1. Thế nào là tin ở mình?
Người tu học mà tin ở mình là: tin ở cái tâm tính của mình (1), nó chỉ hiện ra trong một loáng (một niệm). Tâm tính của mình đây chẳng phải là trái tim thịt đâu, chẳng phải là những cái bóng trần duyên mình tưởng tượng thấy hiện ra ở trong khối óc, trái tim đâu. Tâm tính của mình đây: về thời gian, nó không có lúc nào là kiếp trước của nó, không có lúc nào là kiếp sau của nó; về không gian, nó không có chỗ nào là bến bờ của nó. Lúc nào cũng có nó, chỗ nào cũng có nó, nó tràn đầy khắp cả vũ trụ, khắp không gian vô biên, khắp thời gian vô tận. Tâm tính của mình, suốt ngày nó theo mọi trần duyên, suốt ngày nó chẳng hề biến đổi.
Cả quãng hư không mênh mông bát ngát khắp mười phương và bao nhiêu thế giới nhiều như vi trần đang quay cuồng ở trong đó, đều là những vật bị tạo ra ở trong tâm tính của mình trong một niệm hiện ra đây. Mặc dầu mình tối tăm điên đảo, mê hoặc, không nhận rõ được tâm tính của mình nó bao la rộng lớn như thế, nhưng nếu mình chịu hồi tâm trong một niệm (một loáng) thì quyết định là mình sẽ được sinh vào cái thế giới Cực Lạc, là cái thế giới vốn sẵn có đủ ở trong tâm tính của mình, không còn nghi ngờ gì nữa.
Tin như thế gọi là Tin ở mình (tức là tin ở cái tâm tính chân thực của mình, trong nó có sẵn mầm nhân để tạo ra thế giới Cực Lạc).
-----------
(1) Người tu học đừng có hững hờ, chểnh mảng, phải hết lòng đặt mình vào với cái tâm tính chân thực này, và phải gắng hết sức diệt cho hết cái tâm nghĩ ngợi lăng xăng nó luôn đến luôn luôn, làm rối loạn và bưng bít mất tâm chân thực không cho hiện ra.
Yếu Giải: "Người tu học mà tin ở mình là: tin ở cái tâm tính của mình (1), nó chỉ hiện ra trong một loáng (một niệm)."
Học Giải:
"Người tu học" - là nói cho tất cả những ai đang học Phật Pháp và đang thực hành Phật Pháp. Phật pháp chẳng phải là tôn giáo mà là nền giáo dục của Phật Đà đối với pháp giới chúng sanh. Khi chúng ta quy y Phật thì tôn Phật làm thầy, chúng ta là học trò. Cho nên chúng ta cầu Phật giúp tức là cầu ngay cái giáo pháp của Phật để chúng ta học hiểu và thực hành, để mang lại sự giải thoát và giác ngộ cho mình và người. Chứ không phải là cầu Phật biến hóa bằng thần thông nầy nọ để cứu mình. Vì vậy mới gọi là người tu học, phải học và phải tu tập giáo pháp của Phật. Nếu không đem lời dạy của Phật ra học, và thực hành thì mình chẳng phải là người tu học vậy.
"Tin ở mình là tin ở cái tâm tính của mình" - Chúng ta phải có tự tin, tức có lòng tin nơi chính mình. Mình đây không phải là cái thân máu mũ nầy, mà là tâm tánh. Tâm tánh nầy ai cũng có cả. Chẳng qua chúng ta không nhận thấy được nó mà thôi vì hằng ngày chúng ta nghĩ ngợi lăng xăng rồi cho những thứ vọng tâm (thức) đó là mình bỏ đi cái tâm tánh sáng ngời rộng khắp của chính mình sẵn có.
"Nó chỉ hiện ra trong một niệm" - tức chỉ cái tâm tánh sáng ngời rộng khắp của mình sẵn có chỉ có thể hiện khi mình đạt được Nhất Tâm hay Nhứt Niệm. Nói Nhứt Tâm hay Nhứt Niệm nghĩa là không còn niệm thứ hai, không còn niệm nào khác vậy. Hằng ngày chúng ta có vô số niệm vọng tưởng nên không thể nào thấy biết được tâm tánh của chính mình. Vì vậy cần phải gom các vọng niệm về một niệm "Nam Mô A Mi Đà Phật" để được nhất tâm. Ngay đó ta trực nhận thể tánh của nhất niệm là vô niệm.
Yếu giải: "Tâm tính của mình đây chẳng phải là trái tim thịt đâu, chẳng phải là những cái bóng trần duyên mình tưởng tượng thấy hiện ra ở trong khối óc, trái tim đâu."
Học Giải:
"Tâm tính của mình đây chẳng phải là trái tim thịt đâu" - Chữ "Tâm" và "Trái tim" người Trung Quốc viết giống nhau nên dễ bị hiểu lầm. Cho nên phải đính chính Tâm Tánh chẳng phải là trái tim bằng thịt thôi thớp.
"chẳng phải là những cái bóng trần duyên mình tưởng tượng thấy hiện ra ở trong khối óc, trái tim đâu." - Không phải tâm tánh là trái tim, mà nó cũng chẳng phải là những bóng trần (pháp trần) tưởng tưởng ở trong đầu. Thí dụ nghe nói "trái tim" thì liền trong đầu mình hiện cái bóng ảnh của trái tim. Đây là do vì mình từng thấy trái tim qua con mắt, rồi nó lưu nạp vào bộ nhớ ở trong đầu (nhà Phật gọi là A Lại Da Tàng Thức), khi duyên đến thì nó sẽ hiện ra.
Những thứ bóng ảnh đó gọi là pháp trần. Pháp trần là một trong Lục trần:
1. Sắc trần
2. Thanh trần
3. Hương trần
4. Vị trần
5. Súc trần
6. Pháp trần
Năm trần đầu tiên ở bên ngoài tiếp súc với Năm Căn đầu tức (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân căn) mà sanh ra Năm Thức (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thức).
Lưu lại thành bóng ảnh ở bên trong tức Pháp trần. Pháp trần tiếp súc với Ý căn (bộ óc) sanh ra Ý Thức.
Ý thức phân biệt tốt sấu thiện ác v.v... nhờ Mạt Na Thức đem vào kho báo A Lại Da Tàng Thức. Chủng tử được cất chứa, theo nghiệp chủng tử thiện ác mà luân hồi sanh tử trong sáu đường (Trời, Người, A Tu La, Súc sanh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục) để thọ quả báo.
Yếu Giải: "Tâm tính của mình đây: về thời gian, nó không có lúc nào là kiếp trước của nó, không có lúc nào là kiếp sau của nó; về không gian, nó không có chỗ nào là bến bờ của nó. Lúc nào cũng có nó, chỗ nào cũng có nó, nó tràn đầy khắp cả vũ trụ, khắp không gian vô biên, khắp thời gian vô tận. Tâm tính của mình, suốt ngày nó theo mọi trần duyên, suốt ngày nó chẳng hề biến đổi."
Học Giải:
"Tâm tính của mình đây: về thời gian, nó không có lúc nào là kiếp trước của nó, không có lúc nào là kiếp sau của nó" - Ở đây có hai cách hiểu:
1) Có kiếp trước và kiếp sau là do mình dựa trên hoàn cảnh, tướng trạng đổi dời mà đặc ra như vậy. Như hoa nở thì cho là mùa xuân, hoa tàn thì mùa thu. Trải qua bốn mùa thì gọi là một năm. Giả sử như nếu không có bốn mùa, không có đồng hồ thì còn đâu là thời gian? Ra khỏi trái đất ở trong vũ trụ thì lấy gì mà làm thời gian? Khi con người nhân duyên hết thân thất đại trả về cho thất đại, khi nhân duyên kết thành thì hoàn thất đại thành một thân khác. Thấy có tan có hợp trên tướng trạng như vậy mà tạm cho là có thời gian vậy thôi. Chứ tâm tánh lúc nào lại không có? Mặt trời lúc nào lại không chiếu sáng, chẳng qua trái đất soay tròn mà có ngày có đêm đấy thôi.
2) Vì Tâm Tánh của mình là Nhất Tâm, Nhất Niệm thì chẳng có đối đãi của thời gian trước sau. Cho nên không có kiếp trước, kiếp sau, mà có chỉ là mình đặc ra để ý thức phân biệt thời gian vậy thôi. Chứ kỳ thực thời gian không có thật.
"về không gian, nó không có chỗ nào là bến bờ của nó." - Về không gian cũng thế, chẳng có bến bờ. Không thể nói hư không ở bên Việt Nam khác với hư không ở bên Mỹ được. Cũng thế tâm tánh cùng khắp chẳng thể chia ra tâm tánh nầy là của mình, tâm tánh kia là của người, cũng chẳng thế nói tâm tánh nó ở Ta Bà khác với tâm tánh nó ở Cực Lạc, bởi vì tâm tánh không chổ nào là không có.
"Lúc nào cũng có nó, chỗ nào cũng có nó, nó tràn đầy khắp cả vũ trụ, khắp không gian vô biên, khắp thời gian vô tận." - Lúc nào về thời gian cũng có tâm tánh, ở nơi nào trong không gian cũng có nó, nó khắp cả vũ trụ, không gian không có biên giới, thời gian không có cùng tận, tâm tánh nó cũng không biên giới không cùng tận. Vì thế mới gọi là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang.
"Tâm tính của mình, suốt ngày nó theo mọi trần duyên, suốt ngày nó chẳng hề biến đổi." - Tâm tánh của mình tuy suốt ngày theo các trần duyên mà bản thể chẳng hề biến đổi. Giống như theo duyên mà có nhẫn vàng, lắc vàng, dây chuyền vàng, hình tướng khác nhau mà thể chất vàng vẫn chẳng biến đổi.
Yếu Giải: "Cả quãng hư không mênh mông bát ngát khắp mười phương và bao nhiêu thế giới nhiều như vi trần đang quay cuồng ở trong đó, đều là những vật bị tạo ra ở trong tâm tính của mình trong một niệm hiện ra đây. Mặc dầu mình tối tăm điên đảo, mê hoặc, không nhận rõ được tâm tính của mình nó bao la rộng lớn như thế, nhưng nếu mình chịu hồi tâm trong một niệm (một loáng) thì quyết định là mình sẽ được sinh vào cái thế giới Cực Lạc, là cái thế giới vốn sẵn có đủ ở trong tâm tính của mình, không còn nghi ngờ gì nữa.
Tin như thế gọi là Tin ở mình (tức là tin ở cái tâm tính chân thực của mình, trong nó có sẵn mầm nhân để tạo ra thế giới Cực Lạc)."
Học Giải:
"Cả quãng hư không mênh mông bát ngát khắp mười phương và bao nhiêu thế giới nhiều như vi trần đang quay cuồng ở trong đó, đều là những vật bị tạo ra ở trong tâm tính của mình trong một niệm hiện ra đây." - Cái hư không mênh mông bát ngát khắp mười phương và thế giới nhiều như hạt bụi đang tuần hoàn biến đổi thành-trụ-hoại-không ở trong đó, hoàn toàn là những thứ được tạo ra ở trong tâm tánh của mình trong một niệm hiện ra đó vậy. Những thứ hư không và thế giới đó đều là "tướng" duyên sinh được hiện ra từ tâm tánh mình. Nói một cách khác, những vật đó đều là tâm tánh của mình.
"Mặc dầu mình tối tăm điên đảo, mê hoặc, không nhận rõ được tâm tính của mình nó bao la rộng lớn như thế, nhưng nếu mình chịu hồi tâm trong một niệm (một loáng) thì quyết định là mình sẽ được sinh vào cái thế giới Cực Lạc, là cái thế giới vốn sẵn có đủ ở trong tâm tính của mình, không còn nghi ngờ gì nữa." - Tuy chúng mình mê mờ điên đảo không nhận rỏ được tâm tánh của mình nó vốn bao la rộng lớn như thế, nhưng nếu mình chịu quay trở về cái tâm trong một niệm thì nhứt định mình sẽ được sanh về cái thế giới Cực Lạc. Cái thế giới đó vốn sẵn có đủ ở trong tâm tánh của mình, không còn nghi ngờ gì nữa cả.
"Tin như thế gọi là Tin ở mình (tức là tin ở cái tâm tính chân thực của mình, trong nó có sẵn mầm nhân để tạo ra thế giới Cực Lạc)." - Nếu chịu quay về với tâm tánh của mình, nhận hiểu và tin nhận mười phương thế giới, ngay cả Cực Lạc thế giới cũng chẳng ngoài cái tâm tánh của mình, mà mình hồi đầu quay về với tâm tánh đó, tức mình sẽ được sanh về cõi Cực Lạc. Chỉ có tin nhận như thế thì mới gọi là Tin ở Mình (Tín Tự).
Chúng ta không nên nghi rằng "Tôi không thể vãng sanh Cực Lạc vì bất kỳ một lý do nào như là tôi nghiệp nặng, tôi vẫn còn mê, tôi không đủ khả năng v.v..."
Nghĩ như vậy tức là không Tin ở nơi Chính Mình, không tin Tâm Tánh của mình vốn sẵn có mười phương cõi Phật. Ngay cả thế giới Cực Lạc cũng chẳng ngoài tam tánh mình.
Nếu không tin ở mình, ở tâm tánh mình thì làm sao vãng sanh Cực Lạc? Dù ta vẫn còn mê muội điên đảo chưa thấy được tâm tánh nhiệm mầu của mình, nhưng mình tin rằng mình có tâm tánh/Phật tánh và các thế giới mười phương ngay cả Cực Lạc thế giới cũng chẳng ngoài tâm tánh đó, nhưng nếu ta hồi đầu niệm Phật thì ngay nơi mỗi niệm đó không còn niệm nào khác, tức tâm tánh sẽ hiện tiền, Cực Lạc sẽ hiện tiền vậy.