Trích đăng Truyền Đăng Lục Quyển 4

lavinhcuong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
30 Thg 7 2010
Bài viết
803
Điểm tương tác
677
Điểm
93
Bài 49

PHÁP TỰ CỦA THIỀN SƯ HUYỀN TỐ CHÙA HẠC LÂM, NHUẬN CHÂU

4. THIỀN SƯ ĐẠO KHÂM 道欽禪師 Ở KÍNH SƠN, HÀNG CHÂU.


Người thuộc Côn Sơn, Tô Châu, họ Chu. Ban đầu ôm ấp lòng khâm phục Nho giáo, năm 28 tuổi Sư gặp thiền sư Huyền Tố, nhân đó Tố bảo:

- Xem ông thần khí ôn hòa mà tinh thuần, đúng là pháp bảo.

Sư cảm ngộ nhân đó xin làm đệ tử. Tố đích thân xuống tóc truyền giới cho, rồi bảo:

- Ông xuôi dòng sông mà đi, gặp Kính thì ở.

Sư bèn đi về Nam, đến Lâm An thấy một hòn núi phía đông bắc, nhân hỏi thăm một tiều phu. Tiều phu nói: _ Đó là Kính Sơn! Sư bèn trú ở đó.

Có tăng hỏi:

- Thế nào là đạo?

Sư đáp:

- Sơn thượng hữu lý ngư,
Thủy để hữu bồng trần.


山上有鯉魚,
水底有蓬 塵。


(Cá lý ngư trên núi,
Bụi cỏ bồng đáy sông).

Mã Tổ sai người đem thư đến, trong thư vẽ một vòng tròn. Sư mở thư, vẽ thêm một vạch trong vòng tròn rồi phong vào bao thư, gửi lại Mã Tổ (Quốc Sư Huệ Trung nghe chuyện, bèn nói “Thầy Khâm còn bị thầy Mã lừa”).

Tăng hỏi:

- Thế nào là ý Tổ sư từ Tây đến?

Sư nói:

- Câu hỏi ông chẳng đúng.

Hỏi:

- Thế nào mới đúng?

Sư đáp:

- Chờ khi ta mất rồi mới nói với ông.

Mã Tổ sai môn nhân Trí Tạng đến hỏi:

- Trong 12 giờ (suốt ngày) lấy gì làm cảnh?

Sư đáp:

- Đợi khi ông về thì có tin tức.

Tạng nói:

- Bây giờ về liền.

Sư nói:

- Nói ra rồi lại phải hỏi Tào Khê mới được.

Năm Đại Lịch thứ ba (768), vua Đường Đại Tông ban chiếu mời Sư đến cửa khuyết để tự nhà vua chiêm lễ thêm. Một hôm gặp nhà vua tại cung ở trong, Sư đứng dậy.
Vua hỏi:

- Thầy vì sao phải đứng dậy?

Sư đáp:

- Đàn việt hướng vào bốn oai nghi, làm sao thấy được bần đạo?

Vua đẹp lòng, bảo Quốc sư Huệ Trung:

- Trẫm định ban cho thầy Khâm một danh hiệu.

Trung vui vẻ phụng chiếu, rồi ban cho Sư hiệu Quốc Nhất.

Sau Sư từ giã vua, về núi cũ. Vào năm Trinh Nguyên thứ 8 (792), tháng 12, Sư thị hiện có bệnh thuyết pháp rồi tịch. Thọ 79 tuổi. Sắc ban thụy hiệu Đại Giác Thiền Sư.

 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

lavinhcuong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
30 Thg 7 2010
Bài viết
803
Điểm tương tác
677
Điểm
93
Bài 50

PHÁP TỰ CỦA THIỀN SƯ ĐẠO KHÂM Ở KÍNH SƠN, HÀNG CHÂU

5. THIỀN SƯ ĐẠO LÂM ĐIỂU KHÒA 鳥窠道林禪師 Ở HÀNG CHÂU.


Người huyện Phú Dương, bổn quận (Hàng Châu), họ Phan. Mẹ là Chu thị mộng thấy ánh sáng mặt trời vào miệng, nhân đó mang thai, đến khi sanh có mùi hương lạ xông khắp nhà, rồi đặt tên Sư là Hương Quang.
Chín tuổi xuất gia, năm 21 tuổi thọ giới ở chùa Quả Nguyện, Kinh Châu. Về sau lại đến pháp sư Phục Lễ, chùa Tây Minh ở Trường An, học Kinh Hoa Nghiêm, luận Khởi Tín; Phục Lễ đem bài tụng về chơn vọng dạy cho, chủ yếu để tập tu thiền định.

Sư hỏi:

- Ban sơ, sao gọi là quán? Dụng tâm thế nào?

Phục Lễ yên lặng hồi lâu mà không nói, Sư lễ bái ba lần rồi lui ra.
Đúng lúc Đường Đại Tông ban chiếu mời thiền sư Kính Sơn Quốc Nhất đến cửa khuyết, Sư bèn yết kiến Ngài rồi được chánh pháp. Đến khi Sư đi về Nam, trước đó có tháp Bích Chi Phật ở chùa Vĩnh Phúc núi Cô Sơn, bấy giờ người đạo kẻ tục cùng nhau tạo pháp hội ở đây. Sư chấn tích và vào hội, trong hội có pháp sư Thao Quang chùa Linh Ẩn hỏi:

- Pháp hội ở đây, vì sao (ông) phát ra tiếng?

Sư đáp:

- Không có tiếng ai biết đó là pháp hội?

Về sau thấy núi Tần Vọng có cây tùng lớn, cành lá sum suê quanh co như cái lọng, Sư bèn nương thân ở trên đó. Vì thế thời nhân gọi Sư là thiền sư Điểu Khòa (Tổ chim), lại có chim khách đóng tổ kế bên tự nhiên thuần quen con người, còn gọi Sư là Hòa thượng Thước Sào (Tổ chim khách).
Có thị giả Sư là Hội Thông, bỗng một hôm muốn từ giã ra đi. Sư hỏi:

- Nay ông đi đâu?

Đáp:

- Hội Thông vì pháp xuất gia mà Hòa thượng không rủ lòng từ dạy bảo, nay đi các nơi để học Phật pháp.

Sư nói:

- Nếu là Phật pháp, ở đây ta cũng có chút ít.

Hỏi:

- Thế nào là Phật pháp của Hòa thượng?

Sư rút sợi chỉ vải trên thân đưa lên thổi nó. Hội Thông liền lãnh ngộ huyền chỉ.

Khoảng năm Nguyên Hòa (806 – 820 – Đường Hiến Tông), Bạch Cư Dị ra làm thái thú quận đó (Thiệu Hưng, Chiết Giang), nhân lúc vào núi lễ ra mắt, bèn hỏi Sư:

- Chỗ thiền sư ở rất nguy hiểm!

Sư nói:

- Chỗ thái thú càng nguy hiểm hơn.

Hỏi:

- Chỗ đệ tử là trấn thủ giang sơn, có gì là nguy hiểm đâu?

Sư nói:

- Củi lửa gặp nhau, thức tánh đâu dừng. Chẳng phải là nguy hiểm ư?

Lại hỏi:

- Thế nào là đại ý Phật pháp?

Sư đáp:

- Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành.

諸 惡 莫 作 _ 眾 善 奉 行

(Chớ làm các điều ác, vâng làm các điều lành)

Bạch nói:

- Đứa bé ba tuổi cũng biết nói như thế.

Sư đáp:

- Đứa bé ba tuổi tuy nói được, mà ông già tám mươi làm không được.*

Bạch bèn làm lễ.

Vào năm Trường Khánh thứ tư (824), ngày 10 tháng 2, Sư bảo thị giả: “Thân nghiệp báo ta nay đã hết”. Nói xong ngồi tịch. Thọ 84 tuổi, tuổi lạp 63.
(Có chỗ nói Sư tên là Viên Tu, e là thụy hiệu).

_____________

*
白曰: 三歲 孩兒也解恁麼道。

師曰: 三歲孩兒雖道得。八 十老人行不得


Bạch viết : tam tuế hài nhi dã giải nhẫm ma đạo.

Sư viết : tam tuế hài nhi tuy đạo đắc, bát thập lão nhân hành bất đắc.
 

lavinhcuong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
30 Thg 7 2010
Bài viết
803
Điểm tương tác
677
Điểm
93
Bài 51


PHÁP TỰ CỦA THIỀN SƯ ĐẠO LÂM ĐIỂU KHÒA, HÀNG CHÂU

6. THIỀN SƯ HỘI THÔNG 會通禪師 CHÙA CHIÊU HIỀN 招賢寺, HÀNG CHÂU.


Người bổn quận, họ Ngô. Bổn danh là Nguyên Khanh. Hình tướng nghiêm trang, còn nhỏ tuổi mà thông minh mẫn tiệp.
Thời Đường Đức Tông (779 -805) làm lục cung sử. Họ hàng nhà vua đều khen ngợi Ngài. Mùa xuân thấy hoa cỏ cung điện Chiêu Dương phô sắc thắm tươi, thong thả từng bước ngoạn cảnh, chợt nghe trong không có tiếng nói:

Hư ảo chi tướng khai tạ bất đình, năng hoại thiện căn, nhân giả an khả thị chi.

虛幻之相開謝 不停,能壞善根。仁者安可嗜之

(Cảnh sắc hư huyễn nở rồi tàn có chi bền vững, nó hay làm hư hoại thiện căn. Bậc nhân giả sao có thể ham chuộng được ?)

Sư xét nhớ hồi nhỏ tuổi ưa thích việc thiện mà rất chán hoạn nạn thế gian. Một hôm vua dạo chơi trong cung, hỏi:

- Khanh sao chẳng vui?

Đáp:

- Thần từ nhỏ không ăn mặn tanh hôi, chí nguyện theo Phật.

Vua nói:

- Trẫm xem khanh như anh em, nếu chí nguyện khanh muốn sẽ giàu sang hơn người thì trẫm không trái ý khanh, xin hãy đừng xuất gia.

Đã trải qua tuần (10 ngày) vua thấy sắc mặt Ngài tiều tụy, ban chiếu cho trông coi vịêc tiếp khách nhà vua. Ngài tâu:

- Người đó phải thiệu long tam bảo.

Vua nói với Sư:

- Nếu khanh muốn thì tùy ý chọn một ngày nào đó rồi tâu lên.

Sư mang ơn vua, gởi lời cảm tạ. Chẳng bao lâu nhận được tin ở quê báo mẹ bệnh, xin hãy về coi sóc. Vua ban cho được như sở nguyên, lệnh hữu ty theo tiễn đưa Sư tới bến, chẳng bao lâu về đến nhà.

Gặp lúc pháp sư Thao Quang khích lệ, Sư đến Đạo Lâm Điểu Khòa làm đàn việt kết am dựng chùa. Chùa hoàn thành, Sư quỳ thưa:

- Đệ tử bảy tuổi ăn chay, mười một tuổi thọ ngũ giới. Nay hăm hai tuổi, thôi làm quan vì muốn xuất gia, xin Hòa thượng cho con được làm tăng.

Thiền sư nói:

- Hiện nay làm tăng ít có người tinh tấn chịu khó, phần đông làm chuyện nông nổi phóng túng.

Sư đáp:

_ Bản tịnh phi trác ma, nguyên minh bất tùy chiếu.

本淨非琢磨。元明不隨照


(Vốn tịnh không phải mài giũa, Sáng vốn sẵn đâu do nơi cảnh).


Thiền sư nói:

Nhữ nhược liễu tịnh trí diệu viên thể tự không tịch, tức chân xuất gia, hà giả ngoại tướng.
Nhữ đương vi tại gia bồ tát giới thí câu tu như Tạ Linh Vận chi trù dã.

汝若了淨智 妙圓體自空寂。即真出家,何假外相。汝當為 在家菩薩戒施俱修如謝靈運之儔也


(Nếu ông liễu đạt tịnh trí, thể diệu viên thì tự không tịch, tức là chơn xuất gia, cần gì tướng bên ngoài? Ông nên làm Bồ tát tại gia, bố thí trì giới đều tu như bọn Tạ Linh Vận vậy).

Sư thưa:

- Dạ, lý tuy như thế, còn về sự có ích lợi gì cho ai?

Nếu như thầy rủ lòng thu nhận, con thề tuân theo lời dạy của thầy.

Ba lần Sư thỉnh cầu như thế đều bị từ chối. Lúc đó pháp sư Thao Quang cương quyết bày tỏ với Điểu Khòa:

- Cung sử chưa từng lấy vợ cũng không chứa người nữ làm hầu. Nếu thiền sư không cứu vớt thì ai độ ông ấy?

Điểu Khòa mới cho thế phát thọ giới cụ túc. Sư thường độ trai giờ mão (5 – 7 giờ sáng), ngày đêm tinh tấn, tụng đọc Kinh Đại thừa và thực tập An ban tam muội. Rồi Sư cố xin từ giã để du phương, Điểu Khòa đưa sợi chỉ vải lên dạy, Sư ngộ huyền chỉ. Bấy giờ thời nhân gọi là thị giả Bố Mao (Đã thuật trong chương nói về Điểu Khòa). Đến khi Điểu Khòa quy tịch gần 20 năm, vua Đường Võ Tông ra lệnh phế chùa, Sư cùng chúng tăng lễ từ linh tháp Điểu Khòa rồi đi xa, về sau không biết nữa.
 

lavinhcuong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
30 Thg 7 2010
Bài viết
803
Điểm tương tác
677
Điểm
93
Bài 52

NHỮNG PHÁP TỰ BÀNG XUẤT HAI ĐỜI TỪ THIỀN SƯ HUỆ TRUNG

1. THIỀN SƯ DUY TẮC 惟則禪師 Hang PHẬT QUẬT 佛窟巖, núi THIÊN THAI 天台山.



Người Kinh Triệu, họ Trưởng Tôn. Ban đầu tham yết thiền sư Huệ Trung ở Ngưu Đầu, đại ngộ huyền chỉ; về sau ẩn cư ở hang núi phá tây Bộc Bố trên núi Thiên Thai. Trong niên hiệu Nguyên Hòa (806 –820 – Đường Hiến Tông), pháp tịch Sư thạnh dần.

Lúc đầu ẩn cư, Sư tự đặt tên hang núi mình là Phật Quật. Một hôm Sư dạy chúng:

_ Trời đất vốn không, ta cũng không, tuy nhiên chưa hẵn là không có vật. Hãy xem, thánh nhân như bóng, trăm năm như mộng, có ai sanh tử đâu? Vì thế bậc Giác Ngộ chiếu soi chỉ có một mình, mà hay làm chủ muôn vật. Điều này ta đã biết, các ông biết không ?

天地無物也。我 無物也。然未甞無物。斯則聖人如影,百年如
夢。孰為生死哉。至人以是獨照。能為萬物之 主。吾知之矣。汝等知之乎 ?


Thiên địa vô vật dã, ngã vô vật dã, nhiên vị thường vô vật, tư tắc thánh nhân như ảnh, bá niên như mộng, thục vi sinh tử tai. Chí nhân dĩ thị độc chiếu, năng vi vạn vật chi chủ, ngô tri chi hĩ, nhữ đẳng tri chi hồ ?.


Có tăng hỏi:

- Thế nào là mũi tên Na-la-diên ?

(Na-la-diên: Âm Hán Việt từ chữ Phạn, nghĩa là Kim cang lực sĩ)

Sư đáp:

- Trúng đích.

Một hôm Sư chợt báo môn nhân:

- Các ông phải tự cố gắng. Ta có nói chi đâu?

Hai ngày đêm sau đó Sư ngồi yên thị tịch. Thọ 80 tuổi, tuổi lạp 58.
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Thánh nhân như mộng.




[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/thanhnhannhuanh_zps0aaa551b.jpg"].




































.[/NEN]
 

lavinhcuong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
30 Thg 7 2010
Bài viết
803
Điểm tương tác
677
Điểm
93
Bài 53.


PHÁP TỰ CỦA HÒA THƯỢNG DUY TẮC HANG PHẬT QUẬT, THIÊN THAI

1. THIỀN SƯ TRÍ 智禪師 CHÙA VÂN CƯ 雲居 NÚI THIÊN THAI 天台山.



Từng có lần Kế Tông (繼宗), vị tăng ở viện Hoa Nghiêm, hỏi:

_ Kiến tánh thành Phật, nghĩa đó như thế nào?

見性成佛其義云何 ?

Kiến tính thành Phật kì nghĩa vân hà ?


Sư đáp:

- Tánh thanh tịnh xưa nay trong suốt, không hề dao động, thể ấy chẳng thuộc có không, dơ sạch, dài ngắn, lấy bỏ … tự nó trùm khắp. Thấy rõ ràng như thế gọi là kiến tánh, tánh tức Phật Phật tức tánh, thế nên nói “Kiến tánh thành Phật”.

清淨之性本來湛 然無有動搖。不屬有無淨穢長短取捨體自 翛然。如是明見乃名見性。性即佛佛即性。故 云見性成佛。

Thanh tịnh chi tính bản lai đạm nhiên vô hữu động dao, bất thuộc hữu vô tịnh uế trường đoản thủ xả thể tự tiêu nhiên. như thị minh kiến nãi danh kiến tính, tính tức phật phật tức tính, cố vân kiến tính thành Phật.


Hỏi:
_ Tánh đã thanh tịnh chẳng thuộc có không, tại sao có thấy ?

性既清淨不屬有無因何有見 ?

Tính kí thanh tịnh bất thuộc hữu vô nhân hà hữu kiến ?


Sư đáp:

_ Thấy mà không có cái bị thấy.

見無所見

Kiến vô sở kiến.


Hỏi:

_ Không có cái bị thấy tại sao lại có (cái hay) thấy ?

無所見因何更有見 ?

Vô sở kiến nhân hà canh hữu kiến ?


Sư đáp:

_ Chỗ thấy cũng không.

見處亦無

Kiến xứ diệc vô


Hỏi:

_ Như thế, khi thấy chính ai thấy đó?

如是見時是誰之見 ?

Như thị kiến thời thị thùy chi kiến ?


Sư đáp:

_ Không có ai hay thấy.

無有能見者

Vô hữu năng kiến giả


Hỏi:

_ Rốt cục lý ấy ra sao?

究竟其理如何

Cứu cánh kì lí như hà ?


Sư bảo:

_ Ông biết chăng? Vọng kế (tính toán suy lường) cái có liền có, có năng có sở gọi là mê, nương theo cái thấy sanh ra hiểu biết liền rơi vào sanh tử. Người tỏ rõ cái thấy thì không như thế, suốt ngày thấy mà như chưa từng thấy, tìm hình thể tướng mạo của chỗ thấy không thể được, năng sở đều mất, gọi là kiến tánh.

汝知否。妄 計為有即有。能所乃得名迷。隨見生解便墮 生死。明見之人即不然。終日見未嘗見。求見 處體相不可得。能所俱絕。名為見性.

Nhữ tri phủ, vọng kế vi hữu tức hữu, năng sở nãi đắc danh mê, tùy kiến sinh giải tiện đoạ sinh tử, minh kiến chi nhân tức bất nhiên, chung nhật kiến vị thường kiến, cầu kiến xứ thể tướng bất khả đắc, năng sở câu tuyệt, danh vi kiến tính.


Hỏi:

_ Tánh đó biến khắp nơi, phải không?

此性 遍一切處否?

Thử tính biến nhất thiết xứ phủ ?


Sư đáp:

_ Không đâu chẳng khắp.

無處不遍

Vô xứ bất biến


Hỏi:

_ Phàm phu có đầy đủ tánh đó không?

凡夫具否?

Phàm phu cụ phủ ?


Sư đáp:

_ Trên nói "Không đâu chẳng khắp”. Há có bảo phàm phu chẳng đầy đủ ư !

上言無處不遍。豈凡夫而不具乎

Thượng ngôn vô xứ bất biến, khởi phàm phu nhi bất cụ hồ.


Hỏi:

_ Vì sao chư Phật Bồ Tát không bị việc sanh tử bó buộc, nhưng riêng phàm phu luẩn quẩn với cái khổ đó, có bao giờ họ biến khắp được đâu ?.

因何 諸佛菩薩不被生死所拘。而凡夫獨縈此苦。 何曾得遍。

Nhân hà chư Phật Bồ tát bất bí sinh tử sở câu, nhi phàm phu độc oanh thử khổ, hà tằng đắc biến ?.


Sư đáp:

_ Ở trong tánh thanh tịnh mà phàm phu khởi phân biệt, có năng sở liền rơi vào sanh tử. Chư Phật và bậc đại sĩ khéo biết trong tánh thanh tịnh, không phụ thuộc tướng có không thì năng sở chẳng lập.

凡夫於清淨性中, 計有能所 即墮生死, 諸佛大士善知清淨性中不屬有 無,即能所不立。

Phàm phu ư thanh tịnh tính trung, kế hữu năng sở tức đoạ sinh tử. Chư Phật đại sĩ thiện tri thanh tịnh tính trung bất thuộc hữu vô, tức năng sở bất lập.


Hỏi:

_ Nếu nói như thế tức có người liễu và người chẳng liễu?

若如是說, 即有了不了人?

Nhược như thị thuyết, tức hữu liễu bất liễu nhân.


Sư nói:

_ Liễu còn không thể được, há có người hay (năng) liễu ư !

了尚不可得。豈有能了人乎.

Liễu thượng bất khả đắc, khởi hữu năng liễu nhân hồ.


Hỏi:

_ Chí lý ra sao?

至理如 何 ?

Chí lí như hà ?


Sư nói:

_ Ta nói tóm tắt, ông nên nhớ rằng trong tánh thanh tịnh không có phàm thánh, cũng không có người liễu hay người chẳng liễu. Phàm và thánh cả hai đều là giả danh, nếu theo danh sanh hiểu biết thì rơi vào sanh tử, nếu biết là giả danh không thực thì không có cái gì tương xứng với tên gọi.

我以要言之。汝即應念。清淨性中無 有凡聖。亦無了人不了人。凡之與聖二俱是 名。若隨名生解即墮生死。若知假名不實。即 無有當名者.

Ngã dĩ yếu ngôn chi, nhữ tức ưng niệm, thanh tịnh tính trung vô hữu phàm thánh, diệc vô liễu nhân bất liễu nhân, phàm chi dữ thánh nhị câu thị danh, nhược tùy danh sinh giải tức đoạ sinh tử, nhược tri giả danh bất thật, tức vô hữu đương danh giả.


Sư lại nói:

_ Đó là chỗ tột cứu cánh. Nếu cho rằng ta hay liễu ngộ, người kia không thể liễu ngộ thì đó là bệnh nặng; thấy có sạch dơ phàm thánh cũng là bệnh nặng. Khởi kiến giải không có phàm thánh lại thuộc về bác bỏ, không có nhân quả (chấp đoạn). Thấy có tánh thanh tịnh để nương trụ cũng là bệnh nặng, khởi kiến giải không nương trụ cũng là bệnh nặng. Nhưng trong tánh thanh tịnh tuy không dao động mà đầy đủ những ứng dụng và phương tiện không hề hoại; cho đến hưng khởi tâm từ vận dụng tâm bi, chỗ vận dụng hưng khởi như thế chính là tánh thanh tịnh hoàn toàn, nên gọi là kiến tánh thành Phật.

此是極究竟處。若云我能 了彼不能了即是大病。見有淨穢凡聖亦是 大病。作無凡聖解又屬撥無因果。見有清淨 性可棲止亦大病。作不棲止解亦大病。然清 淨性中雖無動搖。具不壞方便應用。及興慈 運悲。如是興運之處。即全清淨之性。可謂 見性成佛矣。

Thử thị cực cứu cánh xứ, nhược vân ngã năng liễu bỉ bất năng liễu tức thị đại bệnh, kiến hữu tịnh uế phàm thánh diệc thị đại bệnh; tác vô phàm thánh giải hựu thuộc bát vô nhân quả, kiến hữu thanh tịnh tính khả thê chỉ diệc đại bệnh, tác bất thê chỉ giải diệc đại bệnh, nhiên thanh tịnh tính trung tuy vô động dao, cụ bất hoại phương tiện ứng dụng, cập hưng từ vận bi, như thị hưng vận chi xứ, tức toàn thanh tịnh chi tính, khả vị kiến tính thành Phật hĩ .


Kế Tông vui mừng nhảy nhót, lễ tạ rồi lui.
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Thấy như chẳng thấy.




[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/thaynhuchangthay_zps79c006b2.jpg"].




































.[/NEN]
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Thánh & Phàm.




[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/thanhpham_zpse2eb4609.jpg"].




































.[/NEN]
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Giả danh.




[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/giadanh2_zps3ce4acf1.jpg"].




































.[/NEN]
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Bất hoại phương tiện.




[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/bathoaiphuongtien_zpsd8979d4b.jpg"].




































.[/NEN]
 

lavinhcuong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
30 Thg 7 2010
Bài viết
803
Điểm tương tác
677
Điểm
93
Bài 54.


NHỮNG PHÁP TỰ BÀNG XUẤT TỪ TỔ THỨ 32 HOẰNG NHẪN ĐẠI SƯ

PHÁP TỰ BÀNG XUẤT ĐỜI THỨ NHẤT

1. THIỀN SƯ THẦN TÚ BẮC TÔNG.



Người huyện Úy Thị, phủ Khai Phong (Hà Nam), họ Lý. Lúc nhỏ mến nghiệp Nho, học rộng biết nhiều. Chẳng bao lâu bỏ sở thích xuất gia tìm thầy học đạo, đến chùa Đông Sơn núi Song Phong ở Kì Châu, gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại sư. Lấy tọa thiền làm nhiệm vụ, rồi thán phục:

- Đây đúng là thầy ta.

Sư nguyện với lòng chịu khổ nhọc để giữ tiết, tự phục dịch bằng cách bửa củi xách nước mà cầu đạo.
Hoằng Nhẫn thầm biết Sư sâu sắc, hơn nữa xem là nhân tài, nói với Sư:

- Ta độ nhiều người rồi, riêng những người giải ngộ thì không ai bằng ông.

Sau khi Hoằng Nhẫn đã thị hiện nhập diệt, Tú mới đến trụ ở núi Đương Dương thuộc Giang Lăng. Đường Vũ hậu nghe tiếng, triệu Sư đến kinh đô, cúng dường ở đạo tràng nội cung đặc biệt tôn kính.
Vua truyền mệnh Sư về núi cũ, ban cho biển ngạch treo trước chùa Độ Môn để vinh danh đức hạnh. Bấy giờ hàng vương công, nhà quý tộc, kẻ sĩ và thứ dân đều hết mực tôn kính bái phục. Đến vua
Trung Tông tức vị lại càng kính trọng, đại thần Trương Thuyết thường hỏi về pháp yếu giữ lễ làm đệ tử.

Sư có bài kệ dạy chúng:

Nhất thiết Phật pháp,
Tự tâm bổn hữu.
Tương tâm ngoại cầu,
Xả phụ đào tẩu.


一切佛法  
自心本有  
將心外求
捨父逃走


(Tất cả Phật pháp,
Tâm mình vốn có.
Đem tâm cầu ngoài,
Chạy trốn bỏ cha).


Năm Thần Long thứ 2 (706 – Đường Trung Tông), Sư nhập diệt ở chùa Thiên Cung, Đông Đô. Vua ban thụy hiệu là Đại Thông Thiền Sư, Vũ Nghi Pháp Vật (chỗ chứa pháp làm tiêu biểu cho người noi theo). Đưa đi an táng ở Long Môn, vua tiễn đến đầu cầu, vương công sĩ thứ đều đưa đến nơi an táng. Trương Thuyết và Trưng sĩ Lô Hồng mỗi người làm bài văn viếng khắc trên bia. Môn nhân Phổ Tịch, Nghĩa Phước … đều được triều đình và thôn dã kính trọng.
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Hạt châu búi tóc.



[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/hatchaubuitoc3_zpsfca37ebb.jpg"]
.

































.[/NEN]
 

lavinhcuong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
30 Thg 7 2010
Bài viết
803
Điểm tương tác
677
Điểm
93
Bài 55.

QUỐC SƯ HUỆ AN 慧安 國師 Ở TUNG NHẠC 嵩嶽 .



Người ở Chi Giang, Kinh Châu, họ Vệ. Năm Khai Hoàng thứ 17 (597), Tùy Văn đế cho khám xét về tư độ tăng ni (tăng ni được chánh quyền đã cấp cho độ điệp xuất gia) khắp trong nước. Khám Sư, Sư nói:

“Chất phác, không tên tuổi”, rồi lánh vào hang núi.

Trong năm Đại Nghiệp (605 – 617 – Tùy Dạng đế), tổng phát động đinh phu khai thông kinh vận hà. Phu phen chết đói chồng chất lên nhau, Sư khất thực để cứu họ, số người cứu được rất đông. Dạng đế cho mời, Sư không đi mà lẻn vào núi Thái Hòa.

Tình hình trong nước nhiễu nhương, Sư bèn chống gậy lên chùa Hành Nhạc tu hạnh đầu đà.
Trong những năm Trinh Quán (627 – 649 –Đường Thái Tông), Sư đến Hoàng Mai tham yết Tổ Hoằng Nhẫn rồi được tâm yếu. Năm Lân Đức nguyên niên (663 - Đường Cao Tông), nhân du phương đến Thạch Bích núi Chung Nam rồi dừng trụ ở đó. Vua Cao Tông thường cho mời, Sư đều từ chối.
Sư dạo khắp các danh tích rồi đến chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, Sư nói: “Đây là nơi ta ở suốt đời”. Từ đó thiền giả tụ họp đông đúc.

Có hai người là Thản Nhiên và Hoài Nhượng đến tham vấn, hỏi:

- Thế nào là ý Tổ sư từ Tây đến?
- 如何是祖師西來意 ?
- Như hà thị tổ sư Tây lai ý ?


Sư hỏi:

- Sao chẳng tự hỏi ý mình ?
- 何不問自己意 ?
- hà bất vấn tự kỉ ý ?


Hỏi:

- Thế nào là ý tự mình?
- 如何是自己意 ?
- như hà thị tự kỉ ý ?


Sư đáp:

- Hãy xem cái gì lúc này !
- 當觀 密作用
- đương quan mật tác dụng


Hỏi:

- Thế nào là "cái gì lúc này" ?
- 如何是密作用 ?
- như hà thị mật tác dụng ?


Sư nhắm mở con mắt để chỉ dạy họ, nhưng cơ duyên Nhượng không hợp cho nên không hiểu gì cả, bèn từ giã Sư, đi Tào Khê.

Vũ hậu mời Sư đến kinh thành, đãi Sư theo lễ thầy trò. Sư và thiền sư Thần Tú càng được thêm kính trọng. Vũ hậu có lần hỏi tuổi tác Sư. Sư đáp:

- Chẳng nhớ.

Hậu hỏi:

- Sao lại không nhớ ư?

Sư đáp:

- Cái thân sanh tử nó tuần hoàn như vậy, luân chuyển không có sự bắt đầu và chấm dứt, cần nhớ làm gì? Huống nữa tâm kia không ngừng làm môi giới tưới tẩm, từ cái thức ban đầu dẫn đến tướng thô động, thấy tâm sanh diệt như hòn bọt chỉ là vọng tưởng thôi. Hết sanh diệt rồi cũng chỉ như thế, có năm tháng nào đáng nhớ đâu !

生死之身其若循環。環無起盡 焉用記為。況此心流注中間無間。見漚起滅 者乃妄想耳。從初識至動相。滅時亦只如此。 何年月而可記乎。

Sinh tử chi thân kì nhược tuần hoàn, hoàn vô khởi tận yên dụng kí vi, huống thử tâm lưu chú trung gian vô gian, kiến âu khởi diệt giả nãi vọng tưởng nhĩ, tùng sơ thức chí động tướng, diệt thời diệc chỉ như thử, hà niên nguyệt nhi khả kí hồ.



Vũ hậu nghe qua cúi đầu lạy tín thọ. Đến năm Thần Long thứ hai (706), vua Đường Trung Tông ban cho Sư ca sa tía. Mười bốn đệ tử đắc độ của Sư, vẫn được mời vào trong cung cấm
cúng dường ba năm và ban cho mỗi vị một bộ y ma nạp.

Năm Cảnh Long thứ ba 709, Sư từ giã kinh đô trở về Tung Nhạc ngày 3 tháng 3 năm đó (709), dặn dò môn nhân:

- Sau khi ta chết, đem thây ta vô rừng, đợi dã hỏa (lửa ma trơi) thiêu.

Chốc lát thì Vạn Hồi Công đến gặp Sư, nắm tay Sư bàn luận râm ran, thị giả bên cạnh nghiêng tai lắng nghe đều không hiểu gì. Đến ngày mùng 8, Sư cho đóng cửa nằm an nghỉ và tịch.

Tuổi Sư là 128 (sanh năm Nhâm Dần, năm Tùy Khai Hoàng thứ hai 582; mất năm Kỷ Dậu, năm Đường Cảnh Long thứ ba 709. Đương thời gọi Lão An Quốc Sư).

Môn nhân tuân theo lời dạy đem thây đặt trong rừng, quả thật dã hỏa thiêu tự nhiên, được 80 viên xá lợi. Trong đó có năm viên màu đỏ tía, được giữ ở trong cung.

Đến năm Tiên Thiên thứ hai 711, môn nhân xây tháp thờ.
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
1 Thg 4 2012
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Không có gì thật.



[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/maytuoi2_zps06adb6a3.jpg"]
.































.[/NEN]
 

lavinhcuong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
30 Thg 7 2010
Bài viết
803
Điểm tương tác
677
Điểm
93
Bài 56.


1. THIỀN SƯ ĐẠO MINH 道明 禪師 Ở MÔNG SƠN 蒙山, VIÊN CHÂU 袁州.


Người Bá Dương, là con cháu xa của Trần Tuyên đế, nước Trần (557 – 588), mất dòng dõi vua lưu lạc vào chốn nhân gian. Lấy tư cách là vương tôn nên từng tạm nhận chức vụ, nhân đó có hiệu là Tướng quân.

Lúc nhỏ xuất gia ở chùa Vĩnh Xương, lòng mộ đạo rất tha thiết. Sau đến nương tựa pháp hội Ngũ Tổ hết lòng nghiên tầm, ban đầu không giải ngộ, đến khi nghe tin Ngũ Tổ mật truyền y pháp cho Lư hành giả (Lục Tổ Huệ Năng), Sư liền đốc suất khoảng mười người đồng ý theo dấu truy đuổi đến Đại Dữu Lãnh. Sư vượt xa về trước thấy bọn còn lại chưa theo kịp. Lư hành giả thấy Sư chạy đến, liền để Y Bát trên tảng đá, nói:

- Y này là vật làm tin, khá dùng sức mạnh giành được ư? Mặc cho ông ta lấy đi.

Sư bèn xách Y lên, Y bất động như núi. Sư ngập ngừng lo sợ rồi nói:

- Tôi đến để cầu pháp chẳng phải vì Y, mong hành giả khai thị giúp tôi.

Lục Tổ nói:

- Không nghĩ thiện không nghĩ ác, chính lúc đó cái nào là bản lai diện mục của thượng tọa Minh?

Bất tư thiện bất tư ác chính nhẫm ma thời, a na cá thị Minh thượng toạ bản lai diện mục ?

不思善不思惡正恁麼時。阿那箇是 明上坐本來面目 ?


Ngay lời nói Sư đại ngộ, khắp thân xuất mồ hôi, khóc lạy mấy lần.

Sư hỏi:

- Ngoài mật ý mật ngữ vừa rồi, còn có ý chỉ nào khác không ?

Tổ nói:

- Cái mà tôi đang nói với ông tức chẳng phải mật, nếu ông phản chiếu diện mục tự mình thì mật lại ở bên ông.

Ngã kim dữ nhữ thuyết giả, tức phi mật dã, nhữ nhược phản chiếu tự kỉ diện mục, mật khước tại nhữ biên.

我今與汝說者, 即非密也。汝若返 照自己面目。密却在汝邊.


Sư nói:

- Tôi tuy ở Hoàng Mai theo chúng mà thật ra chưa tỉnh biết diện mục tự mình. Nay nhờ chỉ dạy, nhận được chỗ vào như người uống nước nóng lạnh tự biết. Nay hành giả là thầy của tôi.

Tổ nói:

- Nếu ông như thế thì tôi và ông cùng thầy Hoàng Mai. Hãy khéo tự giữ gìn.

Sư lại hỏi:

- Sắp tới tôi nên đi đâu?

Tổ đáp:

- Gặp Viên nên dừng, gặp Mông thì ở.

(Phùng Viên khả chỉ, ngộ Mông tức cư)

Sư lễ tạ rồi vội vã xuống chân núi, bảo với chúng nhân:

- Lên đỉnh cao ngất trông xa hoàn toàn bặt dấu vết, phải qua đường khác tìm.

Chúng đều tin là vậy. Sau khi trở về, Sư một mình đến Bố Thủy Đài ở Lô Sơn trải ba năm. Sau đó mới đến Mông Sơn thuộc Viên Châu đại xướng việc giáo hóa thiền tông. Ban đầu Sư tên Huệ Minh, vì tránh chữ đầu của tên thầy (Huệ Năng) nên đổi tên là Đạo Minh.

Các đệ tử Sư đều được sai đi Lãnh Nam tham lễ Lục Tổ.

 

lavinhcuong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
30 Thg 7 2010
Bài viết
803
Điểm tương tác
677
Điểm
93
Bài 57.


I. PHÁP TỰ CỦA THIỀN SƯ THẦN TÚ BẮC TÔNG

I.1. Thiền sư Cự Phương Ngũ Đài Sơn


Người An Lục, họ Tào, hồi nhỏ thọ nghiệp với thiền sư Lãng ở viện Minh Phước, lúc đầu giảng kinh luận sau mới tham thiền. Lúc đến Bắc Tông, sư Tú hỏi:

- Mây trắng tan, chỗ đó ra sao?

Sư đáp:

- Chẳng mê.

Tú lại hỏi:

- Đến trong đó rồi thì sao?

Sư đáp:

- Thấy đúng một cành sanh năm lá.

Tú mặc nhiên thừa nhận cho vào thất hầu bên cạnh, hy vọng hết sai lầm. Rồi Sư đến ở Hàn Lãnh, Thượng Đảng, khoảng mấy năm chúng đông đúc hàng ngàn. Sau đó Sư xiển hóa ở Ngũ Đài Sơn hơn 20 năm mới nhập diệt, thọ 81 tuổi. Vào ngày mùng 3 tháng 9 năm Đường Khai Nguyên thứ 15 (727), chúng đem toàn thân Sư nhập tháp.

________________________


I.2. Thiền sư Trí Phong núi Trung Điều phủ Hà Trung.

Sư họ Ngô. Ban đầu học tập luận Duy thức vướng mắc danh tướng, bị tri thức vấn nạn rồi nổi giận thôi giảng.
Sư du hành lên núi Vũ Đương, gặp thiền sư Thần Tú tâm nghi liền tiêu tan, muốn nuôi dưỡng thánh thai bèn từ giã ra đi, đến núi An Phong ở Bồ Tân, ăn rau uống nước suối không dưới mười năm. Gặp lúc châu mục Vệ Văn Thăng thỉnh vô nội thành, xây quốc viện Tân An rồi ở đó, tăng tục quy y tới lui không ngớt.

Sứ quân hỏi:

- Tôi từ nay về sau ra sao?

Sư đáp:

- Mặt trời từ « mông phiếm » mọc. (Mặt trời mọc hướng Tây)
Chiếu cây hoàn toàn vô ảnh.

Lúc đầu sứ quân không thể hiểu, chắp tay xá chào rồi lui, chẳng bao lâu mới hiểu ra, từ đó tự được thảnh thơi.

Sư qua lại núi Trung Điều trên 20 năm, những người thọ giáo với Sư không thể ghi hết.

Sư nhập diệt rồi, môn nhân xây tháp thờ ở phía bắc châu thành.
 

lavinhcuong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
30 Thg 7 2010
Bài viết
803
Điểm tương tác
677
Điểm
93
Bài 58.


I.3 . Thiền sư Hàng Ma Tạng ở Duyện Châu.


Người Triệu Quận, họ Vương, cha làm Hào duyện (chức quan phó). Bảy tuổi Sư xuất gia. Bấy giờ cánh đồng Chúc có nhiều yêu ma quấy nhiễu làm mê hoặc người dân, Sư một mình đến hàng phục chúng chưa từng có một chút sợ sệt, thế nên có tên Hàng Ma.
Sau lại nương tựa thiền sư Minh Tán viện Quảng Phước xuất gia phục vụ chuyên cần. Thọ pháp rồi gặp lúc Bắc Tông giáo hóa thạnh hành, Sư thệ vén áo đi theo.
Sư Tú hỏi:

- Ông tên Hàng Ma, ở đây không có sơn tinh mộc quái. Trái lại ông làm ma chăng?

Sư đáp:

- Có Phật thì có ma.

Tú nói:

- Nếu ông là ma ắt ở cảnh giới bất tư nghì?

Sư đáp:

- Làm Phật cũng rỗng không, có gì là cảnh giới đâu?

Tú huyền ký Sư, bảo:

- Ông có duyên với gò Thiếu Hạo.

Rồi Sư vào Thái Sơn, ít năm học giả quy tụ đông đúc. Một hôm Sư bảo môn nhân:

- Nay thân ta già mà vô dụng, sự vật đến cùng cực thì trở về.

Sư nói xong rồi đi, thọ 91 tuổi.

_________________________


I.4. Thiền sư Đạo Thọ ở Thọ Châu.

Người Đường Châu, họ Văn. Lúc nhỏ tìm học kinh sách, tuổi gần năm mươi nhân gặp cao tăng khuyên bảo, rồi thệ nguyện xuất gia.

Đến lễ ngài Huệ Văn núi Minh Nguyệt ở Bản Bộ làm thầy. Tuổi lớn cầu pháp chậm trễ, Sư tự lấy làm thẹn, gắng chí du phương không đâu không đến. Sau trở lại Đông Lạc gặp thiền sư Thần Tú, qua lời nói Tú biết nhỏ muộn nhưng thành pháp khí.

Rồi chọn chỗ kết am trên núi Tam Phong, Thọ Châu mà ở đó. Thường có con dã nhân vỏ cây che thân, nói bàn chuyện kỳ dị, ngoài việc nói cười còn biến hóa làm hình Phật và hình Bồ tát, La-hán, Thiên tiên … Có khi phóng thần quang hoặc trình diễn âm nhạc. Học đồ của Sư thấy vậy, đều không đánh giá được, việc như thế trải qua mười năm, sau dã nhân chết không còn hình ảnh nào, Sư dạy chúng:

- Dã nhân biến hóa ra nhiều sắc tướng, có tài khéo huyễn hoặc người. Chỉ là trò tiêu khiển, lão tăng không thấy không nghe; tài năng y có giới hạn, cái không thấy không nghe của ta là vô tận.

Năm Đường Bảo Lịch nguyên niên 825, Sư thị hiện có bệnh rồi mất. Thọ 92 tuổi.
Tháng giêng năm sau xây tháp thờ.

____________________________


I.5. Thiền sư Toàn Thực núi Đô Lương, Hoài Nam.

Người Quang Châu, họ Nhuế. Ban đầu kết am tạm ở, thái thú Vệ Văn Khanh mời Sư khai pháp, tụ tập đồ chúng ở chùa Trường Thọ tại châu nhà.
Văn Khanh hỏi:

- Về sau Phật pháp thạnh suy ra sao?

Sư đáp:

- Vật chơn thật thì không xưa không nay cũng không dấu vết. Pháp hữu vi chịu bốn tướng đổi đời, pháp này hẳn phải trở ngại, quân hầu nên biết.

Sư 93 tuổi mới mất. Năm Hội Xương thứ tư nhà Đường, ngày mùng 7 tháng 9 năm Giáp Tý 844 nhập tháp.
 

lavinhcuong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
30 Thg 7 2010
Bài viết
803
Điểm tương tác
677
Điểm
93
Bài 59.


II. PHÁP TỰ CỦA QUỐC SƯ HUỆ AN TUNG NHẠC

II.1. Thiền sư Nhân Kiệm chùa Phước Tiên, Lạc Kinh.


Từ khi Tung Sơn thôi dạy, Sư phóng khoáng chỗ đông người (hàng quán), người bấy giờ gọi Sư là Hòa thượng Đằng Đằng.

Vào năm Đường Thiên Sách Vạn Tuế (niên hiệu Đường Vũ hậu) 694, Thiên Hậu mời Sư vào trước điện. Ngước nhìn Thiên Hậu (Vũ hậu) một hồi lâu, Sư hỏi:

- Hội chăng ?

Hậu đáp:

- Không hội.

Sư nói:

- Lão tăng giữ giới “không nói”.

Lão tăng trì bất ngữ giới.

Nói xong rồi đi ra. Hôm sau dâng lên tập đoản ca gồm 19 bài, Thiên Hậu xem qua khen Sư và ban thưởng hậu hĩ. Sư đều không nhận. Hậu lệnh Sư viết lời ca từ truyền bá trong thiên hạ, lời ca đó phô diễn đầy đủ chơn lý nhằm cảnh tỉnh người thế tục đương thời, riêng bài Liễu Nguyên Ca là thạnh hành ở đời.
 

lavinhcuong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
30 Thg 7 2010
Bài viết
803
Điểm tương tác
677
Điểm
93
Bài 60.


II.2. Hòa thượng Phá Táo Đọa ở Tung Nhạc.



Không có danh xưng và họ. Lời nói và việc làm không thể lường, Sư ẩn cư ở núi Tung Nhạc.

Sơn ổ có cái miếu rất linh, trong điện thờ chỉ đặt một ông táo. Người gần xa đến cúng tế không ngớt, sát hại sanh mạng loài vật rất nhiều.Một hôm Sư dẫn theo tăng thị giả cùng vô miếu. Sư dùng gậy gõ táo ba cái, nói:

- Thôi đi táo này! Chỉ là đất bùn nắn thành, thánh từ đâu đến, linh từ đâu có? Sát hại sanh mạng loài vật như thế sao?

Rồi đánh táo ba gậy, táo đổ bể rơi xuống đất (nhân đó An Quốc Sư đặt tên là Phá Táo Đọa), chốc lát có một người mặc áo xanh vận mũ cao bỗng nhiên xuất hiện trước mặt Sư và lạy. Sư hỏi:

- Đó là ai ?

Đáp:

- Tôi vốn là thần táo của miếu này, thọ nghịêp báo lâu rồi. Hôm nay nhờ ân Hoà thượng nói pháp vô sanh, thoát được chốn này sanh vào cõi trời, đặc biệt đến để cảm tạ.

Sư nói:

- Đó là tánh vốn có của ông, đâu phải ta nói ép buộc ông.

Thần lễ Sư lần nữa rồi biến mất. Chốc lát trong những tăng theo Sư, có thị giả hỏi:

- Chúng con ở lâu bên cạnh Hòa thượng mà chưa được Hòa thượng đinh ninh dạy bảo, đặc biệt vì chúng con. Táo thần được gì mà thầy chỉ thẳng liền được sanh Thiên?

Sư đáp:

- Ta chỉ nói với y đó là ngói bùn hợp thành, ngoài ra không có đạo lý nào cho y.

Các tăng theo Sư đều đứng lên, không nói lời nào.

Sư hỏi:

- Hội chăng?

Chủ sự đáp:

- Không hội.

Sư hỏi:

- Tánh đã sẵn có, tại sao không hội?

Các tăng bèn lễ bái.

Sư nói:

- Đổ, đổ đi! Bể, bể đi!

----------

Sau có thiền sư Nghĩa Phong, nêu chuyện trên hỏi An Quốc sư. Quốc sư khen:

- Ông ấy hội suốt ngã vật nhất như, có thể nói như trăng sáng trên không trung không gì chẳng thấy. Khó nghe được ngữ mạch của y.

Thiền sư Phong bèn cúi đầu, chắp tay hỏi:

- Chưa biết ai nghe được ngữ mạch của ông ấy?

Quốc sư đáp:

- Cái chẳng biết.

-----------

Lại có tăng hỏi:

- Mọi vật đều không hình tướng thì thế nào?

Sư đáp:

- Lễ thì chỉ có ông chẳng có ta, không lễ thì chỉ có ta chẳng phải ông.

Tăng ấy bèn lễ tạ. Sư nói:

- Vật vật vốn sẵn có đó mà chẳng phải vật. Vì vậy nói “Tâm chuyển được vật tức đồng Như Lai”.

Bản hữu chi vật vật phi vật dã, sở dĩ đạo tâm năng chuyển vật tức đồng Như Lai

----------

Lại có tăng hỏi:

- Thế nào là người tu thiện hạnh?

Sư đáp:

- Cầm binh khí, mang giáp.

Hỏi:

- Thế nào là người làm ác hạnh?

Sư đáp:

- Tu thiền nhập định.

Hựu tăng vấn :

Như hà thị tu thiện hành nhân

Sư viết :

Niêm sang đái giáp

Vân :

Như hà thị tác ác hành nhân

Sư viết :

Tu thiền nhập định.


Tăng nói:

- Con căn cơ thiển cận, xin thầy chỉ thẳng.

Sư nói:

- Ông hỏi ta về ác, ác thì không theo thiện. Ông hỏi ta về thiện, thiện thì không theo ác.

Hồi lâu Sư lại hỏi:

- Hội chăng?

Tăng đáp:

- Chẳng hội.

Sư nói:

- Người ác không có nghĩ thiện, người thiện không có tâm ác. Thế nên nói “Thiện ác như phù vân, đều không có chỗ sanh diệt”.

Thiện ác như phù vân, câu vô khởi diệt xứ

Qua lời Sư nói, tăng ấy đại ngộ.

---------------

Có vị tăng từ đạo tràng Ngưu Đầu đến. Sư hỏi:

- Đến từ pháp hội của ai?

Tăng đến gần trước mặt Sư, chắp tay nhiễu Sư một vòng, rồi bỏ đi ra. Sư nói:

- Trong pháp hội Ngưu Đầu không thể có người này.

Tăng bèn trở lại, bước lên gần bên Sư, chắp tay mà đứng. Sư nói:

- Đúng vậy! Đúng vậy!

Tăng lại hỏi:

- Vật ứng hiện (ở đó) mà (đó) chẳng theo vật thì thế nào?

Sư hỏi:

- Sao không theo vật được?

Tăng hỏi:

- Thế nào là thuận theo chánh (trí) về nguồn?

Sư hỏi:

- Về nguồn còn thuận gì?

Tăng nói:

- Nếu chẳng là Hòa thượng thì chuốc mấy lỗi lầm.

Sư nói:

- Vì thế khi chưa gặp Tứ Tổ thì nói lý, gặp rồi thì thông suốt tương lai.

Tăng lại nhiễu Sư một vòng rồi bỏ đi, Sư nói:

- Cái đạo thuận theo chánh xưa nay vẫn như vậy.

Tăng lễ bái.

-------------

Có tăng đứng hầu lâu. Sư nói:

- Chư Phật Tổ chỉ tùy theo người mà nói, riêng bổn tâm bổn tánh thì không có nói lý. Hãy hội lấy, hội lấy!

Tăng lễ tạ. Sư bèn lấy phất tử đánh, nói:

- Một chỗ như thế, ngàn chỗ cũng thế.

Tăng bèn chắp tay đến trước mặt Sư, ứng “dạ” một tiếng. Sư nói:

- Còn chưa tin, còn chưa tin.

Tăng hỏi:

- Thế nào là người đại xiển đề?

Như hà thị đại xiển đề nhân ?

Sư đáp:

- Tôn trọng lễ bái.

Tôn trùng lễ bái

Lại hỏi:

- Thế nào là người đại tinh tấn?

Như hà thị đại tinh tấn nhân ?

Sư đáp:

- Hủy báng sân hận.

Huỷ nhục sân khuể

Về sau chẳng biết Sư tịch ở đâu.

 

lavinhcuong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
30 Thg 7 2010
Bài viết
803
Điểm tương tác
677
Điểm
93
Bài 61.

II
.3. Thiền sư Nguyên Khuê núi Tung Nhạc.



Người Y Khuyết, họ Lý. Xuất gia hồi nhỏ. Năm Đường Vĩnh Thuần thứ hai (683), Sư thọ giới cụ túc thuộc chùa Nhàn Cư, thực tập luật (Tỳ-ni) không biết mệt.

Sau yết kiến Quốc sư An ấn chứng đốn ngộ huyền chỉ đối với chơn tông, rồi chọn dinh lớn trong núi Tung Nhạc cất am tranh ở. Một hôm có dị nhân đến, đội mũ cao quần cụt áo kép với người tùy tùng rất đông, y nhẹ bước thong thả tuyên bố đến yết kiến đại sư.

Sư thấy y hình mạo kỳ vĩ phi thường, bèn bảo:

- Hãy lại đây, nhân giả! Cớ sao mà đến đây?

Kia đáp:

- Sư lẽ nào lại biết tôi ư?

Sư nói:

- Ta xem Phật với chúng sanh bình đẳng, ta thấy qua nào có phân biệt đâu.

Ngô quan Phật dữ chúng sinh đẳng, ngô nhất mục chi khởi phân biệt da.

吾觀佛與眾生等, 吾一目之豈分別耶.

Kia nói:

- Tôi là thần nhân ở núi nầy, có quyền sanh sát với người. Sư làm sao nhìn qua mà biết tôi được?

Ngã thử nhạc thần dã năng sinh tử ư nhân, sư an đắc nhất mục ngã tai ?

我此嶽神也, 能生死於人, 師安得一目我哉 ?

Sư đáp:

- Ta vốn chẳng sanh, ông làm sao chết được? Ta thấy thân ta với hư không như thế nào, thì ta cũng thấy ta với ông như thế ấy. Ông có thể làm hoại hư không và ông được chăng mà mong làm hoại hư không và làm hoại ông được? Ta thì bất sanh bất diệt, ông còn chưa thể như thế thì làm sao đoạt quyền sanh tử nơi ta ư?

Ngô bản bất sinh, nhữ yên năng tử? Ngô thị thân dữ không đẳng thị ngô dữ nhữ đẳng, nhữ năng hoại không dữ nhữ hồ cẩu năng hoại không cập hoại nhữ. Ngô tắc bất sinh bất diệt dã, nhữ thượng bất năng như thị hựu yên năng sinh tử ngô da ?

吾本不生汝焉能死. 吾視身與空等, 視吾與汝等, 汝能壞空與 汝乎, 苟能壞空及壞汝. 吾則不生不滅也, 汝 尚不能如是, 又焉能生死吾耶 ?.


Thần cúi lạy nói:

- Tôi đây thông minh chính trực hơn những thần khác, há biết Sư có trí tuệ biện tài quảng đại đâu? Xin đem chánh giới trao cho, giúp tôi độ đời.

Sư nói:

- Ông đã xin giới thì đã thọ giới rồi. Tại sao vậy? Ngoài giới không có giới, còn ai truyền giới đâu?!

Nhữ kí khí giới tức kí giới dã, sở dĩ giả hà ? giới ngoại vô giới hựu hà giới tai !

汝既乞戒即既戒也, 所以者何 ? 戒外無戒又何戒哉.


Thần nói:

- Lý nầy, nghe qua tôi mờ mịt. Chỉ xin Sư truyền giới để thân tôi làm môn nhân đệ tử.

Sư vì thần liền cho xếp đặt chỗ ngồi, đem lò hương và cái bàn con đặt ở giữa, rồi nói:

- Truyền cho ông năm giới. Nếu hay phụng trì thì đáp là “được” (năng), không giữ được thì đáp là “không” (phủ).

Thần thưa:

- Kính xin vâng lời.

Sư hỏi:

- Ông không dâm được chăng?

Nhữ năng bất dâm hồ ?

汝能不婬乎 ?

Đáp:

- Cũng có vợ rồi.

Sư bảo:

- Đừng nói vậy, mà nói là không bị ái dục ràng buộc.

Phi vị thử dã, vị vô la dục dã.

非謂此也, 謂無羅欲也.

Đáp:

- Được.

Sư hỏi:

- Ông không trộm cắp được chăng?

Đáp:

- Tôi đây có thiếu cái gì? Sao có thể trộm cắp được ?!

Sư bảo:

- Đừng nói vậy, mà nói là phước lộc và hưởng thụ xa xỉ lãng phí quá, không nghĩ tới cung dưỡng người khác mà điều lành thành tai vạ.

Phi vị thử dã vị hưởng nhi phúc dâm bất cung nhi hoạ thiện dã

非謂此也, 謂饗而福淫, 不供而禍善也.

Đáp:

- Được.

Sư hỏi:

- Ông không sát sanh được chăng?

Đáp:

- Thật tôi đang nắm quyền đó, sao nói không sát được ?

Sư bảo:

- Đừng nói vậy, mà nói là có lạm sát, ngộ sát, nghi sát và hỗn sát.

Phi vị thử dã, vị hữu hạm ngộ nghi hồn dã.

非謂此也, 謂有濫 誤疑混也.

Đáp:

- Được.

Sư hỏi:

- Ông không nói láo được chăng?

Đáp:

- Tôi chánh trực làm sao có nói láo đây?

Sư bảo:

- Đừng nói vậy, mà nói là trước sau chẳng hợp lòng trời

Phi vị thử dã vị tiên hậu bất hợp thiên tâm dã

非謂此也, 謂先後不合天心也.

Đáp:

- Được.

Sư hỏi:

- Ông không uống rượu say sưa được chăng?

Đáp:

- Được.

Sư nói:

- Như trên đây là giới của Phật.

Sư lại nói:

- Với tấm lòng phụng trì giới mà không có tâm cố chấp, với tấm lòng vì sự vật mà không có tâm nghĩ cho mình. Hay như thế thì sống trước trời đất mà chẳng phải là linh hồn, chết sau trời đất mà chẳng phải là già; suốt ngày biến hóa mà chẳng là động, hoàn toàn vắng lặng chẳng phải là nghỉ.
Ngộ được cái đó dù lấy vợ mà chẳng có vợ, dù hưởng thụ mà chẳng có thụ, dù nắm quyền mà chẳng phải quyền, dù làm mà chẳng cố ý, dù say mà chẳng hôn mê. Nếu hay vô tâm với muôn vật thì dục bủa vây chẳng phải là dâm; phước thừa (phước dâm) lành mắc nạn (họa thiện) chẳng phải là trộm cắp; sát không lý do, lầm lỡ, còn nghi ngờ, loạn lạc mà chẳng phải là sát; trước sau nói trái thiên lý mà chẳng phải là vọng; mê loạn điên đảo mà chẳng phải say. Đó gọi là vô tâm. Vô tâm thì không có giới, không có giới chính là vô tâm, không Phật không chúng sanh, không có ông cũng không có ta. Không có ông thì cái gì là giới đây?!

Dĩ hữu tâm phụng trì nhi vô tâm, câu chấp dĩ hữu tâm vi vật nhi vô tâm tưởng, thân năng như thị tắc tiên thiên địa sinh bất vi tinh, hậu thiên địa tử bất vi lão, chung nhật biến hoá nhi bất vi động, tất tận tịch mặc nhi bất vi hưu. Ngộ thử tắc tuy thú phi thê dã, tuy hưởng phi thủ dã, tuy bính phi quyền dã, tuy tác phi cố dã, tuy tuý phi hôn dã, nhược năng vô tâm ư vạn vật tắc la dục bất vi dâm, phúc dâm hoạ thiện bất vi đạo, hạm ngộ nghi hồn bất vi sát, tiên hậu vi thiên bất vi vọng, hôn hoang điên đảo bất vi tuý, thị vị vô tâm dã. Vô tâm tắc vô giới, vô giới tắc vô tâm, vô Phật vô chúng sinh, vô nhữ cập vô ngã, vô nhữ thục vi giới tai ?

以有心奉持, 而無心拘執, 以有心為物, 而無心想身, 能如是則先天地生不為精, 後天地死不為老, 終日變化而不為動, 畢盡寂默而不為休. 悟此則雖娶非妻也, 雖饗非取也,雖柄非權也, 雖作非故也, 雖醉非惛也,若能無心於萬物, 則羅欲不為婬福淫禍善不為盜, 濫誤疑混不為殺, 先後違天不為妄, 惛荒顛倒不為醉, 是謂無心也. 無心則無戒, 無戒則無心, 無佛無眾生, 無汝及無我, 無汝孰為戒哉.

Thần nói:

- Thần thông của tôi dưới Phật một bực.

Sư nói:

- Thần thông của ông, năm phần được năm phần chưa được. Phật thì bảy phần được ba phần chưa được.

Thần sợ hãi rời chỗ ngồi, quỳ thưa:

- Có thể cho nghe được chăng?

Sư nói:

- Ông có thể đến thượng đế, hành sự ở Trời Đông mà vận dụng bảy vì sao (Thất diệu: Bảy thiên thể: Nhật, nguyệt, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) ban phước giáng họa cho thiên hạ ở Trời Tây được chăng?

Đáp:

- Không được.

Sư hỏi:

- Ông có thể đoạt quyền Địa thần, làm chảy tan năm ngọn núi lớn, rồi kết thành bốn bể chăng?

Đáp:

- Không được.

Sư nói:

- Đó là năm điều ông không làm được. Phật có khả năng rỗng không hóa tất cả tướng, chuyển thành trí nơi muôn pháp, nhưng không thể diệt liền định nghiệp. Phật có khả năng biết sự việc suốt ức kiếp và tánh khí chúng sanh mà không thể hóa đạo người không có duyên. Phật độ được vô lượng hữu tình mà không thể độ hết chúng sanh giới. Đó là ba điều Phật không làm được.
Định nghiệp cũng chẳng bền vững, vô duyên cũng nghĩa là một thời kỳ, chúng sanh giới vốn không tăng giảm. Không có ai làm chủ tể pháp hữu vi, pháp hữu vi không có chủ tể gọi đó là vô pháp, vô pháp vô chủ tể gọi đó là vô tâm. Theo chỗ ta hiểu thì Phật cũng không thần thông, chỉ hay dụng pháp vô tâm thông đạt tất cả pháp mà thôi !.

Thị vị ngũ bất năng dã, Phật năng không nhất thiết tướng thành vạn pháp trí, nhi bất năng tức diệt định nghiệp, Phật năng tri quần hữu tính cùng ức kiếp sự nhi bất năng hoá đạo vô duyên, Phật năng độ vô lượng hữu tình nhi bất năng tận chúng sinh giới; thị vị tam bất năng dã. Định nghiệp diệc bất lao cửu, vô duyên diệc vị nhất kì, chúng sinh giới bản vô tăng giảm, canh vô nhất nhân năng chủ hữu pháp, hữu pháp vô chủ thị vị vô pháp, vô pháp vô chủ thị vị vô tâm. Như ngã giải Phật diệc vô thần thông dã, đãn năng dĩ vô tâm thông đạt nhất thiết pháp nhĩ !.

是謂五不能也 : 佛能空一切相成萬法智, 而不能即滅定業, 佛能知群有性窮億劫事, 而不能化導無緣, 佛能度無量有情, 而不能盡眾生界, 是謂三不能也. 定業亦不牢久,無緣亦謂一期, 眾生界本無增減, 更無一人能主有法, 有法無主是謂無法無法無主是謂無心. 如我解佛亦無神通也, 但能以無心通達一切法爾.

Thần nói:

- Tôi quả thật thiển cận mê muội, chưa nghe về nghĩa không. Giới thầy truyền cho, tôi phải phụng hành, nay đem hết sức mình làm theo, nguyện báo đáp từ đức.

Sư nói:

- Ta quán thân không là vật gì, quán các pháp vô thường, trơ trọi một mình còn có gì để ham muốn?

Thần nói:

- Thầy phải sai bảo tôi làm việc thế gian, thi triển công năng tiểu Thần của tôi, khiến cho năm hạng người đã phát tâm, sơ phát tâm, chưa phát tâm, bất tín tâm ắt đều được tín tâm. Thế gian dõi theo vết chân Thần tôi mà biết có Phật, có thần, có cái làm nổi, có cái không làm nổi, có cái tự nhiên, có cái không tự nhiên.

Sư nói:

- Vô vi đó, vô vi đó.

Thần nói:

- Phật cũng bảo Thần hộ pháp, lẽ nào thầy lại làm trái Phật ư ? Xin thầy tùy ý dạy cho.

Sư bất đắc dĩ mới nói:

- Bờ đê Chùa Đông Lãnh không có cây lớn, cỏ hoang rậm rạp. Hang Bắc có cây lớn, nhưng đều chẳng có công dụng che chắn. Ông có thể dời cây ở hang Bắc đến đê chùa Đông Lãnh chăng ?

Thần đáp:

- Xin nghe lời dạy, nhưng giữa đêm tối ắt có ồn náo, mong thầy đừng sợ.

Nói xong liền làm lễ từ giã. Sư tiễn đưa tới cổng mà còn trông theo, thấy nghi vệ uốn dài như bậc vương giả, khí mây khói ráng quấn quít nhau thỉnh thoảng tách ra rồi nhập vào, tràng phan vòng ngọc nhô lên rồi chìm mất trong không trung.

Đêm ấy quả nhiên có cuồng phong nổi dậy, tiếng sấm vang dội, mây cuốn theo ánh chớp rung chuyển, phòng ốc rung động, loài chim đang ngủ rối rít kêu vang.

Sư bảo chúng:

- Đừng sợ, đừng sợ! Thần với chúng ta hợp nhau thôi.

Sáng hôm sau trời yên tĩnh, những cây tùng cây quát nơi hang Bắc dời hết đến núi Đông, thành hàng
ngay thẳng vẫn xanh tươi rậm rạp.

Sư nói với đồ chúng:

- Sau khi ta chết rồi các ông không được để người bên ngoài biết việc này, làm cho người ta có cớ ngỡ ta là yêu quái.

Vào năm Khai Nguyên thứ tư, năm bính thìn 716.

Sư dặn dò môn nhân:

- Lúc đầu ta ở chùa Đông Lãnh, ta mất rồi các ông phải an trí hài cốt ta ở đó.

Nói xong bỏ xác. Tuổi đời 73. Môn nhân xây tháp tại chỗ đó.
 
Last edited by a moderator:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên