Sự Tích và Hạnh Nguyện Đức Quán Thế Âm Bồ Tát

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
Nói đến các bậc Thánh Bồ Tát ,có lẽ quan trọng nhất là đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
Đức Bồ Tát Quán Thế Âm trước khi trở thành Đại Bồ Tát cứu khổ đã trải qua nhiều hạnh tu , nhiều kiếp tu .

Quán Thế Âm như chúng ta đã từng nghe , có nghĩa là quán xét âm thanh ở Thế gian để cứu vớt khổ nạn.Do vì chữ Thế thường được bỏ bớt vì lý do nào đó không phổ cập, nên có khi tên của Bồ Tát trở thành Quán Âm hay Quan Âm.
Bài này trình bày vài khía cạnh về sự tích và hạnh nguyện của đức Bồ Tát Quan Thế Âm

_Sự Tích Quan Thế Âm Hương Tích
_Sự Tích Quan Âm Thị Kính
_ Câu chuyện về Bất Huyến Thái Tử
_Nội dung chính của phẩm Quán Thế Âm trong kinh Pháp Hoa
_ Tìm Hiểu Ý nghĩa Phép Nhãn Nhĩ căn viên thông



1-Sự Tích Quan Âm Hương Tích
CỌP TRẮNG CỨU NGƯỜI
Đức Quan Âm Hương Tích cư trú ở núi Hương Tích bên bờ biển Nam Hải, ngài thường thường có mặt ở miền duyên hải Việt Nam để cứu độ mọi người .Xuất thân là một cô công chúa tên là Diệu Thiện, nên ngài cũng được gọi là Quan Âm Diệu Thiện.Công chúa không phải là người Việt mà là người nước Hưng Lâm, phía đông Thiên Trúc.Công chúa có hai người chị. Chị đầu tên là Diệu Thanh , chị kế tên là Diệu Âm.Ba chị em đều là những người thông minh , hiền lành , và có hiếu với cha mẹ.Vua Diệu Trang và hoàng hậu không có con trai nên rất cưng quý ba cô công chúa này .Không có hoàng tử để nối nghiệp, vua định tìm phò mã cho ba cô công chúa, nghĩ rằng sau này sẽ chọn một trong ba người để trao truyền ngôi báu. Hai công chúa Diệu Thanh và Diệu Âm tuy đã đi lấy chồng nhưng vì cung phủ của họ rất gần cho nên thỉnh thoảng vẫn còn đến thăm mẹ và em gái .Công chúa Diệu Thiện đẹp lắm .Tóc nàng như mây , da nàng như tuyết , miệng nàng như sen. Vì công chúa thứ ba nên nàng thường được dân chúng gọi là Chúa Ba .Chúa Ba không ưa ở cả ngày trong cung điện. Nàng thường xin phép vua và hoàng hậu đi ra ngoài để tiếp xúc và xem thần dân của cha nàng sinh sống ra sao và cuộc đời của họ có những vui khổ nào .Vì vậy Chúa Ba biết được nhiều khía cạnh của cuộc sống dân dả . Nàng thấy được tình trạng nghèo đói , bệnh tật , và bất công trong xã hội.Cũng như Phật Thích Ca ngày xưa , Chúa Ba thao thức muốn làm được một cái gì đó cho đời bớt khổ . Từ thưở còn ấu thơ nàng đã biết thương người .Một hôm đi chơi ngoài cửa thành với hai chị ,Diệu Thiện đã bảo quân hầu đem hết phần bánh và xôi của mình mà phân phát cho các đứa trẻ đói bên đường .Năm đó Diệu Thiện mới có bảy tuổi . Chính Diệu Thiện đã chạy tới và tự đưa nắm xôi trên tay của mình cho một em bé gái cùng tuổi , áo quần rách rưới và chân tay teo lại vì thiếu ăn . Có lần chính mắt Diệu Thiện trông thấy một thiếu phụ với đứa hài nhi của bà trong tay, vưa đi lang thang ngoài đường vừa khóc .Đứa bé đã chết vì thiếu thức ăn và thuốc men.

Từ đó mỗi lần được phép đi ra cửa thành chơi , Diệu Thiện thường lén đem theo thóc lúa và vải bô trong kho để chia tặng cho những gia đình nghèo khổ . Hai chị Diệu Thanh và Diệu Âm bao giờ cũng chìu em và không khi nào mách lại điều gì đó với vua và hoàng hậu.Người lình hầu đánh xe đưa hai chị em đi chơi cũng không bao giờ dám thóc mách .

Từ ngày hai chị lớn lên và đi lấy chồng , Diệu Thiện không còn được phép đi ra ngoài thành nữa. Nhưng trong trí nàng , cảnh tượng nghèo khổ và bệnh tật của dân chúng vẫn còn in rõ . Công chúa tự nhủ sau này trở thành người lớn sẽ cố gắng làm mọi cách để giúp nước giúp dân .
Từ mấy năm nay , ngoài thì giờ học hành và thêu may , công chúa chỉ biết thơ thẩn một mình trong hoa viên . Vườn thượng uyển là nơi công chúa hay đến dạo chơi và ngồi trầm tư , tìm cách cứu khổ cho đời .
Năm Chúa Ba được trong mười chín tuổi , vua và hoàng hậu muốn tìm người để lập Phò Mã thứ ba . Một hôm vua gọi công chúa vào và bảo :
_ Con đã đến tuổi lấy chồng . Trong triều có nhiều vị quan văn và quan võ còn trẻ tuổi , con thấy có ai ưng ý thì cứ cho ta biết , ta sẽ chọn người đó .

Công chúa quỳ xuống tâu với vua :
_ Con xin phép phụ hoàng cho con xuất gia đi tu , con không muốn lấy chồng .
Chúa Ba đã nói lên điều nàng ấp ủ trong lòng từ lâu . Chúa Ba biết thế nào là đời sống của một cô công chúa có chồng . Hai chị Diệu Thanh và Diệu Âm từ ngày lấy chồng đã trở nên rất bận rộn. Mỗi lần đến thăm nàng , họ chỉ ở lại được nhiều lắm là một khắc , và chị em không còn có cơ hội cười đùa và dạo chơi trong vườn thượng uyển như ngày xưa . Cả ba chị em gần đây đã không còn tiếp xúc được với cuộc sống của dân chúng bên ngoài nữa .Chúa Ba không để ý tới việc chồng con. Nàng chỉ nghĩ tới việc cứu người và giúp đời . Nàng nghĩ rằng đi lấy chồng tức là tự giam mình vào một thế giới nhõ hẹp
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
<FONT size=3>Nàng nhớ hồi nhỏ có lần ra khỏi nội thành nàng gặp một Sư Cô đang chăm sóc và rửa ghẻ cho mấy đứa trẻ em.Nàng nghĩ nếu đi tu làm sư cô thì nàng cũng sẽ có thể gần gũi được những người đau khổ để giúp họ. Vì vậy Diệu Thiện đã tâu với vua là nàng muốn đi tu.ffice:eek:ffice" /><?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com
P><P><FONT size=3><FONT face=Tahoma>_ Cuộc đời của người tu hành cực khổ lắm , con không chịu được đâu .Cuộc đời vua chúa là cuộc đời sung sướng nhất ,trong khi cuộc đời của người tu hành là cuộc đời cực khổ nhất .Con là con vua tại sao lại nghĩ đến chuyện tu hành

<o:p></o:p>

Nói xong , vua bảo hai tên quỷ sứ đưa Chúa Ba về trần .
 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
Nhìn lại , sư cô Diệu Thiện thấy hai tên quỷ sứ không còn mang đầu trâu mặt ngựa nữa , họ đã biến hình thành những người thường , mặt mũi hiền lành. Họ đưa sư cô vượt qua mười cửa ngục, Tất cả những cảnh tượng não lòng mà Sư Cô từng thấy trước đây đã hoàn toàn biến mất . Địa ngục đã trở nên một nới yên tĩnh vắng vẻ .Tới một cây cầu bắc ngang qua sông , hai người lính hầu chắp tay thưa với Sư Cô rằng bên kia sông là dương trần và Sư Cô chỉ cần vượt qua cầu là tới . Họ được lệnh không được sang bên kia bờ .Sư Cô cảm ơn hai người , rồi nhẹ bước lên cầu .Tới giữa cầu , nhìn xuống nước , Sư Cô thấy nước chảy xiết quá , chóng mặt , Sư Cô sẩy chân rơi xuống sông . Vừa lúc ấy thì Sư Cô tỉnh dậy .

Sư Cô tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên núi , trong một bọng cây , hai tay bị trói sau lưng . Sư Cô nhớ lại những gì đã xảy ra cho mình . Lính của vua cha tới đốt chùa . Mình bị vua cha đem ra xử chém .Cọp trắng nhảy vào pháp trường đem mình đi . Mính ngất đi trên lưng cọp. Rồi mình nằm mơ thấy xuống thăm cõi âm . Đây là đâu ? Sư Cô Diệu Thiện tự hỏi .Có thể là cọp trắng đã đem mình lên đây . Sư Cô cảm thấy dây trói hai tay mình rất lỏng lẻo . Không nỡ để Sư Cô bị đau , người lính đã chỉ quấn dây quanh cổ Sư Cô hai tay Sư Cô cho có lệ.Lần gỡ một hồi, Sư Cô Diệu Thiện tháo được tay ra . Vừa lúc ấy có nhạc ngựa văng vẳng .Sư Cô vừa đứng dậy được thì xuất hiện một vị trai trẻ dung mạo khôi ngô, tay cầm cương ngựa , theo sau là một con ngựa hồng . Người đó hỏi thăm Sư Cô là ai, tại sao lại đứng một mình trên chốn núi non quạnh quẽ này . Sư Cô Diệu Thiện kể cho người nọ nghe về thân thế mình .Người trai trẻ nói cho Sư Cô biết là hiện Sư Cô đang ở trong địa phận nước Đại Việt, trên dãy núi Tam Đảo , thuộc địa phận tỉnh Sơn La . Người đang nói chuyện với công chúa là hoàng tử nước Đại Việt tên là Lý Phật Mã , đanh một mình một ngựa dạo chơi những nơi non nước thanh tú của quê hương chàng . Nghe chuyện Sư Cô , hoàng tử rất lấy làm thương cảm . Tuy đã xuất gia và ăn mặc nâu sồng , Sư Cô vẫn đẹp như hồ sen một buổi sớm mai. Hoàng tử đề nghị Sư Cô trở về với đời sống tại gia và hứa là nếu Sư Cô đồng ý , chàng sẽ cầu hôn với công chúa . Chàng nói rằng nếu công chúa bằng lòng , chàng sẽ đưa công chúa về thành Thăng Long để trình với phụ vương và vua Lý Thái Tổ .Sư Cô Diệu Thiện thưa với Hoàng Tử Đại Việt là Sư Cô đã nhất quyết muốn sống cuộc đời xuất gia rồi .Thái tử Phật Mã cũng là người Phật tử nên hiểu ngay và rất kính trọng chí nguyện xuất gia của Sư Cô . Chàng nói :

_ Vậy thì xin Sư Cô hãy ở lại nước Đại Việt mà tu hành cho tới khi thành đạo , đừng có trờ về bên quý quốc mà gặp hiểm nguy .Cách đây chừng mấy ngày đường , có một động đá rất đẹp gọi là Động Hương Tích . Nếu Sư Cô bằng lòng , tôi sẽ đưa Sư Cô về đó để mà ẩn tu . Động Hương Tích thuộc về địa phận làng Dục Khê , ở Phủ Mỹ Đức , tỉnh Hà Đông . Tôi đã tới đó hai lần và thấy chốn đó là một nơi tu hành rất thuận lợi.

Thái Tử Phật Mã nhường ngựa cho Sư Cô Diệu Thiện ngồi . Chàng cầm cương dắt ngựa đi mãi , đi mãi ; ba ngày sau thì tới được sơn phận làng Dục Khê .

Tới đây , Thái Tử buộc ngựa , thuê một chiếc thuyền nan , rồi mời Sư Cô Diệu Thiện xuống thuyền . Chàng tự tay chèo thuyền đưa Sư Cô đi. Con sông chảy quanh co giữa hai bờ núi . Cảnh tượng thật là màu nhiệm . Từ màu trời sắc nước cho đến hình cỏ , bóng cây , nơi nào cũng đẹp . Thái Tử chỉ cho Sư Cô Diệu Thiện xem một ngọn núi trông giống như một con voi phục . Sư Cô Diệu Thiện thấy như voi đang đưa cái vòi của nó chúc xuống ruộng lúa . Bên đầu voi , rõ ràng là có một cái tai voi . Lên bờ , Thái Tử đưa Sư Cô leo núi đi lên động Hương Tích . Hai người trèo tới xế chiều thì vào tới cửa động. Tới đây , Thái Tử xin phép trở về xóm Dục Khê kẻo trời tối . Sáng mai chàng phải trở về kinh đô bằng ngựa cho kịp giờ hẹn với Phụ Vương chàng.

Tìm được nơi thuận lợi để tu hành , Sư Cô Diệu Thiện mừng lắm , tại động Hương Tích này , Sư Cô có nơi tụng kinh , nơi ngồi thiền , nơi nằm ngủ , nơi giặt áo , nơi trồng rau.Trong thời gian tu học tại chùa Vũ Đoài , Sư Cô đã học được rất nhiều điều mà Sư Cô có thể đem ứng dụng. Thực phẩm của Sư Cô là trái cây , rau lá, và k hoai củ đào được . Trong những tháng đầu , Sư Cô không được ăn một hạt ngũ cốc nào .Sau đó có một bác tiều phu lên núi đốn củi đã khám phá ra sự có mặt của Sư Cô . Bác đem cúng dường một ít gạo để thỉnh thoảng Sư Cô nấu cơm. Sư Cô tu hành rất tinh tiến . Trong lúc Sư Cô ngồi thiền , chim và vượn thường tìm đến gần. Chim và vượn thường kêu hót vang rừng , nhưng mỗi khi kéo tới gần Sư Cô thì chúng im lặng . Có khi chúng hái các loại trái cây đem để trước mặt Sư Cô . Nhiều khi xuất định thấy trái cây để sẵn trước mặt , Sư Cô mỉm cười .Chim và vượn trong rừng chẳng mấy lúc đều đã trở thành bạn thân của Sư Cô Diệu Thiện .Có khi ngoài trái cây trong rừng ,chúng còn hái đem tới cho Sư Cô nhiều thứ hoa lá kỳ lạ và thơm tho nữa .

Tu hành được khoảng bốn năm , trí tuệ của Sư Cô Diệu Thiện bỗng nhiên bừng tỏa . Sư Cô đã thấy được đạo . Ngồi ở trong động , Sư Cô có thể nghe được tiếng kêu khóc của mọi loài trên thế giới .Ngồi ở trong động , Sư Cô có thể thấy được cảnh tượng khổ đau của muôn loài chúng sinh . Từ đó , Sư Cô xuống núi vào làng dạy đạo cho người lớn và thiếu nhi trong làng . Sư Cô lại còn cứu giúp cho những người tật bệnh và nghèo khổ trong xóm . Thiếu Nhi tới học đạo với Sư Cô rất đông . Sư Cô dạy cho thiếu nhi nào văn hóa , nào đạo đức , nào tình thương, nào hành động. Có hai Thiếu Nhi xin được theo Sư Cô vào núi để học đạo . Em trai là con mồ côi đựoc Sư Cô đặt tên là Thiện Tài . Em gái là con của một người dân chài . Nó đã được Sư Cô cứu cho khỏi chết đuối một lần , gần Bến Đục. Sư Cô đặt tên cho nó là Long Nữ .

Thiện Tài và Long Nữ đều là những đứa thiếu nhi thông minh , nên học đâu hiểu đấy . Ba thầy trò sống trên động Hương Tích rất tương đắc và hạnh phúc . Ngoài việc học chữ , học kinh, tọa thiền , và thiền hành , hai thiếu nhi còn biết trồng rau , trồng khoai , và trỉa bắp . Họ còn theo thầy đi hái các thứ dược thảo trong rừng để về làm thuốc chữa bệnh cho dân làng. Tiếng đồn truyền đi từ hai thôn Dục Khê và Yến Vĩ tới khắp cả phủ Mỹ Đức , là trên động Hương Tích có một tiên nhân có thể chữa lành cho nhiều người bệnh , kể cả những cơn bệnh thập tử nhất sinh . Thiên Tài và Long Nữ chưa biết Sư Cô là một bà công chúa nước ngoài . Họ chỉ biết thầy của họ là một người có trí tuệ cao vời và tình thương rộng lớn .Sư Cô thường hay nhắc với hai trẻ rằng làm thuốc mà hay là nhờ ở sự hiểu biết và lòng thương yêu.
 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
MẮT VÀ TAY CỦA NGƯỜI TỈNH THỨC
Hai người đệ tử của Sư cô đều siêng năng và can đảm. Cả hai đều tu học tinh tấn . Họ trở nên những người phụ tá đắc lực của Sư Cô . Họ rất thương yêu và cung kính Sư Cô.Nhưng họ chưa biết rằng Sư Cô đã đắc đạo , đã thành Bụt , nghĩa là đã trở thành một bậc giác ngộ lớn . Có đêm nhìn vào động trong , họ thấy ánh sáng chói lòa .Thầy của họ ngồi tĩnh tọa trong ấy và ánh sáng phát ra từ trên trán và khắp châu thân . Có những buổi sáng ngồi nghe Sư Cô giảng kinh bên bờ suối , hai người nhận thấy chim chóc trên rừng bay đến đậu thật nhiều bên những cành cây kế cận và cá ở dưới nước cũng đến gần để chăm chú nghe kinh. Cả hai người tâm nguyện sẽ tu hành tinh tiến để đạt tới trình độ của thầy .

Một buổi sáng nọ , khi vào động trong để dâng trà nước cho thầy,Long Nữ thấy thầy mình ngồi yên trên thạch bàn , hai mắt lộ vẻ buồn . Long nữ bạch hỏi thì Sư Cô bảo là thân phụ của Sư Cô đang bị tai nạn, sư cô phải đi cứu chữa . Long Nữ hỏi chừng nào Sư Cô đi thì Sư Cô không trả lời . Sư Cô chỉ dặn là suốt buổi sáng ngày hôm ấy , hai anh em đừng vào trong động, để yên cho Sư Cô ngồi nhập định.

Trong định Sư Cô thấy vua Diệu Trang nằm bệnh trong cung nước Hưng Lâm tay chân bại liệt .Sư cô thấy nghiệp xấu mà vua cha đã gây trong quá khứ bây giờ đang trở lại làm hại người . Trước đây vua đã từng tạo ra nhiều cuộc chiến tranh , khiến cho hàng ngàn người thiệt mạng. Vua lại còn có bản tính kiêu hãnh và nóng nảy khiến cho hành động của vua thường thiếu sáng suốt . Hiện giờ trên giường bệnh vua đau đớn không sao kể xiết . Tất cả các thầy thuốc giỏi trong nước đã chịu bó tay . Vua truyền yết bảng khắp nhân gian , hứa rằng ai chữa lành bệnh cho vua thì sẽ được vua truyền cho ngôi báu . Không rời khỏi động Hương Tích , Sư Cô Diệu Thiện dùng thần lực hóa thân làm một ông thầy thuốc già tới trước cửa cung điện , giật lấy tấm bảng , đòi vào chữa bệnh cho vua . Quân hầu đưa người thầy thuốc già vào cung chẩn bệnh.

Ông thầy thuốc tâu với vua rằng bệnh vua là bệnh nan y , chỉ có thể chữa trị được bằng cách đi xin một cánh tay và một con mắt của một vị tiên nhân tu hành đắc đạo về để luyện thuốc uống . Ai cũng cho đó là điều không thể làm được . Vua nói :
_ Ai lại chịu cho người khác cắt tay và móc mắt mình bao giờ ?

Ông thầy thuốc quý bảo :
_ Hạ thần có biết một vị tiên nữ đắc đạo trên núi Hương Tích ở nước Đại Việt. Đó là một vị Bồ tát có lòng từ bi rất lớn. Nếu bệ hạ cho một phái đoàn sang xin thì chắc chắn là người sẽ ban cho tay và mắt .
Rồi ông thầy thuốc vẽ bản đồ chỉ đường cho phái đoàn sang nước Đại Việt . Riêng ông ở lại kinh đô để làm con tin .Các quan nói , nếu phái đoàn đi về mà không xin được mắt và tay của tiên nhân thì ông thầy thuốc sẽ bị đem ra xử trảm .

Phái đoàn nước Hưng Lâm tới được làng Dục Khê sau ba mươi ngày trèo non lội suối .Thiện Tài và Long nữ được thầy phái ra Bến Đục rước họ lên động. Sư Cô móc một con mắt bên trái và chặt một cánh tay trái trao cho phái đoàn đem về .

Với tay và mắt ấy , ông thầy thuốc đã bào chế nên một thứ linh dược chữa được cho vua Diệu Trang lành một bên thân thể . Vua đã có thể cử động được tay trái và chân trái , nhưng tay phải và chân phải của vua vẫn còn giữ nguyên tình trạng cũ .Ông thầy thuốc đề nghị là phải đi xin nốt con mắt và cánh tay còn lại của tiên nhân .

Vua , hoàng hậu , các quan đều thấy điều đó là quá mức . Nhưng ông thầy thuốc đã quỳ xuống tâu
_ Người tu hành có tâm địa rộng rãi không bến bờ . Hạ thần tin chắc nếu Bệ hạ cho người đến xin , đức Bồ tát sẽ vui lòng bố thí .

Phái đoàn lại lên đường và xin được mắt phải và tay phải của Sư Cô Diệu Thiện. Lần này vua được hoàn toàn bình phục.Trong lòng vua cũng như trong lòng hoàng hậu nảy sinh ra một tâm niệm biết ơn và cảm phục.Trung thành với lời hứa , vua truyền lệnh chuẩn bị để làm lễ trao truyền ngôi báu cho vị lương y già
 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
Trong thời gian bệnh hoạn, vua đã có dịp hồi tưởng lại quảng đường quá khứ của mình và thấy được những sai lầm mà vua đã mắc phải . Vua nguyện sám hối và sống cho xứng đáng với tấm lòng quảng đại của bậc tiên nhân Bồ tát bên nước Đại Việt. Vua thành thực muốn truyền ngôi báu cho ân nhân mình là ông thầy thuốc . Nhưng vị lương y này không nhận . Ông thầy thuốc từ biệt ra đi mà không nhận bất cứ một sự đền ơn nào của vua . Vua rất lấy làm cảm phục. Vua truyền lệnh sắm sửa xe loan để vua và hoàng hậu thân hành sang nước Đại Việt bái kiến và cảm tạ tiên nhân .

Vua , hoàng hậu và đoàn hộ giá vừa ra khỏi biên giới thì có âm mưu đảo chính tại nước Hưng Lâm .Các phò mã của vua Diệu Trang là những người chủ chốt cuộc âm mưu. Họ dùng quân đội lật đổ chính quyền và chiếm đoạt ngôi báu .Phò mã thứ nhất , chồng của công chúa Diệu Thanh, lên làm vua .Phò mã thứ hai , chồng của công chúa Diệu Âm , lên làm tể tướng . Họ đem giam vào ngục tối tất cả mọi thành phần chống đối trong đó có cả công chúa Diệu Thanh , công chúa Diệu Âm và các quan Đại thần nhiếp chính .

Tại động Hương Tích . Sư Cô Diệu Thiện thấy được tất cả những điều ấy . Sư Cô thấy , ở trong ngục tối hai chị của Sư Cô trở nên tỉnh thức , và bắt đầu ăn chay , ngồi thiền và niệm Phật.Lập tức Sư Cô cùng hai vị đệ tử tọa thiền nhập định và hóa thân đi về nước Hưng Lâm để giải cứu đất nước . Ba thầy trò hóa thân thành ba người học trò . Chỉ trong vòng năm hôm , họ điều động được dân chúng và quân đội chiếm lại chính quyền , giải phóng tất cả những người bị giam cầm và đưa quyền bính lại cho quan Đại thần nhiếp chính.

Công việc xong xuôi họ đưa hai công chúa Diệu Thanh và Diệu Âm lên đường đuổi theo phái đoàn hành hương của vua và hoàng hậu . Mười hôm sau hai công chúa theo kịp và tháp tùng phái đoàn . Ba người học trò , sau khi hộ tống hai công chúa theo kịp phái đoàn hoàng gia , đã giã từ để trở về kinh đô nước Hưng Lâm .Trên con đường về núi Hương Tích , hai công chúa kể lại mọi tình tiết về cuộc đảo chính cho vua và hoàng hậu nghe .Vua và hoàng hậu tuy rất buồn vì lòng người phản trắc , nhưng vẫ kiên quyết một lòng tiếp tục cuộc hành hương sang Đại Việt


ĐOÀN TỤ
Ở núi Hương Tích , Thiện Tài và Long nữ chuẩn bị đón tiếp phái đoàn Hoàng gia . Hai người đệ tử của Sư Cô bây giờ đã biết rõ tung tích Sư Cô. Họ rất sung sướng được làm những người đệ tử thân cận nhất của Sư Cô mà họ biết là một vị Bồ tát lớn .Thầy của họ đã thành Bụt Quan Âm nên có cả ngàn con mắt và ngàn cánh tay.Nhận thức và hành động của Sư Cô thật là quảng đại , không thể đo lường . Bố thí hai cánh tay và hai con mắt mà Pháp thân của Sư Cô vẫn không hề suy suyển . Hóa thân của Sư Cô còn là vô số , vô biên...

SáNG HÔM đó , biết là phái đoàn hoàng gia nước Hưng Lâm sẽ tới nên hai anh em Thiện Tài và Long nữ đã đợi sẵn với một chiếc thuyền rộng. Hai người giả dạng làm người đưa thuyền . Họ rước vua , hoàng hậu và hai công chúa lên thuyền . Đoàn tùy tùng phải ở lại bến để đợi lệnh. Thuyền lướt nhẹ trên dòng sông im lặng.Mọi người lặng yên ngắm trời , ngắm mây , ngắm núi , ngắm nước . Cảnh tượng Hương Sơn thật là thanh tú và mầu nhiệm. Tới bến , mọi người bắt đầu leo trèo để lên động Hương Tích .

Lên tới động , Thiện Tài mời vua , hoàng hậu và hai công chúa ngồi nghỉ trên những tấm thạch bàn ở trước cửa động trong khi Long Nữ đi nấu nước Hồng Mai làm trà thết đãi . Trên núi Hương Tích có rất nhiều gốc mai già cằn cỗi . Ba thầy trò đã đốn nhưng gốc mai ấy , chẻ ra để làm trà uống , rất thơm . Họ gọi đó là thiền trà .Gỗ mai màu hồng nên trà cũng màu hồng .Sau khi mọi người đã nghỉ ngơi và uống trà , Long Nữ đứng dậy chỉ đường cho vua , hoàng hậu , và hai công chúa vào động. Sư Em Long Nữ đã được lệnh của Phật Bà đứng hầu ngoài cửa động với Sư anh Thiện Tài .

Vua , hoàng hậu , và hai công chúa từ từ tiến vào trong động. Ảnh tượng trang nghiêm và lặng lẽ . Tuy họ đi rất nhẹ mà bước chân họ vẫn có âm vang vào trong lòng động sâu thẳm . Muôn ngàn thạch nhũ rủ xuống , như những chiếc màn từ trần động buông xuống đủ màu . Ánh sáng yếu dần . Mọi người dừng lại trước một cái rèm thạch nhũ ngăn cách Động Trong và Động Ngoài . Đứng phía trước rèm , vua Diệu Trang kính cẩn lên tiếng chào vị tiên nhân đã từng cứu mạng cho mình :
_ Chúng tôi là phái đoàn hoàng gia nước Hưng Lâm , kính xin ra mắt tiên nhân .

Những âm thanh vang vào vách động và vọng lại tai bốn người . Sau đó là im lặng , không có tiếng trả lời của Bồ tát . Vua nhìn hoàng hậu bảo nhẹ :
_ Trẫm là đàn ông không tiện đi vào sau rèm . Hoàng hậu thử đi vào phía trong xem tiên nữ có mặt trong ấy hay không

Hoàng hậu tuân lệnh vua , một mình rón rén bước vào phía bên kia bức màn thạch nhũ .
 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
Hoàng hậu tuân lệnh vua , một mình rón rén bước vào phía bên kia bức màn thạch nhũ , Động Trong êm mát và thâm nghiêm , nhưng lại tối hơn động ngoài . Định thần nhìn kỹ , hoàng hậu thấy đứng trên bệ đá một người con gái tóc buông dài phía sau lưng , hai mắt bị khoét , hai cánh tay bị chăt cụt , máu đang chảy thành từng giọt xuống nền thạch động.

Bồ tát Diệu Thiện đã hóa thân trở lại làm Chúa Ba hồi còn mười chín tuổi để cho hoàng hậu có thể nhận ra đó là con gái út của mình.

Nhận ra được tiên nữ chính là Chúa Ba , hoàng hậu xúc động kêu lên một tiếng và ngã ra bất tỉnh .

Nghe tiếng kêu , hai công chúa Diệu Thanh và Diệu Âm lật đật chạy vào . Thấy hoàng hậu ngã lăn ra bất tỉnh , họ vội vàng chạy đến đỡ hoàng hậu dậy . Vua Diệu Trang cũng vội vã chạy vào . Hoàng hậu đã tỉnh . Bà khóc lóc trong tay người con gái lớn . Nhận ra Chúa Ba trong tình trạng không mắt không tay, vua cũng xúc động ôm mặt khóc . Vua đâu có ngờ là con gái út của mình vẫn còn sống sót , đã thoát ra được nước ngoài để tu hành cho đến thành Bụt , thành Tiên .

Chúa Ba từ trên bệ đá cũng đã bước xuống . Chúa mời mọi người ngồi trên những cái bệ đá . Rồi Chúa kể cho cha mẹ và hai chị nghe về cuộc đời tu học của mình. Vua rất lấy làm ân hận , vua nói :
_Cha đã lầm đường lạc nẻo , may nhờ có con tu hành đắc đạo nên không những đã cứu được mạng cha mà còn cứu được cả quê hương . Con ơi , vì lỗi lầm của cha mà nay con đã trở thành không mắt và không tay, cha biết làm sao để cho con khôi phục lại hình hài như xưa ?

Nói xong vua úp mặt trong tay mà khóc . Chúa Ba thưa :
_ Nếu phụ vương và mẫu hậu phát đại nguyện từ nay bỏ dữ làm lành , tinh tiến tu học để đoạn trừ phiền não và cứu độ chúng sanh thì chắc là con sẽ khôi phục lại hình thái như xưa .

Nghe con nói như vậy , vua và hoàng hậu cùng quỳ xuống chắp tay và phát lời thề trọng đại . Vua trang trọng hứa :
_ Lạy chư Phật trong mười phương , chúng con xin nguyện từ đây sẽ nỗ lực tu học để diệt lần tham lam, sân hận , và si mê , và xin cố gắng hết sức để bảo vệ sự sống cho mọi người và mọi loài .

Khi vua và hoàng hậu ngửng lên thì phép mầu đã hiển hiện : công chúa Diệu Thiện đã khôi phục được hai mắt và hai tay , hoàn toàn lành lặn như mười năm về trước. Cả bốn người mừng rỡ tới ôm lấy công chúa khóc . Sau đó công chúa đã trở về lại với hình thức sư cô , và an tọa uy nghiêm trên bệ đá với tư cách một vị Bồ Tát đã chứng ngộ đạo mầu .

Vua ,hoàng hậu và hai công chúa lớn thấy sự mầu nhiệm này vội đứng lên cung kính chắp tay kính lễ Bồ tát và xin nguyện ở lại học đạo với Bồ tát Quan Âm Diệu Thiện trọn một năm trời trước khi lên đường trở về quê cũ .

Tiếng đồn tại núi Hương Tích có người tu hành đắc đạo cứu độ được cho vô số vô lượng chúng sanh đã lan rộng từ tỉnh Hà Đông đến các tỉnh kế cận lên tới kinh đô . Khắp nơi , dân chúng bắt đầu kính thành niệm NAM MÔ Bồ Tát Quan Âm Hương Tích . Vua Lý Thái Tông nghe tin liền tổ chức một cuộc hành hương về viếng đức Quan Âm tại Hương Sơn . Vua chính là thái tử Lý Phật Mã của mười năm về trước , người đã đưa lối chỉ đường cho Sư Cô Diệu Thiện về tu tại Hương Sơn . Vua đem theo rất nhiều bông sen trắng để cúng dường . Đó là mùa hè năm Đinh Tỵ .

Nghe đồn vua đã được gặp mặt Bồ tát Quan Âm Hương Tích để chiêm bái và nghe Bồ tát thuyết pháp . Vua rất khâm phục đức độ và trí tuệ , hành động của Bồ tát . Về triều , vua ban chỉ bố cáo với thần dân khắp xứ Đại Việt là một đức Bồ tát Quan Âm đã tu hành đắc đạo ở nước Đại Việt , có danh hiệu là Quan Âm Hương Tích .Sau này dân địa phương đã lập chùa trên núi Hương Tích , và gọi chùa này là chùa Hương .

(Trích dẫn nguyên văn từ SÁCH " Sự Tích Quan Âm Hương Tích " , do Thiền Sư NHẤT HẠNH kể .)

Thưa các bạn đạo
Trên là một pho truyền thuyết lịch sử về sự tích một vị Bồ Tát đầy lòng từ bi . Có nơi còn gọi là Đức Quan Âm Nam Hải .Và truyền thuyết này cũng là sự mô tả lại một trong những tiền thân của Bồ Tát đã xả tay, mắt để cứu người .Chuyện Bồ Tát Quan Âm Nam Hải cũng có trong Phật giáo Trung Hoa . Ở đây thiền sư Nhất Hạnh đã dựa vào di tích Chùa Hương để lấy truyền thuyết viết lên một Cổ Tích nhằm nói lên tâm từ bi , nguyện xả thân, hạnh nhẫn nhục và đức độ và hành cứu nhân độ thế của một bậc Đại Bồ tát .
 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
2- Sự Tích Quan Âm Thị Kính bằng thơ lục bát

1- THỊ KÍNH LÀM DÂU HỌ SÙNG MẮC TIẾNG OAN
Nhân-sinh thành Phật dễ đâu,
Tu hành có khổ rồi sau mới thành,
Ai hay vững dạ làm lành,
Chứng-minh trong chốn minh-minh cũng tường.
Kìa Ngô thị, tụng Kim-cương,
Chân thân còn để tượng vàng nghìn thu,
Kìa Địa Tạng, dốc lòng tu,
Độ thân cũng được khỏi tù đấng thân
Ấy là những truyện gần gần,
10Tu thân mà được, độ thân lắm người,
Lọ là đức-hạnh tót vời,
Đức Quan-Âm ấy truyện đời còn ghi.
Vốn xưa là đấng nam-nhi,
Dốc lòng từ thủa thiếu thì xuất gia.
Tu trong chín kiếp hầu qua,
Bụi trần dũ sạch, thói tà rửa không,
Đức Mâu Ni xuống thử lòng,
Hiện ra một ả tư dung mỹ miều.
Lần-khân ép dấu nài yêu,
20Người rằng: "Vốn đã lánh điều nguyệt-hoa,
"Có chăng kiếp khác họa là,
"Kiếp này sợi chỉ trót đà buộc tay".
Nào ngờ phép Phật nhiệm thay,
Lỡ lời mà đã vin ngay lấy lời.
Chờ cho kiếp nữa đủ mười,
Thử cho đày đọa suốt đời xem sao?
Cõi trần mượn cửa thác vào,
Hóa sinh, sinh hóa lẽ nào cho hay,
Cao ly là nước lớn thay,
30Đại bang thành vốn xưa nay gọi là.
Lũng-tài quận ấy bao xa,
Hồ nam huyện bắc, có nhà Mãng-ông.
Gia tư thì cũng bậc trung
Chỉ hiềm trước cửa treo cung còn chầy.
Vết Kim-Tiến kể thiêng thay,
Báo thai mộng nguyệt, mãn ngày treo khăn
Tuy chưa phải đấng thạch-lân
Khấn-cầu cũng bỏ người thân muộn-màng.
Đặt cho Thị Kính tên nàng,
40Đượm nhuần sắc nước, dịu dàng nét hoa
Não nùng chim cũng phải sa
Người tiên-cung ở đâu ta trên đời.
Gồm trong tứ đức vẹn mười.
Cửa Vương-đạo dễ mấy người giường đông.
Ở trong quận, có họ Sùng,
Sẵn khuôn y bát, vốn dòng cân-đai.
Sinh chàng Thiện Sĩ là trai,
Qua vòng tổng-giốc mới ngoài gia quan.
Kể điều tài mạo cũng ngoan,
50Gã tào kiếp trước, chàng Phan phen này.
Đã trồng bạch-bích sẵn đây,
Còn chờ bói phượng chưa vầy bạn loan.
Thư trung dành có ngọc-nhan,
Sách đèn còn bận, buông màn Quảng Xuyên.
Vẳng nghe họ Mãng gần miền,
Lam-kiều là chốn thần tiên có người.
Bức tranh khổng-tước vẽ vời,
Tay hèn dẫu bắn mấy đời cho tin.
Đem cân mà thử nhắc lên,
60Bên tài bên sắc đôi bên cũng vừa.
Mượn người đánh tiếng trình thưa,
Cầu hôn mới viết thư từ đệ sang.
Mở ra họ Mãng xem tường,
Cùng phu nhân mới lo lường trước sau.
Bấy lâu vốn đã quen nhau,
Họ người vả cũng công-hầu xưa kia
Con trai rèn cập sớm khuya,
Nhà thi thư lại giữ nghề thi thư.
Vừa đôi phải lứa quan-thư,
70Há rằng Trịnh với Tề ư mà ngờ.
Đừng rằng oanh-yến lọc-lừa,
Lại còn nay đợi mai chờ nơi nao?
Tơ hồng đã khéo xe vào,
Viết thơ hoàn-cát mà trao họ Sùng.
Nàng nghe nghĩ ngợi đã xong,
Năm canh thắc-mắc, trong lòng cảm thương.
Linh Xuân một khóm hầu vang,
Quế non Yên đã nở nang chồi nào?
Có ta một chút má đào,
80Thần-hôn cũng đã ra vào làm khuây.
Áo Lai chưa múa sân này,
Thì đem kinh-bố mà thay gọi là,
Tòng phu nếu đã từ gia,
Thừa hoan như lúc ở nhà được đâu?
Song thân thấy ý đeo sầu,
Gọi con mới dạy gót đầu cho hay.
"Kẻ làm phụ mẫu xưa nay,
"Gái sinh mong sớm đến ngày hữu gia
"Cứ xem phúc-trạch nhà ta,
90"Một mai cũng dễ trai già nở châu,
"Sự nhà chớ lấy làm sầu,
"Miễn con giữ đạo làm dâu cho toàn.
"Núi kia ắt hẳn chưa mòn,
"Thông kia sương-tuyết hãy còn chở che.
"Vả xem lối lại đường đi,
"Quanh đây thăm viếng đôi khi cũng gần"
Nàng nghe dạy dỗ ân-cần,
Gạt châu mới nghĩ, lại dần dần khuây.
Cá đi, nhạn lại, tin bay,
100Đủ năm lễ đã đến ngày thừa long.
Đào yêu choi chói màu hồng,
Ngọc trao chén dặn, hương xông áo nguyền.
Gió đằng kể khéo đưa duyên,
Chàng lưu giong-ruổi đến miền Thiên-thai,
Tiếng cầm tiếng sắt bẻ bai,
Tiếng chuông, tiếng trống, bên tai rập-rình
Một đôi tài sắc vừa xinh,
Đố Tăng-Đô vẽ bức tranh nào bằng?
110Một rằng thế thế hai rằng sinh-sinh.
Đá kia tạc lấy lời minh,
Vàng kia thếp lấy chữ tình mà treo,
Xét nàng nết đủ mọi điều,
Đã niềm hiếu thảo, lại chiều đoan-trang.
Ở trên hiếu thuận song đường,
Lòng quỳ dám trễ, tay khương nào rời.
Câu thơ liễn-nhứ ngâm chơi,
Dẫu tài nàng Tạ đã xơi cho tày.
Khuyên chàng kinh-sử đêm ngày.
120Thang mây mong nhắc chân giầy cho cao.
Nghi gia hai chữ thơ Đào,
Nhận ra trăm nết, nết nào còn chê.
Hôm mai trong chốn thâm khuê,
Kẻ đường kim-chỉ, người nghề bút-nghiên.
Canh khuya bạn với sách đèn,
Mỏi lưng chàng mới tựa bên cạnh nàng.
Phải khi liếc mắt trông chàng,
Thấy râu mọc ngược ở ngang dưới cằm.
Vô tâm xui bỗng gia tâm,
130Dao con sẵn đấy, mới cầm lên tay.
Vừa giơ sắp tiễn cho tày,
Giật mình chàng đã tỉnh ngay bấy giờ.
Ngán thay sửa dép ruộng dưa,
Dẫu ngay cho chết, cũng ngờ rằng gian.
Thất thần nào kịp hỏi han,
Một lời la lối rằng toan giết người
Song thân nghe tiếng rụng rời,
Rằng: "Sao khuya khoắt mà lời gớm thay?"
Thưa rằng: "Giấc bướm vừa say,
140"Dao con nàng bỗng cầm tay kề gần.
"Hai vai hộ có quỷ thần,
"Thực hư đôi lẽ xin phân cho tường."
Nàng vâng thưa hết mọi đường,
Rằng: "Từ gảy khúc loan-hoàng đến nay.
"Án kia nâng để ngang mày,
"Sạch trong một tiết, thảo ngay một bề.
"Bởi chàng đèn sách mỏi mê,
"Gối Ôn Công thủa giấc hòe thiu thiu.
"Thấy râu mọc chút chẳng đều,
150Cầm dao tiễn để một chiều như nhau.
"Há rằng có phụ tình đâu
"Muôn trông xét đến tình đầu kẻo oan.
"Thác đi phỏng lại sinh hoàn,
"Thì đem lá phổi buồng gan giãi bày".
Cô, công rằng: "Bảo cho hay,
"Trộm hương, cắp phấn cũng đầy chan-chan.
"Mấy người một ngựa một an,
"Nay Trương, mai Lý thế gian hiếm gì?
"Ấy may mà tỉnh ngay đi,
160"Đỉnh-đình-đinh nữa có khi còn đời.
"Sự này chớ lấy làm chơi",
Sai người tức khắc đến mời Mãng-Ông.
Trách rằng: "Sự mới lạ lùng,
"Sinh con ai dễ sinh lòng ấy đâu?
"Sắt cầm bỗng dở dang nhau,
"Say đâu với đứa trong dâu hẹn-hò
 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
2- THỊ KÍNH ĐI TU
"Sông kia còn có kẻ dò,
"Lòng người ai dễ mà đo cho cùng.
"Sự này mười mắt đều trông,
170"Thôi đừng tra hỏi, gạn-gùng nữa chi.
"Nghe anh nào có bụng gì,
"Đem lòng dạy dỗ sau thì mặc anh."
Lặng nghe kể hết sự tình,
Ngậm-ngùi nghĩ đến con mình mà thương.
Nỗi kia, đoạn nọ ngổn ngang,
Tủi thân khôn đậu hai hàng mưa sa.
Thưa rằng: "Trong nghĩa thông-gia,
"Ơn lòng chiếu cố thực là hậu thay.
"Hiếm hoi mới một chút này,
180"Được nương cửa ấy, đã may bội phần,
"Nguyền xưa mong vẹn Tấn Tần,
"Hai non ngảnh lại cho gần cả hai,
"Nào ngờ trẻ nhỏ nghe ai,
"Thả chông đường nghĩa, rắc gai lối tình.
"Phù dung nỡ để lìa cành,
"Giếng thơi nỡ để rơi mình từ đây.
"Nước trong bát, đã rời tay,
"Có còn bốc lại cho đầy được chăng?
"Mưa tan mây cuốn nửa chừng,
190"Rộng dung dạy thế, xin vâng lĩnh về.
"Lờn-bơn chịu ép một bề,
"Quản làm sao được kẻ chê người cười".
Gọi con đến trước lạy người,
Lạy lương-nhân đã, sẽ rời chân ra.
Lòng nàng xiết nỗi xót-xa,
Má đào ủ dột mặt hoa âu sầu.
Đến nơi làm lễ khấu đầu,
Lạy công cô đoạn, rồi sau lạy chồng.
Như tuôn giọt lệ ròng ròng,
200Nín hơi thổn-thức giãi lòng sau xưa.
Kể từ kim-cải duyên ưa,
Giây leo cây bách mong nhờ về sau.
Dù ai phụ bạc cùng nhau,
Đã thần ba thước trên đầu chứng tri.
Vì đâu phút hợp, phút ly,
Kiếp này đã lỡ, chắc gì kiếp sau.
Tiếc công ô thước bắc cầu,
Chàng Ngưu, ả Chức giã nhau từ rày.
Ngập-ngừng tới lúc chia tay,
210Đôi bên sùi sụt, bốn mày châu chan.
Ai làm cho phượng lìa loan,
Đang tay nỡ bẻ phím đàn làm đôi.
Lòng chàng nghĩ lại bồi hồi,
Trước kia còn giận, sau rồi lại thương,
Duyên này mà đã dở dang,
Còn nên gảy khúc Cầu-hoàng nữa sao?
Lưu tô sương gió lọt vào,
Đem mâm mà chứa ngọc giao hẳn đầy,
Phấn kia còn dấu bình này,
220Hương kia còn dính áo này chưa phai.
Xanh xanh khóm liễu Chương-đài,
Tiếc thay đã để tay ai vin cành.
Muôn thu viếng chốn Giai thành,
Vẫn còn hai tiếng bất bình mang đi

 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
Nàng từ dở bước vu quy><?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com<img src=" /><o:p></o:p>
Nhân duyên thôi có nghĩ gì như ai.
Đã oan về chiếc tăng-hài,
Mặt nào mà lại đi hai lần đò.
Trách người sao nỡ dày vò,
230Để cho Tiểu Ngọc giận no cũng già.
Nhạn hàng phỏng có đôi ba,
Thà rằng minh mục, hơn là ô danh.
Tủi vì phận liễu một cành,
Liễu đi thì để mối tình cậy ai?
Phòng riêng vò võ hôm mai,
Trông ngày đằng-đẵng lại dài hơn năm.
Buồng trong giọt ngọc đầm đầm,
Mùi ăn không nhớ, giấc nằm không ngon
Nực cười sự nhỏ cỏn-con,
240Bằng lông mà nảy nên cồn Thái sơn.
Vẻ chi chút phận hồng-nhan,
Cành hoa nở muộn thì tàn mà thôi.
Xót thay tóc bạc da mồi,
Vì ai nên nỗi đứng ngồi chẳng khuây.
Dày vò chút phận thơ ngây,
Sự vui chưa thấy, thấy ngay sự phiền.
Lấy gì báo đáp thung, huyên,
Dễ đem má phấn mà đền trời xanh,
Có khi dốc chí tu hành,
250Lánh mình trần tục, nương miền Thiền-môn
Độ trì nhờ đức Thế Tôn.
Dở dang thủa trước, vuông tròn mai sau.
Nghiêm, từ hưởng phúc về lâu,
Họa đền nghĩa nặng ơn sâu cho bằng.
Thượng-thừa là Phật là Tăng,
Xích-thằng đã ủi, kim-thằng hẳn giai,
Chỉn e thưa gửi rõ bài,
Thương con hẳn chẳng nỡ hoài cho đi.
Thôi thôi xuất cáo làm chi,
260Thân này còn quản thị phi được nào!
Bàn thầm mọi lẽ thấp cao.
Ba mươi sáu chước chước nào là trên?
Xuất gia quyết một gan liều,
Phụ tinh, đới nguyệt bước lên dặm đường.
Quần chân áo chít dịu dàng,
Giả hình nam-tử ai tường căn-nguyên.
Song đường thấy sự ngạc-nhiên,
Ruột tằm bối rối, thêm phiền não ra.
Biết đâu dặm thẳm đường xa,
270Biết đâu giếng cạn, hay là bể sâu.
Chốc là phần ấy tuổi đầu,
Đến nay cả lớn, vừa hầu cậy trông.
,
 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
Giải kia lầm giắt chữ đồng.
Tủi duyên ấy, để nỡ lòng sâm-thương.
Hay là bực tuyết buồn sương.
Như ai khoét vách, trèo tường, chớ chơi.
Vậy thì sao chẳng một lời,
Biết mà gả phắt cho đời là xong.
Đá vàng nghe cũng bền lòng.
280Lẽ nào trống thủng bồng long đến điều,
Vì đâu gió quở mưa trêu,
Để nguồn trôi nổi, cho bèo mênh-mông.
Mắt lòa, chân chậm, răng long,
Để như Lữ Ngọc hết công tìm tòi,
Biết bao nước mắt mồ hôi,
Cây đồng được mấy mươi chồi cho cam?
Bây giờ đôi ngả bắc nam,
Biết còn quanh-quẩn cõi phàm hay không?
Nghìn năm nghiêng lở non Đồng,
290Biết còn ứng tiếng Lạc-chung đó là?
Thương thay lụ khụ tuổi già,
Dế năm canh nguyệt, quốc ba tháng hè.
Nàng từ xa chốn hương-khuê,
Nỗi nhà man mác mọi bề mà lo.
Cũng toan gỡ mối tơ vò.
Thành sầu cao ngất phá cho tan tành.
Tưởng ơn trời bể mông- mênh,
Dễ mà đền được ân-tình ấy đâu?
Tà tà bóng ngả cành dâu
300Sớm khuya dưới gối ai hầu hạ thay?
Vắng người khuất mặt lúc này,
Lòng người thiểu não biết ngày nào nguôi?
Nghĩ điều mưa nắng xa xôi,
Cảm thương đòi đoạn, bồi hồi chừng nao!
Chân trời đất khách đã lâu,
Chiêm bao lẩn thẩn ở đâu quê nhà.
Hỏi thăm dặm liễu dần dà,
Ngờ đâu Văn-Tự chẳng là ở đây,
Bốn bề phong cảnh lạ thay,
310Bồng-lai khi cũng thế này mà thôi.
Cửa Thiền sẽ lẻn chân coi,
Trông lên sư phụ vừa ngồi tụng kinh.
Mưa hoa rảy khắp bên mình,
Nhấp-nhô đá cũng xếp quanh gật đầu.
Mới hay đạo Phật rất mầu,
Nghĩ đây cũng dễ đổi sầu làm vui,
Chờ khi kinh giáo vừa rồi,
Lạy sư phụ, bạch khúc-nôi tỏ tường.
Trình-bày tên họ gia hương,
320Nhà xưa theo dấu văn-chương cũng là.
Chán vùng danh lợi phồn-hoa,
Chắp tay xin đến Thiền già quy y.
Sư rằng : "Này đạo từ bi,
"Rộng đường phổ độ, hẹp gì trần duyên.
"Nhưng sao đương độ thiếu niên,
"Nhìn xem phong-thể cũng nên con người.
"Cớ chi nhà lối xa khơi,
"Đem mình đài các, vào nơi lâm-tuyền.
"Hay là tủi phận hờn duyên,
330"Hay là đeo lụy mang phiền chi chăng?
"Chỉn e vượn Sở lạc chừng,
"Bận lòng đến cả cây rừng, chưa minh?"
Thưa rằng: "Trẻ nhỏ thư sinh,
"Làm chi cho được lụy mình, chớ e!
"Nền nhân nhờ bóng sân hòe,
"Cũng may tới cửa ngựa xe với ngươi.
"Đoái trông thế sự nực cười,
"Như đem trò rối mà chơi khác gì.
"Phù vân một đóa bay đi,
340"Khi thì áo trắng, khi thì muông đen
"Chật đường chen-chúc như nen,
"Cân đai nhan-nhản người quen với mình.
"Chẳng thèm ra áng công -khanh,
"Mà đem thân-thế làm hình dịch chi.
"Cho nên mến cảnh trụ trì
"Dám xin nhờ bóng tăng-huy xét lòng."
Sư khen rằng: "Kẻ nho phong,
"Đã say đến chữ sắc không đấy mà!
"Kìa bào, kìa ảnh vút qua,
350"Kìa sương, kìa chớp, kìa là chiêm-bao
"Lọ là tranh trí thấp cao,
"Kẻ xem khoái chí, người gào thất thanh
"Lấy ai làm nhục làm vinh,
"Trăm năm là nấm cỏ xanh rì rì.
"Sao bằng vui thú liên-trì,
"Dứt không tứ tướng, sá gì nhị biên,
Đạo này huyền thực là huyền,
Hư vô mà vẫn trang nghiêm thế này,
"Tiểu đà mến đạo đến đây,
360"Kính-Tâm tên đặt từ nay gọi thường.
Vâng lời nương cảnh thượng phương,
Khêu đèn bát-nhã, gióng chuông tam-huyền.
Chân-kinh ghi chữ tâm truyền,
Trực tòa Long-nhiễu, vui miền Hổ khê.
Đòi cơn tưởng nỗi hương-khuê,
Người đi nghìn dặm, bóng về năm canh.
Sự mình, mình giận với mình,
Nặng tình cũng phải nén tình làm khuây.
Thanh gươm trí tuệ mài đây,
370Bao nhiêu khổ não cắt ngay cho rồi.
3 THỊ KÍNH MẮC TIẾNG OAN
<FONT face="Times New Roman">Hương xông pháp-giới ngùi ngùi,<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com
P><P align=left><FONT size=4 face=
Thông rung trống kệ, trúc hồi mõ kinh.

Có người cảnh lại càng thanh,
Bồn không cũng nảy ra cành liên-hoa.
Đã lồng ba tấm cà sa,
Nhưng người tiên vẫn trông ra khác phàm.
Dập dìu trước chốn thiền-am,
Kẻ hoài xuân những muốn làm ni cô.
Ngỡ chàng Phan Nhạc đấy ru,
380Ra đâu cũng ném quả cho tiếc gì.
Trời sinh tư sắc làm chi,
Hoa thơm bướm cũng có khi bợn lòng.
Trong làng có một phú ông,
Gia tư đọ với Thạch Sùng kém đâu.
Tiểu thư ở chốn hồng-lâu,
Tuổi vừa đôi tám Thị Mầu là tên.
Lá hồng đặt xuống nâng lên,
Mối duyên đo đắn chưa nên mối gì.
Nào rằng giữ nết khuê vi,
390Ngày rằm mồng một cũng đi cúng dàng
Nhác trông thấy tiểu dịu dàng,
Sóng thu xui khiến cho nàng khát-khao.
Người đâu có dáng thanh tao,
Bóng trăng dưới nước, vẻ sao trên trời.
Đáp thưa chưa kịp hết lời,
Mới giàn mặt, thoắt đã rời chân đi.
Khấn sao Đức Phật độ trì,
Xui ra, họa có chước gì được thân.
Như không phải kiếp Châu Trần.
400Thì xin một trận phong vân cũng nhờ.
Lạ thay tiểu vẫn hững-hờ,
Mấy phen thời cũng thờ ơ với mình.
Hoa kia nói, hẳn nghiêng thành,
Chào hoa hoa lại vô tình mới căm.
Tri âm chẳng gặp tri âm,
Để ai mong đứng mong nằm, sầu riêng,
Trách ông Nguyệt-lão nào thiêng,
Có khi bên Thích cũng kiêng kẻo là!
Đăm đăm tưởng nguyệt, mơ hoa,
410Biết sao khuây khỏa cho qua cơn sầu.
Trong nhà sẵn có đứa thương-đầu,
Quyền nghi một chút dễ hầu ai hay
Nào ngờ gió thổi mây bay
Hạt kia gieo xuống đợi ngày mà sinh
Ba trăng coi đã khác hình
Bữa cơm thì biếng, mùi chanh thì thèm
Song thân ngờ, mới hỏi xem,
"Sao con lại mọc ra điềm chẳng hay?
"Thế mà ai hỏi bấy nay,
420"Đôi bên tay áo chẳng day bên nào
"Lỡ ra rồi biết làm sao,
"Chớ con trả mận gieo đào với ai?
"Dễ mà ăn cáy bưng tai,
"Dăng dăng nghe chuyện bên ngoài hổ ngươi!"
Nàng rằng: "Đâu khéo những lời,
"Ngọc lành ai có dại đời thế đâu?
 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
"Cành hoa vẫn giữ còn màu,
Con oanh dẫu hót cho sầu, trối thây.
"Ví dù tính nước lòng mây
430Nhà ma nào chịu đến rày chửa đi.
"Năm xung tháng hạn phải khi,
Hóa ra thế ấy hỏi chi tức mình?"
Dứt lời nghe mõ nguyệt-bình,
Rằng đòi con gái ngoại tình ra tra.
Phú ông thấy sự xấu xa,
Trở vào tắc lưỡi, trở ra vật mình.
Rằng: "Con sinh sự, sự sinh,
"Há rằng vạ ở trời xanh gieo vào,
"Một là động địa làm sao,
440Nước phương mộc dục chảy vào chẳng sai,
"Hai là lầm thuốc dông dài,
"Cái dâm dương-hoắc thì ai cũng vừa,
"Ba là phải đứa trao bùa,
"Miếng trầu hoan-hỷ nó cho bao giờ.
"Vô tình nào có ai ngờ,
"Thế mà ăn nói ỡm-ờ như không.
"Khôn mà thưa gửi cho xong,
"Chẳng thì bè chuối trôi sông chẳng hòa".
Dắt tay kính dẫn nàng ra,
450Con mang bụng nặng, cha già theo sau.
Những là chê khó chê già,
Đến nay con dại dễ hầu ai mang?
Phú ông nghe nói hổ hang,
Nhủ rằng: "Sao đấy liệu đường mà đi"
Thưa rằng: "Hổ phận nữ nhi,
"Tam tòng vẫn giữ một ly dám rời
Dẫu khi bãi Hán chơi bời,
"Đố người cường bạo một đời dám trêu.
"Điều đâu như dệt như thêu,
460"Điều đâu ai khéo đặt điều xấu xa.
"Có đâu những thói dâm-tà,
"Bởi chưng xấu máu hóa ra thế này.
"Thực là vạ gió tai bay,
"Bỗng dưng gắp lửa bàn tay tội đời"
Làng rằng: "Nào phải nói chơi,
"Đừng quen dao lá những lời vắt chanh,
"Tướng kia coi đã hiện hình
"Nhỡn quang như thủy có lành được đâu,
"Chẳng hay ngày tháng bao lâu,
470Má hồng coi đã ra màu xanh xanh.
"Phải ai thì thú thực tình,
"Luật cho đoàn tụ cũng thành thất-gia
"Không thì một chữ thân qua,
"Chín trâu chưa dễ chuộc ra được nào"
Nghe lời đe nạt mà nao,
Nghĩ mình đã trót, dễ sao bưng bồng.
Thương-đầu nó đã tếch xong,
Nói ra thêm xấu, vả không có bằng.
Phép người đã cứ cung xưng,
480Yêu ai chỉ nấy, may chưng được nhờ.
Thưa rằng: "Trước hãy còn sơ,
"Cạn sông thì đá sờ sờ khôn che.
"Xưa nay ở chốn thâm khuê,
"Dù ong hay bướm chưa hề biết ai.
"Phải khi lên chốn thiền-trai
"Kính-Tâm tiểu ấy gặp ngoài sân bia.
"Quá yêu tôi đã nguyền thề,
"Nhụy hoa phó mặc bướm kia ra vào.
"Dù nên cầu bắc bến nào,
490"Nhờ làng ơn ấy đời nào dám quên."
Rõ ràng chỉ mặt rõ tên,
Truyền đời tiểu đến nhỡn tiền đôi co.
Mảng tin, thầy, tớ đều lo,
Dữ, lành nào biết duyên do việc gì?
Vâng lời sư dẫn tiểu đi,
Tay thì lần hạt, miệng thì tụng kinh.
Đến nơi làng hỏi thực tình :
"Tiểu kia đã quyết tu hành đến đây.
"Sóng thu sao hãy còn lay,
500"Thị Mầu kia đã trình-bày phân minh.
"Nói ngay thì cũng thứ tình,
"Liệu ta chớ có dối quanh nữa đòn!"
Lặng nghe đau đớn lòng son,
Kiếp tu, quả ấy có tròn được chăng?
Bây giờ cải dạng nam-trang
Nói ra dễ giữ thói hằng được nao!
Thật vàng dẫu lửa mà sao,
Đốt than mà thử mấy tao cũng dầu!
Trước sau nông-nỗi gót đầu,
510Rằng: "Câu không sắc dễ hầu dám sai.
"Như còn bợn dạ trần-ai,
"Thì xin có Đức Như Lai trên đầu".
Trái tai, làng hỏi Thị Mầu,
Cứ thưa một mực trước sau rành-rành.
Làng rằng: " Thôi chẳng oan tình,
"Tiểu kia cứ thực mà trình mới xong.
"Phải suy Phật ấy là tòng,
"Như đường gia thất cũng không cấm nào.
"Thôi đừng dối Phật, dối nhau,
520"Ăn hoa lội nước xơi rau qua rào.
"Mộc thiên chẳng dỗ được nào,
"Buồn mình lại quyến đứa vào vui chơi.
"Giả hình làm tiểu đời đời,
"Dối ai dễ dối được trời kia ru!
"Liệu ba mươi sáu đường tu,
"Chẳng thì văn bút, vũ vồ dễ chi!"
Nhời sao cũng cứ tri tri,
Túi roi vồ nọc tức thì truyền mau.
Làm cho chín khúc cùng đau,
530Đào nhăn-nhó mặt, tiểu cau có mày.
Hãy đường gặp trận gió tây,
Lá rơi rải rác, hoa bay tơi bời.
Mười phương Phật chín phương Trời,
Chưa hay đến sự dưới trời oan ru?
Đuốc nào soi thấu lời vu,
Bôi nhòa đen trắng lộn mù phải chăng?
Càng van, càng buộc khăng-khăng,
Nỡ nào để tiếng thầy tăng giết người.
Vóc bồ xem đã tơi bời,
540Thương thay sư mới cất lời van-lơn.
Thưa rằng: "Làm phúc nào hơn,
"Mở lòng Bồ tát dẹp cơn lôi đình.
Khoán làng xin nộp phân minh,
"Dại khôn xin hãy thứ tình một phen"
Một lời đạo, đức nói lên,
Dẫu người độc dữ cũng nên xuôi lòng.
Rấp toan khảo đả cho cùng,
Nay sư đã lĩnh thì dung cho về.
Bè từ tế độ cũng ghê,
550Chẳng thì sa chốn sông mê còn gì?
Ngửa nhờ giọt nước dương chi,
Dẫu cho đã héo rồi thì lại tươi.
Dần dà sư mới ngỏ lời,
Rằng: "Con đã mắc tiếng người chê bai.
"Tam quan ra ở mái ngoài,
"Kẻo e miệng thế mỉa mai đến thầy,
"Dù con thiệt có chuyện này
Lòng trần dũ sạch, từ nay thì chừa.
Như không, mà phải tiếng ngờ,
560"Cũng nên khuyên gượng làm ngơ kẻo buồn".
Vâng lời ra ở thuyền môn,
Trong tòa phương-trượng dám còn vào ra.
Nương mình bên khóm cúc hoa,
Một hai chồi trúc, năm ba cụm tùng,
Gương bạch-nguyệt quạt thanh phong.
Cười cùng thiếu nữ bạn cùng thuyền quyên.
Lấy gì làm thú giải phiền,
Quyển kinh trăm lá, ngọn đèn một hoa.
Bạch vân kìa nẻo xa xa,
570Song thân ta đấy là nhà phải không?
Bể, non chưa chút đền công,
Bấy lâu nay những nặng lòng vì con.
Ngỡ đà qua nạn Cự môn,
Ai hay Thái tuế hãy còn theo đây,
Tiền sinh nghiệp-chương còn đầy,
Cho nên trời mới đem đày nhân-gian,
Mắt phàm khôn tỏ ngay gian,
Hai phen đem buộc tiếng oan tày trời.
Châu kinh tụng mấy muôn lời,
580Tai ương hay cũng rụng rời như tro.
Sá thù chi đứa dâm ô,
Nước tùy duyên rửa đi cho kẻo mà!
Chữ rằng: "Nhẫn nhục nhiệm hòa,
Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu".
4-THỊ KÍNH NUÔI CON THỊ MẦU
Lọc vàng nào quản công-phu,
Mắt ngừng trên vách, mấy thu đã chầy,
Lần lần tính đốt ngón tay,
Thị Mầu đã đủ đến ngày sinh trai.
Phú ông chi khéo nỡ hoài,
590Con ai thì phó trả ai giữ giàng.
Lòng này dở dở, dang dang,
Lọt lòng hôi hổi chẳng thương được nào?
Trên tay nâng giọt máu đào,
Hầu đi lại đứng, toan vào lại ra.
Ngỡ chơi đâu biết thế mà,
Cắn răng đem vứt ruột già cho ai.
Cắm đầu ra nẽo thiền trai,
Ôm con len-lén đứng ngoài mái hiên,
Tiểu đương tụng-niệm khấn-nguyền.
600Bỗng nghe tiếng trẻ khóc lên giật mình.
Ngảnh đi thì dạ chẳng đành,
Nhận ra thì hóa ra mình chẳng ngay.
Gớm thay mặt dạn mày dày,
Chân chân đem trả con đây mà về,
Cơ thiền kể cũng khắt-khe,
Khéo xui ra đứa làm rê riếu mình.
Nhưng vì trong dạ hiếu sinh,
Phúc thì làm phúc, dơ đành chịu dơ.
Cá trong chậu nước bơ vơ,
610Khi nay chẳng cứu, còn chờ khi nao?
Chẳng sinh cũng chịu cù lao,
Xót tình măng sữa, nâng vào trong tay,
Bữa sau sư phụ mới hay,
Dạy rằng: " Như thế thì thày cũng nghi.
"Phỏng như khác máu ru thì,
"Con ai mặc nấy can gì đa mang?"
"Bạch rằng: " Muôn đội thầy thương,
"Xưa nay thầy dạy mọi đường nhỏ to.
"Dù xây chín đợt phù đồ,
620"Sao bằng làm phúc cứu cho một người.
Vậy nên con phải vâng lời,
Mệnh người dám lấy làm chơi mà liều".
Sư nghe thưa thốt mấy điều,
Khen rằng: "Cũng có ít nhiều từ tâm".
Rõ là nước lã vẫn lầm,
Mà đem giọt máu tình thâm hòa vào.
Mẹ vò thì sữa khát-khao,
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền.
Nâng-niu xiết nỗi truân chuyên,
630Nhai cơm mớm sữa, để nên thân người,
Đến đâu ai cũng chê cười,
Tiểu kia tu có trót đời được đâu?
Biết chăng một đứa thương đầu,
Mình là hai với Thì Mầu là ba.
Ra công nuôi hộ thiệt là,
Đương buồn có trẻ hóa ra đỡ buồn.
Khi trống giục, lúc chuông dồn,
Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày.
Phù trì như thổi ra ngay,
640Lọ phương hoạt-ấu, lọ thầy bảo anh.
Bùa thiêng đã sẵn kim kinh,
Ma vương kia cũng phải kinh lọ là.
Thoi đưa tháng lại ngày qua,
Mấy thu mà đã lên ba tuổi rồi.
Con mày mà giống cha nuôi,
Hình dung ý tứ khác nòi bản-sinh.
Mai ngày đến lúc trưởng-thành,
Cơ cừu dễ rạng tiền-trình hơn xưa.
Vừa mừng con đã sở sơ,
650Ai ngờ tằm kéo hết tơ thì già.
Gió vàng một phút thoảng qua,
Lá ngô biến sắc cành hoa ủ màu.
Than rằng này đạo cao sâu,
Cam lòng tịch diệt ngon đâu phàm-trần.
Hóa thân thì mượn chân thân,
Siêu thân được lượm tinh-thần mang đi.
Ký quy đành chẳng lệ chi,
Đoái tình trứng nước, nghĩ thì càng thương.
Gọi con từ giã mọi đường,
660Bút hoa mới viết vài hàng căn nguyên.
Thảo thư dặn rõ cẩn truyền,
Cầm tay, rồi sẽ tìm lên quê nhà.
Chờ khi xả tự thoát ra,
Lên hầu Sư phụ rồi mà bạch ngay.
Dứt lời thoắt đã chia tay
Hồn hương đã sẵn xe mây rước về.
Khen cho bé nhỏ mà ghê,
Vật mình lăn khóc ngồi kề một bên.
Vâng lời nhủ lại dám quên,
670Xăm xăm lên bạch Sư trên thiền đường.
Nghe lời, sư nghĩ mà thương,
Dạy rằng: "Nào bản đạo trường ra coi.
"Kính-Tâm chầu Phật đi rồi,
"Phải ra xem sóc, cứ noi lệ thường".
Giờ lâu vào bạch rõ ràng,

 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
Rằng nay tiểu ấy coi dường nữ nhi.
Sư rằng: "Nghe nói hồ nghi,
Vãi đâu ra thử, có thì lại thưa".
Vãi rằng: "Sự chẳng còn ngờ,
680Thế mà đày đọa bấy giờ đến nay".
Sãi vào trình với làng hay,
Quả nhiên xóm nọ thôn này đổ ra.
Xôn-xao tín nữ, lão bà,
Đều rằng tu thế mới là chân tu.
Cha con Mầu thị phao vu,
Mõ truyền lập tức ra cho làng đòi.
Khoán sư dân đã thu rồi,
Chiểu thu nộp một bắt bồi làm hai.
Trị tang các việc trong ngoài,
690Phú ông còn đổ cho ai được nào?
Tiểu nhi sư mới gọi vào,
Cha con nhủ lại những sao bây giờ?
<FONT face="Times New Roman">5-THỊ KÍNH RỬA SẠCH TIẾNG OAN <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com
P><P><FONT size=4 face=
Bạch rằng: "Thương-xót con thơ,

Trối trăng có viết một tờ lại đây.
Xem thư sư phụ mới hay,
Thương cho tiếng nọ điều này những oan.
Xa xôi cách mấy trùng-san,
Cho đưa thư tới Hương-quan quê nàng,
Sắm-sanh lễ vật mọi đường,
700Phú ông vâng phải tính phương chu tuyền.
Ngửa tay chịu việc tần-phiền,
Nhờ con báo bổ đã nên cam lòng.
Thị Mầu cùng bạn má hồng,
Để tang phải khóc là chồng dở dang.
Phần thì hổ với dân làng,
Phần thì rầu với song đường nơi đây.
Còn người con cái thẹn này,
Phải liều như thể vợ thầy Trang-sinh,
Trầm-luân kiếp ấy đã đành,
710May ra còn có chút tình xót-xa.<o:p></o:p>
Xót thay họ Mãng tuổi già,
Bức thư đưa đến mở ra rụng rời.
Vân mòng đã mấy năm trời,
Thấy thư lại hóa ra người biệt-ly.
Ỷ hòe một giấc còn chi,
Người là người cổ, thư thì thư không.
Quản bao nước thẳm, non cùng,
Đeo khăn quảy gánh thẳng giong tức thì,
Nghe tin Thiện-sĩ theo đi,
720Gánh sầu san xẻ, nặng-nề cả ba
Thắp cao dặm trúc ngàn hoa,
Qua hồ tây đến đây là chùa Văn.
Cần quyền xót nỗi song thân,
Nước non len-lỏi mấy lần thẳm xa.
Ngửng trông ba thước hồng-la,
Trách thầy Tử hạ khóc mà được chăng?
Thiềm cung từ vắng ả Hằng,
Tìm kim đáy nước mò trăng giữa đầm.
Non Hành nhạn vắng tin thăm,
730Sông ngô tìm cá, thì tăm cũng chìm,
Bấy lâu tin-tức đã im,
Ai hay di thể còn tìm thấy đây?
Giữa đường thoát gánh khỏi tay,
Thông già, huyên cỗi sau này làm sao?
Lòng chàng chín khúc tiêu hao,
Hạt châu lai láng, thấm bào như dong.
Lời nguyền chỉ núi thề sông,
Tiếng là da mở, nghĩa cùng thịt xương.
Tơ duyên bỗng xẻ đôi đường,
740Vì anh lỗi đạo, cho nàng ngậm oan,
Châu rồi có lẽ phục hoàn,
Cũng mong Liễu lại tay Hàn mai ngay.
Nửa chăn để bụi đã đầy,
Uyên-ương ước lại sum-vầy đồng khâm
Vi Cao lòng vẫn chăm-chăm,
Ngọc-Tiêu phỏng độ mấy năm tái hoàn?
Thề rằng chán nguyện nhân-gian,
Lại xin theo dấu Niết-bàn ở đây.
Họa chăng gặp kiếp sau này,
750Chẳng thì xin hóa làm cây Hàn Bằng.
Ai trông thấy chẳng ngập-ngừng,
Động lòng mà khóc người dưng sụt-sùi.
Một đoàn bồ bạt tới lui,
Dọn đường tổ đạo đặt nơi ủy hình.
Theo đưa kia biết bao tình,
Đứa nuôi hoàng-khẩu, đấng sinh bạch-đầu
Tiếng-tiêu inh ỏi giọng sầu,
Một giây bạch bố bắc cầu độ vong,
Kìa ai muốn khảo cho cùng,
760Theo đưa cũng chạnh tấm lòng ăn-năn.
Nỗi cơn lệ vũ sầu vân,
Vang hồi pháp-khí, rung cành linh phan.
Vùi hương chôn ngọc đã an,
Cửa thiền mới đặt pháp đàn làm chay.
Đủ đồ thập-cúng sẵn bày,
Lòng đi ba cõi hương bay chín trời,
Bảo đường tụng niệm mấy lời,
Chúc cho giải thoát sang đời mai sau.
Ai hay phép Phật nhiệm mầu,
770Có khi nước Trúc ở đâu cũng gần
Giữa trời kết đóa tường-vân,
Đức Thế Tôn hiện toàn thân xuống đàn.
Ào ào dạng bóng tường loan,
Tràng-phan bảo cái giao quan âm thầm.
Truyền rằng nào Tiểu Kính Tâm,
Phi thăng làm Phật Quan Âm tức thì.
Lại thương đến đứa si nhi,
Trên tay cho đứng liền khi bấy giờ.
Kìa như Thiện Sĩ lờ đờ,
780Cho làm chim vẹt đứng nhờ một bên,
Độ cho hai khóm thung, huyên,
Giơ tay cầm quyết, bước lên trên tòa
Siêu thăng thoát cả một nhà,
Từ nay phúc đẳng hà sa vô cùng,
Lên miền cực-lạc hội đồng,
Mọi người khi ấy đều trông rành-rành.
Cho hay lành lại gặp lành,
Nam-mô-di Phật tu hành thì coi.<o:p></o:p>


BỨC THƯ THỊ KÍNH GỞI CHO CHA MẸ
Ơn sơn hải một chút chi chưa báo, ở sao đành mà đi cũng sao đành.
Phận liễu bồ mười đấy cũng là không, sống đã tủi thì thác đi cũng tủi.
Trăm dặm cũng như là muôn kiếp, một tấm lòng son gửi lại mươi hàng.
Thị Kính nay hổ phận nữ nhi, nhờ phúc ấm nên duyên Sùng-Mãng.
Từ kết tóc sớm trao dây tú mạc, ba thu vừa đầm ấm chăn loan.
Vì cắt râu nên nỗi sóng Ngân hà, một khắc nào ngờ tan nhịp Thước.
Tòa Ngưu-Nữ khiến song thân cách trở, chốn thung-huyên làm đôi đoạn bồi hồi.
Chữ tòng phu chợt thẹn với tùng-mai, mang gánh hiếu phải xa rời cúc-trúc
Miền cực lạc đắm chìm mây khói, nương thuyền từ vượt khỏi bến mê.
Trời quang minh khai sáng sầu bi, bể khổ hạnh khơi thành giác ngộ.
Cảnh Văn-thù vui miền trai giới, rảy Cành-phan chẳng gợn chút trần ai.
Ả Thị Mầu đơm đặt chuyện đơn sai, gầy vóc liễu cũng cam lòng chịu khó.
Thủa làm vợ bị chồng ngờ thất tiết, lúc giả trai thì gái đổ oan tình.
Đoái nghĩ ơn chín chữ cù lao, xa xôi chốc đã sáu thu cách bức.
Khắc khoải bận lòng khi đán-mộ.
Nghĩ đến nỗi đôi đường ly biệt, công nuôi nấng gọi là một chút viếng thăm.
Thay mặt buổi thần-hôn muôn phần bội bạc đã cam lòng.
Trăm lạy nghiêm từ, xin ở lại

Tác Giả: KHUYẾT DANH
<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
Qua hai câu chuyện cổ tích dân gian thường kể trên ,chúng ta đã có khái niệm về tiền thân của bậc Bồ Tát đã lấy lòng từ bi làm chủ yếu.
Vậy thì qua kinh điển chúng ta được biết gì về đức Bồ tát có lòng đại bi ấy

3-Câu Chuyện Về Thái Tử Bất Huyễn
Trong Kinh Bi Hoa có nói đến một tiền kiếp của Bồ Tát Quan Thế Âm , xin tóm tắt thuật như sau - Thưở xưa cách nay vô số kiếp , một Đại Kiếp có thế giới tên là Thiện Trì , thế giới mà chúng sinh còn mang thân ngũ trược .Lúc ấy , cõi Phật là thế giới Tịnh Độ được gọi tên là San Đề Lam .

Ở tại thế giới xấu ác ngũ trược Thiện Trì , có Phật Bảo Tạng ra đời .Nước đó có vủa Chuyển Luân tên là Vô Tránh Niệm làm vua , và ông Bảo Hải làm Đại thần .Một ngày kia đức Phật Bảo Tạng và đại chúng Thanh Văn đến một làng gọi tên là An Chu La , vào nghỉ ở nơi rừng Diêm Phù .
Khi vua Vô Tránh Niệm và đại chúng tùy tùng quyến thuộc đến rừng Diêm Phù thì đức Phật Bảo Tạng liền vì vua và đại chúng mà thuyết pháp .Vua liền phát tâm cúng dường đức Phật và Thánh chúng trong ba tháng .Vua cũng vận động các thành phần trong dân chúng cùng cúng dường Phật Bảo Tạng và Thánh chúng .
Vị Thái Tử con trai đầu của Vua , tên là thái tử Bất Huyễn cũng đứng ra cúng dường Phật Bảo Tạng và Tăng đoàn giống như vua cha là Vô Tránh Niệm đã làm , trong ba tháng ..
Sau đó quan Đại thần Bảo Hải đã có một giấc mộng báo về sự mong cầu phúc báo hữu lậu của Vua và các vị Vương tử .
Vì thế sau đó đại thần Bảo Hải đã khuyên vua và các Vương tử nên phát tâm Bồ Đề cầu quả Vô Thượng.Được ông Bảo Hải khuyên nên đem phúc đức cúng dường cầu quả vị A nậu đa la Tam miệu tam bồ đề , thái tử Bất Huyễn liền nói với quan đại thần Bảo Hải :

" Nay tôi quán xét thấy chúng sinh nơi địa ngục chịu nhiều khổ não .Chúng sinh trong hai cõi trời , người nếu có tâm xấu ác liền vì tâm xấu ác đó mà phải nhiều đời thọ sinh trong ba đường ác "
Thái tử khởi lên ý nghĩ :"Những chúng sinh ấy đều do thân cận với kẻ ác , khiến cho sự hiểu biết chánh pháp bị thối chuyển, phải rơi vào chỗ tối tăm u ám , mất hết các căn lành , lại chấp giữ đủ mọi thứ tà kiến , che lấp chân tâm nên mới làm theo tà đạo ."


Thái tử liền bạch Phật :"Thế Tôn , nay con sẽ dùng âm thanh lớn để báo cho hết thảy chúng sinh đều biết .Hết thảy những căn lành của con , đều xin hồi hướng về quả vị A Nậu Đa la Tam miệu Tam bồ đề , nguyện khi con đang hành đạo Bồ tát , nếu có chúng sinh nào đang chịu đựng các khổ não , sợ sệt , lo lắng , sự hiểu biết chánh pháp bị thối chuyển, phải rơi vào chỗ tối tăm u ám , sầu đau buồn khổ , cô độc không có người cứu giúp , không có nhà cửa , không nơi nương tựa , nếu có thể nhớ nghĩ đến con , xưng tụng danh hiệu của con , con sẽ dùng thiên nhĩ mà nghe biết , dùng thiên nhãn mà thấy biết ,khiến cho những chúng sinh ấy được thoát ra khỏi mọi sự khổ não .Nếu không được như thế con quyết sẽ chẳng bao giờ thành tựu quả A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề "
.....................
Khi ấy đức Phật Bảo Tạng liền thọ ký : "Thiện Nam Tử , ông quán xét hết thảy chúng sanh trong hai cõi trời , người , cùng với trong ba đường ác mà sinh tâm đại bi ,muốn dứt trừ mọi khổ não cho chúng sinh , muốn dứt trừ mọi phiền não cho chúng sinh ,muốn tất cả chúng sinh đều trụ nơi an lạc .Thiện Nam Tử , nay ta đặt tên cho ông là Quán Thế Âm " (Trích kinh Bi Hoa trang 338 - 339 , phẩm Bồ Tát Thọ ký )

Từ đó thái tử Bất Huyễn đã trải qua nhiều kiếp , kiếp nào cũng thực hành Bồ tát đạo như đã phát nguyện trước đức Phật Bảo Tạng cho đến nay vẫn là một bậc Đại Bồ tát
 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
"Bất Huyễn Thái tử khi đặng chư Phật thọ ký rồi , thì lòng vui mừng.Đến khi mạng chung thì ngài thọ sanh ra các đời khác , trải kiếp nọ qua kiếp kia, hằng giữ bổn nguyện , gắng công tu hành , cầu đạo Bồ Đề , làm hạnh Bồ Tát , chăm lòng thi hành những sự lợi ích cho chúng sanh, không khi nào ngài quên thệ nguyện độ sanh.

Từ đó đến nay đức Quan Thế Âm vẫn hành Bồ Tát Đạo với ngôi Đẳng Giác Bồ Tát ở cõi Cực Lạc trợ tuyên giáo pháp của đức Phật A Di Đà , tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương đem về cõi ấy .

Đến sau , đức Phật A Di Đà nhập Niết Bàn, thì ngài kế ngôi Phật vị mà giáo hóa chúng sanh "

4-Đức Quán Thế Âm Bồ Tát theo Kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn
Kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn, qua sự thưa hỏi của Bồ Tát Vô Tận Ý ,đức Phật nói về Bồ Tát Quan Thế Âm với công hạnh của ngài từ bi yêu thương và cứu giúp chúng sanh hoạn nạn, và 32 ứng thân của đức Bồ Tát Quan Thế Âm , tùy theo tâm của từng loại hạng chúng sanh , mà hiện thân tương ưng để nói pháp độ chúng sanh ấy .
Sự hiện thân nói pháp để độ chúng sanh của ngài , gọi là Ứng Thân , hay Hóa Thân , gọi đầy đủ là Ứng Hóa Thân.
Theo sự hiểu của spl , Ứng Hóa Thân gồm có :
_ Thân thị hiện bằng thân ngũ uẩn sanh tử , như Bồ Tát Hộ Minh từ cung trời Đâu Suất thị hiện làm thái tử Tất Đạt Đa , thành Phật Thích Ca..
_ Thân thị hiện bằng thần thông
_ Thân sắc tướng tương ứng - Đây không phải là thân có hình sắc , mà là trí tuệ đến với người có đạo tâm , khi người này niệm danh hiệu Bồ tát , liền có cảm ứng đạo giao nan tư nghì .
Sở dĩ chư Đại Bồ Tát có được khả năng nghe được tiếng kêu cứu khổ của chúng sanh là do Chư Đại Bồ Tát có sự viên thông của Nhĩ căn.

5- Nghĩa của Nhĩ Căn Viên Thông

KHAI THỊ TÁNH NGHE CỦA NHĨ CĂN LÀ THƯỜNG TRÚ

Phật bảo: A <?xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com
><st1:place w:st=
</st1:place>Nan! Nay tôi đem việc thông thường trước mắt, phương tiện tháo gỡ mối nghi của ông. Bấy giờ Phật bảo ông La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi hỏi ông A Nan rằng:
<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com
P><P><FONT color=black><FONT size=3 face=Verdana>A <st1:place w:st=
</st1:place>Nan! Ông có nghe gì không?
<o:p></o:p>
- Có nghe. Ông A Nan và đại chúng đồng thưa.<o:p></o:p>
Giây lâu tiếng chuông hết kêu. Phật lại hỏi:<o:p></o:p>
A <st1:place w:st="on">Nan</st1:place>! Ông nghe chăng?<o:p></o:p>
- Không nghe, bạch Thế Tôn!<o:p></o:p>
La Hầu La lại đánh một tiếng chuông nữa Phật nói:<o:p></o:p>
Ông có nghe chăng A Nan!<o:p></o:p>
Có nghe, bạch Thế Tôn!<o:p></o:p>
Phật hỏi: Thế nào thì ông có nghe? Thế nào thì ông không nghe?<o:p></o:p>
Ông A Nan và đại chúng đồng bạch Phật.<o:p></o:p>
Có tiếng chuông kêu thì chúng tôi được nghe, hồi lâu tiếng dứt, âm vang không còn thì không còn nghe nữa.<o:p></o:p>
Đức Phật lại bảo ông La Hầu La đánh chuông rồi hỏi tiếp:<o:p></o:p>
Theo ông hiện nay có tiếng không?<o:p></o:p>
- Có tiếng, bạch Thế Tôn?<o:p></o:p>
Hồi lâu, tiếng chuông dứt bặt, Phật lại hỏi ?<o:p></o:p>
Hiện giờ có tiếng không?<o:p></o:p>
- Không tiếng, bạch Thế Tôn!<o:p></o:p>
Phật bảo: Thế nào ông gọi là có tiếng; còn thế nào thì ông gọi là không tiếng?<o:p></o:p>
Ông A Nan và đại chúng đồng thưa:<o:p></o:p>
Có đánh chuông, tiếng chuông ngân vang thì gọi là có tiếng; giây lâu tiếng hết, âm vang không còn thì gọi là không tiếng.<o:p></o:p>
Phật bảo: ông A Nan và đại chúng: Sao hôm nay các ông nói lộn xộn điên đảo như thế?<o:p></o:p>
Đại chúng và A Nan bạch Phật:<o:p></o:p>
Vì đâu Phật bảo chúng tôi lộn xộn và điên đảo?<o:p></o:p>
Phật dạy: Tôi bảo về cái nghe thì các ông nói là nghe! Tôi hỏi về tiếng thì các ông cũng nói là tiếng! Chỉ có cái nghe và cái tiếng mà các ông trả lời không nhất định, còn không phải điên đảo lộn xộn là gì?<o:p></o:p>
A <st1:place w:st="on">Nan</st1:place>! Biết đó, biết không là do có tiếng hay không có tiếng. Có tiếng thì nghe động, không tiếng là nghe tĩnh, chứ không phải không tiếng, tánh nghe không còn. Nếu tánh nghe không còn, thì lấy cái gì biết là không tiếng?<o:p></o:p>
A <st1:place w:st="on">Nan</st1:place>! Cái tiếng đối với tánh nghe tự có sanh có diệt; nhưng không phải vì sự sanh hay diệt của tiếng mà tánh nghe của ông tùy có tùy không. Ông còn lộn lạo lầm cái tiếng mà cho là cái nghe, thảo nào chẳng mê mờ cái viên thường mà cho là đoạn diệt! Ông không nên lầm tưởng rời các thứ động, tĩnh, tối, sáng, thông, bít… là cái nghe… không còn. Ông nên hiểu rằng: Tánh nghe không những "thường hằng" trong khi thức mà nó "thường hằng" cả trong lúc ông ngủ sau sưa!<o:p></o:p>
Chúng sanh từ vô thỉ đến nay, theo sự lôi cuốn của sắc, thanh, theo vọng niệm mà lưu chuyển, không hồi quang phản chiếu cái bản tánh thanh tịnh diệu thường, bỏ sót mất tánh thường chỉ buông xuôi theo dòng sanh diệt! Do vậy đời đời sống trong tạp nhiễm mà phải luân chuyển khổ đau. Nếu biết rời bỏ những cái sanh diệt, giữ lại tánh chân thường sáng suốt nhiệm mầu thì lục căn, lục trần, lục thức tiêu vọng tại chỗ. Bởi vì trần là cái tướng của vọng tưởng; cấu là vọng tình phân biệt của con người. Xa lìa hai thứ trần cấu thì pháp nhãn của ông tức thì trong sáng; cái nhận thức của ông bấy giờ là nhận thức của con người Vô Thượng Chánh Biến Tri Giác đồng với chư Phật mười phương ba đời vậy.
(Kinh Thủ Lăng Nghiêm - TT Thích Từ Thông , Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương )<o:p></o:p>

Đức Phật đã khai thị cho ông A nan và đại chúng như trên , vì chúng sinh chìm trong chấp ngã , chấp pháp , vì chỗ thấy nhỏ hẹp và vướng mắc của sáu căn.Đức Phật đã nói đến phép tu mở gút sáu căn .Ngài đã lấy ví dụ một chiếc khăn cột lại làm sáu gút , và bảo ông a nan tìm cách dùng chiếc khăn này .Muốn vậy , phải mở hết sáu gút của chiếc khăn.Cũng vậy , người tu cần mở gút sáu căn thì sẽ được sáu căn thanh tịnh.Vì sáu căn của chúng ta chưa thanh tịnh nên cái thấy , cái nghe, cái nếm .cái ngửi ,cái xúc chạm , cái suy nghĩ của chúng ta chỉ là bóng dáng của pháp trần , mà pháp trần thì vô thường , biến chuyển ; do đó các căn dựa vào sự vô thường , chuyển biến của pháp trần , cũng là huyễn có ( có mà không có gì là tự tánh )
Riêng với Nhĩ căn thì nghe Động và nghe Tĩnh là huyễn
Nhưng Tánh Nghe thì thường trú
Đại Bồ Tát đạt được Tánh Nghe là có Nhĩ căn viên thông

DO NHĨ CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG
BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM TRẦN THUẬT PHÁP TU CHỨNG CỦA MÌNH<o:p></o:p>

Khi bấy giờ Bồ Tát Quán Thế Âm đứng dậy cung kính chấp tay thưa: Bạch Thế Tôn! Tôi nhớ hằng hà sa kiếp trước, có Đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm và tôi đã phát Bồ Đề tâm thời ấy. Đức Phật Quán Thế Âm dạy tôi phương pháp nghe, suy nghĩtu để được thể nhập tam ma đề (chánh định).<o:p></o:p>
Bạch Thế Tôn! Trước hết tôi sử dụng tánh nghe: Nghe động và nghe tĩnh, rồi tôi xóa đi ý niệm động tĩnh ấy; từ đó sức tịch tĩnh tăng dần, tôi dứt được năng vănsở văn. Sức tịch tĩnh không dừng ở đó bấy giờ giác tánh tôi lại hiển hiện ra. Tôi tiếp tục tư duy: Dù là giác tánh nhưng tánh "năng giác", "sở giác" hãy còn, tôi bèn xóa đi về ý niệm giác; bấy giờ tâm tánh tôi rỗng rang lặng lẽ như hư không. Tôi lại diệt đi cái giác tri "như hư không" ấy. Cuối cùng tôi diệt cả cái khái niệm "diệt". Khi tôi diệt hết khái niệm vi tế về "diệt sanh, sanh diệt" bỗng dưng tôi nhận thấy toàn thể pháp giới trong mười phương chỉ còn là cảnh giới "bất nhị" tịch diệt hiện tiền. Tâm tánh của tôi viên mãn khắp giáp mười phương vượt hẳn tầm nhận thức thường tình của thế gian, tôi được hai món thù thắng: Một là tâm tôi hợp với bản giác nhiệm mầu của mười phương Như Lai, đồng một từ tâm hướng hạ cứu độ chúng sanh. Hai là hợp với tâm của lục đạo chúng sanh trong mười phương, đồng một bi tâm hướng thượng cầu vô thượng Bồ Đề
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
(TT Thích Từ Thông - Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương -Chương VI)

Đây là nghe thấy tất cả mà như không nghe .Dù có vẻ như không nghe thấy gì , nhưng sự thật là nghe thấy tất cả .Có thể là không nghe bằng tai , mà nghe bằng trí .
Bài này trình bày đại khái , và sơ khai , về chủ đề tánh nghe thường trú đạt được do được viên thông ( VIÊN dung THÔNG đạt , hay VIÊN mãn THÔNG suốt ).
Đến đây kính mời các bạn đạo tự tìm hiểu thêm để thực hành .Hihi
KÍNH CHÀO
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
quantheam.jpg

<BR>
quantheam1.jpg

<BR>Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
<BR><p style="padding-left: 56px;"><B>ÐẠI NGUYỆN QUÁN THẾ ÂM</B>
<P><B>LỜI NGUYỆN</B>
<p style="padding-left: 30px;">Con không xin vào Niết Bàn,
Mà nguyện hướng về địa ngục,
Cầu cho lửa ngục hóa sen vàng.
<BR>Con không xin vào cõi Phật,
Mà nguyện hướng về đao san,
Cầu cho gươm giáo hóa đạo tràng.
<BR>Con không xin vào Tịnh quốc,
Mà nguyện làm chiếc đò ngang,
Ngày đêm chở hết nổi trái oan.
<p style="padding-left: 56px;">Tâm như đại hải,
Tâm như kiều thuyền.
Con nguyền ở lại,
Cõi Ta Bà lửa ngút máu oan khiên,
Trải tình thương lót khắp nẻo ưu phiền.
<BR>Ðịa ngục xuống lên,
Luân hồi qua lại.
Quán kỳ âm thanh con nguyền tự tại,
Xem tiếng kêu mà phiền não độ qua.
Bao giờ địa ngục còn ma,
Muỗi mòng còn khổ, Ta bà còn Quán Âm.
<P><B>DẠO BIỂN KHỔ</B>
<p style="padding-left: 30px;">Quán Thế Âm đâu? Ðâu Quán Thế Âm?
Quán Thế Âm đâu? Ðâu Quán Thế Âm?
Tiếng kêu cứu như trời long đất lở,
Tiếng kêu cứu ngất lên từ vô lượng khổ.
<p style="padding-left: 56px;">Ngất lên từ xiềng gông,
Ngất lên từ vút hổ,
Ngất lên từ hầm chông,
Ngất lên từ biển lửa,
Ngất lên từ mộ không,
Ngất lên từ thịt rữa,
Ngất lên từ lặng câm...
<p style="padding-left: 30px;">Quán Thế Âm đâu? Ðâu Quán Thế Âm?
Chao ôi! Ba cõi ngôi nhà lửa!
Ðâu cũng sát khí đằng đằng,
Ðâu cũng hờn giăng oán bủa,
Ðâu cũng máu xương nhầy nhụa,
Ðâu cũng hiện hình quỷ đói nhe răng,
Ðâu cũng một lòng kêu cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm!
<Br>Và Bồ tát bỗng dưng như mắc vướng,
Giữa tứ khổ tung hoành vây tứ hướng.
Và nghẹn ngào và nức nở lệ rơi,
Và bỗng dưng ngàn mảnh hỡi người ơi!
Ðầu Bồ tát vỡ rồi trong nắng xế.
Ðầu Bồ tát vỡ rồi cho nhân thế,
Trong chiều ngây gió quặn sắc màu rưng.
<P><B>CHẤP ÐẦU</B>
<p style="padding-left: 30px;">Ðức Di Ðà trong một phút thần ngưng,
Gom lại hết về đây trên đất Phật.
Từng ngấn lệ thương, từng niềm đau ngất,
Từng mảnh đầu gió bụi gởi mười phương.</P>
<p style="padding-left: 56px;">Mảnh này treo sườn núi,
Mảnh này chìm đại đương,
Mảnh này rơi động quỷ,
Mảnh này nhói pháp trường,
Mảnh này siêu cát bụi,
Mảnh này lịm phấn hương...
<p style="padding-left: 30px;">Phật vào tam muội gom đầu lại,
Mảnh mảnh vào nhau ghép chữ thương.
Ðôi tay vô ngại, đôi mắt nhập thần,
Phép Phật thần thông, mảnh này mảnh nữa,
<p style="padding-left: 56px;">Mảnh này Công chúa,
Mảnh này thầy Tăng
Mảnh này mặt rằn,
Mảnh này Thánh nữ,
Mảnh này quỷ sứ,
Mảnh này thú cầm,
Mảnh này Quán Âm,
Mảnh này Quán Âm...
<p style="padding-left: 30px;">Mảnh nào cũng mảnh Quán Thế Âm!
Mảnh nào cũng mảnh thương vô lượng!
Mảnh nào cũng mảnh Ðại bi Tâm!
Mảnh nào cũng mảnh tầm thanh cứu đời!
Tung ra thế giới ba ngàn cõi,
Ngàn mắt ngàn tay chiếu một Tâm!
Nam Mô Quán Thế Âm!
<p style="padding-left: 56px;"><B>THẬP NHỊ ÐẠI NGUYỆN</B>
<P><I>- Kính lạy đức Từ bi</I>:
<p style="padding-left: 30px;">Ðạo hiệu Viên Thông phép nhiệm mầu,
Danh xưng Tự Tại đức dầy sâu.
Quán Âm Linh Cảm Như Lai nguyện,
Lời nguyện hoằng thâm tợ biển sâu.
<P><I>- Kính lạy đức Từ bi</I>:
<p style="padding-left: 30px;">Một niệm xin dâng trước Phật đài,
Lòng không quái ngại, ý không sai.
Quán Âm Linh Cảm Như Lai nguyện,
Thường ở biển Nam tiếp độ đời.
Lời nguyện hoằng thâm tợ biển sâu.
<P><I>- Kính lạy đức Từ bi</I>:
<p style="padding-left: 30px;">Ðến cõi Ta bà chẳng quản thân,
U minh thế giới quyết năng gần.
Quán Âm Linh Cảm Như Lai nguyện,
Lóng tiếng xa xăm cứu độ trần.
Lời nguyện hoằng thâm tợ biển sâu.
<P><I>- Kính lạy đức Từ bi</I>:
<p style="padding-left: 30px;">Thâu phục tà ma rất hiển linh,
Diệt đoàn yêu quái phá dân lành.
Quán Âm Linh Cảm Như Lai nguyện,
Nguy hiểm năng trừ độ chúng sanh.
Lời nguyện hoằng thâm tợ biển sâu.
<P><I>- Kính lạy đức Từ bi</I>:
<p style="padding-left: 30px;">Thanh tịnh một bầu ngọc sáng trong,
Nhành dương tươi thắm lá buông thòng.
Quán Âm Linh Cảm Như Lai nguyện,
Cam lộ rưới cho khắp mát lòng.
Lời nguyện hoằng thâm tợ biển sâu.
<P><I>- Kính lạy đức Từ bi</I>:
<p style="padding-left: 30px;">Rộng lớn Từ Bi giữ trọn đường,
Lại cùng Hỷ Xả khắp mười phương.
Quán Âm Linh Cảm Như Lai nguyện,
Bình đẳng thường hành đạo hiển dương.
Lời nguyện hoằng thâm tợ biển sâu.
<P><I>- Kính lạy đức Từ bi</I>:
<p style="padding-left: 30px;">Chẳng quản ngày đêm sức nhọc nhằn,
Lại qua xem xét thảy không ngăn.
Quán Âm Linh Cảm Như Lai nguyện,
Thề diệt ba đường chốn chốn an.
<P>- Kính lạy đức Từ bi:
<p style="padding-left: 30px;">Mắt hướng về Nam vọng núi cao,
Bền lòng lễ bái chí không nao.
Quán Âm Linh Cảm Như Lai nguyện,
Xiềng tỏa mở tung hết trói vào.
Lời nguyện hoằng thâm tợ biển sâu.
<P><I>- Kính lạy đức Từ bi</I>:
<p style="padding-left: 30px;">Bè phép quyết lòng lướt biển khởi,
Tay chèo tay lái dạo cùng nơi.
Quán Âm Linh Cảm Như Lai nguyện,
Vớt cả quần sanh khỏi khổ đời.
Lời nguyện hoằng thâm tợ biển sâu.
<P><I>- Kính lạy đức Từ bi</I>:
<p style="padding-left: 30px;">Rợp bóng tràng phan gió phất phơ,
Tiếp sau bửu cái tợ rừng cờ.
Quán Âm Linh Cảm Như Lai nguyện,
Dẫn đến Tây phương Phật sẵn chờ.
Lời nguyện hoằng thâm tợ biển sâu.
<P><I>- Kính lạy đức Từ bi</I>:
<p style="padding-left: 30px;">Không lượng không cùng sức sống lâu,
Trông về cảnh giới Phật nhiệm mầu.
Quán Âm Linh Cảm Như Lai nguyện,
Xin được Di Ðà thọ ký sau.
Lời nguyện hoằng thâm tợ biển sâu.
<P><I>- Kính lạy đức Từ bi</I>:
<p style="padding-left: 30px;">Trước cảnh trang nghiêm hiện pháp thân,
Dễ chi so sánh được cho cân.
Quán Âm Linh Cảm Như Lai nguyện,
Trọn nguyện mười hai chứng quả phần.
<BR><B>NAM MÔ ĐẠI TỪ, ĐẠI BI, QUẢNG ĐẠI LINH CẢM
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT MA HA TÁT</B></P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>Truyện Tích
<B>QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT</B>
<I>(Avalokiteçavara Bodhisatva)</I>
Tác giả: Minh Đức Cư sĩ Bồ tát giới
An Tiêm xuất bản
Lần thứ nhất tại San Jose - năm 2003
<BR><B>LỜI NÓI ĐẦU</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Thật ra, truyện về Quán Thế Âm Bồ tát thì từ trước đến nay, các giới Phật tử cũng đã biết qua, tuy nhiên trong một vài điểm nào đó, cũng cần phải phát triển thêm cho được rộng rãi và sâu sắc thì mới đạt được ý muốn tìm hiểu của những giới thường quan tâm đến văn hóa, lịch sử và khảo cổ học.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hơn nữa, bên Tây phương (Âu Mỹ), nhiều người có ý muốn tìm một cuốn Truyện Tích của đức Quán Thế Âm Bồ tát để xem cho hiểu rõ, mà cuốn truyện nầy - theo nhiều người gợi ý, - phải có tầm mức khảo sát sâu sắc và rộng rãi, để giải thích thêm những chi tiết cần hiểu, có liên quan đến những lãnh vực nêu trên.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng tôi thường đến nhiều nơi có thiết trí bảo tượng của đức Quán Thế Âm Bồ tát để lễ bái, chiêm ngưỡng, và cũng là những nơi mà mọi người đều hân hoan với một niềm tin kính cẩn tôn nghiêm khi có dịp đến viếng thăm và thấy được những pho bảo tượng đức Quán Thế Âm Bồ tát đứng lộ thiên, hoặc có bảo cái che, hoặc ở trong một ngôi miếu nhỏ, có tường che xung quanh hay để trống, đứng hoặc ngồi sau chùa chính.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Rồi do đó, chúng tôi được gợi ý sưu tầm tài liệu và biên soạn cuốn truyện tích này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lẽ tất nhiên, trong một truyện cổ nào cũng có những chi tiết huyền diệu thần kỳ do truyền thuyết lập nên, nhất là trong địa hạt tôn giáo, muốn ghi lại những sự linh ứng kỳ diệu, người ta hay ghi chép dưới những hình thức thường được cho là phép lạ. Nhưng chuyện cổ tích nào mà không có tính cách ít nhiều thần thoại, huyền bí, dị sử.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tất cả mọi dân tộc trên thế giới đều có những truyện cổ tích thần thoại mà dân chúng họ rất ưa thích, và các dân tộc khác có những nền văn hóa khác nhau cũng rất ham chuộng nữa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và để phát triểm thêm sự trao đổi văn hóa của nước ta cùng các nước khác trên thế giới hiện nay, mà sự phổ biến những truyện tích như truyện đức Quán Thế Âm Bồ tát này rất đáng khích lệ và giúp đỡ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hơn nữa, sau khi chiêm ngưỡng các tôn tượng của đức Quán Thế Âm Bồ tát tại nhiều nơi, mọi người đều khen ngợi nền mỹ thuật tô đắp tượng của Việt Nam, và tất cả đều muốn biết về lịch sử của đức Quán Thế Âm Bồ tát.
*
* *
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xét cho cùng, thần thoại cũng có những lý do đáng lưu ý của nó:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">1. Tuy hoang đường quái dị, nhưng thần thoại đã phản ảnh ít nhiều sự thật của thời đại cổ xưa, thời đại của một xã hội chất phác và ấu trỉ<SUP><B>(*)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">2. Ngoài ra, thần thoại cũng thể hiện ý muốn vươn lên của loài người, sự mong mỏi cầu tiến. Ví dụ:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Mùa màng xong, lúa tự nhiên bò vào nhà (Thần thoại Ba Na).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Chiếc nỏ thần bắn một phát chết hàng vạn người (Truyện Thần Kim Quy).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Một chiếc gậy chữa người chết sống lại (Truyện Tản Viên Sơn Thần).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Một nồi cơm nhỏ hàng vạn người ăn không hết (Truyện Thạch Sanh).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">3. Trong truyện thần thoại, ta còn thấy kẻ hiền lành ăn ở hợp lẽ trời, đại người được thần giúp đỡ (như sự tích Hồ Ba Bể), kẻ ác bị hại dù đó là giống vật (như truyện cọp bị thần núi bắt trói v.v...)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì các truyện như vậy có tính cách tùy duyên biến hóa, dễ khuyên răn cảm hóa người ta hơn là bài học khô khan giáo điều.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">4. Thần thoại trong thời kỳ khuyết sử đã lẫn lộn vào lịch sử, và xuất hiện ở thời kỳ tiền tôn giáo, sửa soạn cho tôn giáo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">5. Thần thoại là sáng tác văn nghệ của người nguyên thủy, cũng là lịch sử được tiểu thuyết hóa, thi vị hóa. Nó phản ảnh trạng thái sinh hoạt vật chất và tinh thần của xã hội thời ấu trỉ sơ khai.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì thế những nhân vật thần thoại tuy được sáng tạo ra trong một giai đoạn lịch sử, nhưng cũng bao hàm tính cách của con người phổ biến, lại biểu hiện cá tánh của con người một cách tượng trưng (trong cuốn <B>Lược Khảo Về Thần Thoại Việt Nam"</B> của Nguyễn Đổng Chi - Nhà Xuất Bản Văn Sử Địa Hà Nội - 1956).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thần thoại có liên quan tới lịch sử, tới văn học nghệ thuật và phong tục tập quán. Do đó mà thần thoại là một kho tàng quý báu của dân tộc (Giáo sư Trần Ngọc Ninh, trong tài liệu của Viện Đại Học Vạn Hạnh dẫn nêu trên).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">6. Còn một lý do rất thực tế nữa là khi đọc những chuyện thần kỳ, dị sử ta có được những giờ phút giải tỏa tinh thần ra khỏi sự ràng buộc của những xao động, rối rắm, phức tạp hàng ngày trong cuộc sống vật chất ồn ào, vô thường, huyên náo, chính nó đã làm cho tinh thần của ta bị vướng mắc, không được thoải mái, thanh thản, an nhiên.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì vậy mà hiện nay, dân chúng khắp nơi, nhất là ở Tây phương, tại các nước có nền công nghịêp phát triển, phần đông mọi người ai cũng cảm thấy thích thú khi đọc các truyện thần tiên, huyền bí, dã sử, vì nhờ đó mà họ có được những giây phút thoải mái, an hòa, thanh thản trong tâm tư.
*
* *
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trở lại với Truyện Tích Quán Thế Âm Bồ tát, chúng tôi muốn nêu lên, ngoài việc phổ biến những sự tích trong kinh điển ra, những điều trình bày thêm các sự kiện và điển tích đã từng được ghi nhớ trong các thời kỳ tiền sử, cổ sử và lịch sử, có liên quan đến những sự thị hiện cứu độ, phù trợ của đức Quán Thế Âm Bồ tát đối với chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề này, cũng như các câu truyện có tính cách truyền thuyết liên quan đến sự linh ứng huyền diệu, nhiệm mầu do đức Quán Thế Âm Bồ tát ứng thân chuyển hóa để làm cho chúng sanh được bớt khổ thêm vui.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do đó mà cuốn Truyện Tích này được chia làm nhiều phần:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>PHẦN DẪN NHẬP</B>: Nói về ý nghĩa của danh hiệu Quán Thế Âm, quan niệm về quả vị Bồ tát trong Phật giáo Đại thừa, và góc độ nhìn về các sự linh ứng huyền diệu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>PHẦN I</B>: Nói về Đại cương, trong đó có nhắc qua sự tượng trưng cho lòng từ bi vô hạn của đức Quán Thế Âm Bồ tát, các danh hiệu của ngài, với lịch sử xa xưa của ngài.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"> <B>PHẦN II</B>: Nói về các sự thị hiện đầu tiên, theo truyền thuyết của Quán Thế Âm Bồ tát tại thế giới Ta Bà.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phần này được chia ra ba thời kỳ: Thời kỳ tiền sử, thời kỳ cổ sử và thời kỳ lịch sử.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong thời kỳ lịch sử, khi nói đến sự thị hiện ứng hóa, cứu độ, chúng tôi thường tập trung vào ba câu chuyện chính sau đây:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">1. Những chuyện Tây Du qua Thiên Trúc (Ấn Độ) của những vị Pháp sư Trung Hoa để chiêm bái, tu học, và thỉnh kinh, nhất là chuyến đi của ngài Huyền Trang.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">2. Chuyện Quan Âm Diệu Thiện.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">3. Chuyện Quan Âm Thị Kính.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>PHẦN III</B>: Ghi lại những sự linh ứng cứu độ, chuyển hóa của đức Quán Thế Âm Bồ tát tại các nơi, mà phần nhiều là ở Trung Hoa và Việt Nam, được kể lại như những chứng minh cho sự thực hành hạnh nguyện từ bi cao cả, sâu xa, rộng lớn, vô lượng vô biên của đức Quán Thế Âm Bồ tát.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>PHẦN KẾT</B>: Nói về những danh thắng lịch sử thờ phượng Quán Thế Âm Bồ tát tại Việt Nam.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong khi trình bày các sự kiện, chúng tôi có tìm cách giải thích thêm các điều thắc mắc và nhưng chi tiết có phần hơi phức tạp, mắc mứu, để làm sáng tỏ thêm những điểm còn nghi ngờ, hoặc góp ý suy luận thêm - nhất là trong phần Chú Thích -, ngõ hầu mở ra những đường hướng tư duy, lý giải làm cho những sự hiểu biết trong những sự kiện ấy được thêm phần phong phú, rộng rãi.
*
* *
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đối với sự cố gắng trình bày này của chúng tôi, mong rằng sau khi sám hối trước Tam Bảo về những sự sai sót bất lực, bất toàn trong khả năng hạn hẹp của chúng tôi, vì trong những hoàn cảnh thiếu những tài liệu sưu tầm về vấn đề này và các thầy bạn chỉ giáo cũng ít, nên chúng tôi mong rằng những điều lầm lẫn, thiếu sót ấy sẽ được quý vị Sư trưởng, các vị học giả cao minh, quý thiện hữu tri thức và các đạo hữu xa gần lượng tình miễn thứ cho.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng tôi sẽ xin ghi nhớ, sự góp ý sau khi xuất bản cuốn Truyện Tích này, với tấm lòng khiêm cung và ý thức thấm nhuần ân đức vô hạn.</I>
<P align="right">Ngày 20 tháng 8 năm 1988
Minh Đức
Cư sĩ Bồ Tát Giới
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(*) <I>Trong tài liệu "Thần Thoại" của Viện Đại học Vạn Hạnh (Phân Khoa Khoa Học Xã Hội - Ban Học Tập Xã Hội IV, niên khóa 1970-1971)</I>
LỜI GIỚI THIỆU

<p style="padding-left: 65px;">Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Đạo hữu Minh Đức, cư sĩ Bồ tát giới, đã có công sưu tầm và viết ra cuốn Truyện Tích Quán Thế Âm Bồ tát này, tôi được biết qua nội dung và nhận thấy từ trước đến nay, nói về Quán Thế Âm Bồ tát thì có cuốn này là tương đối đầy đủ và sâu rộng (dày hơn 900 trang viết tay).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quý đạo hữu đọc qua bảng Mục Lục sau này thì sẽ biết nội dung cuốn sách gồn có những mục gì.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kể ra đó cũng là một nhân duyên may mắn mà đạo hữu Minh Đức đã gặp được những tài liệu khó tìm kiếm và có nhiều điều rất đặc sắc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy tôi hoan hỷ giới thiệu với các vị Tu sĩ cũng như các đạo hữu để quý vị tùy nghi góp phần công đức cho việc ấn hành cuốn sách này được chóng thành tựu.</I>
<p style="padding-left: 65px;">Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát.
<P align="right">Minh Tương Vũ Thế Ngọc
LỜI TRÌNH BÀY

<p style="padding-left: 65px;">Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
<p style="padding-left: 30px;"><I>Kính thưa quý vị Sư Trưởng,
Và các đạo hữu Thiện tri thức,
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cuốn Truyện Tích Quán Thế Âm Bồ tát tôi vừa nghiên cứu vừa viết ra trong gần ba năm, từ đầu năm 1986 đến cuối năm 1988, trước tiên là do ý muốn khảo cứu về mọi mặt huyền sử (tiền sử), cổ sử, lịch sử và các sự huyền diệu có liên quan đến Quán Thế Âm Bồ tát, mà tôi đã từng sùng bái lễ lạy từ lâu, khi tôi mới biết tu học, xem sách về giáo lý đạo Phật (1958).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sau này khi càng sưu tầm nghiên cứu thêm thì do một nhân duyên may mắn (hoặc là được Thiền thần Hộ pháp hỗ trợ), tôi lại gặp được các tài liệu, sách vở nói về Quán Thế Âm Bồ tát các nhiều điển tích lạ, và tìm kiếm thêm các tài liệu viết bằng tiếng nước ngoài (Anh, Pháp) nữa, nên công việc dẫn dắt tôi đi xa thêm, và cuốn Truyện Tích này càng dày thêm đến hơn 900 trang viết tay (giấy tập học trò).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cuốn Truyện Tích này đã được các vị Sư trưởng và Thiện tri thức đọc và nhiều người khuyến khích tôi nên cho ấn hành để phổ biến, vì đây là một tài liệu hiếm có.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì số sách in có hạn nên tôi xin quý vị nào muốn có cuốn sách này thì ghi tên đặt trước để chúng tôi biết số lượng mà cho ấn hành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn về sự hỗ trợ thêm thì xin quý vị hảo tâm tùy hỷ công đức.</I>
<p style="padding-left: 65px;">Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát.
<P align="right">Minh Đức cư sĩ Bồ tát giới
2/5 Canh Ngọ (25-5-1990)</P>
</span></span>
 

suongphale

Registered
Phật tử
Tham gia
14 Thg 12 2011
Bài viết
241
Điểm tương tác
81
Điểm
28
Đạo Hữu Tuấn Tú kính

Cám ơn đạo hữu Tuấn Tú đã nhiệt thành post bổ túc thêm chủ đề này
sương pha lê rất thích thú với những chuyện tích thần thoại lý thú này
Tiếc là bản của thiền sư Nhất Hạnh không có trang bìa mới để đưa hình lên như bản của ĐH TT có .
Thân kính
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER><B>PHẦN DẪN NHẬP</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">1. <B>TÌM HIỂU Ý NGHĨA CỦA DANH HIỆU QUÁN THẾ ÂM</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Danh hiệu Quán Thế Âm của vị Bồ tát hay cứu độ chúng sanh thường được đọc tụng hàng ngày trong các buổi tụng kinh cầu an tại chùa hay tư gia là do ở Phẩm Phổ Môn trong bộ kinh Pháp Hoa (Diệu Pháp Liên Hoa, gồn 7 quyển, 28 phẩm, 60.000 lời) nói cho đủ chữ là <I>"Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn, thứ hai mươi lăm"</I> (trong quyển thứ bảy).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì trong Phẩm Phổ Môn này ta thường đọc thấy Bồ tát Quán Thế Âm thị hiện ra nhiều nơi, dưới nhiều hình tướng (32 ứng thân) để cứu độ và thuyết pháp cho chúng sanh, nên danh hiệu này thường được giải thích như là: Vị Bồ tát <I>"nghe tiếng kêu cầu của thế gian"</I> mà thị hiện lên và tùy phương tiện mà cứu độ chúng sanh trong mọi trường hợp tai ương hoạn nạn (Quán: nghe thấy: Thế: thế gian; Âm: tiếng). Giải thích như vậy không phải là sai nhưng chưa đủ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì ngoài Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa ra, thì còn nhiều kinh khác cũng nhắc đến danh hiệu và sự cứu độ chúng sanh của Quán Thế Âm Bồ tát, và lại còn dẫn thêm cách tu chứng của ngài nữa:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Nói một cách tổng quát, như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm (nói cho đủ chữ là Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhơn Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh), trong quyển sáu, ngài Quán Thế Âm Bồ tát đã có trình bạch lại với Phật phương pháp tu chứng của ngài như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Khi ấy, đức Quán Thế Âm Bồ tát liền dứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, bạch rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Bạch đức Thế Tôn! Tôi nhớ kiếp hằng sa số về trước, có một vị Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm. Tôi nhờ Phật đó phát Bồ Đề tâm. Phật đó có dạy tôi theo nơi Nghe, Nghĩ, Tu<SUP><B>(1)</B></SUP>, để vào nơi chánh định.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ban đầu ở trong cái nghe, vào dòng mất chỗ<SUP><B>(2)</B></SUP>, chỗ vào đã lặng, tướng động, tướng tịnh, hai tướng chẳng sanh<SUP><B>(3)</B></SUP>. Như vậy tiến lần lên thì cái "hay nghe" và cái "chỗ nghe" đều hết<SUP><B>(4</B></SUP>. "Hết nghe" chẳng trụ, thì cái "hay giác" và cái "chỗ giác" đều không. Cái "không giác" rất tròn (rất trọn vẹn) thì cái "hay không" và cái "chỗ không" đều diệt. Sanh diệt đã diệt, cảnh tịch diệt "hiện tiền".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đang khi đoạn hoặc chứng chơn, bỗng nhiên vượt khỏi thế gian và xuất thế gian, chẳng còn bị cái "pháp có" trong tam giới và "pháp không" ngoài tam giới ràng buộc nữa, chỉ thấy mười phương tròn sáng, liền đặng hai món công đức thù thắng: Trên hiệp Tâm bản diệu giác của các Phật trong mười phương, và đồng với Như Lai một Từ lực, dưới hiệp tất cả chúng sanh trong sáu đường và đồng hóa với chúng sanh một lòng "bi ngưỡng"<SUP><B>(5)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bạch Thế Tôn! Bởi tôi cúng dường Thầy tôi là đức Quán Thế Âm Như Lai, nên tôi nhờ Thầy truyền cho tôi pháp "Như Hoạn", "Văn Huân", "Văn Tu"<SUP><B>(6)</B></SUP>, "Kim Cang tam muội"<SUP><B>(7)</B></SUP>. Từ lực của tôi đồng với các Phật Như Lai, nên khiến thân tôi thành đặng ba mươi hai ứng thân để tùy thuận vào các quốc độ cứu khổ chúng sanh<SUP><B>(8)</B></SUP> (Từ trang 373 đến trang 376 - Kinh Thủ Lăng Nghiêm).</I><P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Rồi một đoạn nữa, ngài lại bạch Phật: (trang 394)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>- Nay Phật hỏi viên thông, thì tôi chỉ do một cửa, nơi căn lỗ tai, soi tròn chánh định, nên tùy tâm thị hiện các nơi đều tự tại; thế thì nguyên nhân thiệt do cái tướng "vào dòng" đương lúc ban sơ mới nhập được chỗ chánh định, thành tựu đạo Bồ đề, ấy là bậc nhứt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bạch Thế Tôn! Thầy của tôi là Phật Quán Thế Âm Như Lai, khen tôi khéo đặng cái pháp môn viên thông, nên ở giữa đại hội thọ ký cho tôi hiệu là Quán Thế Âm<SUP><B>(9)</B></SUP>, bởi tôi xem nghe mười phương đều được tròn sáng, nên cái danh hiệu Quán Thế Âm của tôi, khắp cả mười phương thế giới.</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Sau khi đức Quán Thế Âm Bồ tát bạch Phật rồi, Phật bảo ông Văn Thù Sư Lợi Pháp vương tử rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>- Ngươi xem hôm nay những vị Bồ tát lớn và A la hán, hai mươi lăm người vô học<SUP><B>(10)</B></SUP> đều nói môn phương tiện thành đạo trong lúc đầu tiên và tu tập pháp chơn thật viên thông, sự tu hành của mấy người ấy, thật không ai hơn thua, và cũng không sai khác trước sau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bây giờ ta muốn cho A Nan tỏ ngộ, thì trong hai mươi lăm pháp tu hành ấy, pháp nào hợp với căn của A Nan, và sau khi ta nhập diệt rồi, chúng sanh nơi cõi này, muốn vào bực Bồ tát, cầu đạo vô thượng, thì nên dùng môn phương tiện nào, cho dễ được thành tựu?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bồ tát Văn Thù vâng theo lời của Phật bảo, đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, và thừa oai thần của Phật thuyết bốn bài kệ, mà trong bài kệ thứ tư có đoạn nói rõ thêm cho ông A Nan về cách tu chứng của Quán Thế Âm Bồ tát như sau:</I><span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<TABLE BORDER CELLSPACING=2 BORDERCOLOR="#FF0000" CELLPADDING=12 WIDTH=600>
<TD WIDTH=150 HEIGHT=220><P align="justify">1. <I>A Nan ngươi xét nghe
Ta vâng oai lực Phật
Nói ra pháp Kim cang
Như hoạn bất tư nghì
Phật mẫu chơn tam muội
Ngươi nghe Phật vi trần
Thuyết những món bí mật
Dục lậu chẳng sớm trừ
Chứa nghe thành lẫm lỗi
Đem nghe giữ Phật Phật
Sao chẳng tự nghe nghe<SUP><B>(11)</B></SUP>
Nghe chẳng tự nhiên có
Nhơn tiếng mới có tên
Xoay thoát nghe với tiếng
Là thoát khỏi cái nghe
Một căn đã hoàn nguyên
Sáu căn thành giải thoát
Thấy nghe như mù giả
Ba cõi giống hoa không
Nghe hết như dứt mù
Trần tiêu thì giác sạch
Sạch tột sáng thông suốt
Rộng chiếu cả hư không
Trở lại soi thế gian
Cũng như việc trong mộng
Ma Đăng Già tại mộng
Làm sao cầm ngươi được
Thấy mị thuật thế gian
Tạo những hình nam nữ
Tuy thấy thân hình động
Chỉ do máy lôi kéo
Dứt máy lại êm ru
Các mị không thành tánh
Sáu căn cũng như vậy
Gốc nương một tinh minh
Chia thành sáu hòa hiệp
Một chỗ đã thôi rồi
Sáu căn đều vô dụng
Thức tưởng nhớ tiêu hết.</I></TD>
<TD WIDTH=150 HEIGHT=220><P align="justify">2. <I>Giác thể sáng sạch tròn
Dư trần vốn học vị
Sáng tột tức Như Lai
Đại chúng và A Nan
Day ngược máy nghe lại
Trở nghe nghe tự tánh<SUP><B>(12)</B></SUP>
Tánh thành đạo Vô thượng
Viên thông thiệt như vậy
Theo đó, vi trần Phật
Một đường đến Niết Bàn
Các Phật đời quá khứ
Nhờ môn ấy mà thành
Các Bồ tát hiện nay
Những người vào viên minh
Người đời sau tu học
Phải y theo pháp ấy
Ta cũng chứng trong đó
Chẳng những Quán Thế Âm<SUP><B>(13)</B></SUP>
Chính thật Phật Thế Tôn
Tận dụng các phương tiện
Để cứu đời mạt kiếp
Người cầu pháp xuất thế
Thành tựu tâm Niết bàn
Quán Thế Âm trên hết
Còn các phương tiện khác
Đều nhờ oai thần Phật
Trợ việc bỏ trần lao
Chẳng phải pháp thường tu
Cạn sâu đồng nói được
Ta lạy Như Lai Tạng
Vô lậu chẳng nghĩ bàn
Xin gia bị đời sau
Đối môn này không lầm
Phương tiện tất thành tựu
Nên dạy cho A Nan
Cho tới đời mạt kiếp
Chỉ dụng căn tu ấy
Viên thông hơn pháp khác
Tâm chơn thiệt như vậy</I><SUP><B>(14)</B></SUP>.</TD></TABLE>​
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy qua các đoạn trích trên đây của kinh Thủ Lăng Nghiêm, ta rút tỉa ra nhận định như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. Quán Thế Âm cũng chính là danh hiệu của một vị cổ Phật hằng hà sa số kiếp về trước đã từng là Thầy của đức Quán Thế Âm Bồ tát hiện nay<SUP><B>(15)</B></SUP> đã dạy cho ngài theo nơi Nghe, Nghĩ, Tu (Văn, Tư, Tu) mà vào chỗ chánh định.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. Quán Thế Âm cũng là một phương pháp tu hành lấy "phản văn văn tự tánh" để đạt được pháp tam muội "nhĩ căn viên thông".
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. Vì là một phương pháp tu hành nên trong đoạn kệ của ngài Văn Thù Sư Lợi có mấy câu:
<p style="padding-left: 30px;"><I>... Các Phật đời quá khứ
Nhờ môn ấy mà thành
Các Bồ tát hiện nay
Những người vào viên minh
Người đời sau tu học
Phải y theo pháp ấy
Ta cũng chứng trong đó
Chẳng những Quán Thế Âm</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và trong cuốn <B>"Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Việt Giải"</B> của ông Mai Thọ Truyền<SUP><B>(16)</B></SUP> nơi chỗ giải thích về Bồ tát Quán Tự Tại, có đoạn nói như sau (từ trang 34-35):
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Đa số những nhà chú giải Tâm Kinh đều cho "Bồ tát Quán Tự Tại" là Quán Thế Âm Bồ tát. Bảo như thế tôi sợ không đúng lắm, dù rằng tôi công nhận hễ "quán thế âm" được là "quán tự tại" luôn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngài Thích Tịnh Mại đời Đường, trong quyển <B>"Bát Nhã Tâm Kinh Sớ"</B> chủ trương rằng "quán thế âm" là một đức không riêng vị Bồ tát đứng hầu phía tả đức Phật A Di Đà mới có, mà chung cho tất cả các Bồ tát từ sơ địa trở lên. Tôi rất đồng ý với ngài Tịnh Mại về chỗ danh từ "Quán Tự Tại" không phải để riêng chỉ Bồ tát Quán Thế Âm, nhưng tôi không dám quả quyết với ngài rằng hễ vào sơ địa là có cái "đức" hay muốn nói theo lối bây giờ, cái khả năng "quán tự tại". Tôi tin rằng ngoài Bồ tát Quán Thế Âm, còn có nhiều vị Bồ tát khác đã được ngao du trên cái thượng tầng không khí nói lúc nãy, và như vậy, đã cùng "quán tự tại" như nhau, đã cùng có những cái "thấy" như nhau<SUP><B>(17)</B></SUP>".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại trong cuốn <B>"Bát Nhã Tâm Kinh Giảng Giải"</B> của Hòa thượng Thích Thanh Từ (trang 63) có đoạn như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"... Đây có thể nói là ngài (đức Phật) dẫn chứng cho chúng ta thấy rằng chẳng những Bồ tát Quán Tự Tại thật hành sâu trí Bát Nhã Ba La Mật Đa này thôi, mà còn có nhiều vị Bồ tát khác cũng thực hành như thế<SUP><B>(18)</B></SUP>".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Văn, Tư, Tu:
<p style="padding-left: 30px; text-align: justify"><B>Văn</B>: <I>Tức là "Văn huệ", nghĩa là trí huệ của cái "nghe". Cái nghe ấy là gốc của tánh nghe trong căn "lỗ tai", chứ không phải toàn dùng cái thức của tai mà nghe như cái nghe đa văn, và cái nghe như nghe kinh mà rõ nghĩa kìa.</I>
<BR><B>Tư</B>: <I>Tức là "Tư huệ", tức là trí huệ của cái "nghĩ", ấy là gốc cái nghĩ chơn chánh, không cần lưu ý nghĩ tới một chuyện chi cả; chớ không phải cái nghĩ biến thành và cái nghe tà mị.</I>
<BR><B>Tu:</B>: Tức "Tu huệ", nghĩa là trí huệ của cái "tu", cái tu ấy gốc là cái tu chơn chánh, không cần tới sự tạo tác vụ theo hình thức.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(Những giải thích trên đây do nơi chú thích trong cuốn Thủ Lăng Nghiêm Kinh, của Linh Sơn Phật Học Nghiên Cứu Hội in ra năm 1961, do Đại đức Thích Chơn Giám, Hòa thượng chùa Bích Liên dịch từ Hán văn ra Việt ngữ và giải thích với các cộng sự viên là Thích Phước Như, Thích Từ Quang).</I><P style="TEXT-INDENT:42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Ban đầu ở trong cái nghe vào dòng mất chỗ: <I>Câu này đức Quán Thế Âm tự nói vâng theo lời Thầy dạy mà làm công phu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi làm công phu, thì ban sơ do cái nghe một niệm chẳng sanh, hồi quang mà chăm nghe lại cái tự tánh, chớ không thuận theo cái nghe thinh trần ở ngoài, vậy gọi là "vào dòng".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lúc đã vào dòng rồi, thì tất cả thinh trần ở ngoài không còn bị chuyền níu theo nữa, vậy nên gọi "mất chỗ", tức là làm mất được chỗ sở duyên vậy (Thủ Lăng Nghiêm Kinh đã dẫn trên, trang 373).</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Chỗ vào đã đặng, tướng động, tướng tịnh, hai tướng chẳng sanh: <I>Câu này nói đức Quán Thế Âm khi ban sơ làm công phu phản văn "Trở xoay cái nghe vào trong", và tuy đã được vào dòng mất chỗ, nhưng như thế chỉ mới ly được tướng động, chớ cái tướng tịnh hãy còn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đến sau khi chỗ vào đã tĩnh lặng rồi; thì chẳng những cái tướng động chẳng sanh, mà cái tướng tịnh cũng chẳng khởi nữa. Đó là do cái công phu phản văn hết bực thâm thiết, nên hai cái tướng trần đều mất vậy (Thủ Lăng Nghiêm Kinh đã dẫn trên, trang 374).</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Như vậy tiến lần lên, thì cái "hay nghe" và cái "chỗ nghe" đều hết: <I>Khi ngoài đã không chỗ đối, thì căn vì không chỗ đối hóa thành vô dụng nên chẳng thể còn. Như thế tức là cái "văn cơ" (hay nghe) và cái "văn tánh" (chỗ nghe) cả hai đều bị trừ diệt (Như đã dẫn, trang 374).</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) Đồng với chúng sanh một lòng "bi ngưỡng": <I>"Bi" nghĩa là lo buồn, cầu Phật cứu sự khổ; "ngưỡng" nghĩa là trông mong, nhờ Phật ban sự vui.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại ý nói: Chỗ chứng của Quán Thế Âm Bồ tát, tức là chỗ chúng sanh đồng có; nên chứng được cái lý ấy, tức là cùng với chúng sanh đồng dạ ưu phiền. Đã cùng một dạ ưu phiền, lại sẵn có đức "từ độ sanh" của chư Phật nên mới sẵn sàng mà tùy sự, hộ trì cho mọi việc được dễ dàng thành tựu (Như đã dẫn, trang 375).</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) Như hoạn, văn huân, văn tu:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Như hoạn</B>: <I>Nghĩa là như tuồng mỵ, là nói chỗ làm công phu lúc ban sơ, phải mượn lấy ảnh hưởng của hai cái nghe: văn huân và văn tu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Văn huân</B>: Nghĩa là xông cái nghe, chữ "nghe" đây là chỉ cái tánh nghe, thuộc về thể của bản giác, còn "xông" là xông ướp (huân tập), nghĩa như trau dồi, nói bên trong xông cái thể bản giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>Văn tu</B>: Nghĩa là tu cái nghe, chữ "nghe" đây là chỉ cái nghe quay ngược lại cái "có nghe" trở vào trong, thuộc về trí của thể giác. Còn tu là lấy công phu xoay trở lại cái nghe mà tu tới bực viên thông.</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(7) Kim Cang tam muội: <I>Nghĩa là nói do nơi hai cái nghe đó tiến tu mà thành một được tánh đại định bền chắc như kim cang (Như đã dẫn, trang 476).</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(8) Khiến tôi thành đặng ba mươi hai ứng thân để tùy thuận vào các quốc độ cứu khổ chúng sanh: <I>Như trong Phẩm Phổ Môn, kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã nói.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(9) Thọ ký tôi là hiệu Quán Thế Âm: <I>Trong kinh Quán Thế Âm Tam Muội và kinh Đại Bi đều nói: Đức Quán Thế Âm đã thành Phật từ vô số đời quá khứ về trước, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, còn trong kinh Bi Hoa nói: Kiếp xưa Phật Bảo Tạng Như Lai, thọ ký chi một vị Thái Tử Bất Thuấn hiệu là Quán Thế Âm. Thế thì khi đặng viên thông đây, ngài tức là hậu thân của vị Thái tử Bất Thuấn (có nơi gọi là Thái tử Bất Huyến - chú thêm của soạn giả) (Như đã dẫn, trang 394).</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(10) Vô học: <I>Từ quả A la hán trở lên Bồ tát, đã được giải thoát, không còn phải học nữa, nên gọi là vô học.</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(11) Sao chẳng tự nghe (Hán văn là "Hà bất tự văn"): <I>Vì A Nan tuy trải kiếp nghe nhiều, hay nhớ giữ những môn bí mật của chư Phật. Nhưng cứ chuyên chú về mặt đa văn, không chịu tu đạo vô lậu, cho nên dục lậu còn nguyên, chứa nghe thành lỗi, nên mới xảy ra cái nạn Ma Đăng Già mà không đủ nghị lực chống cự.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy thì đem cái vọng văn tùy trực theo thinh trần để giữ lấy Phật pháp của chư Phật, đâu bằng xoay cái diệu trí năng văn trở lại nghe lấy cái tánh nghe của mình (Như đã dẫn, trang 414).</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(12) Trở nghe nghe tự tánh (Hán văn: "Phản văn văn tự tánh"): <I>Hòa thượng Thiền sư Thích Thanh Từ, trong cuốn "Hé Mở Cửa Giải Thoát" (trang 139-140) có giải thích cách tu "Phản văn văn tự tánh" như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Từ trước đến nay các vị đều tu theo cách "Phản văn văn tự tánh" thường hay lắm, mà chính chúng tôi cũng bị lầm. Chúng ta cứ nghĩ nghe lại tánh nghe, thì nghe làm sao? Chúng tôi kinh nghiệm nhiều lần, nếu ngồi nghe lại cái mình hay nghe một lúc sau lỗ tai bắt đầu nhức, có vị nghe trở vô trong, về sau bị ran ngực, thổ huyết thành bệnh... Tu lối phản văn như vậy là một lầm lẫn quá lớn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phản văn nghĩa là gì? Từ trước đến giờ cái nghe của chúng ta theo âm thanh bên ngoài. Vì cái nghe duyên theo âm thanh bên ngoài gọi là tùy lực, tức trôi theo vọng bên ngoài. Nếu chúng ta không trôi theo vọng bên ngoài, mà chỉ nhớ đến tánh nghe, gọi là phản văn, tức nhớ lại tánh nghe.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tánh nghe như thế nào? Và ở đâu? Khi nghe nói lại tánh nghe, chúng ta nghĩ là nghe tại lỗ tai, rồi chúng ta nghe một lúc lâu, lỗ tai bắt đầu nhức. Phải nhớ tánh nghe trùm khắp mười phương, vì tánh nghe trùm khắp mười phương không kẹt ở lỗ tai nên không bị nhức, không sanh bệnh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phản văn văn tự tánh, tức nhớ tánh nghe của mình trùm khắp mười phương, đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng như vậy, cho đến ngồi thiền cũng nhớ như vậy, không nhớ gì khác nữa, tánh nghe không có tướng mạo, vì không có tướng mạo nên nó không bị hạn chế hay ngăn cách. Nó trùm khắp mười phương, chúng ta luôn luôn nhớ thẳng tánh nghe của mình trùm khắp mười phương, gọi đó là tu "Phản văn văn tự tánh".</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(13) Chẳng những Quán Thế Âm: <I>Đại ý đức Văn Thù nói: ngài khuyên A Nan và đại chúng chỉ day trở cái máy nghe lại mà nghe lấy tự tánh; vì chính bởi cái tánh ấy mà thành đạo vô thượng chơn thiệt viên thông. Chính cái món ấy là đường chơn chánh của vi trần Như Lai đi tới Niết bàn. Cho nên phàm những người tu nhơn chứng quả, ai cũng do theo con đường ấy, ta đây cũng từ đó mà vào, chớ không phải một mình Quán Thế Âm Bồ tát mà thôi (Như đã dẫn, trang 418).</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(14) Tâm chơn thiệt như vậy: <I>Đức Văn Thù nói: "Trừ môn nhĩ căn ra, thì các môn khác đều không phải pháp thông thường mà ai ai cũng tu được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như ông Na Luật tối mắt, ông Tất Lăng đạp gai, đều là do oai thần của Phật gia bị, cho nên nhờ đụng đến việc mà bỏ được trần lao. Còn như ngài Phổ Hiền tâm nghe, ngài Phú Lâu Na thuyết pháp, đều do cái thân tâm ở nơi nhiều kiếp, chớ đâu phải người sơ cơ mà vào được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy nên ý ngài Văn Thù chí nguyện đức Như Lai gia bị khiến cho chúng sanh đời sau, cứ do môn ấy mà tu, chớ sanh lòng nghi hoặc, chỉ vì môn ấy hiệp với căn cơ ở phương này nên dễ phần thành tựu. Thiệt cũng nên lấy đó mà dạy cho A Nan, và cứu chúng sanh trầm luân trong đời mạt kiếp, công lực không có chi bằng, cho nên ngài dùng cái tâm chơn thiệt mà chọn lựa như vậy (Như đã dẫn, trang 419).</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(15): <I>Xem chú thích số (1), số (6) và số (9).</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(16): <I>Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Việt Giải của ông Chánh Trí Mai Thọ Truyền (nhà in Hòa Chánh, số 16-18, đường Cống Quỳnh Saigon, năm 1962.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(17) Quán Tự Tại: <I>Tức là ngài Quán Thế Âm Bồ tát. Quán Tự Tại gồm có hai nghĩa:
<p style="padding-left: 30px;">a. Quán tưởng cảnh giới duy tâm mà chứng được quả tự tại.
b. Quán thấu căn cơ của tất cả chúng sanh mà hóa độ một cách tự tại.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sự quán trên là "trí", sự quán dưới là "bi". Gồm cả trí và bi, tức là Quán tự tại (Phật học Tự điển của Đoàn Trung Còn).</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(18): <I>Bát Nhã Tâm Kinh Giảng Giải của Hòa thượng Thích Thanh Từ. Tu viện Chơn Không (Nhà in Hạnh Phúc, 67 Lê Văn Thạnh, Gò Vấp, năm 1974).</I></P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">2. <B>PHÁP THÂN, ỨNG HÓA THÂN, BÁO THÂN VÀ THỂ, TƯỚNG, DỤNG</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phàm trong một pháp nào cũng đều có đủ ba mặt là: Thể, Tướng, Dụng.
<p style="padding-left: 30px;">- <I>Thể</I> là bản thể hay tự thể.
- <I>Tướng</I> là hình tướng hay sắc tướng.
- <I>Dụng</I> là công dụng hay là thiết dụng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lấy ví dụ điển hình là tứ đại chẳng hạn, như:
<p style="padding-left: 30px;">- <B>Nước</B>:
<p style="padding-left: 56px;">* <I>Thể</I> của nó là tánh ướt.
* <I>Tướng</I> của nó là lỏng (nước thường), hay đặc (nước đá) và
* <I>Dụng</I> là nước dùng để uống, rửa hay tắm giặt v.v...
<p style="padding-left: 30px;">- <B>Đất</B>:
<p style="padding-left: 56px;">* <I>Thể</I> của nó là tánh cứng.
* <I>Tướng</I> của nó là đất thường, cát, đá, đất sét v.v... và
* <I>Dụng</I> của nó là đất để đắp, để đúc gạch ngói, đồ gốm (đất sét), cát để xây nhà v.v...
<p style="padding-left: 30px;">- <B>Gió</B>:
<p style="padding-left: 56px;">* <I>Thể</I> của nó là tánh di động.
* <I>Tướng</I> của nó là gió nhẹ, bão, cuồng phong v.v... và
* <I>Dụng</I> của nó là gió để quạt cho mát, sấy khô, thổi bụi v.v...
<p style="padding-left: 30px;">- <B>Lửa</B>:
<p style="padding-left: 56px;">* <I>Thể</I> của nó là tánh nóng.
* <I>Tướng</I> của nó là lửa than hay lửa ngọn, tia lửa sáng v.v... và
* <I>Dụng</I> của nó là lửa để sưởi ấm, để nấu chín, để sấy khô v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn về các pháp cao hơn như Phật và Bồ tát thì thể là Pháp thân, tướng là Báo thân, và dụng là Ứng Hóa thân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong bài cúng dường ngọ trai, ta đọc:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cúng dường:
<p style="padding-left: 30px;">- Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
- Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật.
- Thiên bá Ức hóa thân Thích Ca Mâu Ni Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tuy là đọc ra danh hiệu ba đức Phật, nhưng chính ra là chỉ một đức Phật với ba thân đấy thôi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong kinh Hoa Nghiêm ở bài Lời Nói Đầu, dịch giả Hân Tịnh Tỳ kheo Thích Trí Tịnh có viết:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"... Theo truyền sử trong Đại Tạng, khi thành đạo vô thượng chánh giác, chưa vội rời đạo tràng Bồ đề, đức Thích Ca Mâu Ni với Pháp thân Tỳ Lô Giá Na cùng chư đại Bồ tát chứng giải thoát môn, tuyên thuyết kinh Hoa Nghiêm, và trong chánh văn của bộ kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất, có đoạn kệ như sau:
<p style="padding-left: 30px;"><I>... Tất cả chư Phật một Pháp thân
Chơn như bình đẳng vô phân biệt
Phật dùng sức này thường an trụ.</I>
(Quyển I, trang 145)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Rồi đến những câu kệ về Pháp thân như:
<p style="padding-left: 30px;"><I>Tỳ Lô Giá Na đủ tướng hảo
Ngồi liên hoa tạng sư tử tòa
Tất cả chúng hội đều thanh tịnh
An trụ vắng lặng đều chiêm ngưỡng.</I>
(Trang 242)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là <B>Thể</B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Về viên mãn Báo thân, có những câu kệ như sau:
<p style="padding-left: 30px;"><I>Thuở xưa tu hành nhẫn thanh tịnh
Tín giải chân thật vô phân biệt
Nên sắc tướng Phật đều viên mãn
Phóng quang chiếu sáng khắp mười phương.</I>
(trang 260-261)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là <B>Tướng</B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Rồi đến Thiên bá Ức Hóa thân, có câu kệ như sau:
<p style="padding-left: 30px;"><I>Thuở xưa nhiều kiếp tinh tấn tu
Chuyển được chúng sanh chướng sâu nặng
Nên Phật phân thân khắp mười phương
Dưới cội Bồ đề đều có Phật.</I>
(Trang 261)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là <B>Dụng<SUP>(19)</SUP></B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại nữa, trong cuốn Chuẩn Đề Ngũ Hối Sám Nghi của Đại lão Hòa thượng Huệ Đăng, bổn sư truyền thọ Mật Tông của Thiên Thai tự (1963) có mấy câu xưng tụng Bái Ngũ Phương như sau.
<p style="padding-left: 30px;">- Nam Mô Đông phương Thế giới A Sơ Bệ Phật <I>(xá)</I>
- Nam Mô Nam phương Thế giới Vân Tự Tại Phật <I>(xá)</I>
- Nam Mô Tây phương Thế giới A Di Đà Phật <I>(xá)</I>
- Nam Mô Bắc phương Thế giới Thành Tựu Phật <I>(xá)</I>
- Nam Mô Trung ương Thế giới Tỳ Lô Giá Na Phật <I>(xá)</I>
(Trang 37-38).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo như vậy thì cũng đúng hợp với điều mà Hòa thượng Thích Trí Tịnh nói rằng Pháp thân Thanh Tịnh của Phật Thích Ca Mâu Ni là Tỳ Lô Giá Na Phật<SUP><B>(20)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong cuốn <B>Nhị Khóa Hiệp Giải</B> của Hòa thượng Thích Khánh Anh dịch, có đoạn như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Cõi mà hiện nay chúng ta ở đây là Ta Bà thế giới, nó ở tại trung ương của lớp thứ mười ba, vậy Ta Bà thế giới chính là con số bằng một mảy trần giữa nhiều vi trần của mười ba cõi Phật mà thôi. Cực Lạc thế giới cũng là một trần ở giữa lớp thứ mười ba, mà vị trí Cực Lạc nó cũng ngang bằng với Ta Bà" (Trang 210).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và chúng ta cũng thường nghe xưng tụng:
<p style="padding-left: 30px;">- Nam Mô Trung Thiên giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật, trong các buổi lể tại các chùa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn về sự khác nhau giữa danh hiệu Tỳ Lô Giá Na và Lô Xá Na thì ngài Khánh Anh giải nghĩa như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tiếng Phạn: Vairacana, tiếng Việt đọc là: Tỳ Lô Cha Na.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhơn vì kinh cũ đời Tấn dịch là: Lô Xá Na, kinh mới của đời Đường dịch là Tỳ Lô Cha Na.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch chữ là Biến nhứt thế xứ, nghĩa là: Khắp tất cả chỗ, tức là cứu cánh thanh tịnh Pháp thân.
<p style="padding-left: 30px;">Lại "Cảnh diệu" hiện ra rất cứu cánh, tên là Tỳ Lô Cha Na.
"Trí diệu" đầy đủ rất cứu cánh, tên là Lô Xá Na.
"Hạnh diệu" đầy đủ rất cứu cánh, tên là Thích Ca Mâu Ni.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại Lô Xá Na, dịch là: Quang minh chiếu; Tỳ Lô Cha Na dịch là: Quang minh biến chiếu, vì chữ "Tỳ" dịch là "Biến".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn về Quán Thế Âm Bồ tát thì:
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(a) Pháp thân là đức cổ Phật Chánh Pháp Minh Như Lai.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(b) Ứng Hóa thân là thái tử Bất Huyến, là Chuẩn Đề Vương Bồ tát, là các vị Bồ tát được nêu danh hiệu trong cuốn Sám Hối Ngũ Bách Danh, là Diệu Nhiên Vương Bồ tát, và cả ba mươi hai ứng thân được kể trong Phẩm Phổ Môn (Kinh Pháp Hoa) nữa v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(c) Báo thân là Quan Âm Diệu Thiện, Quan Âm Thị Kính v.v...<SUP><B>(21)</B></SUP>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">3. <B>QUAN NIỆM VỂ QUẢ VỊ BỒ TÁT TRONG PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thường trong các kinh văn của Phật giáo Tiểu thừa (mà hiện nay người ta hay dùng danh từ Nguyên Thủy để xóa đi cái ý niệm Tiểu so sánh với Đại, nó thường được hiểu lầm như thấp kém hơn đối với Đại thừa), người ta ít thấy nhắc đến các vị Bồ tát mà chỉ nghe nói đến Thanh văn, A la hán thôi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy Nguyên thủy và Đại thừa trong Phật giáo có sự khác nhau và giống nhau ra sao?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thật ra, đó là một vấn đề rộng rãi nếu muốn kể cho hết các điểm đồng nhất và dị biệt của hai hệ phái lớn trong Phật giáo: vì vấn đền này vượt ra ngoài phạm vi của cuốn Truyện Tích này, nên ở đây chúng tôi xin đề cập đến quan niệm về quả vị Bồ tát của Phật giáo Đại thừa mà thôi, vì đức Quán Thế Âm Bồ tát là một vị Bồ tát cho nên điều này có liên hệ trực tiếp và mật thiết hơn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong các tài liệu về Phật giáo, Bồ tát là chỉ cho những vị đã có chí nguyện tu thành Phật, nhưng trước khi đắc quả vô thượng Bồ đề, các vị này có những đại nguyện cần được thực hiện trong việc cứu độ các khổ não của chúng sanh. Mà các khổ não của chúng sanh thì vô tận, vô cùng nên các hạnh nguyện của Bồ tát cũng rất đa dạng và rất rộng lớn: <I>"chúng sanh đa bệnh, Bồ tát đa hạnh".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có vị Địa Tạng Bồ tát thì nguyện cứu độ tất cả chúng sanh trong địa ngục cho xong hết thì mới thành Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có vị như Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát thì có mười đại nguyện mà ta thường nghe trong các câu kệ vào cuối các thời kinh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Các vị Bồ tát khác như Đại Trí Văn Thù Sư Lợi và Đại Lực Đại Thế Chí cũng có các hạnh nguyện riêng như mở mang trí huệ và làm tăng trưởng đại hùng đại lực cho chúng sanh v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói chung về Bồ tát thì có hai hạng: Bồ tát xuất gia và Bồ tát tại gia; nhưng hai giới ấy vẫn có những điểm giống nhau như<SUP><B>(21a)</B></SUP>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Phải có lòng từ bi vô lượng đối với tất cả mọi loài chúng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Phải có tinh thần phá chấp: chấp ngã và chấp pháp.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Phải có ý chí đạt đến đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức quả vị Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Phải nguyện độ các chúng sanh được giải thoát và đạt quả vị vô thượng Bồ đề.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cao nhất trong điều này là Bồ tát hoan hỷ mong cầu cho những người khác được chứng ngộ đạo giải thoát trước mình: <I>"như nhứt chúng sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ Nê hoàn"</I><SUP><B>(22)</B></SUP>.
<CENTER><B>*
* *</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngoài ra, về các hạnh nguyện nói chung thì có Lục độ (hay lục Ba la mật) là: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ, và vô số các hạnh nguyện nữa gọi là "vạn hạnh".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng rốt cuộc lại thì cũng để thực hiện bốn điều nguyện rộng rãi bao la (Tứ hoằng thệ nguyện) là:
<p style="padding-left: 30px;"><I>Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bốn hoằng thệ nguyện này được kể theo một thứ tự rất hợp lý:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trước tiên mục đích của các vị tu hành (Bồ tát đạo) là gì nếu không là vì lòng từ bi muốn cứu độ chúng sanh (trong chúng sanh đó có cả bản thân mình nữa, tự độ, độ tha).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng muốn tu hành cho đắc đạo thì phải làm sao? Tức nhiên là phải dẹp bỏ phiền não, mà phiền não trong thế giới này thì vô tận.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi dẹp phiền não thì song song với việc ấy cũng còn phải học vô lượng các pháp môn nữa mới có đủ những tri giác và oai lực để cứu độ chúng sanh, chứ không chỉ có dẹp phiền não không thôi đâu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và mục dích tối hậu là đạt đến được Phật đạo vô thượng, nhưng rồi sau đó cũng trở lại các thế giới mà cứu vô biên các chúng sanh nữa v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Việc thực hiện bốn hoằng thệ nguyện như vậy cứ tiếp tục đi theo nhau như các mắc xích của một vòng dây chuyền không có chỗ hở, không phân biệt đâu là chỗ bắt đầu, và đâu là chỗ cuối cùng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy vị Bồ tát ta đề cập đến trong cuốn Tích Truyện này là Quán Thế Âm Bồ tát, và đại hạnh nguyện của ngài là cứu khổ, cứu nạn cho mọi loài chúng sanh trong mọi thế giới bao la rộng lớn và liên tục trong không gian và thời gian không biết đâu là cùng tận.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">4. <B>GÓC ĐỘ NHÌN VỀ CÁC SỰ LINH ỨNG HUYỀN DIỆU: CẢM VÀ ỨNG</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mỗi lúc nhắc đến Quán Thế Âm Bồ tát, người ta thường kể lại cho nhau nghe, hoặc ghi chép lại để truyền bá các sự linh ứng mầu nhiệm do cầu nguyện và niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát để xin ngài cứu độ qua những tai nạn khổ ách, hoặc phù hộ cho mình được toại nguyện, chẳng hạn như cầu sanh con trai, con gái, cầu cho gia đình yên ổn, con cái khỏe mạnh v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nhưng có những người cầu và niệm Quán Thế Âm Bồ tát trong cơn nguy biến thì được độ và thấy hình bóng Quán Thế Âm Bồ tát thị hiện ra nữa, còn có nhiều người khác thì không được gì cả.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và điều này ta phải hiểu ra sao? Trong nguyên lý của huyền vi, và ngay trong cả thiên nhiên (trời đất, tạo hóa, vật lý v.v...) nữa, có một điều mà ta ít lưu tâm là sự cảm và ứng. Hễ có cảm thì có ứng, mà mức độ cảm phải như thế nào?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu cảm mà không đủ cường lực, không đủ mạnh mẽ, không liên tục thường xuyên thì không có ứng, hoặc rất khó mà ứng được. Cho nên việc đạt được ý nguyện hay không trong sự cầu nguyện Quán Thế Âm Bồ tát cứu độ cũng thế. Chỉ trong những trường hợp mà các người được sự linh ứng đáp lại cầu nguyện của họ, thì họ tự xét sẽ biết lý do vì sao mà thôi, có người lại tưởng là do một sự tình cờ mà họ không biết lý do vì sao nữa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có thể rằng từ xa xưa, trong bao nhiêu năm tháng của cuộc đời hiện tại, hay là trong nhiều kiếp trước, họ đã có nhân duyên với Quán Thế Âm Bồ tát rồi, đã luôn luôn nghĩ nhớ, cung kính, sùng bái, tôn trọng và phát triển lòng từ bi độ lượng của họ như đại nguyện của Quán Thế Âm Bồ tát, nên nay trong lúc lâm nạn, họ nhất tâm cầu nguyện thì liền được đáp ứng: như thế nghĩa là sự cảm ứng ấy dễ dàng được thực hiện hơn là đối với những người khác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn đối với những trường hợp khác thì hoặc là công đức và nghiệp quả chưa bù đắp được cho nhau nên sự linh ứng chưa đến, nghĩa là do nghiệp báo mà phải trả quả thì dù cho các vị linh thiêng nào có nhiều thần thông diệu dụng hơn cả Quán Thế Âm Bồ tát, như Phật chẳng hạn, thì cũng không thể cứu độ được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Điều này ta không thể biết được với trí hiểu biết suy luận phàm phu thế gian của chúng ta, cho nên trong những bộ kinh, ta thường nghe Phật nhắc đến câu <I>"bất khả tư nghì".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Bất khả tư nghì", nghĩa là không thể suy nghĩ, luận bàn, giải thích theo trí thế gian được, mà các điều ấy chỉ có các vị Bồ tát và Phật mới hiểu được thôi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tuy nhiên, không phải vì vậy mà chúng ta không tin tưởng, bởi vì, mặc dù ta không biết được, nhưng có một điều lúc nào cũng có lợi ích và có công đức là ta luôn luôn hướng thiện, lòng ta phải thường xuyên thâm nhập các đức từ bi hỷ xả của Bồ tát Quán Thế Âm, nghĩa là ta tự coi mình như đệ tử của ngài, và ta tu tập theo các điều đại nguyện của ngài, và nhất tâm niệm danh hiệu của ngài để đến một lúc nào đó, ta nhận được sự cảm ứng huyền diệu mà nhiều khi chính ta cũng không biết trước được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cho nên trong các kinh Phật dạy:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Người Phật tử chân chánh luôn luôn đúng thuyết tu hành, và sự cúng dường cao nhất là Pháp cúng dường, tức là <I>"y giáo phụng hành"</I> và các điều ấy ta thường nghe đọc đầu các buổi lễ là <I>"ngũ phần pháp hương"</I>:
<p style="padding-left: 30px;"><I>Giới hương, Định hương dữ Huệ hương
Giải thoát, giải thoát tri kiến hương.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Giới, định, huệ là tam vô lậu học<SUP><B>(23)</B></SUP> mà các vị tu hành nào cũng đều phải noi theo để được giải thoát và giải thoát tri kiến nữa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Rồi hai câu sau:
<p style="padding-left: 30px;"><I>Quang minh vân đài biến pháp giới
Cúng dường thập phương Tam Bảo tiền.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nghĩa là: Đài mây sáng rở của hương "giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến" bay khắp pháp giới để cúng dường mươi phương Tam Bảo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại ý nói người tu sĩ xuất gia chỉ lấy hương "giới hạnh" của mình để cúng dường mười phương Tam Bảo là quý nhất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và những Phật tử nào trong hoàn cảnh đời sống kinh tế còn eo hẹp thiếu thốn cũng theo đó mà cúng dường Tam Bảo bằng sự tu hành "giới hạnh" của mình mà không nên có mặc cảm nào cả.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">5. <B>NHẬN ĐỊNH</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phần Dẫn Nhập này, theo quan niệm thông thường là phần khởi đầu của một vấn đề nào đó, mà đã khởi đầu tức là chỉ có tánh cách sơ lược không có gì là quan trọng, là cốt tủy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nhưng đối với cuốn Truyện Tích Quán Thế Âm Bồ tát này, chúng tôi xem phần Dẫn Nhập này như là căn bản, cốt lõi của một loạt đề mục đi theo sau mà nếu không có phần thiết yếu côt tủy này thì các phần kia không có thế dựa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bởi vì chúng ta phải đặt câu hỏi căn bản là tại sao có sự xuất hiện của Quán Thế Âm Bồ tát và Quán Thế Âm có ý nghĩa là gì? Thế nên phần Dẫn Nhập này gồn có nhiều tiểu mục như ta đã thấy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ý nghĩa của danh từ Quán Thế Âm đã được trình bày dựa theo các tài liệu kinh điển của Đại thừa Phật giáo, bởi vì quan niệm về Bồ tát đạo chỉ được dẫn giải qua các kinh điển Đại thừa, vào thời kỳ thế kỷ thứ II trước công nguyên<SUP><B>(24)</B></SUP>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn về các hình tướng thị hiện của Quán Thế Âm Bồ tát (nói tắt là Quan Âm) thì rất nhiều hình tướng như trong các kinh và tài liệu sẽ dẫn trong các phần sau<SUP><B>(25)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có một điều chúng ta cần lưu ý thêm về góc độ nhìn các sự linh ứng mầu nhiệm: Đây không phải là cố ý giải thích biện minh cho những hiện tượng có tính cách hoang đường, thần thoại mà chỉ là trình bày về lý nhân quả phức tạp, sâu xa, đa dạng và khó hiểu đối với cái trí suy luận phàm phu thế gian của chúng ta.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Không những lý nhân quả mà thôi, mà còn là ý thức nhận xét về các điều khó hiểu trong các kinh Phật dạy nữa. Tại sao? Tại vì có nhiều điều trong kinh chúng ta không thể hiểu được, nhưng không phải vì thế mà không đúng. Vì mức độ hiểu của chúng ta tùy thuộc vào trình độ tu chứng cho nên có nhiều bộ kinh Phật chỉ dạy cho các vị Bồ tát căn cơ đã thuần thục mà thôi, như bộ Kinh Lăng Già chẳng hạn<SUP><B>(26)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong bài tựa của bộ kinh này, có đoạn nhắc rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại sĩ Táo Bá nói:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Kinh này Phật vì hàng Bồ tát căn cơ đã thuần thục, liền nói chủng tử nghiệp thức là Như Lai tàng; khác với Nhị thừa do diệt thức tiến đến không tịch; cũng khác với Bát Nhã bởi Bồ tát quán Không rồi thích cái Không tăng thắng. Đây là chỉ thẳng thức thể bản tánh toàn chơn, liền thành trí dụng, như biển cả kia lặng gió thì cảnh tượng đều hiện bày. Biển tâm chẳng động thì gió cảnh khác. Chỉ người khéo hiểu được tánh chơn, liền nơi thức biến thành trí".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo như vậy thì chúng ta phải học hỏi và tu chứng nữa thì dần dần mới hiểu được một phần nào các lý nghĩa trong các kinh Phật dạy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật biết rất rõ điều đó cho nên ngài thường hay nhắc nhở ta câu <I>"bất khả tư nghì"</I> để chúng ta không còn thắc mắc về những điều khó hiểu nữa mà chỉ có nhất tâm tín thành noi theo những điều Phật dạy mà tu hành để được giác ngộ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(19): <I>Trong cuốn Pháp Bảo Đàn Kinh của Hòa thượng Minh Trực thiền sư dịch giải, nơi trang 151, có đoạn nói:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Các bậc tu hành thành Phật, thì có đủ ba thân và bốn trí, hiệp thành một thể gọi là Chơn Phật ở tâm mình.
<p style="padding-left: 30px;">- Thanh tịnh là Tánh Thể.
- Viên mãn là Tánh tướng.
- Ứng hóa là Tánh Dụng".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn bốn trí là: Thành sở tác trí, Diệu quang sát trí, Bình đẳng tánh trí, Đại Viên Cảnh trí. Trong cuốn "Nẻo Vào Thiền Học" của Thích Nhất Hạnh (Lá bối - 1971, Saigon-Việt Nam, trang 198) có đoạn như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Trong trạng thái giác ngộ, năm thức của cảm giác trở nên Thành sở tác trí, Ý thức trở nên Diệu quan sát trí. Mạt Na trở nên Bình đẳng tánh trí và A lại gia trở nên Đại viên cảnh trí".</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(20) Tỳ Lô Giá Na Phật: <I>Vairocana-Boudha (tiếng Phạn). Cũng gọi là Tỳ Lư Giá Na Phật, Ma Ha Tỳ Lư Giá Na Phật, Lư Xá Na Phật. Dịch nghĩa: Đại Nhật Phật. Một đức Như Lai, hào quang chiếu khắp các nơi như ánh sáng mặt trời. Ngài làm Pháp vương ở cõi Tịnh Độ Liên Hoa Đài Tạng Thế Giới, thường có Văn Thù Bồ tát và Phổ Hiền Bồ tát theo chầu hai bên.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Về Đại Nhựt Như Lai (Mahavairocana, tiếng Phạn), thì theo phái Mật giáo, đức Như Lai này bao gồm và thay thế cho tất cả các đức Phật. Đức Thích Ca Như Lai cũng là một vị Đại Nhựt Như Lai (Phật học Từ điển Đoàn Trung Còn).</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(21): <I>Xin xem các chương sau.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(21a): <I>Bồ tát tại gia và xuất gia có mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh phải tuân theo như trong kinh Phạm Võng thuộc về Luật Tạng có chỉ dẫn.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(22) Như nhứt chúng sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ Nê hoàn: <I>Một câu kệ ở bài kệ đầu chú Lăng Nghiêm, nghĩa là "Nếu có một chúng sanh chưa thành Phật, thì sau cùng tôi cũng chưa vào Niết Bàn".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(23) Tam vô lậu học: <I>Giới, Định, Huệ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tam vô lậu học cốt lấy tâm làm giới, chớ chẳng lấy cảnh, lấy sự. Người tu tam vô lậu học chẳng mong cầu phước báu ở Nhơn gian và ở Thiên thượng (nghĩa là không muốn rớt lại vào Tam giới).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thủ Lăng Nghiêm kinh, trong quyển sáu có nói: Nhiếp tâm là giới, nhân giới sanh định, nhân định phát huệ (Phật học Từ điển Đoàn Trung Còn).</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(24) Trong cuốn "Nẻo Vào Thiền Học" của Thích nhất Hạnh (đã dẫn trên, trang 159) có đoạn nói như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>"Thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch chứng kiến sự xuất hiện của kinh Bát Nhã và hệ thống triết học "Không" như một sự khôi phục tinh thần nguyên thỉ của Phật giáo. Trong những thế kỷ kế tiếp, các kinh Bát Nhã tiếp tục xuất hiện, đồng thời cũn gphát hiện những kinh điển Đại thừa quan trọng như Pháp Hoa. Lăng Già, Niết Bàn, Viên Giác, Duy Ma Cật, Hoa Nghiêm v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những khai phá của các tông phái thuộc Đại Chúng Bộ (Mahasanghika) và Thuyết Xuất Thế Gian Bộ (Pudgalavada? Lokottaravada) đã đóng góp quan trọng trong sự xuất hiện của các tông phái Đại thừa".</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(25): <I>Ngoài các ứng hóa thân dẫn trong các chương sau, thì trong Phật học Từ điển của Đoàn Trung Còn, nơi danh từ Tam Thập Tam Quán Âm, có ghi như sau. Ba mươi ba vị Quan Âm:
  1. Dương Liễu Quan Âm.
  2. Long Đầu Quan Âm.
  3. Trì Kinh Quan Âm.
  4. Viên Quang Quan Âm.
  5. Du Hí Quan Âm.
  6. Bạch Y Quan Âm.
  7. Liên NGọa Quan Âm.
  8. Lũng Kiến Quan Âm.
  9. Thi Lạc Quan Âm.
  10. Ngư Lam Quan Âm.
  11. Đức Vương Quan Âm.
  12. Thủy Nguyệt Quan Âm.
  13. Nhứt Diệp Quan Âm.
  14. Thanh Cảnh Quan Âm.
  15. Oai Đức Quan Âm.
  16. Diên Mạng Quan Âm.
  17. Chúng Bảo Quan Âm.
  18. Nham Hệ Quan Âm.
  19. Năng Tỉnh Quan Âm.
  20. A Nậu Quan Âm.
  21. Vô Úy Quan Âm.
  22. Diệp Y Quan Âm.
  23. Lưu Ly Quan Âm
  24. Đa La Tôn Quan Âm.
  25. Cáp lỵ Quan Âm.
  26. Lục Thời Quan Âm.
  27. Phổ Từ Quan Âm.
  28. Mã Lang Phụ Quan Âm.
  29. Hiệp Chưởng Quan Âm.
  30. Nhứt Như Quan Âm.
  31. Bất Nhị Quan Âm.
  32. Trì Liên Quan Âm.
  33. Sái Thủy Quan Âm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là tượng vẽ 33 vị Quan Âm, theo quan niệm thí dụ để cụ thể hóa hình tướng của Quán Thế Âm Bồ tát so với 32, 33 thân trong kinh Phổ Môn (Phật học Từ điển Đoàn Trung Còn, - đoạn sau là do soạn giả bổ túc thêm).</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(26) Kinh Lăng Gia: <I>"Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh Tâm Ấn" do Sa môn Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra) dịch Phạn-Hán, đời Lưu Tống.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sa môn Hàm Thị, đời thứ 14, dòng Tào Động trụ trì đời thứ ba Bác Sơn Ngôn Lôi Phong Sớ Giải, đời nhà Thanh, Thích Thanh Từ dịch Hán Việt (Tu viện Chơn Không - Nhà Xuất bản Tri Thức - 1975, nhà in Long Giang, số 124-126, Lê Lai, Saigon phát hành 09-3-1975).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong cuốn "Nẻo Vào Thiền Học" của Thích Nhất Hạnh (đã dẫn trên, trang 144), có đoạn nói: "Theo Thần Hội, chính Bồ Đề Đạt Ma là người đầu tiên đã trao truyền kinh Lăng Già cho Huệ Khả".</I></P>
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>PHẦN MỘT
<B>ĐẠI CƯƠNG VỀ SỰ TÍCH QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
<BR>ĐẠI CƯƠNG</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">1. <B>TƯỢNG TRƯNG CHO LÒNG TỪ BI VÔ HẠN</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lòng từ bi thương xót cứu độ các khổ nạn của chúng sanh là đức tính cao cả mà mọi người ai ai cũng ca tụng, tán thán. Trong các hạnh nguyện của một vị Bồ tát, lòng từ bi thường được nhắc đến trước tiên và khi người Phật tử nhắc đến Tứ Vô Lượng Tâm thì bao giờ cũng nói <B>"Từ, Bi, Hỷ, Xả"</B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong mọi loài hữu tình ta cũng thấy nhiều chúng sanh cùng chủng loại với nhau hay khác chủng loại cũng đều có những cá thể mà lòng từ bi được thể hiện ra trong cách đối xử với đồng loại hay dị loại, chẳng hạn người thương người mà cũng phải thương cả loài vật nữa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cũng do lòng từ bi mà một vị Bồ tát phát ra đại nguyện cứu độ tất cả các khổ nạn của chúng sanh, khi gặp trường hợp khẩn thiết nghe tiếng kêu cầu: Vị Bồ tát đã phát ra nguyện lớn về lòng từ bi vô hạn đó là đức Quán Thế Âm Bồ tát.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tất cả mọi người Phật tử trên thế giới này ai ai cũng đều sùng kính, khấn nguyện và trì niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm. Ngoài ra những người chưa biết gì về giáo lý đạo Phật vẫn tỏ lòng kính mộ Bồ tát Quán Thế Âm một cách chân thành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Riêng về dân tộc Việt Nam thì không ai là không biết đến Quán Thế Âm Bồ tát, và thường nhắc đến ngài với danh hiệu: "Phật Bà Quán Âm".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và các ảnh tượng thờ đức Quán Thế Âm Bồ tát trong các chùa, am, tịnh xá, hang động cũng thường được đắp, họa hình dáng phụ nữ để tượng trưng cho ngài.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">2. <B>CÁC DANH HIỆU CỦA QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thật ra, Bồ tát là một danh từ để chỉ những vị phát tâm rộng lớn thực hành các hạnh nguyện để cầu đến giác ngộ cũng như chư Phật, và giáo hóa chúng sanh, tiếng Phạn gọi là Bodhisattva. Riêng về Bồ tát Quán Thế Âm thì gọi là: "BODHISATTVA AVALOKITESVARA".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy tại sao người ta thường vẽ, đắp hình tượng ngài với hình dáng một phụ hiền nữ?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì ngài tượng trưng cho lòng từ bi vô hạn, và lòng thương xót chúng sanh không bờ bến ấy được thể hiện với hình dáng một phụ nữ thì luôn luôn đúng hợp với đức tánh của bà mẹ hiền - vì Quán Thế Âm Bồ tát là bà mẹ hiền cao cả hơn hết trong tất cả các bà mẹ hiền.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Về hình tượng, nơi chốn và tên riêng thì đức Quán Thế Âm Bồ tát có thể thị hiện ra ba mươi hai ứng thân, và nói riêng thì có khi được tôn xưng với danh hiệu:
<p style="padding-left: 30px;">- Bạch Y Quán Thế Âm.
- Bạch Y Đại Sĩ.
- Cao Vương Quán Thế Âm.
- Khai Minh Quán Thế Âm.
- Quang Minh Quán Thế Âm v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">hoặc là:
<p style="padding-left: 30px;">- Quan Âm Phổ Đà Sơn.
- Quan Âm Ngũ Hành Sơn v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">hoặc là:
<p style="padding-left: 30px;">- Quan Âm Diệu Thiện.
- Quan Âm Thị Kính.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">hoặc là: Quán Tự Tại Bồ tát v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng nói chung là với danh xưng Quán Thế Âm, ta có thể hiểu như trong kinh Pháp Hoa (Phẩm Phổ Môn) đã giải thích:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>"Nếu có vô lượng trăm nghìn ức chúng sanh bị các khổ não, nghe danh hiệu của vị Bồ tát này, nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bồ tát, tức thì Bồ tát nghe tiếng kêu cầu rồi làm cho tất cả đều được giải thoát. Vì thế nên gọi là Quán Thế Âm".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xin trích một đoạn trong sách Phổ Môn Giảng Lục của ngài Bảo Tịnh Pháp sư (do Thích Trí Nghiêm dịch) để giải thích các điều trên: "Quan Âm thị hiện ba mươi hai ứng thân vì đối với cơ nghi nên: hoặc hiện thân nam hoặc hiện thân nữ, do đó mà người đời bảo Quan Âm là nữ nhân, kỳ thật chẳng phải vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trên núi Ngũ Đài<SUP><B>(1)</B></SUP>, có đắp tượng Quan Âm bằng một tướng thầy Tỳ kheo. Đức Quán Thế Âm có nhiều thị hiện: như tay xách giỏ cá, bồng con nít, mặc áo trắng, ngàn tay ngàn mắt, chân đạp rùa cá v.v... tuy đều là nữ nhân, nhưng vì cứu độ một hạng nữ nhân nào đó nên phải thị hiện đó thôi, chờ kỳ thật đồng là một bản thể Quan Âm vậy" (PMGL).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">3. <B>LỊCH SỬ XA XƯA CỦA ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thời gian đối với Phật giáo là vô thủy vô chung, và không gian là cõi hư không vô cùng vô tận, và vô số vô lượng các thế giới, cho nên một vị Bồ tát đã thành Phật từ vô lượng a tăng kỳ kiếp trước kia vẫn có thể trở lại ứng thân hay hóa thân vào trong nhiều thế giới để thực hiện các hạnh nguyện của mình. Đó là trường hợp của đức Quán Thế Âm Bồ tát hay thị hiện vào thế giới Ta Bà để cứu khổ, cứu nạn cho tất cả chúng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Trong Kinh Dược Sư có nói tám vị đại Bồ tát, trong đó có Quán Thế Âm Bồ tát sẽ đưa đường chỉ lối cho người nào thường niệm danh hiệu đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai mà sắp mạng chung, để họ được vãng sanh trong những hoa báu đủ màu.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Trong kinh Địa Tạng Bồ tát Bổn nguyện, có đoạn đức Phật Thích Ca bảo với Quán Thế Âm Bồ tát rằng: <I>"Ông có nhân duyên rất lớn với chúng sanh trong cõi Ta Bà. Những hàng trời, rồng, hoặc nam tử, nữ nhơn, hoặc quỷ thần cho đến chúng sanh mắc phải tội khổ trong sáu đường, nếu kẻ nào nghe danh hiệu của ông, thấy hình tượng của ông, hay mến tưởng đến ông, cùng khen ngợi ông. Thời những chúng sanh ấy đều ở nơi đạo vô thượng chánh giác, quyết chẳng còn thối chuyển, thường được sanh vào cõi người, cõi trời, hưởng đủ sự vui vi diệu, khi nhân quả sắp thành thục liền được Phật thọ ký cho"</I> (Kinh Địa Tạng, Phẩm thứ 12).
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Còn trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa toàn bộ bảy tập, tất cả là hai mươi tám phẩm, thì có một phẩm riêng gọi là Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn Phẩm (Phẩm thứ 25) nói riêng về Quán Thế Âm Bồ tát với sự thị hiện tùy duyên ba mươi hai ứng thân như đã nói trên.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Quán Thế Âm Bồ tát cứu vớt tất cả mọi khổ não tai ương hoạn nạn, và ngài cũng hiện thân trong nhiều cõi nước để thực hành hạnh nguyện của ngài.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quán Thế Âm Bồ tát cũng có bổn môn và tích môn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Về bổn môn thì từ vô lượng a tăng kỳ kiếp về trước, vị Bồ tát này đã thành Phật rồi, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. <B>Đó là bổn môn</B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn về tích môn thì ngài đã thành Phật rồi mà vẫn còn thị hiện lại thân Bồ tát nữa, do vì nguyện lực đại từ đại bi của ngài muốn ứng hiện để cứu khổ nạn cho tất cả chúng sanh. Đó là <B>tích môn</B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong đoạn giải thích vể Bổn Tích, ngài Bảo Tịnh Pháp sư cũng đã có nói rằng: "Quán Thế Âm Bồ tát đáo xứ ứng hiện giáo hóa các loại chúng sanh, rõ ràng như trăng trên trời ánh hiện dưới nước ngàn sông mà thành mặt trăng ngàn sông. Trăng trên trời là Bổn môn Pháp thân. Trăng dưới nước là Tích môn Ứng Hóa. Cho nên Quán Âm là bổn, Phổ môn thị hiện là tích. (Phổ Môn Giảng Lục).
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. <B>Chánh Pháp Minh Như Lai và chú Đại Bi</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(a) Trong Đại Tạng kinh có nói rằng thuở Phật còn tại thế, một hôm đức Thế Tôn đang ngự trị trên núi Bồ Đà Lạc Ca, có vô số đại chúng nhân thiên đi theo. Lúc ấy đức Quán Thế Âm phóng ra một đạo hào quang rực rỡ chiếu khắp mười phương và đến chắp tay bạch Phật rằng, ngài có thần chú Đại Bi Tâm Đà La Ni, nay muốn nói ra để được lợi lạc cho tất cả chúng sanh, vì thàn chú này có năng lực tiêu trừ bệnh hoạn, tăng phước diên thọ, dứt hết tội chướng, và cầu điều gì đều được ứng cả. Đức Phật hoan hỷ hứa khả cho.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(b) Trong kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni có nói: "Vô lượng kiếp về trước, thuở đức Phật ra đời hiệu là Thiên Vương Quang Tịnh Trụ Như Lai, vì Quán Thế Âm Bồ tát mà thuyết chú Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni<SUP><B>(2)</B></SUP>, được nghe qua ngài từ bậc sơ địa Bồ tát được chứng lên bậc Bát địa Bồ tát, tức thời ngài phát nguyện rằng: Sau này ngài có thể cảm thông và cứu độ tất cả chúng sanh, nếu đại nguyện đó được thành tựu thì cho thân thể ngài biến thành ngàn tay, ngàn mắt, ở mỗi lòng bàn tay huyền diệu có có mắt tinh tường, nguyện xong đều được ứng hiện".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ý nghĩa của ngàn tay, ngàn mắt rất là tinh tế thâm trầm, vì cánh tay là tượng trưng cho hành động dắt dìu, hướng dẫn, che chở, nâng đỡ và phục vụ, còn con mắt là biểu thị cho lương tri hiểu biết, xét suy, quan tâm, quán sát. Vậy là hành động và lương tri hiểu biết phải đi đôi với nhau. Nếu hành động mà không có sự hiểu biết sáng suốt thì dễ sai lầm, có hậu quả tai hại cho mình và cho người khác. Còn nếu có lương tri hiểu biết mà không có hành động thì không đem lại lợi ích thiết thực cho ai cả. Cả hai biểu tượng tay và mắt là ý nghĩa về đại từ bi, trí tuệ của mọi người Phật tử sáng suốt và hoạt động.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(c) Trong kinh Quán Âm Tam Muội cũng nói: Xưa kia Quán Thế Âm Bồ tát đã là một vị cổ Phật hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai. Phật Thích Ca đã từng ở dưới pháp tòa, sung vào trong chúng đệ tử khổ hạnh để mà gần gũi. Ngày nay đức Thích Ca thị hiện thành Phật thì Quán Thế Âm Bồ tát trở lại làm đệ tử để mà gần gũi lại. Sở dĩ như vậy là vì khi có một vị Phật ra đời thì sẽ có một ngàn vị Phật phò trì.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(d) Trong Kinh Lăng Nghiêm (Quyển sáu), đức Quán Thế Âm Bồ tát cũng bạch với đức Thích Ca Mâu Ni Phật, có cả đại chúng các vị đại Bồ tát về phương pháp tu hành của ngài lúc ngài còn là đệ tử của đức cổ Phật Quán Thế Âm Như Lai, từ vô số kiếp về trước. Đức Phật ấy đã dạy cho Quán Thế Âm Bồ tát từ nơi nhĩ căn mà bắt đầu tu, rồi do nghe, suy nghĩ và tu hành thời sẽ vào được chánh định. Ban đầu thì ở tánh nghe rồi sau vào dòng mà quên nơi chốn (Phổ Môn Giảng Lục).
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. <B>Đức Phật Bảo Tạng và Thái tử Bất Huyến</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh Bi Hoa nói rằng: Từ vô lượng kiếp trong quá khứ xa xưa, Quán Thế Âm là một vị Thái tử tên là Bất Huyến, con cả của vua Vô Tránh Niệm. Thời ấy có đức Phật ra đời tên là Bảo Tạng Như Lai. Vua Vô Tránh Niệm rất sùng bái đạo Phật. Một thời kỳ nọ, vua sắm đủ lễ vật quý báu để dâng cúng Phật và chư Tăng trong ba tháng. Vua cũng khuyến khích các quần thần văn võ, và các vị trong hoàng gia: vương tử, vương tôn và quyến thuộc trong triều đình theo vua đẻ cúng dường.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thái tử Bất Huyến cũng sắm sửa đủ các trân cam mỹ vị và hết lòng thành kính cúng dường, cung phụng đức Phật và chư Tăng trong ba tháng như vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong khi cúng dường, Thái tử Bất Huyến, đối trước mặt Phật và đại chúng mà phát nguyện rằng: "Nhờ công đức cúng dường này và các điều thiện căn con đã từng tu tập từ trước mà hồi hướng đạo vô thượng Bồ đề. Con nguyện xin trong khi tu đạo tự lợi lợi tha, nếu nghe chúng sanh nào mắc vào sự khốn khổ, hiểm nguy, trong hoàn cảnh éo le vô vọng, không thể tự cứu được, không nơi nương nhờ, mà niệm đến danh hiệu của con, con liền đủ sức thần thông để đến cứu độ ngay. Nếu lời nguyện này không thành, con thề không chứng quả Bồ đề. Con xin phát nguyện tu đạo Bồ tát cho đến cùng tận đời vị lai, trải qua vô số kiếp khi phụ vương con là vua Vô Tránh Niệm được thành Phật hiệu là A Di Đà Như Lai ở thế giới Cực Lạc, thì con sẽ làm thị giả hầu hạ ngài cho đến khi ngài diệt độ nhập Niết Bàn thì con liền chứng quả Bồ đề. Xin đức Thế Tôn từ bi thọ lý cho con và mười phương chư Phật ở hằng hà sa thế giới đều thọ ký cho con như vậy nữa".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thái tử bạch Phật, rồi cúi đầu đảnh lễ đức Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tức thì các thế giới tự nhiên rung động vang rền, phát ra các tiếng hòa nhã êm dịu như âm nhạc, ai nghe cũng được vui vẻ, các điều đục vọng bỗng nhiên tiêu tan. Tiếp theo đó, đức Bảo Tạng Như Lai và các vị Phật ở mười phương thọ ký cho đức Quán Thế Âm Bồ tát rằng: "Trong thời kiếp Thiên trụ ở thế giới Tân Đề Lam có Thái tử Bất Huyến, con vua Vô Tránh Niệm phát tâm cúng dường Phật và chư Tăng trong ba tháng. Nhờ công đức ấy, trải qua vô số kiếp về sau, Thái tử sẽ thành Phật hiệu là: Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sơn Vương Như Lai, ở về thế giới Trân Bảo Sở Thành Tựu".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại trong một đoạn khác cũng ở trong cuốn Phổ Môn Giảng Lục có nói rằng: "A Di Đà Phật là vị giáo chủ Tây phương Cực Lạc thế giới tương lai khi truyền thừa lại thì Quán Thế Âm Bồ tát sẽ thay thế. Đức Phật mới đó hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy thì Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật cũng là Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sơn Vương Như Lai. Kỳ thật là Quán Thế Âm Bồ tát ở kiếp lâu xa về trước đã sớm thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai mà nay thị hiện lại thành Quán Thế Âm Bồ tát vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hiện nay, Quán Thế Âm Bồ tát đã chứng được bực Đẳng Giác Bồ tát ở cõi Cực Lạc, làm nhiếp sĩ của đức Phật A Di Đà hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương sanh về cõi ấy<SUP><B>(3)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. <B>Nhận định</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hai sự tích trên (mục a. và b.) đều thuộc về quá khứ xa xưa từ vô lượng kiếp về trước đã được dẫn trong các kinh Đại thừa như đã nêu trên.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tuy nhiên xét về tích Chánh Pháp Minh Như Lai là vị cổ Phật mà đức Quán Thế Âm Bồ tát đã chứng được quả vị với danh hiệu đó ở thời kỳ trước hơn là Bất Huyến thái tử đã phát đại nguyện tu hành để thành Phật với danh hiệu là Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sơn Vương Như Lai, cũng có danh hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật, cứ như trong tích này thì hiện nay đức Quán Thế Âm Bồ tát vẫn còn làm thị giả cạnh đức Phật A Di Đà ở thế giới Tây phương Cực Lạc, và chỉ khi nào đức Phật A Di Đà diệt độ nhập Niết Bàn thì đức Quán Thế Âm mới chứng quả Bồ đề.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Điều nhận định này là để cho ai có ý muốn tìm hiểu, có thể dựa vào một căn bản suy luận về thời gian, mà giải tỏa thắc mắc giữa hai tích ấy, và cũng phù hợp với đoạn nói về Thái tử Bất Huyến đã nêu trên đây.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">d. <B>Chuẩn Đề Vương Bồ tát</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn Chuẩn Đề Vương Bồ tát theo các tài liệu trong kinh sách Phật giáo thì vị Bồ tát này cũng là hiện thân của đức Quán Thế Âm, ứng hiện với ba mắt và mười tám tay<SUP><B>(4)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cư sĩ Nguyễn Văn Ta có kể lại chuyện của cư sĩ Thiện Huệ được linh ứng nhờ niệm Đại Bi mật chú mà được đức Chuẩn Đề Vương Bồ tát ứng nghiệm dạy cho một bài kệ (tám câu) mà bốn câu đầu như sau:
<p style="padding-left: 30px;"><I>Đại Bi mật chú Chuẩn Đề Vương
Nhơn niệm cảm thông, Phật độ đường
Nghiệp chướng lâu đời lần dứt sạch
Oan khiên nhiều kiếp chẳng còn vương.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như trên kia đã nói Đại Bi mật chú chính là đức Quán Thế Âm Bồ tát đã đọc cho đại chúng nghe lúc đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế, đang ngự trên núi Bồ Đà Lạc Ca<SUP><B>(5)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Các Phật tử cũng thương hay xưng niệm danh hiệu của đức Chuẩn Đề Vương là: "Nam Mô Đại Thánh Chuẩn Đề Vương Bồ Tát". Chuẩn Đề Vương cũng thường được xưng tụng là Phật Mẫu Chuẩn Đề, và các vị tu hành cũng niệm chú Chuẩn Đề để cầu giải tai tiêu nạn và cầu chứng đắc quả vị tu hành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đây là phép tu của Phật giáo Chơn Ngôn tông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chơn Ngôn tông Đà la ni này, ngài Đại Nhựt Như Lai đã nói và lấy tối thượng thừa làm giáo tướng. Đức Đại Nhựt Như Lai là Bổn tôn của Mật giáo và còn được tôn xưng theo tiếng Phạn là "Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Phật".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nguyên khi đức Thích Ca Mâu Ni ở nước Xá Vệ, tại vườn Kỳ Đà, có đủ tứ chúng và chư đại Bồ tát nhiễu quanh bên Phật, Phật mới nghĩ thương chúng sanh nơi đời vị lai, ác căn sâu kết, nghiệp chướng dẫy đầy, tham sân tràn ngập, phiền não buộc ràng, lại thêm mạng căn ngắn ngủi, làm sao tu học cho chóng thành Phật quả, nên ngài nhập định Chuẩn Đề Tam Muội mà thuyết ra chú Chuẩn Đề Đà la ni, là một thần chú của bảy trăm ức Phật đời quá khứ đã nói. Phật lại bảo: <I>"Người nào thọ trì đọc tụng chú này đủ 900 vạn biến thì tiêu sạch tôi ngũ nghịch, thập ác, tứ trọng và tất cả các tội v.v... cho chí những người tại gia, không cứ chỗ tịnh hay uế, hễ dốc một lòng thành kính mà tụng y số như trên, thì được tăng phước, tăng thọ, cùng tiêu trừ tật bệnh, giải kết oan khiên, tai ách là khác nữa"</I> (Trích cuốn Chuẩn Đề Ngũ Hối Sám Nghi, Thiên Thai tự, Đại lão Hòa thượng Huệ Đăng, Bổn sư truyền thọ Mật Tông - năm 1963).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Về việc Quán Thế Âm Bồ tát thường ứng hiện ra nhiều thân, ngài Bảo Tịnh Pháp sư cũng có nói như sau: "Sở dĩ ba mươi hai loại ứng hóa thân đều là để thành tựu chúng sanh, không phân biệt kẻ dở người giỏi, kẻ ngu người trí, kẻ hiền người bất tiếu gì cả, thảy đều hiện độ, cũng như chúng ta thường lập đàn chẩn tế là nguyên do Quán Thế Âm Bồ tát hóa hiện là loài quỷ đói tên là Diện Nhiên Đại Sĩ Diệm Khẩu Quỷ Vương. Trong miệng các quỷ này lửa thường rực cháy, chút nước chẳng uống vào được, đói khát đau khổ vô cùng. Khiến ngài A Nan thấy vậy động lòng thương xót và thưa với Phật. Phật liền dạy cho chú pháp cúng thí ngạ quỷ Diệm Khẩu. Cho nên phải biết rằng Quán Thế Âm Bồ tát là nơi nào cũng thành tựu, nơi nào cũng giáo hóa. Cho nên gọi là thành tựu chúng sanh Phổ Môn (Phổ Môn Giảng Lục).
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">e. <B>Ứng hóa hiện nhiều thời, nhiều nơi</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ta nhận thấy trong các tích này sự ứng hóa hiện của Quán Thế Âm Bồ tát đã diễn biến vào nhiều thời kỳ và nhiều nơi chốn, các danh hiệu cũng khác nhau, điều đó cũng không lấy gì làm lạ, vì như ta đã biết mọi pháp trên thế gian và vũ trụ này đều trải qua bốn thời kỳ, đó là: Thành, Trụ, Hoại, Không, và bốn thời kỳ này vẫn cứ vòng xoay nối tiếp với nhau vô cùng tận. Sau chu kỳ này sẽ trở lại một chu kỳ thành, trụ, hoại, không khác nữa, và cứ như thế mà tiếp diễn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy thì các đức Phật và Bồ tát cũng có thể nối tiếp thị hiện ra trong nhiều kiếp và nhiều nơi để giáo hóa và cứu độ các chúng sanh, mà chúng sanh thì cũng có người được độ khi nhân duyên đã đến vì có tu hành, còn đa số thì phải quanh quẩn trong luân hồi lục đạo cho đến lúc nào phá hết vòng vô minh lẩn quẩn thì mới được giải thoát khỏi chốn "tam giới hỏa trạch" như trong kinh thường nói "ba cõi như nhà lửa" vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Điều này xét ra cũng ứng hợp với lời của đức Phật dạy trong kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới: "Vô lượng thế giới dường như lỗ lưới. Mỗi thế giới đều khác nhau cả, khác nhau đến số lượng - Giáo pháp của Phật cũng như vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật đã tám nghìn lần đến thế giới Ta Bà này, ngự trên Bửu Tòa Kim Cương Hoa Quang nhẫn đến ngự nơi cung Đại Tự Tại Thiên Vương, lược giải <I>"Tâm Địa Pháp Môn"</I> cho cả thảy chúng sanh trong pháp hội ấy".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cũng như trong kinh Pháp Hoa (Phẩm Như Lai Thọ Ký, thứ 16) đức Phật cũng đã dạy rằng: <I>"Các ông lóng nghe! Sức bí mật thần thông của Như Lai, tất cả trong đời Trời, Người và A tu la đều cho rằng nay đức Thích Ca Mâu Ni Phật ra khỏi cung Thích, cách thành Già Da chẳng bao xa, ngồi nơi đạo tràng, đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác, Nhưng thiện nam tử! Thiệt Ta thành Phật nhẫn lại đây, đã vô lượng vô biên trăm nghìn na do tha kiếp..."</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Rồi cũng trong một đoạn sau, ngài lại dạy rằng: <I>"Từ đó nhẫn lại, Ta thường ở cõi Ta Bà này, nói pháp giáo hóa, cũng ở trong trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi nước khác, dắt dẫn lợi ích chúng sanh"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy thì sự ứng hiện của đức Quán Thế Âm Bồ Tát trong nhiều thời kỳ và tại nhiều nơi chốn cũng có thể quan niệm được theo ý nghĩa trên đây.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Núi Ngũ Đài: <I>Thuộc rặng Chung Nam, tỉnh Hồ Bắc, Trung Hoa (theo cuốn Xuất Gia Công Đức của Minh Lễ, ấn quán Đại Học Vạn Hạnh, 222 Trương Minh Giảng - Saigon, P.L. 2512, 1968)</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Chú Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni: <I>Chú này cũng có tên là Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La ni, thường hay đọc tụng trước khi tụng các kinh khác (gọi tắt là chú Đại Bi) và đức Quán Thế Âm Bồ tát cũng thường được tôn xưng là đức Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hiện tại Viện Bảo tàng Thảo Cầm Viên T.P. HCM., có một pho tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, được thiết trí ở phòng trưng bày các tài liệu lịch sử về thời Lê (Thế kỷ XV-XVII) ở bên trái tòa nhà Viện Bảo Tàng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phía trước tượng người ta có để một cái bảng nhỏ ghi:
<p style="padding-left: 30px;">"PHẬT BÀ QUAN ÂM
NGHÌN TAY NGHÌN MẮT
Chùa Bút Tháp - Thuận Thành - Hà Bắc
Nguyên bản bức tượng bàng gỗ sơn son thếp vàng. Được tạc vào năm Bính Thân (1656).
Tượng phục chế bằng thạch cao"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Toàn thể pho tượng cao chừng bốn mét (kể cả bệ) màu vàng nhạt, bệ có hai tầng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lớp bệ trên có đầu Long Vương lớn nổi lên trên nước, ngậm hạt châu, hai tay đưa quá mặt nước đỡ tầng hoa sen và trên hoa sen có tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn ngồi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phía sau pho tượng là nền tròn có đường kính độ hai mét, có nghìn tay nghìn mắt đưa tỏa xung quanh.</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3): <I>Phỏng theo cuốn Sự tích của các đức Phật, Bồ tát và các vị Tổ sư của Tạp chí Từ Bi Âm, và cuốn Phẩm Phổ Môn của Thích Viên Giác - chùa Giác Hải - Nha Trang.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4): <I>Trong sách Phật Độ Đời, ấn quán Phan Thanh Giản, 21 Võ Tánh - Saigon, phát hành in lần thứ hai, 1962 do cư sĩ Nguyễn Văn Ta, pháp danh Hồng Thiện Thọ biên soạn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong cuốn Nhị Khóa Hiệp Giải của ngài Quán Nguyệt Pháp sư chú giải (Hòa thượng Thích Khánh Anh dịch) đoạn nói về chú Chuẩn Đề có ghi chú như sau: Thất Cu Chi Phật Mẫu là tên riêng của đức Chuẩn Đề Quan Âm, là một trong bảy vị thờ nơi viện Đệ Nhị Phật Mẫu, cũng là vị thứ sáu trong tám vị Đại Quan Âm hiệu là Tỳ Cu Chi Quan Âm. Có chỗ gọi là Thiện Nhơn Trượng Phu Quan Âm, tỏ rằng một vị lẫn giữa nhân đạo mà hay biến hóa. Bên Thiền tông thờ Chuẩn Đề làm một vị trong Bộ Quan Âm. Bên Nhật Bổn, phái Đông Mật thờ Chuẩn Đề làm một vị giữa sáu đức Quan Âm, thâu về Bộ Liên Hoa. Phái Thiên Mật thờ Thất Cu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề vào hàng Phật Mẫu nơi Phật Bộ, tượng ngài ba mắt, mười tám tay.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại nữa trong kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm, ta đọc rất nhiều danh hiệu của Quán Thế Âm từ Nam Mô Như Ý Châu Thủ đến Nam Mô Bồ Đào Chủ, và còn một danh hiệu nữa là Nam Mô Cụ Tứ Thập Nhị Tý, nghĩa là không những thấy Quán Thế Âm Bồ tát hiện ra mười tám tay, mà còn hóa hiện ra thân hình có đến 40, 42 tay nữa. Ngoài ra ta cũng đã biết có ngài Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn nữa.</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5): <I>Về các truyện tích nhắc lại sự thị hiện của Quán Thế Âm Bồ tát dưới hình tướng đức Chuẩn Đề Vương Bồ tát, xin xem đoạn sau kể lại các câu chuyện trong Phong Thần nói về giai đoạn chuyển tiếp của lịch sử Trung Hoa, từ triều nhà Thương qua triều đại nhà Chu.</I></P>
</span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên