu tri thức về Đại Toàn Thiện, mối quan tâm được chất chứa vào nó, và bản thân sự thực hành, nói đúng ra đều thuộc về con đường tu tập sơ khởi của nỗi khát khao tìm đạo nhưng lại có tầm quan trọng thiết yếu.

Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng là một bản thuyết trình thấu đáo trong đó mỗi một trong số bốn giới nguyện về “không có gì để nắm giữ” được giải thích trong bốn giai đoạn liên tiếp. Đầu tiên, ý nghĩa của giới nguyện trong câu hỏi (không tồn tại, bình đẳng, hiện diện tự phát, và bản tính đơn nhất) được tuyên bố hay tiết lộ trong một chuỗi những điểm then chốt. Thứ hai,các hiện tượng được khám phá sâu hơn và bản tính của chúng được tóm lược hay thiết yếu hóa dưới dạng giới nguyện trong câu hỏi. Thứ ba, quá trình tương tự được lặp lại nhưng lần này từ quan điểm của chính giới nguyện, nó được chứng minh là bao gồm hoặc gộp vào trong nó toàn bộ tập hợp các hình tướng hiện tượng.Cuối cùng, tất cả những điểm này được mang vào trong sự tập trung để dẫn đến một trạng thái chắc chắn mang tính quyết định.13

Để giới thiệu ngắn gọn về bốn giới nguyện samaya, chúng tôi tjam thời đề xuất tóm tắt sau đây. Chúng tôi đã chỉ ra rằng đặc trưng trong cách tiếp cận của Đại Toàn Thiện không giống như trong Trung Quán, vốn đặt các hiện tượng của thế giới bên ngoài vào phân tích logic như một phương tiện để làm suy yếu sự bám víu của chúng ta vào nó. Thay vào đó, nhiệm vụ là nhận ra bản tính của mọi hình tướng hiện tượng bên trong tâm trí và đạt đến hiểu biết, hay đúng hơn là nhìn thấy trực tiếp, rằng thế giới hiện tượng chẳng là gì khác ngoài sự phô diễn của tính giác. Đạt được và nghỉ ngơi trong sự nhận biết này chính là giải thoát. Vì theo giáo lý của Đại Toàn Thiện, chính xác là do không nhận ra bản chất của các hiện tượng là sự hiển lộ của tính giác, và thay vào đó lại tin rằng chúng tồn tại khách quan, nên chúng sinh lang thang trong những kinh nghiệm ảo tưởng của luân hồi, lầm tưởng rằng các hiện tượng là thật.

Longchenpa nói rằng giống như vũ trụ, dù rộng lớn đến đâu, cũng bị chứa đựng trong chiều sâu của không gian, tương tự với toàn thể thế giới hiện tượng của cả luân hồi và niết bàn, mọi thứ xuất hiện và có thể xuất hiện trong tâm trí của chúng sinh, đều sinh khởi trong sự mở rộng của tính giác thanh tịnh. Mọi hiện tượng không tồn tại bên ngoài tính giác. Ngay cả trong chính tính giác, các hiện tượng chỉ là những hình tướng không có thực thể. Đây là samaya hay nguyên tắc không tồn tại.

Khi yogi an trú trong nhận biết về bản tính tối hậu, trong hiểu biết rằng các hiện tượng là sự phô diễn hư ảo của tính giác, và khi, liên quan đến cùng những hiện tượng tương tự này, mọi nhận thức giác quan được để ngỏ và tự do, không có sự phân biệt hay đánh giá định tính, khi, nói cách khác, các hiện tượng được để mặc như chúng vốn có mà không có sự phán xét, “được an trú trọn vẹn trong sự mở rộng bao la của bản tính tối thượng”, chúng được cho là “bình đẳng”. Tất cả đều hiển lộ phẩm cách như nhau. Đây là samaya của tính bình đẳng bao trùm toàn thể.

Khi tính bình đẳng này được tiến thêm một bước nữa, chúng ta đến với samaya của sự hiện diện tự phát, có lẽ là thứ khó nắm bắt nhất. Nhìn chung, khi mọi thứ được cho là hiện diện tự phát, vấn đề được hiểu là chúng không sinh khởi do các nguyên nhân và điều kiện. Chúng chỉ đơn giản là “ở đó”. Để giải thích đặc tính của hình tướng hiện tượng này, Longchenpa dùng ví dụ về giấc mộng. Mặc dù mọi thứ được kinh nghiệm trong những giấc mơ, đối với người đang nằm mộng, là không thể phân biệt được với những thứ đối diện trong lúc thức, nhưng thực tế là chúng không phát sinh từ sự kết hợp giữa các nguyên nhân và điều kiện như những sự kiện chúng ta gặp lúc thức. Không có sự tồn tại bên ngoài tâm trí của người mơ, những hình ảnh trong mơ xuất hiện đơn giản nhờ “năng lực sáng tạo của trạng thái ngủ”. Chúng “chỉ ở đó”, hiện diện tự phát. Cũng giống như những hình ảnh trong mơ xuất hiện nhờ năng lực sáng tạo của giấc ngủ, các hiện tượng của cuộc sống lúc thức cũng phát sinh nhờ năng lực sáng tạo của tính giác, chúng không tồn tại ngoài tính giác.

Cuối cùng, người ta có thể suy nghĩ thêm rằng bất cứ hiện tượng nào được nhận thức, dù dưới dạng xuất hiện khách quan hay trạng thái chủ quan nhận ra chúng, và bất kể “sắc thái” của chúng là tích cực hay tiêu cực, tốt hay xấu, tất cả đều phát sinh, duy trì, và tàn lụi ngay trong tính giác. Theo nghĩa này, chúng chỉ đơn giản là một tính giác duy nhất. Samaya cuối cùng này là giới nguyện của bản tính đơn nhất.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
129
Điểm tương tác
12
Điểm
18
TÁC GIẢ CỦA BẢN BÌNH LUẬN

Khangsar Tenpai Wangchuk sinh năm 1938 tại quận Akyong Khangsar của Golok, một vùng xa xôi phía đông Tây Tạng hiện giờ thuộc về tỉnh Thanh Hải của Trung Quốc. Không lâu sau khi ra đời, theo báo cáo địa phương, có nhiều dấu hiệu siêu nhiên khác nhau xuất hiện, ông được các lama quan trọng của nhiều trường phái khác nhau công nhận là tái sinh của Panak Ontrul Rigdzin Dorje, một hóa thân của Yudra Nyingpo, một đệ tử của đại dịch giả thế kỷ thứ tám Vairosana, và là một trong 25 đệ tử của Đạo sư Liên Hoa Sinh. Tiểu sử chi tiết, mở đầu tập một trong tuyển tập các tác phẩm của Tenpai Wangchuk, mô tả trí thông minh sớm phát triển và những năng khiếu tâm linh của ông. Năm 1952, ông thọ giới tu sĩ đầu tiên ở tuổi 14 từ Akong Khenpo Lozang Dorje, giám đốc của shedra, hay trường đại học kinh điển của Thosam King, người sau này đã hướng dẫn ông về ba cấp độ giới nguyện của Phật giáo, và ban cho sự truyền trao Con đường Bồ Tát của Shantideva. Năm sau, ở tuổi 15, Tenpai Wangchuk đã chứng tỏ khả năng của mình bằng cách thuyết giảng trước công chúng hai chương đầu của văn bản này. Không lâu sau, ông nhận được từ người nắm giữ ghế lãnh đạo của tu viện Palyul Dimda, sự truyền dạy và giải thích Mật điển Guhyagarbha. Là người gắn bó với phái Nyingma, nhưng những nghiên cứu ban đầu của Tenpai Wangchuk vẫn có phạm vi rộng và phản ánh tinh thần bất bộ phái của phong trào rime. Ông đã nghiên cứu nhiều văn bản về truyền thống Geluk, đặc biệt là các sách giáo khoa của Jamyang Zhepa, người sáng lập đại tu viện Labrang Tashi Khyil ở Amdo, cũng như những tài liệu cơ sở cho các chủ đề, logic, và nhận thức luận được sưu tầm theo chương trình giảng dạy tại Geluk. Đồng thời, ông nhận được trao truyền đầy đủ các tác phẩm của Mipham Rinpoche. Ông bắt đầu nghiên cứu Trung Quán và Bát Nhã ba la mật ở tuổi 16 và trong năm sau đó nhận được những trao truyền các bản văn đề những chủ đề này do đạo sư Jonang nổi tiếng Bamda Thubten Gelek biên soạn.

Năm 18 tuổi, Tenpai Wangchuk hỏi ý kiến thầy mình là Palyul Choktrul Rinpoche và xin phép ông được vào Labrang Tashi Khyil ở Amdo. Tuy nhiên, Palyul Choktrul khuyên ông nên nộp đơn vào Amchok Tsenyi, một tu viện Geluk quan trọng cũng ở Amdo nhưng gần nhà hơn, và tự mình viết thư giới thiệu. Tenpai Wangchuk dành hai năm ở Amchok để nghiên cứu những tác phẩm vĩ đại về logic và nhận thức luận. Ông thăng tiến và nổi bật trên sân tranh luận, đến nỗi người ta nói rằng nếu ông ở lại đó, chắc chắn ông sẽ trở thành một geshe vĩ đại. Tuy nhiên, ông đã trở về nhà ở Khangsar với tư cách là một học giả trẻ đầy hứa hẹn. Vào thời điểm đó, tiểu sử ghi lại, ông đã có dấu hiệu là một terton, hay người khám phá kho tàng tâm linh.

Trong những năm tháng gian khó, giữa tất cả các nghịch cảnh, Tenpai Wangchuk không hề nao núng, ngày càng trở nên dũng cảm và có tầm vóc đạo đức. Ông tiếp tục việc học của mình, tham khảo nhiều vị thầy khác nhau trong vùng và thỉnh cầu sự hướng dẫn, đặc biệt là từ Domsta Terton Dudul Wangdrak Dorje và anh trai ông là Domtsa Namgyal. Cũng vào lúc đó, Tenpai Wangchuk đã bí mật nhận được những giáo lý quan trọng về Đại Toàn Thiện, như mật điển Bản Tính Nền Tảng Tự Sinh Khởi 15 và Sự Tinh Luyện của Nhận Thức 16 của Dudjom Lingpa.

Tiểu sử cho chúng ta biết rằng, không nản lòng trước tất cả các dày vò và thiếu thốn dành riêng cho giới tu sĩ và lama như ông. Tenpai Wangchuk đã có thể thực hiện đầy đủ các giáo lý lojong, hay tu tâm, đưa vào con đường bất cứ khó khăn nào ông gặp phải mà không rơi vào tuyệt vọng hoặc đánh mất từ và bi đối với những người đối đầu hoặc cùng cảnh ngộ như ông.

Năm 1971 đánh dấu một sự thay đổi quan trọng trong vận mệnh của Tenpai khi ở tuổi 33, ông được gửi đến Thangkarma, một khu lao động mà thật đáng ngạc nhiên là trong đó có không dưới năm mươi đạo sư và tulku thành tựu cao thu gom từ khắp Tây Tạng. Trong niềm hân hoan, ông thấy mình đang ở trước sự hiện diện của một loạt các bậc giác ngộ, nhiều người trong số họ đã lưu giữ trong ký ức của mình những kho tàng giáo lý khổng lồ và thực sự là toàn bộ các văn bản mà họ đã thuộc lòng. Nhờ đó, giữa tất cả những khó khăn khủng khiếp của cuộc sống trong khu lao động, ông đã có thể hoàn thành việc học của mình, bí mật nhận được những chỉ dẫn thiết yếu từ nhiều bậc thầy mà ông gặp ở đó. Ví dụ, chính tại Thangkarma, ông đã gặp bậc thầy Geluk vĩ đại Alak Yongdzin Lozang Khedrub Gyatso đến từ Labrang Tashi Khyil. Cảm thấy có lòng sùng mộ tự nhiên đối với vị đạo sự vĩ đại của truyền thống Kadam này, Tenpai đã nhận được từ ông Ba Phương Diện Chủ Đạo của Con Đường của Tsongkhapa và hướng dẫn thiết yếu về Các Giai Đoạn của Con Đường, cũng như những điểm cốt yếu của năm văn bản vĩ đại trong chương trình giảng dạy truyền thống của phái Geluk.

Trong số nhiều lama vĩ đại ở Thangkarma, người quan trọng nhất đối với Tenpai là Akyong Togden Lodro Gyatso thuộc phái Nyingma của ông. Trước khi tới đây, bậc thầy phi thường này, một học giả lớn có trí nhớ phi thường, đã sống cuộc đời của một ẩn sĩ lang thang. Giống Patrul Rinpoche trước đây, ông là một người lang thang không nhà cửa và hoàn toàn không có tài sản. Đã quen sống trong hang động và những nơi trú ẩn tạm bợ, ông đã hoàn toàn quen với những khó khăn về vật chất. Ông chỉ ăn những gì tình cờ tìm được hoặc những gì được cho, chỉ có một chiếc áo da cũ để che lưng và đã quen đi chân trần trên tuyết. Người ta có thể tưởng tượng rằng những khó khăn vật chất của khu lao động sẽ khó mà có thể ảnh hưởng đến một yogi như vậy, người dù sao cũng là một bậc thầy về tu tâm. Đối với ông cũng như Tenpai và các bậc đại sư khác trong cùng môi trường, những người gây khó khăn khổ sở cho họ chẳng là gì khác ngoài đối tượng của bi tâm và trợ duyên cho thực hành nhẫn nhục. Phù hợp với giáo lý rằng những vị Bồ Tát mang lại lợi ích cho những người làm hại họ, tiểu sử Tenpai cho chúng ta biết nhờ đạo hạnh hoàn hảo của các vị thầy này, những kẻ hung ác đã được đưa đến ngưỡng cửa giải thoát.17

Lodro Gyatso được tôn kính như một hóa thân của Vairotsana, dịch giả lỗi lạc nhất của Tây Tạng thời kỳ đầu. Cuộc gặp gỡ giữa ông và Tenpai (người mà, sẽ được nhắc lại, là một hóa thân của đại đồ đệ của Vairotsana, Yudra Nyingpo) đã đánh thức mối liên hệ cổ xưa giữa hai đạo sư. Mặc dù giữa họ chỉ cách nhau tám tuổi, Tenpai coi Lodro Gyatso như vị thầy đã thất lạc từ lâu của mình và nhận từ ông nhiều trao truyền và giáo huấn thiết yếu. Quá trình này được tạo điều kiện thuận lợi hơn rất nhiều từ 1973 trở đi, khi Lodro, Tenpai và một số người khác được chuyển đến khu lao động khác, trong đó quy chế thoải mái hơn và họ được phép nghỉ ngơi thường xuyên. Chính trong những dịp này, Tenpai đã nhận trao truyền từ Lodro nhiều tác phẩm của Longchenpa, Jigme Lingpa và những vị khác. Đặc biệt, ông đã hai lần nhận được những hướng dẫn khẩu truyền về Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng, trên cơ sở đó cuối cùng ông đã soạn thảo ra luận giải của mình.

Qua giai đoạn đó, Tenpai lên đường trở về Khangsar, nơi ông cống hiến phần đời còn lại của mình cho việc giảng dạy. Những tu viện Khangsar Taklung và Panak mà ông khôi phục đã phát triển nhanh chóng thành những cơ sở rộng lớn và cuối cùng là nơi ở của hàng nghìn học viên.

Tenpai Wangchuk, hóa thân của Yudra Nyingpo (một trong 25 học trò thân cận nhất của Đạo sư Liên Hoa Sinh), là một terton. Truyền thống terma, hay kho tàng tâm linh, tức là những giáo lý mà Đạo sư Liên Hoa Sinh được cho là đã cất giấu trong những tầng sâu nhất trong tâm thức các đệ tử của ngài, sẽ được tiết lộ bởi những hóa thân sau này của họ vào những thời điểm thuận lợi trong tương lai, là một đặc trưng chủ yếu của phái Nyingma.18 Cách thức mà những terme (kho tàng) này hiển lộ ra rất phức tạp và bí ẩn. Chúng xuất hiện theo ba cách: terme tâm, trực tiếp trong tâm của người khám phá kho tàng; terma đất, trong hình dạng của những vật thể vật chất được cất giấu ở những nơi chốn cụ thể, quang cảnh của chúng đánh thức trong tâm vị terton ký ức về những giáo huấn nguyên thủy của Guru Rinpoche; và cách thứ ba là qua các linh ảnh thanh tịnh.19 Tiểu sử cho thấy rằng khả năng phát lộ kho tàng giáo lý đã thức tỉnh trong dòng tâm thức của Tenpai khi ông còn trẻ. Nhiều kho tàng xuất hiện với ông dưới dạng terma tâm hoặc linh ảnh thanh tịnh, mà ông cảm thấy buộc phải viết ra nhưng đã bị thất lạc theo thời gian. Một số còn dang dở và cuối cùng bị chính Tenpai đốt cháy. Tuy nhiên, khi hoàn cảnh thuận lợi hơn, Tenpai đã phát lộ một số giáo khóa thực hành quan trọng, hoặc là terma tâm, hoặc terma đất. Những học thuật này đã được ông cam kết viết ra và bảo quản trong các tác phẩm sưu tầm của mình. Trong trường hợp terma đất, việc khám phá những vật thể vật chất được Guru Rinpoche cất giấu một cách kỳ diệu bên trong, như được nói là “tinh hoa của các nguyên tố” thường được thực hiện trong những điều kiện bí mật nghiêm ngặt nhất. Tuy nhiên đôi khi và chắc chắn là để khơi dậy niềm tin nới các học trò, Tenpai đã thực hiện hành động phi thường này trước sự chứng kiến của những đám đông lớn.

Là một vị thầy thiện xảo và không biết mệt mỏi, Tenpai cũng là một nhà văn có nhiều tác phẩm phong phú, đã sáng tác một loạt các tác phẩm quan trọng và say mê, một số trong đó đang được biên tập. Tại thời điểm được viết ra, bộ sưu tập có tám cuốn pecha Tây Tạng hay năm tập sách kiểu phương Tây. Là một phần của nỗ lực to lớn được thực hiện để tái lập thực hành Phật giáo ở Tây Tạng, Tenpai đã bảo toàn nhiều giáo lý đáng lẽ có thể bị thất lạc. Ông cam kết sẽ viết bằng hình thức rõ ràng và dễ tiếp cận với nhiều hướng dẫn thiết yếu liên quan đến cả Kinh điển, Mật điển, và đặc biệt nhất là giáo lý Đại Toàn Thiện.Chúng bao gồm các bình giảng của Jigme Lingpa trong Trí Tuệ Vô Song 20 và Mipham Rinpoche trong Ngọn Hải Đăng của Tính Xác Thực.21 Như chúng tôi đã đề cập, có lẽ điều phi thường nhất trong số đó là những bản bình luận không được đoán trước của ông về hai trong số Bảy Kho Tàng của Longchenpa: một bản bình luận lớn trong 450 trang về Kho Tàng của Pháp Giới và một bản giải nghĩa ngắn hơn về Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng được dịch ra ở đây.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
129
Điểm tương tác
12
Điểm
18
ĐẠI TOÀN THIỆN, DỊCH THUẬT, BÍ MẬT

MỘT CẢNH BÁO CHO ĐỘC GIẢ


Ở phần cuối của Kho Tàng Bản Tính Nền Tảng, Longchenpa đưa ra một mô tả khá ngắn gọn về loại người mà văn bản này được soạn thảo dành cho họ, những người mà ông cho là có thể hiểu và thực hiện bốn samaya về không có gì để nắm giữ. Ông thảo luận về những phẩm chất cần thiết của thầy và trò, và đối với các học viên, ông phân biệt rõ ràng những người nên được ban giáo lý với những người nên bị từ chối. Khenpo Tenpai Wangchuk bình luận khá chi tiết về những vấn đề này, mô tả sự cần thiết và lý do cho bí mật xung quanh giáo lý Đại Toàn Thiện.

Trong bối cảnh rộng hơn của mật tông, một số lý do theo truyền thống được đưa ra để giữ bí mật, che giấu giáo lý đối với những người tiếp nhận không phù hợp và đối với công chúng nói chung, những người chưa nhận quán đỉnh. Như được cho biết rằng mục đích của việc giữ bí mật là để duy trì tính toàn vẹn của chính các giáo lý và để bảo toàn tính thanh tịnh và công hiệu của dòng truyền thừa trong việc ban lực gia trì hay truyền trao năng lực tâm linh, là một đặc trưng tổng quát của mật thừa đối với các phương tiện thiện xảo. Ngoài ra, một điểm mà Tenpai nhấn mạnh, giữ bí mật cũng được xem như một phương tiện để bảo vệ những người không đủ phẩm chất khỏi những học thuyết có tiềm năng gây nguy hiểm cho họ. Trong bối cảnh hiện tại, điều này để cập đến đặc điểm trái ngược của một số học thuyết mật tông, chẳng hạn, những tuyên bố về tính hiệu quả như tính giác thì siêu việt sự vận hành của luật nhân quả về nguyên nhân và hậu quả, rằng từ điểm nhìn của tính giác thì những hiện tượng cho dù là “tốt” hay “xấu” chỉ là những hình tướng tuy rõ ràng như không tồn tại. Đối với những người hiểu sai giáo lý này và những người không được bảo vệ và giám sát từ một vị thầy đủ tiêu chuẩn, thì nguy hiểm sẽ nhiều gấp đôi.

Trước hết, ý tưởng cho rằng tốt và xấu là những thuật ngữ tương đối và có một cấp độ hiểu biết nào đó có thể vượt qua chúng có thể dẫn đến tình trạng mà theo truyền thống gọi là đánh mất phẩm hạnh trong cái thấy. Điều này phát sinh do không phân biệt được hiểu biết thuần túy tri thức với sự chứng ngộ tinh thần sâu sắc đích thực, dẫn đến ý tưởng sai lầm rằng vì tất cả đều là tính không, hay chỉ là sư phô diễn của tính giác, nên hạnh kiểm trong hành vi của một người là vấn đề không quan trọng, và rằng, trong thực hành, “mọi thứ đều chấp nhận được”. Tuy nhiên, sự hiểu biết tri thức thông thường không thể bão bỏ luật nhân quả. Quá trình nghiệp báo của hạnh phúc và đau khổ vẫn tiếp tục diễn ra theo lộ trình của nó, và hành động tiêu cực, bất kể ý tưởng nào mà người ta có thể ấp ủ về nó, đều dẫn đến sự chìm đắm đạo đức và tâm hồn không thể tránh khỏi. Trên thực tế, giáo lý đã nhiều lần cảnh báo về mối nguy hiểm này. Trong lời khuyên cho vua Trisong Detsen về thực hành mật tông, Guru Rinpoche được cho là đã nói: “Cái thấy hòa hợp với Pháp Thân, nhưng hạnh kiểm lại hòa hợp với con đường Bồ Tát”.22 Còn trong một dịp khác, ông nói một câu nổi tiếng: “Cái thấy của tôi cao hơn bầu trời, nhưng sự chú ý vào các hành động của tôi và hậu quả của chúng còn mịn hơn bột mì”.23

Nguy hiểm thứ hai của việc nói một cách thiếu thận trọng về các mật điển đối với đại chúng là những người không được chuẩn bị để tiếp nhận chúng có thể bị sốc và kết quả là có thể chỉ trích và bác bỏ chúng. Hành động này sẽ cắt đứt bất kỳ mối liên hệ nào mà họ có thể có với những giáo lý mật thừa, họ sẽ không bao giờ gặp lại chúng nữa và sẽ lang thang trong đau khổ trong nhiều kiếp sau. Một lần nữa, đây là một chủ đề được nhắc lại định kỳ trong giáo lý Phật phổ thông, trong đó mối nguy hiểm khi nói ra những vấn đề sâu sắc cho những người chưa được chuẩn bị đã được trình bày rõ ràng.24

Liên quan đến những nguy hiểm này, Tenpai nói mạnh mẽ và rõ ràng về sự cần thiết phải giữ bí mật những giáo lý cao hơn đối với những người chưa đủ phẩm chất để tiếp nhận chúng:

Chúng thậm chí không nên được nói ra trong một cơn gió thổi về hướng của họ ... Hành giả không nên có xu hướng giải thích những giáo lý bí mật cho những người không phù hợp. Không nên phát ra một âm tiết nào cho họ. Không nên đặt các kinh văn vào tay họ. Hành giả phải giữ bí mật.25

Đọc một tuyên bố như vậy, độc giả phương Tây hiện đại có thể phản ứng một cách buồn bã rằng bất kể tình huống nào có thể xảy ra ở những khu vực nhất định và trong những thời điểm nhất định ở Tây Tạng truyền thống, thì bây giờ đã quá muộn cho những cảnh báo như vậy. Trong thế giới ngày nay, bất kể bao nhiêu giáo lý được coi là bí mật đến đâu thì cũng đã được dịch và có sẵn trên thị trường hoặc có thể tải ngay xuống máy tính cá nhân của một người. Quảng cáo trên các tạp chí thời đại mới có thể chứa đựng những thông báo về những giáo lý cao cấp dành cho bất cứ ai có thời gian rảnh rỗi và đủ tiền để trả đăng ký theo dõi các khóa hướng dẫ yoga bí mật, từ tập trung vào các kinh mạch vi tế đến thiền định liên quan tới các cấp độ cao nhất của Đại Ấn và Đại Toàn Thiện.

Phản ứng trước thực tế này của cuộc sống hiện đại, một số vị thầy Tây Tạng đã nhấn mạnh dứt khoát rằng một số văn bản nhất định không nên được dịch, hoặc nếu có thì không nên xuất bản. Xem xét cách tiếp cận truyền thống của người Tây Tạng đối với việc đọc các văn bản tôn giáo tương phản với thái độ tìm hiểu tư do và cởi mở điển hình của độc giả phương Tây, quan điểm này ở một mức độ nào đó có thể hiểu được. Tuy nhiên, suy nghĩ cẩn thận cho thấy rằng việc cấm dịch thuật và xuất bản nói chung là một câu trả lời không thỏa đáng cho vấn đề hiện tại và không thể là câu trả lời đúng. Vai trò của dịch thuật chỉ đơn giản là mở rộng sang một ngôn ngữ khác cho việc truyền bá và bảo tồn các giáo lý. Đó là sự phục vụ dành cho các tác giả ban đầu, xuất phát từ cùng những mục đích đã thúc đẩy việc sáng tác văn bản của họ ngay từ đầu. Mục đích của nó là cung cấp khả năng tiếp cận Học thuyết cho những người muốn nghiên cứu nó bằng cách loại bỏ một trở ngại không thể vượt qua ngăn cản họ làm như vậy. Sự truyền bá của Phật Pháp qua nhiều thế kỷ, khắp Ấn Độ và xa hơn nữa, là một lịch sử dịch thuật. Việc phản đối biên dịch các kinh văn dường như lạc nhịp một cách kỳ lạ với một trong những đặc điểm cơ bản của chính truyền thống Phật giáp Tây Tạng, vốn được thiết lập, từ gốc rễ tới các nhánh, trên một khối lượng lớn, cả công truyền và bí truyền, từ các giáo lý được biên dịch.

Hơn nữa, không thể phủ nhận là sau khi dịch xong, nhiệm vụ tiếp theo là cung cấp cho những người cần nó. Điều không thể tránh khỏi là sẽ xuất bản trong một khuôn khổ hoặc hình thức nào đó. Trên thực tế, đây chính là nơi những khó khăn bắt đầu. Vì điều tự nhiên là các dịch giả của những kinh văn Đại Toàn Thiện, chẳng hạn, nên để ý rằng bằng cách khiến các văn bản hiện hữu trên thực địa lần đầu, họ đang góp phần vào việc phổ biến công khai các giáo lý vốn chỉ dành cho một nhóm người tiếp cận hạn chế và do đó đang tham gia vào việc phản bội lại phong ấn bí mật. Để bảo vệ chống lại tình trạng này, và như một phương tiện để đảm bảo rằng các giáo lý bí mật tìm được đích đến thích hợp và không rơi vào tay kẻ xấu, một số người nghĩ rằng nên tạo ra một loại hệ thống phân phối hạn chế nào đó. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy những kế hoặc như vậy chỉ có hiểu quả ở quy mô nhỏ trong phạm vi giới hạn của một nhóm khá hạn chế học viên mà danh tính của họ được biết và thuộc về một tổ chức nơi lưu giữ hồ sơ về những giáo lý và quán đỉnh đã được ban. Có thể trong những môi trường như vậy, việc phân phối văn bản sẽ được giám sát hiệu quả. Tuy nhiên, trong trường hợp của toàn thể cộng đồng Phật tử nói tiếng Anh, tình hình lại hoàn toàn khác. Căn cứ vào thực tế của ngành xuất bản hiện đại và những hoạt động tiếp thị giúp việc đó trở nên khả thi cũng như tính chất của internet nơi có quá nhiều tài liệu bị sao chép trái phép và có thể được tải xuống phi bản quyền, tính hiệu quả của các kế hoạch phân phối hạn chế như vậy là rất đáng nghi ngờ.

Được tư vấn gần đây về vấn đề có vẻ khó giải quyết này, Alak Zenkar Rinpoche (người có lẽ đã làm nhiều hơn bất cứ ai đang sống để bảo tồn di sản văn học Tây Tạng khỏi bị lãng quên thông qua công việc không mệt mỏi của mình là tìm kiến, biên tập và xuất bản các tài liệu Phật giáo trên quy mô lớn) đã trả lời rằng trong trường hợp dịch thuật và phổ biến kinh văn, yếu tố chính là động cơ. Nếu một người biên dịch và phổ biến các giáo lý bí truyền của các tantra và Đại Toàn Thiện một cách bừa bãi như một phương tiện kiếm sống hay như một cách để nâng cao danh tiếng của mình, nếu, nói cách khác, người đó cố tình đi ngược lại ý định của tác giả và những đòi hỏi của truyền thống, thì hành động của người đó chắc chắn là sai lầm. Mặt khác, nếu việc dịch thuật được thực hiện theo hướng dẫn của bậc thầy và với ý định chân thành trong việc tạo ra những văn bản không thể thiếu đối với những người cần chúng và những ai sẽ thực hành chúng, rõ ràng là người đó đang phục vụ truyền thống và sứ mệnh của các tác giả nguyên thủy. Trong trường hợp đó, Alak Zenkar nhận xét, làm sao có thể mắc lỗi được?

Đây có phải là một cầu trả lời hợp lý? Từ quan điểm của người dịch, và có thể là của cả nhà xuất bản, phải thừa nhận rằng đó có lẽ là câu trả lời khả thi duy nhất. Tuy nhiên, đối với độc giả tương lai, có lẽ còn có điều gì đó cần nói thêm. So với những vấn đề mà các dịch giả kinh văn bí truyền phải đối mặt, hoàn cảnh khó khăn của hành giả Phật giáo lại khác. Vì ngay cả khi người dịch có thể kêu gọi sự trong sáng trong ý định của chính họ, thì vẫn đúng là do việc đọc các kinh văn quá sớm cùng với những hiểu lầm có thể xảy ra từ việc này, bản thân người đọc có thể gặp rủi ro, do đó vẫn là đối tượng cần lo ngại.Cách duy nhất là phải trình bày rõ ràng một cách tẻ nhạt và thu hút trí thông minh cũng như tính chính trực của tất cả những độc giả có thiện chí. Những giáo lý bí mật thực sự được mở ra cho bất cứ ai sẵn lòng đi theo con đường truyền thống của lễ quán đỉnh, hướng dẫn, thực hành sơ khởi, và duy trì các giới nguyện samaya.

Những người đã được hướng dẫn theo phương pháp truyền thống sẽ không cần phải được nhắc nhở về tầm quan trọng của quán đỉnh, truyền thừa, và hướng dẫn truyền miệng, ba yêu cầu cho mọi thực hành mật tông. Hơn nữa, bất kể tính phức tạp của các vấn đề vừa được mô tả ra sao, nó vẫn đúng ở cấp độ hành vi cá nhân, việc hành xử theo những cách thức do truyền thống quy định vẫn hoàn toàn cần thiết. Những hành giả nghiêm túc của Phật giáo Tây Tạng, những người có may mắn được kết nối với những vị thầy chân chính thông qua việc nhận quán đỉnh và chỉ dẫn truyền miệng, quả thực đã nắm giữ được bí mật. Trên thực tế, họ không đề cập hay thảo luận cởi mở về những giáo lý mà họ đã nhận được hoặc những bài thiền mà họ đang tu tập. Ở cấp độ này, việc thực hành vẫn là một chủ đề bí mật không thể xâm phạm.

Tuy nhiên, đối với những người mới bắt đầu trên con đường và có thể chưa biết về khía cạnh này của Phật giáo Tây Tạng, cùng với những người vì tò mò đáng khen ngợi đã mua cuốn sách này và đã đọc đến nay, điều quan trọng cần nhấn mạnh là việc tiếp nhận và thực hành các giáo lý mật tông nói chung và Đại Toàn Thiện nói riêng chỉ nên được theo đuổi trong bối cảnh mối quan hệ với một vị thầy đủ tiêu chuẩn. Nếu thiếu kết nối này thì tốt hơn là không nên đọc thêm. Tốt hơn là nên giữ cuốn sách này một cách an toàn và kính cẩn cho đến khi các kết nối thích hợp được tạo ra và các giáo lý và quán đỉnh cần thiết đã được nhận. Điều quan trọng cần nhớ là sự trao truyền năng lực gia trì qua trung gian truyền thống sống động của các vị đạo sư giác ngộ là một thành phần không thể thiếu của phương pháp Đại Toàn Thiện, nếu không có nó thì việc giới thiệu vào bản tính của tâm trí sẽ không diễn ra. Cuối cùng, cũng nên nhớ rằng các tác giả Tây Tạng của những kinh văn Đại Toàn Thiện luôn đặt tác phẩm của họ dưới sự giám hộ của những vị bảo vệ tâm linh đầy quyền năng, kết quả là việc lạm dụng các kinh văn và giáo lý có thể dẫn đến bất hạnh. Có thể, có lẽ là có khả năng, một số độc giả hiện đại nhất định sẽ có xu hướng coi những cảnh báo này là mê tín dân gian. Tuy nhiên, nhiệm vụ của chúng tôi là làm rõ chúng và nhắc lại lời khuyên truyền thống rằng, từ một thực hành tự biên tự diễn được theo đuổi một cách riêng tư mà không tham chiếu tới truyền thống, thì thành tựu là thứ không nên mong đợi.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
129
Điểm tương tác
12
Điểm
18
LỜI CẢM ƠN

Mùa thu năm 2019, Tsultrim Zangpo Rinpoche, cháu trai và là người thừa kế tinh thần của Kyabje Tenpai Wangchuk và trụ trì tu viện Khangsar Taklung, đã đến thăm Dordogne, Pháp, cùng với Yingrik Drubpa Rinpoche và một số lama khác. Sau khi chính thức yêu cầu Padmakara dịch các tác phẩm được sưu tập bởi Tenpai Wangchuk, Tsultrim Zangpo Rinpoche được yêu cầu đến Dordogne và ban những trai truyền cần thiết. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên của chúng tôi là bảy tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với ông và Yingrik Drubpa Rinpoche, người chủ trì chính của dự án, vì lòng tốt của họ trong việc thực hiện chuyến hành trình dài và gian khổ đến Pháp, và vì tính kiên nhẫn và tử tế mà Tsultrim Zangpo Rinpoche đã ban các quán đỉnh, đọc các truyền trao và bình giảng bằng lời trong thời gian vài tuần.

Sau đó chúng tôi phải ghi âm lại lời cảm ơn của mình tới Jigme Khyentse Rinpoche và Tulku Pema Wangyal Rinpoche, đã tiếp đón ông và đoàn tùy tùng tại La Sonnerrie ở Saint Leon-sur-Vezere, Dordogne. Đối với công việc phía trước, chúng tôi đặc biệt muốn cám ơn Pema Wangyal Rinpoche vì nguồn cảm hứng không ngừng của ông và đã liên tục nhắc nhở chúng tôi rằng khi đối mặt với một nhiệm vụ lâu dài và dương như vô tận với khó khăn dường như không thể thực hiện được, bước đầu tiên là khát vọng. Cuối cùng, chúng tôi vô cùng biết ơn sự trợ giúp của Khenchen Pema Sherab ở tu viện Namdrolling ở Ấn Độ, người đã làm sáng tỏ nhiều điểm khó hiểu và nếu không có sự giúp đỡ của họ thì bản dịch văn bản hiện tại này đã không thể được thực hiện. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, chúng tôi xin sám hối bất kỳ sai sót nào trong bản dịch, khẩn cầu lòng từ bi và kiên nhẫn của các dakini và các vị Hộ Pháp.

Bản dịch này được thực hiện bởi Helena Blankleder và Wulstan Fletcher của Nhóm Dịch Thuật Padmakara.

PHẦN MỘT

KHO TÀNG TRÂN BẢO CỦA BẢN TÍNH NỀN TẢNG



TÁN DƯƠNG​



Kính lễ Phổ Hiền vinh quang!



Đức Phật đầu tiên,

Nền tảng của giác ngộ thực sự,

Vượt trên mọi thay đổi và hiện diện của chính nó,

Không gian của tinh túy kim cương, không thể phá hủy

Đây là bản tính của tâm trí,

Hoàn thiện tự nhiên vĩ đại.

Tôi không lấy gì và tôi không bỏ gì

Không có gì đến và chẳng có gì đi.

Như vậy tôi cúi đầu đỉnh lễ.



Sự mở rộng của bản tính không thể diễn tả được của mọi hiện tượng,

Đỉnh cao của mọi quan điểm và khác biệt với tất cả chúng,

Ý nghĩa siêu việt tất cả của Đại Toàn Thiện

Bây giờ tôi sẽ giải thích theo sự chứng ngộ của tôi.

Hãy lắng nghe!



Cái thấy tối thượng và tinh túy

Thuộc về tâm trí, không gian, lớp hướng dẫn cốt lõi

Nằm trong sự không tồn tại, bình đẳng,

Hiện diện tự phát, bản tính đơn nhất.

Mỗi một trong số bốn thứ này lần lượt có bốn khía cạnh:

Những điểm chính yếu của chúng được tiết lộ, tinh túy hóa, thu gọn lại,

Khi đó có được niềm tin rõ ràng về chúng.



1. KHÔNG TỒN TẠI



1. Đầu tiên tôi chứng minh nguyên tắc không tồn tại.

Không tồn tại nghĩa là sự vắng mặt của bản thể nội tại.

Trong sự mở rộng vĩ đại của tâm trí giác ngộ, giống như không gian,

Bất cứ thứ gì xuất hiện đều không có bản thể nội tại.

2. Trong sự mở rộng bao la, tử cung của không gian,

Vũ trụ, chúng sinh nó chứa đựng,

Và bốn nguyên tố trong dòng chảy không ngừng

Chỉ là những hình tướng trống rỗng không có bản tính cố hữu,

Mọi sự xuất hiện trong tâm trí giác ngộ

Đều chỉ là nhau.

3. Những phản chiếu huyễn ảo, dù chúng xuất hiện thế nào,

Đều không thật, trống rỗng trong bản tính.

Tương tự, mọi sự vật trong thế giới hiện tượng,

Ngay trong khoảnh khắc xuất hiện,

Không bao giờ hoạt động ngoài tâm trí giác ngộ,

Chúng không tồn tại thực sự.

4. Những hình ảnh trong mơ, không bao giờ hoạt động ngoài trạng thái ngủ,

Ngay trong khoảnh khắc chúng được nhìn thấy, hoàn toàn không có thật

Tương tự, mọi thế giới hiện tượng,

Cả luân hồi và niết bàn,

Không bao giờ vận động ngoài tâm trí giác ngộ.

Nó không có thật, không có các đặc tính.

5. Mặc dù các hiện tượng xuất hiện trong tâm trí,

Chúng không phải là tâm trí và không tách rời khỏi tâm trí.

Chúng không tồn tại

Tuy nhiên, giống như ảo ảnh, xuất hiện rõ ràng.

Chúng không thể diễn tả, và không thể tưởng tượng.

Chúng thách thức sự biểu lộ.

Do đó hãy hiểu rằng mọi hiện tượng

Xuất hiện trong tâm trí là không tồn tại

Ngay trong khoảnh khắc chúng được nhận biết.

6. Giống như các đối tượng bề ngoài về bản thể là không tồn tại

Chủ thể, tâm trí giác ngộ cũng vậy

Giống như không gian, không có tồn tại về bản chất của nó.

Không thể diễn tả, không thể suy lường và không thể diễn tả

Đó là điều mà bạn nên hiểu.

7. Bởi vì trong trí tuệ bản nguyên tự sinh khởi,

Tinh hoa tối thượng,

Không có nhân chẳng có quả,

Vực thẳm bao la của luân hồi được vượt qua.

Bởi vì chẳng có tốt hay xấu,

Nên luân hồi và niết bàn đều giống nhau.

Bởi vì không sai lệch cũng chẳng che chướng,

Ba hiện hữu đều được hiểu rõ ràng.

8. Trong bản tính của tâm trí, giác ngộ, giống như không gian,

Không có các mặt, không phương hướng, không chia tách.

Trong đó không có cái thấy, không có thiền định,

Và không có thệ nguyện để tuân thủ.

Trong đó không có hoạt động nỗ lực;

Không có bức màn nào che chắn trí tuệ nguyên thủy.

Không có tu tập về nền tảng, không có con đường để đi qua.

Không có “thứ vi tế”;

Vì (thô và tế) không phải là hai,

Không có liên kết nào giữa chúng.

Quy kết về tồn tại hay không tồn tại đều bị siêu vượt;

Như vậy không có tốt hay xấu.

Tất cả là một sự mở rộng, trong đó như trên một hòn đảo vàng,

Không có sự khác biệt.

Bản tính tự sinh khởi của tâm trí,

Giống như không gian phi hiện hữu,

Bất chấp sự mô tả và biểu lộ.

9. Bởi vì tinh hoa tối thượng

Tính giác, mở rộng, không bị ngăn ngại

Không thể được tạo dựng,

Nó không được cải thiện bằng đạo hạnh,

Nó không thể bị thay đổi,

Nên cái ác không thể làm hại nó.

Bởi vì không có hành động cũng như kết quả của nó,

Không có sự chín muồi của niềm vui và nỗi buồn.

Vì trong đó không có tốt và xấu,

Không có gì để lấy hay bỏ,

Không có luân hồi, không có niết bàn.

Bởi vì không có suy nghĩ và không có biểu hiện,

Tỉnh giác là một không gian thiếu vắng những phiền phức như vậy.

Vì không có tiền kiếp hay hậu kiếp,

Dòng tái sinh chỉ là sự quy kết.

Cái gì sinh? Ai được sinh ra và ở đâu?

Có hoạt động gì ở đó? Kết quả chín muồi của nó là gì?

Mọi thứ giống như không gian.

Hãy nghĩ về nó và nghiền ngẫm về nó.

10. Dù bạn có thể khảo sát bằng suy luận,

Cân nhắc, suy ngẫm hết lần này tới lần khác,

Các hợp phần của mọi sự vật đều không có thực tại.

Vì không có một phần tử đơn lẻ nào được tìm thấy,

Chẳng có khoảng khắc nào không phân chia,

Không có thứ được nhận biết và không có chủ thể nhận biết,

Ngay trong khoảnh khắc này, mọi thứ an định

Trong bản tính nền tảng tinh túy.

Khi khảo sát, vạn sự không tồn tại.

Tương tự, khi bỏ qua khảo sát,

Chúng cũng không có sự tồn tại.

Ngay cả ở mức độ thông thường,

Vì chẳng có gì được tìm thấy,

Mọi hiện tượng trong tất cả các khía cạnh và mọi lúc

Không có sự tồn tại.

Hãy hiểu rằng chúng giống như ảo ảnh huyễn thuật,

Thiếu vắng mọi thực tại.

11. Ngay trong khoảnh khắc đối diện

Những giấc mơ và ảo ảnh huyễn thuật,

Chúng sinh non trẻ bám dính một cách ngu dại

Vào tồn tại giả định của chúng

Và bị chúng dẫn dắt.

Nhưng những ai đã hiểu bản chất của chúng

Chẳng thể bị lừa dối theo cách đó.

Trong cùng cách thức như vậy, những người không biết

Vạn sự không tồn tại

Bám luyến vào mọi thứ như thể có thật,

Và bị chúng kiểm soát, họ quay cuồng trong luân hồi.

Yogi thành thạo trong hiểu biết chân như thực tại

Xác dịnh rằng mọi thứ đều thiếu vắng sự tồn tại đích thực

Ngay trong khoảnh khắc họ nhận biết chúng.

Do đó, họ tìm thấy sự tự do

Trong không gian pháp tính vượt ngoài

Luật nhân và quả của nghiệp báo.

12. Bản tính giác ngộ của tâm trí

Không thường hằng cũng chẳng gián đoạn.



Đó là nơi trú ngụ tự nhiên của trí tuệ nguyên thủy

Không có chủ thể nhận biết và đối tượng được nhận biết.

Tỉnh giác, trần trụi và không có nguyên nhân và kết quả,

Là nơi trú ngụ của cõi giới đơn nhất đó

Trong đó không có đức hạnh và tội lỗi.

Tỉnh giác, mở rộng, không bị cản trở, thoát khỏi trung tâm và ngoại vị,

Là nơi trú ngụ của tuệ tâm

Của pháp thân Phổ Hiền.

Tinh hoa cốt lõi của sự không tồn tại,

Tỉnh giác, tự nhận thức và giác ngộ,

Được hiển lộ rõ ràng.

Nó hoàn toàn thanh tịnh và không có đối tượng,

Trí tuệ bản nguyên của Đấng Chiến Thắng.

13. Trong trường hợp của những yogi ảo tưởng,

Kinh nghiệm tự có về tính giác

Phát sinh như sự trình diễn không ngừng của những sự vật không tồn tại

Những yogi đó tin tưởng rằng trong thời điểm xuất hiện,

Các hiện tượng không có sự tồn tại.

Do đó họ không tạo ra chút nỗ lực nào

Chấp nhận cái này, từ chối cái kia.

Với tâm trí khoáng đạt không chút bận tâm,

Họ nghỉ ngơi trong trạng thái để mặc

Mọi thứ như chúng là.

14. Chúng sinh non tẻ, bị lôi cuốn bởi những thứ không tồn tại,

Giống những con thú đang khát đi tìm nước trong ảo ảnh.

Mong tìm thấy chân lý trong những học thuyết giả tạo, sai lầm

Họ bị lừa dối trong những giáo lý khác nhau,

Tưởng rằng chúng là chân thật.

Bây giờ nếu sai lầm này của tri thức thông thường,

Thuộc về các thừa tiệm tiến, tổng cộng có tám,

Nó không được loại trừ, tinh hoa tối thượng không được nhận ra.

15. Atiyoga là sự mở rộng tối thượng,

Siêu việt từng phạm trù.

Không có bất cứ thứ gì, chỉ là bản tính như không gian.

Ngay trong khoảnh khắc này không có chuyển động nào dù là nhỏ nhất

Từ cảnh giới nền tảng của pháp thân.

Khi bạn nghỉ ngơi trong sự mở rộng nguyên sơ,

Đại lạc tự nhiên sẽ tự hiện diện.

16. Nếu tính giác, trạng thái bí mật của trí tuệ,

Bạn không chứng ngộ,

Bạn sẽ không tìm thấy giải thoát

Thông qua những hành động thiện hạnh bạn có thể tạo dựng.

Bạn không hiểu sao?

Mọi thứ có điều kiện (các pháp hữu vi) đều biến mất,

Định mệnh sẽ tan rã.

Làm sao nút thắt chặt này

Của thân, lời và tâm trí

Có thể tiếp xúc với

Tinh hoa tối thượng và bất hoại?

17. Vì vậy, nếu bạn mong ước chứng ngộ

Bản tính nền tảng tuyệt luân của mọi hiện tượng,

Hãy từ bỏ mọi thứ như trò chơi trẻ con,

Chúng trói buộc và làm bạn kiệt sức

Trong thân, khẩu, ý của bạn

Trạng thái không tồn tại, sự mở rộng

Không có hoạt động của tâm trí, là bản chất của mọi hiện tượng.

Đó là pháp tính, nơi trú ngụ

Của Đại toàn thiện tự nhiên.

Trong trạng thái toàn khắp này không có hành động,

Vốn vượt ngoài mọi suy nghĩ,

Hãy chứng kiến tính bình đẳng vĩ đại và không được tạo dựng

Sự xác thực tuyệt đối sẽ đến, nó siêu việt

Nhân quả và gắng sức.

18. Trong tâm tỉnh giác, không có đối tượng bên ngoài nào để nhận biết

Không có chủ thể bên trong nhận biết.

Khi tỉnh giác, không có thời gian và không gian.

Sự tỉnh giác vượt qua các hiện tượng sinh và diệt.

Nó thanh tịnh như không gian

Chẳng loại xe cộ nào dẫn bạn tới được đó.

Mọi suy nghĩ về nó đều sai lầm,

Vì họ theo đuổi các hiện tượng với một nhân dạng.

Hãy vứt bỏ nền tảng này vì sự chệch hướng và các mức màn che chướng.

Hãy tin rằng mọi thứ không có sự phân biệt

Có bản tính của Phổ Hiền,

Trạng thái toàn khắp và vĩ đại của tính không.

Hãy giữ trạng thái của pháp tính

Vượt trên mọi biến đổi và vận động.

Bằng cách này, bạn bay lên giữa không gian như bầu trời của cái thấy,

Sự mở rộng nguyên thủy vốn nghỉ ngơi không có cực biên

Tất cả những điểm then chốt về sự không tồn tại của mọi hiện tượng

Đều được trình bày ở đây.

19. Những điểm then chốt về không tồn tại

Của mọi hiện tượng đã được tiết lộ như vậy.

Sau đó, trong trạng thái không thiền định,

Nơi mọi thứ được để yên và không bị tác động vào, chỉ như nó đang là,

Một trạng thái không chấp nhận hay bác bỏ bất cứ chuyện gì xảy ra,

Những điểm giống nhau này được tinh túy hóa trong sự tỉnh giác:

Sự quân bình, tính bình đẳng trong sự mở trộng quảng đại của tâm trí.

20. Đại lạc tự nhiên,

Không gian kim cương bất hoại,

Trong sự hấp thu tối hậu nó là sự hiện diện tự thân

Không cần tu luyện nó.

Nó ở đó mọi lúc như dòng sông tuôn chảy.

Nếu bạn ở trong trạng thái bình thản, trong một trạng thái

Thoát khỏi mọi sắp đặt,

Nó sẽ biểu lộ rõ ràng và tự nhiên.

21. Khi bạn an trú đúng cách trong pháp tính tựa không gian,

Không có thay đổi hay chuyển động nào

Do đó, không có việc lang thang và không có sự vắng mặt giống nhau.

Sự mở rộng tối thượng này, tối cao và vô tận,

Hiện diện không thể tách rời trong mọi sự vật.

Nó không phải là một cảnh giới mà ngôn từ có thể diễn tả

Những người mà trí tuệ nở hoa,

Những người tỉnh giác đến không thúc ép

Những tâm tâm trí không bị cản trở

Dù họ đã tham gia vào nghiên cứu

Những yogi kinh nghiệm điều không thể diễn tả và không thể nghĩ bàn

Hoàn toàn chắc rằng trạng thái này

Siêu việt cả chỉ dẫn lẫn không chỉ dẫn

Họ không tìm thấy thiền định hay bất cứ thứ gì để thiền trên đó

Và do vậy họ không cần tieu diệt

Những kẻ thù của hôn trầm và trạo cử.

22. Những hình tướng và tâm trí

Là tự do và mở rộng ngay từ khởi đầu

Không tồn tại trong bản thể

Những hình tướng ảo tưởng

Có như là trạng thái tự nhiên của chúng

Sự mở rộng bao la của tính bình đẳng, pháp tính

Không ngừng tồn tại trong pháp thân,

Sinh khởi và lắng xuống nối tiếp,

Trụ lại trong sự mở rộng của lạc thọ.

Sinh khởi, chúng khởi sinh tự phát

Giữ nguyên bản tính của chúng

Tàn lụi, chúng lắng xuống tự phát

Giữ nguyên bản tính của chúng

Chúng sinh, trụ, hoại diệt

Trong sự mở rộng của pháp tính.

Chúng chẳng đến từ đâu,

Chỉ là sự pho diễn của pháp thân.

Chúng là những hình tướng trống rỗng

Của sự tự kinh nghiệm trong tính giác.

Chúng không khác nhau;

Chúng chẳng tốt lẫn xấu,

Hãy an trú trong tinh hoa tối thượng của chúng.

23. Bất cứ thứ gì có thể khởi sinh, bất cứ thứ gì có thể xuất hiện,

Bất cứ trạng thái nào của chuyển động hay tĩnh tại có thể xuất hiện

Năm độc và những thứ còn lại,

Phát sinh từ năng lực sáng tạo của tính giác

Khi bản tính của chúng được phát hiện trong khoảnh khắc khởi sinh

Những hình tướng biểu hiện tượng tự này đến cùng sự cạn kiệt của chúng.

Chúng biến mất không để lại bất kỳ dấu vết nào.

Khi tâm trí nhận biết các đối tượng của nó,

Điểm then chốt là để mặc tất cả như chúng đang là

Trong tính bình đẳng của chúng.

Điểm chính yếu là bỏ lại tất cả không dấu vết

Giống như đường bay của mộy con chim

Bên trong trí tuệ bản nguyên, tự sinh khởi.

Điểm quan trọng là mọi thứ

Và sự mở rộng tối thượng là một,

Như nước và các cơn sóng của nó.

Mọi sự là, ngay từ đầu, đều được bản tính hóa

Bên trong điểm chính yếu này của bí mật vĩ đại.

Chỉ cần biết điều này cũng mang lại giải thoát,

Vì nó đơn giản là bản chất của các hiện tượng.

24. Không ngừng bên trong sự mở rộng vĩ đại,

Tính giác, tự nhận thức,

Tất cả đều khởi sinh bình đẳng và trụ lại bình đẳng,

Tất cả đều bình đẳng khi tan hoại, không tốt không xấu.

Chẳng có gì không bình đẳng với tính giác,

Chẳng có gì không an trú,

Và chẳng có gì không tan hoại bên trong đó.

Mọi thứ đều được bản tính hóa.

Như sự mở rộng bao la nguyên thủy

Của trạng thái giác ngộ.

25. Trong tính giác, hiện diện tự phát và không tạo tác,

Cái thấy về trạng thái tự nhiên và bao la

Khởi sinh không nỗ lực.

Điểm chính yếu của tâm trí giác ngộ,

Nằm ngoài luật nhân quả,

Siêu vượt tội lỗi và đức hạnh,

Được bản tính hóa như là pháp tính bất biến.

26. Không tồn tại, nó như khôn gian trong bản chất của nó,

Bao gồm mọi thứ trong đó không có ngoại lệ.

Giống như không gian bao gồm thế giới và cư dân của nó,

Các hiện tượng, kinh nghiệm của tâm trí bình thường,

Được bao gồm toàn bộ trong tính không nguyên sơ vĩ đại.

27. Luân hồi chỉ là một cái tên.

Nó vượt ngoài tiến trình nhân quả,

Vượt trên mọi nỗ lực và mọi đảm nhiệm.

Thiện và ác chẳng giúp cũng chẳng hại;

Chúng là hai trạng thái trống rỗng.

Giải thoát cũng chỉ là một danh xưng,

Và không có niết bàn.

Chẳng có gì để đạt được hay làm được

Bằng các phương tiện của mười nguyên tố.

28. Không ngừng nỗ lực trong cái chỉ có thể mang lại mệt mỏi

Thì giống như trẻ con xây lâu đài trên cát.

Tất cả đều được định sẵn sẽ sụp đổ. Mọi nhân và quả,

Mọi thiện và bất thiện hạnh, mọi cố gắng và nỗ lực

Vạn sự ngay từ đàu đã được gộp vào trong sự không tồn tại.

29. Những yogi của Atiyoga tinh túy

Những giáo lý dựa trên nhân quả,

Được thiết kể để hướng dẫn những người đơn giản,

Tạo nên con đường cho những người kém may mắn hơn,

Những người tiến bộ trên con đường đi lên theo từng giai đoạn.

Họ nên thu gom bản tính của tâm trí mình,

Siêu việt mọi hiện tượng,

Vào trong sự trống vắng như không gian của mọi hành động.

30. Chúng sinh bị lạc đường bởi hành động

Hãy nhìn vào những hình tướng lừa dối của luân hồi.

Chúng sinh bị ảnh hưởng bởi những nỗ lực của họ

Hãy nghĩ đến vòng quay của đau khổ,

Từ tội lỗi và đức hạnh dẫn đến một

Dòng chảy vô tận của khổ sở và hạnh phúc.

Thông qua những hành động của họ, chúng sinh lang thang

Trong luân hồi các cõi cao và thấp.

Không có cơ may nào cho họ chạy trốn

Khỏi đại dương của sự tồn tại.

31. Nếu bạn cắt đứt dòng chảy thiện hạnh và bất thiện hạnh

An trú trong pháp tính và không bao giờ rời khỏi nó,

Bạn sẽ là một yogi của đại bí mật tối thượng.

Thoát khỏi mọi nỗ lực và cố gắng, bạn sẽ đạt tới

Nền tảng nguyên thủy và ngồi trên ngai hoàng gia

Của pháp thân hằng hữu.

32. trong mỗi khoảnh khắc mọi sự xuất hiện,

Chúng vượt ngoài mọi quan niệm sai lầm

Và mọi ngôn ngữ diễn đạt tên gọi và ý nghĩa

Mọi hành động và nỗ lực đều dựa trên nguyên nhân và kết quả của nó,

Chấp nhận cái tốt, từ chối các xấu

Tất cả đều là những thứ không tồn tại

Và mọi hành động không tồn tại, chỉ như không gian.

Bất cứ ai biết được điều này thì đã thu gom

Vạn sự vào trong trạng thái không tồn tại.

33. Niềm tin chắc chắn rằng mọi hiện tượng là không tồn tại

Chủ yếu đạt được như sau.

Bởi vì sự thế giới hiện tượng,

Mọi thứ trong luân hồi và niết bàn,

Đều không có bản thể tự tính,

Nó siêu việt các trạng thái tồn tại,

Bởi vì nó không ngừng xuất hiện

Nó siêu việt trạng thái không tồn tại,

Chẳng tồn tại và chẳng không tồn tại,

Nó siêu việt trạng thái của cả hai,

Không phải cả hai,

Nó vượt qua trạng thái chẳng là gì.

Vừa chẳng là gì vừa chẳng phải không là gì,

Nó là tinh hoa tối thượng

Vượt ngoài mọi suy nghĩ và ngôn từ,

Nằm ngoài mọi chỉ dấu.

34. Bản tính mọi hiện tượng là thanh tịnh nguyên thủy,

Nhưng chúng sinh non trẻ, không biết điều này,

Chấp nhận một số thứ này và từ chối một số thứ khác.

Bám dính vào những quan điểm khác nhau của mình, họ vĩnh viễn bị trói buộc.

Bám luyến và những đặc tính mà họ cảm nhận, họ đau khổ làm sao!

Bám víu vào một cái ngã trong cái không tồn tại, họ mê lầm làm sao!

Bám chặt vào những phương diện của cái vô phương diện, họ mệt mởi biết bao!

Không ngừng trôi dạt trong luân hồi, họ đáng thương biết bao!

35.Mặt trởi của thực tại tối thượng, tính giác, tự sinh

Bị che phủ bởi những đám mây trắng thiện hạnh

Và những đám mây đen tội lỗi.

Và nó tràn ngập bởi những tia sét:

Đắm mình trong nỗ lực chấp nhận và chối bỏ.

Chúng sinh đó bị ướt đấm trong mưa như thác lũ

Những hình tướng giả tạo của hạnh phúc và đau khổ

Những thứ này làm cho hạt giống luân hồi chín muồi

Như mùa vụ của sáu cõi luân hồi.

Chúng sinh bị dày vò, và họ đáng thương làm sao!

36. Như dây thừng và xích vàng ràng buộc ngang nhau,

Các trạng thái thiện và bất thiện hạnh

Ràng buộc tinh túy tối thượng như nhau.

Những đám mây, dù đen hay trắng, che phủ bầu trời ngang nhau.

Tương tự, thiện hạnh và bất thiện hạnh đều che khuất tính giác ngang nhau.

Do đó, điều quan trọng cần hiểu

Rằng các yogi đã chứng ngộ chân như

Nhìn xa hơn luật nhân quả của đức hạnh và tội lỗi.

37. Trí tuệ tự sinh khởi lên từ bên trong.

Đêm đen của nhân quả tiêu tan.

Những đám mây lớn của thiện và ác tan biến.

Mặt trời của ánh sáng tối thượng

Chiếu sáng bầu trời pháp giới

Bạn đạt được sự xác thực rõ ràng và rốt ráo.

Bạn có được sự xác tín này

Mà không cần mười yếu tố.

Nhờ đó, mọi thừa nhân quả đều bị vượt qua.

38. Bạn dạt được sự xác tín rõ ràng

Rằng tỉnh giác tự nhận thức, rộng mở, không bị ngăn ngại,

Thoát khỏi mọi hình tướng,

Vượt trên mọi thiền định tập trung vào một đối tượng,

Thoát khỏi mọi cấu trúc khái niệm

Là trạng thái trong đó mọi hiện tượng đều cạn kiệt.

Tất cả đều cạn kiệt trong tâm tỉnh giác.

Tỉnh giác, cũng vậy, là một hiện tượng,

Tự nó đi đến chỗ cạn kiệt.

“Cạn kiệt”, “không cạn kiệt”

Yogi hiểu rằng cả hai đều không thực.

Họ được thuyết phục vượt qua mọi nghi ngờ

Rằng mọi thứ siêu việt tồn tại và không tồn tại

Định nghĩa và biểu lộ

Không có một điểm tham chiếu, nghĩ “nó là thế này”

Các yogi được bao bọc trong sự bao la toàn khắp.

Đối với họ mọi hiện tượng đều cạn kiệt,

Vượt ngoài tâm trí bình thường.

Và đối với những yogi như vậy đây quả là một niềm vui

Một niềm vui là trạng thái liền mạch của pháp tính!

Trong đó, các yogi trong quá khứ, tương lại,

Và hiện tại đều hòa nhập

Với sự mở rộng tối thượng đơn nhất của tâm trí tuệ.

Sự giác ngộ của những yogi đó ngang bằng

Với chư Phật và những người an trú trong minh giác (vidyadhara).

39. Cùng sự mở rộng này, không thay đổi,

Vô điều kiện, không thể phân chia

Là không gian của trí tuệ bản nguyên tự sinh

Siêu việt mọi nỗ lực và cố gắng.

Đó là cùng sự mở rộng trong đó các hiện tượng

Vượt ngoài mọi cái tên đơn thuần,

Mọi ý nghĩ và mọi diễn tả.

Và trong sự mở rộng tối hậu của Phổ Hiền,

Vốn thoát khỏi mọi hành động,

Mọi thứ ở đó xuất hiện

Chẳng là gì khác ngoài sự mở rộng bao la của Phổ Hiền.

Và trong sự mở rộng tối hậu của Phổ Hiền

Không có các hình tướng, chẳng có tính không;

Không có cả tốt và xấu.

Khi cái không tồn tại được coi là có tồn tại,

Các nhãn hiệu được nhận dạng được gắn lên

Những thứ chỉ là ảo tưởng sai lầm.

Nhưng ngay cả khi việc dán nhãn diễn ra,

Không có ảo tưởng và không có sự vắng mặt của ảo tưởng.

Một niềm tin rõ ràng nhờ vậy đã có được

Rằng các hiện tượng siêu việt mọi danh tự

Đó là bản tính nền tảng

Của đại toàn thiện tự nhiên.

40. Như vậy bạn xác thực rõ ràng rằng

Trong thế giới hiện tượng, luân hồi và niết bàn,

Chẳng phải là những ảo tưởng cũng chẳng phải không ảo tưởng,

Và niết bàn đó đạt được không phải bằng cách xa lánh luân hồi.

Bạn định rõ rằng các hiện tượng chẳng sinh cũng chẳng bất sinh.

Mọi đối tượng mà bạn bám dính vào, khởi nguồn, đoạn diệt,

Tồn tại, không tồn tại, tất cả giờ đều được vượt qua.

Hãy tin rằng mọi thứ chẳng tịnh lẫn bất tịnh,

Bạn nhìn chúng như một không gian bình đẳng,

Không tốt để được chấp nhận,

Cũng chẳng xấu, để bị từ chối.

Bạn đạt đến niềm tin chắc chắn rằng vạn sự

Đều ở trong sự mở rộng bao la của Phổ Hiền.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
129
Điểm tương tác
12
Điểm
18
2. BÌNH ĐẲNG



Khi bản tính nền tảng của các hiện tượng

Tính không tồn tại của chúng, được lĩnh hội đúng đắn,

Bản tính bình đẳng của chúng được hiểu,

Theo các giáo huấn của Atiyoga

Đỉnh cao của mọi thừa,

Tâm trí bao la và rộng lớn của Phổ Hiền,

Vĩ đại nhất của vĩ đại,

Như bầu trời, vượt ngoài cả trung tâm và chu vi.

Nó có đặc tính đại bình đẳng toàn vẹn.

1. Bản tính nền tảng, như nó là,

Của những thứ thuộc về thế giới hiện tượng

Và của tâm trí giác ngộ không hình dạng

Không bao giờ tách khỏi trạng thái

Thoát khỏi cấu trúc khái niệm.

Ơ đây không có trong tâm, không ngoại vi, vô niệm

Sự bình đẳng của nó tồn tại

Trong một trạng thái rộng mở không gián đoạn.

2. Mọi thứ xuất hiện như những đối tượng của giác quan,

Trong khoảnh khắc xuất hiện,

Đều không có thực chất, không có cấu phần

Một trạng thái bình đẳng vô hạn và toàn khắp.

Tâm trí, tính giác, tự nhận thức không thể

Bị phân chia thành những khoảnh khắc, trước đó và sau đó.

Nó là một trạng thái như không gian

Của tính bình đẳng vô hạn và toàn khắp.

Quá khứ đã qua, tương lai chưa hình thành.

Giây phút hiện tại không ở lại.

Tất cả đều không có nền tảng trong tâm trí giác ngộ,

Tất cả đều không có gốc rễ, không có thực chất,

Vượt ngoài tầm chỉ dẫn.

Về bản chất nó là một trạng thái hoàn toàn bình đẳng,

Sự bao la quảng đại của không gian.

3. Trong tinh hoa tối thượng thoát khỏi mọi cực đoan,

Không rơi vào bên này hay bên kia,

Không tìm được cái thấy và không có quán đỉnh,

Không mandala, không trì tụng mật chú,

Không có nền tảng, không có các con đường, và không có giới nguyện;

Không có tu tập và không có tiến trình trên con đường.

Tất cả đều vô căn cứ. Trong không gian bao la (của tính giác),

Chúng là một trạng thái bình đẳng vô tận, thâm nhập vạn hữu.

Tất cả đều tồn tại trong pháp tính, tâm trí giác ngộ.

4. Như được hiểu rằng mọi thứ

Dù chúng xuất hiện theo cách nào,

Đều bởi bản tính của chúng không có nguồn gốc,

Không trụ hay diệt,

Chúng đều hiện diện tự phát.

Chúng chẳng tồn tại và chẳng không tồn tại;

Chúng vượt ngoài tầm mọi định niệm.

Chúng hoàn toàn thanh tịnh, và trong pháp tính,

Đại toàn thiện,

Chúng là một trạng thái bình đẳng vô tận, bao trùm toàn thể.

5. Tỉnh giác, trí giác ngộ,

Tối thượng và tinh túy,

Không được nhìn thấy trong các cực đoan;

Nó vượt xa các đặc trưng riêng biệt.

Ngôn từ và suy lý vô dụng để chứng thực được nó.

Nó nằm ngoài các biểu tượng.

Nó chẳng tăng trưởng cũng không suy giảm.

Nó không thường hằng cũng chẳng gián đoạn.

Nó không đến cũng chẳng đi.

Trong sự mở rộng bao la của tính bình đẳng tự nhiên của nó,

Tất cả hoàn toàn không tì vết

Tính bình đẳng nguyên vẹn

Không có giới hạn và ngả về một phía.

6. Không có hy vọng hay sợ hãi

Về việc ban tặng trí tuệ.

Do vậy, bất cứ cái gì sinh khởi

Tất cả chỉ là sự bình đẳng không gián đoạn, vô tận, bao trùm toàn thể.

Trong sự rộng mở liên tục, tự sinh, không chướng ngại,

Không có bất cứ nguy cơ nào sẽ bị vướng mắc

Trong cái lồng bám luyến.

7. Mọi hiện tượng đều chìm xuống

Vào trạng thái bình đẳng.

Bản tính của chúng vượt ra ngoài ranh giới

Của chấp nhận và từ chối.

Giống như vũ trụ và cư dẫn của nó

Trống rỗng trong sự rộng mở bao la của không gian

Chấp nhận và bác bỏ, ưa thích và chán ghét

Tất cả đều tan biến trong không gian nguyên thủy.

Chúng chẳng đi đâu khác.

Khi những ý nghĩ không để lại dấu vết

Trở thành trạng thái bình đẳng vô tận và bao trùm

Bên trong tỉnh giác liên tục và không gián đoạn

Biên giới bám dính của một người

Của cả hy vọng và sợ hãi đều được vượt qua.

Chốt buộc, đối tượng được nhận thức

Và người nhận thức, bị xé ra.

Thành phố của những hình tướng giả dối trong luân hồi bị trống rỗng.

8. Mọi thứ rõ ràng bên ngoài,

Cùng với tất cả trạng thái tinh thần bên trong,

Đều biểu hiện như vở kịch

Của năng lực sáng tạo trong tâm trí.

Những người hiểu rằng mọi thứ

Ngay từ đầu đã là tính không và tính bình đẳng

Tiết lộ điểm then chốt của các hiện tượng:

Chúng đều bình đẳng.

9. Mọi khía cạnh về bản chất của các hiện tượng đều là tinh túy hóa

Như tính giác của bạn, sáng tỏ và trống rỗng,

Trí tuệ bản nguyên, tính bình đẳng

Cái sau không bị ràng buộc, hạn chế, bởi người nhận thức.

Nó siêu việt mọi đối tượng được nhận thức.

Trong đó không gì có thể

Đóng vai trò là mục tiêu, không có gì để đề cập tới.

Cảnh giác, tỉnh táo, mở rộng, không xao lãng,

Đó là trạng thái của trí tuệ nơi mà tâm lý cạn kiệt

Trạng thái như bầu trời, vô tận, trùm khắp của tính bình đẳng

Siêu việt thiền định và không thiền định:

Không gian vĩ đại của trí tuệ Phổ Hiền.

10. Trong sự mở rộng bao la của tính giác trống rỗng, chói ngời này

Các đặc điểm phong phú của những hiện tượng

Không ngừng xuất hiện.

Các giác quan cảm thụ chúng tươi mới;

Tính giác, bản tính của các hiện tượng, hiện diện rõ ràng.

Hình tướng không bị ngăn trở.

Dù nó sinh khởi thế nào,

Tâm trí vẫn trong lạc thọ.

Sáu thức đều thư giãn.

Sự mở rộng này của trí tuệ nguyên thủy tự sinh,

Cởi mở, khoáng đạt, không trong không ngoài,

Là trạng thái tịnh quang. Nó hiện diện bên trong chính nó

Trạng thái tự nhiên tối cao không có mọi sự sắp đặt.

11. Khi tâm thức bạn không lo lắng,

Như một người chẳng còn gì nữa để làm,

Và, không căng thẳng hay buông lỏng,

Tâm và thân nghỉ ngơi thư giãn,

Tỉnh giác, bình đẳng vô tận, trùm khắp,

Vô nhiễm như không gian,

Nghỉ ngơi trong pháp giới,

Không bao giờ rời xa.

12. Khi pháp tính được nhận ra, sáng ngời và trống rỗng,

Mọi ràng buộc đều lắng xuống trong sự mở rộng của nó.

Tính giác được hiển lộ

Như tính bình đẳng, không gián đoạn, trùm khắp.

Không bị trói buộc bởi bám chấp, nó siêu việt mọi suy nghĩ.

Tất cả đều hội tụ trong

Không gian hoàn toàn bình đẳng và đơn nhất của trí tuệ.

Hỷ lạc tâm hòa lẫn với lạc thọ bình an

Trạng thái của tâm giác ngộ

Nơi mà bên ngoài và bên trong là một vị.

Khi đó bản tính nền tảng được thấy,

Pháp tính nơi tất cả đều đến chỗ cạn kiệt.

13. Trong khoảnh khắc khi đối tượng,

Hoạt động của giác quan và ý đồ của tâm trí gặp nhau,

Trong sự bình lặng của tâm,

Các hình tướng rộng mở và an lạc.

Trong trạng thái chói ngời trong trẻo tự nhiên này,

Không bị trói buộc bởi bám chấp và dính mắc,

Điểm mấu chốt của các hiện tượng

Là chúng được tinh túy hóa như sự bình đẳng toàn vẹn.

14. Trong không gian nơi mà các đối tượng, tâm trí và sự dính mắc

Đã được đoạn trừ,

Tỉnh giác, thoát khỏi ký ức và các ý niệm,

Ích kỷ, và tức giận,

Được bao gồm trong tính trong sáng nguyên sơ của sự bình đẳng.

Đó là vũ điệu kim cương của pháp tính không giới hạn, không gián đoạn

Sự mở rộng của chân như, trí tuệ bản nguyên của bình đẳng tính

Được đánh dấu ngay từ đầu với dấu ấn

Của trí tuệ Phổ Hiền.

15. Giống như các giấc mơ đa dạng đều được bao gồm trong giấc ngủ

Và là những nhận thức trống rỗng, sai lầm của tâm trí,

Cũng vậy, vũ trụ và chúng sinh

Toàn thể trong luân hồi và niết bàn

Được bao gồm bên trong tâm trí.

Chúng xuất hiện trong sự mở rộng của tâm trí;

Chúng không có tồn tại đích thực.

16. Giống như trong lòng của sự rộng mở bao la,

Vũ trụ và chúng sinh nó chứa đựng,

Trong tất cả sự bao la vĩ đại đó

Là tính bình đẳng không gián đoạn

Vượt ngoài trung tâm và chu vi,

Cũng vậy bên trong tầm với của tính giác,

Mọi hình tướng của vật và tâm

Mọi thứ cả bên ngoài và bên trong đều bình đẳng:

Mọi nhận thức của tâm trí đều được bao gồm trong tính không.

Điều này chứng tỏ mọi hiện tượng

Đều được bao gồm trong tâm giác ngộ

Rằng sự bình đẳng không nghiêng về bên này hoặc bên kia,

Vì nó thoát khỏi người nhận biết

Và các đối tượng bị nhận biết.

17. Tâm giác ngộ bao gồm mọi hiện tượng

Tự nó được bao gồm trong tính đại bình đẳng,

Không có mọi cực đoạn và rơi vào một phía.

Giống như không gian bao la quảng đại,

Chứa đựng cả vũ trụ và chúng sinh,

Nó không có trung tâm và ngoại vi.

Nó vượt ngoài cả suy nghĩ và mọi sự diễn đạt.

18. Tính giác là điều kiện lớn của tính bình đẳng.

Thoát khỏi mọi cực đoan.

Vạn sự thuộc thế giới hiện tượng,

Luân hồi và niết bàn,

Không ngừng xuất hiện trong đó.

Nhưng khoảnh khắc chúng xuất hiện,

Tâm trí và mọi hiện tượng

Không thể xác định được cái này hoặc cái kia.

Chúng được bao gồm trong sự bình đẳng của pháp tính.

19. Dấu ấn của tâm giác ngộ,

Vượt ngoài thứ mà không ai có thể đi đến,

Được sắp đặt nguyên thủy trên mọi hiện tượng

Bởi sự bao la rộng mở, Phổ Hiền.

Được gói gọn trong trí tuệ của đạo sư

Thế tôn của chúng sinh, vua của Pháp.

Trạng thái thức tỉnh nguyên sơ này

Được niêm phong bằng ấn ký của bản tính kim cương.

Ý nghĩa cuối cùng của bí mật phi thường

Nằm ngoại phạm vi của mọi người

Ngoài trừ những ai có may mắn bậc nhất

Nguyên tác của đỉnh cao kim cương,

Vượt trên mọi thay đổi và chuyển động

Không gian vĩ đại của tính giác, tự nhận thức,

Trạng thái sáng ngời

Khó được chứng ngộ, dù nó nằm bên trong chính bạn.

Chỉ thông qua lòng tốt của đạo sư tôn kính,

Vị thầy, Pháp vương, nó mới được nhận ra.

Như vậy mọi hiện tượng được cho là

Được bao gồm trong tính bình đẳng liên tục.

20. Khi đó đạt được niềm tin rõ ràng:

Tinh túy tối thượng của các hiện tượng

Là tính bình đẳng.

Mọi thứ bên ngoài là trống rỗng và không sinh.

Chúng không ở lại; chúng không đến hoặc đi.

Chúng vượt ngoài mọi chỉ dấu và diễn đạt.

Mọi trạng thái bên trong xuất hiện đều liên tục lắng xuống.

Không tìm thấy chúng

Như đường chim bay ngang trời.

21. Giống như các hiện tượng và trạng thái tinh thần,

Tính giác tự sinh cũng vậy

Không có sự tồn tại dù chỉ là một cái tên đơn giản.

Nó vượt ngoài mọi chỉ dẫn và diễn tả,

Mọi suy diễn khái niệm.

Vì giống như không gian nó không hoạt động,

Nó là một trạng thái của tính không.

Thoát khỏi hành động, thoát khỏi mọi nỗ lực,

Nó vượt trên cả thiện lẫn ác, mọi đức hạnh và tội lỗi

Nó vượt ngoài luật nhân quả;

Mười nhân tố của mật tông không có chỗ trong đó.26

Nó là một không gian rộng lớn, hoàn toàn bình đẳng

Vượt ngoài mọi chỉ dấu và biểu hiện

Bên trong tính giác, thiện và bất thiện hạnh

Là trống rỗng nguyên thủy; chúng chưa bao giờ là như vậy.

Một sự xác tín rõ ràng như vậy được đạt tới

Đó là bản tính này, không thể nghĩ bàn, không thể diễn tả,

Là đại toàn thiện

Vượt xa tầm với của tâm thức bình thường.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
129
Điểm tương tác
12
Điểm
18
3. HIỆN DIỆN TỰ PHÁT

1. Và bây giờ bản chất của sự hiện diện tự phát được tiết lộ.

Nó tồn tại, không phải do ai tạo ra, ngay từ đàu,

Giống như viên ngọc cung cấp mọi thứ, tâm trí giác ngộ

Là nền tảng và nguồn gốc của mọi thứ trong luân hồi và niết bàn.

2. Mọi sự xuất hiện trong thế giới hiện tượng

Tất cả đều biểu hiện trong không gian.

Tương tự, cả luân hồi và niết bàn

Không ngừng xuất hiện trong tâm trí giác ngộ.

Giống như những giấc mơ khác nhau xuất hiện trong lúc chúng sinh ngủ

Sáu cõi luân hồi và tam giới

Biểu hiện trong tâm trí.

Vạn sự, ngay trong khoảnh khắc xuất hiện,

Tồn tại trong nhận thức.

Chúng là những hình tướng vĩ đại của nền tảng,

Trống rỗng như hiện diện tự phát.

3. Nền tảng và những hình tướng phát sinh ở đó

Không đồng nhất và cũng không khác biệt

Những hình tướng của nền tảng là tự hiện diện

Hiện diện tự phát

Khởi sinh từ cánh cổng của tính giác.

Niết bàn và luân hồi, sự phô diễn năng lực sáng tạo của nó,

Xuất hiện rõ ràng: thanh tịnh hoặc bất tịnh.

Nhưng ngay trong khoảnh khắc xuất hiện,

Chúng không tốt cũng không xấu:

Chúng là sự mở rộng tối hậu đơn nhất.

4. Khi năm ánh sáng chiếu ra không bị cản trở

Từ một quả cầu pha lê,

Những ánh sáng giống nhau này được cảm nhận

Tùy theo màu sắc khác nhau của chúng.

Không tốt cũng chẳng xấu,

Chúng là sự biểu lộ

Của một quả cầu pha lê duy nhất.

Nền tảng, tính giác, tự nhận thức,

Cũng giống như quả cầu pha lê này,

Tính không của nó là pháp thân,

Sự phát quang chói lọi của nó là báo thân,

Và nền tảng không che chướng của nó cho sự hiển lộ

Là hóa thân.

Ba thân trong sự mở rộng của nền tảng

Đều là hiện diện tự phát.

5. Khi những hình tướng xuất hiện trong nền tảng

Ba thân thanh tịnh, sự tự kinh nghiệm của chư Phật,

Cũng như các hiện tượng bất tịnh

Của cả vũ trụ và chúng sinh

Tất cả do bản tính của chúng

Trống rỗng, sáng chói, và đa dạng.

Tất cả đều là hiển lộ của pháp thân,

Của báo thân và hóa thân.

Các hình tướng biểu hiện của nền tảng (ba thân)

Đều là hiện diện tự phát

Tính giác và các kinh nghiệm của nó.

Đừng tìm kiếm chúng ở nơi khác.

Khi phân tích này được hiểu chính xác,

Mọi hiện tượng trong cả luân hồi và niết bàn

Sẽ được nhận ra như cõi tịnh độ của ba thân

Hiện diện tự phát trong tâm trí giác ngộ.

6. Các thân và trí tuệ

Của chư Phật trong ba thời,

Thân, ngữ, và tâm

Của chúng sinh trong ba cõi,

Và nghiệp và phiền não

Mọi thứ thuộc về thế giới hiện tượng

Chẳng là gì khác ngoài tâm trí giác ngộ.

7. Trong sự bao la của hiện diện tự phát

Được tìm thấy từ nền tảng nơi mọi thứ khởi sinh.

Mọi thứ xuất hiện có hình dạng

Thế giới bên ngoài và cư dân của nó

Không thuộc bên này cũng chẳng phải bên kia.

Tất cả xuất hiện như bánh xe trang hoàng

Cho thân giác ngộ.

Âm thanh và ngôn ngữ,

Xuất sắc, trung bình hay thấp kém,

Không phân biệt bên này hay bên kia

Tất cả đều xuất hiện như bánh xe trang hoàng

Của lời giác ngộ.

Tâm phàm phu và trí nguyên thủy,

Giác ngộ và không có giác ngộ,

Không phân biệt bên này hay bên kia

Tất cả xuất hiện như bánh xe trang hoàng

Cho trí giác ngộ.

Tương tự, các phẩm tính và hành động giác ngộ

Không thuộc bên này hay bên kia.

Pháp giới do vậy là viên ngọc quý

Đáp ứng mọi mong muốn.

Không cần phải cố gắng

Vì mọi thứ xuất hiện tự nhiên.

Đây là lý do nó được gọi

Là trí tuệ bản nguyên, tự sinh khởi và hiện diện tự nhiên.

8. Nền tảng, hiện diện tự nhiên,

Của vạn sự

Là tâm trí giác ngộ,

Luôn hiện diện tự phát.

Do đó, không cần phải

Tìm kiếm ba thân,

Vì bạn đã có chúng tự nhiên ở bên trong chính bạn.

Trong luật nhân quả liên quan đến thiện và ác,

Bạn không cần phải nỗ lực.

An trú trong trạng thái tự nhiên,

Bạn sẽ được coi là một yogi thoát khỏi mọi hành động,

Thoát khỏi nỗ lực trong chấp nhận hay từ chối.

Trong sự mở rộng bao la của hiện diện tự nhiên

Nó là của bạn ngay từ đầu.

Do đó, đừng tạo ra nỗ lực trong pháp tính!

9. Ngay cả sự giác ngộ

Của tất cả đấng chiến thắng, trong quá khứ, hiện tại và tương lai,

Là hiện diện tự phát

Như đại lạc của trạng thái tự nhiên.

Vì vậy, không có khởi nguồn

Của những giáo lý về luật nhân quả

Được thiết kế cho những người kém may mắn,

Mà hãy quan sát bản tính như không gian,

Siêu việt hành động có chủ ý.

10. Chân như như nó đang là

Giờ đây không cần phải thành tựu.

Bên trong sự hiện diện tự phát,

Nguyên thủy và không tạo dựng,

Hãy từ bỏ hy vọng và sợ hãi bên trong tâm trí bạn

Liên quan đến việc truyền thừa và tiếp nhận

(Về năng lượng gia trì của thầy)

Chỉ chứng ngộ sự mở rộng tối thượng

Đó là sự hiện diện tự phát

Và do đó không cần phải tìm kiếm.

11. Giống như mỗi và mọi vật

Là sự phô diễn của pháp thân,

Báo thân và hóa thân

(Bộ ba không tạo tác

Của bản tính, đặc trưng, và năng lực nhận biết),

Cũng vậy, luân hồi và niết bàn tự chúng là ba thân,

Sự mở rộng của tâm trí giác ngộ,

Hiện diện tự phát như tính bình đẳng vĩ đại không được tạo dựng,

Luân hồi, bởi vậy, không cần phải từ bỏ,

Niết bàn, tương tự, không cần đạt được.

Sự quy kết và phủ nhận liên hệ đến chúng lắng xuống.

Luân hồi và niết bàn

Trú ngụ bên trong tinh túy tối thượng.

Điều này tiết lộ điểm then chốt:

Các hiện tượng tồn tại bên trong tâm trí giác ngộ,

Hiện diện tự nhiên ngay từ đầu.

12. Vạn sự giờ đây được tinh túy hóa

Là hiện diện tự phát.

Năm đại nguyên tố,

Thế giới biểu hiện và cư dân của nó,

Xuất hiện như những vị thầy, tất cả đều hiện diện tự nhiên,

Trong trạng thái mà, ngay lúc đầu,

Đã thoát khỏi mọi suy nghĩ lan man.

Khi không còn suy nghĩ về ta và người,

Chúng tự bản chất là thanh tịnh.

Chúng được tinh túy hóa như tâm trí của chính bạn,

Thoát khỏi mọi hoạt động và nỗ lực.

Đừng ngăn chặn các hình tướng,

Mà để mặc sáu thức

Trong một trạng thái thư giãn.

13. Tính giác, hiện diện tự nhiên,

Phát quang chói ngời,

Là nguồn gốc nền tảng của tất cả.

Điểm chính yếu là để yên

Không chỉnh sửa năm cửa ngõ giác quan

Và không có các suy gnhix qua lại.

Nhận biết trạng thái pháp thân

Hiện diện tự nhiên, tỉnh giác và trống rỗng.

Chắc chắn về nó; để tự do

Khỏi mọi vận hành khái niệm.

14. trong cõi bao là và thanh tịnh

Của tính giác không bị ngăn trở, tự nhận thức,

Mọi hình tướng, đối tượng, các trạng thái tinh thần

Là một trạng thái không gián đoạn của tính bình đẳng.

Chúng đều được bản thể hóa

Sự một sự liền mạch của hiện diện tự nhiên,

Thiền định nhất tâm tự nhiên.

Vào mọi lúc như dòng nước mạnh mẽ,

Trí tuệ bản nguyên,

Không do tu luyện thông qua thiền định của hành giả

Mà hiện diện tự phát, không ngừng.

Tinh hoa cốt tủy của mọi hiện tượng

Là sự mở rộng, nguyên thủy, tự sinh khởi,

Mà trong mức độ trọn vẹn của nó

Tương ứng với trí tuệ thực sự của Phổ Hiền.

15. Gốc rễ của mọi hiện tượng

Là tâm trí giác ngộ

Giống như không gian

Tính tương tự có thể áp dụng cho tất cả.

Vạn sự được chứa đựng trong vực sâu không gian,

Và tất cả đều thuần khiết trong bản chất

Không có nỗ lực hay cố gắng.

Tương tự, một trạng thái vượt ngoài các hành động có chủ ý,

Vượt xa tầm với của tâm trí bình thường,

Nơi mọi thứ xuất hiện

Được để nguyên như chúng đang là

Nó tại đây được tinh túy hóa

Điểm chính yếu của các hiện tượng,

Hiện diện tự nhiên

Cả ngoài và trong.

16. Trong chân như không có khởi nguồn, không kết thúc,

Không đi không đến (và còn lại).

Trong Đấng chiến thắng được tụ hợp

Sự tập trung không dao động

Của hiện diện tự phát.

Trong trạng thái này, siêu việt hành động,

Các hiện tượng được tinh túy hóa.

17. Vạn sự được bao gồm trong hiện diện tự nhiên.

Mọi thế giới hiện tượng, hiện diện tự phát,

Là sự tự kinh nghiệm của tính giác.

Luân hồi và niết bàn,

Hiện diện tự phát, và sự biểu lộ của tính giác.

Cũng vậy, tâm giác ngộ, ngay từ đầu,

Đã hiện diện tự nhiên,

Mọi hiện tượng chẳng là gì khác

Ngoài hiện diện tự phát.

18. Hiện diện tự phát

Là bản tính của tâm trí.

Và do đó nền tảng hay gốc rễ,

Tinh hoa (của các hiện tượng),

Được tụ hợp trong tâm giác ngộ.

Không cần ở đó để tìm kiếm nó

Bằng các phương tiện của mười yếu tố.

Nó hiện diện tự nhiên;

Không cần cố gắng để có nó

Bằng phương tiện của cái thấy và thiền định tập trung.

Không cần đạt được nó bằng các phương tiện ngoại lai,

Như trong hệ thống nhân quả.

Không cần bận tâm

Với hy vọng và sợ hãi về nó.

Ngay bây giờ trong hiện tại

Hiện diện tự nhiên là pháp thân nguyên thủy.

19. Bản tính của tâm trí là một sự mở rộng vô hạn

Của không gian vượt trên mọi thay đổi.

Từ sự mở rộng này mà ba thân,

Luân hồi và niết bàn tự phát xuất sinh,

Mặc dù chúng không bao giờ rời khỏi nó.

Sự biểu lộ của nó vô cùng đa dạng:

Một kho tàng của những hình tướng huyễn ảo

Của năng lực nhận thức

Khởi sinh đơn độc như sự hiện diện tự nhiên:

Phổ Hiền.

Ngài do vậy là đạo sư của luân hồi và niết bàn

Vì chúng chưa bao giờ đi lạc đến nơi nào khác

Từ đây, sự mở rộng tối hậu.

Phổ Hiền do vậy là tất cả;

Chẳng có gì ở đó mà không thể là như vậy.

Tất cả là sự mở rộng, hiện diện tự nhiên,

Của bản tính kim cương.

Mọi sự đều được bao gồm từ nguyên thủy

Bên trong hiện diện tự nhiên.

20. Một nhận định rõ ràng như vậy đã đạt được

Về bản tính hiện diện tự phát của chúng.

Bên trong hiện diện tự phát,

Siêu việt mọi ranh giới,

Bên ngoài và bên trong,

Mọi thứ chỉ là sự tự kinh nghiệm của tính giác.

Chúng không đi cũng không đến

Chúng nằm ngoài khẳng định và phủ định,

Vạn sự là tính bao la trùm phủ toàn thể

Không có mọi chiều hướng, lên và xuống.

Hoàn toàn vô định, hoàn toàn vô hạn,

Không thể tưởng tượng, chẳng thể trình bày,

Chúng không thể được xác định.

21. Bởi vì các pháp,

Do bản tính, thanh tịnh khởi nguyên,

Vì, do đặc tính, chúng là hiện diện tự nhiên,

Thoát khỏi mọi cực đoan:

Tồn tại, không tồn tại, thường hằng, gián đoạn.

Đây là bản tính bất nhị, tâm giác ngộ.

22. Do bản tính, thanh tịnh bản nguyên

Không tồn tại như bất cứ thứ gì.

Đặc điểm của nó giống như không gian

Và thanh tịnh từ nguyên thủy,

Trong chính nó, hiện diện tự phát

Không được tạo ra bởi bất cứ ai.

Sự khởi sinh của nó là không ngừng,

Và bất cứ cái gì cũng có thể biểu hiện.

Nó là cội nguồn của cả luân hồi và niết bàn.

Nó không có khởi đầu trong quá khứ,

Và trong tương lai nó không có kết thúc.

23. Hiện diện tự nhiên vô định, vô sinh

Là nền tảng tối hậu. Cách mà mọi thứ khởi sinh,

Vô thủy vô chung,

Không thể ngăn chặn.

Cách mọi thứ là, không có bản thể cố hữu

Không thể được xác định.

Các thức mọi thứ lắng xuống, không có đặc tính cố hữu

Không thể bị gián đoạn.

Niềm tin rõ ràng như vậy đã đạt được

Rằng sau đó cũng vậy

Vạn sự trú ngụ trong nền tảng

Từ đó chúng khởi sinh.

Điều này được gọi là “tan biến trong pháp thân,

Cạn kiệt trong sự mở rộng tối thượng”.

24. Như những đám mây tan vào bầu trời từ nơi chúng đến

Và như ánh sáng pha lê rút vào trong pha lê,

Luân hồi và niết bàn

(Những hình tướng của nền tảng

Khởi sinh từ nền tảng)

Giữ vững bản tính thanh tịnh, nguyên sơ của chúng

Trong nền tảng tối hậu.

Một niềm tin rõ ràng đã đạt được

Rằng vạn pháp được tập hợp

Trong tính bao la của địa tầng căn bản

Của sự hiện diện tự nhiên.

Mọi vận hành tinh thần tan biến tự nhiên

Trong sự mở trống không có hoạt động nhận thức.

25. Khi mọi thứ lúc này xuất hiện

Mọi đối tượng của sáu thức giác quan

Tan biến vào địa tầng căn bản, pháp thân,

Bạn sẽ hoàn toàn tin rằng

Cả bên ngoài và bên trong hòa quện với nhau

Trong sự mở rộng bao la: hiện diện tự phát.

Bạn sẽ hoàn toàn tin rằng

Cả luân hồi và niết bàn,

Tự kinh nghiệm của tính giác,

Là tâm giác ngộ, không có hình dạng,

Trạng thái tỉnh thức biểu lộ.

Tương tự, nếu bạn để mặc các hình tướng và hoạt động tinh thần

Trong trạng thái tự nhiên của chúng, không gian tịnh quang,

Không tạo ra khác biệt giữa chúng,

Giữ vững dòng chảy tự nhiên không tạo dựng ý niệm,

Bạn sẽ hoàn toàn tin rằng

Chúng là trống rỗng, phát quang chói ngời

Của tính giác, hiện tại và tức thời

Đây được gọi là “trụ vững trong cõi báu”.

26. Nếu giờ đây bạn thiếu niềm tin minh bạch

Trong địa tầng căn bản của bao la tối thượng,

Không phải sau này bạn sẽ tìm thấy

Tự do trong nền tảng nguyên thủy.

Nếu tự do trong nền tảng rộng mở mà bạn không đạt được,

Sự thiền định cứng nhắc của bạn không dẫn đến giải thoát

Mà dẫn đến những cõi trời bậc cao.

Cho nên bây giờ điều tối quan trọng

Là ấp ủ niềm tin minh bạch

Về loại tập trung

Nơi bạn nghỉ ngơi tự nhiên

Bên trong tính uyên nguyên của sự mở rộng tối cao.

27. Bạn sẽ đi đến niềm tin rõ ràng

Rằng mọi thứ là tính giác

Hiện diện tự phát.

Bạn sẽ đến niềm tin rõ ràng

Rằng hiện diện tự phát

Là địa tầng căn bản

Của tính thanh tịnh bản nguyên.

Bạn sẽ đến niềm tin rõ ràng

Rằng thanh tịnh bản nguyên là thoát khỏi

Tham chiếu, tư tưởng, biểu đạt.

Đây là niềm tin rõ ràng, dứt khoát

Về hiện diện tự phát.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
129
Điểm tương tác
12
Điểm
18
4. BẢN TÍNH ĐƠN NHẤT

1. Và bây giờ bản tính duy nhất (của các hiện tượng) được hiển bày.

Tính giác duy nhất là nền tảng của mọi hiện tượng.

Dù có vẻ nhiều đến đâu,

Chúng cũng không dao động khỏi bản tính duy nhất của mình.

Như nó được nói vậy. Gốc rễ duy nhất và chỉ một của chúng

Là trí tuệ bản nguyên tự sinh khởi.

Trong một số trường hợp nhất định, từ một viên ngọc duy nhất,

Lửa và nước, khác biệt và phân minh, có thể đều xuất hiện.

Tuy nhiên gốc rễ của chúng là một, lưu ly thuần khiết quý giá.

Cũng vậy, mặc dù từ một tính giác, tự nhận thức,

Niết bàn và luân hồi cùng khởi sinh,

Gốc rễ của chúng là một, trí giác ngộ tối thượng.

Sự khác biệt chia tách chúng là ảo tưởng,

Phát tích từ nhận biết hay không nhận biết về tính giác..

2. Thế giới hiện tượng, luân hồi và niết bàn,

Mọi sự xuất hiện trong tính giác,

Trong khoảnh khắc chúng được nhận thức,

Chỉ có bản tính của tính không mà thôi.

Chúng giống ảo ảnh huyễn thuật, các giấc mộng,

Như ánh trăng phản chiếu trong nước.

Hoàn toàn không và bản nguyên không,

Vượt ngoài suy diễn khái niệm,

Chúng ngụ trong tính giác,

Như không gian, phi chất thể,

Nền tảng hình tướng của chúng.

Vì mọi thứ đều ở trong một sự mở rộng,

Thanh tịnh nguyên sơ,

Không có nhị nguyên, không “hai”.

Tất cả tụ họp trong một cõi duy nhất,

Pháp thân không có cạnh, góc. Emaho!

3. Cái xuất hiện như năm yếu tố

Chính cái đó là tâm giác ngộ.

Nó không khuyaasy động từ một trạng thái: bình đẳng không sinh.

Các hình tướng của các chúng sinh hữu tình

Chẳng là gì ngoài hình dáng trống rỗng của sáu cõi.

Những hình tướng của nền tảng không tách rời

Khỏi điều kiện của tính giác.

Hạnh phúc và đau khổ đều có thể xuất hiện,

Nhưng chúng đồng thể duy nhất,

Tâm giác ngộ.

Chúng không dao động khỏi một và chỉ một

Trí tuệ bản nguyên tự sinh.

Cho nên bạn cần hiểu

Các hiện tượng chẳng là gì ngoài sự mở rộng tối thượng đơn nhất,

Trạng thái của tính không.

Chúng không sinh, tâm giác ngộ.

4. Bên trong chiều kích tối hậu này,

Sự mở trống bao la của tính giác, tự nhận thức,

Ở đó trú ngụ trí tuệ độc nhất

Của các Đấng chiến thắng, quá khứ, hiện tại và tương lai.

Đừng nghĩ nó đa dạng,

Vì nó siêu việt mọi ý nghĩ về nhiều thành phần.

Nó là cung điện của tinh hoa

Của giác ngộ không dao động,

Nơi chẳng có gì ngoài trí tuệ nguyên thủy, tự sinh, trú ngụ.

5. Nó như viên ngọc như ý

Kho tàng của mọi hiện tượng,

Cõi Phật của ba thân,

Hiện diện tự phát.

6. Sự mở rộng vĩ đại duy nhất

Chẳng được ai tạo ra.

Mọi sự chẳng ngoại lệ

Đều hiện ra từ nó

Là nền tảng căn bản đơn nhất

Từ đó chúng đến.

Vì nguyên nhân của nó mà kết quả quay về.

Nền tảng này là sự bao la

Của pháp tính sáng ngời và trống rỗng.

Nó vượt qua mọi giới hạn, mọi chiều hướng;

Nó ở mọi nơi, như không gian thanh tịnh, không vết nhơ.

7. Người tạo ra vạn vật, luân hồi và niết bàn,

Là một và tự sinh.

Nhưng gốc rễ của nó, tính giác, không ai tạo ra được.

Vượt mọi hành động và nỗ lực, nó an trú như không gian.

Sự ví dụ và thứ được ví dụ xuất hiện

Là một sự mở rộng quảng đại

Nơi mọi quy kết và từ chối đều yên lặng.

8. Trong tinh hoa tối thượng

Siêu việt tồn tại và không tồn tại,

Bất cứ thứ gì xuất hiện đều không ngừng biểu lộ,

Bản tính của chúng là một sự rộng mở không thể tưởng tượng và không thể diễn bày

Vượt ngoài tính quy ước của cả lời nói và ngôn ngữ.

9. Trong tâm giác ngộ,

Tinh hoa mà mọi thứ đều nảy sinh,

Không có nhị nguyên nhưng lại đa dạng không đếm xuể.

Chư Phật, chúng sinh, thế giới hiện tượng,

Thế giới và cư dân của nó hiện diện rõ ràng.

Tuy nhiên chúng không rời khỏi chân như, pháp tính duy nhất.

10. Vạn sự đều liên kết với một và chỉ một thứ này

Trong đó chúng được bao gồm hoàn hảo.

Đây là phẩm tính tối cao của tâm giác ngộ.

Ngay từ giây phút một thứ xuất hiện trong nó,

Quan niệm sai lầm rằng nó khác với nó

Bị loại trừ.

Nên hiểu rằng những sự vật bên ngoài

Chẳng là gì ngoài sự phát sáng trống trải

Của bản tính bất nhị trong tâm trí

Trong khi những sự vật bên trong tâm trí

Chỉ là tính giác trần trụi và rộng mở,

Không một cũng chẳng nhiều.

Sự chứng ngộ rằng bản tính của chúng

Là sự mở rộng tối thượng, đơn nhất

Tiết lộ điểm chính yếu của tính giác.

11. Trong nhất vị, mọi thứ đều được tinh túy hóa.

Mọi đối tượng xuất hiện đều hư ảo;

Chúng là trạng thái của tính không.

Tuy nhiên chúng xuất hiện,

Nghỉ ngơi mà không sắp đặt trong tính giác duy nhất.

Bất kể thứ gì xuất hiện,

Chỉ duy nhất một tính không sáng ngời xuất sinh.

12. Những ý niệm, những hình tướng tâm trí,

Tan biến tự nhiên.

Bất cứ chuyển động nào đến

Trong trạng thái tính không,

Chỉ cần nghỉ ngơi bên trong dòng chảy tự nhiên, thư giãn.

Thông qua chuyển động và sử sinh sôi các ý niệm của bạn,

Trí tuệ của pháp tính sẽ xuất hiện rõ ràng.

13. khi bạn thấy các đối tượng giác quan

Và tâm trí liền mạch giống nhau,

Khi, không tập trung và tham chiếu,

Bạn nghỉ ngơi trong trạng thái thanh tịnh tự nhiên không dấu vết.

Ngay trong sự phát quang mà nó biểu lộ

Trí tuệ bản nguyên của tuệ giác sâu xa.

14. Tinh túy hóa vào trong một tinh hoa

Ba điểm chính yếu này

Rằng chứng ngộ và không chứng ngộ

Đều bình đẳng từ nguyên thủy,

Rằng tâm và vật không thể phân chia

Là bình đẳng trong pháp thân,

Rằng những lỗi lầm và che chướng là không thể tách rời

Từ sự bình đẳng của pháp tính

Bạn không ngừng giữ vững thực tại tối hậu.

Không từ chối hoặc chấp nhận, bạn sẽ tìm thấy

Tinh hoa tối thượng.

Không đến và không đi, bạn an trú

Trong sự chứng ngộ về pháp tính.

Tất cả hội tụ trong trạng thái này

Nơi cả chuyển động và thay đổi đều bị siêu việt.

15. Như không gian là sự bao la quảng đại,

Tâm trí của các Đấng chiến thắng.

Vượt trên sự loại bỏ và đạt được,

Đó là sự đại mở rộng, một cõi giới duy nhất.

Tự do trong chính nó, vượt ngoài mọi trạng thái

Của giác ngộ và không giác ngộ.

Nơi sự cạn kiệt của mọi hiện tượng được đạt tới

Trong tính bình đẳng trùm khắp vượt xa tâm trí bình thường.

Trên đỉnh ngọn cờ chiến thắng, không bao giờ hạn xuống,

Mặt trời và mặt trăng chiếu sáng vô số thế giới.

16. Mọi thứ được bao gồm

Bên trong tính giác, duy nhất và tự nhận thức,

Vạn sự trong thế giới hiện tượng,

Toàn thể luân hồi và niết bàn,

Xuất hiện vô cùng, vô tận

Sinh khởi từ sự mở rộng tối thượng.

Do đó, sự mở rộng từ nơi chúng xuất hiện

Bao gồm chúng.

17. Ngay cả bây giờ, khi nhiều thứ khác nhau xuất hiện,

Chúng không rời khỏi tính giác lạc đi đâu khác.

Các hình tướng do vậy được bao hàm

Bên trong sự mở rộng bao la, tính giác tự sinh.

18. Sinh và diệt liền lạc,

Chúng hòa tan vào sử mở rộng tối thượng.

Các hình tướng chẳng là gì khác

Ngoài tâm giác ngộ.

Mọi thứ được bao gồm bên trong

Pháp tính nguyên thủy duy nhất,

Nền tảng cho sự cạn kiệt của chúng.

19. Được bao hàm trong một tính giác duy nhất,

Các hiện tượng không bao giờ rời khỏi tính giác,

Tinh hoa của giác ngộ,

Vượt trên mọi chuyển động và thay đổi.

Chúng được bao hàm bên trong tinh hoa tối thượng;

Chúng ngụ trong sự mở rộng, không thay đổi, không phức hợp.

20. Một niềm tin rõ ràng đã đạt được

Rằng mọi hiện tượng là một, duy nhất,

Trí tuệ nguyên sơ tự sinh khởi,

Sự mở rộng tối thượng,

Vô thủy và vô chung.

Tất cả được chứa đựng trong đó.

Mọi chuyển động của tâm trí lắng xuống,

Và tất cả an trú trong pháp tính, tinh hoa tối thượng.

21. Do đó, các đối tượng bên ngoài, và tâm trí bên trong,

Các hiện tượng của cả luân hồi và niết bàn

Khi thô được phân tích thành vi tế,

Không còn ý niệm về một phần nào còn lại.

Do vậy bạn tin tưởng rõ ràng

Rằng chúng chỉ là sự mở rộng bao la,

Trống rỗng ngay từ đầu, giống như không gian.

22. Tâm giác ngộ, khi phân tích,

Được tìm thấy không có thực chất.

Nó không có nguồn gốc, không nơi trú ngụ;

Nó không đến không đi.

Nó trốn tránh mọi chỉ dấu và biểu đạt.

Bạn đạt đến một niềm tin rõ ràng

Rằng đó là không gian trí tuệ

Nó siêu việt trí phàm phu.

Nó không phải là một thực thể với các đặc trưng,

Để có thể định nghĩa là cái này hay cái khác.

Không thể biết thông qua các ngôn từ,

Nó không thể được diễn tả.

23. Bạn đạt được niềm tin rõ ràng

Rằng mọi thứ trong thế giới hiện tượng

Thuộc về luân hồi và niết bàn

Là sự rộng mở,

Không có sự vận động tinh thần và đặt tên,

Bạn đạt đến một niềm tin rõ ràng

Rằng mọi thứ là sự mở rộng quảng đại,

Tính giác, trống rỗng, và không sinh,

Trí tuệ bản nguyên tự nhận biết.

Bạn đạt đến một niềm tin rõ ràng

Răng mọi thứ khởi sinh từ tâm giác ngộ

Chẳng là gì ngoài sự mở rộng quảng đại

Vượt trên biết và không biết,

Bạn đạt đến niềm tin rõ ràng rằng mọi hiện tượng,

Trống rỗng nguyên sơ và hoàn toàn trống không,

Cấu thành sự mở rộng quảng đại,

Bất động và bất biến suốt ba thời.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
129
Điểm tương tác
12
Điểm
18
5. NHỮNG NGƯỜI MÀ GIÁO LÝ NÀY

CÓ THỂ ĐƯỢC BAN CHO



1. Tinh túy của thừa sâu sắc nhất này

Chỉ nên được tiết lộ riêng

Cho những ai rõ ràng có

May mắn và trí thông minh cao nhất.

Nó nên được giữ lại

Đối với những người cố chấp bám dính vào

Những thừa thấp hơn và nguyên tắc nhân quả,

Với những người kém may mắn và kém thông minh hơn.

2. Từ những người chỉ trích thầy mình,

Những người bộc lộ giận duẽ với thân tộc kim cương,

Người phản bội bí mật, nói về nó công khai,

Không tin tưởng và nắm chặt, vào một khuynh hướng xấu xa,

Người mải mê với những thứ phù du

Phải giữ bí mật giáo lý đối với tất cả những người này.

3. Những người có phẩm chất cao nhất, được phú cho may mắn,

Là những chiếc bình thích hợp cho Đại Toàn Thiện.

Họ tôn trọng đạo sư của mình và sở hữu kiến thức sâu rộng.

Họ hoan hỷ và rộng lượng,

Họ là người bạn trung thành và hào phóng.

Họ không có suy nghĩ tham vọng

Và có ít bám luyến.

Họ từ bỏ mọi mối quan tâm về cuộc sống hiện tại

Và có ý định đạt được giác ngộ của mình.

Được phú cho niềm tin và tính siêng năng,

Họ có thể giữ bí mật.

Đây là những người

Nên được ban giáo lý.

4. Với những món quà, họ nên làm hài lòng thầy mình,

Và trong tinh thần cam kết

Họ nên hết lòng khẩn cầu hướng dẫn.

Khi lời dạy đã được ban,

Họ nên thực hiện đúng đắn

Và đạt tới trình độ cạn kiệt mọi hiện tượng

Trong bản tính nền tảng.

5. Các đạo sư phải rất uyên bác,

Sở hữu mọi đức tính cần thiết.

Họ nên khảo nghiệm học trò mình

Và dần dần ban cho những chỉ dẫn then chốt.

Nhưng họ nên giữ những giáo lý này

Từ những người nhận không thích hợp.

Họ nên đánh dấu chúng với niêm phong bí mật

Và giấu chúng bằng con dấu ủy thác của mình.

6. Đối với những đứa con trong tim đạo sư,

May mắn có năng lực cao,

Các giáo lý tinh yếu, có ý nghĩa tối hậu,

Nên được ban truyền.

7. Và đến lượt họ không được tiết lộ cho tất cả mọi người

Tinh túy này, tối thượng và không bị suy vong.

Chúng phải được giữ không bị suy tàn

Như tinh hoa thực hành của chúng.

Nếu cánh cửa bí mật bị xâm phạm,

Sự trừng phạt chắc chắn sẽ đến.

Do giải thích sai,

Giáo lý tinh hoa sẽ xa lánh.

Các đệ tử do đó phải giữ bí mật

Và duy trì sự đồng hành vui vẻ với thầy mình.

Họ sẽ đạt tới ngay trong đời này

Vương quốc vĩnh cửu của pháp thân.



6. KẾT LUẬN

1. Giáo lý này đã tiết lộ

Trực tiếp, không che giấu điều gì,

Cái thấy của Đại Viên Mãn siêu phàm và bí mật

Cầu mong nó tự nhiên và không cần nỗ lực

Mang chúng sinh, không bỏ sót một ai,

Tới giải thoát trong không gian của nền tảng nguyên sơ.

2. Lời dạy này, bao trùm tất cả

Mọi cái thấy thấp hơn,

Là đỉnh cao của tất cả các thừa,

Không gian rộng lớn của vua garuda vĩ đại.

Cầu mong cho lời dạy Atiyoga này,

Vượt trội hơn mọi giáo lý khác,

Được lan truyền khắp mười phương.

Cầu mong ngọn cờ chiến thắng của nó không bao giờ bị hạ xuống.

3. Ba lớp, chín không gian

Đều được gom tụ trong bốn nguyên tắc.

Cái thấy cuối cùng của toàn bộ mười sáu đoạn

Được giải thích trong Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng này,

Mà Longchen Rabjam Zangpo

Đã biên soạn hoàn hảo.

4. Cái thấy cuối cùng được chứa đựng

Trong năm chủ đề của Kho Tàng

Của Bản Tính Nền Tảng


Được trang hoàng hoàn hảo với sự giàu có,

Vừa thâm sâu vừa rộng lớn.

Nó được làm đẹp bằng sự lộng lẫy

Của ngôn từ và ý nghĩa trong nó.

Hãy để chúng đệ tử may mắn

Nhận lấy đại hoan hỷ trong đó.



Đến đây là kết thúc Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng. Nó được sáng tác bởi Longchen Rabjam, một yogi của thừa tối cao.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
129
Điểm tương tác
12
Điểm
18
PHẦN HAI

MỘT LỄ VẬT LÀM HÀI LÒNG

THẾ TÔN TOÀN TRI



Những chỉ dẫn từ Vị Thầy Vinh Quang của tôi,

Một Lời Bình Luận về


Kho Tàng Trân Bảo của

Bản Tính Nền Tảng,

Một Giáo Lý về

Đại Toàn Thiện
1732601046118.png


KHANGSAR TENPAI WANGCHUK​
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
129
Điểm tương tác
12
Điểm
18
NỘI DUNG VĂN BẢN



Lời mở đầu

Chương một: Giới thiệu chuyên luận

Tiêu đề

Sự bày tỏ lòng tôn kính của Longchenpa

Một tán thán ngắn gọn

Một tán thán chi tiết

Lời hứa của Longchenpa về việc biên soạn văn bản

Chương hai: Giải thích sâu rộng về chuyên luận của Longchenpa

Một thuyết trình ngắn gọn

Một thuyết minh chi tiết

Chủ đề kim cương đầu tiên: không tồn tại

Phần một: những điểm chính yếu được tiết lộ

Phần hai: những điểm chính yếu về không tồn tại được tinh túy hóa

Phần ba: mọi hiện tượng được gom vào trạng thái không hiện hữu

Phần bốn: đạt được niềm tin rõ ràng rằng các hiện tượng là không tồn tại

Chủ đề kim cương thứ hai: tính bình đẳng

Phần một: những điểm thiết yếu được tiết lộ

Một giải thích ngắn gọn

Một giải thích chi tiết

Phần hai: những điểm chính yếu về tính bình đẳng được tinh túy hóa

Phần ba: các hiện tượng được gom vào tính bình đẳng

Phần bốn: đạt được niềm tin rõ ràng rằng mọi hiện tượng đều bình đẳng liên tục

Chủ đề kim cương thứ ba: hiện diện tự phát

Phần một: những điểm than chốt được tiết lộ

Phần hai: những điểm then chốt của hiện diện tự phát được tinh túy hóa

Phần ba: các hiện tượng được cộng gộp vào hiện diện tự phát

Phần bốn:có được niềm tin rõ ràng rằng mọi hiện tượng là hiện diện tự phát

Chủ đề kim cương thứ tư: bản tính đơn nhất

Phần một: những điểm than chốt được tiết lộ

Phần hai: những điểm then chốt của bản tính đơn nhất được tinh túy hóa

Phần ba: mọi hiện tượng được gom tụ vào trong tính giác duy nhất

Phần bốn: đạt được niềm tin rõ ràng rằng mọi hiện tượng đều là trí tuệ bản nguyên tự sinh khởi

Chương ba: Một chỉ dẫn liên quan đến những người có khả năng lĩnh hội giáo lý này

Những người nhận giáo lý này

Một trình bày chung

Một trình bày chi tiết về những người mà giáo lý này nên được giữ lại

Những người giáo lý này nên được ban cho

Tính cách của những đệ tử đủ tiêu chuẩn

Cung cách mà những đệ tử này nên hành xử

Trình độ chuyên môn của vị thầy ban truyền giáo lý

Cung cách mà vị thầy trao truyền

Lời dạy thiết yếu cần được truyền thụ

Cách giao phó giáo lý và lợi ích thu được từ đó

Chương bốn: Kết luận của toàn bộ luận văn

Một lời cầu nguyện hồi hướng cho sự giải thoát của mọi chúng sinh trong tam giới

Lời cầu nguyện hồi hướng cho giáo lý này được rộng truyền và phồn thịnh khắp mười phương

Tác giả chuyên luận này và hoàn cảnh sáng tác nó

Lời động viên hứng khởi gửi đến những chúng sinh may mắn trong các thế hệ tương lai

Lời cuối của chính tác giả
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
129
Điểm tương tác
12
Điểm
18
MỞ ĐẦU



Trong cõi tịnh độ của pháp giới,

Ngài là pháp thân, Phổ Hiền

Ngài là Kim Cương Tát Đỏa, báo thân

Được phú cho tính chắc chắn năm phần

Và Kim Cương Cực Hỷ, hóa thân

Và vị thầy của vô số chúng sinh khác nhau.

Tới ngài, nơi ba thân biểu lộ,

Tới ngài, thầy tôi, tôi cúi đầu.



Pháp Vương được giao phó giải thích

Lời dạy trong ba lớp

Và cái thấy của vị thầy bí mật bậc nhất vô song

Matisara tối thượng, toàn tri,

Tôi cầu nguyện ngài luôn nghỉ ngơi trong hoa sen tâm trí của tôi.



Orgyen Chokyi Dawa Palzangpo có lần nói:

Pandita Pháp Vương Sakya, ánh mặt trời giáo lý của năm khoa học,

Tsongkhapa, suối nguồn của những bài giảng về kinh điển và mật điển,

Longchenpa, chúa tể tối cao của mọi giáo lý

Cả ba đều thực sự là Manjughosa của Xứ Tuyết.

Bây giờ, như những lời này tuyên bố, một trong ba biểu lộ trực tiếp của Manjughosa ở xứ tuyết Tây Tạng của chúng ta là Longchenpa chiến thắng, bậc minh giải vĩ đại về giáo lý Tinh Túy Bí Mật Vĩ Đại. Ông là tác giả của Bảy Kho Tàng, trong đó trình bày chu kỳ mở rộng của giáo lý (thuộc về con đường học thuật) của các học giả, và ông biên soạn Bốn Phần của Tâm Yếu, trong đó trình bày giáo lý sâu sắc của các yogi. Ngoài ra ông còn viết Bộ Ba Nghỉ Ngơi, những giáo lý tối hậu trình bày không sai sót toàn bộ ý nghĩa toàn bộ những lời dạy vừa sâu vừa rộng; và cuối cùng, ông biên soạn Bộ Ba Giải Thoát Tự Nhiên, Bộ Ba Xua Tan Bóng Tối, cùng một loạt các tác phẩm khác, tất cả đều không thể phân biệt được với bài phát biểu cao quý của đức Kim Cang Trì chiến thắng. Trong số này, hai văn bản siêu phàm và sâu sắc nhất, phát lộ tất cả những điểm cốt yếu của trekcho, giáo lý Đại Toàn Thiện về tính thanh tịnh bản nguyên, là Kho Tàng Trân Bảo của Pháp Giới, Bản Tính Nền Tảng.

Kho Tàng Trân Bảo của Pháp Giới
là một chuyên luận xác lập dứt khoát mọi hiện tượng của luân hồi và niết bàn là pháp giới vĩ đại, tính giác đơn nhất. Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng áp dụng giáo lý này vào tâm trí của từng hành giả trong một trình bày có hệ thống trong các giai đoạn kế tiếp nhau, Là một hướng dẫn đặc biệt xuất sắc, nó thiết lập bốn nguyên tắc kim cương: sự không tồn tại của các hiện tượng, tính bình đẳng của các hiện tượng, hiện diện tự phát của các hiện tượng, và bản tính đơn nhất của các hiện tượng. Nếu hành giả đưa những nguyên tắc tương tự này vào tâm trí mình, họ sẽ dễ dàng thực hiện giáo lý này một cách tuần tự và có hệ thống.

Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng bình luận chung về ba lớp giáo lý của Đại Toàn Thiện: lớp tâm bên ngoài, lớp không gian bên trong, và lớp hướng dẫn cốt lõi bí mật. Đặc biệt, nó xác lập quan điểm tối hậu về lớp bí mật của những chỉ dẫn cốt lõi. Hạnh phúc, quả thực là những người chỉ cần nhìn thấy, nghe thấy, nhớ lại hoặc chạm vào văn bản này. Nếu trong số những chúng sinh may mắn đó có một số người, được phú cho những duyên nghiệp phù hợp, thực hành giáo lý này, thì chẳng nghi ngờ gì, họ sẽ đạt đến trạng thái hợp nhất trong một đời.27

Vì lý do này, để đáp ứng những yêu cầu nhiều lần, tôi sẽ viết một bản bình luận bằng lời về Kho Tàng Trân Bảo của Bản Tính Nền Tảng theo lời hướng dẫn truyền khẩu từ đạo sư vinh quang tối cao Lodro Gyatso của tôi. Vì mục đích này, tôi khấn nguyện và cầu xin thầy tôi, bản tiin của tôi, những vị hộ pháp và chủ nhân của giáo lý này, các daka, dakini và Hộ Pháp, hãy cho phép và hướng dẫn tôi.

Bản bình luận có bốn phần: một là giới thiệu về chuyên luận; hai, giải thích sâu rộng nội dung của văn bản, ba, hướng dẫn về những phẩm chất của những người có thể lĩnh hội được ý nghĩa của nó, và bốn, kết luận toàn thể luận văn.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
129
Điểm tương tác
12
Điểm
18
1. GIỚI THIỆU VỀ CHUYÊN LUẬN



Mục giới thiệu chia làm ba phần: giải thích tiêu đề của chuyên luận, bày tỏ lòng tôn kính của Longchenpa, và lời hứa biên soạn văn bản.



1. Tiêu đề

Tiêu đề tiếng Phạn của văn bản là Tathavaratnakosanama. Tựa đề tiếng Tây Tạng là Gnas lugs rin po chei mdzod cé bya ba.28 Dịch từng chữ, tathatva (gnas lugs) nghĩa là “bản tính nền tảng”, ratna (rinpoche) nghĩa là “trân bảo”, kosa (mdzod) nghĩa là “kho tàng”, và nama (ces bya ba) nghĩa là “tên”.29

“Bản tính nền tảng” phải được hiểu theo nghĩa “tính giác”, tâm trí giác ngộ tối thượng, pháp thân, vượt ngoài tầm chứng minh và bác bỏ, vượt trên chuyển động và biến đổi. Nó là phương thức tồn tại của mọi hiện tượng, là bản tính nền tảng sâu xa, bí mạt của chúng. Nó vượt ngoài luật nhân quả, vượt trên nỗ lực và hành động.

Văn bản này là một “kho tàng trân bảo” bởi vì, giống như từ một kho chứa ngọc như ý sẽ xuất hiện một dòng bất tận tất cả những gì người ta có thể mong ước, theo cách tương tự, nếu bản tính nền tảng của tâm trí, chân lý tối hậu và trí tuệ bản nguyên tự sinh, được chứng ngộ đúng như nó là, trạng thái cuối cùng và kết quả, những viên ngọc quý của 25 phẩm tính của kết quả, chẳng hạn như bốn thân và năm trí tuệ nguyên sơ, sẽ xuất hiện dễ dàng và tự nhiên. Mô tả tương tự cũng có thể được áp dụng cho nền tảng, con đường và kết quả. Bởi vì bản tính của nền tảng, đặc tính sáng ngời của tâm trí, nguyên sơ và tự nhiên được phú cho mọi phẩm chất tuyệt hảo của cả tồn tại và bình an, bản tính căn bản của nền tảng cũng là một kho báu quý giá.

Tương tự, trong giây phút hiện tại, vào thời điểm của con đường, nhờ kết quả chín muồi của việc gia trì sức mạnh tỉnh giác và nhờ năng lực giải thoát của những hướng dẫn tinh túy từ đạo sư mà trí tuệ bản nguyên nội tại không còn bị che giấu. Nó được đánh thức và xuất hiện trần trụi trong tâm trí người học trò may mắn, người ngay trong khoảnh khắc đó chứng ngộ bản tính nền tảng đúng như nó là. Theo đó, bản tính nền tảng, chói ngời của con đường cũng là một kho tàng trân bảo.

Cuối cùng, bởi vì tính giác tự nhận thức vỗ nhiễm, bản tính nền tảng được phú cho tính thanh tịnh hai phần, là pháp thân, báo thân và hóa thân, nên kết quả không thể tìm kiếm ở nơi nào khác. Nó an trú bất động và bất biến suốt ba thời như tính giác, nền tảng vĩ đại. Và vì nó giống như một kho báu quý giá nên kết quả cũng là một kho tàng trân quý.

Longchenpa bày tỏ lòng tôn kính

Lời tán thán ngắn gọn


Kính lễ Phổ Hiền vinh quang

Phổ Hiền được mô tả là vinh quang vì ngài đạt được vinh quang của pháp thân tối cao vì lợi ích của chính ngài và không bao giờ rời khỏi sự mở rộng tối thượng này, ngài sở hữu vinh quang hoàn hảo của ba thân tối cao vì lời ích của những người khác.Ngài là Phổ Hiền bởi vì, như vị đầu tiên của chư Phật, ngài là vị Phật pháp thân “toàn thiện”. Ngài là Phật trước sự xuất hiện của bất cứ vị Phật nào có chứng ngộ bình đẳng và trước sự xuất hiện của chúng sinh không có sự chứng ngộ như vậy.

Làm thế nào điều này xảy ra? Trong không gian nguyên sơ chung của cả luân hồi và niết bàn, được khuấy động bởi khí trí tuệ được phú cho mạng lưới ánh sáng ngũ sắc, tính giác xuất hiện trên nền tảng và các hình tướng của nền tảng hiển lộ. Ngay thời điểm đó, Phổ Hiền thấy rằng chúng là kinh nghiệm tự thân của chính mình. . Và như được nói:

Trong một khoảnh khắc, ngài nhìn thấy những phẩn tính cụ thể của chúng;

Trong một khoảnh khắc, ngài là vị Phật hoàn hảo.

Như vậy, Phật quả của ngài được phú cho sáu đặc điểm đặc biệt.30 Trong khoảnh khắc của một hành động giác ngộ hoàn hảo duy nhất, vị thế tôn Phổ Hiền nguyên thủy này, xuất hiện như bậc thầy của cả luân hồi và niết bàn, được giải thoát trong trạng thái nội tại của trí tuệ bản nguyên. Vì vậy, Phổ Hiền là người hướng dẫn hoàn hảo, với thẩm quyền bậc thầy, tiết lộ con đường nhanh chóng và sâu sắc chính xác như nó vốn là. Đối với ngài, Longchen Rabjam, tác giả của văn bản này, bày tỏ lòng tôn kính bằng cách nghỉ ngơi trong cái thấy, sự chứng ngộ tính bất khả phân trong tâm trí tuệ của họ, một trạng thái được khơi gọi qua niềm tin không lay chuyển của chính ông.

Nền tảng của Phổ Hiền là chân như, thực tại tối hậu của vạn sự. Sự trang hoàn của Phổ Hiền là phương diện hình tướng của của hiện diện tự phát, thứ không khuấy động từ nền tảng, xuất hiện như sự phô diễn của các hiện tượng. Tính giác của Phổ Hiền là trí tuệ bản nguyên tự khởi sinh, tâm giác ngộ tối thượng; nó là sự tỉnh giác, như lai tạng. Con đường Phổ Hiền là sự khám phá về bản tính nền tảng đúng như nó là, nói cách khác, tính giác tự sinh, xuất hiện nguyên thủy và và sự hiển lộ của nó trong thực tế. Đối với tất cả những điều này, Longchenpa, tác giả văn bản này, bảy tỏ lòng tôn kính với niềm tin không lay chuyển. Đây là lời dạy khẩu truyền từ vị thầy tối cao và vinh quang của tôi.

Tán thán chi tiết

Đức Phật đầu tiên,

Nền tảng của giác ngộ thực sự,

Vượt trên mọi thay đổi và hiện diện của chính nó,

Không gian của tinh túy kim cương, không thể phá hủy

Đây là bản tính của tâm trí,

Hoàn thiện tự nhiên vĩ đại.

Tôi không lấy gì và tôi không bỏ gì

Không có gì đến và chẳng có gì đi.

Như vậy tôi cúi đầu đỉnh lễ.

Không phụ thuộc vào bất cứ nguyên nhân và điều kiện mới nào, bản tính nền tảng, ngay từ đầu, đã là Phật quả thanh tịnh bản nguyên. Đây là giác ngộ thực sự, sự rộng mở nguyên thủy vĩ đại và tự do của nền tảng.

Tính giác, hiện diện tư nhiên như trí tuệ nguyên sơ bất biến, xuyên qua tính liên tục của thời gian, là Phật quả tự sinh khởi. Trong bối cảnh hiện tại, nó được coi là sự mở rộng tối thượng như kim cương bất hoại hay bản tính kim cương. Nó được xác lập như pháp tính, thực tại tối hậu, sự mở rộng kim cương tối thượng bất biến. Chính pháp tính này, không bị giới hạn và nghiêng về cực đoan hoặc phía nào,, là bản tính của tâm trí được phú cho bảy phẩm chất kim cương.31 Nó là, nói cách khác, sự hoàn thiện vĩ đại tự nhiên. Chính vì điều này mà tác giả bày tỏ lòng tôn kính theo cách cao siêu nhất bằng cách an trú trong sự chứng ngộ cái thấy của mình. Đây là dấu hiệu cho thấy đối tượng của sự tôn kính là tính giác, trí tuệ bản nguyên tự sinh, nề tảng cho sự hiển lộ của cả luân hồi và niết bàn.

Sự tôn kính đó được thể hiện như thế nào? Khi không có sự chấp nhận hay bác bỏ, không phóng chiếu cũng như tan biến các ý nghĩ, không đi cũng không đến, không có gì khuấy động từ địa tầng căn bản của pháp tính và chính khuôn mặt của tính giác, an trú như nền tảng, pháp thân, được hiện thực hóa. Trong bối cảnh này, chứng ngộ hoặc kinh nghiệm trạng thái này được mô tả là tỏ lòng tôn kính. Trí tuệ bản nguyên vĩ đại về tính bình đẳng, trong đó không tìm thấy ba phạm trù về chủ thể, đối tượng và hành động (vì chúng không tồn tại thực sự) ở đây tượng trưng cho người được bày tỏ lòng tôn kính.

Sáu câu đầu của bài thơ trên đề cập đến bản tính nền tảng tự sinh. Ba dòng còn lại mô tả con đường mà người ta hành thiền trên cùng nền tảng này. Về kết quả, vì sự ổn định đạt được trong tầng bậc căn bản của bản tính tối hậu chỉ đơn giản là một trường hợp cụ thể của sự vững vàng trong nền tảng, cần phải hiểu rằng nền tảng, con đường, và kết quả chỉ là tính giác mà thôi.

Lời hứa của Longchenpa về việc biên soạn văn bản

Sự mở rộng của bản tính không thể diễn tả được của mọi hiện tượng,

Đỉnh cao của mọi quan điểm và khác biệt với tất cả chúng,

Ý nghĩa siêu việt tất cả của Đại Toàn Thiện

Bây giờ tôi sẽ giải thích theo sự chứng ngộ của tôi.

Hãy lắng nghe!

Bản tính tuyệt đối của mọi thứ trong thế giới hiện tượng, dù của luân hồi hay niết bàn, là pháp tính: thực tại tối hậu tính giác không thể diễn tả và chẳng thể nghĩ bàn. Đó là tâm giác ngộ tối thượng, tính bao la sáng ngời của đại toàn thiện. Như giáo lý nói:

Không thể chạm vào bởi giáo lý tâm tạo tác của tám thừa,

Nó chính là đỉnh cao của thừa thứ chín, cái thấy của Đại Toàn Thiện.

Là chót đỉnh trong các quan điểm của chín thừa, Đại Toàn Thiện tuyên bố rằng tất cả, các hiện tượng trong luân hồi và niết bàn được bao gồm trọn vẹn và hoàn hảo trong không gian của trí tuệ bản nguyên tự sinh duy nhất vốn siêu việt tiến trình nhân quả và cố gắng nỗ lực. Nó không giống với tất cả các giáo lý tạo dựng tinh thần khác của tám thừa. Toàn bộ các phẩm tính của con đường và kết quả của những thừa thấp hơn này là biểu hiện của nó, được chứa đựng và tăng cường bên trong nó như hàng trăm dòng suối chảy bên dưới một cây cầu duy nhất. Đây là tính năng độc đáo và nổi bật của thừa Ati. Như đã nói trong Vua Sáng Tạo Tất Cả:

Nếu bạn hiểu bản chất của chính tôi, đấng tạo hóa tất cả,

Mọi thứ được coi là biểu hiện của tôi.

Khi tính giác, vốn vượt trên tiến trình nhân quả và nỗ lực tích cực được chứng ngộ, nó được coi là vượt trội hay siêu việt tất cả giáo lý của những thừa thấp hơn. Nó vượt ngoài các thực thể và đặc tính của chúng, vượt trên thường hằng và vô thường, vượt xa tồn tại và không tồn tại, giống nhau và khác nhau, vân vân. Nó nằm ngoài phạm vi của lời nói, quan niệm và biểu hiện. Khi nói rằng ông sẽ giải thích vì các đệ tử của mình, những chúng sinh may mắn được hướng dẫn, giáo lý sâu xa và rộng lớn này, đúng như ông đã chứng ngộ, tác giả văn bản hứa sẽ biên soạn, khuyến khích tất cả những ai là người bình thường đích thực, được phú cho những khả năng siêu việt và nhân duyên phù hợp, hãy lắng nghe ông. Điều này được nói trong bản bình luận vĩ đại về Bát Nhã Ba La Mật Đa tám ngàn dòng:

Những người nỗ lực với niềm đam mê to lớn vì lợi ích tha nhân

Không bao giờ chùn bước dù mạng sống bị đe dọa

Thành nhân, đang vác trên vai gánh nặng,

Không bao giờ chán nản từ bỏ nó.

Và:

Thánh nhân không hứa hẹn nhiều.

Nhưng khi họ cam kết thực hiện một nhiệm vụ khó khăn,

Thì giống như họ khắc nó lên một tảng đá.

Dù có thể chết, họ sẽ không chuyển sang một việc gì khác.

Như những đoạn này nói, các thánh nhân không bao giờ cho phép những việc khác làm họ chệch hướng khỏi những việc gì họ đã hứa.

Về mục đích bốn phần liên hệ với nhau trong chuyên luận của Longchenpa, chủ đề của nó là tính giác, tâm giác ngộ, nằm ngoài tính trình nhân quả và mọi cố gắng nỗ lực. Mục đích tức thời của nó là giúp những chúng sinh có năng lực cao nhất có được hiểu biết hoàn hảo về điều này. Mục đích tối hậu hay cuối cùng của nó là, trên cơ sở thực hành liên quan đến hiểu biết như vậy, để giúp các yogi đạt được mục tiêu của nó (cụ thể là bản tính nền tảng) và nhờ đó đạt được giải thoát. Mối liên hệ giữa ba yếu tố này đề cập đến thực tế là chúng nhất quán lẫn nhau, mỗi yếu tố sẽ dẫn đến yếu tố tiếp theo.
 

Prahevajra

Registered
Phật tử
Tham gia
6/6/16
Bài viết
129
Điểm tương tác
12
Điểm
18
2. GIẢI THÍCH MỞ RỘNG VỀ

CHUYÊN LUẬN CỦA LONGCHENPA



Mục này bao gồm một phần trình bày ngắn gọn, theo sau là phần trình bày chi tiết theo bốn chủ đề kim cương.

Cái thấy tối thượng và tinh túy

Thuộc về tâm trí, không gian, lớp hướng dẫn cốt lõi

Nằm trong sự không tồn tại, bình đẳng,

Hiện diện tự phát, bản tính đơn nhất.

Mỗi một trong số bốn thứ này lần lượt có bốn khía cạnh:

Những điểm chính yếu của chúng được tiết lộ, tinh túy hóa, bao gồm,

Khi đó có được niềm tin rõ ràng về chúng.

Đoạn thơ này chứng tỏ cái thấy tinh túy, tối thượng của lớp tâm trí bên ngoài, lớp không gian bên trong, và lớp chỉ dẫn cốt lõi bí mật, tức là cái thấy của Đại Toàn Thiện, được tóm lược trong bốn nguyên tắc vĩ đại này, hay các “samaya”.32 Cái thấy này giống như bơ được khuấy từ sữa của thành Pháp. Đầu tiên, các hiện tượng là “không tồn tại”, vì chúng được xác lập rằng chúng là trống không hay vô ngã. Thứ hai, các hiện tượng là bình đẳng hoặc ngang bằng, vì chúng là vô giới hạn và không ngả về bên này hay bên kia. Thứ ba, các hiện tượng xuất hiện là “hiện diện tự phát”, bởi vì chúng không được tạo dựng ra ngay từ đầu, hiện diện bên trong và là của chính chúng. Cuối cùng, các hiện tượng có một “bản tính đơn nhất” trong đó chúng được xác lập không gì khác hơn là tính giác tự sinh khởi. Trong bốn samaya vĩ đại này, cái thấy cuối cùng của Đại Toàn Thiện được tập hợp lại. Hơn nữa, mỗi samaya này phô bày bốn khía cạnh phụ. Đầu tiên, những điểm chính yếu của chúng được “tiết lộ”, có nghĩa chúng được làm sáng tỏ một cách rộng rãi là chân như. Những điểm chính yếu này, được tiết lộ rộng rãi, sau đó được “tinh túy hóa” thành trí tuệ bản nguyên tối hậu, tự sinh. Sau đó, chúng được “gom vào” trong tính giác không sinh siêu việt tư tưởng. Cuối cùng, đạt được một “niềm tin chắc chắn, rõ ràng” hay chắc chắn rằng các hiện tượng nằm ngoài mối quan hệ nhân quả cũng như các hành động và nỗ lực có chủ ý.. Sự phân biệt bốn trường hợp cụ thể cho mỗi một trong số bốn samaya có nghĩa là luận thuyết này bao gồm mười sáu phần giáo lý.

Ngắn gọn, mọi thứ trong luân hồi và niết bàn chỉ đơn giản là sự phô bày và năng lực sáng tạo của trí tuệ bản nguyên, tự sinh khởi, duy nhất. Thậm chí chẳng có một hạt vi trần nào tồn tại ngoài nó. Năng lực sáng tạo và phô diễn của trí tuệ bản nguyên tự sinh phát sinh ra như sự trang hoàng của cùng trí tuệ này.Bất cứ thứ gì biểu lộ đều chỉ là sự tự kinh nghiệm của trí tuệ bản nguyên, nó không có sự tồn tại ngoài thứ này. Bằng phương tiện của nhiều ví dụ khác nhau minh họa chân lý này, những điểm chính yếu của bốn mật nguyện samaya vĩ đại được “tiết lộ” và giải thích. Sau đó, những điểm được tiết lộ tương tự này được tinh túy hóa như trí tuệ bản nguyên tự sinh, tầng nền tảng của tính bình đẳng. Bất cứ thứ gì xuất hiện sau đó đều được bao gồm trong kinh nghiệm về sự mở rộng trần trụi của trí tuệ tự sinh, hiện diện tự phát. Cuối cùng, một niềm tin rõ ràng được đạt tới, nói cách khác, nó được giải quyết dứt điểm rằng những hình tướng hiện diện tự nhiên không gì khác chính là trí tuệ bản nguyên tự sinh khởi. Mặc dù có nhiều sự phân biệt như vậy, nhưng thật ra tất cả chúng đều được tập hợp trong không gian của trí tuệ nguyên sơ duy nhất. Bốn mật nguyện này có thể được hiểu rõ ràng nhờ ba yếu tố: một ví dụ, ý nghĩa của nó, và một dấu hiệu chứng minh. Như được nói trong Vua Sáng Tạo Toàn Thể:

Nếu bạn muốn hiểu chắc chắn ý nghĩa này,

Hãy lấy bầu trời làm ví dụ.

Ý nghĩa là bản tính không sinh của các hiện tượng.

Thực tế rằng tâm trí không bị ngăn trở là một dấu hiệu chứng minh.

Do vậy những thứ giống như không gian được minh họa

Bằng bầu trời, đóng vai trò la một ví dụ.

Và:

Mọi hiện tượng là tâm trí giác ngộ.

Mọi vật đều có thể so sánh với không gian;

Điều này cũng được lấy làm ví dụ cho tâm giác ngộ,

Vì trong tự thân nó có bản tính như bầu trời.

Như văn bản này nói, giống như vũ trụ và cư dân của nó xuất hiện trong chiều hướng không gian, mọi vật trong cả luân hồi và niết bàn đều xuất hiện trong một phạm vi rộng lớn của tính giác tự sinh, bên ngoài không có một phần tử đơn độc nào tồn tại. Mọi hiện tượng đều khởi lên từ bên trong tâm giác ngộ tối thượng. Chúng xuất hiện trong tâm trí; chúng được tạo ra bởi tâm trí; nhưng tâm trí giác ngộ này chẳng được tạo ra bởi ai cả. Như Vua Tạo Hóa đã tuyên bố:

Tâm trí giác ngộ tạo ra mọi thứ nhưng chính nó thì không được tạo.

Một diễn giải chi tiết

Văn bản này được cấu tạo theo bốn chủ đề kim cương vừa đề cập: không tồn tại, bình đẳng, hiện diện tự phát, và bản tính duy nhất.

Chủ đề kim cương thứ nhất: Không Tồn Tại

Chúng ta bắt đầu bằng việc xác lập chủ đề đầu tiên trong bốn, đó là về sự không tồn tại. Trong bài giảng, kết thúc với một tuyên bố về tên 34 của chủ đề kim cương, có bốn phần: những điểm chính yếu (của chủ đề) được tiết lộ, tinh túy hóa, và bao gồm, sau đó đạt được một niềm tin rõ ràng liên quan đến chúng.

Phần một: những điểm chính yếu được tiết lộ

Phần này bao gồm 18 khổ thơ. Đầu tiên, các hiện tượng được chứng minh là không tồn tại thực sự cùng với các đặc tính.

1. Đầu tiên tôi chứng minh nguyên tắc không tồn tại.

Không tồn tại nghĩa là sự vắng mặt của bản thể nội tại.

Trong sự mở rộng vĩ đại của tâm trí giác ngộ, giống như không gian,

Bất cứ thứ gì xuất hiện đều không có bản thể nội tại.

Vạn sự thuộc về xứ sở của thế giới hiện tượng, luân hồi và niết bàn, chỉ là sự quy kết của tâm trí mê lầm. Quả thực, ngay từ đầu chúng chưa bao giờ tồn tại; bây giờ văn bản chứng minh bản tính nền tảng này của chúng được thành lập như thế nào.

Mọi hiện tượng về bản chất đều trống rỗng từ nguyên thủy và không có cái ngã. Tất cả những tạo tác khái niệm liên quan đến chúng đều im lặng. Các hiện tượng là không sinh và cách thức chúng trống rỗng bản thể nội tại là như sau. Trong tính giác, trạng thái bình đẳng, trống rỗng và tự nhận thức, tâm giác ngộ tối thượng giống như không gian, một không gian rộng mở, bao trùm tất cả, không giới hạn, không bên này cũng chẳng bên kia, những hiện tượng vô tận của vũ trụ bên ngoài và những chúng sinh mà nó chứa đựng, ngay trong khoảnh khắc xuất hiện của chúng, đã không có bản thể nội tại. Cúng là một sự pho diễn không có nền tảng, không có gốc rễ, một trạng thái cởi mở không có bất kỳ tham chiếu khách thể nào. Như Longchenpa sẽ nói sau trong khổ thơ thứ năm:

Vì vậy hãy hiểu rằng mọi hiện tượng

Xuất hiện trong tâm trí đều không tồn tại.

Thứ hai, sự không tồn tại của các hiện tượng được xác minh bằng một ví dụ và ý nghĩa mà nó biểu hiện.

2. Trong sự mở rộng bao la, tử cung của không gian,

Vũ trụ, chúng sinh nó chứa đựng,

Và bốn nguyên tố trong dòng chảy không ngừng

Chỉ là những hình tướng trống rỗng không có bản tính cố hữu,

Mọi sự xuất hiện trong tâm trí giác ngộ

Đều chỉ là nhau.

Như ví dụ này cho thấy, trong không gian bao la như tử cung (không có trung tâm, chu vi, bên ngoài, bên trong, thiên đỉnh, thiên đế), mọi hệ thống của tam đại thiên thế giới, những chúng sinh sống trong đó, cùng với bốn yếu tố, lúc đầu thành hình, sau đó tồn tại, để rồi cuối cùng bị tiêu diệt bởi bảy đám cháy và một trận lụt. Trong bất cứ thời kỳ nào của kalpa (kiếp), một vũ trụ tồn tại (hình thành, tồn tại, hủy diệt, hoặc trống rỗng) không gian hỗ trợ nó trống rỗng. Nó không có bản thể nội tại. Tương tự, mọi hiện tượng, vũ trụ và chúng sinh được hỗ trở bởi cùng một không gian này, tất cả đều chuyển động và tiến hóa, tất cả đều trải qua cùng những thời kỳ thành, trụ, hoại, và không, cũng không có ngay cả sự tồn tại thực sự của các phần tử nhỏ nhất. Các hiện tượng hỗ trợ và cái được hỗ trợ đều không tồn tại. Chúng trống rỗng. Giống như những hình tướng trống rỗng, không tồn tại mà vẫn xuất hiện này, toàn bộ đều không có cả phần tử nhỏ nhất được phú cho sự tồn tại thực sự, toàn thể thế giới hiện tượng, cả luân hồi và niết bàn, xuất hiện trong tính bao la của tâm giác ngộ tối thượng hay tính giác tự sinh, dường như có thật nhưng thực tế lại không tồn tại. Như chúng ta tìm thấy trong Vua Sáng Tạo Toàn Thể:

Giống như trong thế giới hiện tượng, vũ trụ và chúng sinh,

Chẳng có gì mà không ở bên trong không gian rộng mở bao la,

Sự mở rộng bao la của tâm giác ngộ cũng vậy:

Chư Phật, chúng sinh, vũ trụ và mọi thứ bên trong, đều ở đó.

Tất cả đều hiện diện không thể phân chia trong cùng bản tính thanh tịnh này,

Chẳng có sự quy kết nào về tồn tại hay không tồn tại.

Thứ ba, các hiện tượng xuất hiện trong tính giác đều không có bản chất có sẵn.

3. Những phản chiếu huyễn ảo, dù chúng xuất hiện thế nào,

Đều không thật, trống rỗng trong bản tính.

Tương tự, mọi sự vật trong thế giới hiện tượng,

Ngay trong khoảnh khắc xuất hiện,

Không bao giờ hoạt động ngoài tâm trí giác ngộ,

Chúng không tồn tại thực sự.

Một nhà ảo thuật, bậc thầy trong nghề của mình, có khả năng tạo ra cho khán giả của mình một màn trình diễn kỳ ảo đa dạng: các hình thức ảo ảnh đẹp đẽ, tuyệt diệu để xem, về các hòn đảo và vùng đất của một thế giới rộng lớn cùng với mọi chúng sinh sống trong đó: con người, ngựa, gia súc, vân vân. Đồng thời người đó biết rằng tất cả những hình thức dường như có thật này chưa bao giờ tồn tại trong sự thật và về bản chất là trống rỗng và không có một chút thực thể nào. Tương tự, những sự vật biểu hiện trong không gian rộng lớn của tính giác tự nhận thức bao trùm toàn thể, những sự vật bên ngoài và bên trong của thế giới hiện tượng, luan hồi và niết bàn, tất cả, ngay trong khoảnh khắc xuất hiện của chúng, đều không có căn cứ và chẳng có gốc rễ. Chỉ bởi vì người ta bám dính vào cái ngã hiện tượng (nguyên nhân) và vào những suy nghĩ lan man (điều kiện) mà những thực thể xuất hiện tách biệt khỏi tính giác bao trùm toàn thể, nên chúng dường như sinh khởi giống cái gì đó khác biệt, mặc dù chúng là tính giác đang tự kinh nghiệm chính nó.

Bất kể thứ gì xuất hiện đều chẳng mảy may khác biệt với tâm giác ngộ tối thượng, với tính giác rộng mở, không chướng ngại, tự nhận thức, trạng thái bình đẳng thoát khỏi mọi cấu trúc khái niệm. Thậm chí chẳng có một phần tử nhỏ nhất của cái gọi là hiện tượng được phú cho các đặc tính, tồn tại tách rời và khác biệt với tính giác tự nhận thức. Như chúng tôi tìm thấy trong Vua Sáng Tạo Vạn Vật:

Thế giới với những cư dân của nó, thế giới hiện tượng

Mọi thứ trong cả luân hồi và niết bàn

Về bản chất, không bao giờ rời khỏi tâm giác ngộ.

Thứ tư, những hình tướng hiện tượng không rời khỏi tính giác hiện diện tự phát.

4. Những hình ảnh trong mơ, không bao giờ hoạt động ngoài trạng thái ngủ,

Ngay trong khoảnh khắc chúng được nhìn thấy, hoàn toàn không có thật

Tương tự, toàn thể thế giới hiện tượng,

Cả luân hồi và niết bàn,

Không bao giờ vận động ngoài tâm trí giác ngộ.

Nó không có thật, không có các đặc tính.

Những đối tượng nhìn thấy trong mơ: núi, đá, nhà cử, vân vân, thế giới bên ngoài và những sinh vật sống trong đó (chính mình và người khác) được nhận thức riêng biệt và rõ ràng, và (trong mơ) làm nảy sinh cảm giác hạnh phúc, nỗi buồn, hoặc thờ ơ. Người ta bị mê hoặc trong việc bám chấp vào chúng như thế chúng là hình tướng (gặp được) ban ngày. Những giấc mơ nảy sinh trong trạng thái ngủ, trong đó chúng tự diễn ra và cuối cùng lắng xuống. Vì chúng không tồn tại bên ngoài trạng thái ngủ nên hầu như không cần thiết phải chỉ ra rằng những thứ người ta nhìn thấy trong giấc mơ không có sự tồn tại trước đó.Quả thực, ngay cả trong giây phút hiện tại, khi chúng xuất hiện với người đang ngủ, chúng hoàn toàn không có thực tại. Điều này cũng tương tự với thế giới hiện tượng, luân hồi và niết bàn. Chúng không bao giờ rời xa tâm giác ngộ tối thượng, một trạng thái vượt ngoài mọi chuyển động và biến đổi. Tất cả những gì chúng sinh trong sáu cõi nhận thức không bao giờ nằm ngoài không gian của tính giác. Điều tương tự cũng đúng với các hiện tượng của nhận thức thanh tịnh, ba thân, và tương tự. Chúng không bao giờ ra khỏi sự khuyếch trương của tính giác, vốn tự nó thoát khỏi sự trói buộc của người nhận biết và đối tượng được biết. Vì lý do này, chúng hoàn toàn không phải là những thực thể có thật trong tính đúng đắn của chúng, được phú cho những đặc trưng riêng. Như được nói trong Gặp Gỡ Trong Ba Thân:

Chúng sinh trong sáu cõi, sinh ra theo bốn cách,

Khởi nguồn từ pháp giới, và quay lại đó.

Mặc dù người nhận biết và đối tượng được nhận biết

Tâm trí và đối tượng, cả hai xuất hiện rất rõ ràng,

Pháp giới là người nhận biết

Và pháp giới là đối tượng được nhận biết

Ngoài ra:

Tất cả những thứ chư Phật trong ba thời hiểu rõ

Phát sinh từ pháp giới và được gọi là pháp giới.

Thứ năm, bất cứ thứ gì xuất hiện như một đối tượng bên ngoài đều không tồn tại tách rời khỏi tâm trí.

5. Mặc dù các hiện tượng xuất hiện trong tâm trí,

Chúng không phải là tâm trí và không tách rời khỏi tâm trí.

Chúng không tồn tại

Tuy nhiên, giống như ảo ảnh, xuất hiện rõ ràng.

Chúng không thể diễn tả, và không thể tưởng tượng.

Chúng thách thức sự biểu lộ.

Do đó hãy hiểu rằng mọi hiện tượng

Xuất hiện trong tâm trí là không tồn tại

Ngay trong khoảnh khắc chúng được nhận biết.

Những đối tượng thường được nhận thức là đối tượng của năm giác quan, nói cách khác, vũ trụ và chúng sinh mà nó bao gồm, xuất hiện rõ ràng trong tâm trí của từng cá nhân. Tuy nhiên những hình tướng này không phải là tâm trí của chúng. Longchenpa nói rằng nếu các hình tướng là tâm trí của chúng thì hậu quả không mong muốn sẽ là nếu các vật thể được cảm nhận là có màu sắc và hình dậng thì tâm trí của họ cũng sẽ có màu sắc và hình dạng tương tự. Ví dụ, nếu một ngọn núi xa xôi bị đốt cháy thì tâm trí của họ cũng sẽ bốc cháy. Nếu tâm trí của họ chuyển động thì ngọn núi cũng sẽ chuyển động. Lý luận có thể đưa ra vô số lời bác bỏ thuộc loại này.

Trong Gương Tâm của Phổ Hiền có nói: “Những người nói rằng các hình tướng là tâm trí thì trái ngược với tôi”. Chúng tôi tìm thấy trong mật điển Hiện Thân Giáo Lý Tối Hậu của Đại Toàn Thiện:

Kẻ thiếu trí không hiểu lời dạy sau cùng

Nói rằng những gì xuất hiện là tâm trí của chính họ.

Nhưng đây là lấy đồng thay vàng.

Điều này có thể bị phản đối vì cho rằng nó mâu thuẫn với những kinh điển nói các hiện tượng là tâm trí. Truy nhiên, chuyện này không phải như vậy, vì khi người ta khẳng định các hiện tượng là tâm trí, nghĩa là chúng không tách rời khỏi trạng thái của tính giác. Điều này được nói ra để chỉ ra rằng các hiện tượng khởi lên như vật trang trí cho sự phô diễn và năng lực sáng tạo của tính giác. Nó giống như dùng từ mặt trời để ám chỉ ánh sáng mặt trời. Những hình tướng không phải là tâm trí, nhưng chúng cũng không khác tâm trí. Khi bản tính của chúng được xác lập dứt khoát, những thứ bên ngoài rõ ràng được biểu lộ giống như những ảo ảnh huyễn thuật hoặc hình ảnh trong mơ. Về phía mình, chúng không có một chút tồn tại độc lập nào với tâm trí. Khi các hiện tượng, dường như khác với tâm trí, được chứng minh là không có ngã, các phần tử vô cùng nhỏ không thể phân chia của chúng cũng bị loại bỏ. Chúng được hiển thị là trống rỗng và không tìm thấy gì. Tuy nhiên, điều này chẳng có nghĩa là các hiện tượng đơn giản là không có gì hết, như khi người ta nói không có trà, không có nước, hay khi lửa tắt và nước cạn, hay như sừng thỏ, vân vân. Ngược lại, các hiện tượng xuất hiện rõ ràng mặc dù chúng không tồn tại. Chúng giống như những ảo ảnh huyễn thuật. Như được nói:

Bản thể của tính không là tịnh quang.

Tiềm năng nhận thức của tính sáng là không bị ngăn trở.

Xuất hiện rõ ràng nhưng không tồn tại, các hiện tượng dường như tồn tại và có thật. Tuy nhiên trong chân lý, ngay thời khắc vừa xuất hiện, chúng chỉ là ảo tưởng, ảo ảnh huyễn hoặc. Vào chính khoảnh khắc chúng dường như tồn tại thực sự, chúng vượt ngoài tám cực đoan khái niệm.35 Chúng không thể diễn tả được, không thể suy lường được và không thể diễn tả được. Chúng vô căn cứ và không có gốc rễ. Chúng chỉ là một trạng thái mở rộng, không có bất kỳ tham chiếu nào.

Bây giờ khi nói rằng các hiện tượng không phải là tâm trí, cũng không khác với tâm trí, cái tâm trí đang được nói đến không nên hiểu là tâm trí giác ngộ tối thượng. Điều này được thể hiện rõ ràng từ giáo lý của Longchenpa. Ví dụ ông nói:

Ngày này, một số người tuyên bố đã hiểu Đại Toàn Thiện và nói rằng các hình tướng là tâm trí. Đây là một sai lầm quan trọng xuất phát từ việc không phân biệt đúng đắn giữa tâm trí bình thường và tâm trí giác ngộ, vốn không giống nhau. Tâm trí bình thường bao gồm tám tâm bất tịnh cùng với các tâm sở khởi lên ngẫu nhiên trong ba cõi. Ngược lại, tâm trí giác ngộ (bản tính của tâm trí) chính là tính giác, trí tuệ tự sinh, không tồn tại thực sự và không có các đặc tính. Nó là sự mở rộng tối thượng của cả luân hồi và niết bàn. Nói rằng toàn thể thế giới hiện tượng, phát sinh như năng lực sáng tạo hay sự phô diễn của tâm trí giác ngộ, thì tâm giác ngộ ở đây là lấy tên của kết quả đặt cho nguyên nhân. Khi đã hiểu rằng những hình tướng của luân hồi và niết bàn là năng lực sáng tạo của tính giác, người ta hiểu rằng tính giác không tồn tại như luân hồi hay niết bàn mà đúng hơn là nền tảng không ngừng biểu lộ ra của chúng.

Đây là những lời 36 của chính Longchenpa. Ông tiếp tục:

Khi nhận ra rằng các đối tượng, xuất hiện rõ ràng nhưng không tồn tại, không phải là tâm trí cũng không tách rời khỏi tâm trí, rằng chúng trống rỗng, sáng tỏ, không có nền tảng, và thanh tịnh bản nguyên, thì cùng những hình tướng như vậy sẽ lắng xuống. Vào thời điểm đó, khi năng lực sáng tạo không có nền tảng và sự phô diễn của tính giác tự nhiên tan biến, nó sẽ giống như lúc người ta tỉnh dậy từ một giấc mơ. Tính giác tự nhận thức không ra ngoài không gian căn bản khởi nguyên của pháp thân bất biến, và người ta hiểu rằng các thực thể và đặc tính của chúng là thanh tịnh.37 Ngày nay, tôi là người duy nhất phân biệt được điều này. Chẳng ai khác làm được. Một số người nói rằng các hiện tượng là tâm trí; một số nói chúng khác với tâm trí, và ngoài hai lựa chọn này, không có gì khác được nói đến.

Longchenpa cũng nói trong Kho Tàng của Pháp Giới:

Ngày nay một số con bò bị câm tuyên bố thực hành Ati.

Họ nói rằng các suy nghĩ chuyển động là tâm trí giác ngộ.

Những người ngu này ở trong bóng tối lớn

Xa rời Đại Toàn Thiện Tự Nhiên.

Nếu họ không biết năng lực sáng tạo khác như thế nào

Với cái đến từ năng lực sáng tạo này

Làm sao họ có thể biết được tâm trí giác ngộ?

Trong phần tự bình luận, khổ thơ này có phần giải thích sau:

Về năng lực sáng tạo của tính giác, tóm lại, khi hình tướng của một đối tượng xuất hiện sáng tỏ và rõ ràng bên trong tính giác, giống hình phản chiếu trong một tấm gương, năng lực sáng tạo của tiềm năng nhận thức là loại hiểu biết trần trụi, trong trẻo và không tích cực nhận thức các đối tượng. Năng lực sáng tạo kiểu này cần thiết tiếp diễn liên tục. Khi năng lực sáng tạo phát sinh và tính giác không rời khỏi tầng bậc nền tảng tịnh quang, hoạt động nhận biết sẽ không đi lạc vào đối tượng. Năng lực sáng tạo chỉ được nói đến từ quan điểm biểu hiện không ngừng của nó. Trên thực tế, năng lực sáng tạo và tính giác không phải là hai thứ tách biệt. Hoạt động nhận biết đi lạc vào đối tượng của năng lực sáng tạo được giải thích là sự pho diễn của chính năng lực sáng tạo đó. Mặt khác, đây không phải là trí tuệ bản nguyên tự sinh, bời vì trừ khi nó được chế ngự bằng những phương tiện thiện xảo, nếu không nó sẽ tạo ra nghiệp và phiền não, dẫn đến luân hồi. Hơn nữa, hoạt động khám phá và phân biệt rõ ràng của hiểu biết không vượt ngoài trạng thái luân hồi bị chi phối bởi người nhận thức và đối tượng được nhận thức. Như được nói trong Vua Sáng Tạo Toàn Thể:

Trí tuệ bản nguyên, tự sinh, là cái biết nguyên thủy.

Nhưng “trí tuệ bản nguyên” nhận biết một đối tượng

Phát sinh từ đối tượng đó thì không phải là tự sinh.

Hơn nữa, trong thừa phổ thông có nói:

Tâm và các nhân tố tinh thần là những nhận thức

Gán sự tồn tại vào tam giới.

Và Trần Na cũng nói:

Tư tưởng, trạng thái vô minh này,

Khiến chúng ta rơi vào đại dương của luân hồi.

Trong phần tự bình luận về Kho Tàng của Bản Tính Nền Tảng,38 Longchenpa cũng nói:

“Năng lực sáng tạo” là năng lực của tính giác, qua đó luân hồi và niết bàn biểu lộ riêng lẻ. Nó giống như ánh sáng mặt trời ban ngày làm cho hoa sen nở ra, và hoa huệ nở về đêm khép lại. “Phô diễn” chỉ đơn giản là tính giác hiển lộ qua sự tỏa sáng của chính nó giống như một ngọn lửa hiển thị qua ánh sáng mà nó tỏa ra, và mặt trời (hiện ra) thông qua ánh sáng của chính nó. “Vật trang trí” ám chỉ thực tế là khi bất cứ thứ gì xuất hiện và được nhận biết đầy đủ, hình tướng này là một vật trang trí cho tính giác vốn tự sinh. Nó giống như cầu vồng, mặt trời, mặt trăng, các hành tinh và ngôi sao, là những vật trang trí cho chính bầu trời.

Vì tất cả những lý do này, nên hiểu rằng mọi hiện tượng xuất hiện trong tâm trí không tồn tại ngay từ khoảnh khắc đầu tiên chúng được nhận biết.

Thứ sáu, tính giác không tồn tại như bất cứ thứ gì.

6. Giống như các đối tượng bề ngoài về bản thể là không tồn tại

Chủ thể, tâm trí giác ngộ cũng vậy

Giống như không gian, không có tồn tại về bản chất của nó.

Không thể diễn tả, không thể suy lường và không thể diễn tả

Đó là điều mà bạn nên hiểu.

Giống như những ảo ảnh huyễn thuật, không nền tảng, không gốc rễ của vũ trụ và nội dung sống động của nó, những đối tượng xuất hiện của sáu thức, phát sinh như năng lực sáng tạo của tính giác, chẳng ra ngoài trạng thái không tồn tại. Chủ thể (tâm trí giác ngộ), tự nó là nền tảng cho sự biểu hiện của thế giới hiện tượng, luân hồi và niết bàn, cũng giống như vậy. Nó không có sự tồn tại nào hết. Nó như không gian. Vua Sáng Tạo Tất Cả tuyên bố:

Tâm trí giác ngộ có bản tính như không gian,

Và mọi thứ là tâm trí giác ngộ.

Một ví dụ phục vụ cho tất cả.

Như không gian cũng là bản tính của các hiện tượng.

Như trong văn bản này nói, tâm giác ngộ giống như không gian. Nó không sinh, không trụ, không diệt. Nó vượt ngoài tám khái niệm cực đoan, ba mươi hai quan niệm sai lầm, vân vân. Do đó, cần phải hiểu rằng nó là không thể diễn tả được, không thể suy nghĩ được và không thể trình bày được.

Thứ bảy, cách thức mà tính giác không tồn tại.

7. Bởi vì trong trí tuệ bản nguyên tự sinh khởi,

Tinh hoa tối thượng,

Không có nhân chẳng có quả,

Vực thẳm bao la của luân hồi được vượt qua.

Bởi vì chẳng có tốt hay xấu,

Nên luân hồi và niết bàn đều giống nhau.

Bởi vì không sai lệch cũng chẳng che chướng,

Ba hiện hữu đều được hiểu rõ ràng.

Bản tính nền tảng, tịnh quang tinh hoa và tối thượng, rộng mở, không chướng ngại, là trí tuệ bản nguyên tự sinh. Nó thoát khỏi các hiện tượng quy ước về nguyên nhân và kết quả của chúng, và giống như không gian, nó thoát khỏi mọi tạo tác khái niệm. Đây là lý do vì sao vực thẳm của những kinh nghiệm ảo tưởng, niềm vui và nỗi buồn của luân hồi, được vượt qua ngay từ đầu. Sự xuất hiện của luân hồi xảy ra qua việc biểu hiện không ngừng của nhân và quả. Nhưng vì trong chính bản chất của tính giác không có nguyên nhân hay kết quả nào được tìm thấy nên không có sai lệch, không có che chướng, không có tốt cũng chẳng có xấu. Do vậy, bất kể cả hiện tượng luân hồi và niết bàn xuất hiện như thế nào, chúng đều giống nhau, có trạng thái bình đẳng, trong bản tính của tính giác. Như đã nói trong Tính tức thời trực tiếp của Tính Giác:

Trong sự mở rộng tối thượng, thật và không thật là như nhau.

Trong sự mở rộng tối thượng, chư Phật và chúng sinh là như nhau.

Trong sự mở rộng tối thượng, tương đối và tuyệt đối là như nhau.

Trong sự mở rộng tối thượng, xuất sắc và khiếm khuyết là như nhau.

Trong tính bao la quảng đại của sự mở rộng tối thượng, cao và thấp đều như nhau.

Sự xuất hiện của luân hồi và niết bàn chưa bao giờ tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào. Chúng bình đẳng về trạng thái. Tuy nhiên, vì thế chúng đã sinh khởi trong tính giác (cái mà trong tự thân không tồn tại như bất cứ thứ gì cả), và dù chúng duy trì trong đó thế nào đi nữa, chúng cũng không tồn tại; chúng bình đẳng trong sự mở rộng và tự do nguyên thủy. Trạng thái an trú trong cảnh giới tỉnh giác như vậy được gọi là Phật quả. Tuy nhiên, việc này không hàm ý rằng có một sự cải thiện đã xảy ra, bởi vì người ta không bao giờ rời xa bản tính tối thượng giống như không gian. Vì vậy, do không có sai lệch hay che chướng nào xảy ra, nên tất cả các hình tướng ảo tưởng của ba cấp độ tồn tại được hiểu rõ ràng chỉ là tính giác, thứ mà tự thân không có nền tảng và gốc rễ. Như đã nói trong Cảnh giới Chiếu Sáng Toàn Thể:

Trong một cảnh giới duy nhất của đại viên mãn

Sai lệc và không sai lệch chẳng phải là hai thứ khác biệt

Sai lệch là hoàn toàn thanh tịnh trong bản chất.

Và:

Cái thấy, thiền định, hành động và kết quả

Cả bốn điều này ngay từ đầu

Là trí tuệ bản nguyên tự sinh.

Không có sai lệch và không có che chướng

Xuất hiện do tập hợp các nguyên nhân và điều kiện.

Thứ tám, tính giác siêu việt giáo lý của các thừa thấp hơn và thoát khỏi các đặc trưng khái niệm của chúng.

8. Trong bản tính của tâm trí, giác ngộ, giống như không gian,

Không có các mặt, không phương hướng, không chia tách.

Trong đó không có cái thấy, không có thiền định,

Và không có thệ nguyện để tuân thủ.

Trong đó không có hoạt động nỗ lực;

Không có bức màn nào che chắn trí tuệ nguyên thủy.

Không có tu tập về nền tảng, không có con đường để đi qua.

Không có “thứ vi tế”;

Vì (thô và tế) không phải là hai,

Không có liên kết nào giữa chúng.

Quy kết về tồn tại hay không tồn tại đều bị siêu vượt;

Như vậy không có tốt hay xấu.

Tất cả là một sự mở rộng, trong đó như trên một hòn đảo vàng,

Không có sự khác biệt.

Bản tính tự sinh khởi của tâm trí,

Giống như không gian phi hiện hữu,

Bất chấp sự mô tả và biểu lộ.

Tính giác tối thượng, tự sinh, siêu việt giáo lý của các thừa thấp hơn. Trong chiều sâu của không gian, không có trên hay dưới, không có trung tâm hay chu vi. Cũng giống như vậy, bản tính của tâm trí, tâm giác ngộ vô thượng, hiện hữu giống như không gian, không có cấu trúc khái niệm. Như được nói trong Vua Sáng Tạo Toàn Thể:

Bản tính của tôi giống như không gian,

Ví dụ áp dụng cho mọi thứ

Trong không gian thanh tịnh không có sự cố gắng;

Trong không gian thanh tịnh không có gì để cố gắng vì nó.

Khôn gian hoàn toàn vượt ngoài mọi hành động, nỗ lực và cố gắng.

Như Palgyi Yeshe 39 đã nói:

Tính giác, tự nhận thức và hiện diện tự phát,

Vượt ngoài tâm trí.

Bản tính của tâm trí

Là không gian vượt ngoài cả trung tâm và chu vi.

Nó không thể được nhận biết bằng tám thức.

Đó là bản tính của tính giác tự sinh.

Như điều này cho thấy, tâm giác ngộ tối thượng như không gian thì không có các bên hay chiều hướng, không có nhị nguyên hay bất nhị, vân vân. Nó thoát khỏi mọi đặc tính khái niệm và đã như vậy ngay từ đầu. Vua Sáng Tạo Toàn Thể nói:

Bời vì hình dạng của tôi thâm nhập tất cả,

Từ đâu không có cái gọi là nhị nguyên.

Vì tôi là trí tuệ nguyên sơ tự sinh ngay từ đầu,

Chẳng có gì nhờ đó tôi được xác nhận.

Giống vậy, tâm giác ngộ tối thượng không thể được phân biệt thông qua bất cứ quan điểm nào. Nó không thể được tu luyện qua bất cứ loại thiền định (tạo tác) nào. Đúng như Vua Sáng Tạo Toàn Thể tuyên bố:

Tương tự, tôi, tâm trí giác ngộ, bản thể và tác nhân trong mọi thứ,

Siêu việt mọi phạm vi và đối tượng của kinh nghiệm.

Cho nên, ngay từ đầu, không có cái nhìn thấy tôi

Và chẳng có gì để thiền.

Vì, như những văn bản này ngụ ý, tính giác không có bất cứ sự tồn tại nào, khi các mật nguyện về không có gì để nắm giữ được hiện thực hóa,40 các giai đoạn phát sinh và thành tựu, được phú cho những đặc tính, không còn cần thiết nữa. Không có giới nguyện tư tưởng nào cần tuân thủ, không có hoạt động nào cần thực hiện với nỗ lực cao độ. Không có kết quả; không có thành tích nào được ban tặng. Ngoài bản thân tính giác, một mặt không có trí tuệ bản nguyên “tốt”, mặt khác không có các che chướng “xấu”. Như Vua Sáng Tạo Toàn Thể tuyên bố:

Bản thể này hiện diện tự nhiên ngay từ đầu,

Và do đó không cần cố gắng hay thành tựu.

Vì trí tuệ nguyên sơ tự sinh khởi không bị che chướng,

Tính giác, tự nhận thức, không bị kết xuất ánh sáng.

Bởi vì bản tính của tính giác là không có sự suy diễn khái niệm, không có sự tu tập trên nền tảng và con đường. Cũng không có một con đường để tiến bộ thông qua sự tăng trưởng dần dần những phẩm chất tốt đẹp. Vua Sáng Tạo Toàn Thể nói:

Vì mọi thứ lưu trú trong cấp độ của tôi,

Không có cơ sở nào cho ý tưởng thăng hạng nhờ tu luyện.

Bởi vì tính giác từ nguyên thủy đã thoát khỏi sự vi tế và thô thiển, nghĩa là, người nhận biết và một đối tượng được nhận biết, nên bây giờ nó không thể được mô tả là “một thứ vi tế”. Và vì “vi tế” và “thô thiển” không có tính thực tế, dù tách biệt hay cùng nhau, làm sao có thể có mối quan hệ giữa chúng? Một lần nữa, trong Vua Sáng Tạo Toàn Thể chúng tôi tìm thấy:

Vì từ đầu tôi đã thoát khỏi người nhận biết và cái gì đó được nhận biết,

Nhãn mác “tinh tế” không thể áp dụng cho tôi.

Hơn nữa, vì tính giác siêu nghiệm mọi loại quy kết hoặc phủ nhận thông qua quan niệm sai lầm về tồn tại hay không tồn tại cái này hay cái kia, các hiện tượng không tốt cũng không xấu. Chính vì lý do này mà bất cứ điều gì sinh khởi, bất cứ thứ gì xuất hiện, đều là sự tự kinh nghiệm của tính giác, sự hiển lộ của trí tuệ nguyên sơ. Như một phương tiện đưa chúng ta tới kết luận rõ ràng rằng mọi thứ là thanh tịnh bản nguyên, trạng thái rộng mở và tự do, mà Longchenpa đã đưa ra ví dụ về hòn đảo vàng. Khi đến một nơi như vậy, người ta không thể tìm thấy đất và đá thông thường, vì mọi thứ đều được nhận ra là vàng mà không có bất cứ sự khác biệt nào. Theo cách tương tự, mọi hình tướng ở trong tính bao la của pháp thân vĩ đại mà không bao giờ lạc khỏi nó. Chúng ở lại trong sự mở rộng nguyên thủy của pháp tính, không có sự phân biệt tốt hay xấu. Nói cách khác, chúng an trú trong tính giác, bản tính tự sinh khởi của tâm trí, giống như không gian, thoát khỏi mọi cực đoan. Khi tìm kiến bản tính của tâm trí, người ta không thể sử dụng một phương pháp không cởi mở và tự do. Người ta không thể tìm kiếm nó bằng cách chấp nhận cái này và bác bỏ cái kia hoặc thông qua thực hành có chủ ý về cái thấy, thiền định, hành động và kết quả. Nó không thể được chỉ ra bằng những ví dụ, trình bày bằng ngôn từ, vân vân. Nó vượt xa tầm với của tất cả những thứ đó. Trong Gặp Gỡ Ba Thân có nói:

Vượt ngoài những cực đoan của sinh và diệt,

Thoát khỏi mọi hành động có chủ ý là sự khuyếch trương vĩ đại

Không có sự đa dạng như hòn đảo vàng.

Gốc rễ để đoạn diệt

Bóng tối và các cực đoan

Là tâm trí giác ngộ.

Bên trong tâm trí giác ngộ,

Bốn cực đoan là không tránh được,

Nhưng nó không bị ảnh hưởng bởi những cực đoan như vậy.

Vì vậy, ngầm định rằng, nó thoát khỏi các sai lệch.

Thứ chín, tính giác vượt ngoài nhân quả, siêu việt thiện và ác.

9. Bởi vì tinh hoa tối thượng

Tính giác, mở rộng, không bị ngăn ngại

Không thể được tạo dựng,

Nó không được cải thiện bằng đạo hạnh,

Nó không thể bị thay đổi,

Nên cái ác không thể làm hại nó.

Bởi vì không có hành động cũng như kết quả của nó,

Không có sự chín muồi của niềm vui và nỗi buồn.

Vì trong đó không có tốt và xấu,

Không có gì để lấy hay bỏ,

Không có luân hồi, không có niết bàn.

Bởi vì không có suy nghĩ và không có biểu hiện,

Tỉnh giác là một không gian thiếu vắng những phiền phức như vậy.

Vì không có tiền kiếp hay hậu kiếp,

Dòng tái sinh chỉ là sự quy kết.

Cái gì sinh? Ai được sinh ra và ở đâu?

Có hoạt động gì ở đó? Kết quả chín muồi của nó là gì?

Mọi thứ giống như không gian.

Hãy nghĩ về nó và nghiền ngẫm về nó.

Bản tính nền tảng của mọi sự vật, trí tuệ bản nguyên tối thượng, bản tính kim cương của tịnh quang, là tính giác rộng mở, không bị cản trở, pháp thân trần trụi, tính không của sử trống rỗng. Tính không ban sơ vĩ đại này chẳng thể được tạo ra thông qua những nguyên nhân và điều kiện, đó là vì sao lòng nhân đạo, thực hành thập thiện, không cải thiện được nó. Tính giác trống không được làm cho tốt hơn nhờ đức hạnh; nó là một trạng thái hoàn toàn tự do và rộng mở của trí tuệ bản nguyên.

Theo cách như vậy, tính giác trống rỗng, trí tuệ bản nguyên, thâm nhập tất cả và không bị ngăn ngại như không gian, chẳng thể bị sửa đổi ngay cả khi tam giới trỗi dậy chống lại nó như kẻ thù. Bất kể hành động đen tối tiêu cực nào được thực hiện, chúng cũng không thể làm tổn hại đến tính giác, vì nó là kim cương tối thượng bất khả hủy diệt. Người ta có thể đạt được niềm tin vào điều này bằng phương tiện của “mười hai tiếng cười vang kim cương”, được nói đến trong mật điển Khối Châu Báu:

Kye!
Tinh hoa của Lời Phật, hãy chứng kiến cái thấy: trí tuệ bản nguyên, tự sinh khởi. Nó kỳ diệu làm sao! Nó siêu việt cả tội lỗi và đức hạnh, cả cái thấy và thiền định. Nền tảng là không biến đổi. Bất cứ hành động nào được thực hiện từ thân và lời, bản thân nền tảng không giúp cũng không hại. Ha ha!

Tương tự, vì các đời quá khứ và tương lai, cũng như tiến trình nghiệp báo của nhân và quả, không có sự tồn tại của trí tuệ bản nguyên (vốn trụ ngụ trong nền tảng của pháp thân, trống rỗng, tỉnh giác tự nhận thức, trí tuệ bản nguyên hoàn toàn rộng mở và tự do), cũng không có kết quả chín muồi nào của hạnh phúc và đau khổ. Tuy nhiên, đối với những người chưa chứng ngộ bản chất của tính giác, chuỗi nghiệp báo của nguyên nhân và kết quả chín muồi của chúng về niềm vui và nỗi buồn vẫn thực sự tồn tại. Và nó vẫn tiếp tục tồn tại cho đến khi chấm dứt nhận thức nhị nguyên. Mặt khác, đối với những hành giả đã chứng ngộ “sự cản kiệt tối hậu” của các hiện tượng trong pháp tính thanh tịnh nguyên sơ, trống rỗng, không còn hành động nghiệp báo, không nguyên nhân, và không kết quả chín muồi của hạnh phúc và đau khổ. Mật điển Khối Châu Báu nói:

Hãy xem cách thức căn bản của các hiện tượng! Thật kỳ diệu: các hình tướng không biến đổi và màu sắc của chúng không thay đổi. Bất kể hạnh phúc hau đau khổ được cảm nhận, trên thực tế chẳng có thay đổi nào. Ha ha!

Bởi vì không có sự suy diễn khái niệm nào trong không gian bí mật, không chướng ngại của tính giác, vượt ngoài mọi lợi ích và tổn hại, nên không có chư Phật, chẳng có chúng sinh, hay bất cứ thứ gì khác. Không có tốt cũng chẳng có xấu. Không chấp nhận cũng chẳng từ chối. Không có đặc trưng nào cả, dù là luân hồi hay niết bàn. Khi đã hiểu rằng không gì có thể gây ô nhiễm hoặc hoen ố thể tính của tính giác và rằng bản thân tam giới chỉ là tính thanh tịnh bản nguyên vĩ đại, mọi hiện tượng trở thành tính bao la không thể tưởng tượng và không thể diễn bày vượt ngoài mọi cấu trúc khái niệm. Khi các hành giả đạt được mức chứng ngộ này, an định trong trạng thái tỉnh giác, thì bất kể họ thực hiện hành động nào, dù tích cực hay tiêu cực, những hành động như vậy chẳng mảy may mang lại lợi ích hay tổn hại nào cho họ. Vì những hành giả này là một với tính giác. Mật điển Khối Châu Báu nói:

Ngay cả khi bạn cầm lấy một vũ khí sắc bén và giết mọi chúng sinh trong một khoảnh khắc, điều này sẽ không ảnh hưởng đến dòng tâm thức của bạn một chút nào. Ha ha!

Vì những hành giả có mức độ chứng ngộ như vậy thì không có tiền kiếp hay hậu kiếp. Mọi sự xuất hiện của các kiếp sống chỉ là vấn đề của những cái tên, không hơn một sự quy kết. Những chúng sinh này nhận ra rằng tam giới luân hồi trên thực tế là tính thanh tịnh bản nguyên vĩ đại. Họ được nói là “biến chiều sâu của luân hồi thành pháp giới”. Quả thực, khi tính thanh tịnh bản nguyên, trạng thái tự do và mở rộng nguyên thủy, được chứng ngộ trên thực tế, sự tái sinh nào có thể xảy ra? Vì mọi hình tướng và kinh nghiệm trong các kiếp quá khứ và tương lai đều tan biến vào trong sự mở trống của pháp tính. (Từ quan điểm này) người nào ở đó và người đó sẽ đi đâu? Vì không ra khỏi nền tảng, nơi chốn luân hồi và chúng sinh luân hồi cùng tan biến không phân chia vào nền tảng. Và vì không có hành động nào, trong trắng hay đen tối, được thực hiện, nên những kết quả chín muồi nào từ những hành động này có thể xảy ra? Mọi thứ đều lắng xuống không phân biệt vào không gian bao la như bầu trời , trạng thái tự do và rộng mở nguyên thủy, của tính bình đẳng vượt ngoài mọi suy diễn khái niệm. Đây là thứ mà người ta nên suy nghĩ và quán chiếu về nó, vì nhờ nó mà người ta sẽ nhận ra bản tính nền tảng và chân thực của vạn sự.

Thứ mười, những phần tử không thể phân chia của vật chất và khoảnh khắc không thể phân chia của tâm thức luôn luôn không tồn tại.

10. Dù bạn có thể khảo sát bằng suy luận,

Cân nhắc, suy ngẫm hết lần này tới lần khác,

Các hợp phần của mọi sự vật đều không có thực tại.

Vì không có một phần tử đơn lẻ nào được tìm thấy,

Chẳng có khoảng khắc nào không phân chia,

Không có thứ được nhận biết và không có chủ thể nhận biết,

Ngay trong khoảnh khắc này, mọi thứ an định

Trong bản tính nền tảng tinh túy.

Khi khảo sát, vạn sự không tồn tại.

Tương tự, khi bỏ qua khảo sát,

Chúng cũng không có sự tồn tại.

Ngay cả ở mức độ thông thường,

Vì chẳng có gì được tìm thấy,

Mọi hiện tượng trong tất cả các khía cạnh và mọi lúc

Không có sự tồn tại.

Hãy hiểu rằng chúng giống như ảo ảnh huyễn thuật,

Thiếu vắng mọi thực tại.

Như đã giải thích về không có thiện hạnh và ác hạnh, không nguyên nhân và kết quả. Tuy nhiên một lần nữa, thông qua khảo sát nhiều lần và suy ngẫm, như khi xem xét ba thời quá khứ, hiện tại và tương lai, không có gì được tìm thấy. Một phân tích về các hiện tượng bên ngoài, bên trong và trung gian cho thấy không có gì được tìm ra ngoài pháp tính, nó vượt trên mọi cấu trúc khái niệm. Các hiện tượng bên ngoài và bên trong (vũ trụ và cư dân của nó) đều có thể được quy giản thành các phần nhỏ, xuống đến các hạt vô cùng nhỏ. Và ngay cả những hạt này cũng có thể được chứng minh là không có thật. Vì vậy, cái gọi là nguyên nhân và kết quả của chúng, đức hạnh và thói xấu, được chứng minh là không có một mảnh nhỏ nhất tồn tại thực sự nào. Chúng trống rỗng trong tự thân. Bên ngoài pháp tính, tỉnh giác, trống rỗng, vô điều kiện, và thoát khỏi mọi tạo tác khái niệm, chẳng có gì hết.

Khi khoảnh khắc không thể phân chia được phân tích logic, nó không được tìm thấy. Khi khảo sát thời gian quá khứ, hiện tại, và tương lai, quá khứ đã diệt, tương lai chưa sinh, còn thời điểm hiện tại của tâm trí diệt ngay lập tức. Và không có thời gian ở giữa tất cả những thời điểm như vậy, thời gian không được tìm thấy. Ngay cả khi khoảnh khắc không thể phân chia của tâm thức được thiết lập hợp lý (theo hệ thống giáo lý Vaibhasika, Phân biệt thuyết, và Sautrantika, Kinh lượng bộ), cái gọi là tiến trình nhân quả của thiện và ác cũng không được tìm thấy. Khi đối tượng được nhận thức và tâm trí nhận thức được phân tích, khảo sát và suy ngẫm, không có gì tồn tại cả. Mọi thứ tan biến vào sự mở rộng của pháp tính, thoát khỏi suy diễn khái niệm, không gian của tính bình đẳng vĩ đại. Ngay trong khoảnh khắc này, nó an trú trong tính giác, bản tính nền tảng, trạng thái tịnh quang tinh túy, và chẳng ở đâu khác.

Khi phân tích, khảo sát và suy ngẫm, các hiện tượng được thấy là không tồn tại. Điều tương tự cũng đúng khi chúng không được phân tích, khảo sát và suy ngẫm như vậy. Vì những thứ được đưa ra phân tích như vậy là không tồn tại một cách nguyên thủy. Chúng không có nền tảng và không có gốc rễ. Chúng là một chiều hướng rộng mở không tham chiếu và bao trùm toàn thể.

Các hiện tượng không chỉ không tồn tại ở cấp độ tối hậu. Dù ở mức tương đối, ngay cả một hạt vi trần cũng không tồn tại. Ví dụ, khi một người ảo ảnh có vẻ đang hành động đức độ hoặc tội lỗi, người ảo ảnh sẽ không tự mình trải nghiệm kết quả chín muồi cho hành động của anh ta bởi vì một người ảo ảnh không phải là người thực sự. Do đó, trong khi chẳng có cái gì là sự chín muồi trên tiến trình nhân quả của thiện và bất thiện đối với bất cứ ai, yogi sẽ không nghĩ về nó ngay cả dưới dạng là một ảo tưởng. Vì trong mọi thời điểm (ở cả mức độ tối thượng và tương đối), các hiện tượng luân hồi và niết bàn trên mọi phương diện đều không có thật. Bởi vì mọi hiện tượng đều không tồn tại thực sự và giống như những ảo ảnh huyễn thuật, chúng không tồn tại như những thứ có thật. Nên hiểu rằng chúng là sự trình diễn của tính không vĩ đại, trạng thái của đại không duy nhất, chiều kích bao trùm toàn thể của một tính không vĩ đại.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

TOP 5 Tài Thí

Bên trên