dieuduc

Luận Đại Trí Độ - nghĩa cơ bản (phần 2)

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18/3/10
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa

* Đọa đảnh (phẩm 8).

<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->http://www.diendanphatphap.com/diendan/showthread.php?23931-LU%E1%BA%ACN-%C4%90%E1%BA%A0I-TR%C3%8D-%C4%90%E1%BB%98-L%C6%B0%E1%BB%A3c-gi%E1%BA%A3i-Ph%E1%BA%A9m-%285%29-%286%29-%287%29-%288%29-%289%29.&p=85134&viewfull=1#post85134

LUẬN:

.......Hỏi: Phải hành những thiện căn gì mới chẳng đọa vào các ác đạo, mới chẳng đọa đảnh ?

.......Đáp: Có thuyết nói:

- Hành thiện căn "bất tham" khiến cho ái kiết cùng hết thảy các kiết sừ khác mỏng dần. từ đó vào được các thiền định.
- Hành thiện căn "bất sân" khiến cho sân nhuế cùng hết thảy các kiết sừ khác mỏng dần. từ đó sanh được tâm từ bi.
- Hành thiện căn "bất si" khiến vô minh cùng hết thảy các kiết sừ khác mỏng dần. từ đó vào được Bát nhã Ba- la- mật.

....... Hành các thiện căn như vậy là có đủ thiền định, từ bi và trí huệ Bát nhã, cho nên chẳng có việc gì mà chẳng làm được, chẳng có pháp môn gì mà chẳng tu được.

....... Bồ tát thật hành Bát nhã Ba- la- mật, tu tập các thiện căn như vậy nên:

- Chẳng đọa vào các đường ác.
- Chẳng sanh vào nhà hạ tiện.
- Chẳng lạc về Thanh Văn và Bích Chi Phật địa.
- Chẳng đọa đảnh.
Đáp : nghĩa cơ bản

Tổ Long Thọ lưu ý chúng ta - đức Phật có nói : hành thiện căn “bất tham”…, hành thiên căn “bất sân”…, hành thiện căn “bất si”… Vì như vậy là chúng ta chỉ cần _ không tham, không sân, không si _ là đã hành thiện căn.
Nhưng vì trong THAM thì có gồm cả tham vật chất. Cho nên, chỉ cần chúng ta không tham tiền của, vật chất là đã hành thiện căn - chứ không cần phải bố thí mới gọi là hành thiện căn.

Thật ra, bố thí để cầu phước là nhơn duyên khiến chúng ta b sanh tử luân hồi. Cho nên, bố thí để hành thiện căn - là tu theo pháp thế gian của ngoại đạo. Nhưng vì chúng ta đang sống trong quy luật của pháp thế gian - cho nên đức Phật mới hướng _ bố thí _ thành bố thí Ba la mật. Vì cho ra _ mà không nghĩ ngợi gì cả _ cũng tức là không tham (dầu là phước đức hay công đức).

Điều này, đức Phật có giảng nói trong kinh Đại Bát Niết Bàn - phẩm Quang Minh Biến Chiếu… :

Do nơi bố thí làm cho sanh tử nối luôn, kinh Đại Niết Bàn có thể làm cho sanh tử phải dứt. Nhơn bố thí nên thọ lấy pháp phàm phu., nhơn kinh Đại Niết Bàn mà được pháp Bồ Tát.

http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-58_4-78_5-50_6-2_17-208_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
Và trong phẩm Tứ Tướng - đức Phật cũng chỉ nói :

Ba-la-đề-mộc-xoa là lìa nghiệp tà bất thiện của thân, khẩu, và ý.

http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-58_4-63_5-50_6-2_17-208_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
Nên đức Phật cũng chỉ dạy chúng ta lìa … chứ không có dạy chúng ta _ bố thí _ để tạo nghiệp lành.
Từ chỗ hiểu cơ bản này - các Bạn có thể tự đọc hiểu _ nghĩa cơ bản _ lời luận đáp vừa rồi của Tổ Long Thọ.

.......Hỏi: Trong 4 sự việc nêu trên đây, vì sao chỉ nói riêng đến đọa đảnh mà thôi ?

.......Đáp: Vì 3 sự việc kia đã nói trước đây rồi. Riêng việc đọa đảnh chưa được đề cập đến, nên nay ngài Xá Lợi Phất mới hỏi.
[FONT=&quot]
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
.......Hỏi: Đọa đảnh là vào trong pháp vị. Nghĩa này đã được nói rồi. Vì sao nay còn hỏi nữa ?

.......Đáp: Trước đây đã nói về nghĩa này rồi. Tuy nhiên, trước đây chưa nói rõ về các phương tiện dẫn vào 4 giải thoát môn. Bởi vậy nên danh tự này, trước và sau có nghĩa khác nhau.

....... Trước nói do ái pháp mà được lợi ích, vào được Vô sanh pháp nhẫn. Nay nói vào được Vô sanh pháp nhẫn rồi, mà còn chấp, còn ái pháp thì chẳng có lợi ích gì.

....... Ví như người ăn nhiều bị bội thực, chẳng tiêuh óa được. Nếu chẳng lo thuốc men chửa trị, thì sẽ thành trọng bệnh. Khi bệnh đã lành rồi thì chẳng cần đến thuốc men nữa.

....... Bồ tát cũng như vậy. Khi sơ phát tâm, do tham ái pháp thực mà tinh tấn tu hành, chứng được đạo quả. Thế nhưng, nếu chưa có đủ các sức phương tiện để hành các thiện pháp, thì sẽ sanh tâm chấp đắm đạo quả vậy. bởi vậy nên nói, ở nơi Vô sanh pháp nhẫn mà còn ái pháp thì vẫn còn bệnh.

....... Vì sao ? Vì do còn chấp pháp, nên ở nơi bất sanh bất diệt mà chẳng được tự tại.

....... Ví như người mắc phải trọng bệnh, quyết định sẽ phải chết, thì dù có uống nhiều thuốc, các thứ thuốc ấy cũng thành bệnh. Bồ tát nếu đã vào được nơi rốt ráo không, nơi bất sanh bất diệt, tức là đã vào trong Vô sanh pháp nhẫn, mà còn sanh pháp ái thì sẽ dể mắc bệnh pháp ái vậy.

....... Pháp ái đối với các hàng trời, người là diệu pháp, nhưng ở nơi Vô sanh pháp nhẫn thì lại là bệnh.

....... Ở nơi hết thảy pháp, nếu còn sanh ức tưởng phân biệt, nếu còn quán "thị - phi", để rồi tùy theo pháp mà sanh pháp ái thì được gọi là "đọa đảnh". Vì sao ? Vì như vậy là trái với thật tướng pháp, là chẳng có tương ưng với thật tướng pháp. Nếu Bồ tát vẫn còn chấp như vậy thì gọi là Bồ tát tham ái pháp thực, cũng gọi là "đọa đảnh".
[/FONT] Đáp : nghĩa cơ bản

Tổ Long Thọ cho chúng ta biết - lời luận đáp của Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta cách đi vào 4 môn giải thoát : chẳng đọa vào các đường ác, chẳng sanh vào nhà hạ tiện, chẳng lc về Thanh Văn và Bích Chi Phật địa, chẳng đọa đảnh.


Còn Tổ Long Thọ nói : “danh tự này :) đọa đảnh), trước và sau có nghĩa khác nhau” - là cho chúng ta biết “đọa đảnh” là mật ngữ - như danh từ “tiên đà bà” - đức Phật nói trong kinh Đại Bát Niết Bàn - phẩm Bồ Tát :

Mật ngữ của Như-Lai rất sâu khó hiểu, ví như nhà vua bảo các quan đem Tiên-Đà-Bà đến. Danh từ Tiên-Đà-Bà chỉ cho bốn tbứ : Một là muối, hai là chén , ba là nước, bốn là ngựa. Có cả bốn thứ ấy đều đồng một danh từ Tiên-Đà-Bà. Quan hầu có trí biết rành danh từ nầy. Lúc vua muốn rửa ráy đòi Tiên-Đà-Bà, liền dưng nước. Lúc vua ăn đòi Tiên-Đà-Bà liền dưng muối. Lúc vua ăn xong muốn uống nước ngọt, đòi Tiên-Đà-Bà liền dưng chén. Lúc vua muốn du hành đòi Tiên-Đà-Bà liền đem ngựa dưng. Quan hầu có trí hiểu rành mật ngữ của nhà vua.


.............
..........

Nhà vua kia cũng có mật ngữ như vậy,
huống là đức Như-Lai mà lại không có.

… Vì thế nên
giáo pháp vi mật của Như-Laikhó có thể biết được. Chỉ người trí mới có thể hiểu được Phật pháp rất sâu vi diệu của Như-Lai, chẳng phải hạng phàm phu trong đời mà có thể tin được.


http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-58_4-72_5-50_6-2_17-208_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
Do đó, khi gặp một lời giảng có chữ “đọa đảnh” thì chúng ta phải tìm biết “đọa đảnh” đức Phật dùng trong lời giảng đó hiểu theo nghĩa nào. Và Tổ Long Thọ hướng dẫn chúng ta - khi gặp lời giảng _ giảng về diệu pháp - thì chúng ta hiểu theo nghĩa Tổ nói trong lời luận đáp này.

Còn Tổ Long Thọ nói : “Trước nói do ái pháp mà được lợi ích, vào được Vô sanh pháp nhẫn. Nay nói vào được Vô sanh pháp nhẫn rồi, mà còn chấp, còn ái pháp thì chẳng có lợi ích gì”.

Là dạy chúng ta : lúc đầu thì chúng ta ái pháp là để được lợi ích. Vì có ái pháp thì chúng ta mới muốn tu tập. Nhưng khi vào được Vô sanh pháp nhẫn rồi, thì sự ái pháp không còn đem lại lợi ích cho chúng ta nữa.


Còn Tổ Long Thọ nói : Ví như người ăn nhiều bị bội thực, chẳng tiêu hóa được. Nếu chẳng lo thuốc men chửa trị, thì sẽ thành trọng bệnh. (Nhưng) khi bệnh đã lành rồi thì chẳng cần đến thuốc men nữa.

Bồ tát cũng như vậy. Khi phát tâm, do tham ái pháp thc mà tinh tấn tu hành, chứng được đạo quả.


Là giải thích cho chúng ta biết : nếu lúc mới phát tâm mà chúng ta không tham ái pháp thì bệnh của chúng ta không thể lành. Nhưng pháp mà chúng ta tham ái thì phải là pháp thc.
Nghĩa của chữ “thực” này thì d/đ không biết nếu hiểu theo văn tự thì như thế nào. Nhưng nếu hiểu theo nghĩa âm thanh tiếng nói của người Việt - thì “thực” có nghĩa là “thật”. Mà “pháp thật” thì lại _ có nghĩa là _ “pháp đúng”.


Cho nên, tham ái pháp thực _ có nghĩa là _ tham ái “pháp đúng”. Vì pháp mà chúng ta tham ái _ là “pháp đúng” _ thì chúng ta mới chứng được đạo quả. Còn nếu như chúng ta tham ái là “pháp sai” thì dầu chúng ta có tinh tấn tu hành - cũng không thể chứng đạo quả.

Riêng việc d/đ hiểu theo nghĩa âm thanh tiếng nói - thì trước đây d/đ đã có giải thích. Thật ra, hiểu theo nghĩa âm thanh tiếng nói _ cũng là một cách dùng mật ngữ của Như Lai.


Còn Tổ Long Thọ nói : nếu chưa có đủ các sức phương tiện để hành các thiện pháp, thì sẽ sanh tâm chấp đắm đạo quả vậy. bởi vậy nên nói, ở nơi Vô sanh pháp nhẫn mà còn ái pháp thì vẫn còn bệnh.

……….Vì sao ? Vì do còn chấp pháp, nên ở nơi bất sanh bất diệt mà chẳng được tự tại.


Là lưu ý chúng ta : phải vào được Vô sanh pháp nhẫn rồi thì mới không ái pháp. Vì khi vào được Vô sanh pháp nhẫn rồi - thì chúng ta mới có đủ sức phương tiện để hành các thiện pháp :) đừng tham, đừng, sân, đừng si). Còn khi chúng ta chưa đủ sức phương tiện hành các thiện pháp :) đừng tham, đừng, sân, đừng si) mà không tham ái pháp đúng - thì chúng ta sẽ sanh tâm chấp đắm đạo quả.

Vì như lời Tổ Long Thọ - thì nếu muốn thực hành các thiện pháp (đừng tham, đừng, đừng si) chúng ta cần phải có đủ sức phương tiện. Cho nên, khi chưa có đủ sức phương tiện - mà chúng ta muốn đừng ái pháp - thì chúng ta phải tự “thuyết phục” mình. Và sở dĩ chúng ta “thuyết phục” mình _ đừng ái pháp _ là vì chúng ta sợ không đạt đạo quả. Cho nên, trong vi tế - chúng ta đã sanh tâm chấp đắm đạo quả.

Còn khi chúng ta vào được Vô sanh pháp nhẫn - là chúng ta đã vào được nơi bất sanh bất diệt - và cũng đã có đủ sức phương tiện để hành các thiện pháp :) đừng tham, đừng sân, đừng si) mà chúng ta vẫn còn ái pháp (dầu là pháp đúng) thì tâm của chúng ta cũng sẽ không được tự tại. Cho nên, dầu chúng ta vào được Vô sanh pháp nhẫn rồi - mà còn ái pháp - thì cũng chưa thể gọi là hết bệnh.


Còn Tổ Long Thọ nói : Ví như người mắc phải trọng bệnh, quyết định sẽ phải chết, thì dù có uống nhiều thuốc, các thứ thuốc ấy cũng thành bệnh. Bồ tát nếu đã vào được nơi rốt ráo không, nơi bất sanh bất diệt, tức là đã vào trong Vô sanh pháp nhẫn, mà còn sanh pháp ái thì sẽ dể mắc bệnh pháp ái vậy.

……….Pháp ái đối với các hàng trời, người là diệu pháp, nhưng ở nơi Vô sanh pháp nhẫn thì lại là bệnh


Là Tổ Long Thọ xác định với chúng ta - khi vào được Vô sanh pháp nhẫn - thì chúng ta đã vào được nơi rốt ráo không, nơi bất sanh bất diệt. Cho nên, khi nào chúng ta chưa khẳng định mình đã vào được nơi rốt ráo không, nơi bất sanh bất diệt - thì chúng ta không thể không ái pháp đúng. Vì khi chúng ta chưa vào được Vô sanh pháp nhẫn - thì ái pp đúng là diu pp.


Còn Tổ Long Thọ nói : Ở nơi hết thảy pháp, nếu còn sanh ức tưởng phân biệt, nếu còn quán "thị - phi", để rồi tùy theo pháp mà sanh pháp ái thì được gọi là "đọa đảnh". Vì sao ? Vì như vậy là trái với thật tướng pháp, là chẳng có tương ưng với thật tướng pháp. Nếu Bồ tát vẫn còn chấp như vậy thì gọi là Bồ tát tham ái pháp thực, cũng gọi là "đọa đảnh".

Là Tổ Long Thọ giải thích cho chúng ta biết : khi ở nơi hết thảy pháp, nếu chúng ta còn sanh ức tưởng phân biệt, còn quán “thị - phi”, để rồi tùy theo pháp quán “thị - phi” mà sanh pháp ái - thì chúng ta đã ái _ pháp đúng. Do đó, chúng ta được gọi là “đọa đảnh”.

Sở dĩ chúng ta được gọi là “đọa đảnh” (ái _ pháp đúng) - là vì khi chúng ta tùy theo pháp quán “thi - phi”, là chúng ta đã trái thật tướng pháp, là chẳng tương ưng với thật tướng pháp. Vì khi chúng ta chưa vào được Vô sanh pháp nhẫn thì chúng ta chưa đủ sức phương tiện để hành các thiện pháp :) đừng tham, đừng sân, đừng si). Cho nên, chúng ta cũng chưa thể tu pháp tương ưng với thật tướng pháp.

Còn nếu là Bồ tát (đã vào được Vô sanh pháp nhẫn) mà vẫn còn ái pháp _ tùy theo pháp quán “thị - phi” thì tuy là ái _ pháp đúng - cũng bị “dậm chân tại chỗ” cùng hàng với người chưa vào được Vô sanh pháp nhẫn _ mà tu đúng Phật Pháp. Vì chúng ta đã vấp phải lỗi - chấp _ tham ái pháp đúng.

.......Hỏi: Chỉ là một pháp, nhưng vì sao có lúc nói là Vô Sanh, có lúc nói là Đảnh ?

.......Đáp: Ở nơi Nhu thuận nhẫn, ở nơi Vô sanh nhẫn, nếu chẳng có chấp trước pháp Vô sanh đó thì gọi là Trú Đảnh Vị. Bồ tát trú ở đảnh cao đó, thẳng đường đến Phật đạo, chẳng còn sợ bị đọa nữa.

....... Cũng như vậy, ở trong pháp Thanh Văn có nói đến Noãn pháp, Nhẫn pháp, và Đảnh pháp. Khi đã thành tựu được hai pháp Noãn và Nhẫn rồi, thì hành giả tiến tu Đảnh pháp vậy.
.......Hỏi: Nếu đã được Đảnh vị rồi là chẳng còn bị đọa nữa ? Vì sao lại nói đến đọa đảnh ?

.......Đáp: Người được Đảnh vị rồi, mà tâm kiên cố, trí an ổn, thì chẳng sợ bị đọa nữa. Người đã gần được Đảnh vị rồi mà đánh mất đi thì mới gọi là đọa đảnh.

....... Vì sao ? Vì khi đã lên đến đảnh núi, đứng vững chắc trên đảnh núi rồi, thì chẳng còn sợ bị rơi xuống nữa. Thế nhưng, khi còn đang leo núi, mặc dù đã gần đến đảnh núi rồi, thì cũng vẫn còn nguy hiễm, còn lo sợ bị rơi xuống, nên cần phải giữ tâm trí kiên cố, an ổn.

....... Bồ tát khi đã trú ở Đảnh vị rồi, thì chẳng còn bị các nội ma quấy nhiễu, chẳng còn bị các kiết sử trói buộc nữa. Như vậy gọi là được Vô sanh pháp nhẫn. Vì sao ? Vì trái với Vô sanh là còn kiết sử, còn ái chấp các thiện pháp.

....... Nếu chẳng có được trí huệ soi sáng, thì chẳng vào được nơi thật tướng pháp, như vậy gọi là Sanh. Nếu có được trí huệ soi chiếu, thì vào được nơi thật tướng pháp; như vậy gọi là Thục.

....... Lại nữa, nếu chẳng có y chỉ trí sanh diệt, nếu ly được trí sanh diệt, ly được các chấp điên đảo, thì vào được nơi bất sanh, bất diệt. Như vậy gọi là được Vô sanh Pháp, hay Tín Pháp, hay Thọ Pháp, hay Trí Pháp, cũng gọi là Nhẫn vị.

....... Bồ tát, khi đã nhập vào vị ấy rồi, là xả bỏ hết thẩy các quán vô thường, khổ, không, vô ngã. Nếu chẳng được như vậy, thì gọi là thuận đạo mà còn sanh pháp ái.
Đáp : nghĩa cơ bản


Vì tâm kiên cố, trí an ổn - là diễn tả sự thường trụ, Cho nên, ý của Tổ Long Thọ là giải thích cho chúng ta biết : khi nào chúng ta đạt được thường trụ - thì gọi là được Đảnh vị. Còn trong thời gian chúng ta vào được Vô sanh pháp nhẫn cho đến lúc được Đảnh vị - thì gọi là “đọa đảnh”. Nghĩa là, dầu chúng ta có vào được Vô sanh pháp nhẫn rồi - thì cũng vẫn còn có thể bị đọa trở lại.

Vì thật ra, khi chúng ta vào được Vô sanh pháp nhẫn - là chỉ mới trở về được với tự tánh _ thường hằng, không biến đổi. Còn khi nào tự tánh _ thường hằng, không biến đổi _ đạt được sự thường trụ thì chúng ta mới thật sự được giải thoát - mãi mãi - chẳng đọa vào các đường ác, chẳng sanh vào nhà hạ tiện, chẳng lạc về Thanh Văn và Bích Chi Phật địa, chẳng đọa đảnh.

Còn Tổ Long Thọ nói : Bồ tát khi đã trú ở Đảnh vị rồi, thì chẳng còn bị các nội ma quấy nhiễu, chẳng còn bị các kiết sử trói buộc nữa. Như vậy gọi là được Vô sanh pháp nhẫn. Vì sao ? Vì trái với Vô sanh là còn kiết sử, còn ái chấp các thiện pháp.

Thì vì Tổ Long Thọ giải thích : Vì trái với Vô sanh - là còn kiết sử, còn ái chấp các thiện pháp
Nên khi còn kiết sử, còn ái chấp các thiện pháp _ thì gọi là Sanh (vì trái với Vô sanh).
Do đó, Vô sanh _ có nghĩa là _ không còn kiết sử, không còn ái chấp các thiện pháp.

Còn Tổ Long Thọ nói : Nếu chẳng có được trí huệ soi sáng, thì chẳng vào được nơi thật tướng pháp, như vậy gọi là Sanh. Nếu có được trí huệ soi chiếu, thì vào được nơi thật tướng pháp; như vậy gọi là Thục.

....... Lại nữa, nếu chẳng có y chỉ trí sanh diệt, nếu ly được trí sanh diệt, ly được các chấp điên đảo, thì vào được nơi bất sanh, bất diệt. Như vậy gọi là được Vô sanh Pháp, hay Tín Pháp, hay Thọ Pháp, hay Trí Pháp, cũng gọi là Nhẫn vị.

....... Bồ tát, khi đã nhập vào vị ấy rồi, là xả bỏ hết thẩy các quán vô thường, khổ, không, vô ngã. Nếu chẳng được như vậy, thì gọi là thuận đạo mà còn sanh pháp ái.


Thì điểm chính của đoạn luận này - là Tổ Long Thọ muốn nói cho chúng ta biết : nếu chẳng có được trí huệ soi sáng, thì chúng ta chẳng thể vào được nơi thật tướng pháp. Cho nên, pháp phương tiện giúp chúng ta vào được nơi thật tướng _ là tu huệ. Nhưng vì ngoại đạo cũng có pháp tu huệ - nên - chúng ta phải tìm hiểu thật kỹ về pháp tu huệ rồi mới chọn pháp để tu.

Còn khi chúng ta đã nhập vào được Vô sanh pháp nhẫn rồi mà không xả bỏ được hết thảy các quán vô thường, khổ, không, vô ngã - trước đây chúng ta quán - thì gọi là “thuận đạo mà sanh pháp ái”. Vì quán vô thường, khổ, không, vô ngã cũng là quán đúng :) thuận đạo). Nhưng chỉ là pháp phương tiện - giúp chúng ta nhập vào được Vô sanh pháp nhẫn - tức là chỉ giúp chúng ta có lại tự tánh _ thường hằng, không biến đổi. Còn muốn tự tánh _ thường hằng, không biến đổi _ trở thành thường trụ thì chúng ta phải xã bỏ hết thảy - dầu là pháp đúng.


Tóm lại, đoạn luận này - Tổ Long Thọ dạy chúng ta : hành thiện căn là bất tham, bất sân, bất si. Nhưng muốn hành thiện căn như vậy - thì chúng ta phải vào được Vô sanh pháp nhẫn - mới có đủ sức phương tiện.
Và khi chúng ta vào được Vô sanh nhẫn pháp - là đã vào được nơi rốt ráo không, nơi bất sanh bất diệt. Lúc bấy giờ mà chúng ta vẫn còn chấp các pháp quán - trước đây đã giúp chúng ta vào được Vô sanh pháp nhẫn - thì tự tánh _ thường hằng, không biến đổi của chúng ta - sẽ không thể trở thành thường trụ.
Và vì tự tánh _ thường hằng, không biến đổi của chúng ta không đạt được thường trụ - nên chúng ta vẫn có thể bị đọa trở lại. Do đó, chúng ta chưa thể thoát sanh tử.
Và pháp phương tiện giúp chúng ta nhập vào được Vô sanh pháp nhẫn - là tu huệ. Nhưng vì ngoại đạo cũng có pháp tu huệ. Cho nên, chúng ta phải thật cẩn thận trong việc chọn _ pháp _tu huệ.

Nhưng điểm quan trọng mà chúng ta phải luôn ghi nhớ - là khi chưa có thể quyết chắc đã vào được Vô sanh pháp nhẫn - nơi bất sanh bất diệt - thì tham ái pháp đúng _ là diệu pháp.


Như vậy, thì các Bạn thấy - Tổ Long Thọ - tạo đoạn luận này là để giảng cho chúng ta nghe biết về tiến trình tu học Phật Pháp. Cho nên, d/đ rất mong các Bạn bỏ nhiều thời gian suy ngẫm đoạn luận này. Thật ra, từ lúc tìm hiểu nghĩa kinh - d/đ chưa gặp được lời giảng nào có thể đem nhiều lợi ích cho người tu học Phật đạo như đoạn luận này.


Diệu Đức xin kính tri ân Tổ Long Thọ cùng các vị đã gìn giữ và chuyển dịch đoạn luận này.
Diệu Đức cũng kính tri ân thầy Viên Quang, thầy Thích Minh Phú đã tạo duyên giúp d/đ thực hiện được lời pháp nguyện.


NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM MÔ DI LẶC PHẬT
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if !mso]><object classid="clsid:38481807-CA0E-42D2-BF39-B33AF135CC4D" id=ieooui></object> <style> st1\:*{behavior:url(#ieooui) } </style> <![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18/3/10
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
LUẬN ĐẠI TRÍ ĐỘ Lược giải - phẩm (8) KHUYẾN HỌC


* Vô tâm. - Chẳng có tướng, cũng chẳng phải _ chẳng có tướng
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->
http://www.diendanphatphap.com/diendan/showthread.php?23931-LU%E1%BA%ACN-%C4%90%E1%BA%A0I-TR%C3%8D-%C4%90%E1%BB%98-L%C6%B0%E1%BB%A3c-gi%E1%BA%A3i-Ph%E1%BA%A9m-%285%29-%286%29-%287%29-%288%29-%289%29.&p=85153&viewfull=1#post85153

LUẬN:

.......Hỏi: Ngài Xá Lợi Phất cũng đã biết rõ tâm tướng thường thanh tịnh rồi. Sao nay ngài còn hỏi nữa ?

.......Đáp: Bồ tát khi mới phát Bồ đề tâm, nghe nói tâm tướng là rốt ráo không, rồi lại nghe nói tâm tướng thường thanh tịnh, thì vẫn còn ức tưởng phân biệt, vẫn còn thủ chấp cái tướng vô tâm đó.

.......
Bởi vậy ngài Xá Lợi Phất mới nêu lên các câu hỏi để ngài Tu Bồ Đề giải đáp, nhằm giải nghi cho các vị Bồ tát này.
Đáp : nghĩa cơ bản

Ý Tổ Long Thọ cho chúng ta biết - các câu ngài Xá Lợi Phất hỏi trong đoạn luận này là nhằm giải nghi cho chúng ta - khi chúng ta phát Bồ đề tâm. Vì khi chúng ta phát Bồ đề tâm - tu học pháp Bồ tát (: theo lời hướng dẫn trong các kinh Đại thừa) thì chúng ta sẽ vừa nghe nói tâm tướng là rốt ráo không, vừa nghe nói tâm tướng thường thanh tịnh.

Điều này, sẽ khiến chúng ta cho rằng vẫn còn _ ức tưởng phân biệt, vẫn còn chấp cái tướng vô tâm (là thật có). Vì nếu rốt ráo không - thì không thể nói thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Do đó, ngài Xá Lợi Phất mới nêu ra các câu hỏi để ngài Tu Bồ Đề giải nghi cho chúng ta.

.......
Hỏi: Vô tâm là có tướng tâm hay là không có tướng tâm ? Nếu là có thì vì sao lại nói là vô tâm ? Nếu là không thì vì sao lại tán thán vô đẳng đẳng tâm ?

.......Đáp: Vô tâm là rốt ráo thanh tịnh, Chẳng có tướng, cũng chẳng phải chẳng có tướng. Vì CÓ và KHÔNG đều là bất khả đắc cả.


....... Như cuộc đối đáp giữa ngài Xá Lợi Phất và Tu Bồ Đề sau đây:
Đáp : nghĩa cơ bản.
Vì Tổ Long Thọ giải thích : VÔ TÂM là rốt ráo thanh thịnh. Cho nên, tâm tướng _ rốt ráo không là rốt ráo thanh tịnh - không phải không có gì.

Nhưng vì tâm rốt ráo thanh tịnh - là TÂM CHƠN NHƯ. Cho nên, tâm tướng rốt ráo không - mới chẳng có tướng , cũng chẳng phải _ chẳng có tướng. Vì CÓ tướng hay KHÔNG tướng đều là bất khả đắc cả.

Còn _ tâm có tướng rốt ráo không tâm có tướng thường thanh tịnh (=> thật tướng của tâm)

Như cuộc đối đáp giữa ngài Xá Lợi Phất và Tu Bồ Đề sau đây :

- Hỏi : Thế nào là Vô tâm tướng ?

- Đáp: Hết thảy các pháp đều rốt ráo không, chẳng có phân biệt. Như vậy gọi là Vô tâm tướng.
Đáp : nghĩa cơ bản

Ý nói : vì biết hết thảy các pháp đều rốt ráo không :) không có gì), nên chẳng có phân biệt => gọi là Vô tâm tướng.
Do đó, Vô tâm tướng hiểu theo nghĩa _ chẳng có phân biệt.

- Hỏi : Nếu tâm tướng chẳng thể hoại, chẳng thể phân biệt, thì hết thảy các pháp cũng đều là như vậy hay sao ?

- Đáp: Hết thảy các pháp cũng đều là như vậy cả. Vô thượng Bồ đề tâm cũng ví như hư không, cũng chẳng thể hoại, chẳng thể phân biệt. Cho nên nếu có Bồ tát tham trước Vô thượng Bồ đề tâm, mà dấy niệm "đắc", thì Bồ tát ấy chưa được lậu tận, chưa được thanh tịnh vậy.
Đáp : nghĩa cơ bản

Ý nói : hết thảy các pháp cũng đều chẳng thể hoại, chẳng thể phân biệt. Vì Vô thượng Bồ đề tâm cũng ví như hư không - nên chẳng thể hoại, chẳng thể phân biệt. Cho nên, nếu có Bồ tát tham trước Vô thượng Bồ đề tâm, mà dấy niệm “đắc”, thì Bồ tát ấy chưa được lậu tận, chưa được thanh tịnh vậy. Vì khi dấy niệm “đắc” là đã có sự phân biệt - Vô thượng Bồ đề tâm có hai tướng : đắc và không đắc => tâm chưa được thanh tịnh.

.......Ngài Tu Bồ Đề nghĩ rằng: Nếu có người nghe nói như vậy mà sanh tâm sợ hãi, chẳng có vui, thì người đó còn chấp tâm, còn tư duy trù lượng. Phải nên vì họ nói về thật trướng pháp để đối trị.

....... Nghĩ như vậy rồi, ngài Tu Bồ Đề tự niệm rằng: Nay ở trước đức Thế Tôn, ta phải dùng thật trướng pháp mà đối trị. Nếu ta có lỗi lầm gì thì Thế Tôn sẽ rộng thuyết cho ta được rõ.

....... Ngài Tu Bồ Đề nói tiếp: Vô thượng Bồ đề tâm là đệ nhất. Thế nhưng nếu tâm còn chấp tướng "Không", còn chấp tướng "bất hoại", còn chấp tướng "vô phân biệt" thì liền có tướng "hư vọng" khởi sanh ra. Khi tu hành, hành giả phải tùy Vô thượng Bồ đề tâm mà hành các tướng, nhưng chẳng nên chấp tướng, chẳng nên tự cao.


Nghĩa cơ bản : ý nói Vô thượng Bồ đề tâm là đệ nhất. Nhưng nếu đã phát Bồ đề tâm :) muốn được Vô thượng Bồ đề tâm) mà còn chấp có tướng “không”, tướng “bất hoại”, tướng “vô phân biệt” - thì liền khởi sanh tướng hư vọng. Do đó, khi tu hành chúng ta phải tùy Vô thượng Bồ đề tâm mà hành các tướng, nhưng chẳng nên chấp tướng, chẳng nên tự cao. Vì khi tự cao là chúng ta đã có sự phân biệt : mình “đắc”, người “chưa đắc”.
....... Lúc bấy giờ ngài Xá Lợi Phất tán thán ngài Tu Bồ Đề là bậc chân Phật tử, từ miệng Phật sanh, từ pháp hóa sanh, thủ được pháp phần của Phật.

....... Phật ấn chứng lời nói của ngài Tu Bồ Đề, cùng lời tán thán ngài Tu Bồ Đề của ngài Xá Lợi Phất.


.......Hỏi: Các vị Bà- la- môn cũng từ nơi miệng Phạm Thiên sanh, nên trong 4 tộc tánh bên Ấn Độ thì Bà- la- môn đứng về hàng thứ nhất. Nay vì sao ngài Xá Lợi Phất lại tán thán ngài Tu Bồ Đề là từ miệng Phật sanh ?

.......Đáp: Vì ngài Tu Bồ Đề đã thấy pháp, đã biết pháp. Trái lại phàm phu chưa vào được đạo, nên chỉ y chỉ vào thân tướng của Phật mà cúng dường. Như vậy là họ chỉ thủ tướng phần mà thôi.

....... Nói về thủ, cũng nên biết có hai trường hợp là:

- Thủ tài.
- Thủ pháp.

....... Thủ tài là gom góp tài vật, của cải về cho mình. ví như đứa con bất hiếu, chẳng muốn noi theo lời dạy dỗ của cha mẹ, mà chỉ muốn tranh phần tài sản.

....... Còn thủ pháp là thủ lấy các pháp thiền định, 5 căn, 5 lực, 7 giác chi, 6 Thánh đạo... cùng hết thảy các thiện pháp. vì sao ? Vì như vậy là vào được trong pháp tự tín, đầy đủ các thần thông, thâm nhập vào diệt tận định nên được thân đắc chứng.

.......
Ví như ngài Xá Lợi Phất là bậc trí huệ đệ nhất, ngài Mục Kiền Liên là bậc thần thông đệ nhất, ngài Tu Bồ Đề là bậc Vô tránh tam muội đệ nhất. Ngài Tu Bồ Đề vào Vô tránh tam muội, thường quán tâm chúng sanh mà chẳng khởi cạnh tranh. Ngài đã được căn bản tam muội tứ thiền, nên được diệu dụng hành pháp ấy ở cõi Dục vậy.
.......Hỏi: Bát nhã Ba- la- mật là pháp tu của hàng Bồ tát. Như vậy vì sao nói rằng muốn được 3 thừa đạo, phải tu học Ba- la- mật ?

.......Đáp: Nói về Bát nhã Ba- la- mật là nói về thật tướng pháp, là nói về Vô dư Niết bàn. Đây là nhân tu của của cả 3 thừa đạo. Bởi vậy nên nói cả 3 thừa đều phải tinh tấn tu học Bát nhã Ba- la- mật.

.......
Trong kinh đã có nói nhiều về các nhân duyên tu, như nói tu 3 giải thoát môn Không, Vô tướng và Vô tác v.v... Nếu hành giả xa lìa Không giải Thoát Môn thì chẳng có đạo, chẳng có Niết bàn, nên cả 3 thừa đều phải tu học Bát nhã Ba- la- mật.
Đáp : nghĩa cơ bản


Tổ Long Thọ lưu ý chúng ta : khi nói về Bát nhã Ba la mật là nói về thật tướng pháp, nói về Vô dư Niết bàn. Cho nên, lời giảng nói về Bát nhã ba la mật là nhân tu của cả ba thừa đạo (: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa). Bởi vậy, chúng ta tu theo thừa nào (Nhị thừa hay Bồ tát thừa) cũng đều phải tinh tấn tu học Bát nhã Ba la mật.

Trong kinh đức Phật Thích Ca cũng đã có nói nhiều về các nhân duyên tu. Như nói tu 3 pháp giải thoát môn : Không, Vô tướng và Vô tác v.v… Nếu người tu học Phật đạo xa lìa KHÔNG TU giải thát môn (ý nói không tu : Không, Vô tướng, Vô tác) - thì chẳng có đạo (vì không có tu theo đạo nào cả), chẳng có Niết bàn (vì không tu nên không có quả Niết bàn), nên dầu chúng ta tu theo thừa nào cũng đều phải tu học Bát nhã Ba la mật.

....... Ở đoạn kinh trên đây, ngài Xá Lợi Phất nêu lên các nhân duyên rằng Bát nhã Ba- la- mật rộng nói về cả 3 thừa, nên cả 3 thừa đều phải tu học Bát nhã Ba- la- mật. Dù muốn học pháp Thanh Văn, muốn học pháp Bích Chi Phật, hay muốn học pháp Bồ tát, thì hành giả vẫn phải nghe Bát nhã Ba- la- mật, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, như pháp mà tu hành.
Vì cách tu học Bát nhã Ba la mật của Bồ tát - trước và sau khi - vào được Vô sanh pháp nhẫn _ trái ngược nhau :

……..Trước khi vào được Vô sanh pháp nhẫn - thì thấy có pháp.
..........Sau khi vào được Vô sanh pháp nhẫn - thì không thấy có pháp
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18/3/10
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
LUẬN ĐẠI TRÍ ĐỘ Lược giải - phẩm (9) TẬP TÁN


* Tiên ni Phạm chí

<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->
http://www.diendanphatphap.com/diendan/showthread.php?23931-LU%E1%BA%ACN-%C4%90%E1%BA%A0I-TR%C3%8D-%C4%90%E1%BB%98-L%C6%B0%E1%BB%A3c-gi%E1%BA%A3i-Ph%E1%BA%A9m-%285%29-%286%29-%287%29-%288%29-%289%29.&p=85313&viewfull=1#post85313



LUẬN:

....... Trong kinh có nêu mẫu chuyện sau đây:


....... Khi Phật Thích Ca Mưu Ni còn đang hành đạo Bồ tát, có vị đạo sĩ Bà - la - môn thấy tướng mạo uy nghiêm, giải thoát của Bồ tát, liền tiên đoán rằng Bồ tát không lâu nữa sẽ thành Phật.


....... Tiên ni Phạm chí là cậu của vị Bà - la - môn này:


....... Vị đạo sĩ Bà- la- môn này là một bậc trưởng lão, trí cao, đức trọng, trong dòng họ Phạm chí. Khi chưa xuất gia, ông rất có danh vọng. Khi xuất gia rồi, ông thâm cứu nhiều kinh thư, tu tâm, tọa thiền. Trong khi học đạo, vì muốn cầu trí huệ, nên ông (vị Bà la môn _ cháu của Tiên ni Phạm Chí) tìm đến luận nghị đường Phạm chí, để luận nghị với các luận sư.


.......Ông (vị Bà la môn _ cháu của Tiên ni Phạm Chí) hỏi các vị luận sư rằng: Quý vị tự xưng là nhất thiết trí, mà chẳng bằng được ngài Ca Diếp, một vị đại sư đáng được tôn xưng.


....... Quý vị cũng tự xưng là đại sư, mà khi có đệ tử lớn hay nhỏ của quý vị chết, quý vị chẳng có thể nói lên được chỗ sanh xứ của họ ở đời sau. Phật mới là bậc đại sư, tối tôn, tối trọng. Khi có một đệ tử lớn hay nhỏ của Phật chết, thì Phật đều biết chỗ sanh xứ của họ ở đời sau.


....... Tiên ni Phạm chí vừa nghe vị Bà - la - môn (cháu của Tiên ni Phạm Chí) nói như vậy, liền tìm đến chỗ Phật, đảnh lễ, rồi ngồi sang một bên.
.......Tiên ni Phạm chí hỏi Phật :" Bạch Thế Tôn ! Trước đây ở luận nghị đường Phạm chí, tôi có được nghe nói rằng các đệ tử nhỏ của Phật vẫn còn sanh; còn các đệ tử lớn của Phật chẳng còn sanh nữa. Pháp ấy như thế nào ?

.......Phật dạy : " Pháp của ta thậm thâm vi diệu, các ông thật khó biết, khó giải. Vì sao ? Vì các ông chìm đắm trong đêm dài của các chấp kiên cố. Các ông chấp dục, chấp pháp, nên khó thấy, khó có thể giải được pháp của ta".
Giải : nghĩa cơ bản

Vì vị Bà la môn nói Phật : “Khi có một đệ tử lớn hay nhỏ của Phật chết, thi Phật đều biết chỗ sanh xứ của họ ở đời sau”.

Nghĩa là, dầu đệ tử lớn hay nhỏ của Phật cũng đều còn sanh. Trong khi Tiên ni Phạm chí thì lại nghe Phật nói : “các đệ tử nhỏ của Phật thì vẫn còn sanh ; còn các đệ tử lớn của Phật thì chẳng còn sanh nữa”.

Cho nên, điều Phật biết và pháp Phật nói có chỗ sai khác. Do đó, Tiên ni Phạm chí mới hỏi Phật : “Pháp Phật nói như thế nào ?”


Đức Phật giải thích : Pháp của Phật thậm thâm vi diệu, các ông (có cả chúng ta) thật khó biết, khó giải. Sở dĩ chúng ta khó biết, khó giải - là vì chúng ta chìm đắm trong đêm dài của các chấp kiên cố.Và các chấp_ khiến chúng ta khó thấy, khó có thể giải được pháp của Phật - là chấp dục, chấp pháp.

Nhưng ý chính của mẫu chuyện này là Tổ Long Thọ muốn xác định với chúng ta _ pháp của Phật có còn sanh ; có chẳng còn sanh. Đối với đệ tử nhỏ thì đức Phật nói còn sanh ; đối với đệ tử lớn thì đức Phật nói chẳng còn sanh.

....... Tiên ni Phạm chí thưa :" Bạch Thế Tôn ! Tôi tin Phật. Cúi xin Phật vì tôi thuyết pháp, khiến tôi được sanh pháp nhãn ngay ở nơi đây."
Giải : nghĩa cơ bản.


Khi chúng ta nghe hiểu được lời Phật đáp - thì ngay tại cõi người này - chúng ta được sanh pháp nhãn. Nhưng vì Tiên ni Phạm chí nói ông tin Phật. Cho nên, muốn hiểu được lời đáp này của Phật - chúng ta cũng phải tin Phật như Tiên ni Phạm chí. Nghĩa là, đối với lời đáp này của Phật - chúng ta không ứng dụng lời Phật dạy trong kinh Đại Bát Niết Bàn - phẩm Tứ Y :

Đức Phật dạy : “ Nầy Ca-Diếp ! Cho đến đối với lời nói của Như-Lai mà có lòng nghi ngờ còn không nên thọ trì,

http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-58_4-64_5-50_6-2_17-207_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
....... Phật hỏi :" Ý ông nghĩ sao ? Ông có thấy sắc như khứ chăng ?"

....... Tiên ni Phạm chí đáp :" Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải vậy".


....... Phật hỏi :" Ông có thấy thọ, tưởng, hành, thức như khứ chăng ?"


....... Tiên ni Phạm chí đáp :" Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải vậy".


....... Phật hỏi :" Ông có thấy ly sắc như khứ chăng ?"


....... Tiên ni Phạm chí đáp :" Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải vậy".


....... Phật hỏi :" Ông có thấy ly thọ, tưởng, hành, thức như khứ chăng ?"


....... Tiên ni Phạm chí đáp :" Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải vậy".


....... Phật hỏi :" Ông có thấy vô sắc, vô thọ, vô tưởng, vô hành, vô thức như khứ chăng ?"


....... Tiên ni Phạm chí đáp :" Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải vậy".


....... Phật dạy :" Tất cả các điều mà ta vừa hỏi, ông đều trả lời là chẳng thấy như khứ. Như vậy, ông còn nghi ngờ gì mà hỏi ta như vậy ?"
Giải : nghĩa cơ bản

Thì phần đông chúng ta cũng có cùng chỗ hiểu với Tiên ni Phạm chí. Còn Phật nói : “Tất cả các điều mà ta vừa hỏi, ông đều trả lời là chẳng thấy như khứ. Như vậy, ông còn nghi ngờ gì mà hỏi ta như vậy ?”

Là vì khi chúng ta đều chẳng thấy như khứ - tức là chúng ta đã thấy - tất cả chẳng như khứ. Mà khi đã thấy rồi thì đâu còn nghi ngờ gì nữa. Cho nên, lời Tiên ni Phạm chí hỏi không phải là chỗ để nghi ngờ.

...... Rồi Phật bảo Tiên ni Phạm chí rằng :" Nếu đệ tử của ta, ở nơi pháp chẳng biết rõ ràng, mà nói có đời sau, nói có chỗ sanh xứ, thì đó là ngã mạn, là có tàn dư vậy. Nếu đệ tử của ta giải biết rõ ràng về nghĩa ấy, mà chẳng nói đến chỗ sanh xứ, mới thật là không có ngã mạn, không có tàn dư vậy".


....... Vị Tiên ni Phạm chí nghe xong thời pháp, liền được đạo nhãn. Ông từ chỗ ngồi đứng dậy thưa rằng :" Bạch Thế Tôn ! Con nguyện được xuất gia theo Phật".

....... Tức thời râu tóc đều rụng, và ông liền trở thành một vị Sa Môn. Chẳng bao lâu sau, ông đắc quả vị A- la- hán.
Giải : nghĩa cơ bản

Phật nói : nếu chúng ta ở nơi pháp - chẳng biết rõ ràng, mà nói CÓ ĐỜI SAU, nói có chỗ sanh xứ, thì đó là ngã mạn,có tàn dư vậy. Nếu chúng ta giải biết rõ ràng về nghĩa ấy - tức là giải biết rõ ràng - vì sao có đời sau. Nhưng vì có đời sau tức là còn sanh.

Cho nên, ý của Phật là nói - nếu chúng ta biết rõ ràng Phật nói còn sanh là nói với đệ tử nhỏ (căn cơ thấp) ; còn Phật nói chẳng còn sanh là nói với đệ tử lớn (căn cơ cao) - mà chẳng nói đến _ chỗ sanh xứ, thì mới thật là không có ngã mạn, không có tàn dư. Vì chúng ta chẳng nói - là vì chúng ta biết rõ ràng - lời giảng đó là Phật giảng tùy duyên - không phải tướng chơn thật.

Do chính lời giảng này mới làm cho Tiên ni Phạm chí được đạo nhãn _ không còn thắc mắc pháp Phật còn sanh hay chẳng còn sanh. Và Tổ Long Thọ kết luận

....... Mẫu chuyện trên đây cho thấy rằng vị tiên ni Phạm chí, do tin lời Phật là không luống dối, mà được đạo nhãn. Bởi vậy nên trong kinh nói rằng tiên ni Phạm chí tin Phật, mà được đạo. Đây chỉ là sơ tín (niềm tin ban đầu) mà thôi.

....... Về sau, tiên ni Phạm chí nghe Phật thuyết pháp, mà phá được ngã chấp, biết rõ bản lai thường là vô ngã, nên chẳng có chỗ ở y, đều là như mộng, là như huyễn, là hư dối, là chẳng thật có, là bất khả đắc cả. Nếu đã tin có tín lực như vậy, thì vào được nơi thật tướng pháp, nên chẳng còn thọ sắc,.., dẫn đến chẳng còn thọ thức. Vì sao ? Vì biết rõ sắc,..., dẫn đến thức cũng đều như khứ cả.
Giải : nghĩa cơ bản

Tổ Long Thọ giải thích : mẫu chuyện Ngài kể - chỉ mới nói về niềm tin ban đầu (sơ tín) của Tiên ni Phạm chí. Vì nếu chúng ta không có niềm tin lời Phật - không luống dối thì chúng ta không có được đạo nhãn.

Vì như hiện nay phần đông chúng ta cũng thường hay nói : chẳng thấy _ sắc, thọ, tưởng, hành, thức ; ly sắc, ly thọ, ly tưởng, ly hành, ly thức _ khứ như. Nhưng, đồng thời cũng lại tin _ có đời sau. Vì tin có đời sau - nên chúng ta mới tạo phước đời này để đời sau được hưởng. Do đó, chỗ chúng ta nghe là lời đức Phật giảng cho đệ tử lớn. Còn chỗ chúng ta tin lại là lời đức Phật giảng cho đệ tử nhỏ. Cho nên, chúng ta cũng như Tiên ni Phạm chí khi chưa có đạo nhãn.

Và theo lời Tổ Long Thọ dạy - thì khi có đạo nhãn rồi _ chúng ta mới nghe lời Phật thuyết pháp để phá ngã chấp, biết rõ bản lai thường là vô ngã, nên chẳng có chỗ ở y, đều là như mộng, là như huyễn, là hư dối, là chẳng thật có, là bất khả đắc cả. Và khi chúng ta đã tin có tín lực như vậy, thì vào được nơi thật tướng pháp, biết rõ sắc,..., dẫn đến thức cũng đều là như khứ cả - chứ chẳng phải _chỉ _ chẳng thấy như khứ ; như phần đông chúng ta đang chẳng thấy.

Nhưng có lẽ điều chúng ta nên ghi nhớ nơi đoạn luận này - là cần phải có đạo nhãn rồi - chúng ta mới nghe hiểu được lời Phật thuyết pháp _ dạy cách phá ngã chấp... vào được nơi thật tướng.
Và muốn có đạo nhãn thì chúng ta phải tin lời Phật nói :“Nếu ở nơi pháp chẳng biết rõ ràng, mà nói có đời sau, nói có chỗ sanh xứ, thì đó là ngã mạn, là có tàn dư vậy”.


Thật ra, nhơn kiếp này - quả kiếp sau quy luật của pháp thế gian. Nên khi chưa thoát sanh tử thì chúng ta thuận theo luật nhơn quả. Nhưng khi muốn tu thoát sanh tử - thì chúng ta phải tránh xa quy luật đó. Vì nếu chúng ta còn mong cầu cho đời sau thì sẽ không thể thoát sanh tử.
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18/3/10
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
LUẬN ĐẠI TRÍ ĐỘ Lược giải - phẩm (10) HÀNH TƯỚNG

* Vô phân biệt trí.
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->
http://www.diendanphatphap.com/diendan/showthread.php?...&p=85440&viewfull=1#post85440

LUẬN:

……..Hỏi: Bồ tát hành pháp gì mà gọi là hành rốt ráo không ?

……..Đáp: Phật dạy hết thảy các pháp đều là rốt ráo không. Trái lại phàm phu, ở nơi rốt ráo không, mà điên đảo khởi sanh các chấp.

....... Phàm phu, do bị vô minh che tâm, bị các kiết sử tà kiến làm mê ám, nên khi vừa nghe nói đến một pháp nào là liền chấp lấy pháp tướng dẫn đến nghe pháp Phật truyền dạy, mà cũng khởi tâm chấp, như chấp có Thánh đạo, chấp có các Thánh đạo quả v.v...


....... Bởi vậy nên nói đạo của phàm phu cũng là chấp nhiễm ô.
Đáp : nghĩa cơ bản

Ý Tổ Long Thọ nói : Phật đã dạy hết thảy các pháp đều là rốt ráo không. Trái lại phàm phu, ở nơi hết thảy các pháp đều là rốt ráo không, mà điên đảo khởi sanh các chấp.

Phàm phu, do bị vô minh che tâm, bị các kiết sử tà kiến làm mê ám, nên khi vừa nghe Phật nói đến một pháp nào là liền chấp lấy - từ pháp tướng dẫn đến nghe pháp Phật truyền dạy, mà cũng khởi tâm chấp... (ý nói : phàm phu không những chỉ khởi tâm chấp đối với pháp tướng - mà ngay cả khi nghe pháp Phật truyền dạy cũng khởi tâm chấp.
Vì âm thanh Phật truyền dạy pháp _ cũng là pháp tướng _ không thể chấp).


Bởi vậy - tức là bởi phàm phu khi vừa nghe Phật nói đến một pháp nào là liền chấp - nên Phật mới nói đạo của phàm phu cũng là chấp nhiễm ô.



...... Ngài Xá Lợi Phất hỏi Phật : Nếu chỗ thấy của phàm phu đều là chẳng thật có, thì vì sao lại nói có pháp ?

....... Phật dạy : Các pháp đều là vô sở hữu. Phàm phu ở nơi vô sở hữu mà cho là hữu. Vì sao ? Vì phàm phu chẳng có thể lìa vô minh, lìa các tà kiến, mà quán được. Như vậy gọi là vô minh. Ví như trẻ nít thấy người lớn đưa nắm tay không lên cao, mà cứ tưởng là có vật gì cất giấu bên trong đó.
Phật dạy : nghĩa cơ bản

Các pháp đều là vô sở hữu. Phàm phu ở nơi các pháp vô sở hữu mà cho là hữu.

Đức Phật giải thích : Vì phàm phu chẳng có thể lìa vô minh , lìa các tà kiến , quán được. Như vậy gọi là vô minh (ý nói : khi lìa vô minh, lìa các tà kiến - thì phàm phu không thể _ quán gì được cả. Nên, Phật mới gọi phàm phu là vô minh)

Đức Phật ví việc phàm phu khi nghe Phật nói đến một pháp nào là liền chấp - cũng giống như trẻ nít thấy người lớn đưa nắm tay lên cao, mà cứ tưởng là có vật gì cất dấu trong đó - mặc dầu người lớn không có cất dấu vật gì trong nắm tay cả.

Cho nên, Tổ Long Thọ dẫn chứng lời giảng này của Phật - là để giải thích cho chúng ta biết - chỗ hiểu của phàm phu cũng giống như đứa con nít - rất dễ bị gạt.
Điều này ẩn nói - nếu chưa quyết chắc là người trí thì vẫn có thể bị kẻ ác gạt. Nên Phật mới thường căn dặn chúng ta đừng chấp chỗ hiểu của mình là đúng.


Vì nếu là người trí thì tự tính đã không chấp - nên sẽ không có ý tưởng phân biệt “chấp hay không chấp”. Còn nếu như ý tưởng phân biệt - thế này là chấp, thế này là không chấp - rồi “không chấp” - thì cũng là chấp _ không chấp”.



....... Ngài Xá Lợi Phất hỏi Phật : Vì sao chẳng thấy các pháp là vô sở hữu, thì gọi là vô minh ?

....... Phật dạy : Sắc vô sở hữu,..., dẫn đến 18 bất cộng pháp vô sở hữu.

....... Nếu chẳng biết như vậy, mà khởi sanh ái niệm, ức tưởng phân biệt, thì gọi là vô minh. Do bị vô minh che tâm, mà rơi về 2 chấp "hữu - vô", khiến bỏ mất huệ minh.

....... Huệ minh là trí huệ vô phân biệt. Do huệ minh mà biết rõ các pháp đều là vô sở hữu tướng, đều là rốt ráo không; lại biết rõ do nơi tâm phân biệt, mà khởi tâm ức tưởng phân biệt, để rồi khởi chấp có 5 ấm, có 12 nhập, có 18 giới, v.v... Cũng do tâm ức tưởng phân biệt, mà khi nghe thuyết về các thiện pháp, như nghe thuyết về 6 pháp Ba- la- mật, dẫn đến nghe thuyết về 18 bất cộng pháp... là liền ức tưởng phân biệt, liền chấp đắm.

....... Chấp đắm như vậy, thì Thánh pháp cũng trở thành thế gian pháp. Ví như có người dùng ngón tay để chỉ mặt trăng, mà người vô trí chỉ chăm chú nhìn ngón tay, khiến chẳng thấy được mặt trăng vậy. Vì để tâm chấp ngón tay, thì chẳng sao thấy được mặt trăng.

....... Chư Phật và chư hiền Thánh, vì hàng phàm phu mà nói pháp…
Phật dạy : nghĩa cơ bản


Phật nói : Nếu chẳng biết, chẳng thấy - “sắc vô sở hữu,…, dẫn đến 18 bất cộng pháp vô sở hữu”, mà khởi sanh ái niệm, ức tưởng phân biệt, thì gọi là vô minh.

Nên cũng có nghĩa là : Nếu chúng ta biết rõ - “sắc vô sở hữu,…, dẫn đến 18 bất cộng pháp vô sở hữu”, mà … phân biệt, thì không gọi vô minh.


Còn Phật nói : Do bị vô minh che tâm, mà rơi về 2 chấp "hữu - vô", khiến bỏ mất huệ minh.


Là cho chúng ta biết : sở dĩ phàm phu rơi về 2 chấp “hữu - vô” là vì tâm phàm phu bị vô minh che. Do tâm bị vô minh che khiến phàm phu bỏ mất huệ minh.


Còn đức Phật nói : Huệ minh là trí huệ vô phân biệt. Do huệ minh - tức là do trí huệ vô phân biệt - mà biết rõ các pháp đều là vô sở hữu tướng, đều là rốt ráo không; lại biết rõ do nơi tâm phân biệt, mà khởi tâm ức tưởng phân biệt, để rồi khởi chấp có 5 ấm, có 12 nhập, có 18 giới, v.v... Cũng do tâm ức tưởng phân biệt, mà khi nghe thuyết về các thiện pháp, như nghe thuyết về 6 pháp Ba- la- mật, dẫn đến nghe thuyết về 18 bất cộng pháp... là liền ức tưởng phân biệt, liền chấp đắm.

Thì vì - do trí vô phân biệt - mà chúng ta biết rõ … do nơi tâm phân biệt, mà khởi tâm ức tưởng phân biệt. Nên trí huệ vô phân biệt - cũng đã biết có hai thứ. Vì đã có sự phân biệt - tâm phân biệt và tâm không phân biệt: .


Vì vậy, đức Phật giảng lời này là để giải thích cho chúng ta biết : khi chúng ta chưa biết rõ vì sao - “sắc vô sở hữu,…, dẫn đến 18 bất cộng pháp vô sở hữu” - thì đừng có phân biệt. Khi nào chúng ta biết rõ vì sao “sắc vô sở hữu,…, dẫn đến 18 bất cộng pháp vô sở hữu” - thì có thể phân biệt. Vì trí huệ vô phân biệt _ cũng có sự phân biệt.


Còn Phật nói : Chấp đắm như vậy, thì Thánh pháp cũng trở thành thế gian pháp… Là đã gián tiếp xác định với chúng ta - thực tế có hai pháp : Thánh pháp và thế gian pháp.


Rồi Phật giảng tiếp :

....... Chấp đắm như vậy, thì Thánh pháp cũng trở thành thế gian pháp. Ví như có người dùng ngón tay để chỉ mặt trăng, mà người vô trí chỉ chăm chú nhìn ngón tay, khiến chẳng thấy được mặt trăng vậy. Vì để tâm chấp ngón tay, thì chẳng sao thấy được mặt trăng.

....... Chư Phật và chư hiền Thánh, vì hàng phàm phu mà nói pháp. Trong khi đó thì phàm phu chỉ chấp âm thanh, chấp lời nói, mà chẳng thấy được Thánh ý, nên chẳng biết rõ được thật nghĩa.

....... Phàm phu bỏ mất Phật tánh, nên chẳng sao ra khỏi ba cõi, chẳng rời pháp Nhị thừa, chẳng rõ được Thánh ý.

....... Phàm phu nghe nói đến pháp không, mà chẳng tin. Do chẳng tin, nên chẳng làm, chẳng an trú nơi 6 pháp Ba- la- mật, dẫn đến chẳng an trú nơi 18 bất cộng pháp, khiến bỏ mất hết các công đức.

....... Phàm phu, do chấp 5 ấm, 12 nhập, có giới, v.v... mà khởi sanh tà kiến, dấy tâm tham sân si... Lại cũng chấp luôn 6 pháp Ba- la- mật, chấp 4 niệm xứ dẫn đến chấp 18 bất cộng pháp, chấp 4 quả Thanh Văn, dẫn đến chấp quả Vô thượng Bồ đề.
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18/3/10
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
LUẬN ĐẠI TRÍ ĐỘ Lược giải - phẩm (14) ĐOẠN CHƯ KIẾN

* Đoạn trừ các kiến.
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->
http://www.diendanphatphap.com/diendan/showthread.php?...&p=85591&viewfull=1#post85591


KINH:

....... Lúc bấy giờ ngài huệ mạng Xá lợi Phất bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Con cũng muốn được nói về chỗ sở hành của Bồ tát Ma- ha- tát.

....... Phật dạy : Này Xá lợi Phất ! Ông hãy cứ nói đi.

....... Ngài Xá lợi Phất thưa : Bạch Thế Tôn ! Theo chỗ con nghĩ, thì Bồ tát phải đoạn Sắc kiến,..., dẫn đến thức kiến, ngã kiến, mạng kiến, sanh kiến, dưỡng dục kiến, nhân kiến, tác kiến, sử tác kiến, khởi kiến, sử khởi kiến, thọ kiến, sử thọ kiến, tri giả kiến, kiến giải kiến, đoạn kiến, thường kiến,hữu kiến, vô kiến, ấm kiến, nhập kiến, giới kiến, đế kiến, nhân duyên kiến, niệm xứ kiến,,..., dẫn đến bất cộng pháp kiến, Phật đạo kiến, thành tựu chúng sanh kiến, tịnh Phật độ kiến, Phật kiến, chuyển pháp luân kiến.

.......Bồ tát phải đoạn sạch hết thảy các kiến, mới có thể vì người thuyết pháp, mới có thể dược gọi là Bồ tát Ma- ha- tát.

....... Ngài Tu Bồ Đề hỏi ngài Xá lợi Phất : Vì nhân duyên gì mà ngài nói sắc kiến là vọng kiến; thọ, tưởng, hành, thức kiến,..., dẫn đến chuyển pháp luân kiến đều là vọng kiến ?

....... Ngài Xá lợi Phất đáp : Nếu Bồ tát chẳng có các lực phương tiện, thì ở nơi sắc sẽ sanh kiến chấp; ở nơi thọ, tưởng, hành, thức ,..., dẫn đến ở nơi chuyển pháp luân cũng sẽ sanh kiến chấp. vì sao ? Vì dụng pháp hữu sở đắc vậy.

....... Trái lại nếu Bồ tát hành Bát nhã Ba- la- mật mà có đầy đủ các lực phương tiện, thì sẽ đoạn được các lưới chấp. vì sao ? Vì đó là dụng pháp vô sở đắc vậy. Do Bồ tát ở nơi vô sở đắc, mà thuyết pháp, nên được vô ngại thuyết.

-------------


* Vọng kiến - Chân kiến. (Thần lực của ngài Xá Lợi Phất)

http://www.diendanphatphap.com/diendan/showthread.php?...&p=85594&viewfull=1#post85594


LUẬN:

....... Trong kinh có chép mẫu chuyện sau đây :

....... Phật dẫn 500 đệ tử đến hồ A Nậu Đạt thuyết về các bản nguyện nhân duyên, khiến tự thân Phật được viễn ly lạc.

....... Lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất vắng mặt ở chúng hội. Phật bảo ngài Mục kiền Liên đi mới ngài Xá Lợi Phất về.

....... Ngài Mục kiền Liên dùng thần thông đến tịnh xá Kỳ Hoàn để gặp ngài Xá Lợi Phất. Ngài Xá Lợi Phất đang may y, nói với ngài Mục kiền Liên chở ngài may y xong, rồi sẽ đi. Ngài Mục kiền Liên hối thúc phải đi gấp, nhưng thấy y chưa may xong, nên bèn lấy tay xoa lên chiếc y, khiến chiếc y liền được hoàn thành.

....... Ngài Xá Lợi Phất thấy ngài Mục kiền Liên dùng thần thông, bèn thả một sợi chỉ xuống đất, rồi nhờ ngài Mục kiền Liên lấy lên dùm. Ngài Mục kiền Liên dùng cả hai tay kéo sợi chỉ, mà sợi chỉ vẫn cứ ở tại chỗ. ngài Mục kiền Liên liền nhập vào định, đập tay xuống đất, khiến mặt đất liền rung động, nhưng sợi chỉ vẫn cứ ở yên vị trí cũ.

....... Lấy bấy giờ ở nơi hồ A Nậu Đạt, ngài Kiều Trần Như hỏi Phật :" Bạch Thế Tôn ! Vì nhân duyên gì mà mặt đất rung động ?".

....... Phật dạy : " Ông Mục kiền Liên dùng cả hai tay để kéo sợi chỉ của ông Xá Lợi Phất , mà chẳng sao kéo lên được. Ông bèn nhập định, đập tay xuống đất, khiến mặt đất liền rung động, mà vẫn chẳng sao kéo sợi chỉ lên được". Rồi Phật dạy : " Này các Tỷ kheo ! Ông Xá Lợi Phất nhập định mà ông Mục kiền Liên còn chẳng biết được đó là định gì. Cũng vậy, khi Phật nhập định, ông Xá Lợi Phất cũng chẳng biết được Phật vào định gì. Trí hu của Phật thậm thâm vi diệu, đến như ông Xá Lợi Phất cũng chẳng sao lường được".
Giải : nghĩa cơ bản

Qua câu chuyện kể cho chúng ta biết : ông Mục Kiền Liên khi nhập định, đập tay xuống đất, có thể khiến mặt đất liền rúng động. Nhưng vẫn không nhận biết được sự nhập định của ông Xá Lợi Phất khi thả sợi chỉ xuống đất. Trong khi, Phật nhập định thì ngay cả ông Xá Lợi Phất cũng chẳng biết được Phật vào định gì.

Và sự nhập định sai khác nhau như vậy - là tùy thuộc vào trí huệ.

Từ sự việc này mà chúng ta suy luận - thì trong các pháp hội - đức Phật nhập định, chúng ta cũng không thể biết được đức Phật nhập định gì để mà tin rằng mình cũng nhập định như Phật. Vì trí huệ của chúng ta không những không thể sánh bằng Phật - mà ngay cả đối với ông Mục Kiền Liên chúng ta cũng đã không thể sánh bằng. Và khi ông Xá Lợi Phất nhập định - ông Mục Kiền Liên cũng không biết.

Do đó, Tổ Long Thọ kể lại câu chuyện này là để chúng ta biết, cùng là nhập định - nhưng không phải nhập định nào cũng giống nhau.
Và chỉ cần có trí huệ như ngài Xá Lợi Phất - thì ngay cả ông Mục Kiền Liên cũng đã không nhận ra được sự nhập định rồi.
Vì vậy, chúng ta đừng tin vào trí huệ của mình - qua sự nhập định.


....... Bởi nhân duyên vậy, nên ngài Xá Lợi Phất chẳng muốn phô bày trí huệ cao rộng của mình, mà chỉ muốn theo Phật chuyển pháp luân. Ngài muốn nói lên chỗ sở hành của chư Bồ tát Ma- ha- tát, để Phật vị vào đó giảng rộng thêm về nghĩa Ma- ha- tát.
....... Ngài Tu Bồ Đề tự nghĩ " tu 5 ấm,..., dẫn đến tu các Phật pháp cũng đều là Bồ tát hạnh cả", nên mới hỏi ngài Xá Lợi Phất rằng : " Vì sao Bồ tát phải đoạn các kiến ?".

....... Ngài Xá Lợi Phất đáp: " Nếu Bồ tát hành Bát nhã Ba- la- mật mà chẳng có các lực phương tiện, thì khi quán sắc, liền thủ sắc tướng, khởi sanh sắc kiến. Như vậy là vọng kiến.

....... Trái lại, Nếu Bồ tát hành Bát nhã Ba- la- mật mà có các lực phương tiện, thì khi quán sắc, chẳng thủ sắc tướng, chẳng khởi sanh sắc kiến. Như vậy là chân kiến.

....... Đối với các tà kiến chấp khác cũng đều như vậy cả.
Đáp : nghĩa cơ bản


Vì trong lời đáp này - thì nếu Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật mà chẳng có các lực phương tiện mà quán… là vọng kiến. Còn nếu như có các lực phương tiện mà quán… là chân kiến. Cho nên, lực phương tiện là quan trọng nhất đối với người muốn hành Bát nhã Ba la mật. Do đó, chúng ta hiểu sai về lực phương tiện thì sẽ hành sai Bát nhã Ba la mật.


Và d/đ thấy trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa - phẩm Phương Tiện - trong phần kệ có đoạn Phật nói :

Trọn chẳng đem Tiểu thừa
Mà tế độ chúng sanh,
Phật tự trụ Đại-thừa
Như pháp của mình được
Định, huệ, lực trang nghiêm
Dùng đây độ chúng sanh.
Tự chứng đạo vô thượng

http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-58_4-469_5-50_6-2_17-198_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
Cho nên, đức Phật đã giải thích cho chúng ta biết - khi Phật trụ Đại thừa độ chúng sanh - thì Phật dùng lực của chính mình để tế độ chúng sanh. Cho nên, muốn hành Bát nhã Ba la mật - thì chúng ta phải có thế lực của chính mình. Như vậy, thì khi quán… mới có được chân kiến.

Thật ra, khi chúng ta quán là cần trí huệ chứ không phải cần thế lực. Chỉ khi nào hành Bát nhã Ba la mật - chúng ta mới cần đến thế lực. Nhưng vì thế lực và trí huệ cùng là tự tính của Phật tánh. Nên trí huệ càng sáng thì thế lực càng mạnh.

Do đó, ý của ngài Xá Lợi Phất là cho chúng ta biết. Muốn hành Bát nhã Ba la mật - chúng ta phải có trí huệ đủ làm cho thế lực của chúng ta mạnh. Lúc bấy giờ chúng ta mới có được chân kiến. Còn khi chúng ta chưa đủ thế lực của chính mình để giúp đở người khác - thì chúng ta chưa có được chân kiến. Vì vậy, chúng ta đừng vội tin chỗ quán thấy của mình đã là chân kiến.

Nhưng điều chúng ta cần nên lưu ý - là nếu do trì chú mà chúng ta có thế lực - thì thế lực đó không phải là thế lực của chính chúng ta. Thế lực của chính chúng ta là thế lực có từ trí huệ.

<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18/3/10
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
LUẬN ĐẬI TRÍ ĐỘ Lược giải - phẩm (18) TÁC VẤN THỪA

* Bồ tát hành 6 pháp Ba-la-mật là Bồ tát hành Ma ha diễn.
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->
KINH :

http://www.diendanphatphap.com/diendan/showthread.php?...&p=85704&viewfull=1#post85704


* Ma ha diễn & Bát nhã Ba-la-mật

http://www.diendanphatphap.com/diendan/showthread.php?...&p=85710&viewfull=1#post85710

LUẬN :

.......Hỏi: Đây là hội thuyết về Bát nhã Ba- la- mật, ngài Tu Bồ Đề hỏi Phật về Bát nhã Ba- la- mật, và đã được Phật giải đáp rồi. Nay vì sao ngài Tu Bồ Đề lại hỏi thêm về Ma ha diễn, và lại cũng được Phật giải đáp nữa ?

.......Đáp: Bát nhã Ba- la- mật và Ma ha diễn có cùng nghĩa, chỉ khác nhau về danh tự mà thôi.

....... Ma ha diễn được phiên âm từ chữ Phạn Mahayâna. Phiên âm đầy đủ là Ma ha diễn na.

....... Ma ha là đại, là lớn; Diễn (Diễn na) là thừa, là cổ xe. Ma ha diễn là đại thừa pháp. tu hành pháp ấy thì vào được Phật đạo.
....... Trong 6 pháp Ba- la- mật thì Bát nhã Ba- la- mật là trên hết, dẫn đạo các Ba- la- mật kia. Được Bát nhã Ba- la- mật là nhiếp đủ cả 6 pháp Ba- la- mật, là hành đầy đủ 6 Ba- la- mật, là hành Bồ tát đạo viên mãn, từ sơ phát tâm cho đến khi chứng thành Phật quả vậy.

....... Ví như nhà vua ngự trên long xa, có các quan theo hầu, Bồ tát muốn làm Phật, phải cởi cỗ xe đại thừa, hành 6 pháp Ba- la- mật, đi thẳng vào đất Phật.
Đáp : nghĩa cơ bản


Nếu Bát nhã Ba-la-mật là dẫn đạo các Ba-la-mật và khi được Bát nhã Ba-la-mật mà hành Bồ tát viên mãn, từ sơ phát tâm cho đến khi chứng thành Phật quả - thì có nghĩa là khi chúng ta phát tâm tu pháp Bồ tát thì chỉ cần đạt được Bát nhã Ba-la-mật là chúng ta chứng thành Phật quả - không cần tu thêm pháp nào nữa cả.

Còn Tổ Long Thọ nói : “Ví như nhà vua ngự trên long xa, có các quan theo hầu, Bồ tát muốn làm Phật, phải cởi cỗ xe đại thừa, hành 6 pháp Ba- la- mật, đi thẳng vào đất Phật”. Là cho chúng ta biết muốn hành 6 pháp Ba-la-mật, đi thẳng vào đất Phật - thì chúng ta cũng phải như nhà vua ngự trên long xa, có các quan theo hầu. Nghĩa là chúng ta phải có đầy đủ uy nghi mới có thể hành 6 pháp Ba-la-mật. Và đất Phật là điểm đến của người tu học Phật đạo. Còn chúng ta thì ai cũng có thể trở thành một vị Phật _ với tên gọi khác nhau.


Kế Tổ Long Thọ nói :

....... Trong nhiều kinh có nói đến 6 pháp Ba- la- mật, như các kinh Hoa Thủ, Pháp Hoa, Đại Vân, Di Lặc v.v...

....... Nên biết rằng 6 pháp Ba- la- mật được nói trong rất nhiều kinh, hoặc do Phật nói, hoặc do chư Đại Bồ tát nói, hoặc do chư Thanh Văn nói, hoặc do chư Thiên đắc đạo nói.

.......Hòa hợp được các nghĩa trong các kinh trong các kinh thì gọi là Ma ha diễn. Trong các kinh ấy, thì Bát nhã Ba- la- mật được xem là pháp tối thượng. Bởi vậy nên hễ nói đến Ma ha diễn là biết có Bát nhã Ba- la- mật rồi vậy.
Giải : nghĩa cơ bản

Vì chư Thiên là tu theo pháp của Phạm Thiên - không phải tu theo pháp của Phật. Cho nên, chư Thiên đắc đạo là đắc đạo pháp Phạm Thiên - chứ không phải đắc Phật đạo. Còn các vị Thanh văn thì cũng chưa có phát tâm tu học pháp Đại thừa.

Cho nên, ý của Tổ Long Thọ là cho chúng ta biết : Tuy 6 pháp Ba-la-mật được nói _ trong rất nhiều kinh. Nhưng không phải kinh nào nói về 6 pháp Ba-la-mật cũng đều đúng cả. Vì ngay cả hàng Thanh văn và các chư Thiên đắc đạo pháp Phạm Thiên - chưa hiểu rõ về 6 pháp Ba-la-mật cũng nói về 6 pháp Ba-la-mật. Do đó, khi nghe nói về 6 pháp Ba-la-mật - chúng ta phải để ý lời nói đó của vị nào. Nếu là của các vị Thanh văn hay chư Thiên - dầu là đã đắc đạo - chúng ta cũng đừng nghe theo. Vì các vị này chưa hiểu rõ về 6 pháp Ba-la-mật.


Còn Tổ Long Thọ nói : Hòa hợp được các nghĩa trong các kinh trong các kinh thì gọi là Ma ha diễn. Trong các kinh ấy, thì Bát nhã Ba- la- mật được xem là pháp tối thượng. Bởi vậy nên hễ nói đến Ma ha diễn là biết có Bát nhã Ba- la- mật rồi vậy.

Là cho chúng ta biết : Khi nào chúng ta có thể hòa hợp được tất cả các nghĩa của các lời giảng nói về 6 sáu pháp Ba-la-mật trong các kinh - dầu là do Phật nói, hoặc do chư Đại Bồ tát nói, hoặc do chư Thanh Văn nói, hoặc do chư Thiên đắc đạo nói - thì mới gọi Ma ha diễn.

Cho nên, hiểu đúng về 6 pháp Ba-la-mật _ chưa gọi Ma ha diễn. Ma ha diễn là phải hiểu được _ chỗ đúng, chỗ sai _ của lời giảng - nói về 6 pháp Ba-la-mật trong tất cả các kinh.

Kế Tổ Long Thọ nói :

Các trợ đạo pháp khác, nếu chẳng được Bát nhã Ba- la- mật soi chiếu, hòa hợp thì chẳng có thể được đến Phật đạo được. Cho nên Phật bảo ngài Tu Bồ Đề rằng : Ma ha diễn chẳng khác Bát nhã Ba- la- mật.
Giải : nghĩa cơ bản


Vì muốn được trí Bát nhã Ba-la-mật soi sáng - hòa hợp được tất cả các lời giảng về 6 pháp Ba-la-mật và các pháp trợ đạo khác - thì chúng ta phải hiểu thật rõ về 6 pháp Ba-la-mật. Mà hiểu thật rõ về 6 pháp Ba-la-mật mới _ gọi là Ma ha diễn. Cho nên, Phật mới nói : Ma ha diễn chẳng khác Bát nhã Ba-la-mật.

Tóm lại, Hiểu đúng về 6 pháp Ba-la-mật chưa phải là Ma ha diễn. Ma ha diễn là hiểu được chỗ đúng, chỗ sai của lời giảng - giảng về 6 pháp Ba-la-mật.


.......Hỏi: Như vậy vì sao chẳng nói Ma ha diễn trước ?

.......Đáp: Vì Bát nhã Ba- la- mật quá quan trọng nên phải nói trước. Phật muốn thuyết Bát nhã Ba- la- mật nên đã phóng đại quang minh, khiến chúng sanh khắp 10 phương thế giới đều tự hỏi nay vì đại sự nhân duyên gì mà có quang minh chiếu khắp như vậy ?

....... Các đức Phật ở các cõi nước đều nói rằng : Ở thế giới Ta bà có đức Phật Thích Ca Mưu Ni muốn thuyết Bát nhã Ba- la- mật .

....... Thế rồi các Bồ tát cùng các chư Thiên đều hoan hỷ đến nghe.
....... Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát Ma ha tát muốn học Bát nhã Ba- la- mật ?

....... Phật tán thán công đức của Bát nhã Ba- la- mật nên nói : Những ai muốn thành Phật đều phải học Bát nhã Ba- la- mật.

....... Bởi nhân duyên vậy, nên Bát nhã Ba- la- mật phải được thuyết giảng trước.
Giải : nghĩa cơ bản

Vì Phật nói : “Những ai muốn thành Phật”. Nên, đức Phật đã xác định - tu thành Phật là điều có thật.


....... Phật bảo ngài Tu Bồ Đề : Ông nên vì các Bồ tát, nói về Bát nhã Ba- la- mật.

....... Tuân theo lời Phật dạy. Ngài Tu Bồ Đề nói : Bồ tát chỉ là danh tự, Bát nhã Ba- la- mật cũng chỉ là danh tự. Cho nên Bồ tát, Bồ tát danh tự, Bát nhã Ba- la- mật, Bát nhã Ba- la- mật danh tự đều là không, là bất khả đắc, dẫn đến Bồ tát hành Bát nhã Ba- la- mật cũng là bất khả đắc.

....... Kế sau đó, ngài Tu Bồ Đề lại hỏi về Bồ tát cú nghĩa, và về nghĩa của Ma ha tát.

....... Trong nghĩa Ma ha tát có bao gồm nghĩa đại trang nghiêm và nghĩa Ma ha diễn.

....... Ví như vị dũng tướng phải có đầy đủ binh sĩ, khí giới trang nghiêm, mới xông vào trận, đánh giẹp quân giặc được, Bồ tát Ma ha tát phải hành Bát nhã Ba- la- mật trang nghiêm mới phá được quân ma, dẹp sạch các phiền não kiết sử để thẳng tiến đến Phật đạo.
Giải : nghĩa cơ bản


Vì Phật bảo ngài Tu Bồ Đề vì các Bồ tát, nói về Bát nhã Ba-la-mật. Cho nên, nếu không phải thuộc hàng Bồ tát thì chúng ta chỉ nghe để biết - đừng suy luận gì cả.

Còn Tổ Long Thọ ví việc Bồ tát Ma ha tát phải hành Bát nhã Ba-la-mật mới phá được quân ma, dẹp sạch phiền não kiết sử để thẳng tiến đến Phật đạo - giống như vị dũng tướng phải có đầy đủ binh sĩ, khí giới trang nghiêm, mới xông vào trận, đánh dẹp quân giặc. Là gián tiếp cho chúng ta biết - muốn hành Bát nhã Ba-la-mật - chúng ta phải có sức mạnh và uy thế.

Kế Tổ Long Thọ nói :

....... Lại nữa, Bát nhã Ba- la- mật và Ma ha diễn đều có công năng đoạn pháp ái. Do vậy mà ngài Tu Bồ Đề đã dựa vào những điểm tương đồng giữa Bát nhã Ba- la- mật và Ma ha diễn, để hỏi thêm về nghĩa của Ma ha diễn.


.......Hỏi: Có phải Ma ha diễn có hàm ý nói về Bồ tát từ sơ phát tâm đến khi thành Phật đạo, thường hằng tu tập các thiện pháp chăng ?

....... Có phải hành đúng theo Bát nhã Ba- la- mật là hành Ma ha diễn chăng ? Có phải hành 6 pháp Ba- la- mật là hành Ma ha diễn chăng ?

.......Đáp: Trước đây đã nói rằng 6 pháp Ba- la- mật nhiếp hết thảy các thiện pháp. Như vậy chẳng cần hỏi thêm nữa.

....... Có vô lượng thiện pháp nhưng chỉ cần nói đến 6 pháp Ba- la- mật là đầy đủ rồi vậy. Lại nữa, Ma ha diễn cũng hàm ý nói về Bồ tát sơ phát tâm đến khi thành tựu đầy đủ các lực phương tiện, luôn luôn giữ tâm bình đẳng.

....... Nên biết rằng tu 6 pháp Ba- la- mật là tu đầy đủ hết thảy các thiện pháp rồi. Vì sao ? Vì các thiện pháp dù chẳng sánh được với Bát nhã Ba- la- mật , nhưng nghĩa của thiện pháp cũng đã nhiếp trong nghĩa của 6 pháp Ba- la- mật rồi vậy.

....... Ví như ngay từ khi sơ phát tâm, người tu phải phát nguyện tu đại bi, phải có tâm bình đẳng mới có được các lực phương tiện, lại nữa, khi tu bố thí, phải bỏ lợi nhỏ hướng về lợi lớn, mới là tu Đại thừa.

....... Lại nữa, tu hành để thành tựu các lực phương tiện là tu trí huệ. Khi trí huệ đã thuần thục rồi, thì người tu hành phải dùng các lực phương tiện để giáo hóa chúng sanh, và tịnh Phật quốc độ mới là tu Đại thừa.

....... Tất cả các hạnh nêu trên đây đều nhiếp trong 6 pháp Ba- la- mật.
Đáp : nghĩa cơ bản
Chi tiết chúng ta cần ghi nhớ trong lời đáp này của Tổ Long Thọ - là muốn có lực phương tiện - chúng ta phải tu trí huệ. Vì như vậy - thì lực phương tiện là thế lực của chính chúng ta - chứ không phải là do sự trợ giúp từ bên ngoài - như do trì chú mà có - thì thế lực đó, không phải của chính chúng ta. Cho nên, điều này cũng xác định - Phật tánh của chúng ta có thế lực. Và khi chúng ta có trí huệ - là có thế lực.


.......Hỏi: Như vậy vì sao nói hành 108 tam muội cũng gọi là hành Ma ha diễn ?

.......Đáp: Nói về 6 pháp Ba- la- mật là nói về thể của Ma ha diễn, còn nói về các đà la ni, các tam muội.. là nói về dụng của Ma ha diễn. Cho nên trước nói đến thể rồi sau mới nói đến dụng vậy.
.......Hỏi: Vì sao chỉ nói đến 6 pháp Ba- la- mật, mà chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, chẳng thêm, chẳng bớt ?

.......Đáp: Phật là đấng Pháp Vương, tùy theo căn cơ, tùy theo ý nguyện của chúng sanh, mà phương tiện nói pháp. Có khi Phật chỉ nói một pháp, có khi nói hai pháp, ba pháp, bốn pháp... Lại có khi nói rất nhiều pháp. Ví như trong kinh Hiền kiếp có nói đến 8.400 Ba- la- mật.

....... Lại nữa, chúng sanh đã thọ thân là có thọ khổ, khiến phải lên xuống mãi trong 6 nẽo đường sanh tử, chịu bao nhiêu cực hình đau khổ. Bởi nhân duyên vậy, nên Bồ tát khởi đại bi tâm cứu độ chúng sanh thoát khỏi 6 đường sanh tử, mà phát nguyên tu 6 pháp Ba- la- mật, chẳng có nhiều hơn cũng chẳng có ít hơn. vì các Ba- la- mật đều là rốt ráo không, đều là bất khả đắc.
Đáp : nghĩa cơ bản


Nếu do nhân duyên chúng sanh lên xuống mãi trong 6 nẽo đường sanh tử - mà Bồ tát phát nguyện tu 6 pháp Ba-la-mật - để cứu độ chúng sanh thoát khỏi 6 đường sanh tử. Thì hành 6 pháp Ba-la-mật là để cứu độ chúng sanh thoát sanh tử. Cho nên, chúng sanh cõi người - không thể hành pháp 6 Ba-la-mật. Và điều này cũng giải thích cho chúng ta biết - sở dĩ muốn hành 6 pháp Ba-la-mật - phải có sức mạnh (lực phương tiện). Vì khi giúp chúng sanh thoát sanh tử - thì phải chống lại thế lực của ma vương Ba Tuần và Phạm Thiên - như là ra trận vậy. Vì chúng sanh nói trong lời giảng này - là có thọ thân và lên xuống mãi trong 6 nẻo đường sanh tử - nên không phải nói về tâm.
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15/7/10
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
Chị Diệu-Đức kính mến.
Xin chị dành chút ít thời gian để giảng nghĩa thêm phần : "Đáp : Nghĩa cơ bản." Cho em được hiểu rõ hơn chị nhé !

Thì hành 6 pháp Ba-la-mật là để cứu độ chúng sanh thoát sanh tử. Cho nên, chúng sanh cõi người - không thể hành pháp 6 Ba-la-mật.

Thưa chị, nếu chúng sanh cõi người - không thể hành pháp 6 Ba-la-mật được, vậy Đức Phật nói ra pháp này nơi cõi Ta-Bà để làm gì ?


Và điều này cũng giải thích cho chúng ta biết - sở dĩ muốn hành 6 pháp Ba-la-mật - phải có sức mạnh (lực phương tiện).

*- Sức mạnh gì ? và Phương tiện gì vậy chị ?

Vì khi giúp chúng sanh thoát sanh tử - thì phải chống lại thế lực của ma vương Ba Tuần và Phạm Thiên - như là ra trận vậy.

*-Bồ-Tát độ chúng sanh thóat sanh tử thì thấy "một là tất cả, và tất cả là một" không sai khác, thì sao lại có hành động "Chống" lai ma vương Ba Tuần và Phạm Thiên ?
*-Chữ "Chống" nó mang nhiều hình thức phản ngược, nhất là khi đi kèm với một từ khác như: Chống chọi, Chống đối, Chống cự*. v.v... Đã là Bồ Tát sao lại có hành động chống lại chúng sanh ? Chẳng lẻ Ma vương và Phạm Thiên không phải là chúng sanh trong mắt Bồ Tát hay sao hả chị ?


Vì chúng sanh nói trong lời giảng này - là có thọ thân và lên xuống mãi trong 6 nẻo đường sanh tử - nên không phải nói về tâm.

*Với câu này em lại càng không hiểu ý của chị nói, nên xin chị hoan hỷ trả lời, cắt nghĩa cho em được hiểu rõ ý của chị hơn.
Em xin cám ơn trước, và kính chúc chị nhiều sức khỏe.

Kính
bangtam


<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]--><!-- BEGIN TEMPLATE: level_postbit_info -->
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18/3/10
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
Chào Băng Tâm,
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->Băng Tâm có khỏe không mà dạo này d/đ ít thấy bt viết bài. d/đ rất vui được giải thích những điều bt thắc mắc.

Như Băng Tâm biết - lời Phật giảng về pháp Đại thừa có thể hiểu theo duyên. Và chỗ hiểu của mỗi chúng ta về pháp Đại thừa - chỉ mới một phần của con voi. Cho nên, hiểu theo nghĩa Văn tự tuy không trọn vẹn - nhưng cũng là một nghĩa _ hiểu theo duyên. Và vì nghĩa của Văn tự, chỉ là nghĩa hiểu theo duyên - chưa phải nghĩa chơn thật - nên đức Phật mới dặn chúng ta đừng chấp.

Nhưng vì trong các nghĩa - thì nghĩa của Văn tự là nghĩa đơn giản nhất - nghe sao thì hiểu vậy. Cho nên, duyên hiểu theo nghĩa Văn tự là duyên thấp nhất. Vì dầu là người mới phát tâm tu học Phật đạo - hay muốn tìm hiểu về Phật đạo _ cũng đều có thể hiểu - mặc dầu không đầy đủ - nhưng là một phần rất quan trọng của con voi. Vì có thể giúp người chưa hiểu Phật đạo - hiểu về Phật đạo.


Còn d/đ nói : Thì hành 6 pháp Ba-la-mật là để cứu độ chúng sanh thoát sanh tử. Cho nên, chúng sanh cõi người - không thể hành pháp 6 Ba-la-mật.

Là vì trong phần luận đáp - Tổ Long Thọ giải thích :

....... Lại nữa, chúng sanh đã thọ thân là có thọ khổ, khiến phải lên xuống mãi trong 6 nẽo đường sanh tử, chịu bao nhiêu cực hình đau khổ. Bởi nhân duyên vậy, nên Bồ tát khởi đại bi tâm cứu độ chúng sanh thoát khỏi 6 đường sanh tử, mà phát nguyện tu 6 pháp Ba- la- mật, chẳng có nhiều hơn cũng chẳng có ít hơn. vì các Ba- la- mật đều là rốt ráo không, đều là bất khả đắc.
Thì ý của Tổ Long Thọ là nói : Bởi thấy chúng sanh - phải lên xuống mãi trong 6 nẽo đường sanh tử - nên Bồ tát mới phát nguyện tu 6 pháp Ba-la-mật - để cứu độ chúng sanh thoát khỏi 6 đường sanh tử.


Cho nên, khi Bồ tát phát nguyện tu 6 pháp ba-la-mật - là để cứu độ chúng sanh thoát khỏi 6 đường sanh tử (có bao gồm luôn các vị trời). Điều này, chứng tỏ Bồ tát - nói _ trong lời giảng này đã thoát khỏi sanh tử rồi. Cho nên, Bồ tát phát nguyện tu 6 Ba-la-mật - không thể là chúng sanh cõi người.


Còn Băng Tâm hỏi : nếu chúng sanh cõi người - không thể hành pháp 6 Ba-la-mật được, vậy Đức Phật nói ra pháp này nơi cõi Ta-Bà để làm gì ?

Thì theo chỗ hiểu của d/đ - sở dĩ đức Phật nói ra pháp tu 6 Ba-la-mật nơi cõi Ta Bà - là vì chúng sanh cõi Ta Bà là đối tượng được cứu. Và việc _ nói cho đối tượng được cứu - hiểu biết về các vị _ cứu mình - là điều cần thiết. Và đức Phật cũng có nói cho chúng ta biết - lời Phật giảng về pháp Đại thừa chỉ là ngón tay chỉ trăng - chứ không phải là pháp tu ; và dặn chúng ta đừng chấp. Và chúng ta cũng phải nhìn đúng theo hướng ngón tay chỉ _ mới thấy được mặt trăng. Còn nếu chúng ta nhìn theo hướng khác cũng không thể thấy mặt trăng. Cho nên, ẩn dụ chỉ trăng còn có nghĩa là _ chỉ hướng.


Còn Băng Tâm hỏi : Sức mạnh gì ? và Phương tiện gì ?

Thì “phương tiện lực” là do Tổ Long Thọ thường nói. Còn d/đ thì giải thích “lực phương tiện” là sức mạnh. Và Tổ Long Thọ giải thích :

....... Lại nữa, tu hành để thành tựu các lực phương tiện là tu trí huệ. Khi trí huệ đã thuần thục rồi, thì người tu hành phải dùng các lực phương tiện để giáo hóa chúng sanh, và tịnh Phật quốc độ mới là tu Đại thừa.
Cho nên, “lực phương tiện” Tổ Long Thọ nói là do tu trí huệ mà có. Và d/đ cũng thường dẫn giải lời Phật giảng về ba đặc tính của Phật tánh : tâm, trí huệ, và thế lực. Do đó, trí càng sáng thì thế lực càng mạnh, tâm càng thanh tịnh. Còn khi tâm động - thì trí sẽ bị che mờ, và thế lực cũng yếu. Bồ tát phải dùng thế lực (do tu trí huệ) làm phương tiện để cứu độ chúng sanh thoát khỏi 6 đường sanh tử. Vì ma vương Ba tuần là Thiên ma đứng đầu (# chủ quản) cõi Dục - tìm cách phá hư chánh pháp của Như Lai - là vì không muốn chúng sanh khỏi 6 đường sanh tử _ cảnh giới của ác ma Ba Tuần.


Cho nên, muốn cứu độ chúng sanh thoát khỏi 6 đường sanh tử - Bồ tát phải có thế lực mạnh để chống lại thế lực của ma vương Ba Tuần. Và d/đ cũng thường dẫn giải lời Phật giảng - ma Ba Tuần _ tu pháp của Phạm thiên. Do lẽ này, nên d/đ mới nói - chúng sanh cõi người không thể hành 6 pháp Ba-la-mật.


Còn Băng Tâm nói : Bồ-Tát độ chúng sanh thóat sanh tử thì thấy "một là tất cả, và tất cả là một" không sai khác, thì sao lại có hành động "Chống" lai ma vương Ba Tuần và Phạm Thiên ?

Thì đó là nói về chỗ thấy của Bồ tát. Còn Bồ tát thì vì có thấy chúng sanh lên xuống 6 đường sanh tử - chịu bao nhiêu cực hình đau khổ - nên mới phát nguyện tu 6 Ba-la-mật để cứu độ chúng sanh thoát khỏi 6 đường sanh tử. Cho nên, Bồ tát tuy thấy “một là tất cả, và tất cả là một”. Nhưng đối với chúng sanh thì bồ tát thấy mỗi chúng sanh là một cá thể. Cũng như, cảnh giới của cõi Ta Bà - kể cả thân người của chúng ta - tuy đều là hư huyễn (do duyên tạo) - không thật có. Nhưng chúng sanh chịu sự đau khổ - là có thật. Cho nên, trong mỗi chúng ta đều có cái hư và cái thực. Cái thực của chúng ta - chính là : tâm, trí và thế lực

Và theo giáo thuyết của Phật thì trong chúng sanh cũng có hạng nhứt xiển đề. Cho nên, có chúng sanh không thể thuyết phục bằng tâm từ bi - mà phải cần dùng đến sức mạnh mới có thể khắc phục. Nhất là, những chúng sanh này lại tạo ra nổi thống khổ cho các chúng sanh khác. Do đó, ma Ba tuần là kẻ địch của Bồ tát trong việc cứu độ chúng sanh thoát khỏi 6 đường sanh tử.


Còn d/đ nói : Vì chúng sanh nói trong lời giảng này - là có thọ thân và lên xuống mãi trong 6 nẻo đường sanh tử - nên không phải nói về tâm.

Là vì danh từ “chúng sanh” cũng có khi nói về những ý niệm vọng động, mê lầm của chúng ta. Cho nên, “chúng sanh” trong trường hợp này là nói về tâm. Còn “chúng sanh” Tổ Long Thọ nói trong lời giảng này - có thọ thân và lên xuống 6 nẽo đường sanh tử - nên là nói chúng ta (chúng sanh cõi người) ; chứ không phải nói về những ý niệm vọng động, mê lầm của chúng ta.

Hy vọng Băng Tâm hài lòng - lời giải thích này của d/đ. d/đ chúc Băng Tâm thân tâm an lạc.

Thân

<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
 

Quay lại

Registered
Phật tử
Tham gia
15/7/13
Bài viết
100
Điểm tương tác
76
Điểm
28
Chào Băng Tâm,
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->

Như Băng Tâm biết - lời Phật giảng về pháp Đại thừa có thể hiểu theo duyên. Và chỗ hiểu của mỗi chúng ta về pháp Đại thừa - chỉ mới một phần của con voi. Cho nên, hiểu theo nghĩa Văn tự tuy không trọn vẹn - nhưng cũng là một nghĩa _ hiểu theo duyên. Và vì nghĩa của Văn tự, chỉ là nghĩa hiểu theo duyên - chưa phải nghĩa chơn thật - nên đức Phật mới dặn chúng ta đừng chấp.

Nhưng vì trong các nghĩa - thì nghĩa của Văn tự là nghĩa đơn giản nhất - nghe sao thì hiểu vậy. Cho nên, duyên hiểu theo nghĩa Văn tự là duyên thấp nhất. Vì dầu là người mới phát tâm tu học Phật đạo - hay muốn tìm hiểu về Phật đạo _ cũng đều có thể hiểu - mặc dầu không đầy đủ - nhưng là một phần rất quan trọng của con voi. Vì có thể giúp người chưa hiểu Phật đạo - hiểu về Phật đạo.


Còn d/đ nói : Thì hành 6 pháp Ba-la-mật là để cứu độ chúng sanh thoát sanh tử. Cho nên, chúng sanh cõi người - không thể hành pháp 6 Ba-la-mật.

Là vì trong phần luận đáp - Tổ Long Thọ giải thích :

Thì ý của Tổ Long Thọ là nói : Bởi thấy chúng sanh - phải lên xuống mãi trong 6 nẽo đường sanh tử - nên Bồ tát mới phát nguyện tu 6 pháp Ba-la-mật - để cứu độ chúng sanh thoát khỏi 6 đường sanh tử.

Cho nên, khi Bồ tát phát nguyện tu 6 pháp ba-la-mật - là để cứu độ chúng sanh thoát khỏi 6 đường sanh tử (có bao gồm luôn các vị trời). Điều này, chứng tỏ Bồ tát - nói _ trong lời giảng này đã thoát khỏi sanh tử rồi. Cho nên, Bồ tát phát nguyện tu 6 Ba-la-mật - không thể là chúng sanh cõi người.


Còn Băng Tâm hỏi : nếu chúng sanh cõi người - không thể hành pháp 6 Ba-la-mật được, vậy Đức Phật nói ra pháp này nơi cõi Ta-Bà để làm gì ?

Thì theo chỗ hiểu của d/đ - sở dĩ đức Phật nói ra pháp tu 6 Ba-la-mật nơi cõi Ta Bà - là vì chúng sanh cõi Ta Bà là đối tượng được cứu. Và việc _ nói cho đối tượng được cứu - hiểu biết về các vị _ cứu mình - là điều cần thiết. Và đức Phật cũng có nói cho chúng ta biết - lời Phật giảng về pháp Đại thừa chỉ là ngón tay chỉ trăng - chứ không phải là pháp tu ; và dặn chúng ta đừng chấp. Và chúng ta cũng phải nhìn đúng theo hướng ngón tay chỉ _ mới thấy được mặt trăng. Còn nếu chúng ta nhìn theo hướng khác cũng không thể thấy mặt trăng. Cho nên, ẩn dụ chỉ trăng còn có nghĩa là _ chỉ hướng.

Ha..Ha.

Như vậy, ai là "đối tựợng cứu"? Quay Lại hay Băng Tâm ...
Ai là "các vị cứu" ? Diệu Đức hay Viên Quang
(Vì các Vị thường nghiên cứu "Luận Đại Trí Độ".)

... cái này là "rờ đúng chổ ... gần gần... cái đuôi voi" ..."một phần rất quan trọng của con voi" (theo lới Diệu Đức tả).
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1/4/12
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Ha..Ha.

.......

... cái này là "rờ đúng chổ ... gần gần... cái đuôi voi" ..."một phần rất quan trọng của con voi" (theo lới Diệu Đức tả).

Có lẻ đây là lý do khiến t/v Quay lại không được đề cử làm Mod ?
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18/3/10
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
Ha..Ha.

Như vậy, ai là "đối tựợng cứu"? Quay Lại hay Băng Tâm ...
Ai là "các vị cứu" ? Diệu Đức hay Viên Quang
(Vì các Vị thường nghiên cứu "Luận Đại Trí Độ".)

... cái này là "rờ đúng chổ ... gần gần... cái đuôi voi" ..."một phần rất quan trọng của con voi" (theo lới Diệu Đức tả).

Chào bạn Quay Lại,
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->
Bạn chỉ hỏi : ai là “đối tượng đưc cứu” ? Quay Lại hay Băng Tâm… (đương nhiên là trong đó có bao gồm cả d/đ) - thì như vậy có hơi thiếu. Vì như d/đ nói - trong giáo thuyết của đạo Phật cũng có danh từ nhứt xiển đề. Cho nên, dầu là chúng sanh cũng chưa hẵn đã là đối tượng được Phật và các vị được Bồ tát tu 6 Ba-la-mật _ cứu. Vì bất cứ ai trong chúng ta cố tình phá rối - khiến người khác không thể tu học Phật đạo - thì chắc chắn không phải là đối tượng được Phật cứu.

Điều này, không ai hiểu Bạn bằng Bạn hiểu Bạn, bằng Băng Tâm hiểu Băng Tâm, bằng d/đ hiểu d/đ…

Do đó, Bạn đừng hỏi d/đ. Bạn hãy tự hỏi Bạn - Bạn có phải là đối tượng được Phật cứu hay chăng !? Câu tự trả lời của Bạn - mới thật là chính xác nhất.


Còn nếu vì chỗ thầy Viên Quang và d/đ thường nghiên cứu “Luận Đại Trí Độ” mà Bạn hỏi : Ai là “các vị cứu” ? Diệu Đức hay thầy Viên Quang.

Thì quả thật Bạn chưa biết việc - Bạn chỉ mới rờ được một phần của con voi. Vì nếu Bạn biết Bạn chỉ mới rờ được một của con voi - thì dầu Bạn có _ không thích thú với bộ kinh nào - thì cũng không buông lời nói mĩa nói mai người thích bộ kinh đó.


Và điều khiến d/đ buồn tiếc _ cho công tu học của Bạn - là khi đọc câu Bạn viết : ... cái này là "rờ đúng chổ ... gần gần... cái đuôi voi" ..."một phần rất quan trọng của con voi" (theo lới Diệu Đức tả)

Chào Bạn

<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15/7/10
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
Chị Diệu-Đức kính mến.
Em xin cám ơn lời thăm hỏi ấm áp mà chị đã dành cho em. Thời gian qua em rất bận rộn, mà ngay cả bây giờ cũng vậy, chị ơi ! Cho nên muốn vào diễn đàn thì phải thức khuya , hihi!



Còn d/đ nói : Thì hành 6 pháp Ba-la-mật là để cứu độ chúng sanh thoát sanh tử. Cho nên, chúng sanh cõi người - không thể hành pháp 6 Ba-la-mật.


*-Thưa chị, nếu chị nói như vậy thì 10 vị Đại Đệ Tử của Đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật đã chứng Thánh Quả là "không thể hành pháp 6 Ba-La-Mật" sao chị ? Đó là chưa kể đến trong các thời điểm mà Đức Phật thuyết vô số kinh như Kim-Cang, kinh Lăng Nghiêm v.v...Mỗi thời đều có vô số tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di cùng vô lượng thiên long bát bộ đều chứng Thánh quả như Tu Đà Hòan ... rồi đến A La Hán. Vậy chị nói "chúng sanh cõi người - không thể hành pháp 6 Ba-la-mật." là em không đồng ý.

thì ý của Tổ Long Thọ là nói : Bởi thấy chúng sanh - phải lên xuống mãi trong 6 nẽo đường sanh tử - nên Bồ tát mới phát nguyện tu 6 pháp Ba-la-mật - để cứu độ chúng sanh thoát khỏi 6 đường sanh tử.

Cho nên, khi Bồ tát phát nguyện tu 6 pháp ba-la-mật - là để cứu độ chúng sanh thoát khỏi 6 đường sanh tử (có bao gồm luôn các vị trời). Điều này, chứng tỏ Bồ tát - nói _ trong lời giảng này đã thoát khỏi sanh tử rồi. Cho nên, Bồ tát phát nguyện tu 6 Ba-la-mật - không thể là chúng sanh cõi người.


*- Thưa chị, Bồ-Tát Long-Thọ tu tập 6 Ba La Mật trong cõi người, và chứng thánh quả trong cõi người, vậy lời ngài giảng dạy nếu không phải cho con người phát tâm Bồ Tát tu 6 Ba La Mat, thì là cho ai ?




Còn Băng Tâm hỏi : nếu chúng sanh cõi người - không thể hành pháp 6 Ba-la-mật được, vậy Đức Phật nói ra pháp này nơi cõi Ta-Bà để làm gì ?

Thì theo chỗ hiểu của d/đ - sở dĩ đức Phật nói ra pháp tu 6 Ba-la-mật nơi cõi Ta Bà - là vì chúng sanh cõi Ta Bà là đối tượng được cứu. Và việc _ nói cho đối tượng được cứu - hiểu biết về các vị _ cứu mình - là điều cần thiết.


* Cần thiết để làm cái gì hả chị?

Và đức Phật cũng có nói cho chúng ta biết - lời Phật giảng về pháp Đại thừa chỉ là ngón tay chỉ trăng - chứ không phải là pháp tu ;
*Vậy như thế nào mới thật là pháp tu ? 49 năm lời Đức Phật giảng dạy như ngón tay chỉ mặt trăng rồi mà, hihi !





Còn Băng Tâm hỏi : Sức mạnh gì ? và Phương tiện gì ?

Thì “phương tiện lực” là do Tổ Long Thọ thường nói. Còn d/đ thì giải thích “lực phương tiện” là sức mạnh.


* hihi ! "Còn d/đ thì giải thích “lực phương tiện” là sức mạnh." Chắc chị tập tạ nhiều lắm phải hôn chị ? hihi!

<!-- END TEMPLATE: bbcode_quote -->

Cho nên, “lực phương tiện” Tổ Long Thọ nói là do tu trí huệ mà có. Và d/đ cũng thường dẫn giải lời Phật giảng về ba đặc tính của Phật tánh : tâm, trí huệ, và thế lực.
*Xin chị bổ túc thêm về lời Phật giảng:"về ba đặc tính của Phật tánh : tâm, trí huệ, và thế lực." Cho em được hiểu thêm nhé.





Cho nên, muốn cứu độ chúng sanh thoát khỏi 6 đường sanh tử - Bồ tát phải có thế lực mạnh để chống lại thế lực của ma vương Ba Tuần. Và d/đ cũng thường dẫn giải lời Phật giảng - ma Ba Tuần _ tu pháp của Phạm thiên. Do lẽ này, nên d/đ mới nói - chúng sanh cõi người không thể hành 6 pháp Ba-la-mật.


* Thế lực mà chị nói, có phải là cần có tín đồ cho đông, cũng như sức mạnh mà chị đã nói không ?


Còn Băng Tâm nói : Bồ-Tát độ chúng sanh thóat sanh tử thì thấy "một là tất cả, và tất cả là một" không sai khác, thì sao lại có hành động "Chống" lai ma vương Ba Tuần và Phạm Thiên ?

Nhưng đối với chúng sanh thì bồ tát thấy mỗi chúng sanh là một cá thể.
*Thưa chị, em không phải là Bồ Tát. Nhưng do được nghe Đức Phật dạy thì em biết là Bồ Tát không có thấy mỗi chúng sanh là một cá thể đâu chị.

Cũng như, cảnh giới của cõi Ta Bà - kể cả thân người của chúng ta - tuy đều là hư huyễn (do duyên tạo) - không thật có.Nhưng chúng sanh chịu sự đau khổ - là có thật. Cho nên, trong mỗi chúng ta đều có cái hư và cái thực. Cái thực của chúng ta - chính là : tâm, trí và thế lực

Và theo giáo thuyết của Phật thì trong chúng sanh cũng có hạng nhứt xiển đề. Cho nên, có chúng sanh không thể thuyết phục bằng tâm từ bi - mà phải cần dùng đến sức mạnh mới có thể khắc phục. Nhất là, những chúng sanh này lại tạo ra nổi thống khổ cho các chúng sanh khác. Do đó, ma Ba tuần là kẻ địch của Bồ tát trong việc cứu độ chúng sanh thoát khỏi 6 đường sanh tử


* Nếu là Bồ Tát thì Tâm và cảnh đều bặt dứt, vọng động không còn, tự tại vô ngại mới là Bồ Tát, vậy như chị nói " kẻ địch của Bồ Tát trong việc cứu độ chúng sanh" là điều không thể có.




Còn d/đ nói : Vì chúng sanh nói trong lời giảng này - là có thọ thân và lên xuống mãi trong 6 nẻo đường sanh tử - nên không phải nói về tâm.

Là vì danh từ “chúng sanh” cũng có khi nói về những ý niệm vọng động, mê lầm của chúng ta. Cho nên, “chúng sanh” trong trường hợp này là nói về tâm. Còn “chúng sanh” Tổ Long Thọ nói trong lời giảng này - có thọ thân và lên xuống 6 nẽo đường sanh tử - nên là nói chúng ta (chúng sanh cõi người) ; chứ không phải nói về những ý niệm vọng động, mê lầm của chúng ta.
* Không nói những ý niệm vọng động, mê lầm của chúng ta, chẳng lẻ Tổ Long-Thọ đang nói đến những xác chết hả chị ? hihi!


Kính
bangtam


 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18/3/10
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
Chào Băng Tâm,
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->
Ồ ! như vậy là lời giải thích của d/đ đã không làm hài lòng Băng Tâm rồi. Tiếc thật !!!

Mỗi người một duyên - miễn sao Băng Tâm thấy chỗ hiểu của Băng Tâm thông - không có sự gì vướng mắc là được rồi. Riêng d/đ thì d/đ cũng đã giải thích xong những điều d/đ nói. Thật ra, chỗ hiểu của chúng ta (những người còn đang tu học) chỉ mới là một phần của con voi. Cho nên, d/đ chỉ nói và giải thích những điều d/đ nói. Còn Băng Tâm hiểu như thế nào thì đó là duyên của Băng Tâm.

Cũng như, d/đ không bao giờ so sánh các vị Đại Đệ Tử của đức Phật Thích Ca với các vị đệ tử của Phật xuất hiện sau khi đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn. Vì niềm tin của d/đ là đức Phật Thích Ca trước khi thị hiện nơi thế gian - Ngài đã là Phật. Và Băng Tâm cũng biết - Phật và Bồ tát khi vào cõi Ta Bà để cứu độ chúng sanh - có thể thị hiện nhiều hình tướng khác nhau. Cho nên, đối với d/đ các vị Đại Đệ Tử của Phật - cũng là những hình tướng khác nhau của Phật và Bồ tát khi xuất hiện nơi đời.

Do đó, d/đ không bao giờ so sánh các vị Đại Đệ Tử của Phật Thích Ca với chúng sanh - dầu là chúng sanh cõi trời. Và d/đ cũng không bao giờ so sánh chỗ hiểu của các vị Đại Đệ Tử của Phật với các vị Ưu Bà Di, Ưu Bà Tắc. Vì vậy, d/đ không có những thắc mắc giống như Băng Tâm. Và vì d/đ không có những thắc mắc như Băng Tâm - nên chỗ hiểu của Băng Tâm và d/đ có sự sai khác.

Hy vọng Băng Tâm nghe lời giải thích này của d/đ - Băng Tâm không còn thắc mắc về chỗ hiểu sai khác giữa Băng Tâm và d/đ.

Thân
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
 

hoailinh

Registered
Phật tử
Tham gia
11/9/13
Bài viết
133
Điểm tương tác
50
Điểm
28
Gửi Diệu Đúc

Trích : Đốn ngộ nhập đạo yếu môn
"- Nói lấy Trí làm Dụng, thế nào là Trí ?
- Biết hai tánh không tức là giải thoát. Biết hai tánh chẳng không, thì không
được giải thoát. Ấy gọi là Trí, cũng gọi là rõ tà chánh, cũng gọi hiểu Thể Dụng.
Hai tánh không là Thể, biết hai tánh không là giải thoát. Lại không sanh nghi gọi
là Dụng. Nói hai tánh không là chẳng sanh tâm có không, lành dữ, yêu ghét vậy.
*
- Môn này từ đâu mà vào ?
- Từ bố thí ba-la-mật mà vào.
- Phật nói sáu pháp ba-la-mật (đến bờ kia hay được cứu cánh) là hạnh của
Bồ-tát, tại sao ở đây chỉ nói riêng bố thí ba-la-mật thì đâu thể đầy đủ mà được vào ?
- Người mê không biết năm độ kia (trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí tuệ) đều nhân bố thí mà sanh. Chỉ tu bố thí thì sáu pháp đều đầy đủ.
- Bố thí vật gì ?
- Bố thí là bỏ hai tánh.
- Thế nào là hai tánh ?
- Bố thí là bỏ tánh thiện ác, bố thí là bỏ tánh có không, tánh yêu ghét, tánh
không chẳng không, tánh định chẳng định, tánh tịnh bất tịnh, tất cả đều cho bỏ hết
thì được hai tánh không. Nếu khi được hai tánh không, cũng chẳng được khởi
tưởng hai tánh không, cũng chẳng được khởi nghĩ tưởng có bố thí, tức là chân thật
hành bố thí ba-la-mật, cũng gọi là muôn duyên đều bặt. Muôn duyên đều bặt, tức
là tất cả pháp tánh không ấy vậy. Pháp tánh không là tất cả chỗ không tâm. Nếu
khi được tất cả chỗ không tâm là không có một tướng có thể được. Vì sao ? Vì tự
tánh không, nên không một tướng có thể được. Không một tướng có thể được là
tướng thật. Tướng thật là tướng Như Lai diệu sắc thân. Kinh Kim Cang nói : “Lìa
tất cả các tướng gọi là chư Phật”.
- Phật nói sáu ba-la-mật, tại sao nay chỉ nói một, cho là đầy đủ, xin nói
nguyên nhân một gồm đủ sáu pháp ?
- Kinh Tư Ích nói : “Ngài Võng Minh gọi Phạm thiên nói : Nếu Bồ-tát bỏ
tất cả phiền não gọi là Bố thí ba-la-mật. Nơi các pháp không có chỗ dính mắc gọi
là Trì giới ba-la-mật. Nơi các pháp không có chỗ xâm phạm gọi là Nhẫn nhục bala-
mật. Nơi các pháp lìa tướng gọi là Tinh tấn ba-la-mật. Nơi các pháp không có
chỗ trụ gọi là Thiền định ba-la-mật. Nơi các pháp không hý luận (nói trò đùa vô
nghĩa) là Trí tuệ ba-la-mật”. Đó gọi là sáu pháp. Nay nói sáu pháp này chẳng khác,
vì tóm lược pháp thứ nhất là bỏ, thứ hai là không khởi, thứ ba là không niệm, thứ
tư là lìa tướng, thứ năm là không trụ, thứ sáu là không hý luận. Sáu pháp như thế,
tùy việc phương tiện tạm đặt tên, chớ đến chỗ diệu lý thì không hai không khác.
Chỉ biết một bỏ thì tất cả đều bỏ, không khởi thì tất cả đều không khởi. Trên
đường mê lầm không khế hội ắt cho có sai khác. Người ngu mắc kẹt trong pháp số,
nên trôi lăn mãi trong sanh tử. Bảo cho các người học đạo, chỉ tu pháp Bố thí là
tròn đầy muôn pháp, huống là năm pháp mà chẳng đủ sao ?"
*

Cũng vì chưa bỏ được cái tập khí xấu này nên mới mở mồm. Âu cũng là vì nhân duyên nên cũng đành thuận theo lần này nữa. Xin chị Diệu Đức đừng có dại dột mà nói lời chưa thấu đáo , dễ mà chịu nhiều cay đắng sau này. nếu thật lòng muốn dứt sanh tử, rồi độ chúng sanh...
Thì chỉ cần nơi bài này mà hành cho đúng, cho chuyên ... thì khỏi cần mở miệng. mà đến lúc mở miệng, thì không ai là không nghe. Thật là buồn , thương cho chị nhiều
 

vienquang6

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn - Quyền Admin
Quản trị viên
ĐÃ TIẾN CÚNG
Tham gia
6/2/07
Bài viết
3,869
Điểm tương tác
920
Điểm
113
Quý Đạo hữu Kính mến

Nam Mô Phật.

V/Q xin kính chào các ĐH Diệu đức, Quay lại, hoatihon, băng tâm, Hoài linh... kính mến.

Trước hết xin tán thán công đức của quý ĐH đã xem và thảo luận với chủ đề Đại Trí Độ Luận...

Với những thâm nghĩa mà quý ĐH đã diễn bày ở trên. Theo V/Q thấy mỗi người một vẻ, đều có chỗ hay chổ khả dụng của nó. Nhưng sở dĩ chúng ta không thưởng thức được hết là vì "sức nhẫn nghe"" của chúng ta chưa kham nổi mà thôi.

Ví như ĐH Quay lại nói chỗ thâm đạt rất hay

Quay lại: Ha..Ha.

Như vậy, ai là "đối tựợng cứu"? Quay Lại hay Băng Tâm ...
Ai là "các vị cứu" ? Diệu Đức hay Viên Quang
(Vì các Vị thường nghiên cứu "Luận Đại Trí Độ".)

... cái này là "rờ đúng chổ ... gần gần... cái đuôi voi" ..."một phần rất quan trọng của con voi" (theo lới Diệu Đức tả).

Thú thật. Chỗ này V/Q nghe được nó "đã " vô cùng. Đây là một "mật ngữ". Nhưng ĐH Diệu Đức thì có cảm nhận khác...

* Lại như ĐH Băng Tâm nêu lên vấn đề cũng rất thiết thực và chỗ trực nhận rất thâm sâu...

Thôi thì chuyện đó chúng ta hãy để đó...

V/Q chỉ xin cống hiến quý ĐH một số kinh nghiệm và tâm pháp, để khi nghe kinh, giảng luận. Mà V/Q đã thu thập được:

1/. Phật thuyết nhất âm, chúng sanh tùy loại giải. Nghĩa là như trong kinh Pháp hoa, phẩm dược thảo dụ. Phật dạy Pháp của Phật ví như cơn mưa lớn.- Cây lớn hấp thụ, trưởng dưỡng theo sức của cây lớn, cây nhỏ cũng hấp thụ theo sức của cây nhỏ, nhẫn đến cỏ thuốc nhỏ cũng không mất phần.

2/. Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly kinh nhất tự tức thành ma thuyết.

3/. HOÀI HẢI THIỀN SƯ.- BÁ TRƯỢNG QUẢNG LỤC ngài dạy: Người đọc kinh xem giáo, ngữ ngôn đều phải uyển chuyển quay về tự kỷ, bởi vì tất cả ngôn giáo chỉ đều nói về cái tánh giác chiếu soi...

Kính mong đây là chút quà mọn, để quý ĐH nhâm nhi với chén trà "tỉnh tâm minh huệ'.

Kính.
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18/3/10
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
Chào bạn Hoailinh,
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->
Thật ra, sau khi giải thích với bạn Băng Tâm - d/đ thấy đã đủ. Nhưng vì Bạn nói : Cũng vì chưa bỏ được cái tập khí xấu này nên mới mở mồm. Âu cũng là vì nhân duyên nên cũng đành thuận theo lần này nữa. Xin chị Diệu Đức đừng có dại dột mà nói lời chưa thấu đáo , dễ mà chịu nhiều cay đắng sau này. nếu thật lòng muốn dứt sanh tử, rồi độ chúng sanh...
Thì chỉ cần nơi bài này mà hành cho đúng, cho chuyên ... thì khỏi cần mở miệng. mà đến lúc mở miệng, thì không ai là không nghe. Thật là buồn , thương cho chị nhiều


Nên mặc dầu không muốn - d/đ cũng phải giải thích thêm một lần nữa để Bạn hiểu. Đó là, những gì d/đ nói là d/đ đã hiểu rất thông. Và d/đ cũng xác nhận chỗ d/đ hiểu chỉ là một phần của Phật Pháp.

Nhưng vì chỗ hiểu của d/đ - là ngoài Phật không có ai hiểu hết về Phật Pháp. Cho nên, d/đ mới chia sẻ những điều d/đ biết - và d/đ cũng chỉ giải thích về sự nhận biết đó. Còn đối với chỗ hiểu của Bạn hay của các Bạn khác - d/đ chỉ lắng nghe và tìm biết nguyên nhân khiến chỗ hiểu của d/đ sai khác với chỗ hiểu của các Bạn mà thôi.

Vì có tánh tò mò như vậy - nên d/đ không phải chỉ thấy chỗ đúng của mình, chỗ sai của người - mà d/đ còn thấy luôn cả chỗ sai của mình, chỗ đúng của người.

Do đó, Bạn đừng thương cho d/đ. Vì những gì d/đ chia sẻ đều đã có sự kiểm chứng. Và d/đ cũng biết - lời nói nào sẽ chịu hậu quả nào. Vì không phải chỉ nói sai Phật Pháp mới lãnh hậu quả đâu - chắc Bạn chưa nghĩ đến điều này...
d/đ xin mượn lời của thầy Viên Quang nói : “sở dĩ chúng ta không thưởng thức được hết là vì "sức nhẫn nghe" của chúng ta chưa kham nổi mà thôi” để thay lời kết thúc - mặc dầu chỗ hiểu của d/đ không giống với ý của thầy Viên Quang khi nói lời này.


Ngoài ra, d/đ cũng muốn nhắc với Bạn - thế gian này người mê nhiều - người tỉnh ít. Cho nên, không phải điều gì được nhiều người chịu nghe _ là đúng. Và cũng đừng vội chê những điều không ai chịu nghe _ là không đúng. Muốn đánh giá đúng - thì phải biết chỗ sai. Muốn đánh giá sai thì phải biết chỗ đúng. Bạn có nghĩ vậy không !?

Chào Bạn<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
 

nhãn đầu mùa

Registered
Phật tử
Tham gia
10/11/13
Bài viết
294
Điểm tương tác
99
Điểm
43
chào Diệu Đức

Thấy đồng hữu như con kiến ngụp lặn trong biển THỨC, ngài VQ buông một chiếc lá khô những mong cho kiến được lên bờ. nhưng tiếc là kiến không nhờ vào lá và cuối cùng thì kiến và lá cũng bị cuốn trôi.
Phải biết rằng lời Phật , Tổ là như cây hương bảng. vì thương chúng sinh mà đành phải làm vậy, hễ còn mở miệng là hương bảng giáng xuống. không phải Phật ,Tổ không cho nói, nhưng mà phải nói được cái không thể nói thì hãy nói, mà nghe thì phải nghe được cái không thể nghe mới thật biết nghe. Cái tâm hết mắc vào lời Phật , Tổ rồi dính vào lời ngài VQ thì hỏi làm sao mà gọi là MINH TÂM? Chẳng nghe lời Phật dạy là Tâm vô trụ đó ư? phải hiểu lời Phật là ngay đến Phật cũng chưa hề nói một chữ.
Thế nào là Phật cũng chưa hề nói một chữ?
Nói thật ; bạn chưa hề thấy được tý Phật Pháp nào cả, tất cả những gì bạn nói xưa nay đều là học được trên giấy bút. một chút tự tâm hành Pháp Phật cũng chưa có. tôi chỉ vì rằng nhiều người có tâm học đạo mới vào diễn đàn mà đọc những bài viết của bạn thì làm khổ một đời cho họ mà phải nói lời bộc trực.
Nói như Hắc Phong là ngay đến bản Luận Đại Trí Độ thì ngài VQ cũng chỉ là người tái đăng của người khác chứ không phải của ngài. ngoài ra ngài chỉ có thêm những gợi ý tìm hiểu...
chứ không phải như bạn; luôn lúc nào cũng giải nghĩa...mà cuối cùng thì như mớ bòng bong, tự mình còn nỏ thoát ra ngoài được.
lâu lắm tôi mới quay lại, thực tình thì muốn một thời gian nữa mới tiếp tục cùng nhau vui vẻ. nhưng thấy có cái, nơi những bài của bạn không đem lại lợi ích cho người học mà cũng tổn hại cho người viết nên mở lời bày tỏ.
Xin được hỏi: thế nào là Diệu? sao gọi là Đức?
không cần tranh luận lời tôi nói đúng hay sai thêm làm gì nữa. tôi tạm xa thời gian chúc mọi người thành công
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18/3/10
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa

Xin được hỏi: thế nào là Diệu? sao gọi là Đức?
không cần tranh luận lời tôi nói đúng hay sai thêm làm gì nữa. tôi tạm xa thời gian chúc mọi người thành công

Chỉ nói không nghe
Tạo thành không luận
Không trong mầm có
Nếu nghe lời đáp
Đức ở nơi Diệu
Có của mầm không
Nghe cái không nghe
Chuyển không thành có
Nói cũng như không
Không cũng như nói
Tuỳ duyên, tuỳ thời
Nói hay không nói
 

bangtam

Phó Trưởng Ban Đại Biểu Thường Trực nhiệm kỳ III (
Phật tử
Tham gia
15/7/10
Bài viết
2,823
Điểm tương tác
841
Điểm
113
Chị Diệu Đức kính mến.
Chỉ nói không nghe
Tạo thành không luận
Không trong mầm có
Nếu nghe lời đáp
Đức ở nơi Diệu
Có của mầm không
Nghe cái không nghe
Chuyển không thành có
Nói cũng như không
Không cũng như nói
Tuỳ duyên, tuỳ thời
Nói hay không nói




* Hoan hô chị Diệu Đức đã làm bài kệ hay quá, tựa như nơi giấy trắng, mực đen được người họa sĩ tài hoa đã vẽ lên được tánh nước trong long lanh sinh động.
Trong niềm hân hoan này, em cũng xin góp vui với chị nhé.



Nghe cái không nghe,
Pháp trần thành không
Không đồng như nói,
Nói đồng như không
Cảnh, tâm cũng thế
Chơn-như một nguồn.



Kính
bangtam
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18/3/10
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
Chị Diệu Đức kính mến.!

Chỉ nói không nghe
Tạo thành không luận
Không trong mầm có
Nếu nghe lời đáp
Đức ở nơi Diệu
Có của mầm không
Nghe cái không nghe
Chuyển không thành có
Nói cũng như không
Không cũng như nói
Tuỳ duyên, tuỳ thời
Nói hay không nói





* Hoan hô chị Diệu Đức đã làm bài kệ hay quá, tựa như nơi giấy trắng, mực đen được người họa sĩ tài hoa đã vẽ lên được tánh nước trong long lanh sinh động.
Trong niềm hân hoan này, em cũng xin góp vui với chị nhé.



Nghe cái không nghe,
Pháp trần thành không
Không đồng như nói,
Nói đồng như không
Cảnh, tâm cũng thế
Chơn-như một nguồn.



Kính
bangtam

Chào Băng Tâm,
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:WordDocument> <w:View>Normal</w:View> <w:Zoom>0</w:Zoom> <w:punctuationKerning/> <w:ValidateAgainstSchemas/> <w:SaveIfXMLInvalid>false</w:SaveIfXMLInvalid> <w:IgnoreMixedContent>false</w:IgnoreMixedContent> <w:AlwaysShowPlaceholderText>false</w:AlwaysShowPlaceholderText> <w:Compatibility> <w:BreakWrappedTables/> <w:SnapToGridInCell/> <w:WrapTextWithPunct/> <w:UseAsianBreakRules/> <w:DontGrowAutofit/> </w:Compatibility> <w:BrowserLevel>MicrosoftInternetExplorer4</w:BrowserLevel> </w:WordDocument> </xml><![endif]-->d/đ cảm ơn lời khích lệ của Băng Tâm. Băng Tâm góp vui - d/đ cũng muốn được vui thêm

<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->Chơn Như là nguồn
Cảnh huyễn, Tâm vọng
Huyễn, Vọng hợp cùng
cũng như không
Không cũng như
Trở lại cội nguồn
Vọng, Chơn một thể
Lìa khỏi thanh trần
Nghe cái không nghe…

Mến thân
<!--[if gte mso 9]><xml> <w:LatentStyles DefLockedState="false" LatentStyleCount="156"> </w:LatentStyles> </xml><![endif]--><!--[if gte mso 10]> <style> /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} </style> <![endif]-->
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Bên trên