- Tham gia
- 13/8/18
- Bài viết
- 955
- Điểm tương tác
- 216
- Điểm
- 43
Giáo Hành Tín Chứng của ngài Thân Loan
Quy mạng Vô Lượng Thọ Như Lai
Nam mô Bất Khả Tư Nghị Quang
Bồ-tát Pháp Tạng lúc nhân vị
Đến chỗ Phật Thế Tự Tại Vương
Thấy nhân tố tịnh độ chư Phật
Thiện ác nhân thiên cùng quốc độ
Kiến lập nguyện thù thắng vô thượng
Khởi phát thệ rộng lớn hiếm có
Năm kiếp suy xét để nhiếp lấy
Nguyện rằng danh tiếng vang mười phương
Vô Lượng, Vô Biên Quang tỏa khắp
Vô ngại, Vô Đối Quang, Viêm Vương
Thanh Tịnh, Hoan Hỷ, Trí Tuệ Quang
Bất Đoạn, Nan Tư, Vô Xứng Quang
Siêu Nhật Nguyệt Quang chiếu cõi bụi
Tất cả quần sinh mong sáng soi
Bản nguyện danh hiệu[1] chánh định nghiệp[2]
Chí tâm tín lạc nguyện[3] làm nhân
Thành Đẳng giác, chứng Đại Niết-bàn
Tất chí diệt độ nguyện[4] thành tựu
Như lai sở dĩ hiện ở đời
Chỉ nói Di Đà bản nguyện hải
Thời ác năm trược biển quần sinh
Phải tin lời thật của Như Lai
Phát khởi một niệm tâm hỷ ái[5]
Chẳng đoạn phiền não được Niết-bàn
Phàm Thánh, nghịch báng cùng hồi nhập
Các sông vào biển một mùi vị
Nhiếp thủ tâm quang thường soi giữ[6]
Bóng tối vô minh bị phá vỡ
Tham ái giận ghét làm mây mù
Che bầu trời tín tâm chân thật[7]
Khi mặt nhật bị mây mù che
Dưới mây mù vẫn sáng không tối
Được tín, thấy kính rất mừng vui [8]
Liền vượt ngang[9] cắt năm đường ác
Tất cả thiện ác kẻ phàm phu
Nghe tin Như Lai hoằng thệ nguyện
Phật nói bậc thắng giải rộng lớn
Người ấy là hoa phân-đà-lợi[10]
Phật Di Đà, bản nguyện niệm Phật
Chúng sinh ác, tà kiến kiêu mạn
Tín lạc thọ trì rất là khó[11]
Khó trong khó không gì qua đây.[12]
Những Luận sư Ấn Độ Tây thiên
Cùng cao Tăng Trung Hạ, Nhật Bản
Nói ý thú Đức Phật xuất thế
Bày Như Lai bản nguyện ứng cơ[13]
Thích Ca Như Lai núi Lăng Già
Vì chúng huyền ký Nam Thiên Trúc
Đại sĩ Long Thọ hiện ra đời
Phá vỡ mọi kiến chấp hữu vô
Tuyên thuyết pháp Đại thừa vô thượng
Chứng Hoan hỷ địa, sinh An Lạc[14]
Bày tỏ nan hành đi bộ khổ
Tin ưa dị hành đường thủy vui
Nhớ nghĩ Di Đà bản nguyện Phật
Tự nhiên tức thời nhập Tất định
Chỉ phải thường xưng Như Lai hiệu
Để báo ơn hoằng thệ đại bi.[15]
Bồ-tát Thiên Thân tạo luận thuyết
Quy mạng Vô Ngại Quang Như Lai
Y tu-đa-la bày chân thật
Khai sáng Hoành siêu đại thệ nguyện
Noi theo bản nguyện lực hồi hướng[16]
Vì độ quần sinh nói nhất tâm
Trở về biển đại bảo công đức [17]
Mong được vào số Đại chúng hội
Được đến thế giới Liên Hoa Tạng Liền chứng Chân như Pháp tánh thân
Dạo rừng phiền não, hiện thần thông
Vào vườn sinh tử, thị Ứng hóa.[18]
Bổn sư Đàm Loan: Lương thiên tử[19]
Thường hướng lễ Đàm Loan Bồ-tát
Tam tạng Lưu Chi trao tịnh giáo
Đốt bỏ Tiên Kinh quy Lạc bang[20]
Chú giải Thiên Thân Bồ-tát luận
Báo độ nhân quả bày thệ nguyện
Vãng hoàn hồi hướng do tha lực
Nhân của chánh định là tín tâm
Phàm phu hoặc nhiễm tín tâm phát
Chứng biết sinh tử tức Niết-bàn[21]
Ắt đến cõi Vô Lượng Quang Minh[22]
Chúng sinh các hữu đều phổ hóa.[23]
Đạo Xước dạy Thánh đạo khó chứng
Chỉ có Tịnh độ dễ thông nhập
Vạn thiện tự lực gièm siêng tu
Viên mãn đức hiệu khuyên chuyên xưng
Tam bất tam tín[24] dạy ân cần
Tượng, mạt, pháp diệt đồng bi dẫn
Một đời tạo ác gặp hoằng thệ
Đến cõi An Dưỡng chứng diệu quả.[25]
Thiện Đạo sáng tỏ ý chỉ Phật
Thương xót định tán và nghịch ác
Ánh sáng, danh hiệu bày nhân duyên[26]
Đi vào Bản nguyện đại trí hải
Hành giả tiếp nhận Kim cương tâm
Rồi vui mừng nhất niệm tương ưng[27]
Vi Đề, chúng sinh được ba nhẫn[28]
Liền chứng thường lạc Pháp tánh thân.[29]
Nguyên Tín rộng mở Giáo một đời
Nghiêng về An Dưỡng khuyên tất cả
Chuyên tạp chấp tâm rõ cạn sâu
Báo hóa hai độ kiến tạo xong
Người ác cực trọng chỉ niệm Phật[30]
Phật đã nhiếp lấy người ấy rồi
Phiền não chướng, mắt dù không thấy
Đại bi không mệt chiếu thân ta[31].[32]
Bổn sư Nguyên Không hiểu lời Phật
Thương xót kẻ phàm phu thiện ác
Phiến Châu[33] hưng Chân tông Giáo chứng
Tuyển Trạch Bản Nguyện hoằng đời ác
Trở lại sinh tử, luân chuyển nhà
Bởi lấy nghi tình làm chỗ dựa
Mau nhập vắng lặng vui vô vi
Phải dùng tín tâm để đi vào[34].[35]
Đại sĩ hoằng Kinh, chư Tông sư
Cứu giúp vô biên dữ vẩn đục
Mọi người đạo tục chung một lòng
Chỉ tin những gì cao Tăng nói.[36]
[60 dòng đã xong, 120 câu.]
[1] Bản nguyện danh hiệu là nguyện 17.
[2] Chánh định nghiệp là xưng danh niệm Phật, vì thuận và hành theo bản nguyện của Đức Phật A Di Đà, cho nên cho nên người tu nương vào bản nguyện của Đức Phật A Di Đà, ắt sẽ vãng sinh Cực Lạc.
[3] Chí tâm tín lạc nguyện (至心信樂願) là nguyện 18.
[4] Tất chí diệt độ nguyện (必至滅度願) là nguyện 11: “Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhân ở nước tôi, chẳng an trụ định tụ, quyết đến diệt độ, thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.”
[5] Một niệm tín tâm chân thật. Hỷ là hoan hỷ. Ái là ái lạc. Hỷ ái là tín lạc.
[6] Tâm quang nhiếp hộ (心光攝護): Ánh sáng từ tâm đức Phật A Di Đà phát ra chiếu soi và hộ trì hành giả niệm Phật. Quán niệm Pháp môn (Đại 47, 25 trung) nói: “Tâm quang của đức Phật kia thường chiếu soi người ấy, nhiếp hộ không bỏ, lại chiếu soi nhiếp hộ cả các hành giả tu những tạp nghiệp khác, đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm đời hiện tại.”
[7] Thực ra, bóng tối “vô minh” lẽ ra đã bị ánh sáng đại bi của Đức Phật A Di Đà tiêu diệt rồi. Tuy nhiên, một đám mây mù tham ái, giận ghét luôn bao phủ bầu trời của “tín tâm chân thật”. Tín tâm chân thật là niềm tin hướng về Đức Phật A Di Đà, đó không phải là niềm tin do chính mình tạo ra, mà là niềm tin nhận được từ bản nguyện lực của Đức Phật A Di Đà.
[8] Kinh Vô Lượng Thọ: “Người có tín tuệ khó, Nếu nghe siêng năng cầu, Nghe pháp được chẳng quên, Thấy kính rất mừng vui.” Kiến kính (見敬): gặp mặt, thể hiện sự kính lễ.
[9] Hoành siêu (橫超): Vượt ngang. Chỉ cho pháp môn không cần phải trải qua thứ tự các giai vị mà hành giả có thể đạt được Vô thượng Niết bàn một cách nhanh chóng. Một trong Nhị song tứ trùng giáo phán (二雙四重教判) của Tịnh độ Chân tông Nhật bản. Pháp môn này tức là ý nghĩa chân thực của bản nguyện Di Đà. Ngài Thiện Đạo, Tổ sư của tông Tịnh độ Trung quốc, đã căn cứ vào ý nghĩa của câu: Hoành tiệt ngũ ác thú, ác thú tự nhiên bế (橫截五惡趣,惡趣自然閉. Cắt ngang năm đường ác, đường ác tự nhiên dứt) trong kinh Vô Lượng Thọ quyển hạ (Đại 12, 274 trung) mà lập thuyết Hoành siêu đoạn tứ lưu (橫超斷四流. Vượt ngang dứt bốn dòng), tức có hàm nghĩa Nhất thừa đốn giáo trong đó. Ngài Thân Loan, Tổ khai sáng của Tịnh độ Chân tông Nhật bản, noi theo thuyết của ngài Thiện Đạo, cho rằng Hoành siêu tức là ý nghĩa chọn Báo độ chân thực của bản nguyện thì liền được vãng sinh. Cũng tức là đối với bản nguyện của Phật Di Đà một lòng tin sâu, không hoài nghi, theo nguyện lực của Ngài mà tu hành, tâm không tán loạn, thì sau khi mạng chung sẽ trực tiếp được sinh về Báo độ chân thực. Vì Hoành siêu là nhờ vào bản nguyện tha lực của Phật nên bản nguyện của Ngài cũng được gọi là Hoành siêu đại thệ nguyện (橫超大誓願). Ngoài ra, do sự hồi hướng bản nguyện lực của Tín tâm kim cương có khả năng cắt ngang 5 đường ác, siêu chứng Đại niết bàn, cho nên cũng gọi là Hoành siêu kim cương tâm (橫超金剛心).
[10] Kinh Quán Vô Lượng Thọ: “Nếu có người niệm Phật, nên biết người đó là hoa Phân đà lợi trong loài người, các vị Bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí là bạn thù thắng của người đó, người đó sẽ ngồi đạo tràng, sinh vào nhà Phật.”
[11] Kinh Vô Lượng Thọ, quyển hạ: “Nếu nghe kinh nầy mà tin ưa thọ trì thì là khó trong khó, không gì khó hơn. Vì thế nên pháp của Ta, làm như vậy, nói như vậy, dạy như vậy, phải nên tin thuận y theo tu hành.”
[12] Quy mạng … gì qua đây: là lấy ý của kinh Vô Lượng Thọ, có 44 câu.
[13] Tổng nêu Tổ sư ba nước cùng nói nghĩa lý Tịnh độ, có 4 câu.
[14] Trong kinh Nhập Lăng Già, No. 671, tr. 569a24, Đức Phật đã huyền ký: “Đại quốc ở phương Nam, Có Đại đức Tỳ-kheo, Tên Long Thọ Bồ-tát, Phá kiến chấp hữu vô, Vì người nói pháp Ta, Pháp Đại thừa vô thượng, Chứng được Hoan Hỷ địa, Vãng sinh An Lạc quốc.” Kinh Đại Thừa Nhập Lăng Già, No. 672, tr. 627c19: “Trong nước Nam Thiên Trúc, Tỳ-kheo danh đức lớn, Danh hiệu là Long Thọ, Phá hai tông hữu vô, Thế gian nói pháp Ta, Pháp Đại thừa vô thượng, Được Sơ Hoan Hỷ địa, Vãng sinh An Lạc quốc.”
[15] Tán thán Bồ-tát Long Thọ, có 12 câu: 4 câu đầu y theo kinh Lăng già, và 8 câu sau y theo luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa.
[16] Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá Nguyện Sinh Kệ Chú, quyển hạ, tr. 833c16: “Hồi hướng là hồi công đức của mình để thí khắp cho chúng sinh, cùng được gặp A Di Đà Như Lai, cùng sinh về nước An Lạc.”
[17] Công đức đại bảo hải (功德大寶海). Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá: "Quán Phật bản nguyện lực, Người gặp không luống uổng, Khiến mau được đầy đủ, Biển đại bảo công đức."
[18] Tán thán Bồ-tát Thiên Thân, có 12 câu, y theo Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá Nguyện Sinh Kệ (còn gọi Tịnh Độ Luận).
[19] Tịnh Độ Luận (淨土論), No. 1963, Ca Tài soạn, quyển hạ, tr. 97c09: “Pháp sư Đàm Loan người Vấn Thủy, châu Tinh, sống vào cuối đời Ngụy, đầu đời Cao Tề. Sư có tâm trí cao xa, vang danh ở ba nước (Lương, Đông Ngụy và Tây Ngụy), thông hiểu các kinh, kiến thức hơn người. Tiêu Vương, vua nước Lương, thường quay mặt về phía bắc lễ và tôn xưng Sư là Bồ-tát Đàm Loan. Sư soạn bản chú giải luận Vãng Sinh của bồ-tát Thiên Thân gồm 2 quyển, và soạn tập Vô Lượng Thọ Kinh 1 quyển có kèm theo 195 hàng kệ thất ngôn và những câu vấn đáp, cho lưu hành ở đời để khuyên người xuất gia lẫn tại gia quyết định cầu vãng sinh được thấy Phật A Di Đà.”
[20] Đại sư Đàm Loan thuở nhỏ dạo chơi non Ngũ Đài, cảm điềm linh dị mà xuất gia. Ngài ưa thuật trường sanh, từng theo Đào Ẩn Cư thọ mười quyển Tiên Kinh. Sau gặp ngài Bồ Đề Lưu Chi, đại sư hỏi: “Đạo Phật có thuật trường sinh chăng?” Ngài Lưu Chi trao cho kinh Thập Lục Quán và bảo: “Đây là phép trường sinh của Phật giáo”. Đại sư cả mừng, liền đốt Tiên Kinh, chuyên tu tịnh nghiệp, dù đau yếu cũng không tạm nghỉ. (Quê Hương Cực Lạc – H.T Thích Thiền Tâm dịch)
[21] Đối với sinh tử và Niết-bàn mà khởi Bình đẳng trí, bấy giờ do sự chứng ngộ đây mà biết “sinh tử tức Niết-bàn”, gọi là Vô trú Niết-bàn. Vô trú Niết-bàn là bỏ tạp nhiễm (phiền não) mà không bỏ sinh tử, nên không trú nơi sinh tử, mà cũng không trú nơi Niết-bàn. Vô trú Niết-bàn được đại bi, đại trí vĩnh viễn phụ lực nên không ở sinh tử, không trú Niết-bàn, lợi lạc chúng sinh, tận cùng vị lai hoạt dụng mà thường tịch.
[22] Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, No. 361, Chi Lâu-ca-sấm dịch, quyển 2, tr. 288c06: “Nhanh chóng vượt ngay để đến, Thế giới của An Lạc quốc, Đến cõi Vô Lượng Quang Minh, Cúng dường nơi vô số Phật.”
[23] Tán thán Đại sư Đàm Loan, có 12 câu, y theo Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá Nguyện Sinh Kệ Chú.
[24] Tam tín tam bất (三信三不): Cũng gọi Tam bất tam tín (三不三信). Chỉ cho 3 thứ tâm tin và 3 thứ tâm không tin do ngài Đàm Loan thuộc tông Tịnh độ của Phật giáo Trung quốc nêu ra. Tam tín tâm là: 1. Thuần tâm: Tâm có niềm tin bền vững; 2. Nhất tâm: Tâm chỉ tin không nghi; 3. Tương tục tâm: Tâm liên tục không gián đoạn. Trái lại, tín tâm không thuần, tín tâm bất nhất, tín tâm không tương tục thì gọi là Tam bất tín. Nếu phối hợp Tam tín này với các Tam tâm thì Thuần tâm lìa hư giả không thật, hợp với Chí tâm; Nhất tâm thì chuyên nhất không hai, phối với Tín lạc; còn Tương tục tâm thì không bị dị học, dị kiến làm tổn hại, phối với Dục sinh tâm.
[25] Tán thán Đại sư Đạo Xước, có 8 câu, y theo An Lạc Tập.
[26] Đức Phật A Di Đà cứu độ tất cả chúng sinh bằng nhân duyên của ánh sáng và danh hiệu. Tất cả chúng sinh đều có thể vãng sinh về báo độ Cực Lạc là do danh hiệu. Danh hiệu là nhân năng sinh, giống như một người cha. Ánh sáng là duyên sở sinh, giống như một người mẹ. Hồng danh và ánh sáng là nhân duyên để tất cả chúng sinh được vãng sinh Cực Lạc. Tín tâm là nhân bên trong, ánh sáng và danh hiệu là duyên bên ngoài. Tín tâm là nhân chân thật của Niết-bàn phát sinh từ nội tâm của tất cả chúng sinh, và ánh sáng và danh hiệu là nhân duyên của tín tâm phát sinh từ Như Lai khiến có sự suy lường bên ngoài.
[27] Hành giả nhất tâm niệm Phật là một niệm vui mừng có được Kim cương tín tâm.
[28] Kinh Quán Vô Lượng Thọ: “Ðức Phật bảo A Nan và Vi Ðề Hy rằng: Lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghĩ nhớ kỹ. Nay Như Lai vì tất cả chúng sinh đời vị lai, những kẻ bị giặc phiền não nhiễu hại mà nói nghiệp thanh tịnh. Lành thay cho Vi Ðề Hy khéo hỏi được việc ấy. Này A Nan! Ông nên thọ trì, rộng vì đại chúng mà tuyên nói lời Phật. Hôm nay Như Lai vì Vi Ðề Hy và tất cả chúng sinh đời vị lai, quán sát thế giới Cực Lạc ở phương Tây, do oai lực của Phật nên sẽ thấy được quốc độ thanh tịnh ấy, như cầm gương sáng tự thấy hình tượng mặt mình. Thấy những sự vui cùng cực vi diệu của quốc độ ấy, nên tâm vui mừng, ứng thời liền được Vô sinh Pháp nhẫn.” Kinh Vô Lượng Thọ: "Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đệ nhứt nhẫn, đệ nhị nhẫn và đệ tam pháp nhẫn, nơi các Phật pháp chẳng liền được bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác." (Nguyện 48) "Này A Nan! Nếu hàng thiên nhơn ở nước An Lạc thấy cây đạo tràng ấy thì được ba pháp nhẫn: một là âm hưởng nhẫn, hai là nhu thuận nhẫn, ba là vô sinh pháp nhẫn." Âm hưởng nhẫn: do âm hưởng mà ngộ giải chân lý. Nhu thuận nhẫn: tuệ tâm như nhuyến, có khả năng tùy thuận chân lý. Vô sinh pháp nhẫn: chứng thật tánh vô sinh mà ly các tướng.
[29] Tán thán Đại sư Thiện Đạo, có 8 câu, y theo Vãng Sinh Lễ Tán.
[30] Kinh Quán Vô Lượng Thọ: “Ðức Phật bảo A Nan và Vi Ðề Hi: Người Hạ Phẩm Thượng Sanh ấy: Hoặc có chúng sanh tạo những nghiệp ác. Người ngu như vậy, dầu chẳng hủy báng Kinh điển Phương Ðẳng Ðại Thừa, mà tạo nhiều việc ác, không có tàm quí. Người này lúc lâm chung, gặp thiện tri thức vì họ mà nói mười hai bộ Kinh Ðại Thừa danh tự đầu đề. Do nghe tên các kinh như vậy, dứt trừ ngàn kiếp ác nghiệp cực trọng. Trí giả lại bảo chắp tay xếp cánh, xưng Nam Mô A Di Ðà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trừ năm mươi ức kiếp tội sanh tử.” (H.T Trí Tịnh dịch) Thương nhân Nguyên Tín nói: “Người ác cực trọng không có phương tiện nào khác, chỉ xưng niệm A Di Đà Phật mà được sinh Cực Lạc.” (Cực trọng ác nhân, vô tha phương tiện; duy xưng Di Đà, đắc sinh Cực Lạc. 極重惡人,無他方便;唯稱彌陀,得生極樂.)
[31] Phàm phu chúng ta bị phiền não ngăn che, mắt không thấy ánh sáng của Phật, mà ánh sáng “đại bi” của Phật chiếu soi chúng ta không biết mỏi mệt.
[32] Tán thán Thượng nhân Nguyên Tín, có 8 câu, y theo Vãng Sinh Yếu Tập.
[33] Phiến Châu (片州) chỉ cho Nhật Bản.
[34] Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập, No. 2608, Nguyên Không soạn, tr. 12b15: “Thâm tâm, là lòng tin sâu xa. Nên biết, nhà sinh tử lấy nghi ngờ làm chỗ dựa; thành Niết-bàn lấy lòng tin để đi vào.”
[35] Tán thán Thượng nhân Nguyên Không – Pháp Nhiên, có 8 câu, y theo Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập.
[36] Tổng kết công đức cứu giúp của chư Tổ. Những lời dạy của các cao tăng lỗi lạc ở Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản đã truyền lại chính xác công đức vĩ đại của “Nam mô A Di Đà Phật” do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng dạy.
Quy mạng Vô Lượng Thọ Như Lai
Nam mô Bất Khả Tư Nghị Quang
Bồ-tát Pháp Tạng lúc nhân vị
Đến chỗ Phật Thế Tự Tại Vương
Thấy nhân tố tịnh độ chư Phật
Thiện ác nhân thiên cùng quốc độ
Kiến lập nguyện thù thắng vô thượng
Khởi phát thệ rộng lớn hiếm có
Năm kiếp suy xét để nhiếp lấy
Nguyện rằng danh tiếng vang mười phương
Vô Lượng, Vô Biên Quang tỏa khắp
Vô ngại, Vô Đối Quang, Viêm Vương
Thanh Tịnh, Hoan Hỷ, Trí Tuệ Quang
Bất Đoạn, Nan Tư, Vô Xứng Quang
Siêu Nhật Nguyệt Quang chiếu cõi bụi
Tất cả quần sinh mong sáng soi
Bản nguyện danh hiệu[1] chánh định nghiệp[2]
Chí tâm tín lạc nguyện[3] làm nhân
Thành Đẳng giác, chứng Đại Niết-bàn
Tất chí diệt độ nguyện[4] thành tựu
Như lai sở dĩ hiện ở đời
Chỉ nói Di Đà bản nguyện hải
Thời ác năm trược biển quần sinh
Phải tin lời thật của Như Lai
Phát khởi một niệm tâm hỷ ái[5]
Chẳng đoạn phiền não được Niết-bàn
Phàm Thánh, nghịch báng cùng hồi nhập
Các sông vào biển một mùi vị
Nhiếp thủ tâm quang thường soi giữ[6]
Bóng tối vô minh bị phá vỡ
Tham ái giận ghét làm mây mù
Che bầu trời tín tâm chân thật[7]
Khi mặt nhật bị mây mù che
Dưới mây mù vẫn sáng không tối
Được tín, thấy kính rất mừng vui [8]
Liền vượt ngang[9] cắt năm đường ác
Tất cả thiện ác kẻ phàm phu
Nghe tin Như Lai hoằng thệ nguyện
Phật nói bậc thắng giải rộng lớn
Người ấy là hoa phân-đà-lợi[10]
Phật Di Đà, bản nguyện niệm Phật
Chúng sinh ác, tà kiến kiêu mạn
Tín lạc thọ trì rất là khó[11]
Khó trong khó không gì qua đây.[12]
Những Luận sư Ấn Độ Tây thiên
Cùng cao Tăng Trung Hạ, Nhật Bản
Nói ý thú Đức Phật xuất thế
Bày Như Lai bản nguyện ứng cơ[13]
Thích Ca Như Lai núi Lăng Già
Vì chúng huyền ký Nam Thiên Trúc
Đại sĩ Long Thọ hiện ra đời
Phá vỡ mọi kiến chấp hữu vô
Tuyên thuyết pháp Đại thừa vô thượng
Chứng Hoan hỷ địa, sinh An Lạc[14]
Bày tỏ nan hành đi bộ khổ
Tin ưa dị hành đường thủy vui
Nhớ nghĩ Di Đà bản nguyện Phật
Tự nhiên tức thời nhập Tất định
Chỉ phải thường xưng Như Lai hiệu
Để báo ơn hoằng thệ đại bi.[15]
Bồ-tát Thiên Thân tạo luận thuyết
Quy mạng Vô Ngại Quang Như Lai
Y tu-đa-la bày chân thật
Khai sáng Hoành siêu đại thệ nguyện
Noi theo bản nguyện lực hồi hướng[16]
Vì độ quần sinh nói nhất tâm
Trở về biển đại bảo công đức [17]
Mong được vào số Đại chúng hội
Được đến thế giới Liên Hoa Tạng Liền chứng Chân như Pháp tánh thân
Dạo rừng phiền não, hiện thần thông
Vào vườn sinh tử, thị Ứng hóa.[18]
Bổn sư Đàm Loan: Lương thiên tử[19]
Thường hướng lễ Đàm Loan Bồ-tát
Tam tạng Lưu Chi trao tịnh giáo
Đốt bỏ Tiên Kinh quy Lạc bang[20]
Chú giải Thiên Thân Bồ-tát luận
Báo độ nhân quả bày thệ nguyện
Vãng hoàn hồi hướng do tha lực
Nhân của chánh định là tín tâm
Phàm phu hoặc nhiễm tín tâm phát
Chứng biết sinh tử tức Niết-bàn[21]
Ắt đến cõi Vô Lượng Quang Minh[22]
Chúng sinh các hữu đều phổ hóa.[23]
Đạo Xước dạy Thánh đạo khó chứng
Chỉ có Tịnh độ dễ thông nhập
Vạn thiện tự lực gièm siêng tu
Viên mãn đức hiệu khuyên chuyên xưng
Tam bất tam tín[24] dạy ân cần
Tượng, mạt, pháp diệt đồng bi dẫn
Một đời tạo ác gặp hoằng thệ
Đến cõi An Dưỡng chứng diệu quả.[25]
Thiện Đạo sáng tỏ ý chỉ Phật
Thương xót định tán và nghịch ác
Ánh sáng, danh hiệu bày nhân duyên[26]
Đi vào Bản nguyện đại trí hải
Hành giả tiếp nhận Kim cương tâm
Rồi vui mừng nhất niệm tương ưng[27]
Vi Đề, chúng sinh được ba nhẫn[28]
Liền chứng thường lạc Pháp tánh thân.[29]
Nguyên Tín rộng mở Giáo một đời
Nghiêng về An Dưỡng khuyên tất cả
Chuyên tạp chấp tâm rõ cạn sâu
Báo hóa hai độ kiến tạo xong
Người ác cực trọng chỉ niệm Phật[30]
Phật đã nhiếp lấy người ấy rồi
Phiền não chướng, mắt dù không thấy
Đại bi không mệt chiếu thân ta[31].[32]
Bổn sư Nguyên Không hiểu lời Phật
Thương xót kẻ phàm phu thiện ác
Phiến Châu[33] hưng Chân tông Giáo chứng
Tuyển Trạch Bản Nguyện hoằng đời ác
Trở lại sinh tử, luân chuyển nhà
Bởi lấy nghi tình làm chỗ dựa
Mau nhập vắng lặng vui vô vi
Phải dùng tín tâm để đi vào[34].[35]
Đại sĩ hoằng Kinh, chư Tông sư
Cứu giúp vô biên dữ vẩn đục
Mọi người đạo tục chung một lòng
Chỉ tin những gì cao Tăng nói.[36]
[60 dòng đã xong, 120 câu.]
[1] Bản nguyện danh hiệu là nguyện 17.
[2] Chánh định nghiệp là xưng danh niệm Phật, vì thuận và hành theo bản nguyện của Đức Phật A Di Đà, cho nên cho nên người tu nương vào bản nguyện của Đức Phật A Di Đà, ắt sẽ vãng sinh Cực Lạc.
[3] Chí tâm tín lạc nguyện (至心信樂願) là nguyện 18.
[4] Tất chí diệt độ nguyện (必至滅度願) là nguyện 11: “Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhân ở nước tôi, chẳng an trụ định tụ, quyết đến diệt độ, thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.”
[5] Một niệm tín tâm chân thật. Hỷ là hoan hỷ. Ái là ái lạc. Hỷ ái là tín lạc.
[6] Tâm quang nhiếp hộ (心光攝護): Ánh sáng từ tâm đức Phật A Di Đà phát ra chiếu soi và hộ trì hành giả niệm Phật. Quán niệm Pháp môn (Đại 47, 25 trung) nói: “Tâm quang của đức Phật kia thường chiếu soi người ấy, nhiếp hộ không bỏ, lại chiếu soi nhiếp hộ cả các hành giả tu những tạp nghiệp khác, đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm đời hiện tại.”
[7] Thực ra, bóng tối “vô minh” lẽ ra đã bị ánh sáng đại bi của Đức Phật A Di Đà tiêu diệt rồi. Tuy nhiên, một đám mây mù tham ái, giận ghét luôn bao phủ bầu trời của “tín tâm chân thật”. Tín tâm chân thật là niềm tin hướng về Đức Phật A Di Đà, đó không phải là niềm tin do chính mình tạo ra, mà là niềm tin nhận được từ bản nguyện lực của Đức Phật A Di Đà.
[8] Kinh Vô Lượng Thọ: “Người có tín tuệ khó, Nếu nghe siêng năng cầu, Nghe pháp được chẳng quên, Thấy kính rất mừng vui.” Kiến kính (見敬): gặp mặt, thể hiện sự kính lễ.
[9] Hoành siêu (橫超): Vượt ngang. Chỉ cho pháp môn không cần phải trải qua thứ tự các giai vị mà hành giả có thể đạt được Vô thượng Niết bàn một cách nhanh chóng. Một trong Nhị song tứ trùng giáo phán (二雙四重教判) của Tịnh độ Chân tông Nhật bản. Pháp môn này tức là ý nghĩa chân thực của bản nguyện Di Đà. Ngài Thiện Đạo, Tổ sư của tông Tịnh độ Trung quốc, đã căn cứ vào ý nghĩa của câu: Hoành tiệt ngũ ác thú, ác thú tự nhiên bế (橫截五惡趣,惡趣自然閉. Cắt ngang năm đường ác, đường ác tự nhiên dứt) trong kinh Vô Lượng Thọ quyển hạ (Đại 12, 274 trung) mà lập thuyết Hoành siêu đoạn tứ lưu (橫超斷四流. Vượt ngang dứt bốn dòng), tức có hàm nghĩa Nhất thừa đốn giáo trong đó. Ngài Thân Loan, Tổ khai sáng của Tịnh độ Chân tông Nhật bản, noi theo thuyết của ngài Thiện Đạo, cho rằng Hoành siêu tức là ý nghĩa chọn Báo độ chân thực của bản nguyện thì liền được vãng sinh. Cũng tức là đối với bản nguyện của Phật Di Đà một lòng tin sâu, không hoài nghi, theo nguyện lực của Ngài mà tu hành, tâm không tán loạn, thì sau khi mạng chung sẽ trực tiếp được sinh về Báo độ chân thực. Vì Hoành siêu là nhờ vào bản nguyện tha lực của Phật nên bản nguyện của Ngài cũng được gọi là Hoành siêu đại thệ nguyện (橫超大誓願). Ngoài ra, do sự hồi hướng bản nguyện lực của Tín tâm kim cương có khả năng cắt ngang 5 đường ác, siêu chứng Đại niết bàn, cho nên cũng gọi là Hoành siêu kim cương tâm (橫超金剛心).
[10] Kinh Quán Vô Lượng Thọ: “Nếu có người niệm Phật, nên biết người đó là hoa Phân đà lợi trong loài người, các vị Bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí là bạn thù thắng của người đó, người đó sẽ ngồi đạo tràng, sinh vào nhà Phật.”
[11] Kinh Vô Lượng Thọ, quyển hạ: “Nếu nghe kinh nầy mà tin ưa thọ trì thì là khó trong khó, không gì khó hơn. Vì thế nên pháp của Ta, làm như vậy, nói như vậy, dạy như vậy, phải nên tin thuận y theo tu hành.”
[12] Quy mạng … gì qua đây: là lấy ý của kinh Vô Lượng Thọ, có 44 câu.
[13] Tổng nêu Tổ sư ba nước cùng nói nghĩa lý Tịnh độ, có 4 câu.
[14] Trong kinh Nhập Lăng Già, No. 671, tr. 569a24, Đức Phật đã huyền ký: “Đại quốc ở phương Nam, Có Đại đức Tỳ-kheo, Tên Long Thọ Bồ-tát, Phá kiến chấp hữu vô, Vì người nói pháp Ta, Pháp Đại thừa vô thượng, Chứng được Hoan Hỷ địa, Vãng sinh An Lạc quốc.” Kinh Đại Thừa Nhập Lăng Già, No. 672, tr. 627c19: “Trong nước Nam Thiên Trúc, Tỳ-kheo danh đức lớn, Danh hiệu là Long Thọ, Phá hai tông hữu vô, Thế gian nói pháp Ta, Pháp Đại thừa vô thượng, Được Sơ Hoan Hỷ địa, Vãng sinh An Lạc quốc.”
[15] Tán thán Bồ-tát Long Thọ, có 12 câu: 4 câu đầu y theo kinh Lăng già, và 8 câu sau y theo luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa.
[16] Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá Nguyện Sinh Kệ Chú, quyển hạ, tr. 833c16: “Hồi hướng là hồi công đức của mình để thí khắp cho chúng sinh, cùng được gặp A Di Đà Như Lai, cùng sinh về nước An Lạc.”
[17] Công đức đại bảo hải (功德大寶海). Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá: "Quán Phật bản nguyện lực, Người gặp không luống uổng, Khiến mau được đầy đủ, Biển đại bảo công đức."
[18] Tán thán Bồ-tát Thiên Thân, có 12 câu, y theo Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá Nguyện Sinh Kệ (còn gọi Tịnh Độ Luận).
[19] Tịnh Độ Luận (淨土論), No. 1963, Ca Tài soạn, quyển hạ, tr. 97c09: “Pháp sư Đàm Loan người Vấn Thủy, châu Tinh, sống vào cuối đời Ngụy, đầu đời Cao Tề. Sư có tâm trí cao xa, vang danh ở ba nước (Lương, Đông Ngụy và Tây Ngụy), thông hiểu các kinh, kiến thức hơn người. Tiêu Vương, vua nước Lương, thường quay mặt về phía bắc lễ và tôn xưng Sư là Bồ-tát Đàm Loan. Sư soạn bản chú giải luận Vãng Sinh của bồ-tát Thiên Thân gồm 2 quyển, và soạn tập Vô Lượng Thọ Kinh 1 quyển có kèm theo 195 hàng kệ thất ngôn và những câu vấn đáp, cho lưu hành ở đời để khuyên người xuất gia lẫn tại gia quyết định cầu vãng sinh được thấy Phật A Di Đà.”
[20] Đại sư Đàm Loan thuở nhỏ dạo chơi non Ngũ Đài, cảm điềm linh dị mà xuất gia. Ngài ưa thuật trường sanh, từng theo Đào Ẩn Cư thọ mười quyển Tiên Kinh. Sau gặp ngài Bồ Đề Lưu Chi, đại sư hỏi: “Đạo Phật có thuật trường sinh chăng?” Ngài Lưu Chi trao cho kinh Thập Lục Quán và bảo: “Đây là phép trường sinh của Phật giáo”. Đại sư cả mừng, liền đốt Tiên Kinh, chuyên tu tịnh nghiệp, dù đau yếu cũng không tạm nghỉ. (Quê Hương Cực Lạc – H.T Thích Thiền Tâm dịch)
[21] Đối với sinh tử và Niết-bàn mà khởi Bình đẳng trí, bấy giờ do sự chứng ngộ đây mà biết “sinh tử tức Niết-bàn”, gọi là Vô trú Niết-bàn. Vô trú Niết-bàn là bỏ tạp nhiễm (phiền não) mà không bỏ sinh tử, nên không trú nơi sinh tử, mà cũng không trú nơi Niết-bàn. Vô trú Niết-bàn được đại bi, đại trí vĩnh viễn phụ lực nên không ở sinh tử, không trú Niết-bàn, lợi lạc chúng sinh, tận cùng vị lai hoạt dụng mà thường tịch.
[22] Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, No. 361, Chi Lâu-ca-sấm dịch, quyển 2, tr. 288c06: “Nhanh chóng vượt ngay để đến, Thế giới của An Lạc quốc, Đến cõi Vô Lượng Quang Minh, Cúng dường nơi vô số Phật.”
[23] Tán thán Đại sư Đàm Loan, có 12 câu, y theo Vô Lượng Thọ Kinh Ưu-bà-đề-xá Nguyện Sinh Kệ Chú.
[24] Tam tín tam bất (三信三不): Cũng gọi Tam bất tam tín (三不三信). Chỉ cho 3 thứ tâm tin và 3 thứ tâm không tin do ngài Đàm Loan thuộc tông Tịnh độ của Phật giáo Trung quốc nêu ra. Tam tín tâm là: 1. Thuần tâm: Tâm có niềm tin bền vững; 2. Nhất tâm: Tâm chỉ tin không nghi; 3. Tương tục tâm: Tâm liên tục không gián đoạn. Trái lại, tín tâm không thuần, tín tâm bất nhất, tín tâm không tương tục thì gọi là Tam bất tín. Nếu phối hợp Tam tín này với các Tam tâm thì Thuần tâm lìa hư giả không thật, hợp với Chí tâm; Nhất tâm thì chuyên nhất không hai, phối với Tín lạc; còn Tương tục tâm thì không bị dị học, dị kiến làm tổn hại, phối với Dục sinh tâm.
[25] Tán thán Đại sư Đạo Xước, có 8 câu, y theo An Lạc Tập.
[26] Đức Phật A Di Đà cứu độ tất cả chúng sinh bằng nhân duyên của ánh sáng và danh hiệu. Tất cả chúng sinh đều có thể vãng sinh về báo độ Cực Lạc là do danh hiệu. Danh hiệu là nhân năng sinh, giống như một người cha. Ánh sáng là duyên sở sinh, giống như một người mẹ. Hồng danh và ánh sáng là nhân duyên để tất cả chúng sinh được vãng sinh Cực Lạc. Tín tâm là nhân bên trong, ánh sáng và danh hiệu là duyên bên ngoài. Tín tâm là nhân chân thật của Niết-bàn phát sinh từ nội tâm của tất cả chúng sinh, và ánh sáng và danh hiệu là nhân duyên của tín tâm phát sinh từ Như Lai khiến có sự suy lường bên ngoài.
[27] Hành giả nhất tâm niệm Phật là một niệm vui mừng có được Kim cương tín tâm.
[28] Kinh Quán Vô Lượng Thọ: “Ðức Phật bảo A Nan và Vi Ðề Hy rằng: Lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghĩ nhớ kỹ. Nay Như Lai vì tất cả chúng sinh đời vị lai, những kẻ bị giặc phiền não nhiễu hại mà nói nghiệp thanh tịnh. Lành thay cho Vi Ðề Hy khéo hỏi được việc ấy. Này A Nan! Ông nên thọ trì, rộng vì đại chúng mà tuyên nói lời Phật. Hôm nay Như Lai vì Vi Ðề Hy và tất cả chúng sinh đời vị lai, quán sát thế giới Cực Lạc ở phương Tây, do oai lực của Phật nên sẽ thấy được quốc độ thanh tịnh ấy, như cầm gương sáng tự thấy hình tượng mặt mình. Thấy những sự vui cùng cực vi diệu của quốc độ ấy, nên tâm vui mừng, ứng thời liền được Vô sinh Pháp nhẫn.” Kinh Vô Lượng Thọ: "Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đệ nhứt nhẫn, đệ nhị nhẫn và đệ tam pháp nhẫn, nơi các Phật pháp chẳng liền được bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác." (Nguyện 48) "Này A Nan! Nếu hàng thiên nhơn ở nước An Lạc thấy cây đạo tràng ấy thì được ba pháp nhẫn: một là âm hưởng nhẫn, hai là nhu thuận nhẫn, ba là vô sinh pháp nhẫn." Âm hưởng nhẫn: do âm hưởng mà ngộ giải chân lý. Nhu thuận nhẫn: tuệ tâm như nhuyến, có khả năng tùy thuận chân lý. Vô sinh pháp nhẫn: chứng thật tánh vô sinh mà ly các tướng.
[29] Tán thán Đại sư Thiện Đạo, có 8 câu, y theo Vãng Sinh Lễ Tán.
[30] Kinh Quán Vô Lượng Thọ: “Ðức Phật bảo A Nan và Vi Ðề Hi: Người Hạ Phẩm Thượng Sanh ấy: Hoặc có chúng sanh tạo những nghiệp ác. Người ngu như vậy, dầu chẳng hủy báng Kinh điển Phương Ðẳng Ðại Thừa, mà tạo nhiều việc ác, không có tàm quí. Người này lúc lâm chung, gặp thiện tri thức vì họ mà nói mười hai bộ Kinh Ðại Thừa danh tự đầu đề. Do nghe tên các kinh như vậy, dứt trừ ngàn kiếp ác nghiệp cực trọng. Trí giả lại bảo chắp tay xếp cánh, xưng Nam Mô A Di Ðà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trừ năm mươi ức kiếp tội sanh tử.” (H.T Trí Tịnh dịch) Thương nhân Nguyên Tín nói: “Người ác cực trọng không có phương tiện nào khác, chỉ xưng niệm A Di Đà Phật mà được sinh Cực Lạc.” (Cực trọng ác nhân, vô tha phương tiện; duy xưng Di Đà, đắc sinh Cực Lạc. 極重惡人,無他方便;唯稱彌陀,得生極樂.)
[31] Phàm phu chúng ta bị phiền não ngăn che, mắt không thấy ánh sáng của Phật, mà ánh sáng “đại bi” của Phật chiếu soi chúng ta không biết mỏi mệt.
[32] Tán thán Thượng nhân Nguyên Tín, có 8 câu, y theo Vãng Sinh Yếu Tập.
[33] Phiến Châu (片州) chỉ cho Nhật Bản.
[34] Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập, No. 2608, Nguyên Không soạn, tr. 12b15: “Thâm tâm, là lòng tin sâu xa. Nên biết, nhà sinh tử lấy nghi ngờ làm chỗ dựa; thành Niết-bàn lấy lòng tin để đi vào.”
[35] Tán thán Thượng nhân Nguyên Không – Pháp Nhiên, có 8 câu, y theo Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập.
[36] Tổng kết công đức cứu giúp của chư Tổ. Những lời dạy của các cao tăng lỗi lạc ở Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản đã truyền lại chính xác công đức vĩ đại của “Nam mô A Di Đà Phật” do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng dạy.