Cám ơn Bạn Hoàng đã rất nhiệt tâm thảo luận.Bạn đã đưa ra khá nhiều khái niệm. Nhưng khái niệm chủ chốt là Chân Tâm và Phật Tánh. Khi hai khái niệm này được lĩnh hội thì những vấn đề còn lại tự động được hiểu.
VNBN chưa muốn viết luận điểm của VNBN.
Nay VNBN xin hỏi tiếp bạn:
1. Thí dụ như Phật Thích Ca Và Phật A Di Đà thì chỗ nào quy định đó là Phật Thích Ca, đó là Phật A Di Đà? Tại sao hai Phật ấy là bình đẳng với nhau không hơn không kém?
2. Trong suốt quá trình duyên pháp, mỗi khi bạn tạo nhân thì chính bạn sẽ lãnh quả báo. Tại sao như vậy? Do cái gì làm nên việc bảo tồn nhân - quả của riêng bạn?
3. Bạn nói: Phật Tánh là khả năng giác ngộ của tất cả chúng sinh, vốn là Phật. Phật Tánh là khả năng nhận biết được bản chất vô ngã của vạn pháp, khả năng giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Vậy thì Phật Tánh thuộc về loài hữu tình hay loài vô tình?
Một vị A LA HÁN tuy giải thoát luân hồi sanh tử nhưng tại sao Phật chê trách rằng vẫn chưa hiểu rõ Phật Tánh?
Vậy, lịch sử duyên pháp của một vị Phật là quá trình từ mê mờ đến giác ngộ, từ chúng sinh thành Phật. Quá trình này trải qua bốn giai đoạn:
Giai đoạn 1: Vô minh (Mê mờ)
Trong giai đoạn này, Chân Tâm bị vô minh che lấp, chúng sinh không nhận ra bản chất chân thật của mình. Chúng sinh lầm tưởng mình là những thực thể riêng biệt, có sinh có diệt, có khổ có vui. Do đó, chúng sinh tạo nghiệp, luân hồi trong sinh tử.
Giai đoạn 2: Nhận thức
Khi có duyên lành, chúng sinh bắt đầu nhận thức được sự vô ngã của vạn pháp, từ đó sinh khởi tâm chán nản sinh tử luân hồi. Chúng sinh bắt đầu tìm kiếm con đường giải thoát.
Giai đoạn 3: Tu tập
Chúng sinh bắt đầu tu tập theo giáo pháp của Đức Phật, đoạn trừ vô minh, phiền não, chứng ngộ Chân Tâm. Quá trình tu tập này có thể trải qua nhiều kiếp, tùy theo căn cơ của mỗi chúng sinh.
Giai đoạn 4: Giác ngộ
Khi vô minh được đoạn trừ hoàn toàn, chúng sinh chứng ngộ Chân Tâm, trở thành Phật. Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn, không còn luân hồi sinh tử.
Về vấn đề có người cho rằng, khi là chúng sanh thì họ luôn là loài hữu tình (động vật,người, trời, ,,, hữu tri) không bao giờ là loài vô tình (đất đá,... vô tri)?
Dưới con mắt phàm phu, một hạt cải nhỏ bé chỉ là một vật vô tri, vô tình, không có gì đặc biệt. Tuy nhiên, dưới con mắt của Phật, hạt cải lại là một biểu hiện của sự vô lượng vô biên của vũ trụ. Trong hạt cải nhỏ bé ấy, chứa đựng tất cả các pháp, tất cả các thế giới, tất cả chúng sinh.
Hiii, VNBN lại hỏi:
4. Theo như bạn nói ở giai đoạn 1. Điều này có nghĩa là khi là chúng sanh, thì vị Phật ấy luôn luôn là hữu tình, không bao giờ là vô tình chúng sanh, tức là không có giai đoạn trước khi làm hữu tình?
Như bạn nói: hữu tình, vô tình đều có Chân Tâm nhưng bạn lại nói rằng Chân Tâm lại bắt đầu duyên pháp với hữu tình, tại sao lại có sự thiên vị như thế?
Câu 1:
Phật Tánh là bản chất chân thật của tất cả chúng sinh, vốn là vô ngã. Phật Tánh là khả năng giác ngộ, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Phật Thích Ca và Phật A Di Đà đều có cùng Phật Tánh. Phật Tánh là bình đẳng, không có hơn kém.
Cái gọi là Phật Thích Ca hay Phật A Di Đà là do bạn phân biệt dựa trên hình tướng, danh hiệu, v.v. Những thứ này chỉ là hiện tượng, không phải là bản chất.
Câu 2:
Trong suốt quá trình duyên pháp, mỗi khi chúng ta tạo nhân thì chính chúng ta sẽ lãnh quả báo. Điều này là do luật nhân quả.
Luật nhân quả là một quy luật khách quan, không thể thay đổi. Nhân nào quả nấy, không sai chạy.
Sự bảo tồn nhân - quả của riêng mỗi người là do nghiệp lực. Nghiệp lực là lực lượng của hành động, quyết định sự tái sinh của chúng ta.
Nghiệp lực được tạo ra bởi những hành động của chúng ta trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Những hành động này bao gồm cả thân, khẩu, ý.
Những hành động thiện tạo ra thiện nghiệp, dẫn đến quả báo tốt. Những hành động ác tạo ra ác nghiệp, dẫn đến quả báo xấu.
Câu 3:
Phật Tánh là khả năng giác ngộ, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Khả năng này vốn có ở tất cả chúng sinh, không phân biệt hữu tình hay vô tình.
Vì vậy, Phật Tánh không thuộc về loài hữu tình hay loài vô tình.
Một vị A La Hán tuy giải thoát luân hồi sanh tử nhưng vẫn chưa hiểu rõ Phật Tánh là vì vị ấy chưa chứng ngộ được bản chất vô ngã của vạn pháp.
Vị A La Hán chỉ giải thoát khỏi sinh tử luân hồi ở cấp độ tương đối, chưa giải thoát khỏi sinh tử luân hồi ở cấp độ tuyệt đối.
Câu 4:
Theo quan điểm Phật giáo, tất cả chúng sinh, dù là hữu tình hay vô tình, đều có Chân Tâm. Chân Tâm là bản chất chân thật của tất cả chúng sinh, vốn là vô ngã.
Tuy nhiên, Chân Tâm của chúng sinh có thể bị vô minh che lấp. Khi vô minh che lấp, chúng sinh không nhận ra được bản chất chân thật của mình, không có khả năng giác ngộ.
Vì vậy, chúng sinh thường trải qua nhiều kiếp luân hồi, sinh ra trong các loài hữu tình.
Khi vô minh được đoạn trừ, Chân Tâm được hiển lộ, chúng sinh chứng ngộ được Phật Tánh, trở thành Phật.
Vì vậy, có thể nói rằng Chân Tâm bắt đầu duyên pháp với hữu tình, nhưng thực chất Chân Tâm vốn là vô ngã, không có phân biệt hữu tình hay vô tình.
Câu 5:
Như đã giải thích ở trên, Chân Tâm là bản chất chân thật của tất cả chúng sinh, vốn là vô ngã.
Vì vậy, không có giai đoạn nào mà Chân Tâm là vô tình. Chân Tâm luôn luôn là vô ngã, dù là ở trong loài hữu tình hay loài vô tình.
Sự phân biệt hữu tình hay vô tình chỉ là do bạn phân biệt dựa trên hình tướng, danh hiệu, v.v. Những thứ này chỉ là hiện tượng, không phải là bản chất.
Có thể nói, Chân Tâm là vô ngã, không có phân biệt, không có thiên vị.