<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">2. <B>PHÁP THÂN, ỨNG HÓA THÂN, BÁO THÂN VÀ THỂ, TƯỚNG, DỤNG</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phàm trong một pháp nào cũng đều có đủ ba mặt là: Thể, Tướng, Dụng.
<p style="padding-left: 30px;">- <I>Thể</I> là bản thể hay tự thể.
- <I>Tướng</I> là hình tướng hay sắc tướng.
- <I>Dụng</I> là công dụng hay là thiết dụng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lấy ví dụ điển hình là tứ đại chẳng hạn, như:
<p style="padding-left: 30px;">- <B>Nước</B>:
<p style="padding-left: 56px;">* <I>Thể</I> của nó là tánh ướt.
* <I>Tướng</I> của nó là lỏng (nước thường), hay đặc (nước đá) và
* <I>Dụng</I> là nước dùng để uống, rửa hay tắm giặt v.v...
<p style="padding-left: 30px;">- <B>Đất</B>:
<p style="padding-left: 56px;">* <I>Thể</I> của nó là tánh cứng.
* <I>Tướng</I> của nó là đất thường, cát, đá, đất sét v.v... và
* <I>Dụng</I> của nó là đất để đắp, để đúc gạch ngói, đồ gốm (đất sét), cát để xây nhà v.v...
<p style="padding-left: 30px;">- <B>Gió</B>:
<p style="padding-left: 56px;">* <I>Thể</I> của nó là tánh di động.
* <I>Tướng</I> của nó là gió nhẹ, bão, cuồng phong v.v... và
* <I>Dụng</I> của nó là gió để quạt cho mát, sấy khô, thổi bụi v.v...
<p style="padding-left: 30px;">- <B>Lửa</B>:
<p style="padding-left: 56px;">* <I>Thể</I> của nó là tánh nóng.
* <I>Tướng</I> của nó là lửa than hay lửa ngọn, tia lửa sáng v.v... và
* <I>Dụng</I> của nó là lửa để sưởi ấm, để nấu chín, để sấy khô v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn về các pháp cao hơn như Phật và Bồ tát thì thể là Pháp thân, tướng là Báo thân, và dụng là Ứng Hóa thân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong bài cúng dường ngọ trai, ta đọc:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cúng dường:
<p style="padding-left: 30px;">- Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
- Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật.
- Thiên bá Ức hóa thân Thích Ca Mâu Ni Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tuy là đọc ra danh hiệu ba đức Phật, nhưng chính ra là chỉ một đức Phật với ba thân đấy thôi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong kinh Hoa Nghiêm ở bài Lời Nói Đầu, dịch giả Hân Tịnh Tỳ kheo Thích Trí Tịnh có viết:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"... Theo truyền sử trong Đại Tạng, khi thành đạo vô thượng chánh giác, chưa vội rời đạo tràng Bồ đề, đức Thích Ca Mâu Ni với Pháp thân Tỳ Lô Giá Na cùng chư đại Bồ tát chứng giải thoát môn, tuyên thuyết kinh Hoa Nghiêm, và trong chánh văn của bộ kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất, có đoạn kệ như sau:
<p style="padding-left: 30px;"><I>... Tất cả chư Phật một Pháp thân
Chơn như bình đẳng vô phân biệt
Phật dùng sức này thường an trụ.</I>
(Quyển I, trang 145)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Rồi đến những câu kệ về Pháp thân như:
<p style="padding-left: 30px;"><I>Tỳ Lô Giá Na đủ tướng hảo
Ngồi liên hoa tạng sư tử tòa
Tất cả chúng hội đều thanh tịnh
An trụ vắng lặng đều chiêm ngưỡng.</I>
(Trang 242)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là <B>Thể</B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Về viên mãn Báo thân, có những câu kệ như sau:
<p style="padding-left: 30px;"><I>Thuở xưa tu hành nhẫn thanh tịnh
Tín giải chân thật vô phân biệt
Nên sắc tướng Phật đều viên mãn
Phóng quang chiếu sáng khắp mười phương.</I>
(trang 260-261)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là <B>Tướng</B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Rồi đến Thiên bá Ức Hóa thân, có câu kệ như sau:
<p style="padding-left: 30px;"><I>Thuở xưa nhiều kiếp tinh tấn tu
Chuyển được chúng sanh chướng sâu nặng
Nên Phật phân thân khắp mười phương
Dưới cội Bồ đề đều có Phật.</I>
(Trang 261)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là <B>Dụng<SUP>(19)</SUP></B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại nữa, trong cuốn Chuẩn Đề Ngũ Hối Sám Nghi của Đại lão Hòa thượng Huệ Đăng, bổn sư truyền thọ Mật Tông của Thiên Thai tự (1963) có mấy câu xưng tụng Bái Ngũ Phương như sau.
<p style="padding-left: 30px;">- Nam Mô Đông phương Thế giới A Sơ Bệ Phật <I>(xá)</I>
- Nam Mô Nam phương Thế giới Vân Tự Tại Phật <I>(xá)</I>
- Nam Mô Tây phương Thế giới A Di Đà Phật <I>(xá)</I>
- Nam Mô Bắc phương Thế giới Thành Tựu Phật <I>(xá)</I>
- Nam Mô Trung ương Thế giới Tỳ Lô Giá Na Phật <I>(xá)</I>
(Trang 37-38).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo như vậy thì cũng đúng hợp với điều mà Hòa thượng Thích Trí Tịnh nói rằng Pháp thân Thanh Tịnh của Phật Thích Ca Mâu Ni là Tỳ Lô Giá Na Phật<SUP><B>(20)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong cuốn <B>Nhị Khóa Hiệp Giải</B> của Hòa thượng Thích Khánh Anh dịch, có đoạn như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Cõi mà hiện nay chúng ta ở đây là Ta Bà thế giới, nó ở tại trung ương của lớp thứ mười ba, vậy Ta Bà thế giới chính là con số bằng một mảy trần giữa nhiều vi trần của mười ba cõi Phật mà thôi. Cực Lạc thế giới cũng là một trần ở giữa lớp thứ mười ba, mà vị trí Cực Lạc nó cũng ngang bằng với Ta Bà" (Trang 210).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và chúng ta cũng thường nghe xưng tụng:
<p style="padding-left: 30px;">- Nam Mô Trung Thiên giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật, trong các buổi lể tại các chùa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn về sự khác nhau giữa danh hiệu Tỳ Lô Giá Na và Lô Xá Na thì ngài Khánh Anh giải nghĩa như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tiếng Phạn: Vairacana, tiếng Việt đọc là: Tỳ Lô Cha Na.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhơn vì kinh cũ đời Tấn dịch là: Lô Xá Na, kinh mới của đời Đường dịch là Tỳ Lô Cha Na.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch chữ là Biến nhứt thế xứ, nghĩa là: Khắp tất cả chỗ, tức là cứu cánh thanh tịnh Pháp thân.
<p style="padding-left: 30px;">Lại "Cảnh diệu" hiện ra rất cứu cánh, tên là Tỳ Lô Cha Na.
"Trí diệu" đầy đủ rất cứu cánh, tên là Lô Xá Na.
"Hạnh diệu" đầy đủ rất cứu cánh, tên là Thích Ca Mâu Ni.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại Lô Xá Na, dịch là: Quang minh chiếu; Tỳ Lô Cha Na dịch là: Quang minh biến chiếu, vì chữ "Tỳ" dịch là "Biến".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn về Quán Thế Âm Bồ tát thì:
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(a) Pháp thân là đức cổ Phật Chánh Pháp Minh Như Lai.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(b) Ứng Hóa thân là thái tử Bất Huyến, là Chuẩn Đề Vương Bồ tát, là các vị Bồ tát được nêu danh hiệu trong cuốn Sám Hối Ngũ Bách Danh, là Diệu Nhiên Vương Bồ tát, và cả ba mươi hai ứng thân được kể trong Phẩm Phổ Môn (Kinh Pháp Hoa) nữa v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(c) Báo thân là Quan Âm Diệu Thiện, Quan Âm Thị Kính v.v...<SUP><B>(21)</B></SUP>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">3. <B>QUAN NIỆM VỂ QUẢ VỊ BỒ TÁT TRONG PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thường trong các kinh văn của Phật giáo Tiểu thừa (mà hiện nay người ta hay dùng danh từ Nguyên Thủy để xóa đi cái ý niệm Tiểu so sánh với Đại, nó thường được hiểu lầm như thấp kém hơn đối với Đại thừa), người ta ít thấy nhắc đến các vị Bồ tát mà chỉ nghe nói đến Thanh văn, A la hán thôi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy Nguyên thủy và Đại thừa trong Phật giáo có sự khác nhau và giống nhau ra sao?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thật ra, đó là một vấn đề rộng rãi nếu muốn kể cho hết các điểm đồng nhất và dị biệt của hai hệ phái lớn trong Phật giáo: vì vấn đền này vượt ra ngoài phạm vi của cuốn Truyện Tích này, nên ở đây chúng tôi xin đề cập đến quan niệm về quả vị Bồ tát của Phật giáo Đại thừa mà thôi, vì đức Quán Thế Âm Bồ tát là một vị Bồ tát cho nên điều này có liên hệ trực tiếp và mật thiết hơn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong các tài liệu về Phật giáo, Bồ tát là chỉ cho những vị đã có chí nguyện tu thành Phật, nhưng trước khi đắc quả vô thượng Bồ đề, các vị này có những đại nguyện cần được thực hiện trong việc cứu độ các khổ não của chúng sanh. Mà các khổ não của chúng sanh thì vô tận, vô cùng nên các hạnh nguyện của Bồ tát cũng rất đa dạng và rất rộng lớn: <I>"chúng sanh đa bệnh, Bồ tát đa hạnh".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có vị Địa Tạng Bồ tát thì nguyện cứu độ tất cả chúng sanh trong địa ngục cho xong hết thì mới thành Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có vị như Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát thì có mười đại nguyện mà ta thường nghe trong các câu kệ vào cuối các thời kinh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Các vị Bồ tát khác như Đại Trí Văn Thù Sư Lợi và Đại Lực Đại Thế Chí cũng có các hạnh nguyện riêng như mở mang trí huệ và làm tăng trưởng đại hùng đại lực cho chúng sanh v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói chung về Bồ tát thì có hai hạng: Bồ tát xuất gia và Bồ tát tại gia; nhưng hai giới ấy vẫn có những điểm giống nhau như<SUP><B>(21a)</B></SUP>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) Phải có lòng từ bi vô lượng đối với tất cả mọi loài chúng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) Phải có tinh thần phá chấp: chấp ngã và chấp pháp.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) Phải có ý chí đạt đến đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức quả vị Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) Phải nguyện độ các chúng sanh được giải thoát và đạt quả vị vô thượng Bồ đề.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cao nhất trong điều này là Bồ tát hoan hỷ mong cầu cho những người khác được chứng ngộ đạo giải thoát trước mình: <I>"như nhứt chúng sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ Nê hoàn"</I><SUP><B>(22)</B></SUP>.
<CENTER><B>*
* *</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngoài ra, về các hạnh nguyện nói chung thì có Lục độ (hay lục Ba la mật) là: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ, và vô số các hạnh nguyện nữa gọi là "vạn hạnh".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng rốt cuộc lại thì cũng để thực hiện bốn điều nguyện rộng rãi bao la (Tứ hoằng thệ nguyện) là:
<p style="padding-left: 30px;"><I>Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bốn hoằng thệ nguyện này được kể theo một thứ tự rất hợp lý:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trước tiên mục đích của các vị tu hành (Bồ tát đạo) là gì nếu không là vì lòng từ bi muốn cứu độ chúng sanh (trong chúng sanh đó có cả bản thân mình nữa, tự độ, độ tha).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng muốn tu hành cho đắc đạo thì phải làm sao? Tức nhiên là phải dẹp bỏ phiền não, mà phiền não trong thế giới này thì vô tận.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi dẹp phiền não thì song song với việc ấy cũng còn phải học vô lượng các pháp môn nữa mới có đủ những tri giác và oai lực để cứu độ chúng sanh, chứ không chỉ có dẹp phiền não không thôi đâu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và mục dích tối hậu là đạt đến được Phật đạo vô thượng, nhưng rồi sau đó cũng trở lại các thế giới mà cứu vô biên các chúng sanh nữa v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Việc thực hiện bốn hoằng thệ nguyện như vậy cứ tiếp tục đi theo nhau như các mắc xích của một vòng dây chuyền không có chỗ hở, không phân biệt đâu là chỗ bắt đầu, và đâu là chỗ cuối cùng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy vị Bồ tát ta đề cập đến trong cuốn Tích Truyện này là Quán Thế Âm Bồ tát, và đại hạnh nguyện của ngài là cứu khổ, cứu nạn cho mọi loài chúng sanh trong mọi thế giới bao la rộng lớn và liên tục trong không gian và thời gian không biết đâu là cùng tận.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">4. <B>GÓC ĐỘ NHÌN VỀ CÁC SỰ LINH ỨNG HUYỀN DIỆU: CẢM VÀ ỨNG</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mỗi lúc nhắc đến Quán Thế Âm Bồ tát, người ta thường kể lại cho nhau nghe, hoặc ghi chép lại để truyền bá các sự linh ứng mầu nhiệm do cầu nguyện và niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát để xin ngài cứu độ qua những tai nạn khổ ách, hoặc phù hộ cho mình được toại nguyện, chẳng hạn như cầu sanh con trai, con gái, cầu cho gia đình yên ổn, con cái khỏe mạnh v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nhưng có những người cầu và niệm Quán Thế Âm Bồ tát trong cơn nguy biến thì được độ và thấy hình bóng Quán Thế Âm Bồ tát thị hiện ra nữa, còn có nhiều người khác thì không được gì cả.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và điều này ta phải hiểu ra sao? Trong nguyên lý của huyền vi, và ngay trong cả thiên nhiên (trời đất, tạo hóa, vật lý v.v...) nữa, có một điều mà ta ít lưu tâm là sự cảm và ứng. Hễ có cảm thì có ứng, mà mức độ cảm phải như thế nào?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu cảm mà không đủ cường lực, không đủ mạnh mẽ, không liên tục thường xuyên thì không có ứng, hoặc rất khó mà ứng được. Cho nên việc đạt được ý nguyện hay không trong sự cầu nguyện Quán Thế Âm Bồ tát cứu độ cũng thế. Chỉ trong những trường hợp mà các người được sự linh ứng đáp lại cầu nguyện của họ, thì họ tự xét sẽ biết lý do vì sao mà thôi, có người lại tưởng là do một sự tình cờ mà họ không biết lý do vì sao nữa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có thể rằng từ xa xưa, trong bao nhiêu năm tháng của cuộc đời hiện tại, hay là trong nhiều kiếp trước, họ đã có nhân duyên với Quán Thế Âm Bồ tát rồi, đã luôn luôn nghĩ nhớ, cung kính, sùng bái, tôn trọng và phát triển lòng từ bi độ lượng của họ như đại nguyện của Quán Thế Âm Bồ tát, nên nay trong lúc lâm nạn, họ nhất tâm cầu nguyện thì liền được đáp ứng: như thế nghĩa là sự cảm ứng ấy dễ dàng được thực hiện hơn là đối với những người khác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn đối với những trường hợp khác thì hoặc là công đức và nghiệp quả chưa bù đắp được cho nhau nên sự linh ứng chưa đến, nghĩa là do nghiệp báo mà phải trả quả thì dù cho các vị linh thiêng nào có nhiều thần thông diệu dụng hơn cả Quán Thế Âm Bồ tát, như Phật chẳng hạn, thì cũng không thể cứu độ được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Điều này ta không thể biết được với trí hiểu biết suy luận phàm phu thế gian của chúng ta, cho nên trong những bộ kinh, ta thường nghe Phật nhắc đến câu <I>"bất khả tư nghì".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Bất khả tư nghì", nghĩa là không thể suy nghĩ, luận bàn, giải thích theo trí thế gian được, mà các điều ấy chỉ có các vị Bồ tát và Phật mới hiểu được thôi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tuy nhiên, không phải vì vậy mà chúng ta không tin tưởng, bởi vì, mặc dù ta không biết được, nhưng có một điều lúc nào cũng có lợi ích và có công đức là ta luôn luôn hướng thiện, lòng ta phải thường xuyên thâm nhập các đức từ bi hỷ xả của Bồ tát Quán Thế Âm, nghĩa là ta tự coi mình như đệ tử của ngài, và ta tu tập theo các điều đại nguyện của ngài, và nhất tâm niệm danh hiệu của ngài để đến một lúc nào đó, ta nhận được sự cảm ứng huyền diệu mà nhiều khi chính ta cũng không biết trước được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cho nên trong các kinh Phật dạy:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Người Phật tử chân chánh luôn luôn đúng thuyết tu hành, và sự cúng dường cao nhất là Pháp cúng dường, tức là <I>"y giáo phụng hành"</I> và các điều ấy ta thường nghe đọc đầu các buổi lễ là <I>"ngũ phần pháp hương"</I>:
<p style="padding-left: 30px;"><I>Giới hương, Định hương dữ Huệ hương
Giải thoát, giải thoát tri kiến hương.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Giới, định, huệ là tam vô lậu học<SUP><B>(23)</B></SUP> mà các vị tu hành nào cũng đều phải noi theo để được giải thoát và giải thoát tri kiến nữa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Rồi hai câu sau:
<p style="padding-left: 30px;"><I>Quang minh vân đài biến pháp giới
Cúng dường thập phương Tam Bảo tiền.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nghĩa là: Đài mây sáng rở của hương "giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến" bay khắp pháp giới để cúng dường mươi phương Tam Bảo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại ý nói người tu sĩ xuất gia chỉ lấy hương "giới hạnh" của mình để cúng dường mười phương Tam Bảo là quý nhất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Và những Phật tử nào trong hoàn cảnh đời sống kinh tế còn eo hẹp thiếu thốn cũng theo đó mà cúng dường Tam Bảo bằng sự tu hành "giới hạnh" của mình mà không nên có mặc cảm nào cả.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">5. <B>NHẬN ĐỊNH</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phần Dẫn Nhập này, theo quan niệm thông thường là phần khởi đầu của một vấn đề nào đó, mà đã khởi đầu tức là chỉ có tánh cách sơ lược không có gì là quan trọng, là cốt tủy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nhưng đối với cuốn Truyện Tích Quán Thế Âm Bồ tát này, chúng tôi xem phần Dẫn Nhập này như là căn bản, cốt lõi của một loạt đề mục đi theo sau mà nếu không có phần thiết yếu côt tủy này thì các phần kia không có thế dựa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bởi vì chúng ta phải đặt câu hỏi căn bản là tại sao có sự xuất hiện của Quán Thế Âm Bồ tát và Quán Thế Âm có ý nghĩa là gì? Thế nên phần Dẫn Nhập này gồn có nhiều tiểu mục như ta đã thấy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ý nghĩa của danh từ Quán Thế Âm đã được trình bày dựa theo các tài liệu kinh điển của Đại thừa Phật giáo, bởi vì quan niệm về Bồ tát đạo chỉ được dẫn giải qua các kinh điển Đại thừa, vào thời kỳ thế kỷ thứ II trước công nguyên<SUP><B>(24)</B></SUP>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn về các hình tướng thị hiện của Quán Thế Âm Bồ tát (nói tắt là Quan Âm) thì rất nhiều hình tướng như trong các kinh và tài liệu sẽ dẫn trong các phần sau<SUP><B>(25)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có một điều chúng ta cần lưu ý thêm về góc độ nhìn các sự linh ứng mầu nhiệm: Đây không phải là cố ý giải thích biện minh cho những hiện tượng có tính cách hoang đường, thần thoại mà chỉ là trình bày về lý nhân quả phức tạp, sâu xa, đa dạng và khó hiểu đối với cái trí suy luận phàm phu thế gian của chúng ta.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Không những lý nhân quả mà thôi, mà còn là ý thức nhận xét về các điều khó hiểu trong các kinh Phật dạy nữa. Tại sao? Tại vì có nhiều điều trong kinh chúng ta không thể hiểu được, nhưng không phải vì thế mà không đúng. Vì mức độ hiểu của chúng ta tùy thuộc vào trình độ tu chứng cho nên có nhiều bộ kinh Phật chỉ dạy cho các vị Bồ tát căn cơ đã thuần thục mà thôi, như bộ Kinh Lăng Già chẳng hạn<SUP><B>(26)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong bài tựa của bộ kinh này, có đoạn nhắc rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại sĩ Táo Bá nói:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Kinh này Phật vì hàng Bồ tát căn cơ đã thuần thục, liền nói chủng tử nghiệp thức là Như Lai tàng; khác với Nhị thừa do diệt thức tiến đến không tịch; cũng khác với Bát Nhã bởi Bồ tát quán Không rồi thích cái Không tăng thắng. Đây là chỉ thẳng thức thể bản tánh toàn chơn, liền thành trí dụng, như biển cả kia lặng gió thì cảnh tượng đều hiện bày. Biển tâm chẳng động thì gió cảnh khác. Chỉ người khéo hiểu được tánh chơn, liền nơi thức biến thành trí".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo như vậy thì chúng ta phải học hỏi và tu chứng nữa thì dần dần mới hiểu được một phần nào các lý nghĩa trong các kinh Phật dạy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật biết rất rõ điều đó cho nên ngài thường hay nhắc nhở ta câu <I>"bất khả tư nghì"</I> để chúng ta không còn thắc mắc về những điều khó hiểu nữa mà chỉ có nhất tâm tín thành noi theo những điều Phật dạy mà tu hành để được giác ngộ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(19): <I>Trong cuốn Pháp Bảo Đàn Kinh của Hòa thượng Minh Trực thiền sư dịch giải, nơi trang 151, có đoạn nói:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Các bậc tu hành thành Phật, thì có đủ ba thân và bốn trí, hiệp thành một thể gọi là Chơn Phật ở tâm mình.
<p style="padding-left: 30px;">- Thanh tịnh là Tánh Thể.
- Viên mãn là Tánh tướng.
- Ứng hóa là Tánh Dụng".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn bốn trí là: Thành sở tác trí, Diệu quang sát trí, Bình đẳng tánh trí, Đại Viên Cảnh trí. Trong cuốn "Nẻo Vào Thiền Học" của Thích Nhất Hạnh (Lá bối - 1971, Saigon-Việt Nam, trang 198) có đoạn như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">"Trong trạng thái giác ngộ, năm thức của cảm giác trở nên Thành sở tác trí, Ý thức trở nên Diệu quan sát trí. Mạt Na trở nên Bình đẳng tánh trí và A lại gia trở nên Đại viên cảnh trí".</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(20) Tỳ Lô Giá Na Phật: <I>Vairocana-Boudha (tiếng Phạn). Cũng gọi là Tỳ Lư Giá Na Phật, Ma Ha Tỳ Lư Giá Na Phật, Lư Xá Na Phật. Dịch nghĩa: Đại Nhật Phật. Một đức Như Lai, hào quang chiếu khắp các nơi như ánh sáng mặt trời. Ngài làm Pháp vương ở cõi Tịnh Độ Liên Hoa Đài Tạng Thế Giới, thường có Văn Thù Bồ tát và Phổ Hiền Bồ tát theo chầu hai bên.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Về Đại Nhựt Như Lai (Mahavairocana, tiếng Phạn), thì theo phái Mật giáo, đức Như Lai này bao gồm và thay thế cho tất cả các đức Phật. Đức Thích Ca Như Lai cũng là một vị Đại Nhựt Như Lai (Phật học Từ điển Đoàn Trung Còn).</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(21): <I>Xin xem các chương sau.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(21a): <I>Bồ tát tại gia và xuất gia có mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh phải tuân theo như trong kinh Phạm Võng thuộc về Luật Tạng có chỉ dẫn.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(22) Như nhứt chúng sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ Nê hoàn: <I>Một câu kệ ở bài kệ đầu chú Lăng Nghiêm, nghĩa là "Nếu có một chúng sanh chưa thành Phật, thì sau cùng tôi cũng chưa vào Niết Bàn".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(23) Tam vô lậu học: <I>Giới, Định, Huệ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tam vô lậu học cốt lấy tâm làm giới, chớ chẳng lấy cảnh, lấy sự. Người tu tam vô lậu học chẳng mong cầu phước báu ở Nhơn gian và ở Thiên thượng (nghĩa là không muốn rớt lại vào Tam giới).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thủ Lăng Nghiêm kinh, trong quyển sáu có nói: Nhiếp tâm là giới, nhân giới sanh định, nhân định phát huệ (Phật học Từ điển Đoàn Trung Còn).</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(24) Trong cuốn "Nẻo Vào Thiền Học" của Thích nhất Hạnh (đã dẫn trên, trang 159) có đoạn nói như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>"Thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch chứng kiến sự xuất hiện của kinh Bát Nhã và hệ thống triết học "Không" như một sự khôi phục tinh thần nguyên thỉ của Phật giáo. Trong những thế kỷ kế tiếp, các kinh Bát Nhã tiếp tục xuất hiện, đồng thời cũn gphát hiện những kinh điển Đại thừa quan trọng như Pháp Hoa. Lăng Già, Niết Bàn, Viên Giác, Duy Ma Cật, Hoa Nghiêm v.v...
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những khai phá của các tông phái thuộc Đại Chúng Bộ (Mahasanghika) và Thuyết Xuất Thế Gian Bộ (Pudgalavada? Lokottaravada) đã đóng góp quan trọng trong sự xuất hiện của các tông phái Đại thừa".</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(25): <I>Ngoài các ứng hóa thân dẫn trong các chương sau, thì trong Phật học Từ điển của Đoàn Trung Còn, nơi danh từ Tam Thập Tam Quán Âm, có ghi như sau. Ba mươi ba vị Quan Âm:
- Dương Liễu Quan Âm.
- Long Đầu Quan Âm.
- Trì Kinh Quan Âm.
- Viên Quang Quan Âm.
- Du Hí Quan Âm.
- Bạch Y Quan Âm.
- Liên NGọa Quan Âm.
- Lũng Kiến Quan Âm.
- Thi Lạc Quan Âm.
- Ngư Lam Quan Âm.
- Đức Vương Quan Âm.
- Thủy Nguyệt Quan Âm.
- Nhứt Diệp Quan Âm.
- Thanh Cảnh Quan Âm.
- Oai Đức Quan Âm.
- Diên Mạng Quan Âm.
- Chúng Bảo Quan Âm.
- Nham Hệ Quan Âm.
- Năng Tỉnh Quan Âm.
- A Nậu Quan Âm.
- Vô Úy Quan Âm.
- Diệp Y Quan Âm.
- Lưu Ly Quan Âm
- Đa La Tôn Quan Âm.
- Cáp lỵ Quan Âm.
- Lục Thời Quan Âm.
- Phổ Từ Quan Âm.
- Mã Lang Phụ Quan Âm.
- Hiệp Chưởng Quan Âm.
- Nhứt Như Quan Âm.
- Bất Nhị Quan Âm.
- Trì Liên Quan Âm.
- Sái Thủy Quan Âm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là tượng vẽ 33 vị Quan Âm, theo quan niệm thí dụ để cụ thể hóa hình tướng của Quán Thế Âm Bồ tát so với 32, 33 thân trong kinh Phổ Môn (Phật học Từ điển Đoàn Trung Còn, - đoạn sau là do soạn giả bổ túc thêm).</I><P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(26) Kinh Lăng Gia: <I>"Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh Tâm Ấn" do Sa môn Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra) dịch Phạn-Hán, đời Lưu Tống.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sa môn Hàm Thị, đời thứ 14, dòng Tào Động trụ trì đời thứ ba Bác Sơn Ngôn Lôi Phong Sớ Giải, đời nhà Thanh, Thích Thanh Từ dịch Hán Việt (Tu viện Chơn Không - Nhà Xuất bản Tri Thức - 1975, nhà in Long Giang, số 124-126, Lê Lai, Saigon phát hành 09-3-1975).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong cuốn "Nẻo Vào Thiền Học" của Thích Nhất Hạnh (đã dẫn trên, trang 144), có đoạn nói: "Theo Thần Hội, chính Bồ Đề Đạt Ma là người đầu tiên đã trao truyền kinh Lăng Già cho Huệ Khả".</I></P>
</span></span>