Bài học từ cuộc sống

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Duyên và nợ: nghĩ về hạnh phúc đổ vỡ hôm nay

Khi tình là dây oan

Trên Nguyệt san Giác Ngộ vừa qua, có số chuyên đề “Đạo nghĩa vợ chồng” với những kiến giải về nhân duyên, về bổn phận vợ chồng, nguyên tắc ứng xử và quan trọng nhất là “đạo” vợ chồng. Có ở đâu trên thế giới này, hôn nhân được xem là “đạo”? Thế nhưng lần giở các trang báo hôm nay, chúng ta không khỏi rùng mình khi thấy một thực tế đau lòng khác: hàng loạt án mạng xảy ra khi vợ chồng đối xử tàn nhẫn với nhau, thậm chí giết nhau như kẻ thù, quên đi lý do vì sao họ đã đến với nhau, quên đi “duyên” đưa họ đến. Chỉ còn chăng là lòng thù hận. Có nơi nào trên thế giới này lại xảy ra nhiều án mạng gia đình như thế chăng? Hãy đọc thử trang báo hôm nay.

Chỉ từ những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống nhưng vì vợ chồng đều thiếu kiềm chế nên bi kịch đã xảy ra, để lại nỗi đau cho người mẹ già và đứa con thơ dại...

Đấy là chuyện của Phan Thị Thùy Trang (SN 1991) ở TX. Phước Long trong khi cãi nhau với chồng đã đâm chết anh ta.

Đánh dã man người vợ trước mặt con gái 4 tuổi, cử nhân có 2 bằng đại học Nguyễn Tiến Thịnh còn ra ngoài quan hệ với bồ, rồi về nhà bắt vợ xem và làm theo nếu không sẽ chọc mù mắt.

Đó là nội dung trong đơn của chị Lê Thị Lý (SN 1981, trú tại đường Lạc Long Quân, phường Hùng Vương, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc) gửi cơ quan công an và các đoàn thể tổ chức địa phương để tố cáo những hành động bạo hành của chồng là Nguyễn Tiến Thịnh (SN 1980, cùng trú tại địa chỉ trên).

Rạng sáng 13-11, Cao Anh Tú đã dùng kéo đâm vợ mình là Hoàng Thị Tú Oanh (SN 1975) nhiều nhát, rồi nhảy từ tầng 2 xuống đất tự tử. Hậu quả, chị Oanh phải vào bệnh viện cấp cứu; Tú bị gãy 6 xương sườn, chùn cột sống.

Theo điều tra ban đầu, hai người lấy nhau từ năm 2000 và đã có 2 con. Thời gian gần đây, Tú cho rằng mình bị vợ “cắm sừng” nên sau khi đi uống rượu về đã gây ra sự việc trên. (Báo Người Lao Động ngày 15-11-2011).

“Có duyên mà không nợ thì gặp nhau cũng chẳng thể chung sống. Có nợ mà không duyên thì cũng chẳng thể thành vợ chồng. Duyên nợ tác thành vợ chồng hay nói đúng hơn là nghiệp lực đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hai người đến với nhau để trở thành vợ chồng”. (HT. Thích Trí Quảng - Hạnh phúc gia đình). Như vậy thì đã rõ, không chỉ đến với nhau vì duyên mà có khi cuộc sống chung biến thành địa ngục cho cả hai. Có phải chăng hôn nhân là quá trình biến hai kẻ đồng sàng trở thành dị mộng. Có thật đáng buồn như vậy chăng? Chúng ta tự hỏi: Về mặt không gian, tình trạng mất hạnh phúc hôn nhân trên đất nước ta như vậy đáng báo động chưa? Về mặt thời gian, trong lịch sử có giai đoạn nào mà nền tảng gia đình chao đảo và những giá trị luân lý bị đảo lộn như vậy chưa?
Ði tìm nguyên nhân bạo hành gia đình

Về mặt không gian, ở các nước, tình trạng mất bình đẳng giới vẫn hiện diện, nhưng cách ứng xử do bị ràng buộc bởi những quy định chặt chẽ nên việc bộc lộ bạo lực ở rất nhiều nước không còn mạnh mẽ. Chúng ta không nói đến các bộ tộc bán khai hay những vùng xa xôi ở Trung Đông hay châu Phi. Còn ở Việt Nam thì sao, theo thống kê thì 66% các vụ ly hôn ở Việt Nam liên quan đến bạo hành gia đình. Thống kê của UNODC thì trong 5 năm, từ 2000 - 2005, có 186.954 vụ ly hôn do bạo lực gia đình, hành vi đánh đập, ngược đãi chiếm 53,1% trong các nguyên nhân dẫn tới ly hôn. Năm 2005, có tới hơn 39.700 vụ ly hôn có nguyên nhân từ bạo hành trong tổng số gần 65.000 vụ án về hôn nhân và gia đình, chiếm tỷ lệ 60,3%. Năm ngoái, đã có 88.591 vụ ly hôn tại Việt Nam trong tổng dân 87 triệu người, tăng đáng kể so với 79.769 trường hợp vào năm 2009 và 65.351 trường hợp vào năm 2008. Đó là không nói đến tình trạng “gượng gạo sống chung vì con”. Thật sự có bao nhiêu gia đình hạnh phúc?

Thống kê năm trước, ở ĐBSCL có 1.319 ca nhập viện do bạo hành gia đình, trong đó khoảng 1.000 ca tự tử, và 30 trường hợp tử vong. Tuy nhiên, vì không có số liệu cho các vùng khác, chắc chắn sẽ nhiều hơn, nhất là vùng nông thôn, vùng núi phía Bắc. Cũng theo thống kê thì 5% phụ nữ thường xuyên bị chồng đánh đập; 82% hộ dân nông thôn và 80% hộ ở thành phố có xảy ra bạo lực, lại còn có tình trạng 9-10% trường hợp nạn nhân của bạo lực gia đình là nam giới và thủ phạm chính là người vợ (!) Có đủ hình thức bạo hành, từ bạo hành thể xác: những hành vi tác động trực tiếp đến sức khỏe nạn nhân; bạo hành tình dục; bạo hành xã hội khi ngăn không cho vợ (hoặc chồng) tiếp xúc với gia đình, bạn bè, bao vây kinh tế nhằm hạn chế các hoạt động mang tính cộng đồng. Còn có dạng bạo hành tinh thần: khủng bố, hăm dọa… như gã Thịnh vừa nêu trên hoặc kết hợp tất cả mọi hình thức. Tóm lại, làm sao cho cuộc sống người bạn đời mình thành địa ngục thì mới thỏa dạ. Nhiều trường hợp hành vi bạo lực dẫn đến thương tật suốt đời, thậm chí tử vong.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Bạo lực gia đình thường là nguyên nhân khởi phát gây ra những thương tổn tinh thần, thậm chí đến cả con cái sau này, vì trẻ em là đối tượng rất nhạy cảm. Những trẻ gái sống trong môi trường bạo lực, khi trưởng thành khó đặt niềm tin vào những người đàn ông khác và thường gặp trắc trở vì lớn lên trong niềm hoài nghi quá mức với đối tượng khác giới, lý do bắt nguồn từ việc chứng kiến hành vi bạo lực của cha đối với mẹ hoặc với bản thân mình. Các trẻ trai về sau này có thể bắt chước các hành vi bạo lực với người vợ trong tương lai. Có người cho nguyên nhân chính là vì rượu, nhất là bạo hành thân thể, thường là khi người nam say rượu, nhưng rượu thực ra chỉ là cái cớ cho những lấn cấn, vướng mắc vốn tồn tại từ trước. Bạo hành được nhận thấy có tỷ lệ cao ở các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt, chẳng hạn như kinh tế khó khăn, trình độ văn hóa thấp, người chồng không có việc làm…

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là giàu có hay được học hành đầy đủ là bảo đảm chắc chắn gia đình hòa thuận. Vì trường hợp trên, gã chồng có đến 2 bằng đại học (!) Ở những gia đình như vậy, bạo hành xảy ra với hình thức rất khó lường. Phật đã nhìn thấy trong 8 nguyên nhân làm suy yếu gia đình thì nguyên nhân gần gũi và trực tiếp là “trong gia đình khởi lên kẻ phá hoại gia đình, người ấy phân tán, phá hoại làm tổn hại (vikirati vidhamati viddhamseti)”, một người chồng không biết trang nghiêm tự thân, không biết sống bảo hộ bản thân, bảo hộ gia đình và tài sản, dạng đàn ông “đình đám hý viện, đam mê các loại rượu, du hành đường phố phi thời, đam mê cờ bạc, giao du ác hữu, quen thói lười biếng… (trích theo Chúc Phú, Đạo nghĩa vợ chồng theo quan điểm Phật giáo).Vậy thì ở đâu cũng có dạng đàn ông, làm chồng như thế! Còn về lịch sử thì trong thời Pháp thuộc, Tú Xương đã phê phán:

<ADDRESS></ADDRESS><ADDRESS>Nhà kia lỗi đạo con khinh bố </ADDRESS><ADDRESS>Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.</ADDRESS>
Nhưng cũng chưa đến nỗi “con đâm bố, vợ giết chồng…”. Thế thì thời này quả là đáng báo động, vì với Tú Xương thì vợ ông vẫn tượng trưng cho người phụ nữ Việt Nam muôn đời:

<ADDRESS></ADDRESS><ADDRESS>Quanh năm buôn bán </ADDRESS><ADDRESS align="left">ở mom sông </ADDRESS><ADDRESS>Nuôi đủ năm con </ADDRESS><ADDRESS align="left">với một chồng… </ADDRESS>
Vì hình ảnh của bà là hình ảnh con cò:

<ADDRESS></ADDRESS><ADDRESS>Lặn lội thân cò khi quãng vắng </ADDRESS><ADDRESS>Eo sèo mặt nước buổi đò đông. </ADDRESS>
Hình ảnh hết sức cảm động, gợi lên những đức tính chung thủy, dịu dàng, hy sinh hạnh phúc cá nhân vì chồng vì con…

Nhưng khi trai không chịu vợ, gái cũng chẳng chịu chồng tăng lên, duyên xưa hóa thành nợ cả thì ta có thể lý giải vì sao tình trạng ly hôn tăng vọt. Theo kết quả nghiên cứu khoa học mới công bố về tình trạng ly hôn của thanh niên trên địa bàn TP.HCM của nhóm tác giả Nguyễn Ngọc Tài (Trung tâm Tư vấn giáo dục tâm lý thể chất TP.HCM), hiện nay cứ bình quân 2,7 cặp kết hôn thì có một cặp ly hôn. Độ tuổi ly hôn dưới 30 chiếm tỷ lệ cao và năm sau luôn tăng hơn năm trước. Cũng theo khảo sát này, 43,4% cảm thấy cuộc sống của mình thoải mái, tự do hơn sau khi ly hôn. Theo một kết quả nghiên cứu được công bố năm 2008 của Tiến sĩ Nguyễn Minh Hòa (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM), tỷ lệ ly hôn ở Việt Nam tăng nhanh và chiếm 31%-40%, nghĩa là cứ ba cặp kết hôn thì có một cặp ly hôn.

Từ đó, báo cáo kết luận: Tuổi thọ hôn nhân ở Việt Nam càng ngày càng giảm.

Khi tế bào gia đình bị tổn hại

“Kết quả của hôn nhân phải là hoa trái hạnh phúc. Muốn giữ gìn hạnh phúc, quan hệ hôn nhân phải vững bền”. (Chúc Phú, bđd). Tác giả bài viết cũng nhắc lại theo kinh Tăng Chi thì quan hệ hôn nhân bền vững đòi hỏi bốn sự tương đồng: tương đồng về nhận thức, về niềm tin, về chuẩn mực đạo đức, và lòng thí xả, vị tha. Thế nhưng có dễ tìm được sự tương đồng ấy hôm nay chăng khi xã hội đang phải đối đầu với sự tha hóa về lý tưởng, sự suy thoái về luân lý, sự đổ vỡ niềm tin… Khi không có sự tương đồng thì những bổn phận cũng bị xao lãng hoặc xem nhẹ. Chồng không ra chồng, vợ không còn ra vợ thì làm sao đem lại an lạc cho cha mẹ, vợ con, bạn bè thân hữu, người làm công khi bản thân mình không an lạc?

Đức Phật gọi sự phối hợp tốt đẹp của hai người là sự phối hợp của vị chư thiên nam và chư thiên nữ: “Này các Tỳ kheo, có bốn loại sống chung này. Thế nào là bốn? Đê tiện nam sống chung với đê tiện nữ; đê tiện nam sống chung với thiên nữ; thiên nam sống chung với đê tiện nữ; thiên nam sống chung với thiên nữ”. Vậy thì trong những vụ án nêu trên, chúng ta sẽ nhìn rõ đâu là đê tiện nam, thiên nam… Bất hạnh thay, đê tiện nam hay nữ thời này lại lộng hành khắp nơi, gây nên bao thảm họa.

Phải xây dựng lại từ đâu?

Quốc gia và thế giới phải lấy tiểu gia đình làm tế bào gốc, làm một đơn vị văn hóa, kinh tế xã hội và thực hiện trên nền tảng “tương kính như tân”. Ngày xưa đã có lúc dân ta đề cao chữ “trinh” trong quan hệ sao cho “trai trinh với vợ, gái trinh với chồng” nghĩa là sự chung thủy, trong sáng trong quan hệ phải được đề cao chứ không phải chữ “trinh” cụ thể và hạ đẳng theo cách hiểu hiện nay, chữ trinh ấy không thể “vá” hay tân trang mà là sự trong sáng đến từ tận đáy tâm hồn. Tiểu gia đình đã là tế bào quốc gia, làm nền cho sinh hoạt quốc dân; văn hóa, vận mệnh quốc gia đều bắt nguồn từ quan hệ sinh hoạt tiểu gia đình.

Hôn nhân là yếu tố thứ nhất của sinh hoạt xã hội, để thế hệ trẻ phát triển, xã hội (gia đình) cũng được bền vững, kiện khang đều từ quan hệ gia đình hay hôn nhân. Phải giáo dục lại thái độ, nhận thức đối với hôn nhân: bình quyền nhưng có sự ràng buộc tình cảm, tự do luyến ái nhưng trên nền tảng đạo đức Việt Nam, có trách nhiệm với hạnh phúc chính mình và người phối ngẫu cũng như con cái và gia đình lớn của cả đôi bên.

Giáo dục tình yêu và hôn nhân phải được bắt đầu ngay trong gia đình, nơi sinh ra và cảm nhận mọi nguồn hạnh phúc. Hãy “Biến cuộc đời thành những tối tân hôn/ Và đêm ơi xin cứ dài vô tận” (Thơ Nguyên Sa). Ấy là đêm của tình yêu, khi thiên nam gặp thiên nữ chứ không phải đêm của ác mộng, của bạo lực và hận thù!

NGUYÊN CẨN
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
ĐỪNG RƠI VÀO MA NGHIỆP


Tôn giáo không thể nào tự có, nếu con người không có niềm tin. Và tôn giáo không thể nào chơn chính, khi viện dẫn những quyền lực siêu nhiên để khủng bố con người và vinh danh thần linh để giết hại con người và muông thú.Tôn giáo nào không bảo vệ và tôn trọng sự sống của con người và chúng sanh, mà trái lại khủng bố con người và giết người hàng loạt để vinh danh thần linh, thì tôn giáo ấy không phải là tôn giáo của con người và chúng sanh. Hoặc khi vị giáo chủ của tôn giáo ấy ra đời, mà những tín đồ phụng thờ vị giáo chủ ấy, giết hại chúng sanh để hiến tế hay ăn mừng thì tôn giáo ấy cũng không phải là tôn giáo của con người và cũng không có ân đức gì với chúng sanh khi vị ấy xuất hiện. Tôn giáo ấy chỉ là tôn giáo của những người thiếu nhân văn và cuồng tín. Nó trở thành độc hại, cản trở bước tiến của thế giới con người về nơi chân thiện và vị tha. Đức tin cuồng tín và mù quáng thường dẫn sinh bạo động và chiến tranh. Lịch sử của xã hội nhân loại đã chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều ấy.


Những kẻ kinh doanh tôn giáo xưa và nay, đều lợi dụng đức tin mù quáng và yếu hèn của tín đồ, để ru ngủ và mê hoặc bởi những điều hứa hẹn mơ hồ, huyễn hoặc, nhằm kiếm lợi nhuận hay kích động những tính chất bạo lực nơi những người có đức tin tôn giáo mù quáng, tạo nên những cuộc chiến tranh dân tộc, thuộc địa, ý thức hệ hay tín điều mà thủ lợi không phải là những người cầm súng ra chiến trường mà nơi những nhà chủ trương sản xuất súng đạn và cổ vũ chiến tranh dưới nhiều hình thức và danh nghĩa khác nhau để có lợi nhuận và quyền uy.
Triết học cũng không thể nào tự có, nếu con người không có tư duy. Nhưng những tư duy sai lầm sẽ tạo thành một hệ thống triết học dẫn xã hội con người đến chỗ phá sản tri thức và nhân tính.
Tư duy của những người dân chất phác chỉ nghĩ về cơm ăn áo mặc, nhà ở mà họ không có hệ thống triết học lý luận về nhà ở, áo mặc và cơm ăn. Vì vậy, ai cho họ nhà ở thì họ theo, ai cho họ cơm ăn, áo mặc thì họ cúi đầu và ai cho họ niềm tin thì họ thờ phụng. Nhưng, người có lương tâm, thì không nên sử dụng những phương tiện cơm ăn, áo mặc, nhà ở, niềm tin mù quáng để dụ dỗ và mê hoặc lòng họ. Nói dối với trẻ thơ, thì tội lỗi gấp mười lần so với nói dối với người lớn! Và nói dối với nhân loại thì tội lỗi tăng lên gấp cả triệu lần so với sự tự lừa dối chính mình. Và sự tự lừa dối chính mình thì không có bất cứ khả năng nào để có thể tự cứu rỗi và cũng không ai có thể cứu rỗi nổi người tự lừa dối.
Văn hóa, học thuật và nghệ thuật cũng có gốc rễ từ nơi tư duy của con người. Tư duy sai lạc, thì văn hóa, học thuật, nghệ thuật biểu hiện từ tư duy ấy cũng chỉ là những sản phẩm phù phiếm, nửa vời, như những người ngồi bên này bán cầu mà khen ngợi hay chỉ trích những gì đang diễn ra ở bên kia bán cầu! Con người không có tư duy, thì chẳng có gì để gọi là văn hóa, học thuật và nghệ thuật cả. Người có tư duy hữu ngã và ích kỷ, thường muốn đem tư duy của mình áp đặt lên tư duy của người khác và buộc người khác đi theo hướng tư duy của mình. Họ biến con người trở thành những con cừu và tự biến họ trở thành những kẻ chăn cừu cho một người chủ duy nhất do họ tưởng tượng ra.
Tưởng tượng về một ông chủ hay một bản ngã sẽ đưa con người đi tới với đời sống của tham lam, thù hận, bạo động, chiến tranh, thất vọng và khổ đau. Đây là chân lý, vì nó không riêng gì cho người bên này bán cầu hay bên kia bán cầu. Không riêng gì cho người có tôn giáo hay không tôn giáo. Không riêng gì cho người xưa hay người nay và không riêng gì cho kẻ trí thức hay người mông muội. Hễ đứng ở đâu, ở thời điểm nào mà có tư duy hữu ngã và ích kỷ, thì có lòng tham, có sự sân hận, có mù quáng thì nhất định chúng sẽ dẫn sinh tranh cãi, bạo động, chiến tranh, sợ hãi, thất vọng và khổ đau. Nên, tư duy hữu ngã sẽ tạo ra nền văn hóa hữu ngã. Văn hóa hữu ngã chỉ là văn hóa của chiến tranh, mọi học thuật đi từ hữu ngã là để đầu độc thực hiện chiến tranh và mọi nghệ thuật đi từ hữu ngã chỉ là để kích động chiến tranh, nên khổ đau xảy ra là điều tất yếu, không có gì để cho ta ngạc nhiên. Ở nơi nào có tự ngã, ở nơi đó có hận thù và chiến tranh.
Hòa bình không bao giờ có mặt ở nơi những tôn giáo hay nơi những nền văn hóa giáo dục, nghệ thuật, âm nhạc đề cao tự ngã với những tham vọng quyền năng, gom thu hết cả muôn dân về một đầu mối. Bản chất của lòng tham là xấu và nó là thuộc tính tạo nên tội lỗi. Lòng tham càng lớn thì tính xấu càng nhiều và thủ đoạn càng lắm, cho dù nó có khoác lên bất cứ hình thức áo mão hay ngôn ngữ diễm lệ hoặc ca nhạc thánh thần nào. Lòng tham là nguồn gốc của mọi tội lỗi và là nơi cất chứa của mọi thù hận và mù quáng!
Phụng thờ và khiếp nhược trước thần linh, không phải là đi từ tính cách lễ phép của con người, mà đi từ nơi tính chất hèn yếu, ích kỷ và tham lam của nó. Con người càng ích kỷ, thì họ càng đam mê thần linh và họ muốn vay mượn thần linh để thỏa mãn những nhu cầu ích kỷ của họ. Nhưng không có thần linh nào ở trên trời hay ở dưới đất có thể đáp ứng nổi lòng tham của con người. Con người có thể yếu đuối về thể chất, nhưng lòng tham của họ lại mãnh liệt và dẻo dai vô cực.
Thần linh thì không làm cho ai mê muội, nhưng mê muội là do tính ích kỷ nơi con người đối với thần linh. Thần linh là sự linh thiêng, trong sáng và linh hoạt của tinh thần. Thần linh như thế ai cũng có, loài nào cũng có và ngay cả nơi muôn vật cỏ cây cũng đều có. Có mà không có khả năng biểu hiện là do tính tham dục nơi tâm con người và chúng sanh hay do tính chất tiếp nhận hỗn tạp thiếu gạn lọc từ nơi các lưu mạch của mọi sự hiện hữu.
Người đệ tử của Phật có ba pháp hành cần phải thực tập mỗi giây, mỗi phút, mỗi giờ, mỗi ngày để lọc đi những tạp nhiễm của thân tâm, khiến cho nguồn mạch sáng trong, linh tâm tinh nhuệ. Ba pháp hành ấy chính là Văn Tư Tu.
Văn là lắng nghe, để lọc những gì tạp nhiễm do nghe đem lại, khiến cho tâm không bị ô nhiễm bởi nghe. Ta thực tập hạnh lắng nghe như vậy, nhuần nhuyễn, tuệ giác sẽ sinh khởi trong đời sống của ta. Tuệ giác sinh khởi từ hạnh lắng nghe như vậy, gọi là văn tuệ.
Tư là chiêm nghiệm sau khi nghe, sau khi thấy và sau khi các quan năng tiếp xúc với các đối tượng, ta thấy điều gì có khả năng đem lại lợi ích thiết thực cho sự thực tập đời sống giải thoát, giác ngộ cho ta, cho người, cho đời này và đời sau, thì ta chọn lấy để thực tập, và nếu sau khi chiêm nghiệm, thấy nó phù hợp với thời cuộc và tương ưng với ngũ dục mà không lợi ích gì cho sự thực tập đời sống giải thoát, giác ngộ cho mình, cho người, cho đời này và đời sau, thì mình dứt khoát không làm. Tuệ giác sinh khởi từ hạnh chiêm nghiệm hay tư duy như vậy, gọi là tư tuệ.
Tu là ứng dụng những gì mình đã quyết tâm lựa chọn, sau khi đã trải qua hạnh lắng nghe và hạnh chiêm nghiệm. Tuệ giác sinh khởi từ sự tu tập, ứng dụng gọi là tu tuệ.
Thực tập các pháp môn Văn Tư Tu như thế mỗi ngày, tuệ giác ở nơi đời sống của ta sẽ phát sinh và tâm khoan dung độ lượng, không kỳ thị nơi ta cũng từ đó mà sinh khởi.
Bấy giờ, tâm ta tuy độ lượng, nhưng không để cho bất cứ ai lợi dụng tâm độ lượng của ta mà làm những việc phi độ lượng, ấy mới gọi là phẩm chất độ lượng do thực hành pháp môn Văn Tư Tu tựu thành. Bấy giờ tâm ta tuy khoan dung, nhưng không để cho bất cứ ai lợi dụng tâm khoan dung của ta, để làm những công việc phi khoan dung, hại mình, hại người, ấy mới gọi là phẩm chất khoan dung do thực hành pháp môn Văn Tư Tu tựu thành. Bấy giờ tâm ta tuy không phân biệt kỳ thị, nhưng ta thấy Nhân quả không sai, chân ngụy rõ ràng, chánh tà phân minh, thiện ác không xen tạp, khiến cho bất cứ ai không thể lợi dụng sự không kỳ thị phân biệt của ta, để làm những công việc kỳ thị phân biệt, ấy mới gọi là không kỳ thị phân biệt, do thực hành pháp môn Văn Tư Tu tựu thành.
Nếu thiếu sự thực tập miên mật đối với pháp môn Văn Tư Tu hay chánh niệm tỉnh giác, thì tà niệm khởi sinh, khiến cho mọi việc làm hay sự tu tập của ta đều rơi vào tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, hay như công án của một thiền sư đã nêu lên từ xưa để cảnh giác chúng ta: “Đầu lọt, bụng lọt, đuôi không lọt”.
Vì vậy, chúng ta phải cẩn mật tu hành, luôn tỉnh giác đối với thân, thọ, tâm và pháp, qua các quan năng nhận thức, đừng lạm dụng ngôn từ, đừng lạm dụng các phương tiện tùy duyên hay ngoại giao, để rồi tự lừa dối chính mình mà rơi vào ma nghiệp!
Thích Thái Hòa
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Người ngu và người trí

Triết gia La Rochefoucauld đã nói: “Có ba thứ ngu dốt: không biết điều phải biết, biết bậy điều đáng biết, và biết điều không nên biết”. Có thể người nào cũng đều có ba thứ ngu dốt đó. Bởi có những điều cần biết nhưng ta chưa biết, có nhiều điều tuy biết mà lại biết sai bậy… Trong khái niệm thông thường, người ngu là người dại, không hiểu biết gì cả. Nhưng trong học thuật, danh từ người ngu lại có nhiều khái niệm, phân loại khác nhau. Cho nên, không phải hễ thấy người không biết gì rồi mặc nhiên gán cho họ là loại người ngu được.

Kinh điển Phật giáo cũng có đề cập đến loại người ngu. Khái niệm về người ngu được định nghĩa qua kinh tạng Nguyên thủy như sau: “Này các Tỳ-kheo, có ba đặc điểm, đặc tướng, và đặc ấn này của người ngu. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỳ-kheo, người ngu tư duy ác tư duy, nói lời ác ngữ và hành các ác hạnh. Này các Tỳ-kheo, nếu người ngu không tư duy ác tư duy, không nói lời ác ngữ, không hành ác hạnh, thời làm sao kẻ trí biết được người ấy: Người này là người ngu, không phải là chân nhân? Và vì rằng, này các Tỳ-kheo, người ngu tư duy ác tư duy, nói lời ác ngữ, hành ác hạnh, do vậy, người trí biết người ấy: Người này là người ngu, không phải là chân nhân” (kinh Hiền Ngu). Lời kinh chỉ ra ba đặc điểm của loại người ngu: tâm ý tư duy điều ác, miệng nói lời ác, thân làm các điều ác.

Tư duy là suy nghĩ, nhận thức của một người về biểu tượng, khái niệm, phán đoán. Người tư duy ác tư duy là người chuyên nghĩ đến điều ác, gây đau khổ, tai họa cho người khác như: nghĩ đến việc hãm hại người, nghĩ đến việc trả thù người, nghĩ đến việc cạnh tranh hơn thua, nghĩ đến việc những khát khao ái dục... Người nói lời ác ngữ là nói những lời lẽ gây đau khổ, tai họa cho người khác như: mắng chửi, nói lời hận thù, nói lời dua nịnh, nói lời gây rối, nói lời tục tĩu, nói lời khiêu khích,... Người hành ác hạnh là người làm những việc gây đau khổ, tai họa cho người khác như: dùng vũ lực đánh người, hãm hại người yếu hơn mình, dùng sức mạnh để cưỡng đoạt, trộm cướp của người,... Tóm lại, người ngu ba nghiệp cả thân miệng ý đều ác.

Ngược lại với người ngu là người có trí. “Trời và đất, này các Tỳ-kheo, là sự việc thứ nhứt rất xa, rất xa với nhau. Bờ biển bên này, này các Tỳ-kheo với bờ biển bên kia, là sự việc thứ hai rất xa, rất xa với nhau. Pháp của hạng người bất thiện, này các Tỳ-kheo, với pháp của hạng người thiện, là sự việc thứ tư rất xa, rất xa với nhau” (kinh Tăng Chi Bộ). Người trí là người có khả năng nhận thức, ghi nhớ, suy nghĩ, phán đoán… đúng đắn, chính xác về các phương diện trong đời sống xã hội. Những tính chất của người trí biểu hiện ở các phương diện như trí nhớ, trí khôn, trí lực, trí năng, trí óc, trí thức, trí tuệ. Theo Phật giáo, người trí là người biết phát huy tuệ giác biết rõ thiện và ác cùng nguyên nhân của nó; biết rõ Nhân quả, biết rõ Bốn sự thật khổ tập diệt đạo; biết rõ Duyên khởi (kinh Chánh Tri Kiến). Tóm lại, người trí ba nghiệp của thân miệng ý đều hiền thiện.
Tu học là vận dụng tuệ giác để biết rõ Nhân quả nên tạo nhân tốt để tránh quả báo khổ đau. Kinh Tạp A-hàm, số 281, nói đến quả báo của người ngu làm ác như sau: Đa văn Thánh đệ tử ở chỗ vắng vẻ trong rừng, dưới bóng cây, tu học như vầy, tư duy như vầy: Ác hành của thân này, đời này và đời sau phải chịu báo ác. Nếu ta hành động với ác hành của thân, chắc phải tự sanh chán nản, hối hận, bị người khác chê trách, Đại sư cũng chê trách, những người phạm hạnh cũng chê trách ta; tiếng ác đồn khắp mọi nơi, thân hoại mạng chung thì sẽ rơi vào địa ngục”. Và, kinh Tăng Chi Bộ, cũng nói đến sự nguy hiểm tà kiến, của sự tư duy không chơn chánh:“Những Tỳ-kheo nào, này các Tỳ-kheo, nêu rõ phi pháp là pháp, sở hành của những vị ấy, này các Tỳ-kheo, đem lại bất hạnh cho đa số, bất lạc cho đa số, bất lợi cho đa số, đưa đến bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài người. Và hơn nữa, này các Tỳ-kheo, những Tỳ-kheo ấy tạo điều vô phước, và khiến cho diệu pháp biến mất”.
Kinh Hiền Ngu cũng dẫn dụ rất nhiều về hậu quả của người ngu, cảm thọ ba loại khổ ưu ở kiếp hiện tại, sau khi chết bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Ba loại khổ hiện tại của người ngu, thứ nhất là bị gièm pha, chê cười:“Này các Tỳ-kheo, nếu người ngu ngồi giữa hội chúng, hay ngồi bên đường có xe cộ qua lại, hay tại ngã (ba, tư) đường, tại đấy có nhiều người nghĩ đến câu chuyện thích hợp về người ấy” (kinh Hiền Ngu). Nỗi khổ thứ hai, ví như một tên trộm bị bắt. Nếu người ngu thấy một tên trộm bị bắt, chịu nhiều hình phạt khác nhau rất đau đớn cho đến bị tử hình, người ngu biết mình cũng là tên trộm, liền sợ bị bắt, bị phát hiện nên hắn thấy lo lắng, sợ sệt, không yên. Nỗi khổ thứ ba, người ngu gieo ác nghiệp sẽ bị ác nghiệp đeo đuổi, giống như người bị treo, bị cái gì đó đè nặng lên người, người ấy sợ bị đọa ác thú vì nghĩ mình không làm điều gì phước thiện, người ấy rơi vào tâm trạng sầu muộn, đấm ngực, rên la, than van… không thể an ổn được. “Phàm có sự sợ hãi nào khởi lên, tất cả sự sợ hãi ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm có những nguy hiểm nào khởi lên, tất cả những nguy hiểm ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm có những tai họa nào khởi lên, tất cả những tai họa ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí” (kinh Tăng Chi Bộ).
Như vậy, người ngu không chỉ gây hại cho bản thân mà còn ảnh hưởng đến xã hội. Đức Phật đã chỉ ra hậu quả mà người ngu phải gánh chịu: Tự sanh chán nản, hối hận, bị người khác chê trách, tiếng ác đồn khắp, chết rơi vào địa ngục, làm thân súc sanh, khi tái sanh ở cõi người sẽ sinh vào nhà hạ tiện. “Muốn nói một cách đúng đắn về địa ngục, phải nói rằng, địa ngục hoàn toàn không tốt đẹp, hoàn toàn không khả ái, hoàn toàn không thích ý… Đây là địa xứ hoàn toàn viên mãn của kẻ ngu” (kinh Hiền Ngu).
Đối với chư vị đệ tử của Phật, “Duy tuệ thị nghiệp” là điều luôn tâm niệm để hướng đến thành tựu. Nếu không chuyển hóa ba đặc điểm của người ngu thì hệ quả sẽ là “tạo điều vô phước” cho bản thân đồng thời làm cho “diệu pháp” của Phật biến mất trên thế gian này. Ngày nay trên bước đường hoằng pháp độ sanh, các bậc tôn túc phải tiếp nhận môn đồ để duy trì mạng mạch Phật pháp và kế thừa tông môn. Công tác tiếp Tăng, độ chúng thật không dễ dàng, nếu quá dễ dãi và thiếu chọn lọc thì về sau đạo pháp sẽ không có nhân tài trí tuệ kế thừa, đó là chưa kể đến hậu quả đạo hạnh người tu xuống cấp, Phật pháp suy đồi.
Trong xã hội có nhiều hạng người khác nhau, nhưng tóm lại có hai hạng người: người ngu và người trí. Người trí đem lại sự an vui cho cá nhân và cho cả xã hội. Người ngu thì trái lại, gây khổ đau cho bản thân, gia đình và làm ảnh hưởng sự phát triển tích cực của xã hội. Không có người ngu thì xã hội hoàn toàn an lạc, con người văn minh, đời sống hòa bình, không có gì phải lo sợ.
Ngày nay, các vấn đề như trộm cướp, giết người, bạo hành phụ nữ và trẻ em, kinh doanh gian dối, tham nhũng, ma túy, xung đột, ô nhiễm môi trường, ngộ độc thực phẩm, mua bán bằng cấp, v.v… khiến mọi người ưu tư, lo lắng chính là những biểu hiện của người “ngu”, bị tham ái vô minh chi phối. Muốn chuyển hóa si mê và tham ái của những hạng người này không gì hơn là nâng tầm nhận thức của họ bằng giáo dục đạo đức, tin sâu Nhân quả, phát huy tuệ giác để nhận chân sự thật, thấy rõ lợi ích của mình cũng chính là lợi ích cộng đồng. Điều này đòi hỏi sự cố gắng học tập, tu dưỡng đạo đức của cá nhân, gia đình và xã hội trong mối tương quan với nhau vì sự phát triển, vì hòa bình và niềm an lạc của số đông.
Kinh điển Phật giáo là một kho tàng về giáo dục và nghệ thuật sống an lành. Người Phật tử chân chính cần nên học tập, nhận thức đúng đắn về bản chất của con người và thế giới xung quanh để sống tích cực, lợi mình và lợi người. Nếu như trong cuộc sống thường ngày, người Phật tử không thể sửa đổi được những tật xấu, không thể hóa giải được những sân hận, si mê, không thể xả bỏ được lòng ham muốn vị kỷ, kiêu mạn, tự đắc,… thì người ấy chưa phải là đệ tử đích thực của Đức Như Lai, vẫn còn là người “ngu” trong thế gian này. Hiện tại người ấy bị phiền não trói buộc, mai sau chẳng thể nào giải thoát khỏi dòng khổ đau sinh tử vô tận.
Diệp Thiên
<!--*****Content*End*****--><TABLE class=FooterTab><TBODY><TR><TD class=ctlFooter></TD></TR></TBODY></TABLE>
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
CHỨNG CẬN THỊ

(TTCN) Gió heo may đã về... là tựa cuốn sách do bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết riêng cho tuổi “chớm già”. Nhưng có lẽ thuở ra mắt cuốn sách, nhân loại chưa chứng kiến tình trạng “biến đổi khí hậu” như hôm nay.
Có khi phải đề nghị bác Ngọc đổi thành “Gió heo may... ập về!” vì mọi thứ bây giờ đã khác rõ, ào ào, dồn dập, cấp tập, thoắt một cái là già ngay, chẳng chớm chiếc gì cả!



Trước tết, đôi trai gái phóng xe ngang qua, một đứa gào lên: “Gạt chống xe lên bố ơi!”. Hai tiếng “bố ơi” hạ gục tôi tức khắc. Tết ấy chẳng còn là tết nữa, bởi từ đó tôi thấy mình đã chuyển lên hàng lão: khắp thế giới gọi ta bằng chú, bằng bác, thậm chí có kẻ “giết người không gươm” khi bô bô “ông ơi, ông ơi!”. Cứ mỗi lần thấy các em gái nhìn ta đăm đăm để lựa chữ thưa cho phải phép, ta như kẻ chết rồi mà chưa chôn...
Trước, ta hùng hồn tuyên bố “không bao giờ đổi trắng thay đen”. Nay, ta len lén đi nhuộm tóc mỗi tháng (mà khổ, giá còn đủ tóc để mà nhuộm).
Khi cái già ập đến, nỗi sợ chết chạy liền theo. Trong bốn bước sinh, lão, bệnh, tử của đời người, khoảng cách “sinh - lão” xem ra còn có chỗ cho ta thong dong, nhưng đến thời đoạn “lão - bệnh - tử”, độ dài ba bước này xem chừng lại “ngắn chẳng tày gang”... Nghĩ đến cái cảnh phải lìa đời, xa vợ con, xa bồ bịch, bạn bè, bao nhiêu khao khát chưa thỏa, bao nhiêu toan tính chưa xong, hồn không biết có bay lên thiên đàng hay lại sa xuống hỏa ngục, thiệt là... sợ muốn chết!
Ai là người sợ chết hơn ai? Người quyền lực hay hạng giàu có, kẻ tài giỏi hay người danh tiếng? Chắc hẳn vua chúa phải đứng đầu danh sách bình chọn vì đó là loại người cho phép mình có quyền đáng sống nhất!
Vậy mà theo một thống kê của các nhà nghiên cứu Trung Quốc, xét trong 494 vị đế và vương, tính từ lúc Tần Doanh Chính lên ngôi lập triều vào năm 221 TCN đến khi Phổ Nghi thoái vị, nhà Thanh cáo chung vào năm 1911, trừ đi 73 vị không thật sự lên ngôi mà chỉ được truy tôn sau khi qua đời, không tính những vị băng hà vì lý do không tự nhiên như tai nạn, bị đầu độc, bị ám sát... thì chỉ có 12 vị là sống được đến tuổi 70 trở lên.
Gần 1/3 nhà vua chết ở tuổi 20-40, và 1/3 khác chết ở tuổi 41-60. Tuổi thọ bình quân của các đấng chí tôn là 43 năm. Trong khi đó, các tăng sĩ Phật giáo Trung Quốc sống trung bình đến 77 năm, trong đó 31% vị sống đến hơn 80 tuổi và hầu như không có vị nào chết dưới tuổi 50.
Trong số những kẻ “tham sống sợ chết” ấy, Tần Thủy Hoàng được xem là số một, bất kể tiền của, địa lý, thời gian hay nhân lực, cứ nghe nói nơi đâu có thuật bất tử, có thuốc trường sinh là cử người tìm đến! Nên mới bị bọn Từ Phúc lừa bịp đến mất cả chì lẫn chài, làm bia miệng cho đời sau.
Cứ nhìn lên đỉnh Olympus của thần Zeus, chẳng phải các nam thần nữ thần bày đủ trò lắm chiêu hành hạ nhân loại trần gian cũng bởi vì sự nhàm chán của một cuộc sống không có kết thúc đó sao?
Giả sử Tần Thủy Hoàng lúc này vẫn còn sống, lão sẽ được 259 (TCN) + 2012 = 2.271 tuổi! Không có ký ức thì không có tương lai, nhưng với một quá khứ khổng lồ như thế, làm sao một con người có thể cất bước đi về phía trước? Nếu hôm nay lão vận quần jean áo pull, dùng iPad, nghe iPhone, chơi game, đánh golf, lướt web, có tài khoản Facebook, ăn fast food... hẳn lão phải tự lột xác hàng vài trăm lần để biết từ bỏ những thứ cũ kỹ lạc hậu, tiếp nhận những thứ tiến bộ đổi mới.
Nhưng cái gì buộc lão phải tự lột xác để phủ định của phủ định được thực hiện trong sự bất tử? Nếu lão không tự thay đổi thì xã hội có buộc lão thay đổi? Và một xã hội gồm những con người bất tử thì có cần động lực đổi thay? Hay rốt cuộc lão vẫn là một ông vua của thời đại chuyên chế ăn sống giữa thế kỷ 21, hoặc một kẻ điên không phân biệt thực hư, sau trước trong vĩnh viễn của trục thời gian?
Cuồng vọng bất tử xem ra là kết quả của một thị lực kém: tầm nhìn chỉ ở mức vài trăm năm. Nếu phóng tầm mắt theo đơn vị thiên niên kỷ sẽ thấy sự chết là cần thiết, là tất yếu, thậm chí hạnh phúc, cho con người và cho xã hội.
Niềm tin về một thứ bất biến, vĩnh cửu, trường tồn, vô tận... đều do chứng cận thị mà ra! Những ai thật sự nhìn xa trông rộng lại nhận rõ hơn bao giờ hết cái tích tắc, cái có đó mất đó, cái hữu hạn mong manh, không chỉ của thân xác, của kiếp người mà còn của muôn vàn những hư vinh, tham vọng, ảo cuồng dù là của những quyền năng mạnh mẽ nhất!
DUYÊN TRƯỜNG​
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
GIAO THÔNG YAGON- HA NỘI HAI THÁI CỰC CUỘC SỐNG & PHẬT GIÁO

Có rất nhiều bài học cho Hà Nội và các đô thị ở Việt Nam, nhưng có dám học không, ai học, ai làm là điều cực đơn giản nhưng cũng vô cùng khó
Vì sao một thành phố nghèo như Yangon lại quy củ và yên bình đến thế? Vì sao họ có thể làm ra những công trình vĩ đại khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ?... Một loạt câu hỏi về lý thì khó trả lời, nhưng nhìn dưới góc độ… lạ một chút thì hóa ra cực kỳ đơn giản.
Theo quan điểm cá nhân tôi, là quốc gia Phật giáo, Myanmar có tới 95% dân số theo đạo Phật, họ nhìn nhận, giải quyết các vấn đề dưới góc độ Phật giáo.
Bị cấm vận trong rất nhiều năm nên Yangon khá nghèo so với thủ đô Hà Nội của Việt Nam. Nhưng lạ ở chỗ họ bình thản, tự tại với cuộc sống hiện có, không “cắm đầu cắm cổ vào kiếm tiền” như ở ta. Sau những giờ phút vất vả bươn chải kiếm sống, họ lại có những thời khắc ngồi tĩnh lặng trong chùa hay thậm chí ở ngoài sân chùa, niệm Phật, suy ngẫm về bản thân, về nhân quả. Tiền kiếm được họ chỉ tiêu một phần, số còn lại công đức để mở mang, tu bổ chùa chiền, giúp đỡ người tu tuyệt đối. Một điều dễ dàng cảm nhận ở những người tôi được tiếp xúc ở Yangon là họ rất tôn trọng luật pháp, tôn trọng giới luật của nhà Phật.

Suốt mấy ngày ở Yangon, tuyệt nhiên tôi không thấy một vụ va chạm, đánh chửi nhau nào, thậm chí to tiếng cũng không. Hình như quan niệm “gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy” như triết lý luân hồi, nhân quả-báo ứng khiến họ “chùn” lại trước mỗi sự việc thì phải.
Một điều lạ, đáng khâm phục nữa là người tham gia giao thông ở Yangon rất chấp hành pháp luật. Mỗi khi từ đường phụ nhập vào đường chính, họ luôn dừng xe quan sát, có khi đợi vài phút để an toàn mới nhập xe vào làn. Người đi bộ có thể sang đường bất kỳ chỗ nào, nhưng nếu họ dừng ở các vạch sơn phân làn để quan sát thì gần như an toàn tuyệt đối, bởi không thấy ai đè vạch, lấn làn. Nhiều khi xe ở làn đường họ đang lưu thông bị dồn lại, trong khi làn bên cạnh rất vắng, họ vẫn kiên nhẫn chờ, không lách sang. Bởi nếu lách sang là có thể gây tai nạn và bị phạt nặng.
Lạ hơn nữa là họ tự giác chấp hành chứ không phải vì có cảnh sát giao thông trên đường phố, cũng không hề có camera giám sát hiện đại như nhiều nước khác.

Tại Yangon có chùa Shwedagon hay Chùa Vàng, được coi là ngôi chùa linh thiêng nhất Myanma. Tại đây có lưu giữ 4 báu vật thiêng liêng đối với các tín đồ Phật giáo, gồm cây gậy của Phật Câu Lưu Tôn, cái lọc nước của Phật Câu Na Hàm, một mảnh áo của Phật Ca Diếp, và 8 sợi tóc của Phật Thích Ca. Tháp chính của chùa cao tới 98 mét (tính đến đỉnh awngten thì cao 124m). Trên tháp này được được nạm 5.448 viên kim cương và 2.317 viên hồng ngọc. Trên cùng là cánh hình cờ và ở vị trí cao nhất là búp kim cương gắn một viên kim cương 76 carat (15 g) và một số viên kim cương nhỏ hơn. Xung quanh tháp là những tấm vàng ròng dát mỏng được các thợ thủ công chế tác bằng kỹ thuật truyền thống. Vậy nhưng du khách rất hiếm khi nhìn thấy cảnh sát bảo vệ, ngoại trừ lối vào tâm tháp, nơi an vị pho tượng phật cổ có viên kim cương khổng lồ giữa trán.
Đây được coi là biểu tượng của Myanmar. Mỗi ngày thu hút hàng chục ngàn lượt du khách trong nước và quốc tế đến chiêm bái. Có thông tin nói UNESCO từng ngỏ ý muốn công nhận Shwedagon là Di sản thế giới, nhưng Myanmar không chấp nhận. Bởi lẽ bản thân Shwedagon là di sản, công nhận hay không cũng thế mà thôi. Hơn nữa đây là biểu tượng Phật giáo, không thể đem gì so sánh với Đức Phật - bậc đại Từ, đại Bi, đại Trí, đại Dũng.
Tìm hiểu về Shwedagon càng thấy rõ, bên cạnh ý thức tuyệt vời của người dân ở đây, các công trình văn hóa, xã hội ở Yangon thể hiện rõ sự nhất quán, kế thừa, tiếp nối một cách bài bản của nhà chức trách.
Còn rất nhiều thứ thú vị đáng suy ngẫm giữa một Yangon nghèo nhưng quy củ, thanh bình, giao thông luôn thông suốt, với một Hà Nội - Thành phố vì hòa bình, nhưng giao thông suốt ngày ách tắc, đường xá đào lên lấp xuống... Ngắm nhìn Yangon và Hà Nội, chợt "ngộ" ra nhiều điều, nhưng tựu chung lại thì: Muốn đô thị văn minh, giao thông thông suốt, cần những quyết sách có tầm của những người có tâm triển khai-thực hiện. Thiếu một trong hai thứ này thì dù có cấm ô tô, hay tăng thêm phí cũng chỉ là giải pháp tình thế cho phần ngọn mà thôi.
Có rất nhiều bài học cho Hà Nội và các đô thị ở Việt Nam qua cách nhìn từ Yangon hay nhiều thành phố khác trên thế giới, nhưng vấn đề là chúng ta có dám học không, ai học, ai làm, bao giờ làm?... Đây là điều cực đơn giản nhưng cũng vô cùng khó…
<!--123-->
Theo: An ninh Thủ đô
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
PHO TƯỢNG
Đừng vội phản ứng vì lời “chia sẻ chân thành” này, bởi sao tự nhiên lại bảo làm pho tượng? Nhưng nếu hiểu làm tượng trong hệ quy chiếu so sánh với một cục (một tảng) đá thì tượng chính là một tác phẩm nghệ thuật đã thành hình, được chạm khắc một cách công phu.


Tượng từ đá (hoặc từ xi-măng) nhưng nó đã được “thổi hồn”, được tạo tác theo những hình hài, những mục đích mang tính nghệ thuật, theo ý đồ nào đó nên đương nhiên tượng sẽ có hồn hơn một phiến, một tảng đá nằm chơ vơ không mang một hình hài nào.Muốn thành tượng, đá phải chịu “đau đớn” bởi trăm ngàn những lần đục đẽo của người thợ. Nếu đá muốn thành tượng thì đá phải chịu đục đẽo, đó là nguyên lý. Nguyên lý ấy được đem vào trong ứng dụng “tạo tác” tâm hồn. Nếu bạn muốn vững chãi, bạn muốn có sức mạnh tinh thần, bạn phải chịu rèn luyện bởi sự khắc nghiệt của cuộc sống, bởi sự ghè đẽo của đời, của người mà nhiều khi mình thấy “sao mà vô lý”, sao mà “quá bất công”.


Vàng phải được thử lửa để minh chứng nó là vàng mười hay chỉ là vàng giả, vàng mạ. Nếu là vàng mạ, vàng giả thì qua lửa sẽ biết ngay. Người tu tập đạo Phật cũng vậy, không thể dễ dàng, không thể chỉ sống trong sung sướng, trong một hoàn cảnh hoàn toàn thuận duyên mà tiến tu, mà vững chãi được.


Trong Tây du ký, Ngài Tam tạng Pháp sư Trần Huyền Trang muốn thỉnh được tôn Kinh, được Phật thọ ký phải trải qua 81 kiếp nạn. Nếu Ngài Tam Tạng không vượt qua được thì thật chưa thể thấy được chân kinh, sẽ không được thọ ký. Do vậy, khi tâm mình rèn luyện nhẫn nhục, chịu đựng, tinh tấn, thiền định đến khi đạt được nhất như tĩnh lặng, tịch tịnh rồi thì tâm ấy là chân tâm, sẽ khế hợp với tâm Phật, tâm chư vị Bồ tát, và ngộ là một sự chứng đắc. Chứng đắc đến đâu, ngộ đến chừng nào thì tùy vào tâm của hành giả, tùy vào công phu, diệu dụng của từng người.


Trở lại lời sẻ chia: hãy làm một pho tượng, đừng làm một cục đá. Lời chia sẻ dành cho người sơ phát tâm chưa được bao lâu, ở nơi Ta-bà này gặp phải một vài chướng duyên, một vài trúc trắc trong đời sống, tu tập và cảm thấy “lòng buồn tênh”. Cảm giác chênh chao trước lựa chọn ngỡ là sẽ bình yên của hành giả chính là do mình chưa thấy được giá trị của sự đục đẽo trong quá trình tu tập và sống trong cuộc sống này; hoặc cũng có thể do mình thấy được giá trị nhưng sự gia công quá nhanh của “thợ điêu khắc” đã làm mình chịu không nổi. Và mình hoài nghi về lựa chọn (vốn ban đầu là từ sơ tâm tốt đẹp) để rồi có khi ngã lăn ra, đau khổ với nhiều câu hỏi, tự đặt ra một ngã ba đường, tiến thoái lưỡng nan.


Nếu không có một tiếng chuông nhắc mình dừng lại (thiền chỉ) và nhìn sâu (thiền quán) về con đường mình đi và những va vấp trong cuộc sống, tu tập (những cái sự đục đẽo vào tâm mình) thì có khi mình sẽ nghe theo sự sai sử của một tiếng nói khác nơi hư không rằng: mắc chi phải khổ như thế, nếu rời bỏ nơi đó, nếu sống bình thường như bao người thì bạn được trọng vọng, được thế này, thế kia, sao lại chịu đựng điều đó, khờ quá…


Khi mình đau đớn, mình đang phân vân mà được nghe những xu nịnh như thế thì mình dễ dàng chạy theo, dễ dàng từ bỏ, quay về. Khi đó mình sẽ không thể tới được Tịnh độ, tức là tâm mát mẻ, an lạc, tĩnh lặng sau khi đã đi qua những cảnh giới của tham-sân-si nơi tâm mình.


Mình không chịu đựng được tham-sân-si bên ngoài là bởi vì trong mình cái tham-sân-si vẫn còn đó, thậm chí nằm ở “vị trí quan trọng”, do mình xưng tôn nó lên, để nó chi phối lâu nay. Nên bây giờ, khi mình thực tập con đường giải thoát có nghĩa là mình bắt đầu mời những anh tham-sân-si ấy nhường chỗ cho giới-định-tuệ.


Trong quá trình “thương lượng” ấy có lúc mình không kiểm soát được nên đã để cho giới bản chạy đâu mất và tham-sân-si lò dò dậy, làm cho mình y chang thuở nào. Nhưng, đừng vội lo lắng, mình còn có tiếng chuông (là Bụt, chư vị Bồ-tát, chư Hiền Thánh Tăng, là Giới, là thầy, là bạn đồng tu…) có thể nhắc mình: đừng là cục đá, hãy là pho tượng.


À, mà không, nếu nhìn cho kỹ, thì bạn không phải là cục đá nữa mà thực chất đã được tạo tác gần thành một pho tượng rồi, nên cứ ráng đi một đoạn nữa, để cho những “nghệ nhân” đục đẽo thêm vài chỗ. Nếu bạn thấy hơi mệt, quá sức dung chứa thì xin phép nghỉ một chút để thở, để lấy sức rồi lại xin các “nghệ nhân” tiếp tục nhiệm vụ, để mình thành pho tượng đẹp, có hình dáng, có tướng hảo. Bên trong tướng hảo ấy thực ra là cái tâm đã đủ từ bi – trí tuệ nhờ được tạo tác từ cuộc sống và sự tu tập. Cái đó được Phật nói trong kinh là vào nhà Như Lai (thực tập từ bi), khoác áo Như Lai (lòng nhu hòa nhẫn nhục), ngồi tòa Như Lai (thấy tánh không).

Thử kiểm lại điều đó, cũng là củng cố lại tâm mình, có từ bi lớn với mình, với người chưa; có thực sự nhu hòa nhẫn nhục (với người, với mình, với hoàn cảnh) và có thấy được các pháp do duyên sanh, duyên diệt hay chưa? Boong…
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
MỖI NGÀY TÔI CHỌN MỘT NIỀM VUI
TRỊNH CÔNG SƠN

<FONT color=#333333><FONT face="Times New Roman"><?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com
P><P><FONT color=
Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui.Chọn những bông hoa và những nụ cười .Tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy.Ðể mắt em cười tựa lá bay

Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi. Ðường đến anh em đường đến bạn bè. Tôi đợi em về bàn chân quen quá.Thảm lá me vàng lại bước qua

<o:p></o:p>
Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui .Cùng với anh em tìm đến mọi người.Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát. Ðể thấy tiếng cười rộn rã bay

<o:p></o:p>
Mỗi ngày tôi chọn một lần thôi. Chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời. Tôi chọn nắng đầy, chọn cơn mưa tới. Ðể lúa reo mừng tựa vẫy tay

<o:p></o:p>​
Mỗi ngày tôi chọn ngồi thật yên. Nhìn rõ quê hương, ngồi nghĩ lại mình. Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống.Vì đất nước cần một trái tim !
<o:p></o:p>
đk:Và như thế tôi sống vui từng ngày.Và như thế tôi đến trong cuộc đời.Ðã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi…<o:p></o:p>
<o:p></o:p>
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
<TABLE cellSpacing=0 cellPadding=0 hspace="0" vspace="0"><TBODY><TR><TD vAlign=top align=left>
GIAO TIẾP VỚI NGƯỜI ĐỘC ĐOÁN Ở NƠI LÀM VIỆC
Trong công việc, người ta dễ nổi nóng một cách bất thường. Vì nhiều lý do, chúng ta có thể cảm thấy bị xúc phạm hay bị chọc giận bởi các bạn đồng nghiệp: chẳng hạn khi họ công khai nhận lãnh lời khen về một công việc do người khác làm; hay một khách hàng khó tính không bao giờ hài lòng; một nhà cung cấp luôn có đầy đủ các lý do chính đáng để không giao hàng đúng hẹn; hoặc tồi tệ nhất là một ông chủ độc đoán và không biết lỗi. Ta có thể cảm thấy bị tổn thương bởi các thái độ đó, nên khó kiềm chế cảm xúc, và thường hoàn toàn bị điên đảo bởi những sự xúc phạm không đáng gì đó. Đôi khi đồng nghiệp của chúng ta cũng có vẻ như là một kẻ bạo ngược, có khả năng làm ta bực bội, mất ngủ.
</TD></TR></TBODY></TABLE>
Khi bị những người bạo ngược tạo áp lực, chúng ta thường cố gắng tự khẳng định rằng chúng ta không có lỗi, rằng chúng ta không đáng bị xúc phạm và bị đối xử bất công như vậy. Chúng ta có thể tâm sự với người phối ngẫu hay bạn bè về việc chúng ta đã bị đối xử như thế nào. Nhưng càng phản kháng, sự xúc phạm dường như càng trương phình; chúng ta càng để ý đến người bạo ngược, kẻ ấy càng quấy nhiễu ta.
Chúng ta có thể thấy là mình cũng tìm cách trả đũa lại, bằng cách nhẫn nhịn chờ cơ hội để nắm tóm được những mánh khóe gian xảo của kẻ bạo ngược. Trong thời gian đó, chúng ta làm việc của mình với tâm trạng không thoải mái, luôn cảnh giác, lo tự bảo vệ và không an vui. Những kẻ bạo ngược, càn bướng luôn có cách làm cho chúng ta không thể thấy thoải mái với chính bản thân.
Khi quan sát họ kỹ hơn, ta khám phá ra rằng những kẻ bạo ngược kia chỉ phản chiếu chính những nỗi lo sợ và sự thiếu tự tin của ta. Chính những hoài nghi và lo lắng của chúng ta đã biến các tương quan đầy thử thách thành các tình huống gây đe dọa cho ta. Thực ra, các thái độ bạo ngược, càn bướng chỉ là những điều kiện làm việc thiếu tổ chức bình thường nhưng đã bị khuếch đại do sự thiếu tự tin của ta. Vì chúng ta lo âu về khả năng mất việc làm, nên một người sếp quá quắt trở nên có quyền lực đáng kể đối với chúng ta - trở thành một ‘bạo chúa’. Vì chúng ta e ngại về khả năng có thể bị đánh giá là vô tích sự, nên người đồng nghiệp hay khoe khoang gây áp lực đáng kể cho ta - trở thành một ‘bạo chúa’. Vì chúng ta lo lắng đến khả năng không thể kiểm soát công việc của mình, nên vị khách hàng đặc biệt dường như đang nắm tương lai của ta trong tay họ - trở thành một ‘bạo chúa’. Các hành động bạo ngược, càn bướng là những lời kêu gọi thẳng thắn để ta nhìn vào kiếng và quán sát sự tìm kiếm vô vọng của ta về sự an toàn trong một nơi làm việc không đảm bảo.
Nhận thức được rằng, thực ra, chính ta đã cho phép người khác biến thành ‘bạo chúa’ của mình - rằng chính những niềm hy vọng và nỗi sợ hãi của chúng ta đã cung cấp nhiên liệu cho quyền lực của họ đối với ta - là điều cơ bản để lấy lại sự cân bằng cho ta. Trong truyền thống Phật giáo, việc gặp được những người khó chịu, càn bướng như vậy là điều đáng mừng. Bất kỳ hoàn cảnh sống nào mà có thể phơi bày sự bất an trong ta, được coi là một món quà đáng chào đón và khám phá.
Nhưng ta có thể hỏi: “Tại sao tôi phải kết giao với những người thô lỗ như vậy? Tại sao tôi phải đón nhận mớ hổ lốn như thế này vào cuộc đời tôi?” Nhưng việc chấp nhận kẻ bạo ngược, càn bướng không cần phải khó khăn đến vậy. Việc làm đó, trong cốt lõi của nó, có thể rất đơn giản và trực tiếp. Để chấp nhận được kẻ bạo ngược, chúng ta phải sẵn lòng buông bỏ sự tự vệ, đối kháng bên trong - dù chỉ trong khoảnh khắc - và trải nghiệm với các ‘bạo chúa’ của mình mà không có thành kiến hay định kiến. Thường những kẻ bạo ngược khiến chúng ta càng bám chặt vào quan điểm, luận cứ của mình. Họ điều khiển ta bằng cách làm cho ta chấp chặt và tự chống chế cho bản thân. Nhưng ở đây chúng ta phải làm ngược lại; ta buông xả thay vì chấp chặt. Bằng cách đột nhiên thay đổi cách ứng xử, là cách chúng ta có thể tước đoạt vũ khí của các ‘bạo chúa’. Nỗi bất an bên trong ta không còn tạo thêm sức cho kẻ gây sự với ta, nhưng lại cho ta cơ hội để nhìn nhận các tình huống một cách rõ ràng hơn.
Một giám đốc phòng kinh doanh sau khi tham dự một khóa học về Tỉnh thức trong công việc đã nói với tôi: “Hãy chấp nhận những kẻ độc tài, càn bướng, nghe thật hay. Nhưng tôi không thể thẳng thắn với sếp của tôi. Ông ta quá hung hăng, thường la hét, hạch sách nhân viên trong các buổi họp, không ai dám đối đầu với ông ta. Tôi dám chắc là ông ta sẽ đuổi cổ tôi ngay tại chỗ nếu tôi nói thẳng những nghĩ suy trong đầu một cách công khai, thẳng thắn”.
Đó chính là điều khiến ta sợ những kẻ độc đoán. Nếu ta thực sự đối đầu với họ, thì khác nào ta chọc cho họ nổi cơn thịnh nộ, ta đâu muốn thế! Nhưng đối đầu trực diện với họ như thế thực sự không cần thiết. Chấp nhận kẻ bạo ngược, độc đoán không có nghĩa là đột nhiên chúng ta tuôn xả tất cả mọi bực tức dồn nén đối với họ ngay trước mặt mọi người. Trái lại, việc đó bắt đầu chỉ bằng một nỗ lực đơn giản bên trong ta. Tôi chỉ đề nghị như thế này: “Trong cuộc họp lần tới, hãy buông bỏ đi tất cả mọi định kiến của bạn về ông chủ của mình, dù chỉ trong chốc lát, và chỉ cần có mặt trong phòng họp. Hãy quan tâm, để ý đến những gì đang xảy ra. Hãy chấp nhận hoàn cảnh”.
Vài tuần sau, vị giám đốc này lại nói với tôi sau buổi học: “Vâng, tôi đã nghe theo lời khuyên của ông. Tôi đã buông bỏ sự bất mãn đối với ông chủ của tôi, dù trong chốc lát, tại một cuộc họp nhân viên và chỉ quan sát. Thật đúng vậy, trong những giây phút đó,tôi không hề bận tâm tới việc người đó là một người ngông cuồng, và tôi có thể quán sát những gì thực sự đang xảy ra”.
Tôi hỏi: “Bạn đã thấy gì?”
“Vâng, đầu tiên là ông ta có vẻ rất vội vã - dường như ông cần phải đi đâu đó. Ông ta không lắng nghe và có vẻ đang bị phân tâm. Ông ta có vẻ rất bực bội suốt trong buổi họp, hay ít nhất là nó giống như thế trong mắt tôi”.
“Còn những người khác trong phòng thì sao - chẳng hạn như các vị quản lý kinh doanh? Bạn đã nhận thấy gì?”
“Trước kia tôi không thực sự để ý đến điều này, nhưng họ chỉ có mặt lấy lệ. Tất cả mọi thứ dường như quá giả tạo, không thành thật. À, tôi cũng nhận thấy rằng họ đã ém nhẹm rất nhiều tin tức tốt lành. Một trong những người cộng sự của tôi cố tình tránh báo cáo với tất cả mọi người về một thành tích bán hàng mà anh ta vừa thực hiện được. Tôi ngộ ra rằng ngay cả nói đến những tin tốt lành cũng trở nên quá nguy hiểm. Và cô quản lý kinh doanh giỏi nhất của tôi cũng tỏ vẻ chán chường. Bất chợt tôi nghĩ hay cô đang tính chuyện tìm việc làm chỗ khác”.
“Thế thì bạn đã học được điều gì?”, tôi hỏi.
“Chắc chắn là ông chủ của tôi vẫn còn khiến tôi căng thẳng. Nhưng giờ tôi có thể buông xả, để quán sát sự việc mà không lo lắng, ít nhất là trong chốc lát. Trước đây, tôi đã không quan tâm đến nhiều điều: các vị quản lý quá kín kẽ, các thông tin tốt lành cũng không được nói ra, và cô quản lý kinh doanh giỏi nhất của tôi thất vọng trước tất cả mớ hổ lốn này”.
Người giám đốc kinh doanh này đã học được rằng việc chấp nhận người độc tài, càn bướng chỉ là một sự thực tập đơn thuần về việc tìm hiểu điều gì đã gây áp lực cho mình. Điều gây ngạc nhiên là ‘bạo chúa’ của cô đã bị tước đoạt vũ khí - dù chỉ trong chốc lát. Các hiệu ứng tăm tối của chính nỗi bất an trong lòng của cô đã tan biến và cô có thể thấy một hình ảnh rõ ràng hơn về những gì đang thực sự xảy ra - đối với bản thân cô, ông chủ cô và nhóm người cộng sự kinh doanh bán hàng của cô.
Bằng cách tập chấp nhận những kẻ bạo ngược, quá quắt lần này tới lần khác, dần dần ta sẽ trở nên thoải mái nhờ biết buông bỏ sự bất an của ta đối với những kẻ khiến ta bực bội. Chúng ta sẽ phát hiện ra rằng phần lớn những điều khiến chúng ta không vừa ý là do ta tự tạo ra. Việc một đồng nghiệp không chào hỏi ta, không có nghĩa là họ muốn xúc phạm ta. Nếu tìm hiểu kỹ hơn ta sẽ biết rằng cuộc sống riêng tư của người ấy đang rối bời, ông ta sắp phải ly dị. Vì thế người đó đi làm với tâm trạng buồn nản - chứ không phải bất lịch sự, thô lỗ. Việc cô nhân viên mới hay ngắt lời trong các cuộc họp không phải là vì cô thiếu lễ độ. Nếu xét kỹ hơn ta sẽ thấy rằng chẳng qua là vì cô ấy khớp sợ, và vụng về khi cố gắng thích ứng với hoàn cảnh. Chúng ta sẽ bắt đầu thấy rằng nhiều cách hành xử trong công việc bị đánh giá là xem thường, coi khinh thì không đúng là như vậy chút nào.
Biết chấp nhận người càn quấy sẽ giúp cho trí thông minh và lòng tự tin của chúng ta thêm sắc bén, đem đến cho ta nhiều hiệu quả và ta trở nên linh hoạt hơn. Theo thời gian, sự bất an của chúng ta đối với những kẻ càn bướng sẽ tan biến, nó được chuyển đổi thành sự quan tâm nhạy bén. Tại sao cô đồng nghiệp của ta phải tự xấu hổ trước đám đông vì đã nhận điểm cho những việc cô không có công? Điều gì đã xảy ra trong cuộc đời của ông sếp khiến ông ta luôn tức giận, lạnh lùng và cao ngạo đối với nhân viên dưới quyền? Bằng cách chấp nhận những kẻ bạo ngược, chúng ta tập quán sát những tình huống bất công một cách cẩn trọng, chớ không phải xua đuổi chúng - để chấp nhận kẻ càn bướng, chứ không phải loại trừ người đó. Bắng cách hành động như thế, chúng ta sẽ tìm được sự can đảm để tự giải mình, hầu có khả năng thiện xảo trong việc giải quyết những điều kiện làm việc không như ý.




Michael Carroll (Giác Nghiêm - Nguyễn Tấn Nam, dịch)
(Theo, Nguyệt San Giác Ngộ, số 191​
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
NGHỆ THUẬT GIAO TIẾP
Chính phải đàm đạo mới biết được trí tuệ của một người, và phải trong một thời gian dài không thể khác được<SUP>1</SUP>. Sự khẳng định của câu kinh vừa nêu đã đồng thời cho thấy, quá trình trao đổi thông tin giữa người với người mà thuật ngữ chuyên ngành hôm nay gọi là nghệ thuật giao tiếp, đã được ghi nhận và lưu tâm từ thời Đức Phật. Với Phật giáo, việc giao tiếp giữa các cá nhân nhằm truyền đạt thông tin là điều rất mực quan trọng, nhất là những thông tin liên quan đến lộ trình khai phóng tâm linh và đoạn tận đau khổ.


Tầm quan trọng của nghệ thuật giao tiếp trong Phật giáo
Chân lý đã được Đức Phật thân chứng. Quá trình làm cho mọi người cùng nhận ra chân lý là khúc khải tấu nhiệm mầu của nghệ thuật giao tiếp, được Đức Phật và những đệ tử của Ngài thực hiện. Vì lẽ, giao tiếp là quá trình trao đổi thông tin giữa người với người nội hàm các yếu tố như người phát tin, người nhận tin, kênh truyền và bối cảnh… Ở đây, người phát tin có thể là Đức Phật, có thể là các Thánh Tăng thời Phật, có thể là nhà truyền giáo, có thể là vị giảng sư… cụ thể hơn, là những ai đang nỗ lực trong hoạt động hoằng pháp đều được xem là người truyền phát thông tin theo sự phân chia của ngành khoa học giao tiếp. Trong hoạt động hoằng pháp, đối tượng thính pháp chính là người nhận tin. Và lẽ dĩ nhiên, buổi thuyết giảng sẽ được diễn ra trong một không gian địa lý cụ thể nào đó (bối cảnh), với phương thức mặt đối mặt hoặc thông qua những phương tiện truyền thông khác như thuyết giảng từ xa hay qua băng đĩa, video (kênh truyền). Tựu trung, thuyết giảng giáo lý nói riêng hay hoằng pháp nói chung, thực chất là một quá trình giao tiếp theo nghĩa tích cực và thánh thiện.

Kể từ khi xuất hiện, Đức Phật thực sự là người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối<SUP>2</SUP>. Gần năm mươi năm đi khắp lưu vực sông Hằng, hơn ai hết, Đức Phật đã gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều hạng người, đủ mọi giai tầng và phẩm loại. Trong tất cả mọi cuộc gặp gỡ và giao tiếp, Ngài đã “Với từ tâm, vì lợi tha và do lòng từ, Thế Tôn thuyết pháp”<SUP>3</SUP> nhằm đem đến an lạc và giải thoát cho từng người. Đối tượng thì đa dạng, phức tạp và sai biệt, vì thế phương thức giao tiếp của Đức Phật cũng nhuần nhuyễn, uyển chuyển và tùy duyên. Sự thành công trong lãnh vực hoằng hóa của Đức Phật, đã đồng thời cho thấy Ngài là một bậc thầy vĩ đại trong nghệ thuật giao tiếp theo nghĩa hôm nay.

Đi theo con đường của Như Lai thì phải theo hạnh Như Lai. Thao thức đem giáo pháp vào đời là tâm nguyện của bất cứ ai dấn thân theo con đường mà Đức Phật đã khai mở. Phải dũng mãnh phát nguyện như Tỳ kheo Abhibhu khi đứng ở cõi trời Phạm Thiên: Hãy đứng dậy, lên đường/ Hãy dấn thân Phật giáo/ Hãy đánh bại ma quân/ Như voi phá chòi lá<SUP>4</SUP>. Muốn thực hiện tâm nguyện đó, phải đủ sức và đủ duyên, mà điều kiện cần ở đây là phải tương đối thành công trong nghệ thuật giao tiếp. Cần phải thấy rằng, nếu kham nhẫn là một đức tính đặc thù của nhà truyền giáo thì ở đây, nhuần nhuyễn trong nghệ thuật giao tiếp là một tố chất cần thiết, liên quan đến sự thành công của bất cứ một nhà hoằng pháp dù ở thời đại nào.

Trong lãnh vực sinh hoạt cộng đồng nói chung, lời nói là một trong những phương thức truyền đạt thông tin và tạo nên các mối liên hệ giữa con người với con người. Không có lời nói, không thể hình thành xã hội con người đúng nghĩa. Từ lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, một lời nói có thể hưng, vong cả một quốc gia, một triều đại hoặc liên quan đến sự thành, bại của một con người. Vì lẽ, lời nói là một trong ba trọng nghiệp căn bản trong dòng chảy sinh mạng của con người. Trọng nghiệp này thường được Đức Phật lặp lại nhiều lần trong kinh điển: Phàm con người đã sanh/ Sanh với búa trong miệng/ Kẻ ngu khi nói bậy/ Tự chặt đứt lấy thân<SUP>5</SUP>. Phải ý thức rằng, tu tập là một quá trình chuyển hóa nghiệplực. Quán sát và làm chủ được hành vi giao tiếp thì ở một chừng mực nào đó nói lên sự tiến bộ, thăng hoa trên con đường tu tập của mỗi người.

Trong Phật giáo, kết quả của mọi nỗ lực tu tập nhằm đem đến an lạc, giải thoát cho mình và cho người. Thuần thục trong nghệ thuật giao tiếp là con đường tiệm cận dẫn đến lý tưởng vừa nêu. Đó cũng là điều để lý giải tại sao dù bất cứ ở đâu, nghệ thuật giao tiếp luôn được quan tâm và chú trọng.

Các thủ pháp trong phương thức giao tiếp
Để thành công trong giao tiếp thì phải có phương pháp. Phương pháp giao tiếp đã được Đức Phật nêu rõ trong nhiều kinh điển. Với những khái quát bước đầu cho thấy, trong kinh Sa Môn Quả<SUP>6</SUP>, kinh Ví Dụ Cái Cưa, Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi<SUP>7</SUP> và kinh Lời Nói<SUP>8</SUP> đều đề cập và thống nhất về năm phương thức giao tiếp căn bản của con người nói chung và của một vị Tỳ kheo nói riêng. Năm phương thức giao tiếp đó là: Nói đúng thời, nói lời liên hệ đến lợi ích, nói đúng sự thật, nói lời nhu hòa, nói với lời từ tâm.

1. Nói đúng thời
Thời ở đây cần được hiểu là thời gian, không gian và cả tâm sinh lý của đối tượng vào thời điểm ấy. Thời gian và không gian là những yếu tố quan trọng trong lãnh vực giao tiếp. Có những lời nói thể hiện ở thời gian, không gian này thì phù hợp nhưng sẽ mất tác dụng và đôi khi gây ra những sự nguy hại nếu như xuất hiện ở lúc khác, trong bối cảnh khác. Theo ngành khoa học giao tiếp ngày nay, thời gian và địa điểm là những yếu tố có tác động rất lớn đến sự thành công của giao tiếp.
Đức Phật luôn nói đúng thời điểm. Thời điểm ở đây được hiểu là thời điểm của đối tượng cùng những thuộc tính và biến chuyển tâm lý. Cùng một chân lý, nhưng căn cứ vào nghiệp lực của từng đối tượng, trong bối cảnh không gian và ở những thời điểm phù hợp, mà Đức Phật có những cách triển khai chân lý khác nhau. Thủ pháp nói đúng thời điểm đã được Đức Phật vận dụng nhuần nhuyễn… Nơi đây, ta có thể đơn cử vài trường hợp mà Đức Phật đã tùy tâm trạng, thời điểm của mỗi người để có những bài thuyết giảng sinh động khác nhau như việc hóa độ nàng Kisa Gotami<SUP>9</SUP>, kẻ điên cuồng Angulimala<SUP>10</SUP>, Sa di La Hầu La<SUP>11</SUP> và rất nhiều trường hợp khác. Xem ra, khi lựa chọn thời điểm phù hợp, trong một không gian phù hợp, sẽ tạo nên những điều kiện tối ưu cho việc chuyển tải thông điệp từ người nói đến với người nghe. Yếu tố này rất mực quan trọng trong mọi mối quan hệ giao tiếp nói chung giữa người với người.

2. Nói lời liên hệ đến lợi ích
Lợi ích ở đây chính là lợi ích cho người nghe, liên hệ đến người nghe, vì người nghe mà nói. Như Lai là một vị nói lời liên hệ lợi ích cho chúng sanh<SUP>12</SUP>. Theo kinh Thanh Tịnh, dù ở quá khứ, hiện tại hay vị lai, những pháp nào liên hệ sự chân thực và lợi ích, Như Lai sẽ trả lời. Như vậy, này Cunda, đối với các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, Như Lai là vị nói phải thời, nói chơn chánh, nói như thật, nói có lợi ích, nói đúng Pháp, nói đúng Luật. Do vậy mới gọi là Như Lai<SUP>13</SUP>. Có thể xem tôn chỉ vì lợi ích người nghe mà nói là một dấu hiệu đặc thù trong nguyên tắc giao tiếp của Phật giáo.
Ở đây, trong giao tiếp thường tình, đôi khi người ta muốn nói cho sướng miệng, nói cho vơi đi sự bực bội trong lòng, nói với sự huênh hoang khoác lác, nói nhằm thỏa mãn tự ngã cá nhân… mà không chú ý đến thái độ của người nghe và những người không muốn nghe. Điều này ta có thể bắt gặp trong giao tế đời thường, trong những cuộc vui gặp mặt, trong những buổi diễn thuyết và thậm chí ngay cả trong những giảng đường, lớp học. Cần phải thấy rằng, một khi nội dung buổi nói chuyện không liên hệ đến lợi ích của thính chúng thì sẽ tạo nên một sự uể oải, rã rời cho cả người nói lẫn người nghe. Xét trên phương diện hiệu quả, đó là những kiểu nói không liên hệ đến lợi ích của người nghe.

3 Nói đúng sự thật
Giao tiếp nhằm truyền đạt thông tin cho người. Với Phật giáo, tính xác thực của thông tin là điều bắt buộc trong nguyên tắc giao tiếp. Các bậc Thế Tôn không bao giờ nói lời hư vọng<SUP>14</SUP>. Đó là sự khẳng định rõ ràng nguyên tắc nói đúng sự thật trong giao tiếp. Hơn thế nữa, Thế Tôn nói gì thì làm vậy, làm gì thời nói vậy, một vị nói gì thì làm vậy, làm gì thì nói vậy, thành tựu các pháp và tùy pháp như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn<SUP>15</SUP>.
Thông thường trong giao tiếp, vì nhiều lý do khác nhau như vì sợ hãi, vì nguy hiểm, vì danh dự, vì lợi dưỡng, vì tế nhị, vì đùa chơi… nên đôi khi người ta không nói đúng sự thật, và đây là một trong những thói quen xấu của con người nói chung. Trong một vài trường hợp đặc biệt, việc nói dối không nhằm vào bất cứ mục đích gì, vì thói quen nói dối chỉ là dư tàn từ tập khí xa xưa. Để ngăn ngừa tập khí không tốt đó, Đức Phật đã mạnh dạn tuyên bố: Ta quyết không nói láo, dầu nói để mà chơi<SUP>16</SUP>. Học theo hạnh Thế Tôn, ở đây, hạng người nói đúng sự thật thì sẽ không vì mình hay vì người, hay vì một vài lợi vật nhỏ mà đã cố ý nói láo. Người như vậy, này các Tỳ kheo, được gọi là người nói như hoa<SUP>17</SUP>.
Trên phương diện thâm sâu, đôi khi nhằm bảo vệ tự ngã và sở dục của mình mà con người đã không nói đúng sự thật khi giao tiếp và đây là cửa ngõ tạo ra những đau khổ cho mình và cho người. Chính vì điều này, Đức Phật đã cẩn trọng khuyến hóa: Dầu cho vì quả đất đầy những vàng... Dầu cho vì mọi lợi ích vật chất... Dầu cho vì mạng sống... Dầu cho vì người mỹ nhân địa phương, vị ấy cũng không cố ý nói láo<SUP>18</SUP>.
Đạo Phật là đạo như thật và tôn trọng sự thật, vì sự thật chính là chân lý. Nói đúng sự thật là sự khởi đầu để bước đến chân lý. Trên phương diện đời sống nhân sinh, việc nói đúng sự thật góp phần tạo nên một sự tin tưởng lẫn nhau ở tất cả mọi người. Và khi con người sống trong sự tin tưởng lẫn nhau, thì đó là dấu hiệu của một đời sống hạnh phúc thực sự.
Trên phương diện xuất thế, với những bậc có tâm hành vĩ đại, việc tôn trọng sự thật trong phương thức giao tiếp đã được tuân thủ một cách tuyệt đối, cho dù nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng: Dầu ai là kẻ thù của ta. Ðối với họ, ta không có gian trá<SUP>19</SUP>. Trên lộ trình của một người học Phật, trong giao tiếp cần phải thực hiện theo phương châm: Thấy nói thấy, nghe nói nghe, cảm giác nói cảm giác, thức tri nói thức tri<SUP>20</SUP>. Đây là nguyên tắc nói đúng sự thật cần phải tuân thủ khi giao tiếp với người.

4. Nói lời nhu hòa
Cùng biểu đạt một sự kiện, con người có thể vận dụng nhiều cách thức truyền đạt khác nhau. Có những cách nói dễ dàng đi vào lòng người nhưng đồng thời cũng có những cách nói làm cho người nghe bực bội, khó chịu. Một người khéo léo trong giao tiếp theo quy chuẩn Phật giáo thì trong ngôn hành, vị ấy nói những lời nhẹ nhàng, thuận tại, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người<SUP>21</SUP>. Trong bốn phương pháp nhiếp hóa, thu phục lòng người thì lời nói nhẹ nhàng, dễ nghe, nhu nhuyến, mà kinh văn gọi là ái ngữ<SUP>22</SUP> đóng một vai trò quan trọng. Cần phải thấy rằng, bản chất của con người muốn nghe những điều thích ý, nhẹ nhàng. Ngay như các con vật nuôi trong nhà, ở một chừng mực nào đó cũng cảm nhận được những lời nói nhẹ nhàng, dễ nghe. Khi nói lời dễ nghe, nội dung thông tin được chuyển đến người nghe gần như trọn vẹn.
Trong liên hệ đời sống, với những va chạm từ nhiều phía, mà vẫn giữ được phong vị từ hòa trong ngôn ngữ, là dấu hiệu chứng tỏ cho một sự vững chãi, trưởng thành của một con người. Điều này, không phải ai cũng thực hiện được, thậm chí ngay cả người xuất gia. Cho nên kinh văn đã khẳng định: Khi nào Tỳ kheo bị những lời nói bất khả ý, xúc phạm mà vị ấy vẫn hết sức hiền lành, hết sức nhu thuận, hết sức ôn hòa, khi ấy vị ấy mới được xem là hiền lành, mới được xem là nhu thuận, mới được xem là ôn hòa<SUP>23</SUP>. Sự khẳng định đó một lần nữa cho thấy rằng, cần phải giám sát ngôn hành thật kỹ lưỡng trong mọi liên hệ va chạm với thực tế đời sống, mới có thể thực hiện được trọn vẹn hạnh nói lời nhu hòa.
Cũng cần phải nói thêm rằng, nói lời nhu hòa, dễ nghe không hẳn biểu hiện cho tính yếu đuối, thiếu khẳng định. Khẳng định hay phủ định, nghe hoặc không nghe không liên quan nhiều đến tính chất nhẹ nhàng, ôn hòa trong lời nói. Mặc dù vậy, trong những trường hợp cần thiết, với những đối tượng cần thiết, việc nhấn mạnh ngữ điệu trong ngôn ngữ trình bày, như chuyện chàng thanh niên Ambattha, cũng được Đức Phật cân nhắc vận dụng<SUP>24</SUP>.

5. Nói với từ tâm
Ta sẽ thuyết vì lòng từ mẫn<SUP>25</SUP>, đó là sự khẳng định rõ ràng và dứt khoát về mục tiêu thuyết pháp nói riêng và giao tiếp của Phật giáo nói chung. Vì lẽ, nền tảng của đạo Phật được xây dựng trên hai cột trụ lớn, đó là đại trí và đại bi. Tất cả mọi pháp hành của Phật giáo về cơ bản đều quy hướng về hai cột trụ này. Ở đây, đại bi là tình thương yêu không hạn lượng và giao tiếp với tâm từ mẫn là sự biểu hiện sinh động cho lòng đại bi.
Trên phương diện tự thân, lời nói có một sức mạnh nội tại, gắn kết với tâm lực và toan tính của người nói. Lời tuyên bố hùng hồn của nhà luận chiến Niganthaputta Saccaka được ghi lại trong kinh Trung Bộ không hẳn là lời khoác lác, nói đùa: Khi đối thoại với ta, không ai là không run sợ, không hoảng sợ, không khiếp sợ, không ai là không toát mồ hôi nách. Dầu ta có đối thoại với một cột trụ vô tình, cột trụ ấy khi đối thoại với ta cũng run sợ, cũng hoảng sợ, cũng khiếp sợ, huống nữa là một người thường<SUP></SUP><SUP>26</SUP>.Tuy nhiên, khi diện kiến Đức Phật, với ngôn ngữ từ hòa và cách thức trình bày khéo léo, Đức Phật đã thuận thứ thuyết giảng, khiến cho Niganthaputta Saccaka quy phục và dâng lời sám hối: Tôn giả Gotama, rất có thể còn có sự an toàn cho một người chiến đấu với con rắn độc dữ tợn, nhưng không thể có sự an toàn cho một người chiến đấu với Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, chúng tôi thật lỗ mãng, chúng tôi thật là khinh suất<SUP>27</SUP>. Câu chuyện vừa nêu phần nào cho thấy lời nói với từ tâm có sức mạnh chuyển hóa vô bờ.
Sống trong đời thì phải giao tiếp với đủ hạng người. Khi giao tiếp, để giữ được tâm từ mẫn, lời nói chan chứa thương yêu là điều không phải dễ dàng thực hiện. Nói rõ hơn, khi gặp phải những chướng duyên, thử thách, dù đó là những thử thách liên quan đến sự chịu đựng tột cùng thể xác, người đệ tử Phật không để sân tâm khởi lên, thể hiện qua ác ngữ. Hình ảnh một người dù bị kẻ đạo tặc dùng cưa cưa tay, chân nhưng vẫn không thốt lên một lời ác ngữ và vẫn giữ được nội tâm bình ổn, từ hòa là điều được Đức Phật tán thán trong kinh<SUP>28</SUP>. Có thể đó chỉ là ẩn dụ lý tưởng, về sự kham nhẫn và giám sát ngôn hành của bậc Thánh, nhưng qua đó có thể thấy được, nói với từ tâm là thủ pháp giao tiếp cần được vận dụng, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Yếu tố phi ngôn ngữ trong quá trình giao tiếp
Theo ngành khoa học giao tiếp, yếu tố phi ngôn ngữ có một vai trò quan trọng trong giao tiếp. Vì lẽ khi giao tiếp thì khoảng lặng, nét mặt, nụ cười, ánh mắt, điệu bộ cử chỉ… có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời nói, điệu bộ tạo nên tính hấp dẫn của vấn đề và dễ dàng đưa người nghe tiếp cận chân lý.
Với Đức Phật, không phải ai hỏi gì Ngài cũng trả lời. Đôi khi, sự im lặng của Ngài đã là một bài pháp vô ngôn, có khả năng đưa người thấu đạt chân lý. Với người thường tình, im lặng chưa phải là giải pháp tối ưu trong tương quan giao tiếp. Với Đức Phật, sự vận dụng yếu tố phi ngôn ngữ này được phát hiện rải rác trong kinh. Kinh Brahmayu<SUP>46</SUP>đề cập rất mực chi tiết oai nghi của Đức Thế Tôn trong cuộc sống hàng ngày, từ việc nhỏ nhất như ăn cơm, rửa bát, đến việc thuyết pháp cho thính chúng sau khi thọ trai xong. Từ kinh văn có thể thấy rõ, mỗi việc của Đức Phật đều là những bài pháp không lời có khả năng thức tỉnh những ai có duyên thân cận. Khảo sát các tác phẩm về Đồ tượng họctrong Đại Tạng kinh Bắc truyền, ngay như hình tượng các thủ ấn (mudra) của Đức Phật, đã là yếu tố phi ngôn ngữ, nhưng có sự tác động rất lớn vào tâm thức nhiều người.
Một trong những yếu tố phi ngôn ngữ đầu tiên trong giao tiếp là ánh mắt. Ánh mắt của một người đôi khi có thể bộc lộ rõ ràng tâm trạng người đó. Ở một số giống loài không có ngôn ngữ, giao tiếp bằng ánh mắt được xem là một trong những kênh thông tin. Với loài người, trong khi giao tiếp, ánh mắt chuyển tải nhiều thông tin quan trọng về người nói cũng như về nội dung trình bày. Từ thực tế có thể thấy, có những ánh mắt tràn ngập thương yêu nhưng cũng có những ánh mắt tạo nên một sự khó chịu, bực bội, phản cảm cho người nghe. Bài học về cách nhìn từ Đức Phật luôn có ý nghĩa vượt thời gian: Không ngó liếc, ngó xiên/ Và cũng không ngó trộm/ Nhưng với tâm chánh trực/ Rộng mở và cao thượng/ Ngài nhìn khắp đại chúng<SUP>47</SUP>. Với đại chúng đông đảo thì nhìn khắp, nhưng với giao tiếp đơn lẻ thì cần phải nhìn thẳng vào họ, như câu chuyện nhìn thẳng vào mắt chàng thanh niên Bà-la-môn Kapathika<SUP>48</SUP>.
Với Đức Thế Tôn, trong khi thuyết giảng ở những pháp hội đông người, do đồ chúng đã thuần thục, tịnh tín, thế nên Ngài không vận dụng quá nhiều thân hành mà ở đây tạm hiểu là cử chỉ, điệu bộ trong khi thuyết giảng. Trong những nỗ lực khảo sát kinh tạng hiện có, chúng tôi vẫn chưa phát hiện Thế Tôn bộc lộ những điệu bộ hay cử chỉ khi thuyết giảng. Thoảng rất ít, ngài chỉ giơ tay chỉ vào một ai đó hoặc dùng tay minh họa một điều gì trong những bài thuyết giảng, nhằm vào một đối tượng cụ thể, trong một không gian cụ thể<SUP>49</SUP>. Theo quan kiến của riêng chúng tôi, trong một chừng mực nào đó, phải chăng khi thuyết giảng đòi hỏi phải có một sự trang nghiêm về thân hành? Hoặc cũng có thể, phải chăng do nghiệp cảm của hội chúng thời Phật nhẹ nhàng nên Đức Thế Tôn không cần vận dụng quá nhiều thân hành nhằm minh họa cho buổi thuyết giảng? Phải chăng, chính yếu tố thân hành, cử chỉ, điệu bộ tạo nên sự khác biệt, giữa một buổi thuyết giảng giáo pháp của Đức Phật và một buổi diễn thuyết về các vấn đề thời sự trong nhân gian?
Trong khi đó, ngành khoa học giao tiếp thời nay vẫn xem yếu tố cử chỉ, điệu bộ có một ảnh hưởng không nhỏ trong quá trình giao tiếp. Vì thực tế chứng tỏ rằng, khi nói năng, điệu bộ và cử chỉ có tính bổ trợ cho vấn đề trình bày. Thử tưởng tượng, khi nói mà tay, thân xuội lơ, tất sẽ tạo nên một cảm giác thiếu phấn chấn cho cả người nói và người nghe. Các vị diễn giả thời nay hầu hết đều vận dụng nhuần nhuyễn yếu tố này trong những buổi diễn thuyết. Ngay như trong truyền thống sinh hoạt của các tu sĩ Phật giáo Tây Tạng, ngôn ngữ cử chỉ và điệu bộ cũng được tích cực vận dụng trong những cuộc tranh biện Phật pháp. Thậm chí, như Đức Đạt lai Lạt ma thứ 14 hiện tại, ngài cũng rất tự tại và hoan hỷ khi sử dụng yếu tố cử chỉ và điệu bộ, thậm chí trong những buổi thuyết giảng nơi đông người.
Từ hai lý do vừa trình bày, có thể cho thấy yếu tố phi ngôn ngữ cũng cần được vận dụng trong quá trình giao tiếp. Vấn đề là vận dụng yếu tố đó làm sao đừng để tạo nên một sự phản cảm trong giao thức văn hóa cộng đồng. Ở đây, trong giao tiếp phi ngôn ngữ, điều cần nhất là phải tạo nên một sự tương ứng với hoàn cảnh và hội chúng, nhằm đem đến một hiệu quả tối ưu trong giao tiếp với một người hay nhiều người.
Tạm kết
Giao tiếp là nhu cầu căn bản của con người, nhằm duy trì hoạt động sống ở nghĩa rộng nhất, thể hiện qua sự trao đổi thông tin giữa người với người. Có giao tiếp, con người sẽ từng bước kiện toàn những phẩm chất sống theo thú hướng nghiệp lực riêng mình. Giao tiếp không chỉ giới hạn trong lời nói, ngôn ngữ, chữ viết, mà còn thể hiện dưới những dạng thức khác nhau như ánh mắt, hình ảnh, âm thanh… Quá trình giao tiếp đạt đến trình độ nghệ thuật, đó là sự chuyển đạt và bảo lưu trọn vẹn thông tin từ người nói cho đến người nghe, là sự tổng hòa và phối hợp nhuần nhuyễn giữa các thủ pháp giao tiếp cùng các tính chất đặc thù của ngôn ngữ. Với người xuất gia, giao tiếp ở nghĩa rộng được hiểu là sứ mạng hoằng hóa độ sanh. Trong bất cứ ý nghĩa nào, người xuất gia có hai việc cần phải tư lượng khi giao tiếp: Nói pháp hay giữ im lặng của bậc Thánh<SUP>50</SUP>
Chúc Phú
(Theo, Nguyệt San Giác Ngộ, số 191)​

Chú thích:

(1) Kinh Tương ưng, tập 1, phẩm thứ hai, kinh Bện tóc; Nội dung tương tự cũng xuất hiện trong kinh tiểu bộ, kinh Phật tự thuyết (Udana), chương 6, phẩm Sanh ra đã mù, Ud. 64.
(2) Kinh Trường bộ, kinh Đại bát Niết bàn.
(3) Kinh Trung bộ, tập 3, kinh số 103, kinh Nghĩ như thế nào.
(4) Kinh Tương ưng, tập 1, chương 6, Tương ưng Phạm thiên, phẩm thứ hai, Arunavàti.
(5) Kinh Tương ưng, tập 1, chương 6, Tương ưng Phạm thiên, phẩm thứ nhất, Tudubrahmà; Nội dung tương tự cũng xuất hiện trong kinh Tiểu bộ, kinh Tập, chương 3, Đại phẩm, kinh Kokaliya, câu 657.
(6) Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Sa môn quả.
(7) Kinh Trung Bộ, tập 1. Kinh Ví Dụ Cái Cưa; Tiểu kinh Dụ Dấu Chân Voi.
(8) Kinh Tăng chi, chương Năm pháp, phẩm Bà La Môn, kinh Lời Nói.
(9) Kinh Tiểu bộ, tập 3, Trưởng lão Ni kệ, phẩm 10, tập 10 kệ, Kisa Gotami, Theri 143.
(10) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Angulimala.
(11) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Giáo Giới La Hầu La Ở Rừng Ambala.
(12) Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Tướng.
(13) Kinh Trường bộ, tập 2, kinh Thanh tịnh.
(14) Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Đại bát Niết bàn.
(15) Kinh Trường bộ, tập 2, kinh Đại điển tôn.
(16) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Giáo giới La Hầu La ở rừng Ambala.
(17) Kinh Tăng chi, chương Ba pháp, phẩm Người, kinh Nói như hoa.
(18) Kinh Tương ưng, tập 2, Chương Sáu, Tương ưng lợi đắc cung kính, Phẩm thứ Hai, kinh Từ một đồng tiền vàng cho đến người mỹ nhân địa phương.
(19) Kinh Tương ưng, tập 1 Chương 11, Tương ưng Sakka, phẩm thứ nhất, Không Gian Trá.
(20) Kinh Tăng chi, chương Bốn pháp, phẩm Sợ hãi phạm tội, kinh Cách Thức Nói.
(21) Kinh Trung Bộ, tập 1, Tiểu kinh Dụ Dấu chân voi.
(22) Kinh Trường Bộ, tập 2, kinh Phúng tụng; kinh Tăng chi, chương Bốn pháp, phẩm Thắng trí, kinh Nhiếp pháp.
(23) Kinh Trung bộ, tập 1, kinh Ví dụ cái cưa.
(24) Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Ambattha.
(25) Kinh Tăng chi, chương Năm pháp, phẩm Diệu pháp, kinh Tôn Giả Udayi.
(26) Kinh Trung bộ, tập 1, Tiểu kinh Saccaka.
(27) Kinh đã dẫn.
(28) Kinh Trung bộ, tập 1, kinh Ví dụ cái cưa.
(29) Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Sa môn quả.
(30) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Brahmayu.
(31) Kinh Trường bộ, tập 2, kinh Xà ni sa.
(32) Kinh Tăng Chi, chương Tám pháp, phẩm Đất rung động, kinh Vừa đủ.
(33) Kinh Trường bộ, tập 2, kinh Xà ni sa. Tám yếu tố bao gồm: lưu loát, dễ hiểu, dịu ngọt, nghe rõ ràng, sung mãn, phân minh, thâm sâu và vang động.
(34) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Brahmayu. Tiếng nói thoát ra từ miệng Tôn giả Gotama có tám đức tánh: lưu loát, dễ hiểu, dịu ngọt, nghe rõ ràng, sung mãn, phân minh, thâm sâu và vang động.
(35) Kinh Tăng chi, chương Tám pháp, phẩm Đất rung động, kinh Vừa Đủ.
(36) Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Tướng.
(37) Kinh Trung bộ, tập 3, kinh Vô tránh phân biệt.
(38) Kinh đã dẫn.
(39) Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Sa Môn Quả.
(40) Kinh Tăng chi, chương Bảy pháp, phẩm tài sản, kinh Tài sản rộng thuyết.
(41) Kinh Tăng chi, chương Ba pháp, phẩm Người, kinh Lộn Ngược.
(42) Kinh Tăng chi, chương Ba pháp, phẩm Kusinara, kinh Hathaka.
(43) Kinh Trung bộ, tập 1, Đại kinh Rừng sừng bò.
(44) Kinh Tăng chi, chương Mười pháp, phẩm Ước nguyện, kinh Khả lạc.
(45) Kinh Trường bộ, tập 2, kinh Phúng tụng.
(46) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Brahmayu.
(47) Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Tướng.
(48) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Canki.
(49) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Giáo Giới La Hầu La Ở Rừng Ambala.
(50) Kinh Tiểu bộ, kinh Phật tự thuyết, Udana, chương 3, phẩm Nanda.
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Cho và Nhận

Chu Mạnh Trinh tiên sinh đã gọi Cực lạc quốc là Lạc phố, tức là phố Cực lạc hay là phố An lạc. Câu cuối cùng của Bài tựa Truyện Kiều, tiên sinh viết: “Bóng hoàn bội tưởng ra vào Lạc phố” (bản dịch của Đoàn Tư Thuật). Không phải chỉ riêng tiên sinh mà ngay cả chúng ta đang sống ở cõi Ta-bà cũng đều cố gắng tu tâm dưỡng tánh, không làm việc ác, siêng làm điều thiện; cầu mong sao khi rời cõi tạm này sẽ được vãng sanh về Tây phương Cực lạc hay theo cách gọi rất hay của Chu Mạnh Trinh là Lạc phố.

Chưa biết ngày nào chúng ta về Lạc phố. Ngày ấy, không ai biết trước được. Lẽ thường, ai cũng muốn được cư trú ở cõi nước an lạc, hạnh phúc và tự do. Chúng ta rất muốn xa rời cái bờ mê muội của sự ghen tỵ, kỳ thị, hận thù và sầu khổ để tới bờ của từ bi, hỷ xả, của an lạc, hạnh phúc và thảnh thơi. Đức Thế Tôn đã hiến tặng cho chúng ta một pháp tu rất mầu nhiệm, đó là Bố thí Ba-la-mật. Chúng ta có thể thực tập pháp tu này để vượt qua bờ bên kia ngay trong đời sống hàng ngày, xây dựng một phố an lạc ngay bây giờ, ở đây, nơi chúng ta đang sống, bằng pháp tu này. Bố thí Ba-la-mật là pháp tu đầu tiên trong Lục độ (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ)

Hạnh bố thí là cúng dường, hiến tặng hay san sẻ cho mọi người một điều gì đó như vật chất, tiền bạc (tài thí), những lời khuyên hướng thiện, những lời nói khai tâm mở trí (pháp thí) và sự an ủi, chở che, giúp vượt qua nỗi cô đơn, sợ hãi (vô úy thí). Trong đó, giúp người chuyển hóa được khổ đau và sợ hãi là pháp tu cao quý nhất trong các loại bố thí. Thực hành sự cho đi mà nhẹ nhàng, thảnh thơi, chẳng luyến lưu, không vướng bận bất cứ điều gì thì đạt đến Bố thí Ba-la-mật, xả ly tuyệt đối, đến bờ kia.

Khi ta đem lòng giận một ai đó thì ta đau khổ. Nếu ta thực tập bố thí, buông bỏ sân hận thì niềm sân hận trong ta được chuyển hóa và ta vượt sang được bờ bên kia tức khắc; bờ của vô sân, an lạc, hạnh phúc và từ bi. Ta biết trong chiều sâu tâm thức của ta đều có hạt giống của sự độ lượng, sẵn lòng muốn hiến tặng, đem cho người khác niềm vui, niềm hạnh phúc. Những hạt giống và tâm hành này luôn có mặt trong ta.
Sự bố thí xem ra cũng đơn giản và tự nhiên, phát xuất từ cái tâm thương yêu vô điều kiện. Người mới thực tập việc bố thí, cúng dường, hiến tặng thì hay ngại được bố thí, tức là nhận quà của ai đó. Thế nhưng, tương quan giữa cho và nhận là một điều lý thú, cho tức là nhận mà nhận tức là cho; sự thay đổi ngôi vị này khiến cho ta phải vắt óc suy gẫm. Người phương Tây nói “Give and take” cũng hàm nghĩa như vậy.
Có một lần tôi được đọc một câu chuyện viết về thầy Thiên Ân của một tác giả nữ, cô này là đệ tử của thầy. Khi thầy Thiên Ân sắp mất, cô thường hay đến thăm thầy và cô rất buồn khi chứng kiến cái cảnh thầy đau đớn vì bệnh tật. Cô suy nghĩ hoài mà không biết làm gì cho thầy vui, để thầy bớt đau. Một hôm khi cô hỏi: “Thầy muốn con làm gì?” thì thầy bảo cô mua cho thầy chiếc mũ đội cho ấm đầu. Hôm đó là ngày cuối tuần, đã 7 giờ tối, các tiệm lớn đều đóng cửa, nhưng thầy muốn cô đi mua ngay. Cô đành chạy ra một tiệm nhỏ lúc đó còn mở cửa mua ngay chiếc mũ đem về. Thầy nhận và tỏ vẻ rất hoan hỷ. Còn cô thì khỏi phải nói, rất vui vì làm được một việc vừa lòng thầy.
Sau đó ít lâu thầy qua đời. Khi cô tới dọn dẹp phòng thầy, cô thấy trong tủ thầy có cả tá mũ đủ loại rất đẹp. Chiếc mũ cô mua biếu thầy hôm nọ thuộc loại tầm thường nhất. Cô chợt tỉnh ra. Tưởng là cô đã làm cho thầy vui. Cô là người cúng dường, là người làm phước. Thực ra, chính thầy đã cho cô cơ hội để cô được vui một lần cuối với thầy, để cô được phước báu. Vậy là chính cô mới là người nhận, người mang ơn. Từ câu chuyện đó, cô nhận biết trong cuộc đời nghĩ tới cùng nhiều khi người cho lại chính là người nhận. Người nhận lại là người cho. Không biết ai là người cho ai và ai phải cám ơn ai. Thôi thì cứ cám ơn đời và cám ơn nhau vậy.
Tôi rất thích câu chuyện đó, lâu lâu đem ra đọc đi đọc lại đến nhập tâm. Nhưng trong đời sống hàng ngày tôi vẫn thích làm cho người khác, chứ không thích ai làm cho mình điều gì. Khiến cho những đứa em của tôi phải phàn nàn vì chúng muốn giúp cho tôi cái gì tôi cũng tìm cách chối từ, bởi một lý do là tôi còn đang tự lo liệu được và không muốn mang ơn ai, dù người đó là những đứa em ruột thịt của mình. Biết rằng nhiệm vụ làm anh cả đã giúp đỡ cho các em rất nhiều khi chúng chưa trưởng thành. Bây giờ các em đã ăn nên làm ra, chúng rất muốn đền đáp cho anh một chút, nhưng bị anh từ chối và chúng buộc lòng phải thốt lên: “Anh đã biết cho thì phải biết nhận chứ? Nếu không biết nhận thì chưa chắc đã biết cho!”.
Tôi tiếp tục biện hộ cho cái quan điểm của mình, nhưng câu nói của đứa em in chặt vào trong đầu của tôi: “Không biết nhận thì cũng không biết cho”. Tôi cũng đã từng suy nghĩ chuyện phân biệt cho và nhận chỉ là sản phẩm của “cái tôi” đầy tự ái, mà thực ra cả hai chỉ là một. “Có đi có lại mới toại lòng nhau”, “Give and take”, cho và nhận, nhận và cho; như là một bí quyết giao tiếp luân lưu tối thượng trên cõi đời này. Phải chăng cái “ngã” còn đứng ở đó đặt ra những chuyện “người cho kẻ nhận”, “kẻ có người không”, người trên kẻ dưới”… Mặc dầu kinh Phật đã dạy hạnh bố thí là hạnh đứng đầu của người con Phật. Bố thí theo tinh thần Bồ-tát thực hành Bố thí Ba-la-mật nghĩa là bố thí mà không thấy người bố thí, người tiếp nhận bố thí và vật bố thí, để không còn có người và ta, không còn tự ái, tự tôn hay tự ti. Vì khi còn phân biệt giữa người và ta tức là còn có “ngã”, còn nhị nguyên, còn tính toán hơn thiệt, còn có đi có lại, còn rất là đời, chưa đi vào con đường đạo. Tất cả những cái thấy, những cảm nhận, những ý nghĩ, những quán chiếu, những suy tư đó đầy ắp trong đầu. Tôi hiểu hết mọi sự bằng trí óc nhưng chưa thấu suốt bằng con tim để ứng xử mọi việc tự nhiên như hơi thở.
Đến khi lâm bệnh nằm viện cả tháng, đầu óc mịt mù, suy nghĩ rối tung, thân thể hoàn toàn bất lực. Tôi sống được là hoàn toàn nhờ vào sự giúp đỡ của mọi người. Tôi đã nhận rất nhiều từ ông bác sĩ phẫu thuật, cô y tá hàng ngày đến thay thuốc, đến bà dọn phòng và bao nhiêu người trợ giúp khác cho tôi được mau phục hồi. Tôi đã nhận nhiều từ các em tôi, từ họ hàng, bạn hữu thân thương; những giúp đỡ hữu hình và vô hình trợ lực cho tinh thần tôi khỏi bị sụp đổ. Tôi nhận từ những linh thiêng của đất trời ân huệ cho tâm tôi mở ra, bằng lòng đón nhận tất cả từ cái đau cho đến tận cùng là cái chết. Bệnh hoạn làm cho lực bất tòng tâm, làm tương lai dừng lại ở hiện tại, mọi dự tính đều tiêu tan, vì chính sự sống cũng đang bấp bênh, biến hóa khó lường. Trên bờ vực bấp bênh đó, cái “ngã” nín thở nằm yên đợi chờ. Rồi trong cái khoảnh khắc yên lặng vô biên ở bên trong cùng với những yêu thương chân thật bao bọc bên ngoài, được dẫn dắt bởi tuệ giác nên tâm trí bỗng bung ra khiến cái “tôi” chan hòa vào trong tất cả.
Câu chuyện của thầy Thiên Ân, câu nói của đứa em “không biết nhận thì làm sao biết cho” và những hiểu biết kinh Phật nói về hạnh bố thí cùng với những kinh nghiệm về cho và nhận thu thập bấy lâu trong cuộc đời, bỗng hiện ra tia sáng của sự khai mở. Tôi như một tù nhân sau bao nhiêu năm nằm trong ngục tối, được thấy ánh sáng chói lòa và vạn vật rạng rỡ của một thế giới con người tự do.
Khi ra khỏi viện về nhà, mọi người đến thăm, tôi không còn thắc mắc khi nhận quà, cám ơn mà không lúng túng. Chúng ta có thể gặp lại nhau, nhưng cũng có thể không còn gặp lại nhau nữa. Biết vậy sẽ không còn ngại ngùng khi nhận và mong mỏi khi cho. Ân nghĩa nguyện xin đền đáp, nhưng không phải tìm cho được ân nhân cũ để trả nghĩa, mà luôn giữ đầy ắp tấm lòng biết ơn để luân lưu những ân huệ nhận được từ người này sang cho người khác, để chuyển hóa những đắng cay của sân hận nhận được thành ngọt ngào của hỷ xả và tha thứ đem hiến tặng người kế bên mà không cần ghi vào trong tâm sổ sách tuổi tên người.
Lúc này đây, tôi không làm được gì cho ai, nhưng sao tôi vẫn cảm thấy mình có rất nhiều thứ để cho, phải chăng vì tôi nhận được từ đất trời, từ mọi người xung quanh rất nhiều mỗi ngày, nhận được nhiều thì có rất nhiều cái để cho đi. Vì tôi chỉ đứng đó để chuyển hóa luân lưu đi tất cả sau khi đã thụ hưởng vừa đủ cho phần mình. Rồi đến lúc thấy mình không còn đứng đó để nhận hay cho, hay để thấy vui trong lòng, mà chỉ thấy một sự luân lưu nhẹ nhàng không ngừng, tự nhiên như bốn mùa thay đổi, như lẽ vô thường của vạn vật.

Tôi bỗng hiểu tại sao trong sáu pháp Lục độ Ba-la-mật, bố thí là hạnh đứng đầu. Khi đã thực hành bố thí và hiểu ra chân lý thì ta sẽ có được quyền tự do căn bản và tối thượng thực sự của con người; có được an lạc và hạnh phúc vô biên ở cõi Lạc phố trần gian này.

Lê Đàn
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Học cách quan tâm

Bà mẹ than nhức đầu nhưng hai cô con gái vẫn vô tư như không có chuyện gì xảy ra. Một cô cứ thản nhiên ngồi xem ti vi, cô còn lại cứ mải miết bấm điện thoại chát chít với bạn bè. Người hàng xóm sang chơi thấy thế bèn hỏi thăm bà mẹ kia đau như thế nào, rồi chạy ra tiệm thuốc Tây mua cho bà mấy liều thuốc uống.

Một người em đến nhà người chị để mời đám cưới cô con gái. Nghe người chị nói mình vừa trải qua cơn tăng huyết áp suýt bị tai biến, hiện việc đi lại còn khó khăn. Người em chẳng một lời thăm hỏi sức khỏe, bệnh tình của chị mình, cứ đưa thiệp mời đám cưới, nói chuyện đâu đâu rồi vô tư ra về. Không phải quan hệ tình cảm chị em không tốt mà người em không quan tâm đến chị mình, chỉ vì cái tính thờ ơ vô tâm mà như thế.

Người vợ bị cảm lạnh, nằm kế bên chồng vừa sổ mũi vừa hắt hơi liên tục, người chồng vẫn ngủ ngáy o o, thỉnh thoảng tiếng hắt hơi làm người chồng giật mình tỉnh giấc, anh ta càu nhàu: “Suốt đêm cứ nhảy mũi hoài làm không ai ngủ được!”, rồi anh ta ngủ tiếp.

Dân gian Việt Nam có câu: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Người xưa thường dạy con cháu mình như thế, nhưng ngày nay dường như chẳng mấy ai quan tâm điều này. Người ta không chỉ cần học chữ nghĩa, kiến thức văn hóa, khoa học, mà còn cần phải học ăn uống, đi đứng, nói năng, học cách làm việc, học cách cư xử, học cách chăm sóc bản thân và quan tâm người khác v.v... Cái gì cũng cần phải học, chứ không phải chỉ học cách kiếm tiền, học cách ăn chơi hưởng thụ... Đôi khi chính sự thiếu hiểu biết làm hại bản thân và những người thân mà mình không hề nghĩ đến. Nếu mình không biết quan tâm đến ai thì cũng chẳng ai quan tâm đến mình. Nếu con cái chẳng học được gì ngoài sự thờ ơ, vô tâm của cha mẹ đối với những người thân của mình và mọi người, thì khi lớn lên chúng sẽ không biết gì khác ngoài việc dùng thái độ đó đối với cha mẹ chúng.

Các bậc cha mẹ cần dạy con mình từ nhỏ phải biết cách tự chăm sóc bản thân và biết cách quan tâm, chăm sóc những người thân xung quanh mình, gần thì có ông bà cha mẹ, anh chị em, xa thì có bạn bè, chòm xóm láng giềng những khi cần giúp đỡ. Có rất nhiều người không biết cách chăm sóc cho người thân của mình do từ nhỏ không được chỉ dạy, không tập làm cho quen. Ví dụ như, khi người thân bị nóng ho mà nấu thức ăn chiên xào nhiều dầu mỡ; khi con cái bị viêm họng mà cho uống nước đá lạnh, ăn kem; con bị cảm sốt, nhức đầu thì đè ra cạo gió rồi lấy chăn mền trùm kín; thấy con mệt mỏi do sốt thì lấy thuốc bổ cho con uống vào… Kết quả của cách chăm sóc như thế khiến người cần chăm sóc không khỏe mà còn mệt thêm, chẳng những không hết bệnh mà bệnh càng nặng thêm. Đó đều do không có hiểu biết về bệnh và không biết cách chăm sóc người bệnh.
Có nhiều ông chồng sau giờ làm mặc tình la cà đó đây nhậu nhẹt, xem như mình kiếm tiền về nhà là đã làm xong trách nhiệm, chẳng màng quan tâm đến vợ con ở nhà, không hề nghĩ ở nhà có việc gì cần mình làm hay không, vợ con có đang trông chờ mình về hay không, con cái mình đi học về chưa, chúng học hành như thế nào rồi, mình nên thường xuyên tiếp xúc hỏi han con cái để tình cảm cha con không lạt lẽo… Có nhiều bà vợ ngày nào cũng bỏ khối thời gian cho việc trau chuốt làm đẹp hoặc đi mua sắm, làm bà tám với bạn bè, nhưng lại lười vào bếp để chuẩn bị cho chồng con một bữa ăn ngon, giặt ủi cho chồng con cái quần cái áo, hoặc thăm hỏi sức khỏe, đời sống cha mẹ mình. Sự thờ ơ, vô tâm tạo ra nhiều điều đáng buồn, đáng trách.

Nên dạy con trẻ biết thăm hỏi ông bà cha mẹ, quan tâm lo lắng, chăm sóc ông bà cha mẹ khi ông bà cha mẹ ốm đau, bệnh tật. Từ bé thơ, trẻ phải được cha mẹ dạy những câu như: “Cha có khỏe không?”, “Mẹ có khỏe không?”, “Con thương cha mẹ lắm!”, “Cha mẹ bị làm sao thế?” (Khi cha mẹ có biểu hiện bị bệnh hoặc gặp phải chuyện gì). Nên dạy con trẻ biết lấy thuốc cho cha mẹ uống khi cha mẹ bệnh (tất nhiên là cha mẹ chỉ cho con biết cần uống loại thuốc gì hoặc đi mua thuốc gì); nấu cháo cho cha mẹ ăn, đưa cha mẹ đi bệnh viện, phòng mạch, hoặc mời bác sĩ đến khám bệnh cho cha mẹ nếu như cha mẹ không thể đi; biết lấy áo ấm cho cha mẹ khi thời tiết lạnh; biết lấy nước cho cha mẹ uống và hỏi thăm khi cha mẹ đi làm về: “Cha mẹ có mệt lắm không? Để con lấy nước cho cha mẹ uống”. Khi lên mâm cơm, nên dạy con trẻ mời ông bà cha mẹ trước: “Con mời ông bà dùng cơm”, “Con mời cha mẹ dùng cơm”. Cha mẹ có biểu hiện không vui, con cái phải quan tâm tìm hiểu, hỏi cha mẹ xem mình có làm điều gì khiến cho cha mẹ buồn không hay là cha mẹ không được khỏe? Cần phải dạy trẻ biết phụ giúp công việc gia đình, xem làm việc nhà là trách nhiệm của mình chứ không phải là việc không liên quan đến mình. Nên dạy trẻ phải biết quan tâm đến người khác chứ không phải chỉ biết nhận sự quan tâm và những gì người khác làm cho mình.

Phải dạy trẻ từ nhỏ về tình yêu thương, về bổn phận, trách nhiệm, dạy trẻ nuôi dưỡng những tình cảm đạo đức và hình thành những thói quen tốt, để khi lớn lên trẻ không là người sống thờ ơ, vô tâm đối với những người thân xung quanh, đối với gia đình và xã hội.
Thiện Tài
<!--*****Content*End*****--><TABLE class=FooterTab><TBODY><TR><TD class=ctlFooter></TD></TR></TBODY></TABLE>
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Nghệ thuật phóng sanh
Ai cũng biết phóng sanh thục mạng là việc làm sinh phước, biểu hiện của lòng từ bi.
Hiện nay, phóng sanh không còn là việc làm của một riêng ai mà khá phổ biến, lan rộng trong quần chúng với mong muốn rằng việc làm của mình sẽ sanh phước đức, bạt trừ nghiệp chướng, kéo dài thọ mạng... Cũng vì thế mà phóng sanh trở thành một pháp biểu hiện lòng từ bi. Tuy nhiên, từ bi của đạo Phật luôn gắn liền với trí tuệ, có như thế từ bi mới đúng pháp.
Trong tất cả các việc làm, người ta đều quan tâm đến yếu tố nghệ thuật. Và việc phóng sanh cũng vậy, phóng sanh đúng pháp chính là một nghệ thuật.
phong%20sanh.jpg

Khi phóng sanh trở thành phong trào
Những ngày lễ lớn như Phật đản, lễ Vu lan mọi người chen chân đi mua cá, chim, ốc... để phóng sanh. Tranh nhau mua và hút hàng đến mức những chủ hàng cơ hội tăng giá thế mà các loài chúng sanh ấy vẫn không đủ để cung ứng. Thế là không ai nói với ai, cứ chuẩn bị đến các ngày lễ ấy mọi người lại đi tìm các ông chủ để “đặt hàng”. Mọi người đặt tiền trước để có cá, có chim... đến ngày lễ mà phóng sanh.
Trước nhu cầu của khách, các chủ hàng lại tăng cường thu gom sản phẩm. Rồi những người bẫy chim, chài lưới lại tăng cường đánh bắt suốt ngày đêm để cung cấp các loài sinh vật cho chủ hàng. Như thế các giống cá, chim, ốc bị khai thác một cách bừa bãi và tận thu từ loài lớn đến loài nhỏ dẫn đến hậu quả là một số loài đứng trước nguy cơ tuyệt diệt.
Chúng sanh kêu khổ
Các ngày lễ lớn, mùa hội phóng sanh thì ai ai cũng hân hoan vui mừng. Thế mà các loài cá, chim lại than thở vì quá khổ.
Đang sống yên lành lại có người đến đặt bẫy, dùng lưới để bắt giam trong lồng, trong chậu mấy ngày liền. Không gian chật hẹp, thức ăn không có, tranh nhau ngoi ngóp... Đến ngày đem ra chợ, qua tay người khác lại mang đi hàng chục cây số. Rồi phải đợi đến làm lễ cầu nguyện xong chúng mới được thả ra. Có một điều quan trọng thật đáng lo là nơi các sinh vật ấy được thả ra lắm khi là một môi trường không phù hợp với chúng. Cá ao hồ đem thả ở sông; chim sống trong ruộng rẫy ở nông thôn lại đem thả ở vùng thành phố... Môi trường sống của chúng không phù hợp, sức khỏe của chúng bị suy giảm sau nhiều ngày giam cầm, thế là có không ít chúng sanh chết hoặc đuối sức sau khi phóng sanh.
Nghệ thuật phóng sanh
Thấy rõ cảnh ấy, chúng ta cần phải suy nghĩ lại về việc làm của mình. Trước hết, phóng sanh không phải là phong trào, thấy người khác làm liền bắt chước. Hơn nữa phóng sanh không nhất thiết phải vào ngày lễ lớn. Nghệ thuật phóng sanh đơn giản là trong mọi hoàn cảnh ta đều có thể thực hành phóng sanh như cứu tổ kiến bị trôi theo dòng nước, giúp con giun đất đang nằm ở chỗ đất khô quằn quại tìm được chỗ trú ẩn, hay đi chợ gặp mấy con cá đang còn sống, đi đường gặp chú chim vừa mới mắc bẫy... ta mở lòng từ bi mua chúng và đưa đến thả đúng môi trường sống của chúng.
Ngoài ra, muốn tăng trưởng phước báu, thọ mạng dài lâu, không bệnh tật thì hàng ngày cần thực hành pháp ăn chay, niệm Phật.
Phóng sanh cần phải tùy hoàn cảnh, điều kiện và quan trọng hơn hết cần phải được soi tỏ bằng trí tuệ nhằm mang đến sự sống đích thực cho chúng sanh. Có như vậy phóng sanh mới đúng pháp, mới thể hiển được lòng từ bi nhiệm mầu của đạo Phật.
Lãn Sư
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
BẢN CHẤT CỦA THÀNH CÔNG
Hà Minh Ngọc
Đã bao giờ bạn tự hỏi thành công là gì mà bao kẻ bỏ cả cuộc đời mình theo đuổi? Phải chăng, đó là kết quả hoàn hảo trong công việc, sự chính xác đến từng chi tiết? Hay đó là cách nói khác của từ thành đạt, nghĩa là có được một cuộc sống giàu sang, được mọi người nể phục? Vậy thì bạn hãy dành chút thời gian để lặng mình suy ngẫm. Cuộc sống sẽ chỉ cho bạn có những người đạt được thành công theo một cách giản dị đến bất ngờ.
Thành công là khi bố và con trai có dũng khí bước vào bếp, nấu những món ăn mẹ thích nhân ngày 8-3. Món canh có thể hơi mặn, món cá sốt đáng lẽ phải có màu đỏ sậm thì lại ngả sang màu… đen cháy. Nhưng nhìn mâm cơm, mẹ vẫn cười. Bởi vì hai bố con không thể thành công trên “chiến trường” bếp núc, nhưng lại thành công khi tặng mẹ “đoá hồng” của tình yêu. Một món quà ý nghĩa hơn cả những món quà quý giá, hạnh phúc ấy long lanh in trong mắt mẹ.

Thành công còn là hình ảnh một cậu bé bị dị tật ở chân, không bao giờ đi lại bình thường được. Từ nhỏ, cậu đã nuôi ước mơ trở thành cầu thủ bóng đá. Sau bao nỗ lực khổ luyện, cậu bé trở thành cầu thủ dự bị trong một đội bóng nhỏ, và chưa bao giờ được chính thức ra sân. Nhưng đó không phải là thất bại. Trái lại, thành công đã nở hoa khi cậu bé năm xưa, với bao nghị lực và quyết tâm, đã chiến thắng hoàn cảnh để theo đuổi ước mơ từ ngày thơ bé. Thành công ấy, liệu có mấy người đạt được?

Sau mỗi mùa thi đại học, có bao “sĩ tử” buồn rầu khi biết mình trở thành “tử sĩ”. Hai bảy điểm, cao thật đấy. Nhưng cao mà làm gì khi NV1 lấy tới hai bảy phẩy năm? Đó thật ra không phải là thất bại, chỉ là khi thành công – bị – trì – hoãn mà thôi. Cuộc sống vẫn chào đón họ với NV2, NV3. Quan trọng là họ đã nỗ lực hết sức để khẳng định mình. Đó là ý nghĩa vẹn nguyên của các kỳ thi, và cũng là bản chất của thành công.

Ngày còn nhỏ, tôi đã được đọc một câu chuyện rất xúc động. Truyện kể về một cậu bé nghèo với bài văn tả lại mẹ – người phụ nữ đã che chở cuộc đời em. Cậu bé viết về một người mẹ với mái tóc pha sương, với đôi bàn tay ram ráp nhăn nheo nhưng dịu hiền và ấm áp. Cậu kết luận rằng: bà ngoại là người mẹ – người phụ nữ đã nâng đỡ em trong suốt hành trình của cuộc đời. Bài văn lạc đề, phải về nhà viết lại. Nhưng đó mới chính là một tác phẩm thành công, bởi ở đó chất chứa tình yêu thương của đứa cháu mồ côi dành cho bà ngoại. Liệu có thành công nào, tình cảm nào thiêng liêng hơn thế?

Nhiều năm trước, báo chí từng vinh danh một cậu học trò nghèo thi đậu đại học với vị trí thủ khoa. Đối với cậu, đó là một thành công lớn. Nhưng có một thành công khác, lặng thầm mà lớn lao, đó là chiến thắng của một người cha gần 20 năm trời đạp xích lô nuôi con ăn học. Bao niềm tin và hi vọng hiện lên trên gương mặt vốn đã chịu nhiều khắc khổ. Và ngày con trai đậu đại học cũng là ngày tốt nghiệp khoá – học – của – một- người – cha.

Tôi biết có một nữ sinh tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại ưu gần hai mươi năm trước. Với tài năng của mình, cô có thể gặt hái thành công trên con đường sự nghiệp và danh vọng. Nhưng cô sinh viên năm ấy đã chấp nhận hi sinh những cơ hội của đời mình để trở thành một người vợ đảm đang, một người mẹ dịu hiền của hai cô công chúa nhỏ. Cho tới bây giờ, khi đã là một phụ nữ trung niên, Người vẫn nói với tôi rằng: “Chăm sóc bố và hai con chu đáo, đối với mẹ đã là một thành công lớn”. Mỗi khi nghe câu nói ấy, tôi lại rơi nước mắt. Gia đình là hạnh phúc, là thành quả đẹp đẽ của đời mẹ, và chúng tôi phải cảm ơn mẹ vì điều đó.

Con người luôn khát khao thành công, nhưng mù quáng theo đuổi thành công thì thật là vô nghĩa. Bạn muốn mình giàu có, muốn trở thành tỷ phú như Bill Gates? Vậy thì hãy gấp đồng tiền một cách cẩn thận rồi trao nó cho bà cụ ăn xin bên đường. Với việc làm đẹp đẽ ấy, bạn sẽ cho mọi người hiểu được bạn không chỉ giàu có về vật chất mà còn giàu có tâm hồn. Khi đó, bạn đã thực sự thành công.

Cũng có khi bạn ước mơ thành công sẽ đến với mình như đến với Abramovich – ông chủ của đội bóng toàn những ngôi sao? Thành công chẳng ở đâu xa, chỉ cần bạn dành thời gian chăm sóc cho “đội bóng” của gia đình bạn. Ở đó, bạn nhận được tình yêu thương vô bờ bến, thứ mà Abramovich không nhận lại được từ những cầu thủ của ông ta. Thành công đến với mọi người một cách giản dị và ngọt ngào như thế!

Bạn được sinh ra, đó là một thành công vĩ đại của cha và mẹ. Trách nhiệm của bạn là phải gìn giữ cho vẻ đẹp hoàn thiện của thành công ấy. Đừng bao giờ ủ ê nghĩ rằng cuộc sống là một chuỗi của thất bại, bởi như một giáo sư người Anh từng nói: “Cuộc sống này không có thất bại, có chăng là cách chúng ta nhìn nhận mọi việc mà thôi”. Còn đối với tôi, thành công là khi ai đó đọc được bài viết nhỏ này. Có thể sẽ chẳng được điểm cao, nhưng gửi gắm được những suy nghĩ của mình vào trang viết, với tôi, đó là một thành công.
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
THẤT BẠI
Ai cũng sợ thất bại
Theo ý nghĩa của mặt chữ thì thất bại là thua, là mất, cho nên, chẳng ai muốn mình là kẻ thất bại, nếu không muốn nói là ai cũng sợ thất bại. Sự thất bại có thể làm thui chột niềm tin và hy vọng nơi một con người. Tuy nhiên, tùy theo quan niệm sống mà mỗi người sẽ có những phản ứng khác nhau trước sự thất bại của mình; từ đó, có người nhờ thất bại mà gặt hái những thành công lớn hơn, nhưng cũng có những người vì thất bại mà buông xuôi khiến cuộc đời chìm trong nỗi khổ niềm đau.
Có những người chưa quen thất bại, hoặc chưa bao giờ chịu đựng một sự thất bại mà người ấy cảm thấy là quá nặng nề, sẽ sinh ra lúng túng rồi vội vàng bám víu hết đối tượng này đến đối tượng khác. Một người vừa mất việc thì kiếm ngay việc khác để làm; một người lỡ tay làm hư một tác phẩm kỳ công thì vội vàng bắt tay vào thực hiện một tác phẩm mới; một người vừa bị phụ tình thì mau chóng truy cầu đối tượng khác để được thương yêu . Tiếc rằng những gì ta cố bám víu trong khi đang chịu đựng những cảm xúc tiêu cực của sự thất bại lại đều là sự lầm lẫn đáng tiếc. Sự thật là ta chỉ tìm cách xoa dịu và khỏa lấp sự tổn thương của mình, hoặc cố gắng khẳng định giá trị của mình chứ không phải ta đang có sự đầu tư đúng đắn. Bi kịch luôn luôn xảy ra trong những lần cảm xúc bùng vỡ như thế, bởi sự lựa chọn ấy không hề có sự soi sáng của lý trí.
Không ít người vì thất bại bên ngoài nên đã đi” tìm lại cái tôi” ngay nơi con đường tâm linh. Đáng lẽ những phương pháp thực tập chuyển hóa có thể giúp ta chữa trị và hồi phục rất nhanh chóng, nhưng khi vết thương chưa kịp lành thì ta lại vội đặt cho mình những mục tiêu chuyển hóa to tát sớm phải đạt được. Ta lầm tưởng đó là thái độ quyết tâm hướng thượng, nhưng thực chất là ta đang củng cố cái tôi yếu đuối của mình. Ta phải làm một điều gì đó để thấy được sự tồn tại của mình. Trong tình trạng năng lượng cạn kiệt mà ta lại đặt thêm một tham vọng mới, dù tham vọng ấy được coi là chính đáng, thì than tâm ta lấy sức đâu để tiếp tục tranh đấu. Và càng cố gắng quyết liệt thì ta càng đốt sạch năng lượng và sẽ thất bại một cách thảm hại. Cũng như cục tuyết lăn từ trên đỉnh núi xuống thường bám chặt vào tuyết trên suốt đoạn đường, nên khi xuống tới chân núi nó trở thành quả cầu tuyết khổng lồ và sức tàn phá của nó rất ghê gớm. Đó là hiệu ứng quả cầu tuyết.
Chỉ là chưa thành công
Ta nên biết rằng một sự thành công phải luôn hội tụ vô số điều kiện phù hợp với nó, và không phải lúc nào ta cũng chủ động nắm hết mọi điều kiện vì có thể chúng nằm ngoài tầm tay. Dù điều kiện quyết định sự thành công có khi nằm ngay trong ta và tưởng chừng rất dễ dàng nắm bắt, nhưng nếu thiếu kinh nghiệm và sáng suốt thì ta cũng không biết phải thêm bớt như thế nào để đủ điều kiện cho nó. Đây cũng là lẽ đương nhiên. Bởi nếu ai cũng nắm được mọi bí quyết đưa tới sự thành công thì con người đã không còn là con người và thế gian này đã biến thành cõi thiên đường mất rồi. Như vậy, khi sự việc bất thành thì ta cần phải hiểu rằng những điều kiện đưa tới sự thành công chỉ là chưa hợp lý, có thể dư có thể thiếu, chứ không hẳn là hoàn toàn trống rỗng hay vô nghĩa.
Chữ” thất bại” có thể khiến ta hiểu lầm là ta không được gì cả, trong khi những gì ta đã tạo dựng nên vẫn còn đó chứ có mất đâu. Những kỹ năng tập luyện, những kinh nghiệm và kiến thức tích lũy, cũng như những yếu tố thuận lợi bên ngoài mà ta đã cất công gom lại sẽ được sử dụng một cách chính đáng trong những công trình kế tiếp. Cho nên khi thành công ta phải hiểu rằng sự thành công này đang đứng trên vai của bao thất bại trong quá khứ. Đó chính là ý nghĩa của câu nói mà ai cũng nằm lòng” Thất bại là mẹ của thành công”. Không có sự thành công vững bền nào mà không được làm ra từ những thất bại nho nhỏ ban đầu. Vì vậy từ bây giờ ta nên tập gọi là” chưa thành công” thay vì gọi là thất bại. Cách gọi này sẽ giúp ta không dễ dàng suy sụp tinh thần vì ta ý thức rằng cơ hội vẫn chưa chấm dứt, thua keo này ta vẫn có thể bày keo khác. Bởi không bao giờ có sự tách biệt tuyệt đối giữa cái trước và cái sau.
Thật ra, thất bại là một phần rất quan trọng của cuộc sống. Bởi khi thất bại ta sẽ thu mình lại. Mặc dù bị cảm giác rất khó chịu đè nặng, nhưng đó là cơ hội để ta nhìn lại mình rõ hơn. Ít nhất là tính tự hào, háo thắng hay chủ quan trong ta cũng rơi rụng bớt đó là lý do mà những người có nhiều kinh nghiệm luôn rất lo lắng khi thấy những người trẻ gặt hái thành công quá dễ dàng, nhất là sự thành công ấy chủ yếu dựa vào sự may mắn. Họ chưa nếm trải cảm giác khó chịu khi thất bại, cái tôi của họ chưa từng bị bầm dập trong những giai đoạn khốn cùng mà không biết cách xoay xở, và họ cũng chưa kịp kết nối với những phẩm chất quý giá trong tâm hồn như đức từ ái hay tính khiêm cung để tạo ra thế cân đối vững chãi, thì thành công lớn có thể trở thành tai họa cho chính cuộc đời họ và cả mọi người chung quanh. Ta đã từng chứng kiến rất nhiều người trẻ có những thành công vang dội, nhưng sự nghiệp của họ lại mau chóng lụi tàn. Đến mức họ không còn dám ngửa mặt nhìn đời, phải ẩn mình mãi mãi, hay chọn sự kết thúc thật đen tối.
Thực ra, bản năng sinh tồn của con ngườ vốn rất vĩ đại, chỉ khi nào phải đối đầu với những lần thất bại sâu cay thì nguồn lực ấy mới hiện ra một cách trọn vẹn. Đó chính là lúc con người trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết.Cho nên ta đừng sợ thất bại. Nếu thấy mình vẫn chưa đủ vững vàng thì đừng vội mong cầu thành công, hãy vui vẻ sống những ngày tháng” chua thành công” như đón nhận cơ hội để đào luyện sức chịu đựng và chuyển hóa tâm tính của mình. Chính vì thế người tài trí thường hay từ khước những điều kiện thuận lợi mà tìm tới những hoàn cảnh khắc nghiệt để phát hu hết năng lực tiềm ẩn. Họ xem nhẹ những thành công chỉ mang lại cảm giác thỏa mãn đơn điệu để chọn cái to tát hơn chính là chiến thắng những bóng tối phiền não trong chính họ. Đó mới là sự thành công đích thực.
Mỉm cười với thất bại
Khi đón nhận sự thất bại, điều mà ta nên làm và cũng là khó làm nhất đó chính là nhìn lại phản ứng của mình. Ta phải ghi nhận cái gì đang biểu hiện trong dòng cảm xúc hay tâm thức của mình mà không dùng ý chí để đàn áp hay phủ nhận nó. Cần nắm rõ hiện trạng tâm lý để ta đánh giá chính xác nội lực của mình mà quyết định hứng chịu một mình hay cần đến sự trợ gúp của người thân, thay vì ta cứ cố gắng che đậy để bảo vệ danh dự hay dựa dẫm vào những đối tượng khác để xoa dịu sự tổn thương. Để làm được những điều này ta cần phải có thói quen thường xuyên nhìn lại tâm mình trong mọi tình huống. Nhìn lại mình đã là một bước chuyển hóa đáng nể rồi, nhưng nếu có thể nhìn bằng thái độ không thành kiến thì cái nhìn ấy sẽ đạt tới mức thấu suốt bản chất của mọi vấn đề.Có thể ta sẽ thấy chính những phiền não trong ta mới là nguyên nhân dẫn đến sự thất bại, còn hoàn cảnh chỉ đóng vai trò phụ.
Tham vọng là phiền não mà ta thường phát hiện ra nhiều nhất trong những lần thất bại. Bởi ta luôn bị sự kich động quá lớn của tâm thức xã hội nên thấy ai có cái gì thì ta cũng muốn có cho bằng được, mà thực chất ta không biết rõ mình có cần nó hay không và mình có đủ khả năng để đạt được nó hay không. Tham vọng có thể làm cho tâm tưởng nhồi nặn ra lòng tự tin một cách vô căn cứ. Và ta thường dễ bị năng lượng ham muốn thành công lấn áp, thay vì tìm kỹ trong kinh nghiệm và kiến thức tích lũy của mình có những chất liệu nào đóng góp nên sự thành công . Nếu chỉ có cái muốn mà ta đã vộ vắt kiệt năng lượng ra để đầu tư thì đó là hành động rất non nớt, bị cảm xúc chi phối trầm trọng. Những lần phát hiện ra lòng tham của mình đang vận hành, ta nên nở nụ cười thật tươi để xác nhận rằng ta đã thấy rõ mặt mũi nó, nên nó không thể gạt gẫm ta được nữa. Ta sẽ giúp nó trở về với bản chất vô ngã của nó.
Chấp nhận được thất bại là tâm lý rất quan trọng để kéo ta lại gần với mọi ngườ mọi loài, là điều kiện không thể thiếu trong tiến trình thuần phục và khiến cái tôi trở nên vững chãi. Vượt qua được tâm lý tổn thương và mặc cảm của cái tôi yếu đuối là ta đã vượt qua hơn một nửa nỗi khổ niềm đau vì thất bại. Thoảng ta cũng nên tự hỏi mình, có cần đeo bám mãi sự thành công hay không nó có phải là điều kiện tiên quyết cho hạnh phúc của ta trong hiện tại không, để ta thu hồi lại những năng lượng tản mác vốn có thể tạo nên sự mạnh mẽ phi thường trong ta . Đừng bao giờ quên rằng sự thất bại dù lớn lao đến đâu cũng chỉ là một phần của cuộc sống, nó không thể làm phương hại tới những giá trị mầu nhiệm mà ta đang nắm giữ trong tầm tay.
Thành bại đã bao lần
Tuổi xuân trôi lần nữa
Nụ cười trên môi chờ
Bao giờ cho nhau nữa?.
Thích Minh Niệm
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
QUÉT RÁC CHỚ ĐỪNG QUÉT ĐẤT


Cha mẹ đem con đến chùa làm chú tiểu, tức là từ nay con phải ở chùa. Thầy dạy bảo thì con vâng lời, chắp tay búp sen trước ngực và đáp rằng “ Mô Phật”. Đó là bài học đầu tiên quyết định cho một lộ trình theo thầy học đạo mà chú tiểu phải thực tập. Một hôm thầy gọi chú tiểu lại mà bảo rằng: Từ nay con ở đây với thầy, thầy sẽ lo cho con. Và thầy dạy tiếp, mỗi ngày con ra sân mà quét rác, theo mấy chú tiểu khác mà tụng kinh. còn nhiều công việc khác nữa, con cứ theo quý thầy quý chú mà làm. Chú tiểu chắp tay “Mô Phật”. Sáng nào chú tiểu cũng cầm chổi ra sân quét rác. Có lần thầy đi ngang qua dạy rằng: “Quét rác chớ đừng quét đất”, chú tiểu lại “mô Phật”. Do sân chùa hồi đó là sân đất đỏ, không phải là sân xi măng, lá cây rơi mỗi ngày rất nhiều. Nếu ai quét không khéo tay bụi đỏ sẽ bay lên lan tràn. Sáng hôm sau, trong lúc quét rác, thầy ngang qua lại bảo lại dạy rằng: “Quét rác chớ đừng quét đất”. Chú tiểu lại một lần nữa “Mô Phật”.
tieuquetla.jpg

Một hôm đang quét rác chú nghĩ vu vơ rằng, ngày nào mình cũng Mô Phật mà chẳng biết Phật chổ mô (ở đâu), chỉ thấy tượng Phật trong chùa thôi. Nếu có ai hỏi mình Phật ở mô? Lúc đó cứ trả lời quấy quá rằng: Phật trong tâm, là coi như đạo lý cao siêu lắm rồi. Còn họ hỏi tiếp tâm ở chổ mô thì bảo họ đọc kinh sách đi mà hiểu, nếu không hiểu đi hỏi các thầy lớn trong chùa. Tiểu nghĩ đơn giản rằng, mình còn nhỏ ai mà hỏi đạo, ai bắt mình thuyết pháp đâu mà lo. Làm tiểu còn làm nhiều việc, việc thầy giao phó, tức là Phật giao phó thì phải làm thôi, hơi đâu mà lý luận xa vời. Nếu bổn đạo tới chùa, chỉ cần mở cửa chùa cho họ lễ Phật là xong việc, mình lo quét rác, học bài. Thế là chú hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc rồi.
Thời gian trôi qua, chú tiểu cũng đã đúng lúc vào các trường Phật học để học. Một hôm thầy gọi vào mà bảo rằng: “Bửa nay xã hội văn minh, trường Phật học mở nhiều, con về trường mà học, có thầy có bạn học mau giỏi hơn”. Chú tiểu lại “Mô Phật”. Đi học thì chú rất thích, đến trường nhiều chúng bạn vui hơn. Nhưng mà ai quét rác đây? Chú tự nghĩ và thưa rằng: Bạch thầy ai quét rác giúp thầy. Thầy cười một cách hiền hậu và trả lời : “Ngày ngày thầy đều quét rác, con nhớ là quét rác chớ đừng quét đất”, câu nói này đối với tiểu như là một pháp ngữ thâm sâu mà thiệt là quá giản dị. Tự nhiên chú nhớ mấy ngày đầu vào chùa này quét rác. Chú quét sạch sẽ gọn gàng ai cũng khen, sao thầy cứ lặp lại câu: “Quét rác chớ đừng quét đất”.
Xa thầy đi học, xa mái chùa bình yên ngày ngày chú thường quét rác, tụng kinh và học cách thức làm chú tiểu. Ở trường Phật học Việt Nam hồi đó có dạy chữ Nho cho Tăng và Ni. Đêm hôm khuya khoắt chú loay hoay tập viết chữ Nho, chữ Hán. Ráng mà học để hiểu bốn bộ luật dạy cách làm chú sa di và sau đó làm thầy Tỳ Kheo. Chú tiểu ngày ấy có duyên theo học được vài khóa Phật pháp. Sau đó, chú tiếp tục hăng hái đi đây đó học tiếng Tàu, tiếng Mỹ. Chú cũng ráng học để thêm kiến thức sau này thuận lợi cho việc tu học. Cái gần nhất là tìm câu trả lời Mô Phật, và Phật ở chổ mô. Năm tháng qua mau trên một phận người, vị thầy khả kính dạy tiểu quét rác giờ đây đã viên tịch.
Buồn vui và thăng trầm trên con đường học đạo ít ai mà tránh khỏi. Chú tiểu ngày xưa bây giờ đã lớn. Chú sống trong một ngôi chùa tiện nghi hơn ngày xưa nhiều. Chùa có sân mà không có rác nhiều vì toàn là sân xi măng. Vườn cỏ trong chùa bổn đạo dùng máy để cắt. Lâu lâu đến ngày lễ lớn, sân chùa có rác thì đem máy thổi ra thổi một cái là sạch tưng liền. Nhưng chú tiểu ngày xưa và hôm nay vẫn là một, nay gọi là chú tiểu lâu năm. Chú ngày ngày vẫn làm công việc quét rác như trước đây vị thầy khả kính đã dạy.
Ngày ấy, thầy bảo quét rác chớ đừng quét đất. Chú tiểu ngây thơ cứ miệt mài quét, quét nhẹ nhàng, đừng quét nặng tay mà bụi đất đỏ sân chùa bay khắp cả chùa. Hôm nay làm việc quét rác cũng khó hơn nữa. Chú tự hiểu rằng, nó cùng một công việc nhưng tác dụng khác trước nhiều. Vì quét rác phiền não trong tâm thì khó hơn quét bụi rác sân chùa. Thấp thoáng đó đây bụi tham sân si vẫn còn tồn động. Chúng nó chỉ giả vờ ngũ gục trong tâm khảm sâu xa. Nó đang nễ mặt thái độ tự tin và sức mạnh tri thức lý luận mà chú học được nên tạm thời nằm yên đó. Nếu không nhờ cái chổi Thần Tú thì ngày ngày bụi phiền não vẫn còn vấn vương tơ lòng.
Suy cho cùng, hì hà hì hục bao năm, tu phước hành thiện, đó là cơ duyên nhiều đời để lại. Nhưng công phu suy lượng trong từng pháp môn chú đã được học, tất cả là phương tiện. Các môn duy thức và kinh luận Phật giáo chỉ giúp chú biết rõ hành trạng của Tâm mà thôi. Một kiếp này thôi, chú ngồi chiêm nghiệm, nhìn mình và nhìn đời với biết bao nhiêu phiền não trái ngang. Tâm ấy đã từng dẫn chú đi như con ngựa hoang. Có khi ngồi lại mà thấy mệt mỏi và chán chường. Bao nhiêu câu kinh bài kệ chú đã được học, nó như cái thứ trang sức quí giá cất kín trong nhà mà bị chủ lãng quên. Chú đã từng là đứa con hoang dại bỏ cha ra đi. Chú như hình ảnh gả cùng tử trong kinh diệu pháp Liên Hoa mà chú từng đọc tụng bao nhiêu năm trời.
Chú suy nghĩ một mình, tất cả kiến thức mà ta được học có trong lời dạy của thầy. Trong câu pháp ngữ thân quen đầy ấn tượng: “Quét rác chớ đừng quét đất”. Chú nghiệm ra rằng:
Cái chổi để quét là ví như tất cả vốn tri thức cuộc sống và đạo lý.
Rác trên mặt đất là làn sóng phiền não đang nhấp nhô trong biển tâm thức mênh mang.
Mặt đất đó là ví như cả cả căn nhà tâm thức đã từng dẫn dắt sinh mệnh con người và thế giới qua từng sát na, từng giây và từng phút.
Người khéo quét rác ví như người khéo dụng giáo lý mà tu tập để đạt sự tự do và an lạc.
Có ngày, chú tiểu tự suy nghĩ miên man về cuộc sống mình và người. Ai ai cũng cần có cái chổi trong tay để quét rác bẩn trong lòng. Vì mất chánh niệm, không làm chủ hành động của thân, miệng và tâm ý nên buồn vui sầu khổ hành hạ thân tâm. Trò đùa tâm thức đang dẫn dắt con người đi trong mọi lĩnh vực đời sống. Một khi chung sống bên nhau mà không khéo lắng nghe và quán chiếu thì sẽ đánh mất năng lực yêu thương và hiểu biết. Từ đó, độc tố si mê và nóng giận kết thành ung nhọt trong tâm mọi người. Bao nhiêu giận hờn, ghét bỏ và nghi ngờ như giòng nước mạnh chảy tràn khắp mình và cả người thân. Hậu quả đáng tiếc đó làm cha mẹ, vợ chồng, con cái phải gánh lấy tất cả. Sự đổ nát, sự chia ly và thành kiến, làm mọi người tự hành hạ nhau cũng từ cái tâm nóng bức và bệnh hoạn đó. Tâm điên đảo đó dẫn tới hành động tham lam và thù hận trong đời sống nhân loại thì sao gọi là Phật tại tâm!
Chú tiểu tự nhận thấy công việc quét rác của mình và bao công mọi người không khác. Con người và cộng đồng đều có mối liên hệ mật thiết. Những gì xảy ra, buồn vui trong lòng chú và mọi người đều từ một cái tâm. Cái tâm nào làm lợi mình, lợi người một cách chân thực mới là cao quý. Nhưng làm sao có được cái tâm đó, thì phải khéo cầm cây chổi quét vườn tâm cho sạch sẽ trước.
Tiếp tục công việc quét rác, rác phiền não trong lòng chú vẫn còn. Chú hằng ngày miệt mà quét mảnh đất tâm, cái mà ngày xưa chú đã tự trả lời rằng Phật ở trong tâm. Vậy mà sao, bao năm tháng qua chú ngồi nghiệm lại, buồn vui, hoang vu vô bờ bến nó vẫn hiện hữu trong mình. Có lúc chú cũng ngẫm đọc câu kinh Kim Cang để trấn an: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm”, chú tự biện luận rằng: Tâm không trú trên một đối tượng nào, thì buồn vui phiền não chổ nào mà gá nương?. Nhưng rồi, thiệt tình tâm thức như biển cả mênh mong ngày đêm tuôn chảy. Suốt bao năm trời, chú cứ lang thang trong vùng tư duy và ngôn ngữ vay mượn. Loay quay việc này việc nọ, ngày này nối tiếp ngày kia như thế. Công việc quét rác từ trước đến nay chú vẫn chưa làm thành thục.
Một buổi sáng sớm trời tươi mát, không gian ở chùa yên tỉnh và dịu dàng. Chú tiểu lên chùa đốt nhang lễ Phật và ngồi im lặng để xem tâm mình. Tâm thức chú từng niệm đang khởi lên như hành trạng chính nó. Chú nhủ thầm lấy tinh thần Vô Phật Vô Niệm trong giáo lý niệm Phật Tam muội; Lấy tinh thần vô trú trong Kinh Kim Cang nhìn tâm. Ngồi một lúc chú thấy hơi thở mình đang vào ra nhỏ nhẹ, lại nhớ tới phép quán niệm trong bài kinh Tứ Niệm Xứ. Chú nhận ra rằng vô niệm là chánh niệm, chánh niệm là vô trụ trong các niệm khởi của tâm. Ôi thiền và tịnh lâu nay là phương tiện để quán tâm. Niệm Phật và định tâm rất cần thiết, định tâm giống như dầu trong cây đèn, Tuệ quán như ánh sáng của một ngọn đèn. Thiền tịnh đều lộ trình phát triển Giới Định Tuệ. Có tuệ mới soi sáng ba lĩnh vực giáo pháp của Phật. Đó là Khổ, Vô Thường và Vô Ngã.
Chú lại tự nhớ thầm lời thầy, hãy quét rác chớ đừng quét đất. Đừng nỗ lực mà dập vọng niệm. Vì các niệm ấy là tâm. Đừng mê lầm theo vọng niệm khởi là người quét rác khéo tay. Rác phiền não đi, nhưng cái chổi và đất vẫn còn đó. Rác phiền não đi thì chổi và đất thành tác dụng một thể. Không còn chổi và đất bụi bay là như không còn chủ thể và đối tượng. Giai đoạn quán tâm bắt đầu để biết dấu tích Phật đang ở đâu mà tìm. Chú vui mừng với lòng thanh thản, nhớ hình bóng từ mẫn của thầy. Bao năm tháng lang thang đây đó để học Phật pháp, giờ này mới đủ duyên thẩm thấu câu pháp ngữ giản dị thầy đã dạy từ khi mới vô chùa.
Thích Đức Trí

 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
CÀ SA VÀ TẤM ÁO BẨN
Tuần qua, cộng đồng mạng Trung Quốc và thế giới xôn xao về vụ “Sư thầy Trung Quốc hoàn tục lấy vợ” và “Sư bị bắt vì tội giết người”. Trước đó không lâu, người dân Hàn Quốc cũng bị “chấn động” vì vụ một số vị sư “uống rượu, đánh bạc”. Thậm chí nhiều tờ báo lớn, trong đó có Việt Nam, xếp những tin tức này vào mục “Chuyện lạ đó đây” theo kiểu giật gân, câu khách <SUP>1</SUP>...
Thực tế, việc một người lấy vợ, uống rượu, đánh bạc hay thậm chí giết người..., vẫn diễn ra hàng ngày tại khắp nơi trên thế giới, đến nỗi báo chí không đủ “đất” để đăng tải. Tuy vậy, nếu nhân vật chính trong những vụ việc này là tu sĩ, hay từng là tu sĩ, thì vấn đề lập tức không còn là “chuyện thường ngày ở huyện” nữa.
Tại sao như vậy? Để lý giải cho vấn đề này, trước tiên tôi xin kể một câu chuyện - câu chuyện được ghi lại trong nhiều bộ kinh quan trọng của Phật giáo.
Chuyện vị Tỳ-kheo ăn trộm hương sen
Vị Tỳ-kheo nọ rời khỏi Kỳ Viên tinh xá, đến trú tại quốc độ Kosala, gần một khu rừng. Một hôm, sau khi ăn xong, trên đường khất thực trở về, vị Tỳ-kheo đi ngang qua một cái hồ sen đang kỳ rộ nở; đứng lại tránh gió, đồng thời vị Tỳ-kheo cũng tận hưởng mùi hương sen tỏa thơm ngào ngạt. Chợt, vị nữ thần cai quản hồ sen hiện ra, quở:
- Này Tôn giả, vì sao ngài ngửi hoa? Ngài nay là giặc trộm hương!
Vị Tỳ-kheo đáp:
- Tôi không bẻ cũng không lấy, chỉ đứng ngửi hương bay, sao gọi tôi là kẻ trộm?
- Không xin mà tự lấy, thế gian gọi là giặc. Nay hoa từ nước sanh, ngài không xin mà ngửi hương, cho dù chỉ là một đóa hoa mới nở, như thế chẳng phải trộm sao? - Vị nữ thần nói.
Ngay lúc đó, có một người lội xuống hồ mò nhổ ngó sen và củ sen, làm gãy nát cả thân sen; rồi người đó bó lại thành bó, vác cả đi. Vị Tỳ-kheo thấy vậy, nói:
- Người kia không những nhổ ngó sen mà còn làm gãy cả thân sen, như thế mới gian xảo, sao thần nữ không can ngăn mà lại trách tôi khi tôi chỉ ngửi hương từ xa?
Nữ thần trả lời:
- Kẻ gian xảo cuồng loạn, sống phóng túng buông lơi, cũng như áo của người vú em vốn thường dính bẩn, dính thêm chút nữa cũng chẳng đủ thiếu gì, nên đâu còn gì để nói. Áo đen có nhuộm mực cũng không sao. Nhưng chiếc cà-sa không vấy bẩn, thì dù một hạt bụi dính vào cũng dễ dàng nhận thấy. Chân ruồi dơ lụa trắng, như mực dính hạt châu, tuy nhỏ mà rõ biết. Người xuất gia vốn cầu thanh tịnh đạo, dứt trừ tham dục, phiền não, nên cái xấu ác dù chỉ nhỏ như lông tóc, người đời vẫn xem như Thái sơn.
Vị Tỳ-kheo nghe vậy, xúc động nói:
- Thần nữ thật hiểu tinh tường nên đã nói với tôi những lời như thế. Xin thần nữ hãy thường vì tôi, nếu tôi còn tái phạm, thì hãy đoái thương nhắc nhở.
Nữ thần đáp:
- Tôi không sống đây để phụng sự ngài. Chúng ta không ở mướn cho ai. Ngài hãy tự biết con đường ngài đi để đạt được hạnh phúc tối cao ở đời.
Sau khi nghe nữ thần nói như vậy, vị Tỳ-kheo hoan hỷ, tùy hỷ ra về, một mình nơi chỗ thanh vắng, chuyên tinh tư duy, đoạn các phiền não, đắc A-la-hán <SUP>2</SUP>.
Ngẫm từ “những chuyện gây xôn xao dư luận”
Chuyện thứ nhất, “Sư bị bắt vì tội giết người”. Bản tin này được đăng trên China.org, ngay sau đó đã được dịch ra tiếng Việt và được đăng tải trên rất nhiều trang tin điện tử ở Việt Nam; thậm chí có trang còn giật title “Tử hình nhà sư giết người”. Đọc tin xong mới vỡ lẽ, Xu Xinlian, 39 tuổi, vào năm 1994, cùng với 5 người khác, đã giết một đôi vợ chồng trẻ và làm bị thương một cháu bé 2 tuổi. Bốn người kia đều bị sa lưới, riêng Xu đã tìm cách trốn thoát và náu mình trong những ngôi chùa ở những vùng xa xôi, hẻo lánh. Cuối cùng, sau hơn 17 năm, Xu cũng bị bắt trong hình thức một Tăng sĩ tại một ngôi chùa ở Hàng Châu. Xu cho biết, kể từ vụ giết người, suốt từng ấy năm trời không đêm nào Xu ngủ ngon và phải trải qua nỗi hoảng sợ, lo lắng triền miên. “Tôi đã chờ ngày này 17 năm nay và giờ tôi cần thoát khỏi sự giày vò của lương tâm”, China.org dẫn lời Xu. Do chưa có tiền án và thành khẩn nhận tội sau khi bị bắt, Xu tuy bị kết án tử hình song cho hoãn 2 năm.
Rõ ràng, cách giật title trên của các trang tin gây không ít hoang mang, ngộ nhận - như thể “một nhà sư giết người”. Ở đây, việc Xu giết người và đền mạng là điều không có gì phải bàn cãi, nhưng nếu Xu không bị bắt trong hình thức Tăng sĩ thì có lẽ tin tức chỉ lan truyền trong phạm vi địa phương chứ khó có thể mang tính “toàn cầu”. Vấn đề đáng nói ở đây là việc quản lý nhân sự có phần lỏng lẻo của Phật giáo Trung Quốc khiến cho một người phạm pháp được xuất gia và tham dự vào sinh hoạt Tăng-già (khi bị bắt, Xu đang trụ trì 2 ngôi chùa địa phương với pháp danh Weidi), khiến cộng đồng Tăng bị ảnh hưởng ít nhiều. Theo luật định, người phạm pháp không được xuất gia; nếu gian dối tham dự lễ thọ đại giới thì cũng không thể đắc giới để trở thành vị Tỳ-kheo đúng nghĩa.
Chuyện thứ hai, một vị sư hoàn tục cưới vợ (có trang tin giật title là “Một nhà sư lấy vợ”!). Chuyện này cũng diễn ra tại Trung Quốc. Vào hôm 9-6, sư Thanh Hiền, ngoài 40 tuổi, trụ trì chùa Cung Trúc - Côn Minh đã lặng lẽ rời chùa, đến Hiệp hội Phật giáo tỉnh Côn Minh để báo về việc hoàn tục. Đến ngày 17-6, Thanh Hiền đã tổ chức lễ cưới công khai tại một khách sạn ở Côn Minh với cô gái 26 tuổi, chủ một cửa hàng đá quý. Buổi lễ có khoảng 300 khách mời tham dự. Khi được hỏi, vị Trưởng lão cao niên nhất chùa Cung Trúc xác nhận vụ việc này là có thật. Hòa thượng cho biết: “Tôi là người đầu tiên biết tin phương trượng Thanh Hiền hoàn tục kết hôn. Phật giáo quy định 3 trường hợp không giữ người: đó là hoàn tục, xin học, du ngoạn. Tâm của phương trượng Thanh Hiền đã không còn ở chùa thì cũng nên hoàn tục”. Ngài nói thêm: “Chúng tôi không quan tâm những việc của người đã hoàn tục, đó là việc riêng của họ”.
Quả thực, đây là tin gây xôn xao dư luận Trung Quốc, được nhiều tờ báo đăng tải. Các trang tin điện tử ở Việt Nam cũng sớm chuyển tải thông tin này đến bạn đọc và nhận được nhiều ý kiến phản hồi, trong đó không ít bạn đọc đồng cảm với Thanh Hiền, họ cho rằng: nếu không còn duyên tu hành thì cũng nên hoàn tục một cách danh chính ngôn thuận; bên cạnh đó cũng có một số ý kiến không đồng tình, thậm chí mai mỉa!
Với nhiều nước Phật giáo Bắc truyền, nhất là tại châu Á, việc một nhà tu hoàn tục thường gây ít nhiều dị nghị. Nếu vị sư đó có uy tín và giữ nhiều chức vụ trong Giáo hội thì sự dị nghị càng tăng thêm. Trong khi đó, với Phật giáo Nam truyền - điển hình như Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar và cộng đồng Phật giáo Khmer Việt Nam - việc một vị sư hoàn tục, cho dù vị đó đang trụ trì đi nữa, cũng là điều hết sức bình thường, thậm chí còn được trân trọng hơn so với những người chưa từng xuất gia tu hành. Điều đó dĩ nhiên xuất phát từ quan điểm cộng đồng, song thiết nghĩ dù ở cộng đồng nào thì cũng cần nên chia sẻ.
Chuyện thứ ba, một số vị sư uống rượu, đánh bạc. Vụ việc xảy ra tại Hàn Quốc vào tháng 4-2012 và bị tố giác vào ngày 10-5-2012. Sáu vị sư thuộc thiền phái Tào Khê (Tào Động), tông phái lớn nhất ở Hàn Quốc, chơi bài poker và uống rượu tại một khách sạn sang trọng trong suốt nhiều giờ. Vụ việc đã được ghi hình và phát sóng trên đài truyền hình Hàn Quốc, gây dư luận bất bình và khiến nhiều Phật tử thất vọng. Trưởng lão Hòa thượng tông phái Tào Khê đã phải lên tiếng xin lỗi dân chúng và Phật tử xứ Hàn.
Việc này thiết nghĩ không có gì phải bàn, vì hẳn nhiên những vị sư này không những vi phạm giới luật mà còn vi phạm pháp luật (tại Hàn Quốc, đánh bài bên ngoài những sòng bài có đăng ký kinh doanh là phạm pháp). Điều này không chỉ gây lãng phí (thời gian, sức khỏe, tiền bạc) mà còn làm tăng trưởng lòng tham - điều mà Đức Phật thường xuyên nhắc nhở các đệ tử phải luôn luôn chánh niệm, tỉnh giác.
Nghĩ về những người khoác áo cà-sa
Người đời nhổ ngó, bẻ hoa, làm ngã rạp thân sen âu cũng là chuyện thường tình; nhưng người tu chỉ ngửi hương sen thôi cũng có thể bị quở trách. Người tu hành, do đó, phải dè dặt trong từng hành vi, cử chỉ, không thể so bì với người thế gian. Có những việc người thế gian làm được nhưng người tu không làm được; dĩ nhiên, việc phạm pháp thì người tu càng phải tránh như tránh lửa dữ, giặc thù. Đơn giản vì người tu hành khoác áo cà-sa, tấm áo được ví như mảnh lụa trắng, chỉ cần một hạt bụi hay một vết mực dính vào thì đã có thể nhận rõ ràng vết bẩn. Khoác áo tu hành tức “làm dâu trăm họ” là vậy.
Trong 3 câu chuyện “gây xôn xao dư luận” nói trên, 2 chuyện đầu, người gây ra vụ việc lúc đó chưa phải là người tu hành, hoặc không còn là người tu hành nữa; tuy nhiên, dù sao họ cũng đã/sẽ khoác áo cà-sa, nên cộng đồng quan tâm, soi xét hơn người thường tình. Còn câu chuyện thứ 3, nhân vật gây ra lỗi là những người tu hành thực sự, cho nên ảnh hưởng không tốt đến Tăng đoàn là điều hiển nhiên. Những vị này cần phải được yết-ma xử lý trong Tăng, sau đó chịu sự xử lý của pháp luật.
Người khoác áo cà-sa, được thọ và đắc giới, trở thành thành viên Tăng, can dự vào Tăng đoàn, thì tất cả những việc làm của họ đều có những ảnh hưởng nhất định đến danh dự của Tăng đoàn. Bản thể Tăng-già là thanh tịnh, hòa hợp; các thành viên Tăng phải sống theo những nguyên tắc, luật định chi phối đến đời sống Tăng. Những ai đi ra ngoài những nguyên tắc, luật định ấy là tự loại mình ra khỏi sự thanh tịnh, hòa hợp, không còn xứng là một thành viên Tăng nữa.
Có thể thấy rằng, ở nơi nào mà tín đồ Phật tử nương tựa vào Tăng-già để tu tập thay vì nương tựa vào từng vị Tăng riêng lẻ, thì ở nơi đó sẽ có nhiều sự lợi ích, an lạc, vững chãi. Một thành viên Tăng, nếu chưa phải bậc Thánh, thì dù được xem là hoàn thiện đến đâu cũng còn ít nhiều khiếm khuyết. Nếu người nào chỉ biết dựa vào một hoặc một vài vị Tăng để tu tập (thường là những vị trụ trì hoặc những bậc trưởng lão), thì khi phát hiện ra những khiếm khuyết nơi vị thầy của mình, người đó sẽ dễ sinh tâm thất vọng và có thể sẽ mất phương hướng khi vị thầy đó hoàn tục. Ở câu chuyện trên, dù phương trượng Thanh Hiền có hoàn tục, thì sự thanh tịnh và hòa hợp của Tăng tại trú xứ đó vẫn nguyên vẹn. Trụ trì là một chức vụ do Tăng chúng đề bạt; vị trụ trì cũng là một thành viên Tăng, bình đẳng trong giới luật so với những vị Tăng khác. Nếu vị ấy hoàn tục, không còn là vị Tăng, thì vị ấy cũng phải nên giữ gìn nếp sống đạo đức của một người Phật tử thuần thành. Thiết nghĩ, người Phật tử cần nhìn nhận rõ hơn về vấn đề này để tránh việc đánh mất niềm tin vào Tam bảo.
Việc cộng đồng “soi xét” kỹ lưỡng những người khoác trên mình tấm áo cà-sa không chỉ xảy ra ngày hôm nay, mà tự ngàn xưa, bắt đầu từ khi có sự xuất hiện hình bóng của những người được xem là mô phạm, hiện thân cho bộ mặt đạo đức của xã hội. Một khi bị cộng đồng xã hội lên án, quở trách - cho dù là những việc rất nhỏ đi nữa - thì những người tu hành cũng không xem đó là sự “bất công”, mà thay vào đó, nên cảm ơn những người đã quở trách mình, như những lời nhắc nhở, cảnh tỉnh - giống như vị Tỳ-kheo trong câu chuyện “trộm hương” vậy.

Quảng Kiến
1. Muốn biết thêm thông tin, xin mời quý vị tìm kiếm trên mạng Internet với những từ khóa như trên. 2. Kể theo các kinh Trường A-hàm, tiểu kinh Bát-đàm-ma; kinh Tiểu bộ, Jataka 392 - chuyện Củ và hoa sen (tiền thân Bhisapuppha); kinh Tương ưng bộ, chương IX - Tương ưng rừng, mục XIV - Sen hồng hay sen trắng. Chuyện “vị Tỳ-kheo trộm hương” trong các bộ kinh trên có ít nhiều khác biệt về mặt tình tiết, nhân vật; chúng tôi chọn cách thuật lại theo lối kết hợp, chọn lọc.
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
"Đừng dính tới ... quyền lợi"
HT Thượng TRÍ Hạ TỊNH
Sống trong cuộc đời, muốn được thong thả rảnh rang thì đừng dính đến quyền lợi. Làm việc hễ thuận duyên thì làm, không thuận thì phải khéo léo nhẫn chịu để vượt qua.

Không phải hàng xuất gia không bị dính mắc vào quyền lợi. Huống nữa, chính quyền lợi đó sẽ đem đến những tai họa cho thân mình. Mấy huynh đệ tuổi còn trẻ, đường còn dài, phải lưu ý lắm mới được.

Nói đến đây, tôi nhớ lúc còn học tại chùa Báo Quốc ở Huế, nhân đọc Đại tạng đến quyển Trúc Song Tùy Bút của Đại sư Liên Trì, phần nói về “Con nhện con tằm”. Trong ấy nói hai con vật này đều nhả tơ, giăng lưới. Nhưng một con phải chết vì sự nhả tơ đó, còn một con thì lợi dụng sự nhả tơ để bắt mồi. Con tằm nhả tơ rồi bị đem đi luộc, còn con nhện cũng nhả tơ nhưng lại tự tại qua lại trên những sợi tơ đó, không bị vướng kẹt.

Đại sư Liên Trì đưa ví dụ này nhằm để khuyên nhắc tất cả mọi người. Vì ai nấy đều có sự nghiệp. Người đời cũng có sự nghiệp, mà người xuất gia cũng có sự nghiệp; chỉ là lớn hay nhỏ mà thôi. Tuy vậy, mình nhớ tạo sự nghiệp phải được như con nhện, đừng như con tằm nhả tơ rồi phải chết trong kén.

Tôi nhận thấy bài đó hay, lấy làm thích thú, luôn nhớ và đem ứng dụng tu hành. Nghĩ lại, từ năm 1946 tôi lập Liên Hải Phật Học đường, các Phật Học viện, thành lập chùa, ra làm việc cho Giáo hội như: Trưởng ban Giáo dục, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự, rồi Viện trưởng Phật học viện Huệ Nghiêm… nhưng làm việc mà không bị ràng buộc.

Lúc làm Tổng Vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự, đã 4 tháng mà tôi vẫn chưa mở văn phòng. Mấy thầy thấy vậy thắc mắc hỏi thăm, riêng tôi lại nghĩ hễ lập thì bị kẹt phải vào ở đó. Về sau, tôi đích thân xuống thỉnh HT. Từ Nhơn giữ chức Phó Tổng vụ Tăng sự và đặt sẵn văn phòng tại chùa Ấn Quang. Thế là tôi mở văn phòng từ đó, nhưng chỉ đứng ở ngoài để lo tinh thần mà giảng kinh cho mấy huynh đệ học.

Tôi không phải mong cầu những cái lợi như người đời thường nghĩ, chỉ luôn luôn cầu công đức. Cái lợi của người tu chính là thiện căn công đức, đâu phải là tiền bạc vật chất. Mấy huynh đệ phải nhớ mình ở chỗ nào nơi nào cũng phải gây tạo thiện căn công đức, đừng chạy theo những vật chất bên ngoài.

Lúc giữ chức Tổng Vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự tất cả là 10 năm. Trong thời gian đó hễ thầy nào muốn du học qua Hồng Kông..., hễ đến tôi thì tôi ký. Mà phải trực tiếp đến mới được, nếu qua trung gian thì người khác sẽ nghĩ mình làm việc có điều không tốt, chẳng hạn như vì tiền. Tôi chỉ nghĩ, phải trợ giúp cho mấy thầy được thuận duyên tu học, làm được việc này cũng chính là vun bồi căn lành công đức cho mình, không bao giờ dính đến tiền bạc.

Điều thứ hai: Tôi luôn làm theo khẩu hiệu ngầm của riêng mình: Những việc đúng pháp, về mặt tinh thần hoặc vật chất thì “Không cầu cũng không từ”. Đây là khẩu hiệu để tôi lập thân, nghĩa là “Không tìm cầu cũng không từ chối”. Chẳng hạn, nếu có duyên cất chùa, mà cái duyên đó nó tự đến, nhận thấy đáng thì không từ chối. Cho đến tứ sự cúng dường cũng vậy, những vật gì không dùng, nhưng cũng không từ chối. Mình không sử dụng thì chuyển đến người khác, cho đại chúng dùng. Lúc trùng tu chùa Vạn Đức cũng vậy, tôi không cho đi quyên góp, ai hay biết thì đến cúng dường, còn “tìm cầu” thì nhất định không.

Ngoài ra, nếu làm việc gì, dù có cái lợi lớn trước mắt nhưng khi làm có cái hại xen vô trong hiện tại hoặc tương lai thì tôi quyết không làm, không tham dự. Ví dụ như: Danh vị, tiền bạc, lời khen tặng… Nếu được lợi thì phải xem có cái hại hay không, nếu có phải tránh xa, thấy hại mà vẫn chạy vô thì bị nghiệp dẫn.

Tôi thấy việc tu hành đã trải qua mấy mươi năm, nhờ ứng dụng hai điều trên nên không bị tổn thất chịu cái hại lớn, mà lại thấy việc nhẹ nhàng thảnh thơi. Tuy vẫn có sự lo lắng cực nhọc, nhưng ít thôi, còn kết quả cũng khá nhiều.

Ở đây tôi đã nói tận đáy lòng, mấy huynh đệ thấy đúng lý thì nên bắt chước làm theo, để sự tu hành không bị vướng kẹt, thiện căn công đức luôn được tăng trưởng. Đó là điều tôi luôn mong muốn ở nơi tất cả mấy huynh đệ.
 

tanphuqm

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Tham gia
27 Thg 10 2006
Bài viết
1,775
Điểm tương tác
90
Điểm
48
Người đẹp
Thời gian gần đây, nhiều câu chuyện về người đẹp trong giới diễn viên, ca sĩ, người mẫu xung quanh việc ăn mặc phản cảm, ứng xử kém văn hóa, sa sút về đạo đức đã gây không ít xì-căng-đan, làm xôn xao dư luận. Trong nhiều gia đình, con em chạy theo lối sống đua đòi chưng diện, si mê thần tượng là các ca sĩ, diễn viên có nhận thức lệch lạc về cái đẹp và những giá trị sống, đã khiến cho phụ huynh đau đầu trong quá trình dạy dỗ, xây dựng nhân cách của chúng. Có nhiều ý kiến trong việc đánh giá, đưa ra những “chuẩn mực” cho vẻ đẹp con người thời đại ngày nay, điều này khiến cho người ta nhớ đến câu chuyện cách đây hơn 2.500 năm trước ghi trong kinh Thất nữ, Đức Phật nói về cái đẹp của con người:
“Có một người nhà giàu sinh được bảy cô con gái xinh đẹp tuyệt trần. Vừa là bậc đại phú gia, lại có con gái nhan sắc không ai bì, ông nhà giàu rất lấy làm hãnh diện.
Một hôm có một người bạn nói với ông:
Anh hãy đưa các con anh vào trong thành dạo chơi, dân chúng trong thành trông thấy con anh, nếu có người chê một trong bảy cô xấu thì anh đưa cho tôi năm trăm lạng vàng, bằng như không có ai chê thì tôi thua anh năm trăm lạng.
Người nhà giàu đồng ý đánh cuộc với người bạn. Thế là hai người dẫn bảy cô gái đi dạo khắp nơi trong thành. Họ đi đến đâu, mọi người đều hết lời ngợi khen bảy cô con gái xinh đẹp. Thời gian dạo chơi đến chín mươi ngày mà họ không nghe thấy một ai chê bảy cô con gái xấu dù chỉ nửa lời.
Bấy giờ hai ông nghe tin Đức Phật đang giảng pháp tại tinh xá Kỳ Viên, bèn rủ nhau đến gặp Phật mà thưa rằng:
Ngài hay du hóa nhiều nơi, đi khắp các nước, Ngài đã từng thấy có người con gái nào xinh đẹp như các con của tôi không?
Đức Phật mỉm cười bảo:
- Những cô gái này không có gì đẹp cả.
Ông nhà giàu hết sức kinh ngạc, tỏ ra không bằng lòng, thắc mắc:
- Cả nước không một ai chê các con tôi xấu, cớ sao Ngài lại chê chúng xấu?
Đức Phật đáp:
- Người đời họ cho cái đẹp của sắc thân là đẹp, còn Ta cho rằng cái thân chẳng làm điều xấu ác, cái miệng chẳng nói lời xấu ác, tâm ý chẳng nghĩ điều xấu ác mới là đẹp vậy”.
Người đời thường chú trọng vẻ đẹp bên ngoài, cho rằng một người đẹp là người có hình dung, tướng mạo khiến người khác nhìn vào sinh tâm ưa thích, có sức hấp dẫn cuốn hút người khác, tức đẹp về cái răng, cái tóc, đôi mắt, làn da, đẹp về hình thể. Ngược lại, Đức Phật khẳng định chân giá trị của một con người ở chỗ đời sống của người đó có giá trị, ý nghĩa, tâm hồn của người đó cao quý. Một người đẹp lý tưởng là một người không chỉ đẹp về ngoại hình như nhan sắc, trang phục, về dáng vẻ, hình thức bên ngoài mà còn đẹp cả tư cách, nếp suy nghĩ, ngôn ngữ và hành vi, lối sống.
Ngày nay những cuộc thi hoa hậu không chỉ đánh giá về sắc đẹp mà còn đánh giá về tri thức, văn hóa ứng xử, tư cách tác phong và tinh thần phục vụ đóng góp cho cộng đồng xã hội. Trong các lĩnh vực nghệ thuật, giải trí, người ta rất chú trọng đến vẻ đẹp bên ngoài cùng với tài năng, bản lĩnh, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn.
Trong quan hệ tình cảm nam nữ, thường thì đầu tiên người ta thu hút nhau bằng vẻ đẹp bên ngoài: ánh mắt, nụ cười, làn môi, mái tóc, lời nói, dáng điệu v.v.. nhưng về sau người ta sẽ không thể gắn kết lâu dài nếu như hai tâm hồn không hòa điệu, không có sự “cảm” về tâm hồn, sự rung động chân thành, vì những ứng xử cao đẹp. Tình yêu và hạnh phúc chân thật, bền vững thường được xây dựng bằng phẩm chất tốt đẹp. Cuộc sống cũng chỉ tươi đẹp, có ý nghĩa và phát triển bền vững khi con người biết xây dựng nó bằng những giá trị đích thực lâu bền.
Có những người đàn ông đẹp trai, bảnh bao nhưng bên trong vẻ hào nhoáng đó là tính sở khanh, đạo đức giả, ngụy quân tử. Có những người phụ nữ xinh đẹp, quyến rũ nhưng đầu óc rỗng tuếch, phẩm chất kém, tính trăng hoa, hám lợi, gian trá, giả dối. Có những người đàn ông vai u thịt bắp, cao lớn khỏe mạnh nhưng lại nhu nhược yếu đuối, không đủ ý chí, nghị lực để vượt qua những cám dỗ, buông mình sa đọa trong ăn chơi trụy lạc, sống lối sống buông thả. Vì thế không thể dựa vào hình thức bên ngoài để nhận xét, đánh giá một con người. Hình thức đôi khi cũng phản ánh phần nào về một người, ví dụ cách ăn mặc, đi đứng, nói năng, cách làm việc v.v.. cũng nói lên đuợc phần nào tính cách của người đó, tuy nhiên chỉ căn cứ vào những điều đó thôi thì chưa đủ. Nhất là trong cái xã hội đầy phức tạp như hiện nay, có rất nhiều trường hợp người ta dùng cái vẻ hoa hòe, hào nhoáng bên ngoài để ngụy trang, che giấu những điều không tốt, không hay, thậm chí là xấu xa, tội lỗi. Những hình thức ấy chẳng phản ánh được gì cho “nội dung”, nó chỉ là lớp vỏ bọc để đánh lừa những đối tượng chuộng vẻ bên ngoài, ham chạy theo hình thức. Người xưa vốn kinh nghiệm sâu sắc về điều này nên đã có những lời khuyên giá trị: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Vẻ đẹp bên ngoài không thể xem thường, nhưng phẩm chất bên trong mới là quan trọng nhất.
Một người đàn ông hay một người phụ nữ đẹp cần có “nội dung” bên trong nếu như không muốn mình sinh ra chỉ để làm trò tiêu khiển giải trí, giải buồn. Nội dung bên trong là gì? Đó là tâm hồn, tình cảm, đạo đức, là trí tuệ, là ý chí, năng lực góp phần làm đẹp cuộc đời. Đối với những chàng trai, những cô gái xinh đẹp, có ngoại hình thì ước mơ được nhiều người theo đuổi dễ dàng thực hiện được. Nhưng điều đó chỉ mang lại cảm giác thích thú, thỏa mãn một lúc rồi dần dần tan biến, và người ta nhận ra rằng đó chỉ là những giá trị ảo hết sức phù du, giả tạm. Cái con người cần là đời sống hạnh phúc được xây dựng bằng nhiều nhân tố chứ không chỉ có vẻ đẹp và sự đam mê vẻ đẹp. Những nhân tố căn bản mang lại hạnh phúc cho con người là: Ở người đàn ông cần có tri thức, trình độ hiểu biết, có ý chí, nghị lực, có tình cảm đạo đức, sự chân thành, tính rộng lượng, có tinh thần trách nhiệm, biết quan tâm đến người khác… Ở người phụ nữ cần có công, dung, ngôn, hạnh. Công là trình độ hiểu biết, học vấn, nghề nghiệp chuyên môn. Dung là dáng vẻ, ngoại hình, cách ăn mặc, trang điểm sao cho sạch đẹp, dễ nhìn. Ngôn là lời ăn tiếng nói, khả năng giao tiếp, ứng xử. Hạnh là đức hạnh, những phẩm chất đạo đức, chẳng hạn như lòng tự trọng, lòng chung thủy, tinh thần trách nhiệm, đức tính hy sinh, cần cù, đảm đang tháo vát.
Chỉ vẻ đẹp bên ngoài thôi chưa đủ để đánh đồng nó với giá trị một con người, giá trị một đời sống. Bởi chỉ vẻ đẹp thì không thể làm nên cuộc sống, vẻ đẹp chỉ góp phần tạo “sắc màu” cho cuộc sống. Hơn nữa cái đẹp rất phù du, nó không tồn tại lâu dài, không có cái đẹp nào vĩnh cửu với thời gian. Sự đánh giá về cái đẹp cũng không nhất định, không có cái đẹp nào là tuyệt đối, những quy chuẩn về cái đẹp luôn thay đổi theo thời đại, theo địa phương, theo từng quốc gia, từng khu vực, và nhất là tùy thuộc vào cảm xúc thẩm mỹ của con người.
Trong xã hội luôn có những người kiếm tiền, lập nghiệp hay thăng tiến bằng cách dùng nhan sắc của mình để lót đường, nhưng thành tựu của họ không được bao nhiêu mà hậu quả lắm nỗi ê chề. Theo thời gian, phấn hương phai nhạt, nhan sắc úa tàn thì bướm chán ong chê. Không có tài năng thực sự, không có bản lĩnh, không có trình độ học thức, yếu kém về chuyên môn thì sớm muộn gì cũng gặp khó khăn trở ngại trong công việc hoặc phạm phải sai lầm.
Không ít người đàn ông và phụ nữ có quá nhiều ảo tưởng về “sắc đẹp” của mình, họ nghĩ mọi người sẽ vây quanh họ, sẽ ngửa tay xin tình cảm của họ, sẽ quý trọng họ nên họ sinh tâm kiêu ngạo, tự mãn, không màng tới việc trau giồi nhân cách, đạo đức, nâng cao học vấn, rèn luyện bản thân, có người còn làm khổ cho bao nhiêu người khác bằng chính cái “sắc đẹp” của mình, đó là lừa tình, gạt tiền, đùa giỡn bỡn cợt trong tình yêu đối với những cô gái nhẹ dạ, cả tin; đối với những người đàn ông hiếu sắc. Tâm hồn không đẹp thì dù ngoại hình có đẹp cũng chỉ là con người rất xấu. Đừng vì cái đẹp phù du, giả trá mà làm méo mó nhân cách con người.
Minh Hạnh Đức
<!--*****Content*End*****--><TABLE class=FooterTab><TBODY><TR><TD class=ctlFooter></TD></TR></TBODY></TABLE>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tình trạng
Không mở trả lời sau này.

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên