T

Pháp Hoa Tông (Phật giáo Trung Hoa)

Thiện Nhẫn

Registered
Phật tử
Tham gia
18/2/12
Bài viết
52
Điểm tương tác
21
Điểm
8
6.- Pháp Hoa Tông Hay Là Thiên Thai Tông
I.- Duyên Khởi Lập Tông

Thiên thai tông được khởi xướng từ Bắc tế. Do Ngài Huệ văn Thiền sư dựa vào bộ trí độ luận mà lập ra pháp Nhứt tâm quán. Pháp quán này được truyền cho Ngài Nam Nhạc Huệ Tự Thiền sư. Ngài Huệ Tự lại truyền cho Ngài Trí Giả ở núi Thiên Thai.

Ngài Trí Giả là một bậc đại sư , y theo kinh Pháp Hoa, bổ túc thêm cho pháp nhứt tâm quán được hoàn bị và lập thành một tôn pháp có uy thế ở núi Thiên Thai. Do đó mới có tên là Thiên Thai Tông (hoặc gọi Pháp Hoa Tông).

vị đại đệ tử của Ngài Trí Giả là Ngài Chương An Ðại sư ghi chép lại những lời của Thầy, làm ra nhiều bộ luận có giá trị, để làm cơ sở cho Thiên Thai tông, như bộ Pháp hao huyền nghĩa, Pháp hoa văn cú, Ma ha chỉ quán. từ Ngài Chương An, giáo nghĩa của tôn này được hoằng truyền mãi cho các vị Ðại đệ tử, thứ tự như sau: Ngài Trí Oai, Ngài Huệ Oai, Ngài Huyền Minh Và Ngài Trạm Nhiên.

Ðến đời Ngài Trạm Nhiên, cũng gọi là kinh Khê tôn giả, giáo-lý và tôn chỉ của Thiên Thai tông lại được rộng truyền và thêm nhiều thanh thế, vì Ngài Trạm Nhiên là một vị cao tăng, học rộng, biết nhiều, bổ túc thêm các bộ luận căn bản của tôn được hoàn bị, tù Ngài Trạm Nhiên về sau, đời nào cũng có những vị đệ tử có tài đức truyền giáo nghĩa của tôn này.


Kinh sách của Thiên Thai tông rất nhiều, trong số này có thể lựa ra ba bộ sách lớn làm căn bản cho tôn này là: Pháp hoa huyền nghĩa, Pháp hoa văn cú, Ma hoa chỉ quán. ngoài ra có thể thêm năm bộ nhỏ, tuy không quan trọng bằng ba bộ trên, nhưng củng rất cần thiết cho người tu học là: Quán âm huyền nghĩa, Quán âm nghĩa sớ, Kim quang kim huyền nghĩa, Kim cang minh văn cúQuán kinh sớ.
II.- Tôn Chỉ Và Giáo Lý Căn Bản

Cũng như các tôn phái khác trong Phật Giáo, Thiên thai tông không đi ra ngoài giáo-lý căn bản của đức Phật. Ðó là: Chư pháp duy nhứt tâm. Cái công lớn nhất của Thiên thai tông là làm sáng tỏ giáo-lý trên bằng một phương-pháp diễn dịch rất là minh bạch tinh vi.

Sao gọi là Chư pháp duy nhứt tâm? - Theo Thiên thai tông thì ngoại tâm không có các pháp , ngoài các pháp không có tâm. Tâm tức là nhất thiết pháp, nhất thiết pháp ấy là tâm. Hai cái không phải là khác, nhưng cũng không phải là một. Tâm bao trùm tất cả. Tâm tức là chúng sanh, tâm cũng tức là Bồ tát, Phật. sinh tử cũng ở nơi tâm ấy.

Nhưng làm sao để nhận chân được những phương diện của tâm, mà mới nghe qua hình như là trái ngược, mâu thuẩn với nhau.
Muốn thấy được toàn diện của tâm, người quan sát phải đứng nhiều khía cạnh, nhiều quan điểm khác nhau mà nhìn:


Nếu chúng ta đứng về phương diện tuyệt đối mà xét sự vật (hay nói theo danh từ nhà Phật, đứng về phương diện chơn đế), thì thấy sự vật trong vũ trụ, không có một sự vật gì nó đứng vững một mình và tồn tại, mọi vật không có thể tự riêng biệt, mọi vật đều do nhân duyên mà thành. Cái của sự vật là một cái có tạm bợ giả dối, mà cũng như không . Ðứng về phương diện tuyệt đối mà xét thì không có một pháp nào là tuyệt đối cả. Cho nên gọi là không.

Nhưng nếu đứng về phương diện tương đối mà xét (hay nói theo danh từ nhà Phật, đứng về phương diện tục đế), thì không thể bảo mọi pháp là hoàn toàn không được. Trước mắt chúng tánh, đành rành có đủ mọi vật, và mỗi vật có một giới hạn, một đời sống riêng biệt, sao lại bảo là hoàn toàn không ? Cho nên đứng về phương diện đối đãi, thì mọi vật không thiếu một vật gì.

Ðứng về phương diện tuyệt đối, thì vạn pháp là không ?; Ðứng về phương diện tương đối thì vạn pháp là . Khôngđấy là hai phương diện của tâm. Lấy phương diện này mà bỏ phương diện kia, hay trái lại lấy phương diện kia mà bỏ phương diện này, đều là thiên chấp, thiếu sót.


:khi19:Một giáo lý hoàn toàn là phải chấp nhận cả hai phương diện ấy. Ðó là trung đạo. Phải là trung đạo, mới có thể tuyên bố: Tâm là nhứt thiết pháp, nhứt thiết pháp là tâm; tâm là sanh tử luân hồi, mà cũng là Niết bàn tịch tịnh.

Như thế tâm có đầy đủ các tánh: thiệnác, tịnhbất tịnh, Phật và chúng sanh. Trong cõi sanh diệt vô thường, vẫn có cái lý bất sanh bất diệt; trong cỏi ta ba, vẫn có cảnh giới của Phật. Đó là ý nghĩa của câu pháp môn tánh cụ nghĩa là bản tánh bao giờ cũng có đủ các pháp, như lành và dữ, tịnh và bất tịnh...Do có đủ các pháp, nên hành động như thế nào thì kết quả như thế ấy. Muốn thành Phật, hay muốn làm chúng sanh thì tạo nhơn chúng sanh. Chúng sanh muốn thành Phật chỉ nhứt trừ ác nghiệp và chuyển lại tu thiện nghiệp

Và cũng vì có đủ các pháp, nên trong mỗi pháp giới là sáu loại phàm phu (Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, Tu la, Nhơn, Thiên) và bốn thánh bậc (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Phật).

Do chủ trương: pháp môn tánh cụ, và mỗi pháp giới đều có đủ mười pháp giới, nên quan niệm tu hành của Thiên thai tông cũng lạc quan hơn các tôn phái khác. Ở trong pháp giới nào! dù tối tăm, khổ sở bao nhiêu cũng có thể tu hành và thành tựu được. Như thế không cần từ bỏ một cảnh giới này, cầu sanh vào một cảnh giới khác mới có thể tu hành và thành Phật.
III.- Phương Pháp Tu Hành

Phần chủ trương của Thiên thai tông như đã trình bày ở trên, có phần lạc quan và dễ dàng: trong cảnh giới hiện tại có đủ cảnh giới phàm và thánh, muốn thành Phật, Bồ tát thì cứ gieo nhơn (tu hành) thành Phật, Bồ tát. Ðó là nói về lý thuyết. Nhưng trong thực hành không phải dễ dàng như thế.

Trước tiên, chúng ta phải nhận định hoàn cảnh thực tế của chúng sanh là một hoàn cảnh bị che phủ rất nhiều mê lầm, hay nói theo thuật ngữ nhà Phật thì là chướng hay hoặc. Dứt trừ được những'chướng hay hoặc ấy là công việc chính của người tu hành.

[BUBBLE]
:khi19:Nhưng muốn dứt trừ những tên giặc nguy hiểm ấy, trước tiên phải tìm hiểu tướng trạng, hành tung, phạm vi họat động của chúng ta như thế nào đã. Những chướng ngại, mê lầm hay những hoặc nói trên nhiều vô số, nhưng có thể phân chia làm ba loại, từ cạn đến sâu, từ hẹp đến rộng. Ðó là kiến tư hoặc, trần sa hoặcvô minh hoặc.
[/BUBBLE]

3.- Vô minh hoặc: Chữ vô minh nghĩa chung là mê lầm. Mê lầm cũng có nhiều bậc cạn và sâu, hẹp và rộng, thô thiển và vi tế. Bên Nam Tông cũng dùng chữ vô minh, mà bên Bắc Tông cũng dùng chữ vô minh. Nhưng vô minh theo quan niệm của Nam Tông là sự mê lầm che lấp không cho chúng sanh thấy được cái cội gốc của đau khổ, phiền não, nguyên nhân của sanh tử luân hồi.
Còn theo nghĩa của Bắc Tông và đặc biệt của Thiên thai tông là sự mê lầm che lấp chơn lý thật tướng của Trung đạo. Vô minh hoặc ở đây có một nghĩa bao quát rộng rãi như thế, nên cũng gọi là giới ngoại đạo hoặc, nên cũng gọi là biệt hoặc.

Ðối vị với ba hoặc này, Thiên thai tông lập ra ba pháp quán là: Không quán, Giả quánTrung quán.


Ba Pháp Quán: Ba pháp này nguyên Ngài Tuệ Văn rút từ những phẩm kệ trong bộ Trung luận của Ngài Long Thọ Bồ tát mà lập ra. Phẩm kệ ấy như sau:
  • Nhân duyên sở sanh pháp; Ngã thuyết thức thị không; Diệc danh vi giả danh; Diệc thị trung đạo nghĩa.
  • (Các pháp do danh duyên sanh, nên tánh bảo là không, mà cũng là giả danh, đó cũng là nghĩa lý của Trung đạo).
Ðối với Thiên thai tông thì ba pháp quán này là phần nòng cốt trong sự tu hành. Nếu không thực hành ba pháp quán này thì không làm sao thành tựu được. Ba pháp quán này, như trên đã nói; Không quán, Giả quán và Trung quán.

1.- Không quán: Không quán là đứng về phương diện chơn đế mà quan sát sự vật. Theo chơn đế thì các pháp là không, nhưng chúng sanh vì mê lầm không rõ, chấp là có thật. Do đó mà có kiến thức hoặc, và cứ mãi quay cuồng trong sanh tử luân hồi của tam giới. Nay phải dùng Không quán mà phá trừ sự mê lầm chấp trước trên, cắt đứt tất cả tình chấp (trừ kiến và tư hoặc) mới thoát khỏi sanh tử luân hồi.

2.- Giả quán: Giả quán là đứng về phương diện tục đế mà quan sát sự vật. Các Phật tuy không và không sở đắc nhưng đứng về thế tục mà nhìn, thì thấy bản tánh vốn đủ các pháp , muôn hình vạn trạng, không thiếu một pháp nào. Giả quán này có thể dứt trừ được trần sa hoặc, vì hành giả biết rằng hoặc tuy nhiều như cát bụi, nhưng đều là giả cả, nên không lo sợ trước số nhiều ấy, và cứ tâm phát nguyện độ sanh khắp tất cả.

3.- Trung quán: Trung quán là đứng về phương diện trung đế để quan sát các pháp. Trung đế hay đệ nhất nghĩa đế là sự thật đúng đắn nhất, không gì hơn, sự thật trung chánh, tóm thâu bao gồm tất cả sự thật khác.

Khi đứng về chơn đế hay tục đế mà quan sát sự vật thì không phải là không đạt đến sự thật; nhưng sự vật ấy mới chỉ được vén lên ở một khía cạnh nay hay một khía cạnh khác mà thôi. Và những sự thật ấy, nếu không có trung quán, thì trở thành mâu thuẩn, đối chọi nhau.

Nhờ Trung quán mà nhìn cùng một lần cả hai khía cạnh Có và Không, mới nhận chân được rỏ ràng các pháp không phải chơn mà cũng không phải tục, tức chơn, tức tục, dung thông cả hai, không có chướng ngại. Pháp quán này sẽ trừ được vô minh hoặc một cách rốt ráo, cùng tột.
Ba pháp quán này có tể thực hành bằng nhiều lối

Hoặc quán theo thứ lớp, hết Không đến Giả đến Trung. Lỗi quán này gọi là quán ba đế về lối cách lịch, thứ đệ, hay về biệt tướng, hay biệt giáo.

Hoặc quán theo lối thông tướng. Theo lối sau nay thì quán một đế mà ba đế đều đủ, ba tức là một. Thí dụ: quán pháp Không thời hết thãy đều Không; Giã, Trung cũng đều Không; quán pháp Giã, thời hết thảy đều Giả; Không , Trung cũng đều Giã; quán pháp Trung, thời hết thảy đều Trung; Không; Giả cũng đều Trung.

Hoặc quán theo lối Viên dung; nghĩa là đầy đủ, Dung nghĩa là dung hòa. Theo pháp quán này, thì dùng một tâm mà đồng thời tu ba pháp quán, nghĩa là trong một tâm niệm mà ba pháp quán đều đủ và không ngăn ngại nhau.

Quán như thế gọi là nhất tâm tam quán, một pháp quán của viên giáo. Nhất tâm tam giáo là pháp quán vi diệu nhất. Nhờ pháp quán này mà hành giả trực nhận được trong một lúc nhiều khía cạnh của tâm ( mà cũng tức là vạn pháp ), rõ ràng như khi chúng ta soi vào gương, mà vừa nhận thấy được ánh sáng của gương (dụ cho không), những bóng phản chiếu trong gương (dụ cho trung). Ba thứ: ánh sáng, bóng phản chiếu và thể tánh của gương đều đầy đủ, đều thể hiện cùng một lúc mà vẫn viên dung, không trở ngại nhau. Cái lý ba đế viên dung là đức tánh sẵn có trong mười pháp giới, không một sự vật, một pháp gì, là không viên dung cả ba đế, cho nên thông thường gọi là: Một cảnh ba đế.

Hành giả khi quán thuần thục, sẽ đi đến kết luận sau đây:
Chân như, TâmVật, quan hệ mật thiết như tánh ướt, nước và sóng. Chân như dụ cho tánh ướt, Tâm dụ cho nước , Vật dụ cho sóng. Ngoài tánh ướt không có nước; ngoài nước không có sóng. Ngoài chân như không có tâm, ngoài tâm không có vật. Chân như, Tâm và Vật không rời nhau, mà cũng không phải là một, mà cũng không khác.
IV.- Quả Vị Tu Chứng

Như trên đã nói, do sự khám phá của Nhất tâm tam quán, Thiên thai tông có một quan niệm lạc quan về sụ tu chứng. Thật vây, khi đã nhận rõ chân-như nằm ngay trong sự vật, phàm, thánh không hai, uế độ tức tịnh độ, thì hành giả không cần phải cầu sanh ở một cảnh giới thanh tịnh nào khác mới tu hành được, cũng không cần phải tu hành lâu đời, lâu kiếp mới thành Phật được. Ngay trong hiện tiền, nếu hiểu rõ được nghĩa lý của Trung đạo và khởi công tu luyện thì cũng là Phật rồi. Ấy là ý nghĩa của Thiên thai tông đã đề xướng trong chủ trương Lục tức Phật.

1.- Lục tức Phật, gồm có: Lý tức Phật, danh tự tức Phật, quán hạnh tức Phật, Tương trợ tức Phật, Phần chứng tức Phật, Cứu kính tức Phật.

a) Lý tức Phật: Lý tức là nghĩa lý. Hiễu rõ được nghĩa lý của Ðức-Phật đã dạy trong câu Chúng sanh vốn đủ Phật tánh , cùng các đức Như Lai không hai không khác; hay trong câu: Hết thảy chúng sanh đều là Phật; hiểu rõ được lý ấy tức là Phật.

b) Danh tự tức Phật: Danh tự ở đây tức là những kinh điển, hay những lời thuyết pháp mà mình đã học hay đã nghe được, và đã hiểu được thông suốt rằng: Hết thảy các pháp đều là Phật pháp . Danh tự tức Phật nghĩa là lãnh hội được lý tánh của vũ trụ, vạn hữu qua kinh điển, văn tự tức là Phật.

c) Quán hạnh tức Phật: Quán hạnh là quán tưởng. Hạnh là tu hành, hành động; nói một cách tổng quát: quán hạnh tức Phật nghĩa là thực hành đúng theo lời Phật dạy tức là Phật.

d) Tương trợ tức Phật: Chữ tương trợ ở đây có nghĩa là trong lúc mình tu hành, tuy chưa có thể thực chứng được lý tánh , nhưng tâm mình đã được yên lặng, nơi lý đã mường tượng như tuồng đã chứng được, nên gọi là tương trợ tức Phật. đến đây tức là Phật thập tín, thuộc về nội phàm (phàm phu trong nội giáo).

e) Phần chứng tức Phật: Theo Thiên thai tông, thì vô minh như là tấm màn dày đặc, gồm có 41 lớp; mỗi khi nhờ công phu tu hành, phá được một lớp, tức là chứng được một phần Trung đạo. Ðó là ý nghĩa của phần chứng tức Phật. Đến đây tức là đã lên đến các bậc Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa và Ðẵng giác.

f) Cứu cánh tức Phật: Cứu cánh tức là đạt đến bực cuối cùng, chứng được chổ mầu nhiệm cực điểm, nghĩa là đến bực Diệu giác, Chủng trí đều viên mãn. Ðến đây tức là đến bực Diệu giác hay Phật.

Chúng ta nên nhớ rằng Lục tức Phật này có phân biệt Lý và Sự khác nhau. Về lý thì mới bắt đầu bước lên bực thứ nhất và vị đã đến từng bực thứ sáu, đều bình đẳng như nhau, không hơn không kém, vì thể tánh vẫn là một và mọi chúng sanh đều là Phật. cái Lý này đem lại cho hành giả và sự phấn khởi, trên đường tu hành, không sanh lòng chán nãn, không buồn trách mình chậm thành đạo quả mà thối tâm.

Nhưng về sự thì vị thứ cao thấp đều có trật tự, kẻ mới tu hành và vị đã chứng quả Phật, không thể như nhau và ngang nhau được. Người tu hành hiểu rõ như thế mới không sanh lòng tăng thượng mạn, tự xưng là Phật là Thánh trên bước đường tu hành của mình.

Về Sự thì chỉ những vị đã đạt đến bực thứ sáu, tức là bực Cứu-cánh, mới đúng danh nghĩa là Phật, vì chỉ có Phật mới có đủ ba Trí, ba Ðức.

2.- Ba trí: Ba trí tức là Nhất-thiết -trí, Ðạo-chủng-trí và Nhất-thiết-chủng-trí.

Nhất thiết trí: Trí này rõ biết hết thảy các pháp đều không sanh; biết rỏ danh, tướng các pháp của nội tâm và ngoại cảnh, biết rõ không có ngã và ngã-sở. Trí này các bậc tu theo Nam Tông, sau khi đã chứng quả đều có được. Còn theo Thiên Thai tông thì do tu Không quán mà có được.

Ðạo chủng trí: Trí này rỏ biết nhất thiết pháp đều là nhưng có một cách giả dối, do nhân duyên hòa hợp mà thành. Cái trí ở trên (nhất thiết trí) chỉ thông suốt được các pháp không sanh. Chứ không phân biệt được các pháp do duyên khởi. Vì không rỏ được nguyên nhân sanh-khởi, các pháp như thế, nên không thể dùng đạo pháp của các Ðức-Phật để phát khởi các giống lành cho hết thảy chúng sanh, và không dám phát nguyện rộng lớn cứu độ chúng sanh. Vậy phải có Ðạo-chủng-trí này mới phá tan được trần-sa-hoặc, có tâm dũng-mãnh để cứu độ chúng sanh. Trí này chỉ có các bậc Bồ Tát, A La Hán mới có được, và do Giả-quán mà thành.

Nhất thiết chủng trí: Trí này rõ biết được hết thảy pháp đều là trung đạo, biết được đạo pháp của các Ðức-Phật và hết thảy nhơn chủng (chủng-tử khi tạo nhơn) của các loại chúng sanh, phá tan được vô-minh hoặc, thông-suốt thật-tướng của các pháp. Trí này tức là trí của Phật, do thành tựu Trung-quán mà có.

Chứng được ba trí trên này là nhờ tu ba pháp quán: không, giả, trung. Vì ba pháp quán này có cách-lịch, viên-dung khác nhau, nên khi chứng được ba trí cũng có thứ lớp và không thứ lớp khác nhau. Ba trí có thứ lớp, nghĩa là thành-tựu tuần-tự từ Nhất-thiết-trí, đến Ðạo-chủng trí, cuối cùng đến Nhất-thiết-chủng trí.

3.- Ba đức: Kết quả tu chứng của Thiên-thai tông, không phải chỉ có được ba Trí mà còn được ba Ðức nữa. Chữ Ðức ở đây không phải hiểu theo nghĩa thông-thường ở trên thế-gian, mà là Ðức của cảnh-giới Niết-bàn, nghãi là có đầy đủ thường, lạc, ngã, tịnh. Ba đức ấy là:

a). Ðức Pháp thân: Pháp tức là khuôn phép đúng với chơn-tướng của vũ-trụ. Các Ðức-Phật nhờ nương theo khuôn phép ấy mà tu hành thành Phật, thể chứng được chơn-tướng vũ-trụ, cho nên gọi là pháp-thân.

b). Ðức Bát nhã: Tức là cái sáng-suốt về thỉ-giác của Phật, rõ biết các Pháp không sanh không diệt, vắng-lặng siêu-hình, một mực bình-đẳng, không thêm không bớt.

c) Ðức Giải thoát: Giải là không bị ràng buộc; Thoát và không vượt ra ngoài, là tự tại vô ngại. Ở đây muốn nói các Ðức-Phật đã lìa bỏ các phiền-não nghiệp-chướng ràng buộc, chứng được cảnh-giới đại tự-tại, Giải-thoát vậy.
V.- Kết Luận

Bốn phần trình bày trên này về Thiên-thai tông (duyên khởi lập tôn, tôn-chỉ và giáo-lý căn-bản, phương pháp tu hành, và quả vị tu chứng) tuy không nói lên được một cách tỉ-mỉ về mọi khía cạnh của tôn, nhưng thiết tưởng cũng đem lại cho quý vị độc giả một ý-niệm tổng-quát về Thiên-thai tông, một tôn đặc biệt thành lập ở Trung Hoa và đã lan tràn ảnh hưởng sang các nước Mông-Cổ, Nhật-Bản, Cao-Ly, Việt-Nam.

Ðiểm đặc sắc của tôn này chính là ở pháp "nhất tâm tam quán". Nhờ ba pháp quán này mà hành-giả nhận chân được một cách rõ ràng ba khía cạnh của vũ-trụ vạn-hữu: Vật, Tâm, và Chân như. Ba thứ ấy dụ cho sóng, nước và tánh ướt, mà nước cũng là tánh ướt. Nếu góp cả ba phương-diện mà xét, thì ba phương-diện có thể quy về một; nếu đứng về một phương-diện mà xét, thì vẫn có thể thấy cả ba. Ðó là ý-nghĩa sâu sắc của Thiên-thai tông mà cũng tức là lý-nghĩa chung của Viên-giáo.

Mong rằng quý độc-giả sẽ nghiền-ngẫm cho thấu đáo, để nhận rõ được cái lẽ tam tức nhứt, nhức tức tam ấy. Và như thế tức cũng đi dần vào pháp nhứt tâm tam quán rồi đó. Theo PHPT. Khóa V. Bài 53.3
[BUBBLE]

Ðiểm đặc sắc của tôn này chính là ở pháp "nhất tâm tam quán". Nhờ ba pháp quán này mà hành-giả nhận chân được một cách rõ ràng ba khía cạnh của vũ-trụ vạn-hữu: Vật, Tâm, và Chân như. Ba thứ ấy dụ cho sóng, nước và tánh ướt, mà nước cũng là tánh ướt. Nếu góp cả ba phương-diện mà xét, thì ba phương-diện có thể quy về một; nếu đứng về một phương-diện mà xét, thì vẫn có thể thấy cả ba. Ðó là ý-nghĩa sâu sắc của Thiên-thai tông mà cũng tức là lý-nghĩa chung của Viên-giáo.

[/BUBBLE]

:khi19: Chào các bạn,
Cho mình hỏi, về sự học Kinh Pháp Hoa, (Kinh Diệu Pháp Liên Hoa).

Giúp mình giải những đặt điểm nào! Trong sự tu học, những tâm đắc nào khác với các tông Phái Phật giáo Trung Hoa.v.v.

Ví dụ:
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chúng sinh sợ Quả

Registered
Phật tử
Tham gia
12/3/12
Bài viết
293
Điểm tương tác
104
Điểm
43
Chào Thiện Nhẫn!
CSSQ cũng mù tịt không biết gì, nhưng có duyên nghe giảng về chọn bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. nên cũng không kiềm chế được nói vài lời
Qua lời giảng mình thấy kinh pháp hoa rất hay và thật ảo diệu sâu thảm ( nhũng CSSQ nghe xong thấm vào tâm chắc còn bé hơn cái đầu mũi kim! )

Không biết đúng hay sai! Vị Thầy hiểu nghĩa Pháp Hoa ( hiểu càng sâu ) toàn Bậc tu thiền có sức chứng ngộ càng cao thì phải? Điều này có đúng không vậy nhỉ?

Nhưng CSSQ lại thấy các bà, các cô ,...tụng Pháp hoa lại có một số người đổ nghiệp! được Quý Thầy giảng nói do các nguyên nhân sau.

1. Kinh Pháp hoa có nói ai tụng kinh này công đức vô lượng..., được Chư Phật, Chư Bồ Tát... hộ trì. Mà chỉ đơn giản nghĩ tụng không đã có công đức lớn vô lượng thì dễ đổ nghiệp
( Vì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa dậy cách hành trì tu tập hành đạo bồ tát và đạt đạo vô thượng ) ( nên phải hiểu người nào Hành trì, tu tập theo pháp hoa mới được ). Ai tụng nghĩ có công đức lớn, nghĩ hay, ngon rồi chê luôn kinh khác thì chắc chắn nghiệp sẽ đổ đến để nhắc nhở ngay xem có vô lượng công đức không?

2. Xem kinh Pháp hoa có nhiều người có tư tưởng chê các vị Thánh các vị A La Hán. ( chê này vi tế có thể chưa nhận ra ).
VD đi nói lỗi các vị A La Hán, rồi hàng thanh văn duyên giác... ( Người này chắc chắn không hiểu nghĩa lý trong kinh Pháp Hoa nói gì ). Nhân trên có Quả là đẩy lùi sự tăng tiến tâm linh, đời này khó mà thành đạo ( dù là mức chứng ngộ thấp). Rồi các điều đen rủi đến liên miên ,Nặng hơn thì tâm linh tụt lùi trở lại phàm phu, điên loạn...

Thực ra chê bậc đức lớn hớn, phước lớn hơn đều tổn phước nặng, hay chê phàm phu cũng tổn phước nhưng nhẹ hơn mà thôi! ( nhưng sửa được sai người khác lại khác nhé! )
Nên Thầy bảo mọi người từ này cẩm thận, dè chừng nói lỗi người khác nhé! Đối với các vị trên mình mà thấy lỗi thì khôn ngoan nhất là quay lại xen lỗi chính tâm mình!

CSSQ trích đoạn sám hối hay hát hằng ngày
...................................
11. Vì không biết thương yêu, nên muốn ai cũng xấu. Miệng luôn khích chê bai làm cho nhau tủi nhục. Ôi lời nói chê bai làm con người chia rẽ! Ôi lời nói oan khiên lòng con đang nặng lề!
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!


12. Tâm kiêu trói giăng, nên nổi sân dễ giàng, Khi gặp ai mắng con hay làm con trái ý. Phiền muộn che hết tâm ,hận thù như lửa vòng. Xin quỳ đây thiết tha, nghe lòng nên tiếng khóc.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

13. Làm được chút điều lành, chưa có đáng là bao mà con cho rất lớn, tưởng như xong hết rồi. Nên nhắm mắt từ bi đưa đến nới tuyệt tối, xin tha thứ cho con vô minh đã che mờ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

14. Rồi Phật Pháp cao siêu, con hiểu được đôi điều đã kheo khoang bày tỏ, không kín đáo kiêm cung nên bế tắc công phu, làm trở ngại nội tâm, đường đi nên khó khăn, đạo xa xôi chập trùng.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

15. Ôi lầm lỗi chập trùng, giăng kín cả thân con, che kín cả nơi con, trong bóng mờ khổ đau! Quỳ đây con nguyện, dâng đời con cho tất cả ,để ăn lăn nghiệp xưa từng gây bao lỗi khổ.
Cúi xin Phật từ bi, thường soi sáng tâm con, thường đưa bước con đi. Cọn nguyện sẽ gắng lòng, trong từng phút giây thương, luôn nhìn ra lỗi mình.
Nguyện kính tin tam bảo nghìn muôn kiếp khôn cùng. Ngọn núi cao sắc son không bao giờ lung lay.
Nguyện lòng con, thiết yêu thương khắp muôn loài, không ganh ghét hận thù để cho nhau niền vui
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

 

Thiện Nhẫn

Registered
Phật tử
Tham gia
18/2/12
Bài viết
52
Điểm tương tác
21
Điểm
8
Chào Thiện Nhẫn!
CSSQ cũng mù tịt không biết gì, nhưng có duyên nghe giảng về chọn bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. nên cũng không kiềm chế được nói vài lời
Qua lời giảng mình thấy kinh pháp hoa rất hay và thật ảo diệu sâu thảm ( nhũng CSSQ nghe xong thấm vào tâm chắc còn bé hơn cái đầu mũi kim! )

Không biết đúng hay sai! Vị Thầy hiểu nghĩa Pháp Hoa ( hiểu càng sâu ) toàn Bậc tu thiền có sức chứng ngộ càng cao thì phải? Điều này có đúng không vậy nhỉ?

Nhưng CSSQ lại thấy các bà, các cô ,...tụng Pháp hoa lại có một số người đổ nghiệp! được Quý Thầy giảng nói do các nguyên nhân sau.

1. Kinh Pháp hoa có nói ai tụng kinh này công đức vô lượng..., được Chư Phật, Chư Bồ Tát... hộ trì. Mà chỉ đơn giản nghĩ tụng không đã có công đức lớn vô lượng thì dễ đổ nghiệp
( Vì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa dậy cách hành trì tu tập hành đạo bồ tát và đạt đạo vô thượng ) ( nên phải hiểu người nào Hành trì, tu tập theo pháp hoa mới được ). Ai tụng nghĩ có công đức lớn, nghĩ hay, ngon rồi chê luôn kinh khác thì chắc chắn nghiệp sẽ đổ đến để nhắc nhở ngay xem có vô lượng công đức không?

2. Xem kinh Pháp hoa có nhiều người có tư tưởng chê các vị Thánh các vị A La Hán. ( chê này vi tế có thể chưa nhận ra ).
VD đi nói lỗi các vị A La Hán, rồi hàng thanh văn duyên giác... ( Người này chắc chắn không hiểu nghĩa lý trong kinh Pháp Hoa nói gì ). Nhân trên có Quả là đẩy lùi sự tăng tiến tâm linh, đời này khó mà thành đạo ( dù là mức chứng ngộ thấp). Rồi các điều đen rủi đến liên miên ,Nặng hơn thì tâm linh tụt lùi trở lại phàm phu, điên loạn...

Thực ra chê bậc đức lớn hớn, phước lớn hơn đều tổn phước nặng, hay chê phàm phu cũng tổn phước nhưng nhẹ hơn mà thôi! ( nhưng sửa được sai người khác lại khác nhé! )
Nên Thầy bảo mọi người từ này cẩm thận, dè chừng nói lỗi người khác nhé! Đối với các vị trên mình mà thấy lỗi thì khôn ngoan nhất là quay lại xen lỗi chính tâm mình!

CSSQ trích đoạn sám hối hay hát hằng ngày
...................................
11. Vì không biết thương yêu, nên muốn ai cũng xấu. Miệng luôn khích chê bai làm cho nhau tủi nhục. Ôi lời nói chê bai làm con người chia rẽ! Ôi lời nói oan khiên lòng con đang nặng lề!
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

12. Tâm kiêu trói giăng, nên nổi sân dễ giàng, Khi gặp ai mắng con hay làm con trái ý. Phiền muộn che hết tâm ,hận thù như lửa vòng. Xin quỳ đây thiết tha, nghe lòng nên tiếng khóc.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!


13. Làm được chút điều lành, chưa có đáng là bao mà con cho rất lớn, tưởng như xong hết rồi. Nên nhắm mắt từ bi đưa đến nới tuyệt tối, xin tha thứ cho con vô minh đã che mờ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!


14. Rồi Phật Pháp cao siêu, con hiểu được đôi điều đã kheo khoang bày tỏ, không kín đáo kiêm cung nên bế tắc công phu, làm trở ngại nội tâm, đường đi nên khó khăn, đạo xa xôi chập trùng.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!


15. Ôi lầm lỗi chập trùng, giăng kín cả thân con, che kín cả nơi con, trong bóng mờ khổ đau! Quỳ đây con nguyện, dâng đời con cho tất cả ,để ăn lăn nghiệp xưa từng gây bao lỗi khổ.
Cúi xin Phật từ bi, thường soi sáng tâm con, thường đưa bước con đi. Cọn nguyện sẽ gắng lòng, trong từng phút giây thương, luôn nhìn ra lỗi mình.
Nguyện kính tin tam bảo nghìn muôn kiếp khôn cùng. Ngọn núi cao sắc son không bao giờ lung lay.
Nguyện lòng con, thiết yêu thương khắp muôn loài, không ganh ghét hận thù để cho nhau niền vui
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Bài của Đ/h viết rất có giá trị, viết hay quá .

Người xưa thường nói: Người như thế nào, thì ý như thế ấy. Cái hay thứ hai của người học Phật có trí tuệ thì cách viết của người có trí tuệ (Thức tri). Khác hẳng hơn lối viết một nhà văn. (Hay nhà thuyết Pháp dởm "Trong bụng thì trống rỗng").

Tóm lại: Học mà không hành là cái thùng rác.

Nhưng ngược lại cũng không nên khinh thường, người tụng kinh Pháp Hoa, dù họ chỉ nói một câu kinh Pháp Hoa. Hoặc chỉ chuyên trì tụng Kinh Pháp Hoa.

Bởi tích xưa, Phật sử có dạy, dù là một câu Niệm Phật cũng được kết quả Phật....

Nếu thật sự, thấy được Hành giả đó thiếu cái gì, thì mình coi lại mình xem...Họ cũng như mình.

Ví dụ: Họ học kinh Pháp Hoa, thì mình cũng phải học kinh Pháp Hoa.

Họ là một hành giả trung cấp...Kinh nghiệm tuổi lớp 2, thì đặt mình vào lớp 2.

Họ buồn thì mình chia sẽ, họ vui thì mình hoan hỉ....

Như vậy là theo ý kinh của
PHẨM "QUÁN-THẾ-ÂM BỔ-TÁT PHỒ-MÔN" Còn nhiều lắm, nếu không học, không nói ra ai biết mình "Ngu/trí"?
<!-- END TEMPLATE: newreply_reviewbit -->
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18/3/10
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
Chào bạn Thiện Nhẫn,
Có phải ý Bạn muốn hỏi trong kinh Pháp Hoa có những đặc điểm nào cần được giải. Và trong sự tu học kinh Pháp Hoa có những tâm đắc nào khác với tông Thiên Thai ?
Thân
 

Thiện Nhẫn

Registered
Phật tử
Tham gia
18/2/12
Bài viết
52
Điểm tương tác
21
Điểm
8
Chào bạn Thiện Nhẫn,
Có phải ý Bạn muốn hỏi trong kinh Pháp Hoa có những đặc điểm nào cần được giải. Và trong sự tu học kinh Pháp Hoa có những tâm đắc nào khác với tông Thiên Thai ?
Thân

Tùy duyên, Cô nghĩ sao cũng tốt cả, miển là lợi mình, lợi người?

tn, thấy mỗi phẩm trong kinh Pháp Hoa điều có ý nghĩa. Nếu cô giải cả hai mặt nghĩa đen và bóng từng phẩm thì tốt cho hàng hậu học sau này.

Chúc cô mai mắn.

tn, kính
 

dieuduc

Registered
Phật tử
Tham gia
18/3/10
Bài viết
1,053
Điểm tương tác
385
Điểm
83
Địa chỉ
pa, usa
Chào bạn Thiện Nhẫn,
Chắc Bạn hiểu lầm ý của d/đ. d/đ chỉ hỏi rõ lại ý của Bạn để biết có phải không để néeuu có thể thì d/đ góp lời... không có ý gì khác
Thân
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

TOP 5 Tài Thí

Bên trên