Liên Tông Bảo Giám

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>
qpba.jpg

<BR><B>LIÊN TÔNG BẢO GIÁM</B>
Đại Sư Ưu Đàm
Thích Minh Thành, dịch
Nhà xuất bản Phương Đông
<BR><B>LỜI NGỎ</B><CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng sinh vốn sẵn đủ trí tuệ, đức tướng của Như Lai, nhưng vì mê lầm lãng quên tánh biết sáng suốt nơi chính mình, chạy theo vọng tưởng trần lao, gây tạo các thứ nghiệp nên luân hồi trong sáu nẻo. Làm nghiệp lành thì sinh nơi cõi A tu la, Người, Trời; gây nghiệp ác thì đọa vào Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục. Rốt cuộc, chỉ là khổ thôi!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật từ bi vô hạn, xuất hiện nơi đời, chỉ dạy vô lượng pháp môn để cứu thoát chúng sinh đang chìm đắm trong biển khổ sinh tử mênh mông, đặt để lên bến bờ Niết bàn an vui giải thoát.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp môn tuy nhiều nhưng tìm một pháp ổn thỏa, thẳng tắt, thích hợp mọi căn cơ thì không gì hơn niệm Phật. Trên từ hàng Bồ tát Đẳng giác, dưới đến kẻ phàm phu dẫy đầy phiền não, đều tin tưởng hướng về. Pháp tu này, người trí quyết tâm niệm Phật hiện đời vào sâu Tam muội, kẻ ngu chỉ cần mười niệm thành công về nơi chín phẩm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nên, bao đời chư vị Tổ sư, Cao tăng, Đại đức, trước tác soạn thuật, hoằng dương Tịnh độ, sách luận rất nhiều, nhằm để nối tiếp tâm nguyện Phật, dẫn dắt muôn loài đồng về cõi Tịnh. Trong đó, quyển Liên Tông Bảo Giám do Đại sư Ưu Đàm soạn thuật được xem là chiếc thuyền lớn của việc xiển dương Tịnh nghiệp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sách này là chiếc gương quý báu soi sáng cho người niệm Phật, khiến ai nấy đều thấu rõ đường lối tu hành, nhận chân được giá trị lớn lao của pháp môn Tịnh Độ, phá tan mê lầm, bỏ tà về chánh, chống đỡ ngôi nhà Phật pháp trong lúc nguy nan, xua tan mây mù u ám, để mặt trời trí tuệ Phật soi sáng muôn nơi, chúng sinh đều thấm nhuần mưa pháp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôi lúc mới vào đạo, đã xem qua <I>Mấy Điệu Sen Thanh</I> do Hòa Thượng Thiền Tâm phiên dịch nên biết được đại khái phần nào giá trị của bộ <I>Liên Tông Bảo Giám</I>. Vả lại, nhận thấy tài liệu về Tịnh Độ ở Việt Nam chưa nhiều, nơi lòng ấp ủ tâm nguyện mong muốn góp sức vào việc phiên dịch để phổ biến. Vào năm 2002, nhân lúc an cư tại trường Hạ chùa Bửu Liên (Quận Bình Thạnh), tôi gặp thầy Minh Thành, được biết thầy thông thạo về Hán cổ nên mong thầy phát tâm chuyển ngữ những bộ sách Tịnh Độ trong Hán tạng sang Việt văn. Từ đó, các huynh đệ đồng lòng góp sức, những dịch phẩm lần lượt ra đời. Đến khi có được trong tay bộ <I>Liên Tông Bảo Giám</I> bằng chữ Hán, chúng tôi quyết tâm phiên dịch sang tiếng Việt nhằm đem lại lợi ích rộng sâu cho người tu Tịnh nghiệp. Thời gian trải qua ba năm, lúc hoàn thành, tôi cầm bản thảo xem đi xem lại năm bảy lượt, nơi lòng dâng tràn niềm cảm xúc sâu xa khi đọc đến đoạn: <I>"Đời vua Nguyên Thành Tông, xuất hiện nhóm người mạo danh Liên tông, làm điều tà vạy, bẻ cong chánh pháp, gây loạn trong nước. Triều đình ban chiếu chỉ nghiêm cấm Liên tông hoằng hóa. Đại sư Ưu Đàm đem hết tâm tư soạn thuật mười quyển Liên Tông Bảo Giám, kính cẩn tự phát tâm lập nguyện, y theo số chữ trong ấy, mỗi chữ lạy ba lạy, mỗi lạy tụng tâm chú Lăng Nghiêm một lần, xưng tôn hiệu Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát ba lần. Ngài tha thiết mong chư Phật xót thương gia hộ, khiến cho tà ma ngoại đạo quy y, chân thừa được lưu bố rộng rãi. Sau đó, Ngài đích thân lên kinh đô, vượt đường xa ngàn dặm, không ngại gian khổ, đem sách này dâng lên Hoàng đế. Nhà vua xem xong khen ngợi, bãi bỏ lệnh cũ, cho phép in ấn lưu hành rộng rãi"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thật tôn kính biết bao! Đại sư Ưu Đàm ý chí ngất trời, dùng mắt tuệ viết nên sách này, tâm thành cùng cực, vì pháp quên cả thân mạng, quyền uy không khiếp phục, dốc sức mở bày chánh pháp, dẫn dắt mọi người đồng về nẻo giác. Với tâm này, nên Sư mới đạt thành chí nguyện như thế!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng tôi chỉ mong những ai có duyên đọc qua, hoặc thấy hoặc nghe, bao người tu tập pháp môn Tịnh Độ đều là bạn sen thân thiết với chúng tôi, cùng nhau quyết tâm tu hành, dốc sức niệm Phật không thối chuyển, để đền đáp phần nào công ơn sâu nặng của Phật, Tổ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dịch phẩm hoàn thành dưới sự chứng minh của Hòa Thượng thượng Trí hạ Tịnh (viện chủ chùa Vạn Đức), sự tận tâm giúp đỡ của Đại Đức Thích Chân Tính (Trụ trì chùa Hoằng Pháp) cùng chư pháp hữu Đại Đức Tâm Huệ, Phật tử Tâm Hoa, Hoằng Trạng... biết bao tấm lòng vì sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh nên công việc sớm được thành tựu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong khi phiên dịch, không sao tránh khỏi sai lầm sơ thất, mong chư tôn đức niệm tình chỉ dạy cho. Thành kính tri ân vô lượng!
<P align= "right">Chùa Huệ Viễn, 14/10/2008
Thích Pháp Đăng kính ghi</I>
<CENTER><B>ĐẠI SƯ ƯU ĐÀM</B> (? – 1330)</CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại sư Ưu Đàm, người đời Nguyên, họ Tưởng, quê ở Đơn Dương, gia thế thường thờ Phật. Mười lăm tuổi, Ngài xuất gia nơi chùa Đông Lâm ở Lô Sơn, tỉnh Giang Tây. Về sau, được mời trụ trì chùa Diệu Quả tại Đơn Dương.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm đầu thời Nam Tống (1127), ngài Từ Chiếu sùng mộ di phong Bạch Liên Xã<SUP><B>(1)</B></SUP> của Tổ Huệ Viễn, nên đề xướng thành lập một đoàn thể chuyên tu niệm Phật cho những người dân thường, gọi tên Bạch Liên Tông<SUP><B>(2)</B></SUP> (tên gọi khác của Tịnh Độ Tông). Nhưng vì đệ tử Ngài là Xà Lê Tiểu Mao bóp méo giáo lý, khiến cho cuối đời Tống, tông này bị cho là tà đạo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đến đời Nguyên, lại có một hội tên Bạch Liên do Đỗ Vạn Nhất ở huyện Đô Ấp, tỉnh Giang Nam thành lập, bị triều đình xem là loạn tặc nên đàn áp, đồng thời ngăn cấm không cho gọi tên Bạch Liên Hội và tất cả việc tà đạo làm rối loạn nước nhà. Đứng trước tình thế này, năm đầu niên hiệu Đại Đức (1305), đời vua Nguyên Thành Tông, Đại sư Ưu Đàm đem hết tâm tư soạn thuật mười quyển <I>Liên Tông Bảo Giám</I>, làm rõ giáo nghĩa chân thật của Liên tông do ngài Từ Chiếu đề xướng, đồng thời phá dẹp tà thuyết, tà hạnh của Bạch Liên Hội đương thời.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm đầu niên hiệu Chí Đại (1308), do Bạch Liên Đạo Nhân thuộc Bạch Liên Đường ở tỉnh Phước Kiến làm việc sai quấy, vua lại xuống chiếu bãi bỏ Liên tông. Đại sư Ưu Đàm đích thân đến kinh đô dâng sách này lên Hoàng Đế Nhân Tôn, cầu xin phục hưng giáo pháp Tịnh Độ. Vua xem xong bèn chuẩn y và cho phép in ấn lưu hành, dạy Ngài làm giáo chủ, ban cho hiệu Hổ Khê Tôn Giả.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm đầu niên hiệu Thuận Hóa (1330), Đại sư an tường ngồi niệm Phật vãng sinh.
<P align="right">Theo <I>Mấy điệu Sen Thanh,
Phật Quang Đại Từ Điển</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) <B>Bạch Liên Xã</B>: nói đủ là Bạch Liên Hoa Xã, gọi tắt là Liên Xã, là đoàn thể niệm Phật do ngài Huệ Viễn đời Đông Tấn sáng lập, nay trở thành tên gọi chung cho các đoàn thể thuộc loại này. Năm Thái Nguyên thứ 9 (384), ngài Huệ Viễn đến Lô Sơn, ở chùa Đông Lâm tại Hổ Khê, tăng tục từ bốn phương quy tụ về đây cầu đạo. Niên hiệu Nguyên Hưng năm đầu (402), vào tháng bảy, Huệ Vĩnh, Huệ Trì, Đạo Sinh, Lưu Di Dân, Tôn Bính, Lôi Thứ Tông v.v... gồm 123 người, tụ họp lại tại chùa Đông Lâm, trước tượng Phật Vô Lượng Thọ trên đài Bát Nhã, kiến trai lập thệ, chuyên tu niệm Phật Tam Muội, nguyện cầu vãng sinh Tây Phương. Vì trong ao chùa trồng nhiều sen trắng, lại cũng vì đoàn thể nguyện cầu sinh cõi sen trắng, cho nên gọi là Bạch Liên Xã. Về sau, người đến theo tu mỗi ngày một nhiều, mở đầu sự hưng thịnh của Tịnh Độ giáo, đặc biệt được thịnh hành vào cuối đời Đường, đầu đời Tống. Mỗi khi kết hợp những người cùng chí hướng để dựng đạo tràng Tịnh độ, chuyên tu Tịnh nghiệp, thì lại lấy ngài Huệ Viễn làm vị thỉ tổ của Liên Xã, lấy kinh Ban Chu Tam Muội làm tư tưởng chủ yếu cho Liên Xã niệm Phật, lấy việc thấy Phật vãng sinh làm mục đích. Niên hiệu Chí Đại năm đầu (1308) đời Nguyên, Liên Xã bị cấm. Thời ấy, Ưu Đàm Phổ Độ (?-1330) ở chùa Đông Lâm, dâng mười quyển <I>Lô Sơn Liên Tông Bảo Giám</I> xiển minh ý chỉ của Liên tông, bèn được giải tỏa, đồng thời, chịu mệnh vua, Ưu Đàm làm giáo chủ. Về sau, trải qua các đời Minh, Thanh đến nay, vẫn còn có những người kết đoàn niệm Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) <B>Bạch Liên Tông</B>: một phái thuộc tông Tịnh độ của Phật giáo Trung Quốc, do Mao Tử Nguyên sáng lập vào đầu năm Thiệu Hưng đời Cao Tông triều Nam Tống. Tử Nguyên còn gọi là Từ Chiếu Tử Nguyên, lúc đầu thờ ngài Tịnh Phạm ở chùa Diên Tường, Ngô Quận làm thầy, học giáo nghĩa Thiên Thai, tập thiền pháp chỉ quán. Nhân hâm mộ di phong lập Bạch Liên Xã của ngài Huệ Viễn đời Đông Tấn nên khuyên nhủ sĩ dân quy y Tam Bảo, giữ năm giới, niệm Phật A Di Đà năm tiếng để chứng năm giới, biên thành <I>Liên Tông Thần Triêu Sám Nghi</I> (nghi thức sám hối buổi sớm mai), thay cho pháp giới chúng sinh lễ Phật sám hối, cầu nguyện chúng sinh vãnh sinh Tịnh Độ. Sau đến Hồ Điển Sơn ở Bình Giang (nay ở phía Tây huyện Thanh Phố, tỉnh Giang Tô, phía Nam huyện Côn Sơn) sáng lập Bạch Liên Sám Đường, tự xưng là Bạch Liên Đạo Sư, tu Tịnh nghiệp, soạn <I>Viên Dung Tứ Độ Tam Quán Tuyển Phật Đồ</I>, đề xướng nghĩa mới bèn thành lập một phái. Thời đó, có người chê bai cho là Sư thờ ma, Sư mới dời đến Châu Giang (huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây), song vẫn khuyến hóa xa gần, không hề mệt mỏi. Năm Kiến Đạo thứ hai (1166) đời Hiếu Tông nhà Nam Tống, Sư vân mệnh vua, vào điện Đức Thọ diễn thuyết về pháp môn Tịnh Độ, được ban hiệu là từ Chiếu Tông Chủ. Không bao lâu, Sư lại về Bình Giang, lấy Phổ Giác Diệu Đạo làm nên tông, chủ trương Thiền Tịnh nhất trí, Di Đà tức là bản tánh của chúng sinh, Tịnh Độ tức ở trong tâm chúng sinh, chỉ cần Tín, Nguyện niệm Phật thì dù chẳng dứt được phiền não, chưa bỏ duyên đời, không tu thiền định, sau khi mệnh chung cũng có thể được vãng sinh Tịnh Độ. Trước tác có: <I>Di Đà Tiết Yếu, Pháp Hoa Bách Tâm, Kệ Ca Tứ Cú, Phật Niệm Ngũ Thanh, Chứng Đạo Ca, Phong Nguyệt Tập</I>... một thời tông phong đại thịnh.</P>
</span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER><B>LỜI TỰA</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong pháp giới tánh chân thật, chúng sinh và chư Phật bình đẳng, không đồng không khác. Nơi tâm sáng suốt nhiệm mầu, ô nhiễm và thanh tịnh dung nhau, chẳng phải một, chẳng phải hai. Thế nên, mỗi hạt bụi đều là Tịnh Độ, phương khác và cõi này đồng là thế giới Cực Lạc; mỗi niệm đều là Di Đà, bò, bay, máy, cựa đồng là Pháp thân chư Phật. Nhưng vì tình cảm phát sinh nên trí tuệ bị ngăn cách, tư tưởng vừa biến hiện thì bản thể đã sai khác. Tâm theo sự dời đổi sinh trụ dị diệt, nên cảnh có cao thấp, hầm hố, gò nổng. Thế nên, cõi nước thanh tịnh hay thế giới cấu uế, đau khổ và an vui có khác biệt. Chúng sinh và chư Phật, phàm Thánh không đồng, nên dẫn đến sáu nẻo mịt mù, trôi lăn trong chín cõi. Bốn loài lũ lượt thăng trầm nơi ba đường, từ mê vào mê, từ khổ đến khổ, trải qua số kiếp nhiều như cát bụi cũng không có ngày giải thoát.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do vậy, đức Phật mở môn phương tiện dạy về Niệm Phật Tam Muội, chỉ rõ Tịnh Độ làm nơi trở về. Bảo rằng Niệm Phật Tam Muội<SUP><B>(3)</B></SUP>, Phật nghĩa là bậc Giác ngộ. Tự mình giác ngộ, lại giác ngộ cho người, thực hành hạnh giác ngộ viên mãn, nên gọi là Phật, ví như người ngủ tỉnh giấc, như hoa sen nở.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì muốn cho chúng sinh tự soi sáng lại mình, được tịnh niệm tiếp nối, lâu ngày thuần thục dứt trừ hết mọi mê lầm và nghiệp chướng. Một niệm không sinh thì đoạn dứt mé trước sau. Tỏ ngộ tánh giác này, thì bên trong không có tâm hay niệm, bên ngoài không có cảnh được niệm; năng sở đều quên, chúng sinh với Phật không hai, cho nên gọi là niệm Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tiếng Phạn Tam Muội, nghĩa là chánh định, là nhớ chuyên, tưởng lặng, thần trí sáng suốt nhiệm mầu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong kinh nói: <I>"Nếu có người niệm Phật, nên biết đó là hoa sen trắng trong loài người"</I>. Tổ sư Huệ Viễn thời Đông Tấn, nhân nghe Pháp sư Đạo An giảng kinh Bát Nhã mà hoát nhiên đại ngộ, vào trong vô lượng Tam Muội thâm sâu. Ngài đến Lô Sơn dạo cảnh và về sau ở lại đó, cùng với các cao tăng, triều sĩ kết duyên tu hành. Ngài từng nói: <I>"Những tên gọi của Tam Muội trong giáo pháp có rất nhiều, nhưng công đức cao dễ tiến tu, niệm Phật đứng đầu"</I>. Nhân đó, đặt tên cho xã là Bạch Liên. Ngài Huệ Viễn bèn trước tác lời tựa của quyển <I>Niệm Phật Tam Muội</I>. Đây vốn là để xiển dương nghĩa lý này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại sư Trí Giả ở Thiên Thai phân định giáo pháp, bảo rằng: "Kinh Quán Vô Lượng Thọ là <I>giáo lý chân thật sau cùng của Đại thừa, dùng ba pháp quán lóng lặng tâm tư</I>". Đây vốn là để hiển bày yếu chỉ của niệm Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôn giả Pháp Chiếu lễ Bồ tát Văn Thù cầu chỉ dạy, vốn là để chỉ dạy pháp này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiền sư Tỉnh Thường kết duyên tịnh hạnh. Tể tướng, công khanh quy hướng cùng tu hành, vốn là tu về đạo này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiền sư Trường Lô Sách kết Liên Hoa Thắng Hội, cảm ứng hai vị Bồ tát Phổ Hiền và Phổ Tuệ vào hội. Đây vốn là để chứng minh đạo này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tông chủ Từ Chiếu do sức bản nguyện thị hiện nơi thế gian, phát tâm hóa độ rộng lớn, dẫn chúng sinh từ nơi quyền biến đi đến chỗ chân thật, tùy cơ giáo hóa. Đây vốn là muốn khiến cho các hạng căn cơ bén nhạy và chậm lụt đều tỏ ngộ đạo này. Ngài biên tập <I>Bạch Liên Sám</I>, mở ra họa đồ bốn cõi, lấy Tín, Nguyện, Hạnh làm tư lương, lấy Giới, Định, Tuệ làm chính yếu. Đây vốn là để thiết lập Chánh tông của pháp niệm Phật này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vua Tống Cao Tông đích thân đề xướng hai chữ Liên Xã. Đây vốn là tôn sùng pháp môn này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiền sư Viên Ứng Nhật ở Đông Nham Thiền Tự được Hoàng Đế ban Thánh chỉ: "Trụ trì đạo tràng, sửa sang chùa chiền, biên tập truyện của các bậc Hiền, noi theo gương xưa chấn chỉnh lại giềng mối, bắc chiếc cầu đại pháp, gọi là Tông Viễn (noi theo Tổ sư Huệ Viễn), khai mở đạo Tổ". Mười tám năm ngoài việc đề xướng kinh pháp thiền, Ngài thường lấy pháp Niệm Phật Tam Muội chỉ dạy Người, Trời. Đến mùa thu, năm Nhâm Thìn (1292), niên hiệu Chí Nguyên đời Nguyên, nhận lời mời của Quảng Lợi Thiền Tự ở núi Dục Vương, phủ Khánh Nguyên, nhường đạo tràng Khai Tiên lại cho Thiền sư Duyệt Đường Ngân tiếp nối trụ trì.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tháng giêng năm đầu niên hiệu Nguyên Trinh, lại có Thánh chỉ ra lệnh hộ trì giáo pháp ở Liên Tông Thiện Pháp Đường. Tháng giêng năm thứ hai (1295), niên hiệu Nguyên Trinh (1295) đời Nguyên, được nhà vua ban hiệu là Đại sư Thông Tuệ Chánh Tông Liên Xã, lại còn được ban tặng ca sa kim tuyến. Vào tháng mười, năm thứ năm, niên hiệu Đại Đức (1301) đời Nguyên, khâm phụng Thánh triều. Nhà vua ban ngự hương, phan vàng đến chùa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từ đời Tấn đến nay gần một ngàn năm, cảm ân đức này, phương xa cõi khác, hoặc hiền hoặc ngu đều theo sự giáo hóa, mọi người đồng lòng niệm Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngưỡng chúc Hoàng Đế thánh thọ vạn an, thiên hạ thái bình, pháp luân thường chuyển, đất nước an lạc tợ thời vua Nghiêu, vua Thuấn. Ngay nơi cõi này trở thành thế giới Cực Lạc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ưu Đàm này lạm dự vào dòng họ Thích, mà không lợi ích cho Phật pháp. Từng thấy những người tu học theo Liên tông<SUP><B>(4)</B></SUP>, nhưng chưa am tường tông chỉ của pháp niệm Phật, bỏ gốc theo ngọn, chấp tướng tu hành. Chánh nhân Tịnh nghiệp dường như mất hết, đều là những người ôm báu vật quên mất cố hương, trái với chân thật, hướng theo giả dối. Những người tu theo pháp này rất nhiều, người đủ chánh kiến chẳng có mấy ai, đến nỗi khiến cho những kẻ thượng mạn xem thường đạo Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thật đáng buồn thay! Cách xưa đã xa, người tu trong giáo pháp lâu dần sinh tệ. Chánh đạo càng suy yếu, tà pháp ngày thêm mạnh mẽ. Mọi người phần nhiều hiểu biết sai lầm, đi vào đường tà. Họ chẳng suy xét một môn Tịnh độ chính là đường tắt ra khỏi luân hồi. Pháp môn này thẳng như dây đàn, sáng tợ vầng nhật. Yếu chỉ ở nơi kinh sám, nếu không gặp minh sư chỉ dạy thì giống như đám người mù rờ voi. Ai nấy đều nói sai khác, từ tối vào nơi tối, mãi bị tà kiến ràng buộc. Thật đáng tiếc thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hôm nay, may mắn gặp được nhà vua có tâm Phật, dùng chánh pháp sửa trị đời. Kịp lúc vua tôi gặp gỡ, Phật pháp được lưu thông. Đâu không dùng pháp môn Niệm Phật Tam muội của Tổ sư chỉ bảo Người, Trời, làm mắt sáng cho tương lai, khiến cho mọi người đồng ngộ nhập Tri kiến Phật. Tôi bèn chuyên tâm nơi Tịnh Độ, tìm xét chỗ xâu xa của giáo nghĩa Liên tông thuở trước, biên tập những lời thiết yếu gọi là Bảo Giám (chiếc gương quý báu), để soi sáng chân ngụy, gồm mười thiên:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>1. Chánh nhân niệm Phật</B>: nghĩa là vào nhà ắt từ nơi cánh cửa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>2. Chánh giáo</B>: chỉ bảo pháp môn niệm Phật có tiệm, thiên, đốn, viên, khiến người tiến tu tùy theo căn cơ về nơi chí đạo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>3. Chánh tông</B>: khai thị về đạo lý chánh tâm Niệm Phật Tam-muội, khiến cho người tu tập hiểu rõ tông chỉ, thấu suốt cội gốc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>4. Chánh phái</B>: vốn nói rõ chỗ gốc ngọn đắc đạo của Phật Tổ cùng các bậc tông sư, muốn giúp cho hàng hậu học biết có cội nguồn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>5. Chánh tín</B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>6. Chánh hạnh</B>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>7. Chánh nguyện</B>: khiến cho mọi người tin chánh pháp, tu chánh hạnh, phát chánh nguyện cầu sinh về Tây Phương.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>8. Chánh quyết vãng sinh</B>: vốn nói rõ con đường vãng sinh Tịnh độ lúc lâm chung.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>9. Chánh báo</B>: trình bày rõ công đức trang nghiêm của Y báo, Chánh báo nơi Tịnh độ do tu hành đạt được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>10. Chánh luận</B>: dẫn những lời chân thành của chư Phật để phá dẹp sự chấp trước sai lầm tà vạy, khiến cho mọi người sửa ác làm lành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ở đây chẳng dám nói hỗ trợ tông phong, chỉ là giúp ích cho người chưa nghe mà thôi. Mong muốn người có tâm cong vạy trở nên ngay thẳng, đổi tà thành chánh, dứt trừ nghi ngờ, người mê được ngộ. Mọi người khắp trên thế gian trong một niệm đều được Niệm Phật Tam muội, cùng chứng ngộ Bồ đề. Như thế, chẳng phải là lợi ích rộng lớn lắm sao!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xin người tu Tịnh nghiệp mở lòng từ bi xem thử một lần, thấy nghe tùy hỉ, tán thán phụ giúp lưu thông. Còn như một câu: "Khi Phật Tổ chưa ra đời" thì xin để mắt nhìn cao hơn!
<CENTER><I>Ngày Phật Di Đà đản sinh.
Năm Ất Tỵ, niên hiệu Đại Đức thứ 9 (1305), ở Liên Tông Thiện Pháp Đường,
Đông Lâm Thiền Tự tại Lô Sơn, Giang Châu
Ưu Đàm kính ghi</I></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) <B>Niệm Phật Tam Muội</B>: Tam muội quán niệm đức của Phật hoặc xưng danh hiệu Phật, tức là loại thiền định lấy niệm Phật làm nội dung quán tưởng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Niệm Phật Tam Muội được chia làm hai loại:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. <I>Nhân hành niệm Phật Tam Muội</I>: Nhất tâm quán tưởng tướng hảo của Phật, hoặc nhất tâm quán tưởng thật tướng của pháp thân Phật, cả hai đều là quán tưởng niệm Phật. Trái lại, nhất tâm xưng niệm danh hiệu của Phật, thì gọi là xưng danh niệm Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. <I>Quả thành niệm Phật Tam Muội</I>: Ba loại nhân hành nói trên được thành tựu, như trong thiền định được thấy thân Phật hiện tiền. Nhân hành niệm Phật Tam Muội là "tu", quả thành niệm Phật Tam Muội là "phát được".
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) <B>Liên tông</B>: cũng gọi là Liên môn, tức là tông Tịnh Độ. Tông này bắt nguồn từ Bạch Liên Xã (hội sen trắng) do ngài Huệ Viễn sáng lập ở chùa Đông Lâm, Lô Sơn, Trung Quốc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bài tựa trong Liên Tông Bảo Giám của ngài Ưu Đàm Phổ Độ nói: "Tổ Huệ Viễn đời Đông Tấn đến Lô Sơn, kết duyên tu hành cùng với các vị cao tăng và danh sĩ triều đình. Ngài nói rằng có rất nhiều tên của Tam Muội trong các pháp môn, nhưng công hạnh cao mà dễ tiến thì chỉ có pháp môn niệm Phật là đứng đầu, vì thế, Ngài lập ra Bạch Liên Xã, chuyên niệm Phật cầu vãng sinh".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hoa sen tượng trưng cho y báu của cõi Cực Lạc Tịnh độ, vì thế, tông Tịnh độ cũng còn có tên là Liên tông.</P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size: 16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER><B>LIÊN TÔNG BẢO GIÁM</B>
QUYỂN MỘT
<BR>THIÊN THỨ NHẤT
<B>CHÁNH NHÂN NIỆM PHẬT</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từng nghe: trong hằng hà sa số các đức Như Lai, thì Di Đà là bậc nhất. Mười phương vi trần cõi Phật, thế giới Cực Lạc chính là chốn trở về. Lý cùng tột vốn chỉ nơi tâm, nhưng môn ban đầu phải từ nơi nhân địa. Nên biết, cội cây to lớn phát sinh từ mầm chồi nhỏ bé, hành trình ngàn dặm bắt đầu từ một bước ban sơ. Nếu muốn vượt qua sinh tử, nên lấy Tịnh Độ làm phương hướng trở về; muốn chứng Niết bàn, phải lấy niệm Phật làm trọng yếu để tâm trở nên chân chánh. Xét kỹ thì tin sâu Cực Lạc thật là cánh cửa nhiệm mầu của sự giải thoát, Phật Di Đà thật là bậc cha lành của chúng sinh. Trước nói rõ về chỗ cứu cánh nên nhìn về quả để tu nhân; đi dần trên con đường diệu huyền là từ nhân đến qua. Thế nên biết, việc hội tụ các bậc Hiền để kết Liên Xã là có ý chỉ. Chuyên niệm Phật để khuyên người cốt làm hưng thịnh giáo pháp. Nhân trùm biển quả, quả suốt nguồn nhân; hình thẳng tất bóng ngay, âm thanh hòa tự nhiên tiếng vang thuận.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bồ tát Thế Chí trình bày chỗ cốt yếu của sự chứng ngộ Viên thông. Đức Thế Tôn thì nói về nhân tu Tịnh nghiệp từ nơi nghe, tư duy, tu tập mà vào chánh định; nhờ nơi lòng tin, thực hành, phát nguyện mà vào cửa pháp giới. Do đó, một niệm hưng khởi muôn loài đều biết, lòng tin phát sinh thì chư Phật hiện tiền. Vừa xưng Hồng Danh, tức đã gieo giống nơi thai sen; mới phát tâm Bồ đề, liền nêu danh nơi Kim địa. Có duyên gặp gỡ, nên tự ngộ tự tu, còn như tin cạn chẳng thọ trì thì thật là sai lầm rất lớn! Thế nên nói, cùng tột của Nhất thừa là đạt đến Lạc bang; tu vạn hạnh vẹn toàn, chỉ có xưng niệm Phật hiệu là hơn hết. Nghiệp nặng nề trong tám mươi ức kiếp, rỗng thênh tan thành mây khói; phương trời xa xăm cả mười muôn ức cõi, trong khoảng chớp mắt đến ngay. Tưởng niệm chuyên chú, ngay nơi tâm quán tưởng thấy thân Phật, tâm cảnh dung thông, ngay nơi nhân thành tựu quả thù thắng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cõi Tịnh Uế trong mười phương, mở ra và cuốn lại đồng ở nơi đầu sợi lông. Một tánh bao dung mênh mông trùm khắp cả pháp giới. Thế nên, chư Phật và chúng sinh thông suốt lẫn nhau; Tịnh Độ và Uế Độ thầm dung hội, kia đây đều tu, Sự Lý vô ngại. Giống như thần châu hàm chứa mọi báu vật, giống như mạng lưới của Đế Thích phản chiếu qua lại muôn ngàn tia sáng. Tâm ta đã vậy, tâm chúng sinh cùng chư Phật cũng thế.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nên biết, thần thức dạo nơi muôn ức cõi nước, nhưng thật ra sinh trong tâm của chính mình; tuy gởi chất nơi chín phẩm sen, mà đâu ra khỏi sát na khoảnh khắc. Do đó, bậc hiền Nhị thừa vừa xoay tâm trở lại, được đến Liên trì; phàm phu tạo tội Ngũ nghịch<SUP><B>(5)</B></SUP>, chỉ trong mười niệm liền lên Bảo địa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Than ôi! Chúng sinh tâm thức mờ mịt, nghiệp chướng nặng nề, tin ít nghi nhiều, chê Tịnh nghiệp là Quyền thừa, cười trì tụng là thô hạnh. Như thế, há chẳng phải là tham đắm trong nhà lửa, tự cam chịu muôn kiếp đắm chìm trong mê muội, trái nghịch Từ thân. Thật đau đớn xót xa, cả đời trôi suông vô ích!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cần phải tin, nếu chẳng nhờ vào tha lực thì không sao dứt trừ nghiệp chướng mê lầm, không gặp tông này thì chẳng có đường vượt ra sinh tử. Thệ nguyện đồng như chư Phật, noi theo các bậc tiền nhân, khuyến tấn người sau, tôn sùng quý kính đạo này. Đã phát nguyện, nay phát nguyện, sẽ phát nguyện, mỗi việc như thế đều hướng về đức Phật A Di Đà. Hoặc sinh, nay sinh, hay đang sinh, trong từng niệm như thế đều quy hướng về nơi Tịnh Độ. Nếu muốn một đời xong việc thì hãy lưu tâm ở nơi đây. Trong tất cả thời, nghìn xe hợp lối; nơi bốn oai nghi, muôn việc lành đồng về, đều lên cánh cửa nhiệm mầu Cực Lạc, nhanh chóng thành tựu Niệm Phật Tam muội.
<p style="padding-left: 56px;"><I>Một bước ban đầu cần tỏ rõ
Đến thẳng Tây Phương không đường khác.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) <B>Ngũ nghịch</B>: Cũng gọi là ngũ nghịch tội, chỉ cho năm tội cực ác trái với đạo lý.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo thuyết của Tiểu thừa thì năm tội nghịch là:
<p style="padding-left: 56px;">a. <I>Hại mẹ</I>: cũng gọi là giết mẹ.
b. <I>Hại cha</I>: cũng gọi là giết cha.
c. <I>Hại A la hán</I>: cũng gọi là giết A la hán.
d. <I>Ác tâm làm thân Phật ra máu</I>: cũng gọi là làm thân Phật ra máu.
e. <I>Phá Tăng</I>: cũng gọi là phá hòa hợp Tăng, đấu loạn Tăng chúng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong năm tội trên đây, hai tội trước bỏ ruộng ân nghĩa, ba tội sau hủy hoại ruộng đức, vì thế gọi là năm tội nghịch, năm tội nặng. Vì hành vi của năm tội là nguyên nhân làm cho người vi phạm phải rơi vào địa ngục vô gián, nên cũng gọi là năm nghiệp vô gián, gọi tắt là năm vô gián, hoặc năm tội không cứu được.
<CENTER>Chương 1
<B>NHÂN ĐỊA CỦA PHẬT A DI ĐÀ</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <I>Cổ Âm Vương</I> nói: <I>"Trong kiếp quá khứ, có cõi nước tên là Diệu Hỷ, vua tên Kiều Thi Ca. Ông nội là quốc vương Thanh Thái, cha là Chuyển Luân Vương Nguyệt Thượng, mẹ là Thù Thắng Diệu Nhan, sinh ra ba người con. Con trưởng tên Minh Nguyệt, người thứ hai tên Kiều Thi Ca, người thứ ba tên Đế Chúng. Lúc ấy, có đức Phật ra đời hiệu là Thế Tự Tại Vương, Kiều Thi Ca phát đạo tâm, xả bỏ ngôi vua, theo đức Phật xuất gia, hiệu là Tỷ kheo Pháp Tạng".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong kinh <I>Vô Lượng Thọ</I> lại nói: <I>Tỷ kheo Pháp Tạng ở chỗ Phật Thế Tự Tại Vương phát tâm cầu đạo Vô Thượng, tất cả người trong thế gian không ai sánh bằng. Lúc ấy, đức Phật hiển bày hai trăm mười ức cõi nước của chư Phật, xứng theo tâm nguyện của Tỷ kheo Pháp Tạng. Pháp Tạng cúi đầu lễ Phật, phát 48 nguyện rộng lớn, nếu không được như thế, thệ chẳng thành Phật. Bấy giờ, quả đất chấn động, trời mưa diệu hoa, trong hư không đồng thinh tán thán rằng: "Ngài chắc chắn sẽ thành Phật".</I>
<CENTER><B>BỐN MƯƠI TÁM ĐẠI NGUYỆN CỦA PHẬT A DI ĐÀ</B>
Hán dịch: Pháp sư Khương Tăng Khải
Việt dịch: Tỷ kheo Thích Trí Tịnh</CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">1. Giả sử khi tôi được thành Phật, trong cõi nước của tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">2. Giả sử khi tôi được thành Phật, mà hàng Trời, Người trong cõi nước tôi, sau khi mạng chung còn đọa vào ba ác đạo, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">3. Giả sử khi tôi được thành Phật, tất cả thân thể của hàng Trời, Người trong cõi nước tôi, chẳng thuần sắc vàng ròng cả, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">4. Giả sử khi tôi được thành Phật, mà hình sắc của hàng Trời, Người trong cõi nước tôi có tốt xấu không đồng nhau, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">5. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời Người trong nước tôi chẳng biết Túc mạng, ít nhất là biết những việc trong trăm nghìn ức vô số kiếp, tôi nguyện chẳng chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">6. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi chẳng được Thiên nhãn, ít nhất là thấy trăm nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật, tôi nguyện chẳng chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">7. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi chẳng được Thiên nhĩ, ít nhất là nghe lời nói khắp của trăm ngàn ức vô số đức Phật mà chẳng thọ trì trọn vẹn được, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">8. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi chẳng được Tha tâm trí, ít nhất là rõ biết tâm niệm của chúng sinh trong nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">9. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi chẳng được Thần túc thông, trong khoảng một niệm, ít nhất chẳng vượt qua được trăm nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">10. Giả sử khi tôi được thành Phật, nếu hàng Trời, Người trong cõi nước tôi còn sinh lòng tham chấp nơi thân mình, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">11. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi chẳng trụ trong dòng chánh định mãi đến lúc thành Phật, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">12. Giả sử khi tôi được thành Phật, ánh sáng của tôi còn có hạn lượng, ít nhất chẳng chiếu thấu trăm nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">13. Giả sử khi tôi được thành Phật, thọ mạng của tôi còn có hạn lượng, ít nhất là trăm nghìn ức vô số kiếp, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">14. Giả sử khi tôi được thành Phật, có người tính đếm biết được số của hàng Thanh văn trong cõi nước tôi, hoặc giả nhẫn đến tất cả chúng sinh trong cõi Tam thiên Đại thiên đều thành bậc Duyên giác, cùng nhau đồng tính đếm trong trăm nghìn kiếp mà biết được số Thanh văn đó, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">15. Giả sử khi tôi được thành Phật, thọ mạng của hàng Trời, Người trong cõi nước tôi không có hạn lượng, trừ khi họ có bổn nguyện riêng, dài ngắn tự tại theo ý muốn, nếu không được vậy, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">16. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi nhẫn đến nghe có tên bất thiện, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">17. Giả sử khi tôi được thành Phật, các đức Phật trong vô lượng thế giới ở mười phương không đều ngợi khen xưng danh hiệu tôi, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">18. Giả sử khi tôi được thành Phật, chúng sinh ở mười phương chí tâm tín nhạo muốn sinh về cõi nước tôi, nhẫn đến trong mười niệm, nếu chẳng được vãng sinh, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác, chỉ trừ người phạm tội ngũ nghịch và chê bai chánh pháp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">19. Giả sử khi tôi được thành Phật, chúng sinh ở mười phương phát Bồ đề tâm tu các công đức, chí tâm phát nguyện muốn sinh về cõi nước tôi, đến lúc người đó mạng chung, nếu tôi chẳng cùng với đại chúng vây quanh hiện ra nơi trước người đó, tôi nguyện chẳng chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">20. Giả sử khi tôi được thành Phật, chúng sinh ở mười phương nghe danh hiệu của tôi, để tâm nơi nước của tôi, vun trồng cội công đức chí tâm hồi hướng muốn sinh về cõi nước của tôi, nếu không được quả toại, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">21. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi chẳng đều thành tựu đầy đủ 32 tướng đại nhân, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">22. Giả sử khi tôi được thành Phật, các hàng Bồ tát ở cõi Phật phương khác sinh về cõi nước tôi, rốt ráo chắc đến bậc Nhất sinh Bổ xứ, trừ những vị có bổn nguyện, muốn tự tại hóa độ, vì chúng sinh mà mặc giáp hoằng thệ, chứa nhóm cội công đức, độ thoát mọi loài, đi qua cõi nước của chư Phật tu hạnh Bồ tát, cúng dường các đức Phật Như Lai ở mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sinh làm cho trụ vào đạo Vô thượng Chánh nhân, vượt ngoài hạnh tu tuần thứ theo địa vị của hạng tầm thường, hiện tiền tu tập đức của Phổ Hiền. Nếu chẳng được như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">23. Giả sử khi tôi được thành Phật, Bồ tát trong cõi nước tôi nương thần lực của Phật mà đi cúng dường các đức Như Lai, chừng trong khoảng một bữa ăn mà chẳng có thể đến khắp vô số vô lượng ức Na do tha cõi nước của chư Phật, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">24. Giả sử khi tôi được thành Phật, Bồ tát trong cõi nước tôi, ở trước chư Phật hiện cội công đức của mình, bao nhiêu những đồ muốn dùng để cúng dường chư Phật, nếu chẳng có đúng như ý muốn đó, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">25. Giả sử khi tôi được thành Phật, Bồ tát trong cõi nước tôi không thể diễn nói Nhất thiết trí, tôi nguyện chẳng chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">26. Giả sử khi tôi được thành Phật, Bồ tát trong cõi nước tôi không được thân Kim Cang bền chắc, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">27. Giả sử khi tôi được thành Phật, trong cõi nước tôi những hàng Trời, Người, tất cả muôn vật đều đẹp đẽ trong sạch sáng rỡ, hình sắc lạ thường, rất nhiệm, rất mầu, không ai có thể cân lường được. Những chúng sinh kia nhẫn đến người được Thiên nhãn mà có thể biện biết rõ ràng danh số của những vật trên đó, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">28. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Bồ tát trong cõi nước tôi nhẫn đến những vị công đức kém ít mà không thấy biết được Đạo Tràng Thọ cao bốn trăm muôn dặm, vô lượng màu sắc, vô lượng ánh sáng, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">29. Giả sử khi tôi được thành Phật, nếu Bồ tát trong cõi nước tôi đọc kinh pháp, phúng tụng pháp, phúng tụng thọ trì, giảng thuyết mà không được trí huệ biện tài, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">30. Giả sử khi tôi được thành Phật, trí huệ biện tài của Bồ tát trong cõi nước tôi nếu có người hạn lượng được đó, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">31. Giả sử khi tôi được thành Phật, cõi nước của tôi thanh tịnh, thảy đều soi thấy tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị cõi nước của chư Phật mười phương, dường như gương sáng soi thấy rõ bóng mặt, nếu không được như thế, tôi nguyện không chứng quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">32. Giả sử khi tôi được thành Phật, trong cõi nước tôi, từ mặt đất lên đến hư không, những cung điện, lầu đài, ao nước, cây hoa... Tất cả muôn vật đều do vô lượng chất báu đẹp cùng trăm nghìn thứ hương thơm hiệp chung lại làm thành, nghiêm sức tốt lạ, hơn hẳn hàng Trời. Mùi thơm của những vật ấy xông khắp cả cõi nước ở mười phương, Bồ tát nào ngửi được hơi hương ấy thời đều tu hạnh của Phật. Nếu không được như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">33. Giả sử khi tôi được thành Phật, những loài chúng sinh trong vô lượng bất khả tư nghì cõi nước của chư Phật ở mười phương, được ánh sáng của tôi chiếu đến thân, thời thân tâm của chúng sinh ấy hòa dịu hơn hẳng hàng Trời, Người. Nếu không được như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">34. Giả sử khi tôi được thành Phật, những loài chúng sinh trong vô lượng bất khả tư nghị cõi nước chư Phật ở mười phương nghe danh tự của tôi, mà chẳng được các món tổng trì<SUP><B>(6)</B></SUP> sâu mầu cùng Vô sinh Pháp nhẫn<SUP><B>(7)</B></SUP> của Bồ tát, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">35. Giả sử khi tôi được thành Phật, những người nữ trong vô lượng bất khả tư nghị cõi nước của chư Phật ở mười phương nghe danh tự của tôi, mà vui mừng tin mến phát Bồ đề tâm nhàm ghét thân gái, nếu sau khi mạng chung còn thọ thân gái trở lại, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">36. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Bồ tát trong vô lượng bất khả tư nghị cõi nước của chư Phật ở mười phương nghe danh tự của tôi, thời sau khi mạng chung vẫn thường tu hạnh thanh tịnh đến lúc thành Phật đạo. Nếu không được như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">37. Giả sử khi tôi được thành Phật, các hàng Trời, Người nhân dân trong vô lượng bất khả tư nghị cõi nước của chư Phật ở mười phương nghe danh hiệu của tôi, năm vóc gieo xuống đất, cúi đầu lễ lạy, vui mừng tin mến, tu hạnh Bồ tát thời các hàng Trời, Người đều kính trọng đó. Nếu không như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">38. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi muốn được y phục, thời những y phục tốt đẹp đúng pháp như đức Phật ngợi khen liền tùy niệm tự nhiên hiện đến trên thân, nếu còn phải cần may, vá, đập, nhuộm... tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">39. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Trời, Người trong cõi nước tôi hưởng thọ sự vui sướng không bằng bậc Lậu Tận Tỷ kheo, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">40. Giả sử khi tôi được thành Phật, Bồ tát trong cõi nước tôi, tùy ý muốn thấy vô lượng cõi Phật nghiêm tịnh ở mười phương, tức thời ở trong cây báu thảy đều soi thấy rõ ràng đúng như ý muốn chẳng khác gương sáng soi thấy bóng mặt. Nếu không như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">41. Giả sử khi tôi được thành Phật, các hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của tôi, mãi đến lúc thành Phật, nếu các căn thiếu xấu chẳng đầy đủ, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">42. Giả sử khi tôi được thành Phật, các hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của tôi, thảy đều chứng được "Chánh định thanh tịnh giải thoát". Trụ trong chánh định đó, trong khoảng móng niệm liền cúng dường khắp vô lượng bất khả tư nghị của đức Phật Thế Tôn, mà vẫn không sao mất tâm chánh định. Nếu không như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">43. Giả sử khi tôi được thành Phật, các hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của tôi, sau khi mạng chung sinh vào nhà tôn quý. Nếu không như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">44. Giả sử khi tôi được thành Phật, các hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của tôi, vui mừng hớn hở, tu hạnh Bồtát đầy đủ cội công đức. Nếu không như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">45. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của tôi, thảy đều chứng được "Chánh định Phổ đẳng". Trụ trong chánh định đó, mãi đến lúc thành Phật, thường thấy tất cả vô lượng bất khả tư nghị các đức Phật. Nếu không như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">46. Giả sử khi tôi được thành Phật, Bồ tát trong cõi nước tôi tùy ý muốn nghe pháp chi, thời tự nhiên liền được nghe pháp đó. Nếu không như thế, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">47. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của tôi, chẳng liền được bậc Bất thối chuyển, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">48. Giả sử khi tôi được thành Phật, hàng Bồ tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của tôi, mà chẳng liền chứng được bậc Âm hưởng nhẫn, Nhu thuận nhẫn và Vô sinh Pháp nhẫn, cùng ở nơi pháp của chư Phật mà chẳng liền được bậc Bất thối chuyển<SUP><B>(8)</B></SUP>, tôi nguyện không chứng lấy quả Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) <B>Tổng trì</B>: Sức niệm tuệ có khả năng thâu tóm, ghi nhớ vô lượng Phật pháp, không để quên mất.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(7) <B>Vô sinh pháp nhẫn</B>: Một trong ba nhẫn, nhẫn thứ tư trong năm nhẫn nói trong kinh <I>Nhân Vương</I>, tức quản lý không sinh không diệt của các pháp, nhận kỹ lý ấy, an trụ tâm bất động.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(8) <B>Bất thối chuyển</B>: Không thối chuyển, chỉ cho sự tu hành không lui sụt cho tới khi thành Phật. Còn thối chuyển là chỉ cho sự lui sụt, rơi vào đường ác hoặc Nhị thừa địa (hàng Thanh văn, Duyên giác).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bất thối vị còn gọi là Bất thối chuyển địa. Trong giai vị Tứ thiện căn của Hữu Bộ, đến Nhẫn vị thì không còn rơi vào đường ác, được xếp vào Bất thối vị.</P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size: 16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>CHƯƠNG 2
<B>NHÂN ĐỊA, BẢN NGUYỆN CỦA PHẬT THÍCH CA VÀ PHẬT A DI ĐÀ</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <I>Bi Hoa</I> nói: <I>Trong kiếp thuở xưa có vua Chuyển Luân tên là Vô Tránh Niệm và vị đại thần là Bảo Hải làm thiện tri thức, cùng ở chỗ Phật Bảo Tạng phát tâm Bồ đề. Vua Vô Tránh Niệm phát nguyện rằng: "Tôi tu Đại thừa cầu lấy Tịnh độ, chung quy chẳng nguyện ở nơi Uế độ thành tựu đạo giác ngộ Chân Chánh Vô Thượng. Trong thế giới tôi, chúng sinh không có những điều khổ não, nếu tôi không được cõi Phật như thế thì chẳng thành Chánh Giác".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay quả đã viên mãn, thành Phật hiệu là A Di Đà, cho nên hiện bày ra cõi Tịnh Độ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn đại thần Bảo Hải nguyện ở nơi Uế độ giáo hóa thuần thục mọi chúng sinh, nay quả đã viên mãn, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, ở trong thế giới ác trược này thành tựu quả vị giác ngộ của Phật.
<CENTER>CHƯƠNG 3
<B>ĐỨC PHẬT NÓI VỀ CHÁNH NHÂN TỊNH NGHIỆP CHO THÁNH HẬU VI ĐỀ HY</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <I>Quán Vô Lượng Thọ</I> nói: <I>"Bấy giờ, bà Vi Đề Hy kêu khóc hướng về đức Phật bạch rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Bạch đức Thế Tôn! Cúi mong Ngài nói rộng những cõi nào không còn lo buồn cho con nghe, con sẽ sinh qua đó. Con không ưa thích cõi Diêm phù đề<SUP><B>(9)</B></SUP> ác trược này nữa!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bấy giờ, đức Thế Tôn phóng ánh sáng giữa chặng mày, chiếu khắp vô lượng thế giới trong mười phương, các cõi nước của chư Phật đều hiện trong đó. Lúc ấy, bà Vi Đề Hy thấy rồi liền bạch Phật rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Các cõi Phật ấy tuy là thanh tịnh đều có ánh sáng, nhưng nay con chỉ ưa thích sinh về thế giới Cực Lạc, chỗ của Phật A Di Đà. Cúi mong đức Thế Tôn dạy con tư duy, dạy con chánh định!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật bảo bà Vi Đề Hy:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Phật A Di Đà cách đây không xa. Bà nên nghĩ nhớ suy xét kỹ, quán tưởng về cõi ấy. Nay Ta nói rộng rãi cho bà nghe, cũng để khiến cho những kẻ phàm phu đời vị lai tu tập Tịnh nghiệp được sinh về Tây Phương cõi nước Cực Lạc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người muốn sinh về nước ấy, nên tu ba việc phước:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Một: Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, tâm từ bi không sát hại, tu mười điều lành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Hai: Thọ trì Tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Ba: Phát tâm Bồ đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyến tấn người tu hành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ba việc như thế, gọi là chánh nhân của Tịnh nghiệp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật bảo A Nan và bà Vi Đề Hy lắng nghe:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Các vị hãy khéo nhớ nghĩ những điều ấy!"</I><P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>1. Hiếu dưỡng cha mẹ</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Niệm Phật là chỗ cốt yếu của các pháp, hiếu dưỡng là hạnh đứng đầu trong trăm hạnh. Tâm hiếu tức là tâm Phật, hạnh hiếu tức là hạnh Phật. Muốn được đạo đồng với chư Phật, trước phải hiếu dưỡng song thân. Thế nên, Thiền sư Sách nói: "Một chữ hiếu là cánh cửa của mọi sự huyền diệu. Những lời Phật dạy lấy hiếu làm tông chỉ, kinh Phật nói lấy hiếu làm giới. Trong lời nói không mờ tối thì miệng phát ra ánh sáng giới, ngay đó rõ ràng nhanh chóng khai mở tâm địa".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói về hiếu, có hiếu của tại gia, có hiếu của xuất gia.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hiếu tại gia là được cha mẹ thương yêu, vui mừng mà không lãng quên bổn phận làm con; bị cha mẹ ghét bỏ, phải sống lao nhọc mà không hề oán hận. Luôn thuận theo sắc diện của song thân để làm tròn việc phụng dưỡng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đạo hiếu của người xuất gia là cắt đứt ân ái, từ giã song thân để cứu xét đạo huyền vi phù hợp bản tánh, thâm nhập lý vô vi, trên đền đáp ân cùng cực, tiến bước trên con đường giải thoát. Đây là lối tắt báo đáp ân đức của mẹ cha, chẳng những đời vị lai được lợi ích mà ngay trong hiện tại cũng được thành công.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nên, đức Như Lai nửa đêm vượt thành, đạo quả viên mãn trên non Tuyết. Ngài Huệ Năng dùng bạch kim gởi gắm mẹ mà nối pháp ở Huỳnh Mai. Nhưng vì pháp mà đoạn dứt thâm ân, ắt cần phải nghĩ suy báo đức. Do đó, đức Thế Tôn về thăm Phụ vương ở thành Ca Tỳ La Vệ, lên trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẫu thân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn như cha mẹ nghèo thiếu không nơi nương tựa, theo lý phải nên tự mình hầu hạ. Vì thế, ngài Tất Lăng Già Bà Ta hàng ngày đi khất thực để phụng dưỡng mẹ già. Đại sư Hoằng Nhẫn dựng lập Dưỡng Mẫu Đường. Ngài Trần Mục Châu đan hài nuôi mẹ. Pháp sư Lãng gánh cha mẹ mà đi du học khắp nơi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vậy thì, người xuất gia lấy pháp vị làm thức ăn ngon ngọt, nhưng cũng không quên đem dâng hiến cho song thân; lấy Phật sự làm việc chuyên cần, nhưng không bỏ sót lễ nghi của nhân thế. Không chỉ cha mẹ một đời, mà cha mẹ nhiều đời đều báo đáp được. Không chỉ cha mẹ một thân này, mà cha mẹ khắp trong pháp giới đều được độ thoát, đồng lên bờ giác. Đạo hiếu người xuất gia lợi ích rộng lớn thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu như nhân duyên chưa đủ, cha mẹ không cho phép thì nên ở tại nhà làm tròn đạo hiếu, siêng năng tu tập nhân xuất thế. Nếu có thể ở ngay nơi thế tục mà thực hành đạo chân thật thì vẫn có con đường để thành Phật. Chỉ mong được trở lại như lúc trẻ thơ, để khi cha mẹ nghiêm khắc, được quỳ dưới gối nhằm báo đáp sự nhọc nhằn chăm sóc của song thân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do đạo hiếu mà dẫn đến chỗ Nhất thừa viên mãn, liền khiến cho Bồ tát tại gia đạt được sự hiểu biết và tu hành không nghi ngờ. Hàng Cao nhân xuất tục, nhân ở đây có thể soi xét.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu có người chỉ hạn cuộc ở việc phụng sự Phật pháp, không thể làm tròn việc phụng sự song thân, xem nơi đây ắt sẽ cảm xúc trong lòng, có thể khắc phục để vẹn toàn đạo hiếu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Than ôi! Thời gian dễ trôi qua, cha mẹ khó quên lãng. Còn song thân ở nhà cũng như chư Phật tại thế; dùng hạnh hiếu để báo đáp ân đức của song thân, hoàn thành trọn vẹn công phu niệm Phật. Thế nên biết, cha mẹ vui vẻ thì chư Phật vui vẻ, tâm này thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Vẻ quê không núi non cách trở
Ánh trăng xuyên nước đẹp vô ngần.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>2. Phụng sự sư trưởng</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bậc Cao đức ngày xưa nói: <I>"Sinh ra ta là cha mẹ, làm thành tựu cho ta là thầy bạn"</I>. Thế nên, thầy là bậc Đạo sư sáng suốt trong đường mê, là ngọn đèn trí tuệ trong căn nhà tăm tối, là thuyền từ trong biển khổ, là mắt sáng của Trời, người. Ân sâu hơn cả cha mẹ, đức nặng sánh tợ đất trời. Cho nên, đệ tử thờ thầy chẳng dám xem thường. Đâu chẳng thấy: đức Phật bỏ thân mạng để cầu nửa bài kệ; Tổ Huệ Khả chặt cánh tay để hỏi pháp an tâm, lấy thân làm tòa để thờ thầy; Lục Tổ buộc đá vào hông để giã gạo, vác gạo nuôi chúng mà tiếp nối Tổ vị; Bồ tát Thường Đề bán tim gan học Bát nhã, gieo mình vào lửa để chứng Bồ đề. Vậy mà người xưa rất lấy làm vui mừng, vì cảm thấy may mắn. Như thế, sao lại có thể không cố gắng thờ thầy để học đạo hay sao?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nên biết, tìm thầy để thoát sinh tử phải cầu chánh kiến, tham thiền hỏi đạo chớ nương tà tông. Cần phải hiểu rõ nguyên do tội phước, phân biệt kỹ sự lợi hại của chánh tà. Chánh thì thành Phật, tà thì thành ma. Ban đầu chẳng gặp bậc tác gia, đến già chỉ thành vô dụng. Bởi thế, đức Như Lai biết thầy sai lầm mà bỏ đi; ngài Phu Tử chọn người lành để theo. Xem các bậc Thánh xưa đã thế, tại sao người nay lại chẳng làm theo như vậy?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Huống chi, hiện nay là thời mạt pháp, có nhiều thầy tà, phàm muốn tu hành nhất định chớ nên gần gũi. Chỉ giữ chánh niệm, rốt cuộc sẽ gặp minh sư. Muốn tỏ ngộ việc lớn, phải nên thận trọng đừng cho là dễ dàng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì thế, đệ tử phụng sự thầy tức đồng với phụng sự Phật. Điều này có thể gọi là:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Tứ sự cúng dường chẳng nhọc lao
Vạn lượng vàng ròng cũng tiêu được.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>3. Tâm từ bi không sát hại</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bốn loài chúng sinh: noãn (sinh ra từ trứng), thai (bào thai), thấp (ẩm thấp), hóa (biến hóa), chim muôn, cá, trùng... đều là chư Phật ở vị lai, hoặc là cha mẹ nhiều đời trong quá khứ của chúng ta. Chúng đều biết kêu gào sợ chết, tha thiết tham sống, tránh khổ tìm vui, thì tâm ấy đều như nhau; biết tìm nơi an ổn mà dưỡng thân mạng, thì lý này muôn loài vốn chung đồng. Tại sao nghe tiếng kêu thương của chúng mà nỡ lôi lên dao bén? Thấy chúng mắt đẫm lệ mà vẫn kéo lôi đến chỗ mất mạng tan thân? Hoặc giăng lưới trên núi rừng, hay đốt lửa cháy khắp nơi khói bay mù mịt, làm chim ưng bay nhanh như điện xẹt để tranh nhau tìm lối thoát thân, ngựa giỏi lấn chen phóng nhanh sợ hãi. Vượn nhìn mũi tên kinh hồn; nhạn thấy chiếc cung khiếp vía. Nỗi đau đớn vỡ đầu rơi óc khó mà chống cự, sự thống khổ thấu tận tim gan biết làm sao để cấm ngăn? Huống chi, chúng cùng bẩm thọ Ngũ hành<SUP><B>(10)</B></SUP>, đều bao hàm Tứ tượng<SUP><B>(11)</B></SUP>, đồng thấm nhuần tánh Phật, cùng có tâm thần sáng suốt. Tại sao lại giết hại chúng, chất thịt như núi, nấu nướng để cung cấp cho miệng và bụng của mình?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nung đốt tim gan của chúng mà đâu biết rằng đoạn mạng chúng sinh cũng là làm cho thân Phật chảy máu; ăn thịt súc vật chính là nhai nuốt thân thể của cha mẹ mình! Ấy là gây tạo lỗi lầm sát hại thâm sâu, đoạn dứt chủng tánh từ bi. Hiện đời phước thọ âm thầm tiêu giảm, sau khi chết trầm luân nơi núi dao, rừng kiếm, trở lại làm gà, heo, cá, thỏ lần lượt hoàn trả nợ cũ. Đến như giết hại, cắt xẻo, nấu nướng... nhân quả cũng giống như nhau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xét kỹ việc ăn thịt thật đáng rùng rợn, dù bán hay đổi ở lò sát sinh, cũng khó tránh khỏi trọng tội. Bồ tát thà tan xương quyết không ăn thịt chúng sinh. Thế nên, thỏ trắng thiêu thân mà tiên nhân chẳng đoái hoài. Đối với cỏ cây còn không nhổ, thì thịt lẽ nào lại cho nếm. Rời xa nhà bếp, vì có lời dạy không nỡ nghe tiếng kêu than. Nuôi lớn súc vật rồi đem đi bán cũng đồng với tội lỗi miệng giết tâm ăn. Cho nên, Đại Thánh từ bi mới chế giới dứt hẳn sát sinh. Ân của đức Phật thật là to lớn! Người tu Tịnh độ cần phải giữ gìn!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Không tham đắm hương vị,
Mới là rồng trong xanh.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(9) <B>Diêm phù đề</B>: Cõi nước có trồng nhiều cây Diêm phù và sản xuẩta vàng Diêm phù đàn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo phẩm <I>Diêm Phù Đề</I> trong <I>Trường A Hàm 18</I>, kinh <I>Đại Lâu Thán 1</I>, kinh <I>Khởi Thế 1</I>, kinh <I>Khởi Thế Nhân Bản 1</I>, cõi này phía Nam hẹp, phía Bắc rộng, chu vi khoảng 14.000km, khuôn mặt người cũng giống như địa hình ở đây. Lại phía Đông ao A Nâu Đạt (S: Anavatapha) có sông Hằng (S: Ganga), từ miệng bò sinh ra, theo 500 sông chảy vào biển Đông; phía Nam có sông Sindhu, từ miệng sư tử sinh ra, theo 500 nhánh chảy vào biển Nam; phía Tây có sông Vaksu Bà Xoa, từ miệng ngựa sinh ra, theo 500 nhánh chảy vào biển Tây; phía Bắc có sông Tư Ký (S: Sīta), từ miệng voi sinh ra, theo 500 nhánh chảy vào biển Bắc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo <I>Câu Xá luận 11</I>, trong bốn đại châu lớn, chỉ có châu này có tòa kim cương, tất cả Bồ tát sắp thành chánh giác đều ngồi tòa này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo trên thì có thể biết Diêm Phù Đề vốn chỉ cho Ấn Độ, về sau chỉ chung cho thế giới nhân gian.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(10) <B>Ngũ hành</B>: Trong triết học cổ Trung Hoa, tất cả vạn vật đều phát sinh từ năm nguyên tố cơ bản và luôn luôn trải qua năm trạng thái được gọi là: Mộc, Hỏa, Thổ, Kim và Thủy. Năm trạng thái này gọi là ngũ hành.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(11) <B>Tứ tượng</B>: Tứ tượng hay Tứ thánh thú, là một khái niệm hình tượng bộ bốn trong khoa học thiên văn, triết học, phong thủy... phương Đông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tứ tượng là bốn thánh thú trong các chòm sao Trung Hoa cổ đại:
<p style="padding-left: 56px;">a. Thanh Long của phương Đông.
b. Chu Tước của phương Nam.
c. Bạch Hổ của phương Tây.
d. Huyền Vũ của phương Bắc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mỗi thánh thú cai quản một phương và tượng trưng cho một mùa, chúng có những đặc điểm, nguồn gốc riêng. Chúng được miêu tả đầy sinh động trong thần thoại và trí tưởng tượng của người Trung Hoa, và cả trong Manga và Anime của Nhật.</P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size: 16pt"><span style="color: blue;">
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>4. Tu mười điều lành</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chỗ cốt yếu huyền diệu của Đại thừa, vốn không rời Nhất tâm. Muốn được chánh nhân của Tịnh nghiệp, cần phải tu mười điều lành trước tiên. Đoạn dứt bảy tội nặng của thân và miệng, thì bảy hạnh được thành tựu; diệt trừ hết gốc rễ Tam độc (tham, sân, si) của ý thức, thì Tam học (Giới, Định, Huệ) tự nhiên đầy đủ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo kinh Di Đà, người cầu sinh Tịnh độ cần phải tu tập mười điều lành này. Trong kinh Hoa Nghiêm, chỉ có hàng Bồ tát Ly cấu địa mới có thể tự thân chứng đắc. Còn từ cõi Người, Trời cho đến cõi Hữu Đảnh đều lấy mười điều lành này làm duyên để thọ sinh. Hàng Thanh văn cho đến Phật thừa cũng lấy mười điều lành làm căn bản
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>5. Thọ trì Tam quy</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật là bậc Đạo sư của ba cõi, giáo pháp là mắt sáng của muôn loài. Tăng là Thượng sĩ lục hòa, đều là ruộng phước chân thật thanh tịnh. Trái ngược với đây thì trở thành tà vạy, thuận theo đó thì trở thành chân chánh. Công đức thần thông chẳng ai sánh bằng, sức mạnh Thánh nhân khó mà suy xét. Giải trừ khổ não như cái trống có thoa thuốc thì các mũi tên bắn vào đều rơi xuống; vượt thoát tai nạn như song kiếm đột phá vòng vây. Biến khổ làm vui trong khoảng sát na, đổi phàm thành Thánh chỉ trong khoảnh khắc. Thế nên, thấy tướng xe lửa hiện ra, nếu biết quy y liền được trong mát; sắp đến Địa ngục, nếu xưng niệm danh hiệu Phật thảy đều lìa khổ. Ngài Phổ Minh và chư vương tránh khỏi tai nạn là bởi do công phu của định Không. Đế Thích đánh lui oai thế của Đảnh Sinh là từ sức mạnh của Bát nhã.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nên, Phật tử có lòng tin quy y Tam Bảo chân thật từ bi, dùng hương hoa cúng dường nơi Phật và tăng, đọc tụng lưu thông pháp bảo. Tập hợp những điều thiện lợi này mà hướng về Bồ đề, nguyện cho khắp tất cả chúng sinh đồng sinh Tịnh độ. Đâu không nghe nói: Tần Già, Anh vũ xưng niệm danh hiệu Phật được về Tây Phương; chư Thiên, Đế Vương quy kính Tam Bảo thệ cầu Thánh đạo. Mọi chúng sinh đều có thể trên cầu quả vị Phật, dưới thoát khỏi nỗi khổ luân hồi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Thiền là Đại Quy, thơ là Phát
Thiên tử Đại Đường chỉ ba người.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>6. Đầy đủ các giới</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đã phát được tâm Bồ đề, nên tu hạnh Bồ tát. Ban đầu thọ Tam quy, kế giữ năm giới, dần dần tu mười pháp lành, viên mãn Tam tụ luật nghi<SUP><B>(12)</B></SUP>. Căn cơ thuần thục thì giữ gìn trọn vẹn, nếu căn cơ chưa thuần thì thọ trì từng phần. Mỗi năm có Tam thiện, mỗi tháng có Lục trai<SUP><B>(13)</B></SUP>, nếu như thấy năm giới khó thực hành thì hãy trừ bỏ rượu thịt. Mười điều ác<SUP><B>(14)</B></SUP> dễ phạm, nên giữ một giới không sát sinh. Bụi nhỏ tích lũy thành núi non, sương rơi cũng thêm cho dòng nước. Một giọt rơi xuống vực, rốt cuộc cũng trở về biển cả mênh mông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nên, kinh <I>Niết bàn</I> nói: <I>"Lúc đức Phật còn ở đời thì lấy Phật làm thầy, sau khi đức Phật diệt độ thì lấy giới làm thầy". Kinh Phạm Võng nói: "Giới như trăng trong sáng, cũng như châu anh lạc. Chúng Bồ tát nhiều như cát bụi đều do giới này thành tựu đạo giác ngộ chân chánh"</I>. Vì thế, rồng không có tâm phạm sát; sói còn có ý trì trai. Tỷ kheo khổ hạnh tiết tháo đến nỗi bị buộc cỏ mà chẳng dám đi; bảo hộ con ngỗng mà phải đổ máu hồng; Cư sĩ bị bệnh duyên mà hoàn toàn không uống rượu ăn thịt. Thế nên biết, nói về cội gốc của các điều lành, thì năm giới đứng đầu. Bậc vương giả theo đó để trị quốc, người quân tử phụng hành để lập thân; không thể rời xa lúc vội vàng, không thể phế bỏ dù trong khoảnh khắc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đạo Phật gọi là Ngũ giới, Nho giáo gọi là Ngũ thường<SUP><B>(15)</B></SUP>. Ở nơi trời là Ngũ tinh<SUP><B>(16)</B></SUP>, ở nơi đất là Ngũ nhạc<SUP><B>(17)</B></SUP>, ở nơi người là Ngũ tạng<SUP><B>(18)</B></SUP>, ở nơi xứ sở là Ngũ phương<SUP><B>(19)</B></SUP>. Nói rộng ra thì không chỗ nào mà chẳng thâu nhiếp; quán xét cả trên dưới không gì có thể thêm vào. Do đó, trong <I>Pháp Uyển Châu Lâm</I> nói: <I>"Điều thế tục ưa chuộng là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; chỗ ý thức tham lam nương vào là sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đạo và đời tuy trái ngược nhau, nhưng về mặt Tiệm giáo (tu hành) thì chung đồng không khác. Trong chánh pháp dạy, bắt đầu ở nơi nhân. Đó tức là ở nơi pháp thật chỉ sự việc nói thẳng, không nhờ vào ngôn từ hoa mỹ, nương vào danh tự mà biểu hiện ý nghĩa. Tu nhân như thế, không mong quả mà chứng quả; từ chỗ này vào đạo, không muốn vui mà được vui. Hiện nay, thấy người trì giới không sát hại, chẳng cầu nhân mà nhân tỏa sáng; giữ giới không trộm cắp, chẳng hân hoan nghĩa mà nghĩa phô bày. Người không tà dâm, chẳng mong lễ mà lễ được lập. Người không nói dối, chẳng mộ tín mà tín tự vang xa. Người không uống rượu, chẳng thực hành trí mà trí sáng tỏ. Năm giới này không chỉ tự kềm chế mình, ngăn ngừa sai quấy, mà còn trợ giúp nước nhà phát triển sự giáo hóa. Muốn tu thành tựu tịnh hạnh, cần phải nghiêm túc giữ gìn giới luật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Vạn thiện hòa dung đồng cõi Phật
Vui tươi hớn hở thuở thái bình.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>7. Phát tâm Bồ đề</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quả Phật Vô Thượng gọi là Bồ đề, nếu phát tâm này, chắc chắn thành Phật. Pháp môn Tịnh Hạnh nói: <I>"Người tu Tịnh độ, cần phải khéo phát tâm. Nếu vì mình chán nản Ngũ trược</I><SUP><B>(20)</B></SUP>, <I>ưa thích Cửu phẩm</I><SUP><B>(21)</B></SUP> <I>thì trái với tâm Bồ đề. Đó là hạnh Thanh văn không nên phát khởi. Nếu vì chúng sinh mà phát tâm đại bi cầu vãng sinh Cực Lạc, mong nhanh chóng thành tựu đạo lực thần thông để trải qua mười phương cứu độ tất cả chúng sinh, khiến họ cùng thành Phật thì thuận với tâm Bồ đề. Đó là hạnh Bồ tát cần nên phát khởi"</I>. Nay, khuyên hàng cao lưu tu hành Tịnh nghiệp, phàm muốn lợi mình, lợi người cần phải phát tâm lập chí. Nên ở trước Tam Bảo dâng hương hiến hoa, chí tâm phát nguyện:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Nam mô Phật
Nam mô Pháp
Nam mô Tăng
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đệ tử là....... hôm nay phát tâm rộng lớn này, chẳng vì mong cầu phước báo Trời, Người, Thanh văn, Duyên giác; cho đến chư vị Bồ tát hàng Quyền thừa, chỉ y theo tối thượng thừa mà phát tâm Bồ đề.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cúi mong cho con cùng với cha mẹ hiện đời, cha mẹ nhiều đời, cùng chúng sinh khắp trong pháp giới, tất cả kẻ oán người thân đồng sinh về Tịnh độ, đều được Bất thối chuyển nơi đạo giác ngộ Chân Chánh Vô Thượng.</I><P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói ba lần như trên. Luôn luôn phát khởi tâm này, mỗi ngày nên thường thực hành như thế.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thuở xưa, đồng tử Thiện Tài do phát tâm Bồ đề nên chứng quả trong một đời; Long nữ tám tuổi mà được thành Phật. Ở nơi Địa ngục phát tâm này, liền nhanh chóng vượt lên hàng Thập địa<SUP><B>(22)</B></SUP>. Sa di<SUP><B>(23)</B></SUP> biết phát tâm thì đã hơn hẳn hàng Nhị thừa<SUP><B>(24)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Một khí hồi nguyên vận,
Vạn vật thấm nhuần ân.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(12) <B>Tam tụ luật nghi</B>: Ba tụ giới pháp của Đại thừa Bồ tát. Tụ nghĩa là chủng loại. Vì ba tụ pháp giới này vô cấu thanh tịnh, hàm nhiếp các giới Đại thừa, viên dung vô ngại nên gọi là Tam tụ tịnh giới. Tam tụ viên giới. Tam tụ tinh giới gồm:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. <B>Nhiếp luật nghi giới</B>: Pháp môn chỉ ác, đoạn dứt tất cả điều ác, hàm nhiếp các luật nghi, là giới của bảy chúng thọ trì, tùy theo tại gia, xuất gia khác nhau mà có chia ra các giới điều năm giới, tám giới, mười giới, cụ túc giới... cũng có thể quy thành ba loại chung là biệt giải thoát giới, định cộng giới và đạo cộng giới. Giới này là nhân của pháp thân. Pháp thân vốn tự thanh tịnh nhưng bị các điều xấu ác che đạy, nên không hiển được, nay lìa các đường ác thì công đức thành tựu hiện tiền.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. <B>Nhiếp thiện pháp giới</B>: nghĩa là tu tập tất cả các pháp lành. Đây là pháp môn tu thiện, là luật nghi giới mà Bồ tát tu hành, hồi hướng các điều thiện do tu thân, khẩu, ý về Vô Thượng Bồ đề, như thường siêng năng tinh tấn, cúng dường Tam Bảo, tâm không buông lung, giữ gìn các giác quan và thực hành sáu Ba la mật... nếu phạm tội thì như pháp sám hối, nuôi lớn các pháp lành. Đây là nhân của báo thân, có công năng dứt ác tu thiện, cho nên trở thành duyên của báo thân Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. Nhiếp chúng sinh giới: tức dùng từ tâm nhiếp thọ, làm lợi ích tất cả chúng sinh, đây là pháp môn lợi sinh. Kinh Bồ tát Địa Trì 4 nêu mười một loại như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(a) Cùng làm bạn với những việc nhiêu ích mà chúng sinh đã thực hành.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(b) Cùng làm bạn với các khổ bệnh đã sinh hoặc chưa sinh của chúng sinh và những người săn sóc bệnh.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(c) Nói pháp thế gian, xuất thế gian cho các chúng sinh nghe hoặc dùng các phương tiện khiến họ được trí huệ.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(d) Biết ân báo ân.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(e) Có khả năng cứu giúp các sự sợ hãi của chúng sinh. Nếu họ bị tai nạn như người thân qua đời, mất mát tài vật thì Bồ tát khai giải khiến họ hết lo buồn.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(f) Thấy có chúng sinh nghèo nàn khốn khổ thì cấp cho những vật cần dùng.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(g) Đức hạnh đầy đủ, nhận y chỉ đúng pháp, nuôi chúng đúng pháp.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(h) Trước nói lời an ủi, thường tới lui thăm nom, cấp cho thức ăn uống, nói lời lành của thế gian, làm mọi việc chẳng vì mình mà vì chúng sinh.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(i) Xưng dương khen ngợi người có thật đức.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(j) Dùng từ tâm quở trách người có lỗi xấu, chiết phục đuổi phạt khiến họ hối cải.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(k) Dùng năng lực thần thông thị hiện ác đạo, khiến các chúng sinh ấy chán sợ điều ác, vâng tu theo Phật pháp, hoan hỷ tin ưa, sinh tâm hy hữu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ba tụ tịnh giới này là giới chung của tăng, tục Đại thừa nhưng tăng chúng Đại thừa ban đầu thọ nhiếp luật nghi giới (thọ 250 giới) gọi là biệt thọ; sau lại tổng thọ 3 tụ tịnh giới, gọi là thông thọ.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(13) <B>Lục trai</B>: Sáu ngày trai giới thanh tịnh trong mỗi tháng: mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vào sáu ngày này, chúng tăng phải nhóm họp một chỗ để Bố-tát thuyết giới, còn hai chúng tại gia thọ trì bát quan trai giới một ngày một đêm. Tương truyền ngày xưa tại Ấn Độ, quỷ thần thường hãm hại người vào sáu ngày này, cho nên ở dân gian có phong tục tắm gội, nhịn ăn vào những ngày này. Về sau, Phật giáo cũng tiếp tục theo phong tục đó, đồng thời cho rằng vào 6 ngày này có Tứ Thiên vương xuống thế gian xem xét việc thiện ác
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(14) <B>Mười điều ác</B>: Sát sinh, Trộm cắp, Tà dâm, Vọng ngữ, Lưỡng thiệt (nói lời gây ly gián, lời phá hoại), Ác khẩu (nói lời thô ác), Ỷ ngữ (là lời nói vô nghĩa, lời nói do tâm nhiễm phát ra), Tham dục (tham ái, tham thủ, xan tham), Sân khuể, Tà kiến (tức ngu si).
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(15) <B>Ngũ thường</B>: Năm điều phải hàng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. Nghĩa: Cư xử với mọ người công bìnhtheo lẽ phải.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">d. Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">e. Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(16) <B>Ngũ tinh</B>: Sao Thủy, sao Kim, sao Hỏa, sao Thổ và sao Mộc.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(17) <B>Ngũ nhạc</B>: Theo thần thoại Trung Quốc, ngũ nhạc có nguồn gốc từ thân thể và đầu của Bàn Cổ, vị thần đàutiên sáng tạo ra thế giới. Do vỉtí ở phía Đông của mình nên Thái Sơn được gắn liền với mặt trời mọc, là biểu tượng cho sự ra đời và hồi sinh. Cũng vì cách diễn giải này, nó thông thương được nhắc đến như là ngọn núi linh thiêng nhất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngũ nhạc được sắp xếp theo bốn hướng chính và trung tâm của vùng đất Trung Hoa cổ đại. Các rặng núi trong nhóm này bao gồm:
<p style="padding-left: 56px;">a. Hướng Bắc: Hằng Sơn, thuộc tỉnh Sơn Tây.
b. Hướng Nam: Hành Sơn, thuộc tỉnh Hồ Nam.
c. Hướng Đông: Thái Sơn, thuộc tỉnh Sơn Đông.
d. Hướng Tây: Hoa Sơn, thuộc tỉnh Thiểm Tây.
e. Trung tâm: Tung Sơn, thuộc tỉnh Hà Nam.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(18) <B>Ngũ tạng</B>: Tâm, can, tỳ, phế, thận.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(19) <B>Ngũ phương</B>: Chỉ cho năm phương Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(20) <B>Ngũ trược</B>: Năm thứ cặn đục khởilên trong kiếp giảm. Theo thuyết của kinh <I>Bi Hoa, quyển 5, Pháp Uyển Châu Lâm, quyển 98</I>, ngũ trược chỉ cho:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. Kiếp trược: Vào thời kiếp giảm. lúc tuổi thọ con người rút ngắn lại còn ba mươi tuổi thì nạn đói kém xảy ra, lúc giảm còn hai mươi tuổi thì nạn bệnh tật xảy ra; lúc giảm còn mươi tuổi thì nạn chiến tranh xảy ra, tất cả chúng sinh trong thế giới đều bị hại.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. Kiến trược: Chánh pháp đã diệt, tượng pháp dần dần khởi, tà pháp bắt đầu sinh, tà kiến tăng mạnh, làm cho con người không tu tập pháp lành.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. Phiền não trược: Chúng sinh nhiều ái dục, tham lam bỏn sẻn, thích đấu tranh dua mịnh, dối trá, tiếp nhận tà pháp, nên tâm thần bị não loạn.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">d. Chúng sinh trược: Chúng sinh phần nhiều độc ác, không hiếu kính cha mẹ, người lớn tuổi, không sợ quả báo ác, không tạo công đức, không tu huệ thí, không giữ gìn trai giới.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">e. Mạng trược: Thời xưa con người thọ tám vạn tuổi, đời nay do ác nghiệp tăng trưởng nên tuổi thọ giảm dần, người trăm tuổi rất hiếm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong năm trược thì Kiếp trược là Tổng, bốn trược còn lại là Biệt. Trong bốn trược thì Kiếp trược và Phiền não trược làm tự thể mà tạo thành Chúng sinh trược và Mạng trược.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(21) <B>Cửu phẩm</B>: Chín bậc: Thượng thượng, Thượng trung, Thượng Hạ; Trung thượng, Trung trung, Trung hạ; và Hạ thượng, hạ trung, Hạ hạ. Thuật ngữ thường dùng là cửu phẩm vãng sanh, Cửu phẩm Tịnh Độ, Cửu phẩm đại y, Cửu phẩm hoặc.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(22) <B>Thập địa</B>: Cũng gọi là Thập trụ, chỉ cho mười địa vị.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thập địa chung cho Tam thừa: thuyết này có xuất xứ từ kinh <I>Đại Phẩm bát Nhã</I>, quyển 6, 17. Vì Thập địa này chung cho cả Tam thừa, nên gọi là Tam thừa công Thập địa, hoặc Cộng Thập địa, Cộng địa. Tông Thiên Thai gọi là Thông giáo Thập địa. Trong <I>Pháp Hoa Huyền Nghĩa</I>, quyển 4 Hạ, và <I>Ma Ha Chỉ Quán</I>, quyển 6 Thượng, ngài Trí Khải giải thích ý nghĩa của Thập địa này như sau:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. <I>Can Tuệ địa</I>: Cũng gọi là Quá Duyệ Tịnh địa, Tịch Nhiên Tạp Kiến Hiện Nhâp địa, Siêu Tịnh Quán Địa, Kiến Tịnh địa, Tịnh Quán địa, nghĩa là địa vị này chỉ có tuệ chứ chưa có định, tương đương với giai vị của Tam hiền của Thanh văn và giai vị của Bồ tát từ sơ phát tâm cho đến trước khi được thuận nhẫn.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. <I>Tánh địa</I>: Cũng gọi là Chủng Tánh địa, Chủng địa, tức địa vị tương đương với giai vị Tứ thiện căn của Thanh văn và giai vị Thuận nhẫn của Bồ tát, tuy đắm trước thật tướng các pháp, nhưng không sinh tà kiến, đầy đủ trí huệ và thiền định.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. <I>Bát Nhân địa</I>: Cũng gọi là Đậ Bát địa, Bát địa. Nhân nghĩa là nhẫn, tương đương với mười lăm tâm kiến đạo của Thanh văn và Vô sinh Pháp nhẫn của Bồ tát.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">d. <I>Kiến địa</I>: Cũng gọi là Cụ Kiến địa, tương đương với quả Tu đà hoàn của Thanh văn và địa vị A Bệ Bạt Trí (Bất thối chuyển) của Bồ tát.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">e. <I>Bạc địa</I>: Cũng gọi là Nhu Nhuyến địa, Vi Dục địa, tức là giai vị đã đoạn trừ một phẩm trong chín phẩm tu hoặc (phiền não) ở cõi Dục, tức quả Tu đà hoàn hoặc Tư đà hàm; cũng chỉ cho địa vị Bồ tát đã đoạn trừ phiền não, nhưng vẫn còn các tập khí mỏng (bạc), tức địa vịtừ A Bệ Bạt Trí trở lên cho đến trước quả Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">f. <I>Ly Dục địa</I>: Cũng gọi là Ly Tham địa, Diệt Dâm Nộ Si địa, tức giai vị Thanh văn diệt hết phiền não ở cõi Dục, được quả A na hàm và địa vị Bồ tát lìa dục, được năm thần thông.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">g. <I>Dĩ Tác địa</I>: Cũng gọi là Sở Tác Biện địa, Dĩ Biện địa, tức địa vị Thanh văn được Tận trí, Vô sinh trí, chứng đắc A la hán quả, hoặc Bồ tát thành tựu Phật địa.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">h. <I>Bích Chi Phật địa</I>: Duyên giác quán xét mười hai nhân duyên mà thành đạo.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">i. <I>Bồ Tát địa</I>: Chỉ cho các địa vị từ Can Tuệ địa cho đến Ly Dục địa đã nói ở trên, hoặc chỉ cho Hoan Hỷ địa cho đến Pháp Vân địa (từ sơ phát tâm ho đến Kim cang Tam muội) sẽ nói ở sau, tức địa vịBồ tát từ sơ phát tâm cho đến khi thành đạo.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">j. <I>Phật địa</I>: Chỉ cho địa vị hoàn toàn đầyđủ các pháp của chư Phật như Nhất Thiết Chủng Trí.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo <I>Luận Đại Trí Độ</I>, quyển 75, thì hàng Bồ tát Tam thừa cộng vị này nương vào trí vô lậu, đoạn trừ hết nghi hoặc mà khai ngộ, như ngọn đèn tâm được thắp lên không nhất định là ngọn lửa đầu tiên hay ngọn lửa sau cùng, sự đoạn hoặc của hàng Thập địa cũng thế, không cố định ở bất cứ một địa nào, mà là mỗi địa đều đưa đến quả Phật, vì thế mà ví dụ Thập địa như việc đốt đèn.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(23) <B>Sa Di</B>: Người nam xuất gia trong tăng đoàn Phật giáo, đã thọ mười giới, chưa thọ cụ túc giới.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sa Di cựu dịch là "tức từ". "Tức" là chấm dứt, quyết tâm chấm dứt kiếp số hệ lụy và khổ đau. "Từ" là thương yêu mọi người và mọi loài bằng trái tim của vị Bồ tát, không vướng mắc, không phân biệt. Tân dịch là "cần sách" nghĩa là chuyên cần và luôn luôn được nhắc nhở. Sa Di cũng có nghĩa là "cầu tịch" (theo ngài Nghĩa Tịnh), nghĩa là mong cầu đạt đến quả vị Niết bàn, chấm dứt mọi vọng tưởng phiền não.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo luật <I>Ma Ha Tăng Kỳ 29</I>, căn cứ vào tuổi tác thì Sa Di được chia làm ba loại:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. <I>Khu ô Sa Di</I> từ bẩy tuổi đến mười ba tuổi, đã có thể đuổi chim qua trên sân khi phơi lúa gạo.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. <I>Ứng pháp Sa Di</I> từ mười bốn đến mười chín tuổi, có khả năng làm những việc khó nhọc, hầu thầy và có khả năng tu tập, ngồi thiền, tụng kinh.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. <I>Danh tự Sa Di</I>: tuổi đã quá hai mươi nhưng chưa thọ cụ túc giới, vẫn còn là Sa Di.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong Tăng đoàn Phật giáo, vị Sa Di đầu tiên là La Hầu La. Đến đời sau, gọi Sa Di thọ trì mười giới là Pháp đồng Sa Di, còn người cạo tóc nhưng chưa thọ mười giới gọi là Hình đồng Sa Di. Ngoài ra, Nhật Bản có danh từ "Tại gia Sa Di" là chỉ cho người tu hành xuất gia mà có vợ con.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(24) <B>Nhị thừa</B>: Hai cổ xe, vì dụ giáo pháp của đức Phật có công năng vận chuyển chúng sinh đến quả vị giác ngộ giải thoát. Giáo pháp có hai loại nên gọi là Nhị thừa.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. Đại thừa và Tiểu thừa: Giáo pháp đức Phật nói trong một đời được chia thành Đại thừa và Tiểu thừa khác nhau. Tiểu thừa là giáo pháp Phật nói cho hàng Thanh văn, Duyên giác; còn Đại thừa là giáo pháp Phật nói cho hàng Bồ tát.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. Thanh văn thừa và Duyên giác thừa:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Thanh văn thừa: Trực tiếp nghe đức Phật nói pháp, nương vào lý Tứ Đế mà giác ngộ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Duyên giác thừa: Không trực tiếp nghe đức Phật nói pháp, chỉ tự mình quán xét lý mười hai nhân duyên mà được giác ngộ.</P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER><B>VĂN KHUYÊN PHÁT TÂM BỒ ĐỀ
ĐẠI SƯ THẬT HIỀN SOẠN</B>
(Phần bổ sung)</CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thật Hiền tôi, một sư tăng phàm phu, hư hèn ngu muội, dập đầu lạy khóc, rớm máu quanh mi, van xin đại chúng hiện tiền, cùng tín hữu nam nữ mai hậu, cúi xin quý vị xót thương, ghé tai nghe xét.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từng nghe: cửa yếu vào đạo lấy sự phát tâm làm đầu, việc cấp thiết tu hành lấy sự lập nguyện làm trước. Nguyện có lập thì chúng sinh mới độ nổi, tâm có phát thì đạo mới tựu thành. Nếu tâm rộng lớn không phát, nguyện kiên cố không lập, dù trải qua trăm kiếp ngàn đời, vẫn cứ quanh quẩn trong vòng luân hồi mãi mãi. Dù có gia công tu hành, cũng chỉ nhọc công vô ích, đắng cay vẫn hoàn đắng cay.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cho nên, kinh <I>Hoa Nghiêm</I> nói: <I>"Quên mất tâm Bồ đề mà tu hành các thiện pháp, gọi là việc làm của ma"</I>. Quên mất còn như thế, huống nữa là chưa phát? Cho nên biết rằng, muốn học đạo Như Lai, trước hết phải phát nguyện Bồ đề, không thể trì hoãn, chần chờ được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng tâm nguyện có nhiều tướng trạng khác nhau, nếu không trình bày biết đâu mà hướng tới? Nay vì đại chúng, xin nói tóm lược. Tướng trạng của tâm nguyện có tám, đó là: tà, chánh, chân, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ở đời, có người sau khi vào chùa tu, nhưng chẳng xét tâm mình, chỉ chuyên lo những việc bên ngoài: hoặc cầu sướng thân, hoặc ham nổi tiếng, hoặc ưa thích dục lạc thế gian, hoặc cầu mong quả vui mai hậu. Phát tâm như thế, đích thật là tà.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Danh lợi không ham, quả vui chẳng thiết, chỉ mong giải thoát, đạt đạo Bồ đề. Phát tâm như thế, được gọi là chánh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Niệm niệm liên tục, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Nghe Phật đạo cao siêu, không sinh sầu lo thoái chí; thấy chúng sinh khó độ, không sinh mệt mỏi sờn lòng. Như trèo núi cao muôn trượng, quyết lên thấu đỉnh; như leo tháp lớn chín tầng, phải leo tận nóc. Phát tâm như thế, được gọi là chân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có tội không sám hối, có lỗi không dứt trừ. Ngoài sạch trong dơ, trước siêng sau trễ. Tâm tuy tốt đấy, nhưng phần lớn bị danh lợi xen lẫn. Pháp tuy hay đấy, nhưng oan uổng vì bị vọng nghiệp nhuốm bẩn. Phát tâm như thế, đích thị là ngụy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cõi chúng sinh hết, nguyện tôi mới hết; đạo Bồ đề thành, nguyện tôi mới mãn. Phát tâm như thế, được gọi là đại.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xem ba cõi như lao ngục, nhìn sinh tử tợ oan gia, chỉ mong tự độ, không muốn độ người. Phát tâm như thế, chính là tiểu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngoài tâm nếu thấy có chúng sinh cần độ, có Phật đạo mong thành, công phu không xả, thấy biết không tan. Phát tâm như thế, chính là thiên.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu biết tự tánh là chúng sinh, nên nguyện độ thoát. Tự tánh là Phật đạo, nên nguyện tu hành. Không có pháp nào ngoài tâm riêng có. Đem tâm hư không mà phát nguyện hư không, tu hạnh hư không, chứng quả hư không. Cũng không có tướng hư không, có thể đắc chứng. Phát tâm như thế, được gọi là viên.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Biết được tám tướng khác nhau trên đây là biết cứu xét. Biết cứu xét là biết lấy bỏ. Biết lấy bỏ là biết phát tâm. Cứu xét như thế nào? Đem tâm mình ra để cứu xét, so với tám tướng nói trên để biết tâm mình là chánh, là tà, là chân, là ngụy, là đại, là tiểu, là thiên hay viên. Lấy bỏ thế nào? Bỏ tà, bỏ ngụy, bỏ tiểu, bỏ thiên. Lấy chánh, lấy chân, lấy đại, lấy viên. Phát tâm như thế mới gọi chân chánh phát tâm Bồ đề.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tâm Bồ đề này là pháp lành hàng đầu trong các pháp lành. Phát khởi được tâm ấy hẳn phải có nhân duyên. Tóm gọn có mười nhân duyên phát khởi.
<p style="padding-left: 56px;">(1) Nhớ nghĩ ơn nặng của Phật.
(2) Nhớ nghĩ công ơn cha mẹ.
(3) Nhớ nghĩ công ơn sư trưởng.
(4) Nhớ nghĩ công ơn thí chủ.
(5) Nhớ nghĩ công ơn chúng sinh.
(6) Nhớ nghĩ khổ đau sinh tử.
(7) Tôn trọng tánh linh của mình.
(8) Sám hối nghiệp chướng đã gây.
(9) Nguyện cầu vãng sinh Tịnh độ.
(10) Làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(1) <I>Thế nào là nhớ nghĩ ơn nặng của Phật?</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Thế Tôn Thích Ca Như Lai chúng ta khi mới phát tâm, vì tất cả chúng sinh tu Bồ tát đạo, trải vô lượng kiếp, nếm đủ mọi điều cay đắng gian lao. Khi ta tạo nghiệp, đức Phật rất xót thương, tìm cách giáo hóa, nhưng ta ngu si, chẳng chịu nghe theo. Ta đọa Địa ngục, Phật lại càng thương, muốn thay chịu khổ, nhưng ta nghiệp nặng, không phương cứu vớt. Ta sinh cõi Người, Phật dùng phương tiện, giúp trồng căn lành. Đời đời kiếp kiếp, Ngài luôn theo dõi từng tâm niệm, cứu vớt chúng sinh không lúc nào bỏ sót. Khi Phật xuất thế, ta còn chìm đắm, nay được làm người thì Phật đã diệt. Tội lỗi chi khiến ta sinh vào thời mạt pháp, phước đức nào mà ta được dự vào hàng ngũ xuất gia? Nghiệp chướng chi khiến ta không được thấy thân vàng của Phật, may mắn nào xui ta được thấy xá-lợi như vậy? Suy nghĩ như thế thì mới rõ lẽ: giả sử quá khứ không trồng thiện căn, làm sao hôm nay có thể được nghe Phật pháp?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Không nghe Phật pháp, làm sao biết mình thường thọ nhận ân của Phật? Ân đức ấy non sâu khó sánh. Trừ phi tự mình phát tâm rộng lớn, hành đạo Bồ tát, xây dựng đạo tràng, cứu độ chúng sinh; còn không thì dù cho thịt nát xương tan, cũng khó mà đền đáp xứng đáng. Đó là nhân duyên thứ nhất của sự phát tâm Bồ đề.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(2) <I>Thế nào là nhớ nghĩ công ơn cha mẹ?</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thương thay cha mẹ, sinh ta nhọc nhằn! Mười tháng cưu mang, ba năm bú mớm. Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn; ngậm đắng nuốt cay, ngọt bùi chẳng tưởng. Khổ công nhường ấy, ta mới thành người. Hy vọng về sau, tiếp nối gia phong, lo phần tế tự. Vậy mà, nay ta lại đi xuất gia, lạm xưng Thích tử, nhục hiệu Sa môn. Ngọt bùi không cung cấp, giỗ chạp chẳng lo toan. Lúc còn sống ta đã không chu toàn được miếng cơm manh áo, khi chết rồi ta lại chẳng đủ sức tiếp dẫn giác linh. Đối với thế gian là kẻ sống thừa, về mặt xuất thế cũng chẳng ích chi. Hai đường đều mất, tội nặng khó thoát. Suy nghĩ như thế, chỉ còn một cách là thường hành Phật đạo trong trăm kiếp ngàn đời, để cha mẹ nhiều kiếp đều được siêu thăng, không những cha mẹ một người mà cha mẹ của tất cả đều được cứu vớt. Đó là nhân duyên thứ hai của sự phát tâm Bồ đề.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(3) <I>Thế nào là nhớ nghĩ công ơn sư trưởng?</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cha mẹ tuy sinh ta, nuôi ta khôn lớn, nhưng nếu không có sư trưởng thế gian thì lễ nghĩa không biết; không có sư trưởng xuất thế gian thì Phật pháp không hay. Không biết lễ nghĩa thì có khác chi cầm thú, không tin Phật pháp ắt đồng với người phàm. Ngày nay, chúng ta có biết sơ qua ít nhiều về Phật pháp, lễ nghĩa cũng biết tạm đủ. Thân phủ ca sa, mình đượm giới phẩm. Công ơn lớn ấy chính nhờ sư trưởng mà có.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu cầu quả nhỏ, chỉ được lợi mình. Nay theo Đại thừa, nguyện đem lợi lạc đến khắp quần sinh, thì sư trưởng thế gian và sư trưởng xuất thế, cả hai đều được lợi ích, do ta cúng hiến. Đó là nhân duyên thứ ba của sự phát tâm Bồ đề.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(4) <I>Thế nào là nhớ nghĩ công ơn thí chủ?</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng ta ngày nay, đồ vật dùng hằng ngày chẳng phải do ta tự cấp. Cháo cơm ba bữa, quần áo bốn mùa, thuốc men trị bệnh, chi phí linh tinh… hết thảy đều do sức lực của kẻ khác làm ra, mang đến cho ta chi dùng. Họ thì dốc sức cày cấy, bụng chẳng đủ no; ta thì ngồi không an hưởng, mà lòng vẫn còn chưa thỏa. Họ thì đan dệt không ngừng tay, suốt đời gian khổ; ta thì may mặc đến thừa mứa, đâu biết tiếc thương. Họ thì nhà tranh vách lá, nghèo khó suốt đời; ta thì sân rộng nhà dài, thong thả quanh năm. Đem sức lao nhọc của họ để cung cấp cho sự sống an nhàn của ta, lòng sao yên được? Lấy cái lợi của người để bồi dưỡng thân ta sung sướng, như vậy xét theo lý, thì có thuận không? Nếu chẳng phải mình vận dụng hai đức bi trí, trang nghiêm hai quả phước tuệ để tín thí nương nhờ ơn đức, chúng sinh thọ nhận ân sủng, thì dù gạo chỉ một hạt, vải chỉ một ô, mà mình đã thọ cúng trước kia, đến nay đều phải trả đủ, không thì ác báo khó trốn. Đó là nhân duyên thứ tư của sự phát tâm Bồđề.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(5) <I>Thế nào là nhớ nghĩ công ơn chúng sinh?</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ta với chúng sinh, từ bao kiếp trước, hết đời nọ qua đời kia, từng làm cha mẹ của nhau. Ơn nghĩa qua lại, nhiều lớp nhiều tầng. Nay vì cách đời, cho nên hôn mê không nhận ra nhau. Cứ lý ấy mà suy, thì sao không biết đền đáp! Nay là loài mang lông đội sừng, biết đâu xưa kia không là con ta? Nay là loài bò, bay, máy, cựa, biết đâu xưa kia chẳng phải là cha mẹ ta? Thường thấy bao người, khi trẻ lìa xa gia đình, lúc lớn trở về dung mạo đổi khác không thể nhận ra. Huống nữa cha mẹ đời trước của ta, ngày nay kẻ thì họ Trương, người thì họ Vương, làm sao nhớ được? Họ đang gào thét trong Địa ngục, hoặc đang ngất ngư trong chốn Ngạ quỷ. Khổ đau ai biết, đói khát kêu ai? Ta tuy không thấy không nghe, nhưng họ thì luôn cầu xin cứu vớt. Nếu chẳng phải kinh điển thì không chỗ nào có thể nói rành việc ấy, nếu chẳng phải đức Phật thì không ai tả rõ cảnh này. Hạng người tà kiến không sao biết nổi! Bồ-tát nhìn sâu kiến, thấy toàn là cha mẹ quá khứ và chư Phật vị lai, cho nên thường nhớ cách giúp đỡ để báo đền ơn chúng. Đó là nhân duyên thứ năm của sự phát tâm Bồ đề.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(6) <I>Thế nào là nhớ nghĩ khổ đau sinh tử?</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ta cùng chúng sinh từ bao kiếp trước, sinh tử quẩn quanh, chưa hề thoát khỏi. Khi ở cõi Trời, lúc sinh cõi Người. Nơi kia chốn nọ, ra vào muôn lối, lên xuống nửa giây. Thoáng chốc làm Trời, thoáng chốc làm Người, thoáng chốc chui vào Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh. Cổng đen sáng ra chiều vào, hang sắt mới khép đã mở. Leo lên núi dao thì không còn mảnh da nguyên vẹn; vịn vào kiếm bén thì da thịt đều bị rách tan. Hoàn sắt nóng không trừ được đói, nuốt vào rồi gan ruột nát tan; nước đồng sôi không giải được khát, uống vào rồi xương thịt chín nhừ. Cưa bén xả thây, đứt xong liền nối; gió nghiệp thổi vào mặt, chết rồi lại sinh. Trong thành rực lửa, thảm thê tiếng thét rú lên; trên bàn xào nướng, tê tái tiếng gào vang vọng. Băng giá đông lại thì thân hình xanh như sen xanh kết nhụy, máu thịt rửa ra thì mình mẩy đỏ tựa sen hồng trổ hoa. Trong chốn Địa ngục, một đêm chết sống kể vạn lần; một buổi thọ hình chốn U minh so với nhân gian thì lâu tròn thế kỷ. Bao phen lính ngục ra tay nhọc mệt, nào ai chịu tin lời Diêm chúa răn khuyên. Lúc thọ hình mới kêu van khổ, nhưng dù hối cũng chẳng kịp nữa. Khi thoát rồi thì vội quên ngay, vẫn nghiệp cũ lại gây như trước. Xua heo vào lò mổ, nào ngờ cha mình sắp rã thây. Ăn thịt con mà không biết, ăn thịt cha mà chẳng hay, vua Văn Vương còn như thế thì phàm phu cũng thế thôi. Năm xưa ân ái, nay thành oan gia; thuở trước oán cừu, nay thành ruột thịt. Đời trước là mẹ, mà nay là vợ; thuở xưa là cha, nay lại là chồng. Lấy Trí túc mạng mà soi, thật đáng hổ thẹn biết mấy; dùng Thiên nhãn mà nhìn, thấy đáng chán, đáng cười biết bao! Trong bụng đầy phẩn, mười tháng rúc chui, hết còn chịu nổi; qua đường ngập máu, một phen lộn ngược sinh ra, đáng thương biết mấy! Nhỏ dại biết chi, kia đây chẳng rõ, lớn khôn dần hiểu, tham dục bèn sinh. Loáng thoáng mới đó, già đau đã tới, chẳng mấy chốc cơn vô thường lại đến tìm. Gió lửa trong lúc giao tranh, thần thức tơi bời rối loạn. Khí huyết bên trong vơi cạn, xương thịt bên ngoài teo khô. Không một kẽ chân lông nào không bị kim đâm, không một nơi khiếu huyệt nào không bị dao cắt. Rùa già đem nấu, lột được vỏ ra, e rằng còn dễ; thần thức sắp đi, phải lìa khỏi xác, khó gấp bội phần! Tâm không thường làm chủ, giống kẻ lái buôn khắp nơi rong ruổi; thân không hình cố định, khác nào phòng ốc nay đổi mai thay. Chỉ như mảy bụi ở trong ba ngàn cõi, thân nọ quay cuồng, nhấp nhô như sóng bốn biển, qua lại vô tận vô cùng, nước mắt ly biệt trào dâng kể sao cho xiết! Xương chồng chất vượt quá núi cao, thịt chứa nhóm nhiều hơn đất dày. Giả sử không được nghe lời Phật dạy, việc như thế ai thấy ai nghe. Không được xem kinh Phật, thì lý đó ai hay ai biết? Vậy mà có kẻ vẫn tham luyến như xưa, si mê không bỏ. Chỉ e ngàn đời muôn kiếp, một lầm trăm lẫn, dây dưa trăm kiếp. Thân người khó được mà dễ mất, vận may dễ qua mà khó tìm. Âm cảnh mờ mịt, ly biệt dài lâu. Ác báo ba đường, rồi phải tự chịu. Khổ không thể nói, ai chịu thay cho? Nhân nói đến đây, thật cảm thấy trong lòng lạnh lùng đau xót. Cho nên, phải dứt dòng sinh tử, thoát biển ái dục, mình người cùng thoát, bờ giác cùng lên. Công lao muôn kiếp, chính được bắt đầu từ buổi hôm nay. Đó là nhân duyên thứ sáu của sự phát tâm Bồ đề.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(7) <I>Thế nào là tôn trọng tánh linh của mình?</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tâm của chúng ta trong hiện tiền, so với đức Thế Tôn Thích Ca không hai không khác. Thế thì, vì sao Thế Tôn đã thành Chánh Giác từ vô lượng kiếp, còn chúng ta thì vẫn điên đảo hôn mê làm phàm phu? Lại nữa, Thế Tôn có đủ vô lượng thần thông trí tuệ, công đức trang nghiêm; còn chúng ta chỉ có vô lượng phiền não, nghiệp chướng, sinh tử buộc chặt? Tâm tánh chỉ một, do mê ngộ nên cách xa như trời vực. Cứ im lặng mà suy ngẫm lại xem, há chẳng thấy đáng xấu hổ sao? Ví như ngọc báu vô giá rơi xuống bùn nhơ, thì cũng xem giống như là ngói gạch, chẳng còn quý báu. Cho nên, phải dùng vô lượng thiện pháp để đối trị vô lượng phiền não. Có gia công tu đức, thì tánh đức mới sáng ra. Như ngọc báu được lau chùi, đem treo lên phướn cao thì tỏa ánh sáng rực chiếu, soi khắp tất cả. Thế mới đáng gọi là không phụ sự giáo hóa của Phật, chẳng phụ tánh linh của mình. Đó là nhân duyên thứ bảy của sự phát tâm Bồ đề.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(8) <I>Thế nào là sám hối nghiệp chướng?</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh dạy: <I>"Phạm một giới nhỏ, bị đoạ Địa ngục lâu bằng năm trăm tuổi thọ của cõi trời Tứ thiên vương"</I>. Cát La tội nhỏ mà còn như thế, huống nữa tội nặng thì quả báo lớn thật là khó nói? Trong nếp sống hàng ngày, một cử chỉ, một hành động của chúng ta thường trái với luật Phật! Khi ăn, lúc uống phạm giới bao phen! Kể cả các điều vi phạm, chỉ trong một ngày cũng đã vô lượng, huống nữa trọn đời nhiều kiếp, tội lỗi gây ra thì khó mà nói hết! Chỉ lấy riêng Ngũ giới mà nói, cứ mười người giữ đã hết chín người phạm. Phát lộ thì ít, che dấu thì nhiều. Ngũ giới là giới tại gia còn không giữ nổi; huống nữa các giới Sa di, Tỷ kheo, Bồ tát, thôi khỏi bàn đến! Hỏi đến danh nghĩa thì tự xưng ta là Tỷ kheo; nhưng xét về thực chất, thì chưa xứng để làm một Phật tử! Há chẳng đáng hổ thẹn sao? Nên biết rằng, giới Phật không thọ thì thôi, đã thọ rồi thì không được hủy phạm; không phạm thì thôi, đã phạm rồi thì khó tránh sa đọa. Nếu không vì xót thương mình, thương người, mà lệ rơi theo tiếng thiết tha, thân quỳ lạy thảm thiết, cùng với chúng sinh cầu xin sám hối, thì dù ngàn đời muôn kiếp ác báo khó bề tránh khỏi. Đó là nhân duyên thứ tám của sự phát tâm Bồ đề.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(9) <I>Thế nào là cầu sinh Tịnh độ?</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tu hành ở cõi này rất khó tiến đạo, nhưng được vãng sinh cõi kia thì việc thành Phật lại dễ dàng. Vì dễ dàng nên một đời có thể đạt được; vì quá khó cho nên muôn kiếp chưa chắc tựu thành. Vì vậy, Thánh Hiền đời trước, các vị đều thú hướng về đây; ngàn kinh muôn luận, chỗ nào cũng giải bày nghĩa này. Việc tu hành trong đời mạt pháp không còn pháp nào hơn được pháp ấy. Song, kinh nói rằng: <I>"Ít căn lành khó được vãng sinh, nhiều phước đức mới về cõi Tịnh"</I>. Nói phước đức dày, không chi bằng chấp trì danh hiệu; nói điều lành nhiều, phát tâm rộng lớn chiếm ưu tiên. Cho nên, chấp trì danh hiệu trong chốc lát, hơn hẳn công đức bố thí cả trăm năm; vừa phát được tâm Bồ đề rộng lớn, liền vượt trội công đức tu hành trong nhiều kiếp. Bởi vậy, niệm Phật là mong ước làm Phật, nếu tâm lớn không phát thì niệm cũng chẳng ích chi. Phát tâm là nhằm mục đích tu hành, nếu Tịnh độ không sinh thì tuy có phát tâm, nhưng cũng dễ thối chuyển. Thế thì gieo giống Bồ đề, phải cày bằng lưỡi cày niệm Phật, đạo quả tự nhiên tăng trưởng. Cỡi thuyền đại nguyện, vào được biển lớn Tịnh độ, quyết định vãng sinh Tây Phương. Đó là nhân duyên thứ chín của sự phát tâm Bồ đề.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(10) <I>Thế nào là làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài?</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế Tôn từ vô lượng kiếp, vì tất cả chúng ta mà tu đạo Bồ đề. Ngài làm được việc khó làm, nhẫn được điều khó nhẫn. Cho nên, khi nhân quả tròn đủ, Ngài mới thành Phật. Sau khi thành Phật, giáo hóa hoàn tất, Ngài vào Niết bàn. Nay thời chánh pháp đã qua, thời tượng pháp đã hết; dù Phật và pháp vẫn còn đó, mà không có người tu hành. Tà chánh chẳng phân, phải trái lẫn lộn. Tranh đua nhân ngã, toàn phường lợi danh. Ngước mắt nhìn quanh, mọi người đều như vậy, chẳng ai thoát khỏi. Mịt mù chẳng biết Phật là ai? Pháp là gì? Tăng nghĩa ra sao? Suy tàn đến thế, không thốt nên lời! Nhưng mỗi khi nghĩ đến những việc ấy, thì bất giác lệ tuôn. Ta là Phật tử mà không thể đền đáp công ơn Phật? Trong vô ích cho mình, ngoài chẳng lợi cho người. Sống vô ích cho đời, chết vô ích cho hậu thế. Trời tuy cao không che nổi ta, đất tuy dày không chở nổi ta. Người mang tội nặng, không phải ta thì là ai? Do đó, lòng đau không thể chịu nổi, toan tính cũng chẳng đề xuất được kế gì. Bỗng nhiên, vụt quên rằng mình quê mùa, chợt phát tâm trí rộng lớn. Tuy chưa thể kéo mạt vận trở lại ngay trong lúc này, nhưng quyết định phải hộ trì được chánh pháp mai sau. Cho nên, cùng các Thiện hữu dắt nhau đến đạo tràng, soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này. Phát bốn mươi tám đại nguyện, nguyện nào cũng nhằm hóa độ chúng sinh, cầu trăm ngàn kiếp thâm tâm, tâm nào cũng hướng đến chỗ làm Phật. Kể từ hôm nay cho đến tận cùng đời vị lai, thề hết thân này, thề quyết phải sinh về An Dưỡng. Sau khi lên xong chín phẩm, trở lại Ta bà<SUP><B>(25)</B></SUP>, khiến cho mặt trời Phật pháp sẽ được sáng lại, cửa vào chánh pháp phải được mở toang. Tăng chúng thanh tịnh ở cõi này, nhân dân được độ khắp tất cả. Kiếp vận nhờ đó kéo dài, chánh pháp do đây bền vững. Đây là tâm nguyện chân thành, từng được thiết tha ấp ủ! Đó là nhân duyên thứ mười của sự phát tâm Bồ đề.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như vậy, mười duyên đã biết, tám tướng đã rõ. Thú hướng có lối, khai phát có nơi. Chúng ta đã được làm người, được ở đất có văn hóa, sáu căn không thiếu, cơ thể mạnh khỏe, đầy đủ tín tâm, may mắn không gặp ma chướng. Huống nữa còn được xuất gia, thọ giới Cụ túc, được gặp đạo tràng, được nghe Phật pháp, được tu sám pháp, được gặp bạn lành, được đủ duyên may. Như thế, nếu hôm nay không chịu phát tâm rộng lớn thì đợi đến bao giờ?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cúi xin đại chúng xót thương cho tấm lòng thành ngu muội của tôi, thương tiếc xét cho cái chí nguyện khổ sở của tôi, để cùng nhau cùng lập nguyện ấy, cùng phát tâm này. Ai chưa phát thì nay phát, ai phát rồi thì nên tăng trưởng, ai tăng trưởng rồi thì nay cứ tiếp tục. Đừng thấy khó mà sợ hãi lùi bước, đừng cho dễ mà khinh thường, đừng ham mau mà không giữ được bền lâu, đừng lười nhác mà mất lòng dõng mãnh, đừng rụt rè mà giảm khí thế đang lên, đừng vì chần chờ mà hẹn nay, hẹn mai. Đừng tự cho mình ngu mà buông thả tất cả, đừng vì căn cơ chậm lụt mà mặc cảm rằng mình không được dự phần. Ví như trồng cây, trồng lâu thì rễ lần càng ăn sâu. Lại ví như mài dao, mài hoài thì dao cùn cũng phải bén. Đâu nên vì cạn mà không trồng, để mặc cho cây khô héo; hay vì cùn mà không mài, để mặc cho dao sét rỉ, thành vật vô dụng. Lại nữa, nếu bảo tu là khổ, đâu biết lười biếng lại khổ hơn. Tu chỉ nhọc nhất thời mà an vui vĩnh viễn, lười biếng thì tạm thong thả một đời mà chịu khổ muôn kiếp. Huống nữa, lấy pháp môn Tịnh độ làm tàu thuyền, thì lo gì thối chuyển; lại thêm có trí tuệ vô sinh làm sức đẩy, thì ngại gì gian nan. Nên biết, tội nhân ở Địa ngục còn phát tâm Bồ đề từ kiếp trước; nay được làm người lại là Phật tử, sao không lập đại nguyện ngay trong đời này?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì hôn mê từ bao kiếp trước, nên những gì qua rồi không thể cản ngăn. Nhưng ngày nay đã tỉnh ngộ, thì những gì sắp đến còn có thể đón bắt. Còn nếu mê mà chưa tỉnh đương nhiên là việc đáng thương, nhưng biết mà không làm mới thật là điều đáng tiếc. Nếu sợ cái khổ Địa ngục thì tự sinh khởi tinh tấn, nếu nghĩ cái chết gần kề thì sẽ không còn lười nhác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại nữa, phải lấy Phật pháp làm roi giục, lấy bạn lành làm tay dắt. Vội mấy cũng không rời, trọn đời luôn bám chặt. Như vậy, không còn lo gì thối chuyển nữa. Chớ bảo rằng một niệm chẳng đi đến đâu, đừng cho rằng nguyện suông chẳng ích gì. Tâm chân thì việc thật, nguyện rộng lớn thì tâm hạnh sâu xa. Hư không chẳng có rộng lớn, tâm vương mới là rộng lớn; kim cương chẳng bền chắc, chỉ nguyện lực mới bền chắc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu đại chúng thật tâm, không vứt bỏ lời tôi, thì xin nguyện cùng làm quyến thuộc Bồ đề, bạn lành Tịnh độ. Nguyện cùng sinh Tịnh độ, cùng thấy Di-đà, cùng độ chúng sinh, cùng thành Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Biết đâu, ba mươi hai tướng tốt và trăm phước trang nghiêm sau này, chẳng phải bắt đầu từ buổi phát tâm lập nguyện hôm nay! Nguyện cùng đại chúng cùng nhau gắng sức!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Rất mong lắm thay! Rất mong lắm thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">(25) <B>Ta Bà</B>: Chỉ cho thế giới Ta Bà, tức là thế giới hiện thực do đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa. Chúng sinh trong thế giới này làm mười điều ác, chịu đựng các phiền não mà không muốnlìa bỏ, vì thế gọi là nhẫn. Lại khi chư Phật, Bồ tát làm việc lợi lạc ở thế gian này, các ngàiphải chịu mọi thứ phiền não, để biểu thị lòng vô úy và từ bi của các ngài, cũng gọi là nhẫn. Ta Bà còn được dịch là tạp ác, tạp hội, nghĩa là cõi Ta Bà là chỗ Tam ác, Ngũ thú tụ hội phức tạp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngoài ra danh từ Ta Bà chỉ cho cõi Diêm Phù Đề, nơi cư trú của chúng sinh. Đời sau, Ta Bà trở thành một thế giới Tam thiên đại thiên do đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa, cho nên gọi chung thế giới có trăm ức núi Tu Di là Ta Bà.</P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>8. Tin sâu nhân quả</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đã quyết định bước đi trên con đường huyền diệu, phải nên tẩy rửa tâm tư nơi đạo lớn, tin sâu nhân quả thế gian, xét rõ cội nguồn xuất thế. Muốn xét tận cùng nguồn cội, thì phải xét ở chỗ chính yếu; mà chỗ chính yếu phải từ nơi dụng, dụng ấy có lẽ lại từ nơi tâm chăng? Tâm bao gồm cả vạn hạnh, hội thông nơi muôn loài. Bởi lẽ, tâm không phải là pháp thường hằng, nên nương nơi thiện và ác mà thay đổi tác dụng. Vì tội và phước như bóng với hình nên nhân quả không trái nhau. Thế nên biết, đi vào cảnh mà động gọi đó là nhân; động mà sinh khởi ý thức gọi đó là duyên, duyên khởi thì nghiệp theo nhau, có nghiệp thì nhất định có quả báo. Do đó, những hành vi thiện ác là nhân của thế gian; còn Tam giới<SUP><B>(26)</B></SUP>, Lục đạo<SUP><B>(27)</B></SUP>, Cửu hữu<SUP><B>(28)</B></SUP>, Tứ sinh<SUP><B>(29)</B></SUP> là quả của thế gian. Pháp môn niệm Phật là nhân xuất thế gian; cửu phẩm hóa sinh thành Phật nơi Tịnh Độ là quả của xuất thế gian.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong lòng hiểu rõ nhân quả như ở trên, do đó không ưa thích pháp thế gian. Đối với pháp xuất thế thì tâm hạnh không trái ngược, niệm niệm không quên Tịnh Độ, tâm tâm chẳng rời Di Đà. Làm sao biết được như thế? Vì hiện nay là nhân, lúc lâm chung là quả. Nên biết, nhân chân thật thì quả không hư dối.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hai con đường thiện ác, hai quả báo khổ vui đều từ nơi ba nghiệp<SUP><B>(30)</B></SUP> tạo nên, bốn duyên<SUP><B>(31)</B></SUP> sinh ra, sáu nhân<SUP><B>(32)</B></SUP> làm thành, năm quả<SUP><B>(33)</B></SUP> thâu nhiếp. Nếu một tâm niệm sân hận hoặc tà dâm là nghiệp Địa ngục, xan tham không chân thật là nghiệp Ngạ quỷ; ngu si tăm tối là nghiệp Súc sinh; ngã mạn cống cao tức là nghiệp A tu la; giữ vững năm giới là nghiệp Người; tinh chuyên tu mười điều lành là nghiệp Trời; chứng ngộ nhân không là nghiệp Thanh văn; rõ lý duyên khởi là nghiệp Duyên giác; tu hành Lục độ<SUP><B>(34)</B></SUP> là nghiệp Bồ tát; chân thật, từ bi, bình đẳng là nghiệp Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu tâm thanh tịnh thì hóa sinh nơi cõi Tịnh, đài hương cây báu; tâm cấu uế thì thọ thân nơi thế giới nhơ xấu, gò nổng, hầm hố. Đó đều là quả báo ngang nhau, vì hay đồng cảm nên nhân duyên tăng trưởng mãi. Vì vậy, rời tự tâm, không có thể tánh nào khác. Kinh <I>Duy Ma</I> nói: "<I>"Muốn được Tịnh Độ, chỉ cần thanh tịnh tâm mình"</I>. Thế nên biết, tất cả đều trở về tâm, muôn pháp đều do nơi mình. Muốn thành tựu quả thanh tịnh, chỉ cần thực hành nhân thanh tịnh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hơn nữa, hạng Xiển Đề<SUP><B>(35)</B></SUP> do tà kiến sâu dày, nên nhất định phải rơi vào Địa ngục ngàn kiếp; vì chê bai bài bác rằng không có nhân quả, đó chính là quyến thuộc của ma. Nếu quán xét sự báo ứng giống như hình với bóng, tin có nhân quả rõ ràng, thì mới thấy thật là đáng kinh sợ!
<p style="padding-left: 56px;"><I>Khổ qua đắng tới gốc
Dưa ngọt, ngọt tận rễ.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(26) <B>Tam giới</B>: Chỉ cho Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. <I>Dục giới</I>: Thế giới của loài hữu tình có tính dâm dục, sắc dục và thực dục cư trú. Trên từ cõi trời Tha Hóa Tự Tại thứ sáu, giữa gồm bốn đại châu cõi người, dưới đến địa ngục Vô gián. Vì nam, nữ ở lẫn lộn, nhiềuthứ dục nhiễm nên gọi Dục giới.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>b. Sắc giới</I>: Sắc có nghĩa là biến ngại hoặc thị hiện, là thế giới cư trú của loài hữu tình đã xa lìa dâm dục của cõi Dục, nhưng vẫn còn có sắc chất thanh tịnh. Cõi này ở phía trên cõi Dục, không có các htứ dục nhiễm, cũng không có thân nữ. Chúng sinh ở cõi này đều do hóa sinh, cung điện cao lớn, là do sự hóa sinh của sắc, tất cả đều thù thắng đẹp đẽ. Vì cõi vẫn còn sắc chất, nên gọi là Sắc giới. Cõi này tùy theo thiền định sâu cạn, thô diệu mà được chia làm bốn bực, từ Sơ thiền Phạm Thiên cho đến A Ca Nị Tra Thiên, tất cả có mười tám tầng trời.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">c. <I>Vô sắc giới</I>: Thế giới cư trú của loài hữu tình chỉ có thọ, tưởng, hành, thức, không có một vật gì là vật chất, cũng không có thân thể, cung điện, quốc độ, chỉ có tâm thức trụ trong thiền định sâu xa mầu nhiệm, nên gọi là Vô sắc giới. Thế giới này ở phía trên cõi Sắc, có tất cả bốn tầng trời (Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Phi Tưởng Xứ) cũng gọi là Tứ vô sắc, Tứ Không xứ.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(27) <B>Lục đạo</B>: Chỉ cho sáu đường thọ sinh thùy theo nghiệp lực của chúng sanh:
<p style="padding-left: 66px;">a. Địa ngục.
b. Ngạ quỷ.
c. Súc sinh.
d. Tu la.
e. Người.
f. Trời.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong đó, ba đường trước gọi là ba ác đạo, ba đường sau gọi là ba thiện đạo.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(28) <B>Cửu hữu</B>: Chín chỗ cư trú của chúng hữu tình, tức trời, người nơi cõi Dục, trời Phạm Chúng, trời Cực quang Tịnh, trời Biến Tịnh, Trời Vô Tưởng, trời Không Vô Biên, trời Thức Vô Biên, trời Vô Sở hữu, trời Phi Tưởng Phi Phi tưởng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(29) <B>Tứ sinh</B>: Chỉ cho bốn loài hữu tình trong sáu đường thuộc ba cõi, gồm:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. Noãn sinh: (Andajayoni) loài sinh ra từ trứng như: ngỗng, khổng tước, gà, rắn, cá, kiến.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. Thai sinh (Jalabuja, còn gọi là Phúc sinh): Loài sinh ra từ thai mẹ, như người, ngựa, voi, trâu, bò, heo, dê, lừa...
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. Thấp sinh (Samsedaja, còn gọi là Nhân duyên, Hàn nhiệt hòa hợp sinh): Loài sinh ra từ khí ẩm ướt ở những nơi ẩm thấp như các loài thiêu thân, muỗi, sâu, mối mòng, sâu mè...
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">d. Hóa sinh (Opapatika): Loài không chỗ nương tựa bỗng nhiên sinh ra gọi là Hóa sinh như các loài hữu tình: chư thiên, địa ngục, trung hữu, đều do nghiệp lực đời quá khứ mà hóa sinh.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(30) <B>Ba nghiệp</B>: Thân, miệng, ý.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(31) <B>Bốn duyên</B>:
<p style="padding-left: 66px;"><I>a. Nhân duyên</I>: Tự thể sinh tự quả là nhân, lấy nhân làm duyên.
b. <I>Đẳng vô gián duyên</I>: Tâm và tâm sở lần lượt không gián đoạn tiếp nối sinh khởi.
c. <I>Sở duyên duyên</I>: Tâm và tâm sở theo duyên mà sinh, hay là chỗ mà tự tâm duyện lự (nghĩ ngợi).
d. <I>Tăng thượng duyên</I>: Sáu căn soi cảnh vật phát khởi thức, có lực dụng tăng thượng, khi các pháp sinh, chẳng sanh chướng ngại.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(32) <B>Sáu nhân</B>: Luận về thể của nhân, có sáu thứ: năng tác nhân, câu hữu nhân, đồng loại nhân, tương ưng nhân, biến hành nhân và dị thục nhân.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(33) <B>Năm quả</B>: Là quả hữu vi, vô vi do sáu nhân sinh ra và từ đạo lực mà chứng được:
<p style="padding-left: 66px;">a. <I>Đẳng lưu quả</I>, còn gọi là Tập quả.
b. <I>Dị thục quả</I>, còn gọi là Báo quả.
c. <I>Ly hệ quả</I>, còn gọi là Giải thoát quả.
d. <I>Sĩ phu quả</I>, còn gọi là Công dụng quả.
e. <I>Tăng thượng quả</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong đó, Ly hệ quả thuộc về quả vô vi, bốn quả còn lại đều thuộc về hữu vi.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(34) <B>Lục độ</B>: Sáu hạnh rốt ráo mà Bồ tát Đại thừa cần phải thực hiện để đạt đến Phật quả. Sáu hạnh là:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. <I>Bố thí Ba la mật</I> (Thi Ba la mật, Đàn na Ba la mật, Bố thí độ vô cực): Nghĩa là bố thí một cách rốt ráo viên mãn, gồm tài thí, pháp thí và vô úy thí. Hạnh này dùng để đối trị với tham lam bỏn xẻn, tiêu trừ được bần cùng.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. <I>Trì giới Ba la mật</I> (Giới Ba la mật, Thi La Ba la mật, Giới độ vô cực): Giữ gìn giới luật một cách trọn vẹn để đối trị với nghiệp ác, khiến cho thân tâm được an lạc.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. <I>Nhẫn nhục Ba la mật</I> (Nhẫn Ba la mật, Sằn đề Ba la mật, Nhẫn nhục độ vô cực): Nhẫn nhục mà không trụ tướng để đối trị với sân hận, khiến cho tâm được an trụ.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">d. <I>Tinh tấn Ba la mật</I> (Tấn Ba la mật, Tì lê da Ba la mật, Tinh tấn độ vô cực): Tự khuyến thân tâm thực hành không gián đoạn năm Ba la mật kia, để đối trị với lười biếng, làm tăng trưởng pháp lành.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">e. <I>Thiền định Ba la mật</I> (Thiền Ba la mật, Thiền na Ba la mật, Thiền độ vô cực): Thiền định thù thắng nhất. Bồ tát tu thiền định này có thể đến cảnh giới cứu cánh.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">f. <I>Trí huệ Ba la mật</I> (Huệ Ba la mật, Bát nhã Ba la mật, Minh độ vô cực): Trí huệ vô phân biệt. Nương vào trí huệ này có thể thành tựu năm Ba la mật kia.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu phối hợp sáu Ba la mật này với tam học là giới, định, tuệ, thì thí giới, nhẫn thuộc về Tăng thượng giới học; Thiền Ba la mật về Tăng thượng tâm học; Bát nhã Ba la mật thuộc về Tăng thượng huệ học, còn Tinh tấn Ba la mật thì thông cả tam học.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tông Pháp tướng lại chia trí huệ Ba la mật thành bốn loại: phương tiện, nguyện, lực, trí cùng với sáu Ba la mật thành mười Ba la mật cũng là thắng hạnh của Bồ tát.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(35) <B>Xiển đề</B>: Chỉ những chúng sinh ưa thích sanh tử, không mong cầu xuất ly. Cho nên, các kinh chú <I>Lăng Già</I>, phần nhiều cho rằng Xiển đề rốt cuộc không thể thành Phật. Xiển đề thành Phật là thuyết của kinh <I>Đại Bát Niết Bàn</I>. Tư tưởng căn bản của kinh này là chủ trương tánh Phật thường trụ và hết thảy đều có, do đó cho rằng Nhất Xiển đề cũng có tánh Phật, cho dù có dứt mất căn lành thì tánh Phật vẫn thường trụ không thay đổi, cuối cùng cũng có thể thành Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">9. <B>Đọc tụng kinh điển Đại thừa</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đã có lòng hâm mộ cõi Tây Phương, thì phải nên tìm cầu nghĩa lý rốt ráo để tu hành. Tuy trong chỗ tối tăm có báu vật, nhưng nếu không có đèn soi rốt cuộc cũng không thể tìm thấy được. Gương xưa chôn vùi trong cát bụi, nếu chẳng chùi lau thì làm sao ánh sáng hiển bày. Thế nên, cần phải điều phục ba nghiệp, cứu xét một tâm; chân thật tôn kính văn kinh, nghiền ngẫm ý nghĩa huyền diệu của bậc Thánh; vào sâu cội nguồn giáo pháp, thấu rõ cơ dụng của chư Phật. Đường nghĩa lý đã thông suốt, thì tự nhiên thấy rõ hoa tâm. Đâu chẳng nghe nói: <I>"Dây leo nương nơi tùng bách mà bò lên cao ngàn trượng, nương nhờ nhân thù thắng mới có được lợi ích rộng lớn"</I>. Như cây quế mọc ở non cao, nhờ mây sương mới được trổ hoa tươi thắm; sen mọc trên sóng biếc, bụi bay chẳng thể ô nhiễm lá xanh. Tuy tính chất của sen tự thanh khiết, quế vốn kiên trinh, nhưng bởi vì nương tựa chỗ cao thì vật nhỏ không thể làm lụy, nương dựa vào nơi thanh tịnh thì vật uế trược chẳng thể làm nhiễm ô. Cây cối vô tri còn nhờ chỗ tốt mà trở thành tốt đẹp vẹn toàn như thế, thì con người có tâm thức, đâu thể không nhân nơi tâm mình mà chứng ngộ tâm Phật. Há chẳng nghe Đại sư Trí Giả tụng <I>Pháp Hoa</I> thấy Linh Sơn chưa tan pháp hội. Thiền sư Khuê Phong đọc <I>Viên Giác</I> bỗng nhiên tâm địa khai thông. Phổ Am khế hội ý chỉ kinh <I>Hoa Nghiêm</I>, đạt đến cội gốc quên hết tình chấp. Lục Tổ nhân câu kinh: <I>"Nên không trụ vào đâu"</I> (ưng vô sở trụ), mà tỏ ngộ tông chỉ Bát nhã. Xét thấy các bậc Cao đức thuở xưa còn tuân theo như vậy, lẽ nào người đời nay lại không lấy đó để học tập?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Qua sông phải dùng thuyền
Đến bờ thuyền bỏ lại.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">10. <B>Khuyên bảo mọi người tiến tu</B>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từ bi rộng lớn là môn học Phật đầu tiên, là con đường chính của Bồ tát. Khuyên bảo tiến tu là hạnh chủ yếu làm lợi ích mọi người, là nhân thù thắng của Tịnh nghiệp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Các bậc Hiền trong Liên Xã thời Tấn, đều nguyện sinh về An Dưỡng. Hải chúng khắp mười phương, đều ưa thích ra khỏi Ta bà. Than ôi! Sinh tử khó thoát ra, vô thường thật mau chóng. Như thế, có thể không noi theo các bậc Hiền triết, vui thích thực hành và dẫn dắt lớp người đi sau chăng?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khuyên một người, hai người, cho đến nhiều người, đó là sự bố thí pháp trong nhà Phật. Niệm một đức Phật, hai đức Phật, cho đến muôn đức Phật, nhằm để tiến đến đạo diệu huyền Cực Lạc. Định khóa mỗi ngày niệm ngàn câu Phật, tích lũy từ tháng đến năm thì có ba mươi sáu vạn câu Phật. Tích lũy không lười biếng, thì cũng gần với địa vị Phật. Mỗi ngày làm một việc thiện nhỏ, tích lũy từ tháng đến năm thì có ba trăm sáu mươi việc lành. Siêng năng tích lũy, thì cũng gần với bậc quân tử.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Là kẻ ngu, là tiểu nhân mà không biết sám hối ắt đồng với cầm thú, bởi vì họ không học, cũng không có người khuyên bảo. Kinh nói: <I>"Nếu người đem bảy loại báu khắp bốn thiên hạ để cúng dường Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn được phước rất nhiều, nhưng chẳng bằng khuyên người niệm Phật một câu, phước đức này còn hơn phước đức của người kia"</I>. Đó là lời khuyên bảo của đức Thế Tôn. Luận ngữ nói: <I>"Mình muốn thành lập nên giúp người thành lập; mình muốn thành đạt nên giúp người thành đạt"</I>. Đó là lời khuyên bảo của Khổng Tử<B>(36)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nên, cần phải khuyến khích đồng bạn tu tập Tịnh hạnh. Hoặc tháng giêng, tháng năm, tháng chín cùng nhau họp mặt một lần; hoặc lấy thời gian nửa năm, một năm, ba năm làm một kỳ hạn để gặp nhau, trồng sâu căn lành đều hồi hướng khắp tất cả chúng sinh. Thường vì bạn đạo giúp đỡ lẫn nhau, một người thối lui biếng nhác thì chung sức nắm tay dẫn dắt tiến lên. Một người bỏ tu tập theo phàm tục, thì bạn bè lần lượt quan tâm, giúp đỡ. Tuy không thể truyền bá giáo pháp lợi ích rộng khắp mọi loài, nhưng cũng có thể ôn cũ để biết mới. Đâu chẳng thấy cho người một đồng tiền, mà người còn gọi là nhận ân huệ; giúp người một lời có ích, lẽ nào họ lại không hay biết? Bố thí tiền của chỉ cứu giúp nghèo khó trong một đời, bố thí thức ăn chỉ cứu giúp sinh mạng trong một ngày, nhưng bố thí giáo pháp có thể khiến người ra khỏi thế gian, công đức này đâu thể so sánh được! Bố thí tiền của như ngọn đèn chỉ soi sáng một căn nhà, bố thí pháp như mặt trời soi khắp cả đại thiên thế giới. Lẫn tiếc giáo pháp không khuyên người tu tập, thì nhiều kiếp chìm trong Địa ngục tối tăm. Suy xét nơi tâm mình mà thực hành hóa đạo, thì ngay hiện đời tức là A Di Đà.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dám mong mọi người vận dụng lòng từ của mình mà khuyến khích lẫn nhau, dùng bi nguyện kết duyên thanh tịnh, cứu vớt những kẻ đắm chìm trong vòng sinh tử. Đây là lối tắt thoát khỏi nẻo luân hồi, cùng nhau lên Tịnh độ, để mong báo đáp ân đức Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, đáng gọi là: <I>"Người chưa hóa độ, nay được độ".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(36) <B>Khổng Tử</B>: Tên là Khâu, tự Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 trước Công nguyên, vào thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Nhiều sử sách ghi rằng ông sinh trong một gia cảnh nghèo, nhưng thực tế gia đình ông có ông tổ ba đời vốn thuộc dòng quý tộc sa sút từ nước Tống dời đến nước Lỗ. Cha của Khổng Khâu, Thúc Lương Ngột (cháu 13 đời của Vi Tử Diễn, anh của vua Trụ nhà Thương), là quan võ thuộc ấp Trâu, đến 70 tuổi mới lấy Nhan Thị mà sinh ra ông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm lên ba, Khâu mồ côi cha, lớn lên phải làm lụng vất vả để nuôi mẹ, nhưng rất ham học. Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và làm một chức quan nhỏ coi kho. Năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học. Học trò gọi ông là Khổng Phu Tử, hay gọi gọn hơn là Khổng Tử. "Tử" ngoài ý nghĩa là con ra, còn có ý nghĩa là thầy. Do vậy Khổng Phu Tử là thầy Khổng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong suốt gần 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp các nước trong vùng để truyền bá các tư tưởng và tìm người dùng các tư tưởng đó. Có nơi ông được trọng dụng nhưng cũng có nơi ông bị coi thường. Năm 51 tuổi, ông quay lại nước Lỗ và được giao coi thành Trung Đô, năm sau được thăng chức Đại Tư Khấu (coi việc hình pháp) kiêm quyển Tể Tướng. Sau ba tháng, nước Lỗ trở nên thịnh trị. Nhưng rồi bị ly gián, dèm pha, ông bèn từ chức và lại ra đi một lần nữa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạyhọc và bắt tay vào sọan sách. Trong những năm cuối cùng này, ông đã soạn ra bộ <I>Ngũ Kinh</I>. Ông mất tháng 4 năm 479 trước Công nguyên, thọ 73 tuổi.</P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER><B>LIÊN TÔNG BẢO GIÁM</B>
QUYỂN HAI
Thiên thứ hai
<B>CHÁNH GIÁO NIỆM PHẬT</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp giới vốn không có chúng sinh, thấy có chúng sinh là do có vọng kiến <I>(cái nhìn phân biệt, chấp trước)</I>. Như Lai vốn không lời dạy, có lời dạy là vì muốn độ thoát loài hữu tình. Vọng kiến là bệnh của chúng sinh, lời dạy là thuốc của chúng sinh. Lấy thuốc trị bệnh thì bệnh đều được lành, lấy lời nói để thức tỉnh sự mê vọng thì mê vọng đều trở thành giác ngộ. Tất cả đều ở trong sinh hoạt hàng ngày của phàm phu mà họ chẳng hay biết, nên đạo của Như Lai hiếm người nhận được. Do đó, bậc Đại Giác Năng Nhân thương xót mọi loài chưa tỏ ngộ, nên phát khởi lòng từ bi rộng lớn chỉ dạy khuôn phép khéo léo. Thời <I>Hoa Nghiêm</I> khai thị một cách viên đốn, hàng Thanh văn còn như kẻ điếc, người mù; thời <I>A Hàm</I> thì phương tiện tùy thuận căn cơ, nên Bồ tát chưa được lợi ích; thời <I>Phương Đẳng</I> thì tán thán Đại thừa; thời <I>Bát Nhã</I> lại quét sạch không còn; đến thời <I>Niết Bàn</I> thì mọi đường khác nhau cùng trở về một lối, và thời <I>Pháp Hoa</I> thì đều thọ ký cho tất cả. Thế nên, bao nhiêu kinh điển đều khen ngợi Tây Phương, bởi lẽ Phật A Di Đà có nguyện rộng lớn, duyên sâu dày. Giáo pháp tôn quý, nghĩa lý đầy đủ nên được như thế. Giáo thì chỉ cho cõi Phật, là chỗ trở về. Ao hoa, đất báu trang nghiêm thắng diệu, khiến người ưa thích cõi ấy mà chán nản thế giới này. Lý thì chỉ rõ Di Đà là tánh thật của chính mình, mỗi niệm tròn sáng, tâm tâm đều là thật tướng, như biển cả dung nạp trăm dòng. Hạnh thì mở ra mười sáu pháp quán<SUP><B>(37)</B></SUP>, thu nhiếp tâm nơi cảnh mầu nhiệm, thấu rõ tánh tướng đều rỗng không, như gương sáng thấy rõ mặt mình. Quả thì chín phẩm hóa sinh theo thứ bậc, thu nhiếp cả căn cơ lợi độn, đồng lên bậc Bất thối, tiến đến đạo giác ngộ tột cùng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nên, chúng sinh trong chín pháp giới<SUP><B>(38)</B></SUP>, dùng tâm thấu rõ đạo lý không có được gì cả để tu hạnh vi diệu Tịnh độ. Việc ấy chẳng phải là điều nên làm hay sao? Hoài bão xuất thế của Như Lai ở trọn nơi đây. Những lời nói nghiêng về tán dương Tịnh độ đích thực có ý chỉ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp môn này thật là cửa chính yếu của trăm ngàn Tam muội, là con đường thẳng đạt đến cảnh giới chân thật. Luận về sự nghi thì sám hối sáu căn sạch trong ba nghiệp; cứu xét tông chỉ thì vạn pháp rỗng không, thấu rõ nhất tâm. Đó gọi là chiếc thuyền kiên cố vượt qua biển khổ, là thuốc hay cứu chữa bệnh cấp bách. Người tin đạo này thì khai mở tâm sáng suốt vốn sẵn có, thoát khỏi nỗi khổ trong cõi đời Ngũ trược, đạt được Tịnh độ chân thật, tỏ ngộ bản tánh Di Đà. Giống như trăng sáng giữa trời không, ví tợ hoa sen ra khỏi nước, cho nên giáo pháp này được gọi tên là Liên tông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Dương Vô Vi nói: <I>"Liên là ra khỏi bùn lầy mà chẳng bỏ thế giới chúng sinh. Hoa sen ở trong hư không vô nhiễm hiển lộ thể tánh thanh tịnh. Hoa có hạt, chẳng phải là cảnh giới ma. Hoa, hạt đồng thời, nhân quả như một. Hoa nở hạt sen hiện là bày tỏ quyền biến và chân thật. Hoa rụng, hiển lộ hạt sen là phế bỏ quyền biến lập chân thật. Một hạt sen sinh ra vô lượng hoa là dựng lập tất cả pháp. Mười phương đồng một hoa tạng là biểu thị cảnh Phật không khác biệt. Ý nghĩa của giáo pháp Liên tông đâu chẳng phải như thế sao?"</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nên, vận dụng lòng từ bi, dạo chơi nơi cõi Thường Tịch Quang<SUP><B>(39)</B></SUP>; giới hạnh trong sáng thấu suốt giáo nghĩa rộng lớn sâu xa, bơi lội trong bể cả giải thoát. Do đó, được Thiên Long hộ trì, vua quan tôn kính. Xưa nay, sự giáo hóa này chẳng suy vi, sĩ dân đồng ngưỡng mộ đạo phong. Nếu chẳng phải do sức mạnh của tâm từ bi rộng lớn, thương xót an ủi chúng sinh tu tập trong thời mạt pháp, thì ai có thể làm được như thế? Vì vậy, Bồ-tát Long Thọ dùng luận để chứng minh; các bậc Hiền ở Liên Xã thời Đông Tấn cùng nhau tu hành; ngài Thiên Thai phân định giáo pháp và giải thích; ngài Từ Ân soạn <I>Thông Tán</I>, ngài Từ Chiếu biên tập <I>Sám Nghi</I>; ngài Tông Đản làm sớ giải. Cao tăng, danh Nho phụng trì tôn kính như nhóm họp châu báu; cao Hiền, đạt sĩ tu tập, sử sách còn ghi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Than ôi! Phật pháp dần suy, cách Thánh càng xa. Kẻ thờ Phật thì nhiều, người vì đạo lại ít, chỉ lấy việc cạnh tranh tiếng tăm, lợi dưỡng làm tài năng của mình, xem sự truyền bá chánh pháp là trò của trẻ con. Vì thế, khiến cho pháp môn suy tàn, cương lĩnh giáo pháp bị nghiêng đổ. Thật phải nhờ người Hiền đời sau khắc phục gánh vác đạo này. Mong khắp tất cả mọi người hãy quên thân vì pháp, suy xét lại chính mình để nương tựa theo bậc thầy sáng suốt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Muốn đạt được Chân thừa, trước hết cần phải nghiên cứu giáo điển; tiếp thu giáo pháp mới có thể hiểu rõ nghĩa lý, hiểu rõ nghĩa lý sau đó mới tu hành. Hạnh nguyện không thiếu thì có thể chứng đắc đạo quả. Thế nên biết, khi tai nghe mắt thấy phải y theo bốn pháp để suy tư tu tập. Miệng tụng mà tâm trái ngược, dù hiểu biết ngàn chương nào có ích gì. Đó chính là: đối với tâm thì lấy giáo pháp để soi sáng, đối với Phật thì lấy việc xưng niệm để giữ gìn; đối với sai quấy thì lấy giới luật để ngăn ngừa; đối với tội lỗi thì lấy sám hối làm cho trong sạch. Đối với người tu đạo cần phải thực hành chân thật, việc làm nên phù hợp với lễ nghi; gần thì mong lập thân vang danh, xa thì mong chuyển phàm thành Thánh. Phát huy đạo của Phật Tổ, ngoài chúng ta ra thì còn ai thực hiện điều đó?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nắm chặt thanh gươm trí tuệ, chém nát mạng lưới ma quân; uống cam lồ chánh pháp, phá tan rừng rậm tà kiến. Tránh bạn ác như tránh hổ lang, thờ bạn lành như thờ cha mẹ. Cẩn thận giữ gìn ý chí, chớ nên thối thất đại tâm. Noi theo bậc Chánh Giác, chớ làm các việc trái với đạo; có lỗi cần phải mau sửa đổi, có điều hay chớ nên khoe khoang. Nếu làm được như vậy thì tự nhiên tai họa tiêu trừ, phước lành hội tụ, tuy hiện đang ở trần thế mà mọi người kính trọng, chư Thiên trợ giúp. Ngày sau ở nơi cõi Tịnh có thể thành tựu quả Thánh, đạt đến đại đạo. Lẽ nào lại ở nơi việc xem đoán số mạng trên hình tướng, hoặc nịnh hót để mong cầu vinh hiển thành đạt? Đâu cần nhìn xem hình dáng để xét đoán ngày lâm chung? Những điều đó chẳng phải sự thấy biết của người tu chân chính, chỉ là vọng tình của kẻ phàm tục.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chớ theo kẻ khác để tìm cầu, chỉ nên y nơi bổn phận của mình. Gặp việc nhân từ chớ bỏ qua, thấy người hiền nên suy nghĩ làm sao để được bằng họ. Danh lợi không làm dao động tinh thần, sinh tử chẳng thể làm nhọc nhằn lo lắng. Muốn công thành chí toại, phải từ chỗ gần mà đến nơi xa; nên xét kỹ quả để biết được nhân, tin có làm thì có quả báo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trí tuệ đủ để chiếu phá mê lầm, sáng suốt đủ để soi tỏ chỗ tối tăm. Lời nói thì có thể làm khuôn phép, việc làm thì có thể an vui. Đạo đức, nhân nghĩa đáng để noi theo, tiến thoái có thể đo lường; phân biệt giả dối thấu rõ chân thật, rõ chân như đá đẹp thử vàng, xua tối tăm soi sáng vạn vật, giống như ngọn đèn chân thật chiếu sáng thế gian. Nếu được như thế, đó là bậc Đại Đạo sư, là người bạn không cần đợi mời mới đến. Lấy ra Bảo tạng ở Long cung, bố thí rộng rãi cho mọi loài; mở toan quan ải của Tổ sư, đón tất cả mọi người đến học tập. Dẹp trừ bệnh tà, chỉ dẫn chúng sinh trở về nguồn cội nhiệm mầu, khiến cho gương mờ được lau chùi sáng lại, như áo nhơ nhờ giặt giũ mà được sạch trắng sạch. Tông phong chân thật chấn hưng trở lại, phước đức phổ cập thế giới đại thiên, mặt trời trí tuệ thêm sáng tỏ, ánh sáng chói chang muôn thuở. Như thế, thật đáng gọi là người con chân thật của đấng Pháp Vương, đáng gọi là bậc Đại trượng phu. Đem những điều ấy mà phụng sự giáo pháp cho đức Phật ở Tây Phương, nào có hổ thẹn gì?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(37) <B>Mười sáu pháp quán</B>: 16 pháp quán ghi trong kinh Quán Vô Lượng Thọ giúp cho hành giả niệm Phật được vãng sinh Tây Phương, đó là:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. <I>Nhật tưởng quán</I>: ngồi xoay mặt về hướng Tây, quán kỹ mặt trời sắp lặn, hình dáng như cái trống treo, tâm an trụ vững chắc, chuyên tưởng không dời. Đã thấy mặt trời rồi thì mở mắt, nhắm mắt đều thấy rõ ràng.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. <I>Thủy tưởng quán</I>: ban đầu thấy Tây Phương đều là nước, lại khởi tưởng là băng, thấy băng trong suốt, tưởng như lưu ly.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. <I>Địa quán tưởng</I>: quán tưởng phía dưới có kim tràng bảy báu, nâng mặt đất lưu ly, trên đất lưu ly có dây vàng ròng đan khít nhau, mỗi thứ báu đều có 500 tia sáng nhiều màu sắc.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">d. <I>Bảo thụ quán</I>: quán cõi nước Cực Lạc có bảy lớp hàng cây, hoa lá bảy báu đều đầy đủ, mỗi hoa mỗi lá đều có bảy báu khác nhau, phía trên các cây có giăng bảy lớp lưới.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">e. <I>Bảo trì quán</I>: quán tưởng cõi nước Cực Lạc có ao nước tám công đức, trong mỗi ao nước có 60 ức hoa sen bảy báu, nước ma ni trôi chảy trong ấy diễn nói diệu pháp, lại có chim màu sắc trăm báu, thường khen ngợi niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">f. <I>Bảo lâu quán</I>: quán lầu gác báu. Thực hành quán tưởng này thì tức khắc thành tựu năm pháp quán ở trên, nên còn gọi là tổng quán. Tổng quán tưởng, tổng tưởng quán. Quán tưởng trên mỗi mỗi cõi có 500 lầu báu, trong lầu báu có vô lượng chư thiên đang trỗi kĩ nhạc.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">g. <I>Hoa tọa quán</I>: quán tòa sen mà Phật và hai vị Bồ tát ngồi.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">h. <I>Tượng quán</I>: quán tưởng tượng Phật sắc vàng Diêm phù đàn ngồi trên hoa sen, lại quán tượng hai Bồ tát Quán Âm, Thế Chí đứng hầu hai bên, cả ba vị đều phóng kim quan.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">i. <I>Chân thân quán</I>: quán tưởng chân thân Phật Vô Lượng Thọ. Thực hành pháp quán tưởng này sẽ thấy được tất cả các chư Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">j. <I>Quán Âm quán</I>: tức quán tưởng Bồ tát Quán Thế Âm đang đứng hầu Phật A Di Đà.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">k. <I>Thế Chí quán</I>: tức quán tưởng Bồ tát Đại Thế Chí đang đứng hầu Phật A Di Đà.
1<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">l. <I>Phổ quán</I>: quán tự thân về thế giới Cực Lạc, ngồi kiết già trong hoa sen. Khi hoa sen nở có 500 tia sáng màu sắc đến chiếu khắp thân, cho đến Phật, Bồ tát đầy khắp hư không.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">m. <I>Tạp tưởng quán</I>: quán tưởng thân Phật cao trượng sáu đứng trên ao sen hoặc hiện thân lớn đầy khắp hư không, tức tạp quán chân Phật, hóa Phật thân lớn, thân nhỏ.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">n. <I>Thượng bối quán</I>: người vãng sinh Tịnh độ tùy theo nhân tu mà có ba bậc vãng sinh thượng, trung, hạ; ba bậc này lại chia làm ba phẩm thượng, trung, hạ, cộng chung thành chín phẩm. Thượng bối quán là quán bậc chúng bậc thượng, tự phát tam tâm, tu từ tâm, không sát sinh... lâm chung được Thánh chúng đón rước, sau khi vãng sinh được các tướng lợi ích thù thắng.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">o. <I>Trung bối quán</I>: tức quán đồ chúng bậc trung, thọ trì ngũ giới, bát giới, tu hạnh hiếu dưỡng cha mẹ... và cảm dược tướng Thánh chúng đón rước vãng sinh.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">p. <I>Hạ bối quán</I>: tức quán đồ chúng bậc hạ, tuy tạo tác ác nghiệp nhưng khi sắp lâm chung, nhờ gặp được thiện tri thức chỉ dạy, nên biết niệm danh hiệu A Di Đà, nhân đó được vãng sinh, được các tướng lợi ích thù thắng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo Quán Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ, phần đầu, ngài Huệ Viễn chia mười sáu pháp quán này thành hai loại, bảy môn trước là quán y báo, chín môn sau là quán chánh báo. Trong mười pháp quán sau thì năm môn trước nói về quán Phật, Bồ tát, môn thứ sáu nói về tự vãng sinh quán, môn thứ bảy nói về quán Phật, Bồ tát; ba môn cuối nói về vãng sinh quán. Quán Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ, hạ của ngài Trí Khải chia mười sáu quán thành ba loại: sáu pháp quán đầu là quán y quả, bảy quán kế là quán chánh báo, ba pháp quán cuối nói về việc vãng sinh cửu phẩm của ba hạng chúng sinh. Các vị như Huệ Viễn... đều cho rằng mười sáu pháp quán này là pháp quán Định Thiện, ngài Thiện Đạo thì cho rằng chỉ có mười ba pháp quán trước là Định Thiện, ba pháp quán sau là Tán Thiện. Trong Định Thiện thì bảy pháp quán trước là y báo quán, sáu pháp kế là chánh báo quán.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(38) <B>Chín pháp giới</B>: chín cõi của loài hữu tình cư trú.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. <I>Dục giới ngũ địa</I>: còn gọi là ngũ thú tạp cư địa (hoặc tạp trụ địa), cõi của năm loài hữu tình ở chung lẫn nhau: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, Người, Trời.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. <I>Ly sinh hỷ lạc địa</I>: thuộc trời sơ thiền của cõi Sắc. Sự hỷ lạc có được do lìa các pháp dục, ác ở cõi Dục.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. <I>Định sinh hỷ lạc địa</I>: thuộc trời đệ nhị thiền của cõi Sắc. Cảnh giới do định mà phát sinh hỷ lạc thù thắng.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">d. <I>Ly hỷ diệu lạc địa</I>: thuộc trời đệ tam thiền của cõi Sắc. Cảnh giới an lạc thù thắng vi diệu do lìa trạng thái hỷ thô trọng ở nhị thiền của cõi Sắc mà được diệu lạc ở tam thiền.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">e. <I>Xả niệm thanh tịnh địa</I>: thuộc trời đệ tứ thiền của cõi Sắc. Cảnh giới thanh tịnh do lìa bỏ trạng thái hỷ lạc của các địa trên.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">f. <I>Không vô biên xứ địa</I>: thuộc tầng trời thứ nhất của cõi Vô sắc. Cảnh giới chứng đắc tính hư không vô biên tự tại, do lìa tính vật chất của cõi sắc.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">g. <I>Thức vô biên xứ</I>: thuộc tầng trời thứ hai của cõi Vô sắc, cảnh giới mà thức đạt được rộng rãi không ngằn mé.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">h. <I>Vô sở hữu xứ địa</I>: thuộc tầng trời thứ ba của cõi Vô sắc. Cảnh giới tư tưởng dứt bặt do lài tính động của không vô biên xứ địa và thức vô biên xứ địa.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">i. <I>Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa</I>: thuộc tầng trời thứ tư (tức trời hữu đảnh) của cõi Vô sắc. Cảnh giới vắng lặng do lìa tưởng và vô tưởng, lìa cả chấp có lẫn không.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(39) <B>Thường Tịch Quang</B>: Tịnh độ mà pháp thân của chư Phật, Như Lai an trú; một trong bốn độ do tông Thiên Thai chủ trương. Thế giới mà Phật an trụ thuộc về chân như bản tánh, không có sự sinh diệt biến hóa (Thường) và sự nhiễu loạn của phiền não (Tịch), đồng thời có ánh sáng trí huệ (Quang) nên gọi là Thường Tịch Quang độ. Quốc độ này là cõi nước tối cực bí tạng do Phật tự chứng, lấy pháp thân, giải thoát, Bát nhã làm Thể, đầy đủ 4 đức thường, lạc, ngã, tịnh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh Quán Phổ Hiền Bồ tát Hành Pháp (Đại 9, 392 hạ) ghi: "Phật Thích Ca Mâu Ni được gọi là Tỳ Lô Giá Na biến nhất thiết xứ, trụ xứ của đức Phật này gọi là Thường Tịch Quang, Thường Ba la mật Sơ Nhiếp Thành Xứ, Ngã Ba la mật Sở An Lập Xứ, Tịnh Ba la mật Diệt Hữu Tướng Xứ, Lạc Ba la mật Bất Trụ Thân Tâm Tướng Xứ".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quốc độ này có chia ra phần chứng và cứu cánh khác nhau, chia làm ba phẩm: thượng, trung, hạ. Theo thuyết của Duy Ma Kinh Lược Sớ 1 thì quốc độ mà pháp thân bậc Diệu giác an trụ là Thượng phẩm Tịch Quang độ, quốc độ mà bậc một đời nữa là bước lên địa vị Đẳng Giác an trụ là Trung phẩm Tịch Quang độ, còn quốc độ mà bậc sơ trụ trở lên của viên giáo an trụ là Hạ phẩm Tịch Quang độ. Vị tăng đời Bắc Tống là ngài Tứ Minh Tri Lễ lại phối hợp Thật Báo độ và Tịch Quang độ với thỉ giác và bản giác, đề xướng thuyết Tịch Quang Hữu Tướng, còn vị tăng đời Bắc Tống là ngài Tịnh Giác thì đề xướng thuyết Tịch Quang Vô Tướng.</P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>CHƯƠNG 1
<B>ĐỨC PHẬT NÓI PHÁP NIỆM PHẬT CHO PHỤ VƯƠNG</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh Bảo Tích nói: <I>"Phụ vương Tịnh Phạn đảnh lễ dưới chân Phật, một lòng chắp tay bạch Phật rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Bạch Thế Tôn, làm sao tu hành để được đạo của chư Phật?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật đáp:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Tất cả chúng sinh đều là Phật. Nay Phụ vương nên niệm Phật A Di Đà ở thế giới Tây Phương, thường siêng năng tinh tấn thì sẽ được đạo của chư Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phụ vương hỏi:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Bạch Thế Tôn, tại sao tất cả chúng sinh đều là Phật?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật đáp:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Tất cả pháp không sinh, không dao động, không lấy bỏ, không tướng mạo, không tự tánh. Phụ vương nên ở trong pháp Phật ấy mà an trụ tâm mình, đừng tin nơi người khác!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi ấy, vua Tịnh Phạn và bảy vạn người dòng họ Thích nghe nói về pháp này, ai nấy đều tin hiểu hoan hỷ, tỏ ngộ Vô sinh nhẫn".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật mỉm cười nói bài kệ rằng:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Dòng Thích trí quyết định
Thế nên trong Phật pháp
Tâm quyết tin an trụ
Sau khi mạng chung rồi
Được sinh cõi An Lạc
Gặp Phật A Di Đà
Vô úy thành Bồ đề.</I><CENTER>CHƯƠNG 2
<B>THIỆN TÀI THAM VẤN 53 VỊ THIỆN TRI THỨC,
BAN ĐẦU GẶP TỶ KHEO ĐỨC VÂN
NÓI VỀ MÔN NIỆM PHẬT</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phẩm <I>Nhập Pháp Giới</I> trong kinh <I>Hoa Nghiêm</I> nói: <I>Tỷ kheo Đức Vân bảo Thiện Tài rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Thiện nam tử! Tôi được sức mạnh hiểu biết, quyết định tự tại, lòng tin thanh tịnh, ánh sáng trí tuệ tỏ rạng, quán xét khắp cả cảnh giới, rời tất cả chướng ngại, đầy đủ hạnh thanh tịnh, đi khắp mười phương cúng dường chư Phật. Thường niệm tất cả chư Phật Như Lai, giữ gìn chánh pháp của tất cả chư Phật và thường thấy tất cả chư Phật, tùy theo nơi các thứ tâm ưa thích của chúng sinh, thị hiện đủ mọi môn thành tựu Chánh Giác. Ở trong đại chúng, gầm lên tiếng Sư tử.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Thiện nam tử! Tôi chỉ được pháp môn: "Nghĩ nhớ tất cả cảnh giới chư Phật. Trí tuệ sáng suốt thấy khắp cả" này. Gọi là môn niệm Phật trí sáng soi khắp, môn niệm Phật khiến cho tất cả chúng sinh niệm Phật, môn niệm Phật khiến cho an trụ lực, môn niệm Phật khiến cho an trụ pháp, môn niệm Phật chiếu soi các phương, môn niệm Phật vào chỗ không thể thấy, môn niệm Phật trụ nơi các kiếp, môn niệm Phật an trụ trong tất cả thời, môn niệm Phật an trụ trong tất cả cõi, môn an trụ tất cả đời niệm Phật, môn an trụ tất cả cảnh niệm Phật, môn an trụ nơi lặng lẽ niệm Phật, môn an trụ nơi xa lìa niệm Phật, môn an trụ nơi rộng lớn niệm Phật, môn an trụ vi tế niệm Phật, môn niệm Phật an trụ trang nghiêm, môn an trụ nơi làm được mọi việc niệm Phật, môn an trụ nơi tâm tự tại niệm Phật, môn an trụ nơi làm việc của chính mình niệm Phật, môn an trụ nơi thần thông biến hóa niệm Phật, môn an trụ nơi hư không niệm Phật.</I><CENTER>CHƯƠNG 3
<B>BỒ TÁT TRÍ THỦ NÓI VỀ NIỆM PHẬT</B></CENTER>
<p style="padding-left: 56px;">Kinh <I>Hoa Nghiêm</I> nói:
<BR><I>Trong tất cả oai nghi
Thường niệm công đức Phật
Ngày đêm không tạm ngừng
Việc như thế nên làm.</I><CENTER>CHƯƠNG 4
<B>ĐẠI SĨ LONG THỌ KHUYÊN NIỆM PHẬT</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Luận <I>Đại Trí Độ</I><SUP><B>(40)</B></SUP> nói: <I>"Đức Phật là bậc Pháp vương Vô thượng, chư đại Bồ tát là đại thần trong chánh pháp. Các vị đại thần trong chánh pháp chỉ tôn trọng bậc Pháp Vương, do đó Bồ tát phải nên niệm Phật". Lại bảo rằng: "Có các vị Bồ tát, tự nghĩ nhớ về thuở xưa, phỉ báng pháp Bát nhã, đọa vào đường ác. Dù trải qua vô lượng kiếp tu các hạnh lành khác, nhưng chưa được thoát khỏi. Về sau, gặp thiện tri thức chỉ dạy thực hành Niệm Phật Tam muội, liền diệt trừ tội chướng, mới được giải thoát".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bài kệ còn nói:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Nếu người nguyện thành Phật
Tâm niệm A Di Đà
Tức thời Ngài hiện thân
Nên con quy mạng lễ.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(40) <B>Luận Đại Trí Độ</B>: gồm 100 quyển, do Bồ tát Long Thọ soạn, ngài Cưu Ma La Thập dịch vào đời Hậu Tần, thâu vào Đại chánh tạng tập 25, cũng gọi Đại Trí Độ Kinh Luận, Ma ha Bát nhã Thích Luận, Đại Trí Thích Luận, Thích Luận, Trí Độ Luận, Trí Luận, Đại Luận.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nội dung luận này là giải thích kinh Đại Phẩm Bát nhã. Đại Trí Độ là dịch ý của từ Ma ha Bát nhã Ba la mật (trí tuệ lớn vượt qua đến bờ bên kia).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tương truyền, nguyên văn của bộ luận này có hơn mười vạn bài tụng. Như vậy, bản 100 quyển hiện nay là ngài Cưu Ma La Thập đã dịch rút gọn lại, nếu dịch toàn bộ thì số quyển sẽ tới hơn 1000. Bài tựa đầu sách là do sư Tăng Tuệ soạn. Luận này viện dẫn rất nhiều kinh điển, là bộ luận rất quan trọng để lý giải Phật giáo Đại thừa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Luận này giảng giải rõ ràng về học thuyết, tư tưởng, dụng lệ, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, quy định thực tiễn và tăng già. Những kinh luận được dẫn dụng bao gồm Thánh điển nguyên thủy, các bộ luận của Phật giáo bộ phái và các kinh điển của Phật giáo Đại thừa của thời kỳ đầu, như: Pháp Hoa, Hoa Nghiêm... Luận cũng đề cập đến học phái Thắng luận và các hệ tư tưởng khác của Ấn Độ thời bấy giờ, có thể nói đây là bộ bách khoa toàn thư của Phật giáo thời bấy giờ.
<CENTER>CHƯƠNG 5
<B>CÔNG ĐỨC NIỆM PHẬT CÓ BẢY ĐIỀU THÙ THẮNG</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong <I>Cam Lồ Sớ</I> nói:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">1. <B>Từ ngữ ít nên dễ thực hành</B>: vì chỉ xưng một câu A Di Đà Phật nên tất cả mọi người đều có thể niệm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">2. <B>Niệm duyên theo cảnh Phật</B>: vì nhất tâm niệm duyên nơi tướng hảo của thân Phật, lấy cõi thanh tịnh làm cảnh giới.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">3. <B>Lìa tai nạn được an vui</B>: vì được chư Phật và Bồ tát gia hộ nên người niệm Phật không có các hoạn nạn, vui vẻ tốt lành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">4. <B>Xưng danh diệt tội</B>: vì niệm Phật một tiếng, diệt trừ được tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">5. <B>Trì niệm được phước</B>: vì xưng một câu Phật hiệu được phước hơn đem bảy loại báu trong tứ thiên hạ cúng dường Phật và La hán.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">6. <B>Quả báo cảm được thấy Phật</B>: vì chúng sinh niệm Phật, nên nhất định thấy Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">7. <B>Đích thân Phật đón rước vãng sinh</B>: Hóa Phật và Bồ tát phóng quang tiếp đón hành giả vãng sinh cõi Phật.
<CENTER><B>PHÁP MÔN TU TRÌ</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cảnh giới vô vi vượt khỏi ngữ ngôn, sắc tâm hữu lậu phải nhờ tu chứng. Chân như gồm đủ mọi đức, vì lập phương tiện nên có nhiều môn. Trên từ lìa tướng bình đẳng, dưới đến xưng danh mười niệm. Nói chung, chẳng rời ba thừa<SUP><B>(41)</B></SUP>, vãng sinh thầm hợp chín phẩm; hữu niệm rốt cuộc trở về vô niệm, có sinh tiến thẳng đến chỗ không sinh. Thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Một câu A Di Đà
Muôn cơ đều thích ứng.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(41) <B>Ba thừa</B>:
<p style="padding-left: 76px;">a. Thanh Văn thừa;
b. Duyên Giác thừa;
c. Bồ Tát thừa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ba xe dụ cho ba pháp môn chuyên chở chúng sinh vượt qua sinh tử đến bờ Niết bàn. Ba thừa là y cứ vào căn cơ chúng sinh có độn căn, trung căn và lợi căn khác nhau nên đức Phật nói.
<CENTER>CHƯƠNG 7
<B>PHÁP MÔN VÔ TRỤ LÌA TƯỚNG
NIỆM PHẬT TAM MUỘI</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tông chủ Từ Chiếu nói: <I>"Lìa Tướng Niệm Phật Tam muội là người trí căn cơ bậc thượng"</I>. Tỏ ngộ lý thâm sâu này, thường vận dụng tâm bình đẳng như hư không, không có tướng ngã nhân, chúng sinh, thọ giả. Kinh <I>Kim Cang</I> nói: <I>"Lìa tất cả tướng gọi là chư Phật"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Luận rằng: <I>"Ngã là do chấp bên trong, nhân là do chấp bên ngoài, chúng sinh là do chấp vào sự hòa hợp của năm uẩn</I><SUP><B>(42)</B></SUP> <I>thuở trước, thọ giả là chấp vào thời gian của mạng sống về sau. Đã không có tâm chấp trong ngoài, trước sau, thì tất cả các tướng thảy đều rỗng lặng"</I>. Thế nên, kinh <I>Viên Giác</I> nói: <I>"Biết không có ngã nhân, thì ai chịu luân chuyển? Cũng không có thân tâm để nhận sự sinh tử"</I>. Đó gọi là Lìa Tướng Niệm Phật Tam muội.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thì thấy bản tánh của tất cả chúng sinh đều đồng với Phật Di Đà. Đã không chấp hai bên hữu tướng, vô tướng, cũng không chấp vào cái thấy có, không đoạn diệt và thường hằng, mỗi niệm A Di Đà xuất thế, nơi nơi Cực Lạc hiện bày. Niệm như thế là <I>"niệm mà không có gì để niệm là niệm chân như; sinh mà không có gì để sinh thì sinh thật tướng"</I>. Thế nên biết, không niệm tức là lìa niệm, thật tướng là vô tướng. Không tướng thì không trụ, vô trụ thì vào cảnh giới Phật. Đó chính là đạo giác ngộ rộng lớn chân chánh vô thượng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu đến chỗ đó thì không tu không chứng, không có sinh tử để thoát ra, không có Niết bàn để mong cầu. Tánh tướng đều rỗng không, Thánh phàm bằng nhau. Không có Phật đạo để thành, không có chúng sinh để độ, không có tánh linh của chính mình để được. Một niệm vô vi, mười phương dứt bặt; không một pháp sẵn có, không có một pháp mới thành. Đây và kia thâu nhiếp lẫn nhau, Sự Lý không ngăn ngại, mỗi hạt bụi đều đầy đủ, tất cả cõi nước hiện rành rõ. Pháp vốn như thế nghĩ bàn chẳng tới.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Các đức Phật mười phương
Cùng một đường Niết bàn.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(42) <B>Ngũ uẩn</B>: năm nhóm tích trụ tất cả pháp hữu vi theo từng loại khác nhau. Một trong ba khoa (Uẩn, Xứ, Giới).
<p style="padding-left: 76px;">a. Sắc uẩn: nhóm gồm tất cả sắc pháp.
b. Thọ uẩn: các cảm thọ do khổ, vui, không khổ không vui... sinh ra.
c. Tưởng uẩn: các thứ tưởng do nhãn xúc sinh ra.
d. Hành uẩn: chỉ cho tất cả pháp hữu vi, ngoại trừ sắc, thọ, tưởng, thức, cũng tức là tác dụng của ý chí và tâm.
e. Thức uẩn: nhóm gồm các loại thức như thức mắt, thức tai v.v...</P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>CHƯƠNG 8
<B>PHÁP MÔN VÔ NIỆM QUÁN KHÔNG
NIỆM PHẬT TAM MUỘI</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lời tựa của Tổ sư Huệ Viễn nói về Quán không Niệm Phật Tam muội: <I>"Tư tưởng chuyên nhất lặng lẽ, tâm chí không tán loạn, thần khí rỗng rang sáng suốt thì không có chỗ sâu kín nào mà chẳng thấu kịp. Người vào định này hồn nhiên quên hiểu biết, phiền lụy trần lao nhanh chóng tiêu tan, tình chấp ngưng trệ tiêu dung sáng tỏ. Chẳng phải là bậc Đại đạo trong thiên hạ, ai có thể dự vào đó được?"</I>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại sư Trí Giả dùng môn Quán Không mà dẹp sạch tất cả pháp. Thế nên nói: <I>"Một không thì tất cả không; không có giả, không có trung nào mà chẳng không".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người vào pháp quán này là đạt đến Chân đế xác thật. Nay, muốn giúp người tu hành bỏ vọng về chân, nên gọi là từ pháp Quán Giả vào Quán Không. Bởi lẽ, pháp Quán Giả là lời thuyết minh giải thích để đi vào Quán Không. Trước phải quán xét tất cả pháp là giả dối, cho đến bốn đại<SUP><B>(43)</B></SUP>, năm uẩn, sáu căn<SUP><B>(44)</B></SUP>, sáu trần<SUP><B>(45)</B></SUP>, sáu thức<SUP><B>(46)</B></SUP>, cùng tận thế giới trong mười phương, núi sông, quả đất đều không có một vật. Biết rõ toàn là giả dối, mà thể hội chỗ chân thật, thế nên gọi là pháp quán về Nhị đế<SUP><B>(47)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người tu pháp này trước cần phải nhiếp tâm ngồi yên lặng, tận tâm quét sạch tất cả cảnh giới giả dối không thật ở thế gian, hoàn toàn không dính mắc, chỉ quán xét ở nơi không. Vì thế, kinh <I>Bát Nhã</I> nói: <I>"Nội không, ngoại không, nội ngoại không, không; không không cũng không thể được"</I>. Như thế, nhanh chóng vào biển không sáng suốt quý báu của Như Lai. Tánh giác chân không tức là Như Lai tạng. Tánh không tròn sáng, linh quang chiếu khắp vì là bản tánh của pháp giới. Như ngọc Ma ni tùy theo ý của người phát sinh ra những báu vật, như biển cả sông rộng thâu nhiếp chứa đựng tất cả. Trí tánh bình đẳng gọi là Tri kiến Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Các hành vô thường, tất cả không
Là đại Viên giác của Như Lai.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(43) <B>Bốn đại</B> (Caturmahādhātu): bốn yếu tố cơ bản hình thành nên thể chất (thân vật lý) của con người, bao gồm:
<p style="padding-left: 76px;">a. Chất khoáng (Pathavī - đất)
b. Chất lỏng (Āpo - nước)
c. Nhiệt độ (Tejo - sức nóng)
d. Hơi khí (Vāyo - gió)
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Gọi chung về thân tứ đại là đất, nước, gió, lửa.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(44) <B>Sáu căn</B> <I>(six sense organs)</I>: sáu căn (quan) năng mà theo Phật giáo, con người thông qua để nhận thức thế giới:
<p style="padding-left: 76px;">a. Nhãn căn (mắt)
b. Nhĩ căn (tai)
c. Tỷ căn (mũi)
d. Thiệt căn (lưỡi)
e. Thân căn (thân)
f. Ý căn (ý) ý thức.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(45) <B>Sáu trần</B> <I>(six sense objects)</I>: sáu trần:
<p style="padding-left: 76px;">a. Sắc.
b. Thanh.
c. Hương.
d. Vị.
e. Xúc.
f. Pháp.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(46) <B>Sáu thức</B> <I>(six sense of consciousness)</I>: sáu thức:
<p style="padding-left: 76px;">a. Nhãn thức
b. Nhĩ thức
c. Tỷ thức
d. Thiệt thức
e. Thân thức
f. Ý thức.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(47) <B>Nhị đế</B>: Tục đế (sự thật ước lệ) và Chân đế (sự thật rốt ráo).
<CENTER>CHƯƠNG 9
<B>PHÁP MÔN CHUYÊN TƯỞNG NHẬT QUÁN
NIỆM PHẬT TAM MUỘI</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <I>Quán Vô Lượng Thọ</I> nói: <I>"Đức Phật bảo bà Vi Đề Hy:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Bà và chúng sinh nên chuyên tâm buộc niệm một chỗ, tưởng về Tây Phương. Nói về sự quán tưởng, tất cả chúng sinh nếu chẳng phải là người mù thì ai cũng có mắt nên đều thấy cảnh mặt trời lặn. Hãy khởi tưởng niệm, ngồi ngay thẳng hướng về phương Tây, nhìn kỹ mặt trời, khiến tâm trụ vững, chuyên tưởng không đổi dời. Lúc mặt trời sắp lặn, hình dáng giống như cái trống treo lơ lửng. Đã thấy mặt trời rồi thì khi mở mắt, nhắm mắt đều khiến cho thấy rõ ràng. Đó là pháp quán tưởng về mặt trời, gọi pháp quán ban đầu".</I><P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hành giả vào pháp quán này, nên ở chỗ yên tĩnh, đoạn dứt mọi duyên bên ngoài, ngồi ngay thẳng thu nhiếp tâm, quán kỹ mặt trời hiện đang ở trước mắt, chú tâm vào một cảnh, lắng lặng tịch tĩnh như đối trước gương sáng tự thấy mặt mình. Nếu tâm rong chạy tán loạn thì chế ngự khiến nó trở về, tâm dừng trụ an định liền được Tam-muội.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Kim ô đáy biển, vầng nhật trên trời
Con ngươi trong mắt người trước mặt.</I>
<CENTER>CHƯƠNG 10
<B>PHÁP MÔN CỨU CÁNH THAM THIỀN NIỆM PHẬT TAM MUỘI</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tổ sư Huệ Viễn viết lời tựa về <I>Thiền Kinh</I>, nói rằng: <I>"Thiền nếu chẳng có trí thì không thể tận cùng chỗ lặng lẽ. Trí nếu chẳng có thiền thì không thể soi chiếu sâu xa. Thiền và trí là nói về soi sáng và lặng lẽ. Hai bên hỗ trợ lẫn nhau, soi sáng không lìa lặng lẽ, lặng lẽ không lìa soi sáng. Cảm ứng thì đều cùng một lối như nhau".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngài Từ Chiếu nói:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>- Lặng lẽ mà thường soi sáng, soi sáng mà thường lặng lẽ. Thường lặng lẽ, thường soi sáng gọi là Thường Tịch Quang. Người niệm Phật muốn tham thiền thấy tánh, chỉ cần y vào pháp này. Phải ở nơi tịnh thất ngồi ngay thẳng, dẹp trừ các duyên phiền lụy, cắt đứt tình trần, mở mắt vừa phải, ngoài không vướng cảnh, trong không trụ định, soi sáng lại chính mình, trong ngoài đều lặng lẽ. Sau đó, âm thầm cất tiếng niệm Nam mô A Di Đà Phật năm ba tiếng, rồi soi sáng lại tự mình nghiền ngẫm: "Thấy tánh thì thành Phật, rốt cuộc cái gì là bản tánh Di Đà của ta?". Lại soi chiếu xem: "Nay, cái phát lên một niệm này là từ đâu khởi? Phải xem xét cho thấu triệt một niệm này. Lại xem xét cho thấu triệt cái xem xét ấy là ai? Tham cứu giây lâu, lại cất niệm Nam mô A Di Đà Phật. Cứ xem xét như thế, tham cứu như thế, cấp thiết thực hành công phu, chớ để gián đoạn. Tỉnh sáng không mờ, như gà ấp trứng, không câu nệ hình thức, trong bốn oai nghi đều thực hành xem xét. Niệm như thế, nghiền ngẫm như thế, tham cứu như thế, một hôm bỗng ở nơi đi, đứng, nằm, ngồi, lúc nghe tiếng, thấy sắc được khai thông tỏ ngộ, tận mắt thấy bản tánh Di Đà. Thân tâm trong ngoài nhất thời thấu suốt, trọn cả càn khôn quả đất là một cõi Tây Phương, vạn tượng sum la đều là chính mình, lặng lẽ mà không bỏ xót sự soi sáng, tuy hành động mà chẳng rời chỗ lặng lẽ. Sau đó, vận dụng lòng từ bi tiếp dẫn những người chưa ngộ. Bi trí viên dung, bước vào hạnh không ra công dụng sức, được sinh lên Thượng phẩm, gọi là cõi Thật Báo Trang Nghiêm, được Nhất thiết chủng trí.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Muôn thuở đầm xanh trăng giữa trời,
Ba lần mò bắt mới rõ hay.</I>
<CENTER>CHƯƠNG 11
<B>PHÁP MÔN ĐIỀU HÒA HƠI THỞ NHIẾP TÂM
NIỆM PHẬT TAM MUỘI</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phẩm <I>Hiền Hộ</I> trong kinh <I>Đại Tập</I> nói: <I>"Người cầu đạo giác ngộ tột cùng nên tu Niệm Phật Thiền Tam muội".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kệ rằng:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Nếu người chuyên niệm Phật Di Đà
Gọi là Thiền sâu mầu cao tột
Lúc chí tâm quán tưởng thấy Phật
Chính là pháp chẳng sinh chẳng diệt.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <I>Tọa Thiền Tam Muội</I> nói: <I>"Bồ tát tọa thiền, không nghĩ nhớ chi cả, chỉ niệm một đức Phật liền được Tam muội. Người mới tu tập, chưa tránh khỏi hai bệnh hôn trầm và tán loạn, cần phải nhờ sự đối trị".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Nhân Thiên Bảo Giám</I> nói: <I>"Phàm tu thiền định nên vào tĩnh thất, ngồi ngay thẳng, đếm hơi thở ra vào, từ một tới mười, từ mười tới trăm, từ trăm tới ngàn muôn. Thân lặng yên, tâm này tịch tĩnh, đồng như hư không, chẳng nhọc ngăn chặn. Như thế, lâu dần hơi thở tự trụ, không ra không vào, thời biết hơi thở này từ trong lỗ chân lông, tám vạn bốn ngàn hơi nóng bốc lên, các căn bệnh từ xa xưa đến nay tự nhiên được khỏi, mọi sự chướng ngại tự nhiên tiêu diệt, tự nhiên tỏ ngộ. Ví như người mù bỗng nhiên sáng mắt, khi ấy thấy suốt, không cần tìm người chỉ đường nữa".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay, người tu pháp Niệm Phật Nhiếp Tâm này, muốn được nhanh chóng thành tựu Tam muội, thì việc đếm hơi thở rất là thiết yếu để đối trị hôn trầm và tán loạn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phàm lúc muốn ngồi, trước nên tưởng thân mình ở trong ánh sáng tròn đầy, thầm quán nơi chót mũi, tưởng hơi thở ra vào. Mỗi một hơi thở niệm thầm một câu A Di Đà Phật. Dùng phương tiện điều hòa hơi thở, không hưỡn không gấp, tâm và hơi thở nương nhau, theo sự ra vào của hơi thở. Lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều có thể thực hành đừng để gián đoạn. Thường tự âm thầm hành trì cho đến vào sâu Thiền định. Hơi thở và câu niệm Phật cả hai đều quên thì thân tâm này đồng như hư không, lâu dần thuần thục, mắt tâm tỏ sáng, Tam muội bỗng nhiên hiện tiền, tức là Tịnh độ duy tâm.
<CENTER>CHƯƠNG 12
<B>PHÁP MÔN CHUYÊN NIỆM NHẦT TƯỚNG NIỆM PHẬT</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <I>Đại Bát Nhã</I> nói: <I>"Văn Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Bạch Thế Tôn, Bồ tát tu hành pháp gì để mau chóng chứng đắc đạo giác ngộ tột cùng?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật đáp:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Bồ tát hay tu hành chân chánh về Nhất Tướng Trang Nghiêm Tam muội thì mau chứng đắc giác ngộ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người tu hạnh này nên rời chỗ huyên náo, không nghĩ mọi hình tướng, chuyên tâm buộc niệm nơi một đức Như Lai. Nhớ kỹ danh hiệu, khéo tưởng dung nghi, đó tức là quán tưởng khắp tất cả chư Phật trong ba đời. Như thế, liền được tất cả trí tuệ của chư Phật".</I><P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Thập Nghi Luận</I> của ngài Thiên Thai nói: <I>"Tất cả chư Phật thảy đều bình đẳng, chỉ vì chúng sinh căn cơ chậm lụt, tư tưởng vẩn đục tán loạn nhiều, nếu không chuyên tâm buộc niệm nơi một đức Phật thì tâm phân tán, khó thành tựu Tam muội. Thế nên, chỉ dạy họ chuyên niệm Phật A Di Đà, đó tức là Nhất Tướng Tam muội".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Luận <I>Bảo Vương</I> nói: <I>"Người tu trì Nhất Tướng Niệm Phật Tam muội, khi đi, đứng, ngồi, nằm nên buộc niệm không quên. Dù cho ngủ nghỉ cũng buộc niệm, đến khi thức dậy thì tiếp tục thực hành, không để việc khác làm gián đoạn, không cho tham, sân làm ngăn cách, có lỗi lầm gì thì liền sám hối. Không có niệm gì gián cách, không có niệm nào khác, không cách ngày, không cách thời. Niệm niệm thường không rời Phật, niệm niệm thanh tịnh tròn sáng, đó là thành tựu Nhất Tướng Tam muội".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là: "Nếu rõ một, muôn việc đều xong".
<CENTER>CHƯƠNG 13
<B>PHÁP MÔN HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC SÁU THỜI NIỆM PHẬT</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tổ sư Huệ Viễn lập ra Liên Xã ở Đông Lâm để tăng tục cùng tu, bậc đại trí hiền đức có thể thâm nhập thiền quán, được Niệm Phật Tam muội. Hàng trung lưu sáu thời tu lễ Tịnh độ, hồi hướng nguyện sinh về Tây Phương. Đời Đường có lời thơ rằng:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Viễn Công riêng khắc Liên Hoa lậu
Còn ở non sâu lễ sáu thời.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phàm người tu pháp này, trước ở nơi tịnh thất an trí tượng Phật, dùng hương hoa, đèn nến tùy phần cúng dường, gội rửa trần cấu, mặc áo sạch sẽ. Mỗi ngày, sáng trưa, chiều tối, đầu hôm, khuya, rạng sáng, tự mình đối trước Tam Bảo, thân thể trang nghiêm chắp tay lễ bái Tây Phương. Mỗi khi mắt thấy dáng vẻ từ bi thì xưng niệm Thánh hiệu Nam mô A Di Đà Phật một ngàn lần, lễ Phật 48 lạy, đọc văn phát nguyện hồi hướng Tây Phương. Mỗi ngày: sáng ba thời, tối ba thời, trong sáu thời hành đạo tinh chuyên không mỏi mệt, quyết chí tu trì, hạnh nguyện vững chắc, cho đến khi Tịnh nghiệp được thành tựu trọn vẹn, ngày sau ắt được Trung phẩm Trung sinh.</P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>CHƯƠNG 14
<B>VĂN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG TÂY PHƯƠNG
CỦA ĐẠI SƯ LIÊN TRÌ</B>
(Phần bổ sung)</CENTER>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Cúi lạy Tây Phương cõi An Lạc
Tiếp dẫn chúng sinh Đại Đạo sư
Nay con phát nguyện, nguyện vãng sinh
Nhờ đức từ bi thương nhiếp thọ!</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay con khắp vì, bốn ơn ba cõi, pháp giới chúng sinh, cầu đạo Bồ-đề, Nhất thừa của Phật; chuyên tâm trì niệm, Hồng danh muôn đức, Phật A Di Đà, nguyện sinh Tịnh độ. Lại bởi chúng con, nghiệp nặng phước khinh, chướng sâu huệ nặng, nhiễm tâm dễ động, tịnh đức khó thành, nay đối Từ Tôn, kính gieo năm vóc, bày tỏ một lòng, chí thành sám hối. Con và chúng sinh, nhiều kiếp đến nay, mê bản tịnh tâm, buông tham sân si, nhiễm dơ ba nghiệp, vô lượng vô biên, tội cấu đã gây, vô lượng vô biên, nghiệp oan đã kết, nguyện đều tiêu diệt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nguyện từ hôm nay, lập thệ nguyện sâu, xa lìa pháp ác, thề không còn tạo, siêng tu đạo Thánh, thề chẳng biếng lui, thề thành Chánh Giác, thề độ chúng sinh. Xin đức Từ Tôn, dùng nguyện từ bi, chứng biết lòng con, thương xót đến con, gia bị cho con. Nguyện khi thiền quán, hoặc lúc mộng mơ, được thấy thân vàng, A Di Đà Phật, được chơi cõi Tịnh, của đấng Đạo sư, được nhờ Từ Tôn, cam lộ rưới đầu, quang minh chiếu thể, tay xoa đảnh con, áo đắp thân con, khiến cho chúng con, chướng cũ tự trừ, căn lành thêm lớn, mau tiêu phiền não, chóng phá vô minh, viên giác tâm mầu, sáng bừng mở rộng. Tịch Quang cảnh thật, thường được hiện tiền. Đến lúc lâm chung, biết ngày giờ trước, thân không tất cả, bệnh khổ ách nạn, tâm dứt tất cả, tham luyến mê hoặc, các căn vui đẹp, chánh niệm phân minh, xả báo an lành, như vào thiền định. Phật A Di Đà, Quán Âm, Thế Chí, cùng chư Hiền Thánh, ánh lành tiếp dẫn, tay báu dắt dìu, lầu các tràng phan, nhạc trời hương lạ. Tây Phương cảnh Phật, bày hiện rõ ràng, khiến cho chúng sinh, kẻ thấy người nghe, mừng vui khen cảm, phát Bồ đề tâm. Bấy giờ thân con, ngồi đài kim cang, bay theo sau Phật, khoảng khảy ngón tay, sinh vào sen báu, nơi ao thất bảo, ở cõi Tây Phương. Rồi khi hoa nở, thấy Phật Bồ tát, nghe tiếng pháp mầu, chứng Vô sinh nhẫn, giây phút lại đi, thừa sự chư Phật, nhờ ân thọ ký. Được thọ ký xong, ba thân<SUP><B>(48)</B></SUP> bốn trí<SUP><B>(49)</B></SUP>, năm nhãn sáu thông<SUP><B>(50)</B></SUP>, vô lượng trăm ngàn, môn Đà la ni, tất cả công đức, thảy đều thành tựu. Từ đó về sau, không rời An Dưỡng, trở lại Ta bà, phân thân vô số, khắp cả mười phương, dùng sức thần thông, tự tại khó nghĩ, và các phương tiện, độ thoát chúng sinh, đều khiến lìa nhiễm, chứng được tịnh tâm, đồng sinh Tây Phương, lên ngôi Bất thối.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nguyện lớn như vậy, thế giới không tận, chúng sinh không tận, nghiệp và phiền não, thảy đều không tận, đại nguyện của con, cũng không cùng tận. Nay con lễ Phật, phát nguyện tu trì, xin đem công đức, hồi thí hữu tình, bốn ân<SUP><B>(51)</B></SUP> khắp báo, ba cõi đều nhờ, pháp giới chúng sinh, đồng thành chủng trí.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(48) <B>Ba thân</B>: chỉ cho Pháp thân, Báo thân và Ứng thân của chư Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thân nghĩa là tụ tập, tụ tập các pháp mà thành thân, vì thế sự tụ tập về lý pháp gọi là Pháp thân, sự tụ tập về trí pháp gọi là Báo thân, sự tụ tập của các pháp công đức gọi là Ứng thân. Hoặc gọi là Pháp thân Phật, Báo thân Phật, Ứng thân Phật; Pháp Phật, Báo Phật, Ứng Phật; Pháp thân, Ứng thân, Hóa thân; Pháp thân Phật, Báo Phật, Hóa Phật; Pháp Phật, Báo Phật, Ứng hóa Phật; Chân thân, Ứng thân, Báo thân; Tự tánh thân, Mãn tư dụng thân, Hóa thân; Tự tánh thân, Ứng thân, Hóa thân; Pháp thân, Ứng thân, Hóa thân; Pháp tánh thân, Thọ dụng thân, Biến hóa thân; Tự tánh thân, Thọ dụng thân, Biến hóa thân; Tự tánh thân, Thực thân, Biến hóa thân; Pháp thân Phật, Thọ dụng thân Phật, Hóa thân Phật; Chánh pháp Phật, Tu thành Phật, Ứng hóa Phật; Phật sở kiến thân, Bồ-tát sở kiến thân, Nhị thừa phàm phu sở kiến thân.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(49) <B>Tứ trí</B>: gọi đủ: Tứ trí tâm phẩm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tứ trí của quả Phật, do tông Duy thức thành lập, tức chuyển biến các thức thứ 8, thứ 7, thứ 6 và 5 thức trước hữu lậu thành 4 thứ trí vô lậu là Đại Viên Cảnh Trí, Bình Đẳng Tánh Trí, Diệu Quán Sát Trí và Thành Sở Tác Trí.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(50) <B>Sáu thông</B>: sáu diệu dụng vô ngại tự tại của Phật, Bồ-tát do nương sức định huệ mà thị hiện. Đó là: Thần túc thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông, Thiên nhãn thông và Lậu tận trí chứng thông.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(51) <B>Tứ ân</B>: bốn công ơn. Phật dạy các hàng đệ tử cần phải có bổn phận báo đáp bốn công ơn đó. Đó là ơn cha mẹ, ơn thầy bạn, ơn tổ quốc và ơn chúng sinh.
<CENTER>CHƯƠNG 15
<B>PHÁP MÔN BUỘC NIỆM SÁM HỐI NIỆM PHẬT CÔNG ĐỨC</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <I>Vô Lượng Thọ</I> nói: <I>"Nếu khi tôi thành Phật, chư thiên, nhân dân trong vô lượng thế giới ở khắp mười phương, nghe danh hiệu tôi rồi dâng hương, rải hoa, đốt đèn, treo phan, cúng dường thức ăn cho Sa môn, xây dựng chùa tháp, trai giới thanh tịnh, làm các việc lành, một lòng nghĩ nhớ về tôi, tuy chỉ ở trong khoảng thời gian suốt một ngày đêm cũng được sinh về cõi nước của tôi. Nếu không được như nguyện này, tôi quyết không thành Phật".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh này còn nói: <I>"Nếu khi tôi thành Phật, chư thiên, nhân dân, cho đến loài bò, bay, máy, cựa trong vô lượng thế giới ở khắp mười phương, đời trước có làm ác, nhưng khi nghe danh hiệu tôi liền sám hối làm lành, vâng giữ giới luật, thực hành theo kinh giáo, nguyện sinh về cõi nước tôi. Khi lâm chung đều không trải qua ba đường ác, thẳng tắt vãng sinh, tất cả sự mong muốn đều được như ý. Nếu không được như nguyện này, tôi quyết không thành Phật".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người tu trì trước nên trang nghiêm thanh tịnh đàn tràng, dâng hương đốt đèn, đặt bày cúng dường, thỉnh một Tỷ kheo và các bậc Thượng thiện nhân làm tôn chứng. Rồi bạch với Phật, bày tỏ tâm ý, dứt tuyệt lo nghĩ, chớ dự tính việc nhà, đừng gần gũi vợ con, trai giới tu trì, buộc tâm niệm vào danh hiệu của Phật A Di Đà một ngày một đêm. Mỗi lần niệm là một ngàn câu, tụng một quyển kinh Di Đà. Như thế ba lần, chí tâm sám hối hồi hướng rằng: <I>"Con hôm nay tự nghĩ: từ vô thỉ kiếp, cho đến ngày nay, đã gây nghiệp ác. Nguyện do công đức, niệm Phật ngày nay, được vào biển thệ, của đức Như Lai, nhờ sức Từ Tôn, tiêu trừ các tội, dứt sạch oan khiên. Đem các việc lành, từ nơi ba nghiệp, trang nghiêm Tịnh nguyện, phước trí hiện tiền. Con nguyện lâm chung, biết trước ngày giờ, thân không bệnh khổ, tâm không điên đảo, như vào thiền định. Trong khoảng sát na, con được đức Phật, tiếp dẫn vãng sinh, về cõi Cực Lạc, sinh trong ao báu, trên đài hoa sen. Được Phật thọ ký, được nghe kinh pháp, chóng khai Phật tuệ, rộng độ chúng sinh, mãn Bồ đề nguyện".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Nước chảy bên đá, trôi ra lạnh
Gió từ trong hoa, thổi đến thơm.</I>
<CENTER>CHƯƠNG 16
<B>PHÁP MÔN TÍN, NGUYỆN SỚM TỐI NIỆM PHẬT CÔNG ĐỨC</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bồ tát tại gia thờ Phật giữ giới, vì mỗi ngày còn lo lắng việc nhà, chưa thể nhất tâm tu hành, thì cần phải dậy sớm thắp hương đảnh lễ Tam Bảo, tùy ý niệm Phật. Mỗi ngày, lúc hoàng hôn cũng lễ niệm như thế, lấy đó làm thời khóa thường ngày. Nếu như bỏ mất thời khóa, thì ngày kế tiếp tự đối trước Phật sám hối.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp môn này không làm trở ngại mọi nghề nghiệp. Kẻ sĩ chẳng trở ngại việc tu tập học hành, nông dân chẳng trở ngại việc cày cấy, người thợ chẳng trở ngại việc làm, doanh nhân không trở ngại buôn bán. Ngoài việc lễ niệm sớm tối, lại có thể trong 24 giờ tranh thủ công phu trì niệm danh hiệu Phật trăm ngàn câu, lấy tâm chí thành làm công, mong cầu sinh về Tịnh độ. Hồi hướng rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Đệ tử là..... nay lễ bái và niệm Phật được công đức, nguyện đến lúc mạng chung vãng sinh Tịnh độ. Trong ao hoa sen, tận mắt thấy Phật A Di Đà, bên hàng cây báu, gặp được bạn lành. Nguyện cho cha mẹ, sư trưởng và chúng sinh khắp pháp giới cùng mãn nguyện này.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Chứa cát bụi gom thành núi cả
Giọt nước nhỏ dần thành sông lớn.</I>
<CENTER>CHƯƠNG 17
<B>PHÁP MÔN MƯỜI NIỆM GIẢN ĐƠN NIỆM PHẬT CÔNG ĐỨC</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sám chủ Từ Vân Thức nói: <I>"Người ở trong thế tục, công việc bận rộn lăng xăng, mỗi ngày vào lúc sáng sớm, mặc y phục tề chỉnh rồi hướng về phương Tây chắp tay niệm Nam mô A Di Đà Phật, dùng hết một hơi làm một niệm. Như thế, mười niệm chỉ theo hơi dài hoặc ngắn, khi hơi tận cùng là tròn một niệm. Tiếng niệm Phật không cao cũng không thấp, chỉ ở mức trung bình. Mười niệm như thế, liên tục không gián đoạn, chú ý đừng để tâm phân tán, lấy việc tinh chuyên làm công phu. Ở đây tức là nhờ vào hơi thở để buộc tâm. Hồi hướng rằng: nay con..... nhất tâm quy mạng, Phật A Di Đà, ở cõi Tây Phương. Nguyện dùng ánh tịnh, soi chiếu thân con. Nay con xưng niệm, danh hiệu Như Lai, trong khoảng mười niệm, cầu sinh Tịnh độ. Đức Phật thuở xưa, vốn có thệ nguyện, nếu có chúng sinh, muốn về nước tôi, xưng danh hiệu tôi, cho đến mười niệm, nếu không vãng sinh, thệ không thành Phật. Nay con nguyện đem, công đức mười niệm, nguyện lúc mạng chung, tâm không điên đảo, trong khoảng một niệm, liền sinh Cực Lạc, nghe pháp vi diệu, mau chứng được Bồ đề".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Lòng tin nếu không thối
Quyết định lễ Kim Tiên.</I></P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>CHƯƠNG 18
<B>LỜI TỰA BIỂU ĐỒ TUYỂN PHẬT
BỐN CÕI VIÊN DUNG CỦA TÔNG CHỦ TỪ CHIẾU</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cõi Thường Tịch Quang và Phàm Thánh Đồng Cư<SUP><B>(52)</B></SUP> chỉ là một trí không khác. Do tình sinh kia đây nên thấy có xa gần. Thấy mặt rõ sắc, tánh không như như, vốn không hai đường mà chúng sinh tự thấy có vi diệu và thô phù. Còn theo tôi thì không như thế, ở một thể Tỳ Lô trước cần phải biết rõ cội gốc, mới khỏi bị mơ hồ. Thực hành thì có tướng trạng của thực hành; trí tuệ ắt có khuôn mẫu của trí tuệ; phát nguyện thì có sức mạnh của phát nguyện; tiến tu thì có lộ trình của tiến tu. Tĩnh sáng lặng lẽ như ngọc trong sáng soi thấu tâm thể. Phàm Thánh chung đường, bốn cõi duy thông, ba thân như một, khắp nơi tức Tịnh độ, mọi chốn đều là Di Đà.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vả lại, sơn tăng vì thấy người tu học nhận định về bốn cõi hỗn loạn không thứ tự, đến nỗi kẻ căn cơ lợi độn chẳng phân biệt được, nhân quả đều mất. Chỉ nói Tịnh độ mà chẳng biết sự cao thấp của Tịnh độ, chỉ nói do tâm mà chẳng biết sự sâu cạn của tâm. Thế nên, thấy các môn phái hủy báng lẫn nhau, ai nấy đều chấp một bên, đâu biết đâu hay tự mình phá hủy tông phong, chớ chẳng phải tà ma làm hoại được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay sơ lược mở ra một lối, trình bày bốn biểu đồ, trừ dẹp mê tình, nhanh chóng tỏ sáng tâm địa. Sau đó, hằng sa pháp giới đều thâu hết trong một trang giấy, vô lượng pháp môn đều được bày tỏ chỉ nơi gang tấc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(52) <B>Phàm Thánh Đồng Cư</B>: cõi nước mà phàm phu Nhân đạo, Thiên đạo cùng ở chung với các bậc Thánh Thanh văn, Duyên giác. Trong đó lại được chia thành hai loại:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Phàm cư: trong đó cũng có "Tứ ác thú", là chỗ ở của ác chúng sinh và "Nhân thiên thú", là chỗ ở của thiện chúng sinh khác nhau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Thánh cư cũng có Thật Thánh và Quyền Thánh khác nhau. Thật Thánh là chỗ ở của những vị đã chứng Tứ quả Thanh văn, Bích Chi Phật, Lục địa của Thông giáo, Thập trụ của Biệt giáo; còn Quyền Thánh có hàng Tam thừa trong Phương Tiện Hữu Dư độ, hàng Bồ tát pháp thân, Như Lai Diệu Giác trong Thật Báo Vô Chướng Ngại độ và Thường Tịch Quang độ, ứng theo yêu cầu của chúng sinh hữu duyên mà quyền hóa sinh vào cõi này. Ngoài ra, Phàm Thánh Đồng Cư độ này lại có hai thứ là tịnh và uế, như thế giới Ta bà là uế độ đồng cư, còn cõi Cực lạc Tây phương là Tịnh độ đồng cư.
<CENTER><B>BIỂU ĐỒ TỔNG TƯỚNG BỐN CÕI VIÊN DUNG</B>
<BR>
yiap.jpg

<BR><I>Tự tánh Di Đà Phật
Duy tâm chân Tịnh độ
Tỏ ngộ chỉ một niệm
Mê lầm trải ba kỳ
Thâu nhiếp hai môn lập
Phàm Thánh một lối về
Tình đời xem ấm lạnh
Mặt người bèn thấp cao.</I>
<BR><B>BA ÁNH SÁNG ĐẦY ĐỦ</B>
<BR>
jqpt.jpg

<p style="padding-left: 56px;"><I>Tình phàm Thánh khác, trí có khác
Phải nhờ tu chứng hợp Tỳ Lô
Sợ người sức yếu đi mỏi mệt
Tạm chỉ Tây Phương trụ nửa đường.
<BR>Thoát ngang ba cõi ít người biết
Dễ tu dễ vãng chớ hồ nghi
Một lòng tín, nguyện niệm A Di
Lâm chung chánh niệm đi tỏ rõ.
<BR>Ba ngày, bảy ngày biết trước giờ
Đã sinh Tịnh độ thường nghe pháp
Lo gì không được ngộ chân tâm.</I></CENTER>
[IMGL]http://img5.imageshack.us/img5/5037/oi4w.jpg[/IMGL]
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cõi này chỉ có tín, nguyện niệm Phật, không dứt phiền não, không bỏ việc nhà, không tu thiền định. Lúc mạng chung, Di Đà tiếp dẫn, liền được vãng sanh Tịnh Độ, được thần thông, chứng bậc Bất thối, thẳng tiến Bồ đề. Cõi Phàm Thánh Đồng Cư là tự tha thọ dụng, ba ánh sáng đầy đủ. Thâu nhiếp chung bốn cõi, hóa sanh trong chín phẩm. Theo lý ba cõi sau đều ở trong cõi này, chẳng ở nơi nào khác. Ở đây chỉ dẫn Hạ phẩm hạ sanh là vì Tổ sư nói rõ việc dễ tu dễ vãng sanh. Ngoài ra, phẩm vị cao thấp đều tùy theo hạnh nguyện tu chứng của mỗi người mà thành.
<CENTER><BR><B>NHƯ ÁNH SÁNG CỦA CÁC NGÔI SAO</B>
<BR>
mz02.jpg

<p style="padding-left: 56px;"><I>Đoạn trừ phiền não dứt dấu vết
Diệt sạch tâm trí hết liền thôi
Bảo Sở không thể tiến đến trước
Như Lai phương tiện nên lưu lại.
Thoát dọc ba cõi Thanh văn tánh
Phiền não trần lao gấp đoạn trừ
Nhập định từ thiền thường quán sát
Vượt hẳn cõi phàm không trở lại.</I></CENTER>
[IMGL]http://img15.imageshack.us/img15/4024/udl8.jpg[/IMGL]
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cõi này đều là căn tánh Tiểu thừa định tánh, sợ hãi ba cõi như cọp, quỷ, rắn rồng, phá trừ kiến hoặc, tư hoặc, tiêu diệt tham, sân, si, đoạn dứt hạt giống Như Lai như con chương một mình trốn thoát, không nhìn lại bầy đằng sau, thiên lệch chấp trước vào cái thấy nhỏ hẹp, dính mắc đắm chìm ở chỗ rỗng lặng, cho nên sanh về cõi Phương Tiện. Đức Như Lai vì họ mà nói thuần về Đại thừa để điều phục.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(53) <B>Biên công</B>: có công lao bảo vệ, khai thác hoặc sửa trị nơi biên cương.
<CENTER><B>NHƯ ÁNH SÁNG MẶT TRĂNG</B>
<BR>
jbuo.jpg

<BR><I>Tam pháp nhỏ nhiệm còn chưa dẹp
Nên biết, tình hết mới nhổ gốc
Áo lót sát da đã chưa cởi
Mảy trần vẫn ngại đại càn khôn.
Chẳng ngang chẳng dọc
Tam Quán lắng tâm tiến chớ nghi
Một lực chưa thể qua bờ giác
Vẫn vậy rơi trong cơ Thánh Hiền.</I></CENTER>
[IMGL]http://img607.imageshack.us/img607/4493/9qcz.jpg[/IMGL]
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cõi này đều là bậc Đại thừa tu trọn vẹn về Tam quán, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Đẳng giác. Pháp thân Đại sĩ nhiều như cát bụi, ai nấy đều phá trừ từng phần vô minh, phân thân khắp mười phương thị hiện tám tướng thành đạo, độ thoát chúng sanh, nhưng các ngài vẫn chưa đạt đến chỗ cứu cánh. Giáo pháp của Thiên Thai, Hiền Thủ có nói rõ điều này.
<CENTER><BR><B>NHƯ ÁNH SÁNG MẶT TRỜI</B>
<BR>
6hbx.jpg

<BR><I>Cánh trí như như dứt chứng tu
Không còn việc tạp vướng nơi lòng
Tình hết chấp trừ tin tức dứt
Một vầng trăng sáng giữa trời Thu.
<BR>Xung quan thấu đảnh chẳng nghĩ bàn
Chỉ nơi đương niệm dứt nghĩ suy
Duy tâm Tịnh độ duy tâm tịnh
Ngay đây nhận lấy đệ nhất cơ.
Trí mở, hoặc trừ không phiền não
Trở về nguồn cội tự mình hay
Vô tâm thân khắp trần sa giới
Mặc tình thâu nhận các con về.</I></CENTER>
[IMGL]http://img819.imageshack.us/img819/8150/oasy.jpg[/IMGL]
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cõi này cảnh giới Tối thượng thừa, hoặc hết tình quên, các pháp chẳng sanh, Bát nhã chẳng sanh, chẳng sanh chẳng diệt gọi ;à Đại Niết bàn, rốt ráo ở nơi đỉnh núi Niết bàn, ở yên trong cõi Thường Tịch Quang, gọi là Phập Pháp thân thanh tịnh Tỳ Lô Gá Na, gọi là đến bờ bên kia, cũng gọi là chính mình ở trước kiếp không.
<CENTER><BR><B>BỐN CÕI PHƯƠNG ĐÔNG</B>
<BR>
vyva.jpg

<BR><I>Bốn cõi chẳng phương vực
Tình sinh ngại không thông
Ngộ, mê phân Đại, Tiểu
Tịnh, uế cách Tây, Đông.
Vạn vật hình tuy khác
Ngàn cơ lý tự đồng
Gió Xuân vừa thổi đến
Khắp chốn nở hoa hồng.
<BR>Đại kiến trước sau không đổi
Tiểu kiến chín phẩm khác nhau
Thượng trí chỉ tại một tâm
Hạ trí Đông, Tây cách ngại.</I>
<BR><B>BỐN CÕI TÂY PHƯƠNG</B>
<BR>
51w3.jpg

<BR><I>Chớ bảo Tây Phương xa
Tây Phương ở trước mắt
Tuy nói qua mười vạn
Chẳng hề rời tam thiên
Vừa mở miệng niệm Phật
Ao hoa đã trồng sen
Lòng tin nếu không thối
Quyết định lễ Kim Tiên
<BR>Tây Phương là thủ tướng
Hai môn tu chán, ưa
Nếu từ đây được vào
Khắp nơi là Tịnh độ.</I></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Y báo và chánh báo của địa ngục A tỳ hoàn toàn ở nơi tự tâm của bậc chí Thánh; thân cõi Tỳ Lô chẳng vượt ngoài một niệm của phàm phu. Ngài Trí Giả nói: "Lại nào lại lìa Giá Na mà tìm cầu cõi Thường Tịch Quang nào khác. Nên biết Phật Tỳ Lô Giá Na ở khắp tất cả chỗ. Người khác quán xét tâm thì tất cả vạn pháp duy tâm vốn đầy đủ".
<CENTER><B>BỐN CÕI TÂM QUÁN</B>
<BR>
a3cv.jpg

<BR><I>Muốn biết thiên chân Phật
Trước nay dứt chứng tu
Chẳng còn kiếm bên ngoài
Chỉ hướng tự tâm cầu
Ngộ ba thân dung hợp
Mê, bốn cõi không tròn
Chớ nên sinh phân biệt
Ngay đây dừng tâm thôi!</I></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trọn ngày lặng lẽ sáng suốt mà chưa từng lặng lẽ sáng suốt là phàm phu. Muốn chứng ngộ chỗ lặng lẽ sáng suốt mà chưa đạt đến lặng lẽ sáng suốt cùng cực là Bồ tát. Đầy đủ lặng lẽ sáng suốt mà an trụ nơi lặng lẽ sáng suốt là Như Lai. Tịnh độ Thường Tịch Quang lìa tướng, tâm. Nếu đến chỗ này thì thấy nơi nào cũng là thường sáng suốt, lặng lẽ (Thường Tịch Quang).
<CENTER>
emm8.jpg

<BR>
tnrn.jpg
</CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Giáo là mắt Phật, Thiền là tâm Phật. Tâm không có mắt thì tâm không chỗ y cứ; mắt không có tâm thì mắt không thấy chi cả. Tâm và mắt hòa hợp mới rõ Đông Tây, Thiền và Giáo hòa dung mới khéo biết thông bít. Nên biết, cơ có lợi độn; pháp có khai mở và cấm ngăn. Nếu tạo ra một con đường cố định để thâu nhiếp mọi cơ, đều trở thành phỉ báng chánh pháp. Vào thành từ bốn cửa, nhưng cửa nào cũng đều đến dinh phủ; tu tâm theo bốn cõi, cõi nào cũng đều lên bờ giác. Người học giáo pháp không thể nghiên lệch tà vạy, các vị tham thiền nên hiểu rõ như thế! Phương tiện quyền biến và chưa thật vận dụng ở nơi người, chỉ nên dung thông Sự Lý, không thể chấp pháp thành bệnh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tam tuệ Văn, Tư, Tu; tam học Giới, Định, Tuệ đều phải trở về nguồn cội, muốn cho ai nấy được chuyển phàm thành Thánh. Người nay không hiểu rõ, chấp trước một bên, chỉ nói Giáo chẳng thông Thiền, nói Thiền lại chẳng thông Giáo. Vốn để trừ bỏ chấp trước, nhưng trở lại thành thiên lệch; vốn để bình đẳng tu tâm; lại sinh phân biệt. Thiền tông nói: <I>"Hoa vàng, trúc biết đều là chân như"</I>. Giáo môn nói: <I>"Một sắc, một hương toàn là Trung đạo"</I>. Bồ tát Thế Chí nhân niệm Phật tự được tâm khai ngộ. Đại sư Trí Giả tụng kinh Pháp Hoa được thấy pháp chân thật. Mọi nơi đều tồn tại đạo nhiệm mầu, há lại ở chỗ tranh luận huyên náo!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay muốn tâm phàm và thân cõi hòa dung; niệm Phật, Thiền, Giáo cùng chung một đạo. Vào cửa tuy khác, nhưng rốt cuộc vốn đồng. Chớ sinh khởi yêu ghét, đừng phân biệt kia đây. Mọi người phải nên cứu xét cội gốc, đừng cạnh tranh trên cành lá. Không nên chấp chân thật, chê bai quyền biến, hay chấp quyền biến, chê bai chân thật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quốc sư Thanh Lương nói:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Biển nghiệp trần lao
Hoặc kết chấp chặt
Tình hết, kiến trừ
Chẳng nhọc thâu thập.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ba thân: Pháp thân, Báo thân, Ứng thân; bốn cõi: Tịch Quang, Thật Báo<SUP><B>(54)</B></SUP>, Phương Tiện<SUP><B>(55)</B></SUP>, Đồng Cư đều phải về nơi nguồn cội, tất cả cùng trở về một con đường. Một thân tức ba thân, bốn cõi là một cõi, chẳng sau chẳng trước, không đến không đi. Do tình chấp mà thấy có sai biệt, chẳng phải đức Phật che dấu. Chỉ chấp nhận tâm truyền, chẳng thông qua ngôn ngữ, cùng khắp viên dung, vô tận vô cùng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhất chân vô ngại trùng trùng lớp lớp, dù cho mạng lưới ngọc của Đế Thích cũng chẳng thể nào ví dụ được. Xoay chuyển cơ quan<SUP><B>(56)</B></SUP> thảy đều thông suốt, chẳng do nơi lanh lợi mà chỉ nhờ tỉnh sáng. Phật Tỳ Lô đắc đạo thì chấp nhận cho ông thành tựu, dứt hẳn sinh tử, liền phóng ánh sáng. Nếu chẳng nghĩ bàn thì sông trong, biển lặng.
<p style="padding-left: 56px;"><I>Một cõi phân bốn cõi
Cõi cõi đều ba thân
Thân cõi không cùng tận
Tình chấp dường như sao.
Như Lai lực vô ngại
Tựa trăng giữa trời cao
Nơi nơi đều thấy trăng
Chốn chốn tràn ánh sáng.</I>
<P>KỆ TỤNG
<B>ĐẠI ĐẠO THÔNG THIÊN HẠ</B>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Sáng tỏ mấy trăm châu
Châu châu đều có lối
Lối lối hợp xuân thu
Mê mờ ba thân khác
Tỏ ngộ một cũng thôi
Chỗ không có, kia đây
Chớ đem kết oán thù.</I>
<P><B>ĐỀ CƯƠNG NIỆM PHẬT</B>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Vốn không có dấu vết
Phương tiện bày cho anh
Nếu ai hỏi thế nào?
Nam mô A Di Đà!</I>
<P><B>NIỆM PHẬT TÂM KHAI</B>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Chuyên tu Tam muội, niệm Di Đà
Di Đà bỗng gặp ở trong ta
Mới biết dưới chân đều Bảo sở</I><SUP><B>(57)</B></SUP>
<I>Cõi cõi dung thông chẳng có xa.</I>
<P><B>THIỀN, GIÁO THÀNH TỰU LẪN NHAU</B>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Thiên Thai, Hiền Thủ, Từ Ân giáo
Đạt Ma, Nam Sơn, ý vốn đồng
Pháp môn số lượng vô cùng tận
Chẳng lìa mảy tơ, dứt diệu thô.</I>
<P><B>BA THÂN THỂ ĐỒNG</B>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Ba đức ẩn kín với ba thân
Mở cuốn tùy duyên, phân chẳng phân
Chốn chốn dung thông không ngăn ngại
Chớ nên nhất định nói ba người.</I>
<P><B>TAM BẢO KHÔNG KHÁC</B>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Phật, pháp, tăng bảo rất là chân
Chẳng khác hiện giờ một điểm linh
Nêu một tức ba, ba là một
Chớ để nhận lầm kim chỉ nam.</I>
<P><B>THÂN CÕI KHÔNG HAI</B>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Tỳ Lô tức là Tịch Quang độ
Tịch Quang tức là đại Tỳ Lô
Thân cõi xưa nay không hai tướng
Hoàng thành vốn là đại kinh đô.</I>
<P><B>TÂM PHẬT KHÔNG KHÁC</B>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Tâm này chính là Phật Di Đà
Di Đà chính là tự tâm nguyên
Mọi người đều bảo trăng khuyết giảm
Ai tin xưa nay vầng nhật viên.</I>
<P><B>BẶT DẤU KHÔNG TƯỚNG</B>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Một niệm sáng tròn trùm pháp giới
Khỏi hướng ba kỳ chấp kiếp tu
Nếu ở trong đây hay rõ được
Một điểm vi trần cũng chẳng lưu.</I>
<P><B>TÌNH HẾT TỎ TƯỜNG</B>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Tỳ Lô hải tạng toàn không dấu
Tịch Quang cõi diệu vết cũng không
Kiếp hỏa cháy tiêu dù kẽ tóc
Non xanh vẫn thế mây trắng trong.</I>
<P><B>NƠI NƠI THẤY ĐẠO</B>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Tịch Quang kim bảo và cát bùn
Chốn chốn không tâm tức là nhà
Rõ được trong đây huyền diệu ý
Ưu đàm vốn là Bạch liên hoa.</I>
<P><B>CHỐN CHỐN GẶP NGUỒN</B>
<p style="padding-left: 56px;"><I>Tâm tâm, niệm niệm Phật Di Đà
Nơi nơi chốn chốn Tỳ lô xưa
Vi trần biển cõi như sao bủa
Sơn tăng thâu trong một họa đồ.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(54) <B>Thật Báo</B>: nơi sinh về của các vị Bồ-tát đã đoạn trừ một phần vô minh. Đây là cõi nước vô ngại tự tại, là quả báo có được nhờ tu đạo chân thật nên gọi là Thật Báo Vô Chướng Ngại độ; đây là chỗ ở của các vị Bồ tát không có phàm phu và Nhị thừa, là cõi nước quả báo, nơi ở của các vị Bồ tát từ Sơ địa của Biệt giáo trở lên, từ Sơ trụ của Viên giáo trở lên.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(55) <B>Phương Tiện</B>: chỗ ở của hàng A la hán, Bích chi Phật, Bồ tát Địa tiền. Vì các vị này tu phương tiện đạo, đoạn trừ kiến hoặc, tư hoặc nên gọi là phương tiện; nhưng còn dư chướng hoặc vô minh căn bản che lấp Thật tướng trung đạo nên gọi là hữu dư.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(56) <B>Cơ quan</B>: mưu chước, cơ pháp mà vị thầy tùy theo căn cơ lập ra, giúp cho người học khai ngộ và chỉ phù hợp với căn bản từng người. Cơ pháp ấy có thể là: công án, thoại đầu, đánh và hét.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(57) <B>Bảo sở</B>: dụ cho Niết bàn của Đại thừa, chỉ nơi an trụ rốt ráo chân thật.</P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER><B>LIÊN TÔNG BẢO GIÁM</B>
QUYỂN BA
Thiên thứ Ba
<B>CHÁNH TÔNG NIỆM PHẬT</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại sư Minh Giáo nói: "Đức Phật thiết lập giáo pháp hẳn là lấy Thiền làm tông, Phật là vị Tổ khai sáng, Tổ là khuôn phép rộng lớn của giáo pháp, tông là chỗ bao quát toàn thể giáo pháp. Chỗ bao quát toàn thể của giáo pháp, nếu không rõ ràng thì thiên hạ không thể đạt đến chỗ đồng nhất; khuôn phép rộng lớn của giáo pháp, nếu không chân chánh thì thiên hạ không thể chứng đắc chỗ chân thật".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những người học Phật xưa nay, đem sở học của mình cạnh tranh hơn thua lẫn nhau là vì tông không rõ, Tổ không chánh mà trở thành tai hại. Song, chẳng phải Tổ và tông vốn không rõ ràng, không chân chánh, mà bởi người học đời sau không thể khảo cứu tận cùng kinh luận, sửa đổi cho đúng đắn. Vì thế, nên có những người hạn cuộc nơi giáo pháp, chẳng rõ ý chỉ sâu kín nơi đức Phật, huyền diệu ở ngoài ngôn ngữ. Các Thiền giả chẳng cứu xét lời Phật, chỉ xem khái quát ở trong giáo pháp, tự phát sinh phải quấy lăng xăng với nhau, xưa nay chưa từng tạm thời ngưng nghỉ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôi từng cứu xét trong Đại tạng, hoặc kinh, hoặc truyện để kiểm nghiệm, goi là Thiền tông đó chính là tâm của Phật, Tổ. Phật nói, một Đại tạng giáo lý chưa từng không lấy tâm làm tông chỉ. Than ôi! Căn cơ của chúng sinh khác biệt, sao có thể lấy một pháp để làm cho họ thấu rõ tâm ấy. Đức Phật thiết lập sự giáo hóa một cách bình đẳng, đối với căn bệnh nào thì cho thứ thuốc ấy thôi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vả lại, pháp môn niệm Phật trong tông Tịnh độ có chân thật và quyền biến, có đốn có tiệm, nhưng đều hiển bày lý chân thật mà Như Lai chứng ngộ, mở ra cội nguồn tự tánh của chúng sinh. Lấy môn Niệm Phật Tam-muội thâu nhiếp tất cả mọi người, khiến cho minh tâm thấy tánh, vào nơi trí tuệ Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có người hỏi:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Niệm Phật có thể rõ tâm thấy tánh, vào nơi trí tuệ Phật được không?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôi đáp:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Tâm là chủ của vạn pháp. Nếu ta làm chủ được tâm thì đạo nào chẳng thành tựu? Bồ tát Đại Thế Chí do niệm Phật mà chứng ngộ Vô sinh nhẫn. Cứu xét về nhân tu hành của Ngài, thuần là dụng công phu ở nơi niệm Phật, niệm niệm không gián đoạn, nhồi thành một khối. Cho nên nói: "Thâu nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm tiếp nối mà được chánh định. Đó là bậc nhất".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bởi lẽ, Phật là tâm, niệm Phật là niệm tâm, tâm tâm không hai. Tâm đã không hai, Phật Phật đều như thế. Một niệm thông suốt, không có bờ mé trước sau. Ba mé đều dứt, đó là đạo tràng chân thật. Mỗi hạt bụi đầu hiển lộ, tất cả cõi hoàn toàn hiển bày, đó là vào nơi biển trí tuệ chân chánh thấy biết tất cả của Như Lai, đầy đủ Nhất thiết chủng trí. Ý chỉ của niệm Phật đại lược như thế.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tổ sư Huệ Viễn được Tam muội này, lấy đó dạy cho một trăm hai mươi ba người cùng tu cùng chứng, tư tưởng chuyên nhất lặng lẽ cho đến chỗ cứu cánh. Đây thật là Tổ sư có tâm lo lắng sâu xa cứu giúp mọi loài.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hơn nữa, thời Đông Tấn, những kinh điển mới lạ chưa được truyền sang, trong nước chưa từng nghe cam lộ Thiền pháp, mỗi người nói tông chỉ thật tướng theo mỗi cách khác nhau. Do đó, ngài Huệ Viễn mới sai đệ tử vượt ngọn Thông Lãnh thỉnh Thiền sư từ nơi xa đến, tìm xét kinh điển. Thế nên, Đại sư Minh Giáo trong Định Tổ Đồ nói: "Thời Tần, thấy Trí Nghiêm ở nước Kế Tân, thành khẩn mời thỉnh ngài Bạt Đà La sang Trung Hoa, truyền trao pháp Thiền. Ban đầu đến Trường An, sau đó đến Lô Sơn, cùng với ngài Huệ Viễn phiên dịch Thiền kinh. Sau khi phiên dịch xong, ngài Huệ Viễn viết lời tựa".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bạt Đà La từng bảo ngài Huệ Viễn rằng: "Các Tổ sư truyền pháp ở Ấn Độ, từ ngài Đại Ca Diếp truyền thừa, về sau gồm có hai mươi bảy vị Tổ. Tổ thứ hai mươi sáu diệt độ gần đây tên là Bất Như Mật Đa và vị đệ tử kế thế của ngài là Bát Nhã Đa La đến giáo hóa ở miền Nam nước Thiên Trúc. Đem ngọn đèn trí tuệ này lần lượt truyền trao cho Đạt Ma Đa La, về sau trở thành vị Tổ thứ hai mươi tám. Nay, tôi theo những điều được nghe ấy mà nói về ý nghĩa này".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngài Huệ Viễn nghe Bạt Đà La nói, nên viết lời tựa rằng: "Đạt Ma Đa La là bậc tài trí xuất chúng ở Tây Vực, người nắm Tông chỉ của Thiền phái".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong Bảo Lâm Truyện nói: "Bạt Đà La từng nói với ngài Huệ Viễn về sự truyền pháp qua các đời của chư vị Tổ sư". Điều này vốn là nghiệm xét từ nơi kinh Thiền. Do đó, Trương Dã viết lời tựa về bài minh nơi ngôi tháp của ngài Huệ Viễn rằng: "Các kinh tâm thiền xuất phát từ Lô Sơn. Sư thường bảo pháp Thiền tinh vi, người không có khả năng chớ nên trao truyền. Chỉ có môn niệm Phật là công đức cao vời và dễ dàng tu tiến, dùng pháp chỉ quán để tu hành, chuyên cần tinh tấn nơi Tịnh nghiệp. Đó là nhờ sự tu hành lắng đọng tinh thần, thực tập lần lần sửa đổi tánh tình. Thật là từ nơi đây mà được vào nơi pháp môn vô tận của Như Lai".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nên, khi giáo pháp Tịnh độ này đến chỗ Đại sư Trí Giả ở Thiên Thai thì Ngài chỉ dạy Tam quán<SUP><B>(58)</B></SUP>, chứng ngộ Nhất tâm, xâu kết tất cả hạnh chánh yếu của Ba thừa, thâu nhiếp hết căn cơ của Năm tánh<SUP><B>(59)</B></SUP>, giao phó gia tài chân thật về quán hạnh, ngộ nhập tri kiến của Như Lai. Từ đó mà biết, cương yếu của môn niệm Phật là lấy kinh Quán Vô Lượng Thọ làm tiêu chuẩn. Kinh này lấy cảnh tịnh của cõi Phật làm chính yếu, lấy trí quán tưởng, hạnh vi diệu làm chỗ hướng đến; lấy thật tướng Di-đà làm thể, lấy bỏ ác làm thiện làm dụng. Thế nên, thấy rõ vô lượng công đức cùng trang nghiêm và tất cả hạnh thù thắng đều dẫn trở về Cực Lạc; lời nói, hỏi đáp, thuyết minh tỏ tường. Ví như các vì sao hướng về Bắc đẩu, muôn dòng sông chảy về biển Đông. Vì thế, bà Vi Đề Hy chẳng trải qua địa vị, nhanh chóng chứng ngộ Vô sinh; người phạm năm tội nghịch<SUP><B>(60)</B></SUP> niệm mười câu Phật hiệu liền lên Cực Lạc. Đây tức là thuộc về giáo lý Viên đốn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp môn Niệm Phật Tam muội này, có quyền thật, có đốn tiệm, thâu nhiếp mê ngộ, gồm thâu hết tất cả để cùng trở về tông chỉ chân thật. Giống như xe có hai bánh, chim có hai cánh, từ đây mà vào đạo, pháp này đáng gọi là cùng tột. Thế nên, tập hợp mọi phương pháp chánh định, chỉ dạy tông yếu của sự tu hành, khai sáng mắt tâm, chỉ thẳng cội nguồn, ngõ hầu giúp cho người niệm Phật tiến tu, tỏ rõ tông, không mờ mịt nơi Tổ. Còn như một câu hợp cơ, thì Tịnh độ từ nơi tâm hiển lộ đầy đủ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(58) <b>Tam quán</b>: ba pháp quán do Đại sư Trí Giả lập riêng khi giảng kinh Pháp Hoa.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. <I>Tùng hạnh quán</I>: nghĩa là chỉ y cứ theo hạnh môn của các kinh mà tu quán, tức là chỉ đối với muôn cảnh mà quán nhất tâm, muôn cảnh tuy khác nhau nhưng lý diệu quán là một, nhu quán "ấm"... là thuộc nghĩa ấy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">b. <I>Phụ pháp quán</I>: nương vào các pháp tướng để tu viên quán, tức y cứ vào các pháp tướng như Tứ đế Ngũ hạnh... mà vào nhất niệm tâm để thành tựu pháp quán.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">c. <I>Thác sự quán</I>: nghĩa là giả mượn sự nghĩa để thành tựu tu quán. Hễ tu một pháp quán nào đều dùng pháp quán đối trị, để giúp cho tu quán. Như giả mượn thành Vương Xá để tu quán thì quán Vương là sáu thức tâm vương, Xá là ngũ ấm, thành Vương xá là thân của chúng ta, cho đến thành Vương Xá này tức là Không, Giả, Trung, tâm vương tạo ra Xá này, nếu phân tích ngũ ấm thì Xá là Không, Không tức thành Niết bàn. Theo Thập Bất Nhị Môn Khu Yếu, Thượng, Thập thừa là nghĩa chung của ba thứ pháp quán, còn ba pháp quán tâm: Thác sự, Phụ pháp và Tùng hạnh là tướng khác của ba thứ pháp quán.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(59) <B>Năm tánh</B>: năm chủng tánh khác nhau của chúng sinh do chủng tử trong thức A lại da quyết định, không có cách gì thay đổi được. Đây là chủ trương của tông Pháp tướng. Năm tánh là:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. <I>Thanh văn thừa định tánh</I>: người có đủ chủng tử vô lậu có khả năng chứng A la hán.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. <I>Độc giác thừa định tánh</I>: người có đủ chủng tử vô lậu có khả năng chứng quả Bích Chi Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. <I>Như Lai thừa định tánh</I>: người có đủ chủng tử vô lậu có khả năng chứng quả Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">d. <I>Bất định chủng tánh</I>: người có chủng tử vô lậu, nhưng vẫn chưa quyết định là thuộc căn cơ nào trong Tam thừa. Bất định chủng tánh có bốn:
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(a) Nhị tánh bất định của Bồ tát, Thanh văn: người có hai chủng tử quả Phật và quả A la hán.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(b) Nhị tánh bất định của Duyên giác, Bồ tát: người có hai chủng tử quả Phật và quả Bích Chi Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(c) Nhị tánh bất định Thanh văn và Độc giác: người có hai chủng tử quả quả A la hán và quả Bích Chi Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(d) Tam tánh bất định của Thanh văn, Độc giác và Bồ tát: người có ba chủng tử quả quả A la hán và quả Bích Chi Phật và quả Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">e. <I>Vô tánh</I>: mặc dù không có chủng tử vô lậu của ba thừa, nhưng có chủng tử hữu lậu có thể đạt được quả trời, người.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong năm tánh thì ba tánh Thanh văn định tánh, Duyên giác định tánh, và Vô tánh đều không có chủng tử Phật, rốt ráo không thành Phật nên gọi là Tam vô. Còn Bồ-tát định tánh và người chứng quả Phật trong Bất định tánh là có chủng tử Phật và quyết định thành Phật, nên gọi là Nhị hữu.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(60) <B>Năm tội nghịch</B> (Ngũ nghịch tội): năm tội cực ác trái với đạo lý. Theo thuyết Tiểu thừa, năm tội nghịch: giết mẹ, giết cha, giết A la hán, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp tăng. Hai tội trước là phá Ân điền, ba tội sau là hủy Đức điền. Người phạm vào năm tội này sẽ bị đọa vào địa ngục Ngũ vô gián. Tội phá hòa hợp tăng chia làm hai:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. <I>Phá Yết ma Tăng</I>: tách rời giáo đoàn mà mình đã sống, thành lập giáo đoàn mới tổ chức các việc Bố tát, Yết ma riêng biệt
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. <I>Phá Pháp luân Tăng</I>: tôn thờ thầy khác, lập thuyết khác, tổ chức giáo đoàn riêng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo kinh Đại Tát Giá Ni Kiền Tử Sở Thuyết, quyển 4, thì năm tội trọng:
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(a) Phá hoại chùa tháp, thiêu đốt kinh tượng, cướp đoạt tài vật của Tam Bảo hoặc sai bảo người khác làm việc này.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(b) Hủy báng Thanh văn, Duyên giác cho đến giáo pháp Đại thừa.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(c) Ngăn cản người xuất gia tu hành hoặc giết hại người xuất gia.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(d) Phạm một trong năm tội Ngũ nghịch của Tiểu thừa.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(e) Chủ trương tất cả đều không có nghiệp báo, thực hành mười nghiệp ác hoặc không sợ quả báo đời sau mà sai bảo người khác làm mười điều ác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ, quyển 5, ngài Huệ Chiếu hợp tội giết cha và giết mẹ trong năm tội nghịch của Tiểu thừa thành một, đồng thời thêm vào tội phỉ báng Phật pháp mà lập thành năm tội nghịch cho cả Tam thừa.
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>Chương 1
<B>XÁC ĐỊNH RÕ TÔNG THỂ</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong Thông Tán của ngài Từ Ân nói: "Các bậc Cao đức thuở xưa ở phương này, phân định chung về kinh luận có bốn tông:
<p style="padding-left: 56px;">1. Tông lập tánh.
2. Tông phá tánh.
3. Tông phá tướng.
4. Tông hiển thật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Các kinh Niết bàn, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa... là hiển bày nghĩa Trung đạo chân thật, bỏ Hóa thành<SUP><B>(61)</B></SUP> về Bảo sở. Vì thế, kinh A di đà thuộc về Tông thứ tư.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Y theo văn mà phân định giáo pháp thì giáo pháp chỉ có ba. Theo loại để sắp đặt thì có tám tông:
<p style="padding-left: 56px;">1. Tông ngã pháp đều có.
2. Tông có pháp không ngã.
3. Tông pháp không tới lui.
4. Tông hiện thông giả thật.
5. Tông tục vọng chân thật.
6. Tông các pháp chỉ là giả danh.
7. Tông thắng nghĩa đều không.
8. Tông ứng lý viên thật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì vậy, kinh Hoa Nghiêm và kinh A Di Đà thuộc về Tông thứ tám".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(61) <B>Hóa thành</B>: dụ cho Niết Bàn của Tiểu thừa chưa rốt ráo và không thật.
<CENTER>CHƯƠNG 2
<B>TÔNG THỂ QUYỀN THẬT VỀ MƯỜI LOẠI TỊNH ĐỘ
TRONG HOA NGHIÊM HỢP LUẬN
CỦA TRƯỞNG GIẢ LÝ THÔNG HUYỀN</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Biển trí bát ngát mênh mông chẳng thể xét cùng bờ mé, nguồn chân rộng lớn bao la khó tìm kiếm được bến bờ. Pháp giới Tỳ Lô Giá Na, thể tướng bao quát nơi trần sa. Pháp môn Phương Quảng, tịnh uế chan hòa nơi vô cực. Tùy theo nghiệp dụng tu tập trong hiện tại, nên thấy cảnh giới chẳng đồng; vì trái với cảnh Thánh, mà y báo và căn trần bất định. Hoặc dùng quyền biến phân biệt Tịnh độ nơi cõi khác để chỉ cõi uế trược nơi Ta-bà, hoặc bảo nơi đây chỉ là phương tiện để dẫn dắt giáo hóa và nói rõ phương trên mới là cõi Thật Báo. Bồ tát Văn Thù ở thế giới Kim Sắc, từ cõi nước phương Đông đến; Quan Âm ở cõi mầu An Lạc, từ Tây Phương sang. Mỗi vị đều có cách hiện bày sự quyền biến khác nhau, dẫn dắt người mê, giúp họ thấu rõ sự lý. Do đó, chúng sinh chỉ nên tin chắc, nhưng không nên chấp trước.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay, sơ lược gom các môn lại để giúp cho người mới tu có chỗ y cứ vững. Trình bày tóm lược có mười loại để làm kim chỉ nam.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">1. <B>Tịnh Độ trong kinh Di Đà</B>: đây là pháp môn dành cho hàng phàm phu còn một phần chấp tướng, chưa tin được lý chân thật về pháp không. Chỉ do chân thành chuyên nghĩ nhớ tưởng niệm không đổi dời. Vì vậy, tâm được phần nào thanh tịnh mà vãng sinh Tịnh độ. Đó là quyền biến chưa phải chân thật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">2. <B>Tịnh Độ trong kinh Quán Vô Lượng Thọ</B>: đây là pháp môn dành cho những chúng sinh có một phần chưa tin lý chân thật về pháp không và ưa thích sắc tướng vi diệu. Do đó, dạy bảo họ đem tâm chuyên quán tưởng về sắc tướng của Phật A Di Đà, đến khi thành tựu thì vãng sinh cõi Phật. Đó là quyền biến chẳng phải chân thật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">3. <B>Tịnh Độ trong kinh Duy Ma</B>: đức Phật dùng ngón chân ấn xuống đất, khi Ngài sử dụng thần lực thì tạm hiện bày cõi Phật, nhưng rồi cũng trở về không. Tuy đó là cõi Thật Báo Trang Nghiêm, nhưng chưa trình bày đầy đủ về sự rộng lớn và nhỏ hẹp. Ở đây là chân thật mà chưa rộng lớn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">4. <B>Tịnh Độ trong kinh Phạm Võng</B>: tuy nói một đóa hoa vương to lớn và có ngàn cánh. Trên mỗi một cánh có trăm ức vị Hóa Phật, giáo hóa các chúng sinh trong trăm ức tứ thiên hạ. Nhưng do hàng Bồ tát Tam thừa thấy chưa được rộng lớn nên phân ngàn cánh kia và hoa vương kia nói là cảnh Thật Báo chưa viên mãn. Đây là quyền biến chưa phải chân thật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">5. <B>Tịnh Độ của cõi trời Ma Hê Thủ La</B>: đức Như Lai ở nơi tòa sen, thành tựu đạo giác ngộ chân chánh, lấy đó làm Thật Báo. Còn lúc đức Phật ở trong đạo tràng Bồ đề, nước Ma Kiệt Đà nơi cõi Diêm-phù-đề này thành tựu đạo giác ngộ chân chánh, đó là vì để giáo hóa hàng Bồ tát quyền giáo trong ba thừa. Đối với người vẫn còn cái thấy về nhiễm và tịnh, nói rằng cõi Diêm phù- đề này và sáu cõi Trời... là cõi Dục hữu lậu, còn cõi trời Ma Hê Thủ La thượng giới là vô lậu. Tâm còn nhiễm và tịnh, chưa quên kia đây... Đó là giáo lý quyền biến chưa phải chân thật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">6. <B>Tịnh Độ được trình bày trong kinh Niết Bàn</B>: đức Như Lai có Tịnh độ Thật Báo ở Tây Phương, trải qua số cõi Phật nhiều gấp hai mươi hai lần số cát sông Hằng. Đây là giáo lý quyền biến trong ba thừa để giáo hóa những người còn một phần nhiễm tịnh chưa hết. Nói Tam thiên Đại thiên thế giới này đều là cõi uế trược, và dùng phương tiện quyền biến nói rằng chỉ có cảnh Thật Báo của Như Lai là cõi Tịnh độ ở Tây Phương. Đây là quyền biến chẳng phải chân thật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">7. <B>Tịnh Độ được biến hiện ba lần trong kinh Pháp Hoa</B>: đây là vì hàng Bồ tát trong giáo lý quyền biến ba thừa, chưa hết tâm nhiễm tịnh mà nói, dời chư thiên và loài người đặt ở cõi khác. Đó là quyền biến chẳng phải chân thật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">8. <B>Tịnh Độ được hiển bày trên hội Linh Sơn</B>: đây là vì dẫn dắt hàng Bồ tát trong giáo lý ba thừa chưa hết tâm nhiễm tịnh, khiến họ biết ngay nơi cõi này: uế trược tức là thanh tịnh. Đại chúng tuy có tin nhận, nhưng chưa thể tự thấy. Đó là chân thật chẳng phải quyền biến.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">9. <B>Tịnh Độ Duy Tâm</B>: tự mình chứng ngộ tự tâm, ngay nơi thể vô tâm. Tự tánh là trí tuệ chân thật, chẳng còn suy nghĩ phân biệt tịnh uế, xứng hợp với chân tánh. Tâm không ngăn ngại, không tham, không si, hồn nhiên vận dụng từ bi, trí tuệ để làm an lạc chúng sinh. Đây là Tịnh độ chân thật, do tự mình thanh tịnh nên khiến cho người khác cũng thanh tịnh. Thế nên, kinh Duy-ma nói: "Tùy theo tâm mình thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh. Muốn được cõi nước thanh tịnh nên thanh tịnh tâm mình". Đó là Tịnh độ chân thật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">10. <B>Tịnh độ của Phật Tỳ Lô Giá Na cư trú</B>: là ở cõi nước của mười đức Phật. Cõi nước Phật Liên Hoa bao hàm cả tịnh lẫn uế. Cõi ấy không uế, không tịnh, không có tướng cao thấp, kia đây, mình người. Mỗi một cõi Phật đều trải rộng cùng khắp pháp giới, nhưng không chướng ngại nhau. Nói sơ lược về cõi nước nhiều như cát bụi của mười đức Phật để thấy được vô tận cõi Phật không ra ngoài một hạt bụi, vì không có lớn nhỏ nên không lập ra hạn lượng. Lấy pháp làm giới, chẳng hạn cuộc ở nơi bờ mé, sắc tượng trùng trùng. Đây là Tịnh độ chân thật, chẳng thuộc về quyền biến.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngài Ngộ Khai nói: "Tảo Bách luận bàn về sự quyền biến và chân thật của mười loại Tịnh độ chưa đạt được ý chỉ, quyết đoán riêng tư theo ý mình, xem thường Tịnh nghiệp Tây Phương. Tại sao? Vì cho là giáo lý quyền biến. Đâu chẳng biết ý nghĩa về quyền biến và chân thật không có hơn kém, không rõ lý nhiệm mầu của thể và dụng, chỉ mê lầm vọng sinh chấp trước. Huống chi, Tảo Bách do căn cứ vào kinh Hoa Nghiêm mà phân định giáo pháp, nên mới nói như thế".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn như nói: "Phàm phu còn một phần chấp tướng, chưa tin lý chân thật về pháp không". Lời nói ấy thành thật thay! Nên biết thủ tướng là nắm lấy tướng tịnh và uế. Tất cả phàm phu từ lúc sinh đến khi tử, chỉ toàn nắm lấy tướng uế trược, thậm chí tạo mọi nghiệp ác. Đó là lỗi lầm của sự nắm lấy tướng uế trược. Do đó, họ quanh quẩn trong ba đường đen tối không có ngày dừng nghỉ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Như Lai thường thương xót nỗi đau khổ của chúng sinh, lo nghĩ cứu vớt. Nếu đem lý chân không thật tướng để chỉ dạy ngay thì tuy rất hợp với hoài bão chính yếu của Ngài, nhưng chúng sinh nghiệp chướng nặng nề, trí tuệ tối tăm, làm sao có thể tin nhận và tu học? Vì vậy, đành phải ẩn dấu chỗ chân thật, mà chỉ dạy bỏ uế trược lấy thanh tịnh. Trước tiên là để thoát khỏi nỗi khổ đau trong ba cõi. Đó là quyền biến.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hai chữ "quyền" và "thật" này vốn ở nơi chúng sinh mà nói, chứ không ở nơi đức Như Lai, cũng không ở nơi kinh giáo. Tại sao chẳng thấu suốt ý chỉ ấy, chỉ theo lời nói để hiểu, chấp hơn chấp kém, chê bai chánh pháp của Như Lai?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay tôi thuận theo sự phân định quyền và thật của ngài Tảo Bách để làm sáng tỏ điều này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn như Tịnh nghiệp Tây Phương vốn là pháp môn lợi khắp ba căn, dung thông quyền và thật, thấu suốt trên dưới. Về mặt quyền biến thì thâu nhiếp hàng trung hạ; về mặt chân thật thì thâu nhiếp bậc thượng căn. Trong luận này nói, "Tịnh độ duy tâm" là chân thật, chẳng phải quyền biến. Niệm Phật đến chỗ nhất tâm không loạn, đạt sâu lý nhiệm mầu, thế thì chẳng phải duy tâm là gì? Tịnh nghiệp của Tây Phương này đây, không phải phù hợp với giáo pháp chân thật hay sao?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ở đây, Bảo Giám trích dẫn lời luận bàn của ngài Tảo Bách về sự quyền và thật của Tịnh độ, chỉ là muốn chứng minh thêm nghĩa lý sâu xa của Liên Tông mà thôi.
<CENTER>CHƯƠNG 3
<B>NÓI VỀ NIỆM PHẬT, THAM THIỀN CẦU TÔNG CHỈ</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiền sư Từ Giác Di nói: "Niệm Phật chẳng ngại tham thiền; tham thiền chẳng ngại niệm Phật. Pháp tuy có hai môn, nhưng lý vốn đồng nhất"
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người thượng trí hễ làm gì đều không dính mắc vào Nhị đế, còn kẻ hạ trí đều nghiêng về một bên không có sự hòa hợp, cho nên sinh khởi nhiều sự phân tranh. Từ đó, người tham thiền chê bai niệm Phật, người niệm Phật bác bỏ tham thiền, đều là do chấp trước chân thật phỉ báng quyền biến, hoặc chấp trước quyền biến phỉ báng chân thật. Cả hai đều chưa thành đạo quả, mà đã đến Địa ngục trước.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nên biết, căn cơ dù có sâu cạn, nhưng đều phải được chỗ thích nghi. Ví như người làm ruộng đâu thể giữ kho, người giữ kho sao có thể làm ruộng được. Nếu bảo người làm ruộng đi giữ kho, cũng như kẻ què leo núi; còn nếu bảo người giữ kho đi làm ruộng, cũng như dìm người tài thành kẻ hèn, hoàn toàn không thích hợp. Chi bằng, kẻ làm ruộng hãy tự lo làm ruộng, người coi kho hãy tự coi kho, ai nấy đều được vừa ý tùy theo sở thích của mình. Thế nên, người niệm Phật và tham thiền đều phải tìm cầu tông chỉ. "Núi khe tuy khác, trăng mây vốn đồng".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Chốn chốn liễu xanh kham buộc ngựa
Nhà nhà trước cửa thấu Trường An.</I>
<CENTER>CHƯƠNG 4
<B>TỊNH ĐỘ CHẲNG PHẢI THUYẾT QUYỀN BIẾN
CHO HÀNG ĐỘN CĂN</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngài Tư Phạm là giảng chủ của tông Thiên Thai, cư trú lâu dài nơi núi Lâm Bình, sự hiểu biết và tu hành sáng suốt cao vời, đạt sâu về giáo lý và quán chiếu, thấu suốt cội nguồn về pháp tánh và pháp tướng. Sư thường qua lại với các sĩ phu và đều giải đáp rõ ràng những câu hỏi của mọi người.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Một hôm, Thông phán Trịnh Công hỏi:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Trong giáo lý nói rõ, niệm Phật A Di Đà nguyện sinh về Tịnh độ, chỉ vì hàng độn căn nên mới dùng phương tiện quyền biến nói ra. Nếu là bậc thượng căn đốn ngộ, một khi vượt qua thì vào thẳng địa vị Phật. Sao lại nhờ vào Tịnh độ của đức Phật khác?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư đáp:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Các bậc Cao đức trong tông Thiên Thai đều quở trách lời nói này. Bảo rằng: "Lúc đức Phật còn ở đời thì có Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền. Sau khi Phật diệt độ, thì có ngài Mã Minh, Long Thọ, Đại sư Trí Giả, Thiền sư Trí Giác ở cõi này, tất cả đều nguyện vãng sinh Tịnh độ. Vậy thì các Ngài đều là hạng độn căn hay sao? Nếu cho đây là giáo lý quyền biến thì lấy pháp gì làm chân thật?". Thuở xưa, Lão Tôn Tân cũng nghi điều này, nhân gặp Dương thứ công là Vương Mẫn Trọng giải bày rõ ràng, nên liền dứt mối nghi ngờ ấy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tin pháp môn Tịnh độ này, chẳng phải sự lập bày quyền biến của Thánh nhân, mà là tông chân thật viên mãn. Chú tâm niệm Phật A Di Đà ắt vãng sinh Tịnh độ. Đó chính là lời nói chân thật xứng hợp bản tánh, chẳng phải là giáo lý quyền biến.
<CENTER>CHƯƠNG 5
<B>TỊNH ĐỘ TÔNG YẾU CỦA THIỀN SƯ CHÂN YẾT LIỄU</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật A Di Đà, chúng sinh và tâm chẳng rời nhau, cả ba không khác biệt. Cực Lạc ở khắp mọi nơi, vừa nêu lên một thì đã thâu nhiếp hết toàn thể. Như mạng lưới có cả ngàn hạt bảo châu trên điện của Đế Thích, ánh sáng của ngàn hạt châu đều hiện trong một hạt châu, ánh sáng của một hạt châu chiếu khắp cả ngàn hạt. Tuy mỗi hạt, mỗi hạt phản chiếu qua lại lẫn nhau khắp cả, nhưng hạt châu này không thể là hạt châu kia, và hạt châu kia không phải là hạt châu này. Hòa lẫn nhau mà chẳng có tạp loạn, riêng biệt mà chẳng có phân chia, mỗi hạt đều rõ ràng trải rộng khắp cả, cũngkhông có chỗ nơi nhất định.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tịnh độ của Phật A Di Đà tức là một trong ngàn hạt bảo châu. Mười muôn cõi Phật tức là một cõi Phật, đều là một trong ngàn hạt châu. Thánh nhân dùng phương tiện khéo léo dạy người chuyên niệm Phật A Di Đà, đó chính là ở nơi ngàn hạt châu mà chỉ thẳng một hạt châu. Thấy một đức Phật tức thấy chư Phật khắp mười phương, cũng là thấy tất cả chúng sinh trong chín pháp giới và biển thế giới nhiều như cát bụi. Mười đời xưa nay, một ấn nhanh chóng viên mãn, hoàn toàn không còn thiếu xót pháp nào.
<CENTER>CHƯƠNG 6
<B>LỜI KHAI THỊ TỊNH ĐỘ THẬT KIẾN
CỦA ĐẠI SƯ TỊCH THẬT</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người không tu Tịnh nghiệp nói:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Những người tu tập Thiền định, ngộ tánh chân tông, hoặc nghe nói về Tịnh độ ắt bảo rằng Tịnh độ duy tâm. Tâm ta đã thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh, cần gì mong cầu sinh về nơi nào khác!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngài Tịch Thất bảo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Trong kinh Duy Ma nói: "Đức Như lai dùng ngón chân ấn xuống đất, thì toàn cõi Ta bà đều trang nghiêm thanh tịnh, nhưng mọi người trong chúng hội không thấy được, chỉ có Phạm vương Loa Kế biết được thôi". Nay, những người nói rằng ngộ tánh có thể thấy được Tịnh độ như Phạm vương Loa Kế chăng? Huống chi ông ở trong căn nhà thấp hẹp, liền mong muốn nhà cao cửa rộng; bữa ăn chỉ có canh rau đạm bạc, thì mong cầu sơn hào hải vị; y phục cũ xấu ắt mong muốn gấm vóc lụa là. Nếu bảo rằng: "Tâm thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh", nhưng sao chẳng xóa tan sự phân biệt như thế? Vả lại, ngay khi gặp nỗi khổ già, bệnh, chết, tình người trái ngược ở thế gian, thì vẻ mặt giống như người chưa ngộ. Như vậy, tuy miệng lớn tiếng nói rằng: "Tâm thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh", nhưng thân lại bị phiền não đau khổ trong cõi uế trược ràng buộc. Như vậy, thật sự là tự dối mình. Không nên thế! Cần phải tin theo giáo lý mà tu tập về pháp môn Tịnh độ.
<CENTER>CHƯƠNG 7
<B>LỜI KHAI THỊ NIỆM PHẬT SỰ LÝ KHÔNG HAI
CỦA LUẬT SƯ ĐẠI TRÍ</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư từng viết lời tựa cho quyển Tịnh Độ Tập của Pháp sư Từ Huệ Văn, sơ lược như vầy: "Người học Phật xưa nay, phần nhiều lầm lẫn giữa Sự và Lý". Bảo rằng: "Lý thì mảy trần chẳng lập; Sự thì vạn tượng sum la. Lắng tâm trụ nơi lặng lẽ đó là Lý, động dụng tu hành đó là Sự". Bèn dẫn lời người xưa: "Chỗ Lý chân thật chẳng nhận mảy trần, trong cửa Phật, Sự chẳng bỏ một pháp". Đây chính là lập ra việc đối nghịch giữa Sự và Ly, cùng rong ruổi nơi có và không. Tôi từng đổi lời nói ấy thành "chỗ Lý chân thật chẳng thiếu mảy trần. Trong cửa Phật, Sự chẳng còn một pháp". Tại sao? Vì Lý chân thật gồm đầy đủ tất cả pháp, lẽ nào lại thiếu một mảy trần? Còn trong cửa Phật, Sự thì lìa tất cả tướng, lẽ nào lại còn một pháp? Như thế, mới thấy Lý Sự như một, có không chẳng hai.
<CENTER>CHƯƠNG 8
<B>NIỆM PHẬT TÔNG YẾU TRONG LỜI TỰA
PHÁP MÔN TỊNH HẠNH CỦA PHÁP SƯ VĂN</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phàm thấu suốt hữu tâm nơi vô tâm, biết rõ vô niệm nơi hữu niệm, chẳng trụ nơi có không thì năng sở đâu còn. Thế nên, niệm niệm tròn sáng, tâm tâm rỗng lặng. Nếu không rõ ý chỉ này, thì pháp nào cũng đều trở thành lầm lỗi. Còn khế hợp tông chỉ, thì môn nào cũng đều thông suốt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay, có thể nói rõ về sự tu hành viên mãn không trái với chỗ chân thật, khiến cho những kẻ vác nặng đi xa trút bỏ được gánh nặng xuống, những người trôi nổi trong biển mê mau chóng bước lên bờ giác. Muốn cầu sinh về Tây Phương thì không gì hơn môn Quán Tưởng Niệm Phật<SUP><B>(62)</B></SUP>.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôi vì người tu Tịnh nghiệp đã trích dẫn sơ lược về đại cương trong kinh luận, trước tác thành quyển Pháp Môn Tịnh Hạnh Tây Phương, chỉ rõ đường lối tu hành, giúp mọi người hiểu được yếu chỉ. Nếu có người đã đọc sách này rồi mà vẫn còn không phát khởi lòng tin tu hành, thì khác nào kẻ lao thẳng xuống hầm xí, toàn thân lún sâu mà muốn người cứu vớt. Biết làm thế nào được!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(62) <B>Quán Tưởng Niệm Phật</B>: ngồi ngay thẳng, chuyên tâm chánh niệm quán tưởng tướng hảo trang nghiêm của thân Phật, là một trong bốn cách niệm Phật được nói trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao của ngài Tông Mật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo kinh Quán Phật Tam muội Hải quyển 9, 10 và kinh Tọa Thiền quyển thượng, nếu chuyên quán một trong 32 tướng của Phật thì diệt được tội nặng sinh tử trong 90 ức na do tha hằng hà sa vi trần số kiếp; nếu quán tướng hảo của toàn thân Phật thì phải ngồi ngay thẳng và chính thọ buộc niệm nơi thân Phật, không nghĩ đến các pháp khác như: đất, nước, gió, lửa… thường chỉ nhớ nghĩ thân Phật, thấy chư Phật ở ba đời mười phương đều ở ngay trước mắt, thì diệt trừ được tội chướng của vô lượng kiếp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngoài ra, quán tưởng niệm Phật có Nhất tướng quán, Đa tướng quán, Toàn tướng khác nhau.</P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>THIÊN THỨ TƯ
<B>CHÁNH PHÁI NIỆM PHẬT</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật do nơi tâm tạo, đạo ở nơi người hoằng hóa. Chỗ chính yếu của sự hoằng đạo không gì hơn niệm Phật. Niệm Phật tức là làm cho tâm chân chánh, tâm chân chánh nên có thể hợp với đạo. Chỗ tột cùng của đạo gọi là Phật. Phật nghĩa là "giác". Tất cả chúng sinh đều có tánh bản giác này, nhưng do một niệm sai lầm nên trở thành bất giác. Tướng quốc Bùi Hưu nói: "Trọn ngày Viên giác, mà chưa từng Viên giác là chúng sinh. Đầy đủ Viên giác, mà an trụ vững chắc tánh Viên giác là Như Lai".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nên, đức Phật thành đạo ở xứ Ma Kiệt Đà, nói có bàn không, quán xét tùy theo căn cơ mà chỉ dạy. Đặc biệt ở ngoài các pháp, mở ra một môn niệm Phật. Pháp môn này cắt đứt được cội nguồn đau khổ, là con đường chính yếu để bước vào dòng Thánh. Vì thế, kinh A Di Đà nói: "Từ đây qua phương Tây cách mười muôn ức cõi, có thế giới tên là Cực Lạc, cõi ấy có đức Phật hiệu là A Đi Đà. Trong cõi Cực Lạc không có ba độc<SUP><B>(63)</B></SUP>, tám nạn<SUP><B>(64)</B></SUP>, mà có bảy loại báu và các thứ trang nghiêm vi diệu, lấy pháp làm thân, lấy các bậc Thánh làm bạn. Nếu có thể chí thành tin tưởng phát nguyện quy hướng về cõi ấy thì liền được vãng sinh, vượt qua Tam giới Cửu hữu, chứng ngộ đạo nhiệm mầu Vô thượng của chư Phật". Lời nói ấy thật không lừa dối!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từ khi giáo pháp lưu truyền qua phương Đông, đến ngài Phật Đồ Trừng thì hưng thạnh. Sau ngài Phật Đồ Trừng là ngài Đạo An. Dưới cửa của Đạo An lại có ngài Huệ Viễn. Đại sư Huệ Viễn giới hạnh trong sáng tợ châu ngọc, thấu suốt giáo nghĩa rộng sâu như biển cả bao la, thần thái phi phàm, nên kỷ cương của giáo môn được chấn hưng trở lại, đầy đủ hoàn bị hơn. Đại sư trước tác quyển Niệm Phật Tam Muội, Vịnh Thân Khuyến. Khi ấy, các bậc hiền tài thời Đông Tấn kính mộ đạo đức của Ngài, cùng tranh nhau cứu xét đạo này hướng đến con đường chánh giác. Danh tiếng của Đại sư chấn động đến tai vua, một thời đức hạnh của Ngài được mọi người tôn kính. Hòa thượng Đạo An chọn Sư làm đệ tử lớn. Pháp sư Cưu Ma La Thập kết làm bạn hiền. Tri thức và tâm lượng của Đại sư Huệ Viễn rất rộng lớn, siêu xuất xưa nay. Ngài còn dùng lời nói phản đối để hành đạo, làm bậc tông sư cho muôn đời, ích lợi rộng rãi Người, Trời.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đời Tùy, có ngài Trí Giả; đời Ngụy, có Đàm Loan; đời Đường, có Thiện Đạo chấn hưng tông phong. Đời Tống, Đại sư Tông Đản soạn thuật Cam Lồ Sớ, Tỉnh Thường kết Liên Xã, Từ Giác khuyên tu, Thiền sư Diên Thọ dung thông muôn điều thiện để cùng trở về (Vạn Thiện Đồng Quy Tập), tông chủ Nguyên toát yếu các kinh viết thành nghi sám hối; thực hành phương tiện rộng rãi, uyển chuyển làm nên từ bi. Tổ sư vì muốn khiến cho mọi chúng sinh trên địa cầu thấy Di Đà bản tánh, đạt Tịnh độ duy tâm, ai nấy đều giác ngộ đạo mầu nhiệm Bồ đề, nên bèn lập ra bốn chữ "Phổ Giác Diệu Đạo" định danh cho Liên tông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xét thấy bốn chữ, một gương soi suốt vô biên đồng một thể dụng. Tại sao biết như vậy? Nói tóm lại, ví như một thân thể con người mà có nhiều tác dụng của đầu, mắt, tay, chân, nhưng không một bộ phận nào có thể phân chia được. Nếu tự mình không phát nguyện rộng lớn, không có tâm từ bi sâu xa, đâu thể được thiên hạ đời sau tin tưởng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôi từng thầm luận rằng: khắp cả pháp giới chúng sinh gọi là "Phổ"; trí thấu suốt lý này gọi là "Giác"; đức dụng vô biên gọi là "Diệu"; con đường ngàn Thánh cùng cất bước gọi là "Đạo".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vả lại, "Phổ" tức là bản thể tự tâm cùng khắp mười phương; "Giác" tức là tác dụng trí tuệ chiếu soi không mê mờ của tự tâm; "Diệu" tức là hạnh lợi tha và ứng cơ của tự tâm; "Đạo" tức là lý thông đạt trung đạo chân chánh của tự tâm. Hằng sa chư Phật chứng ngộ là chứng đạo này, chỗ mà bao đời Tổ sư đạt được cũng là đạt đạo này, những người vãng sinh Tịnh độ trong mười phương đã học đạo này, những người tu hành thời vị lai sẽ học đạo này. Huống chi, chư Phật và Bồ tát thị hiện ở thế gian làm bậc đại Đạo sư, các Ngài đều có tâm nguyện từ bi chẳng bỏ chúng sinh. Hoặc làm vua quan, khanh tướng, cư sĩ, tể quan, xuất tục, tại gia, nghịch hành, thuận hạnh, đều đem đạo này giác ngộ cho người.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng sinh trong ba cõi trôi nổi luân chuyển cho đến ngày nay, qua lại trong sáu đường như kiến bò quanh miệng chén không ngày ra khỏi. Bậc Đại Giác từ bi thiết lập phương tiện để dẫn dắt mọi loài, khiến họ thú hướng đến chỗ mà Ngài đã từng hướng đến. Chỗ hướng đến ấy chẳng phải lục đạo, chẳng phải Tam thừa mà chính là đạo Chánh Giác của Như Lai. Người được đạo này cũng dùng đạo đó giáo hóa những người chưa hướng đến. Ví như một ngọn đèn mồi sang trăm ngọn đèn, trao đèn tiếp lửa sáng soi kim cổ. Pháp môn chánh tâm của tông niệm Phật này làm cho tâm chúng sinh được ngay thẳng trở về chánh đạo. Người người trao truyền cho nhau vô tận, cho nên gọi là ngọn đèn vô tận. Thuyết Phổ Giác Diệu Đạo đâu phải là lời nói suông!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bởi lẽ, người người đều có thể làm Phật, chẳng do khoảng cách giữa tăng tục, chẳng do sự phân biệt giữa lợi căn và độn căn, không kia đây, không cao thấp, đồng một bản tánh mà thôi. Thấu được bản tánh ấy là ngộ, quên mất bản tánh ấy là mê, vốn cùng một lý. Mê là phàm phu, ngộ là Thánh nhân. Mê là ngăn cách trên mặt Sự, nhưng Lý thể không ngăn cách; bởi tự mình quên mất, nhưng bản tánh vốn không mất. Thế nên biết, tu Niệm Phật Tam-muội tức là làm ngay thẳng tâm mình. Tâm này ngay thẳng thì tánh thuận với Lý, được tánh thuận với Lý thì sáu trần không thể ô nhiễm, muôn cảnh chẳng thể đổi dời. Động dụng trong một tâm rỗng thênh, lặng lẽ trong sự biến hóa của vạn vật. Chẳng rời chỗ ngồi mà cùng khắp mười phương; vượt lên thế giới Cực Lạc đi vào ngôi nhà Tịch Quang; ở trên đỉnh núi Niết bàn, hướng về Pháp vương Vô thượng. Nghĩa lý chánh tâm của Phổ Giác Diệu Đạo thật rất là cùng tột. Người không biết nghĩa lý này thì công phu ở chỗ nào? Trí tuệ từ đâu phát sinh? Ví như người không có mắt, chẳng thấy ánh sáng mặt trời mặt trăng, đi trên con đường nguy hiểm sa hầm sụp hố, những hạng người này không thể tính đếm hết được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ôi! Cách Phật đã xa, con người phần nhiều hiểu biết sai lầm. Tuy là ở nơi chánh đạo nhưng lại rơi vào tà tông, những kẻ tầm thường mờ tối chỉ thâu nhận tri thức đến nỗi bị bọn tà kiến dối trá mê hoặc, bè phái nổi dậy công kích lẫn nhau, xôn xao luận bàn về có không, cắt xén hư không, thi nhau bài bác. Có kẻ chấp vào sự tướng chẳng chịu buông bỏ, có người thuận theo ứng duyên không tự giác ngộ, có người giữ cây khô mà nói Thiền định, có kẻ cậy vào thông minh xưng là trí tuệ, có người rong chạy trên con đường sai quấy lại cho là tài năng, có kẻ nhờ vào quỷ thần mà nói là thần thông, có người thân tâm buông lung mà nói vô ngại, có kẻ miệng tai thầm truyền mà nói là bí quyết, có người chấp vào chữ "Phổ", chữ "Giác" là của tông ta, có kẻ nói chữ "Diệu", chữ "Đạo" của tông kia. Như thế, đều là riêng tư trộm cắp chiếc gương này mà đi vào chỗ tà kiến, đến nổi bụi dơ che lấp chẳng hiểu rõ tông thể. Tuy được cái danh của gương này nhưng không đạt được công dụng. Đâu chẳng biết, ngài Từ Chiếu lập bốn chữ ấy có ý nghĩa rất sâu xa. Kẻ mê mờ không hiểu rõ, chấp vào đó thì mất tiêu chuẩn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Huống chi lại có lời nói rằng: giáo pháp của Phật Di Dà dành cho người tại gia, giáo pháp của Phật Thích Ca là dành cho người xuất gia. Họ tự tôn làm Tổ, chấp pháp làm tông. Giữ lấy tâm chấp trước kia đây, đụng đâu vướng đó, hạn cuộc vào sự hiểu biết thấp kém nghiêng lệch tà vạy, tự cho mình là phải, người khác là sai, khiến cho chúng ta là hậu duệ của Phật Tổ mà không thể phá trừ sự chấp trước ấy, dẹp bỏ mê lầm của họ. Nếu đã vậy thì làm sao nêu cao mặt trời trí tuệ trong con đường tối tăm?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thật đau lòng thay! Mạng sống trí tuệ của Phật Tổ lâm nguy, đau đớn còn hơn xẻo thịt trên người. Nghĩ nhớ báo đáp ơn sâu của Phật Tổ, ăn ngủ không yên. Nghĩ đến việc Phật tử các nơi lầm đường tu hành nên tuy chưa thể thấu rõ tận cùng được một phần nhỏ của người xưa, nhưng tâm này không hề lừa dối.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôi thường khẩn thiết ở nơi đây, cẩn trọng suy xét trong Cao Tăng Truyện Ký, tìm cầu khắp cả sự tích chân thật của các bậc Hiền triết, cứu xét cội nguồn, trích dẫn lý chân thật, thích đáng và những việc còn để lại, tập hợp mà biên soạn ra. Chỗ thiếu xót thì bổ túc, chỗ dư thừa thì lược bớt, những điều u ẩn làm cho sáng tỏ, lời nhận định thì trưng dẫn chứng minh. Mong rằng nghìn năm sau, người tu Tịnh nghiệp nhân lời nói mà suy tư về đạo; uống nước biết nguồn, hiểu rõ phong cách của các bậc Thánh xưa để lại; thể hội khuôn phép của Liên tông thuở trước, tiếp nối làm hưng thịnh dòng dõi Phật; xiển dương sáng tỏ đạo nhiệm mầu, khiến cho mạng sống trí tuệ vô cùng, trao truyền ngọn đèn chân thật mãi mãi. Ở trước chẳng nói, bốn chữ một gương soi thấu vô biên đó sao! Người thể hội đạo này nên thận trọng chớ lơ là!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(63) <b>Tam độc</b>: ba thứ phiền não: tham dục, sân khuể, ngu si. Tất cả phiền não gọi chung là độc, nhưng ba thứ phiền não này có mặt khắp ba cõi, là thứ độc hại nhất trong thiện tâm xuất thế của chúng sinh, khiến cho hữu tình phải chịu khổ nhiều kiếp và không ra khỏi được, nên đặc biệt gọi là Tam độc. Tam độc này còn là nguồn gốc của ba ác hạnh thân, khẩu, ý, nên cũng gọi là tam bất thiện căn, đứng dầu trong các phiền não căn bản.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo Luận Đại Trí Độ 34, Tam độc có hai loại là Chánh tam độc và Tà tam độc. Vì Tà tam độc khó trừ, Chánh tam độc dễ trừ, nên Tịnh độ của chư Phật có Chánh tam độc mà không có Tà tam độc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo Ma Ha Chỉ Quán 6, thượng, tham, sân, si về mặt tư hoặc là Chánh Tam độc và tham, sân, si về mặt kiến hoặc là Tà tam độc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo Đại Tạng Pháp Số 15, Nhị thừa và Bồ tát đều có Tam độc. Hàng Nhị thừa thích cầu Niết bàn là tham dục, chán lìa sinh tử và sân khuể, mê lầm đối với Trung đạo là ngu si. Bồ tát muốn rộng cầu Phật pháp là tham dục, quở trách Nhị thừa là sân khuể, chưa liễu ngộ Phật tánh là ngu si.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(64) <B>Tám nạn</B>: tám nơi khổ nạn, chướng ngại chúng sinh đến với pháp đạo. Theo kinh Thập Thượng, Trường A Hàm 9; kinh Bát Nạn, Trung A Hàm 29 thì tám nạn là:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. <I>Nạn địa ngục</I>: chúng sinh do tạo nghiệp ác chiêu cảm quả báo đọa vào Địa ngục, chịu khổ không ngừng suốt đêm trường tăm tối, không được thấy Phật nghe pháp.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. <I>Nạn ngạ quỷ</I>: quỷ đói có ba loại:
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(a) Ngạ quỷ nghiệp nặng nhất, nhiều kiếp không được nghe đến tên nước uống.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(b) Ngạ quỷ nghiệp nặng vừa, chỉ ở nhân gian rình tìm nơi tẩy rửa máu mủ dơ uế để ăn.
<P style="TEXT-INDENT: 84pt; TEXT-ALIGN: justify">(c) Ngạ quỷ nghiệp nhẹ, loài này có khi dược một bữa no thì lại bị dao rượt đuổi, bức bách không có chỗ trốn, chịu khổ vô lượng.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. <I>Nạn súc sinh</I>: Súc sinh có nhiều loại, mỗi loại đều theo thân gây tạo mà chịu quả báo hoặc có loài được người nuôi dưỡng hoặc có loài ở núi rừng, sông biển thường bị đánh đập, sát hại. Có loài ăn nuốt lẫn nhau, chịu khổ vô cùng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">d. <I>Nạn sinh lên cõi trời Trường Thọ</I>: cõi trời này thọ 500 kiếp, tức trời Vô Tưởng trong đệ tứ thiền thuộc cõi Sắc. Vô tưởng là do tâm tưởng không vận hành, giống như cá, trùng, sâu bị ướp lạnh. Ngoại đạo tu hành phần nhiều sinh vào cõi trời này, bị chướng ngại không được thấy Phật, nghe pháp.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">e. <I>Nạn sinh ở cõi Uất Đan Việt</I>: Uất Đan Việt, Hán dịch là Thắng Xứ. Người sinh vào cõi này thọ đúng 1.000 tuổi, không chết nửa chừng, đo đó tham đắm hưởng lạc không chịu nghe giáo hóa. Cõi này lại không được thấy Phật nghe pháp, thế nên không có Thánh nhân xuất hiện.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">f. <i>Nạn điếc, đuôi, câm, ngọng</i>: những người tuy sinh trng vùng trung tâm (không phải biên địa), nhưng nghiệp chướng rất nặng, các căn không đủ: điếc, đuôi, câm, ngọng. Tuy có Phật ra đời mà họ không được thấy Phật, nghe pháp.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">g. <I>Nạn thế trí biện thông</I>: người tuy thông minh lanh lợi, nhưng chỉ ưa học kinh sách ngoại đạo, không tin chánh pháp xuất thế.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">. <i>Nạn sinh trước Phật và sau Phật</i>: người do nghiệp nặng duyên mỏng, sinh trước hoặc sau Phật, không được thấy Phật, nghe pháp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo kinh Tăng Nhất A Hàm 16, phụng trì pháp Bát quan trai có thể đối trị tám nạn này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo luận Thành Thật 2 thì dùng tứ luân để đối trị bát nạn, đó là:
<p style="padding-left: 56px;">- Ở chỗ lành: được sống ở đô thị.
- Nương người thiện: sinh ra đời gặp Phật.
- Tự phát chánh nguyện: đầy đủ chánh kiến.
- Gieo sẵn căn lành: các căn đầy đủ.</P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>CHƯƠNG 1
<B>SƯ HUỆ VIỄN</B>
(Tổ thứ nhất của Liên tông)</CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư húy là Huệ Viễn, họ Cổ, nguyên quán ở Lâu Phiền Nhạn Môn, nay là Đại Châu ở Hà Đông. Ngài sinh tại Thạch Triệu vào năm Giáp Ngọ, niên hiệu Diên Hy; nhằm niên hiệu Hàm Hòa thứ chín (334) đời vua Thành Đế nhà Tấn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm mười hai tuổi, Sư theo cậu ở Lịnh Cô du học miền Hứa Lạc. Không bao lâu, Sư bác thông Lục Kinh (sáu bộ kinh của nhà Nho: Kinh Thi, Thư , Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu), thấu suốt những thuyết Chu Dịch, Lão Trang.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm hai mươi mốt tuổi, Sư muốn qua sông ở ẩn với Phạm Tuyên Tử. Nhưng vì lúc ấy có loạn Thạch Hồ, đường giao thông bị trở ngại nên ý nguyện không thành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thời gian sau, nghe Pháp sư Đạo An ở tại chùa Nghiệp Trung núi Thái Hành, Sư bèn cùng Sư đệ Huệ Trì tìm đến đó. Sau khi nghe Pháp sư giảng kinh Bát Nhã, Sư suốt thông tỏ ngộ, than rằng: "Phật pháp quả thật vi diệu, xét lại học thuyết của Nho Đạo cửu lưu (chín trường phái học thuật thời Chiến Quốc: Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Tung hoành gia, Tạp gia, Nông gia) khác nào như cặn bã". Sư và Huệ Trì xin xuất gia, hai vị thường lấy việc gánh vác Đại pháp làm trách nhiệm của mình. Ngài Đạo An thấy vậy khen ngợi rằng: "Về sau, Phật pháp lưu thông ở Trung Quốc, có lẽ do Huệ Viễn này!".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm thứ chín niên hiệu Thái Nguyên (384), đời vua Hiếu Vũ, Sư đến Lô Sơn, cầm tích trượng dộng xuống đất, nói: "Có suối thì sẽ ở lại nơi đây!".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bỗng nhiên có dòng nước phúng lên, Sư bèn lấy cỏ tranh dựng am. Giảng kinh Niết bàn, cảm được Sơn thần hiển linh, mưa giông sấm sét mở mang đất đai, trợ giúp vận chuyển cây gỗ. Thái thú Giang Châu kinh ngạc về sự thần dị ấy, tấu xin xây dựng chùa Đông Lâm, gọi đại điện là Thần Vận.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm thứ 11 niên hiệu Thái Nguyên (386), ngôi chùa được hoàn thành. Sư thấy ở phía Đông Nam kinh luật chưa đầy đủ, chưa nghe về thiền pháp, bèn dựng lập thiền thất riêng biệt ở trong chùa, thỉnh một Thiền sư chỉ dạy chúng tu tập thiền định. Lại còn sai đệ tử vượt sa mạc tìm cầu kinh nói về thiền, hầu như bốn chúng ở Giang Biểu đều được tu tập. Sư có tâm nguyện làm cho làm cho sự giáo hóa của Đại thừa từ phương Bắc truyền bá đến tận miền Nam.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư thường bảo: "Pháp thiền sâu xa mầu nhiệm, người không có khả năng thì chẳng trao truyền. Cửa đi vào đạo công đức cao dễ tiến tu, niệm Phật làm đầu".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đồ chúng tới lui ba ngàn người, những bậc có niềm tin chân thật được 123 người. Trong đó có 18 vị đứng đầu, gọi là Đông Lâm Thập Bát Đại Hiền, ở trước tượng Phật Vô Lượng Thọ kiến lập trai đàn thệ nguyện cùng tu Tây Phương Tịnh độ, kết Bạch Liên Xã. Lưu Di Dân viết văn phát nguyện, Sư viết lời tựa Niệm Phật Tam muội.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tạ Linh Vận cậy tài kiêu căng nhưng vừa gặp Sư liền cung kính khâm phục, đào ao trồng sen, cầu xin gia nhập Liên Xã. Sư nhận thấy Tạ Linh Vận nội tâm hỗn tạp nên từ chối.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ở Lô Sơn nhiều rắn, có hành giả không biết là người ở đâu thường hầu bên Sư, rất khéo đuổi rắn, đến nay được gọi là "Thánh giả đuổi rắn".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chỗ Sư ở suối chảy vòng quanh chùa, phía dưới vào Hổ Khê. Mỗi khi đưa tiễn khách, Sư lấy Hổ Khê làm ranh giới. Khi ấy, Đào Uyên Minh và Lục Tu Tĩnh tìm đến yết kiến. Lúc đưa khách ra về, vì đàm đạo khế hợp bất giác, Sư bước qua khỏi Hổ Khê hồi nào không hay. Ba người nhìn nhau cả cười, đời sau nhân đó lưu truyền bức họa "Tam tiếu".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi ấy, Pháp sư La Thập gởi thư đến khen Sư là "Bồ tát hộ pháp phương Đông". Chúng tăng ngoại quốc đều ca ngợi: "Đất Hán có bậc Đạo sĩ Đại thừa", mỗi khi dâng hương lễ bái đều hướng về phía Đông cúi lễ, dâng tấm lòng về Lô Sơn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vua Diêu Tần khâm phục đạo đức, gởi thư liên tiếp. Năm đầu niên hiệu Long An (397) thời Tấn An Đế, Hoàn Huyền khuyên vua thanh lọc tăng ni, nhưng lại bảo Lô Sơn là nơi có đạo đức không cần tra xét. Sư gởi thơ ngăn chặn Hoàn Huyền, bèn được khỏi nạn ấy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm đầu niên hiệu Nguyên Hưng (402), Hoàn Huyền gởi văn thư cho Ngài, nói rõ lời đề nghị của Dữu Băng muốn Sa môn phải lễ bái quốc vương. Sư lại gởi thơ bàn luận rõ về việc ấy, nên được bãi bỏ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vua An Đế từ Giang Lăng trở về kinh, phụ quốc Hà Vô Kỵ khuyên Sư nghinh tiếp. Sư lấy cớ đau yếu từ khước. Vua sai sứ đến thăm hỏi bảo rằng, tờ biểu của Sư đã được nghe. Nhà vua lại đáp lời bằng chiếu chỉ ưu ái ân cần.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mồng 01 tháng 11 năm Ất Mão niên hiệu Nghĩa Hy (415), Sư nhập định đến ngày 17 mới xuất định, thấy Phật A Di Đà thân sắc vàng đầy khắp hư không. Văn Long Thơ Tịnh Độ nói: "Ngài Huệ Viễn ba lần thấy Thánh tướng mà trầm lặng không nói ra". Đại sư ở Lô Sơn hơn ba mươi năm, chân không bước ra khỏi núi, từ khước mọi sự liên lạc không cần thiết với thế tục.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mồng 01 tháng 08 năm Bính Thìn (416), Sư nhuốm bệnh, đến mồng 06 thì bệnh tình trầm trọng. Các bậc Tôn đức kỳ cựu khuyên phương tiện dùng thuốc rượu để điều trị, Sư khước từ. Lại thỉnh Sư tạm dùng mật. Ngài sai Luật sư tra xem trong tạng, nhưng chưa tìm thấy thì Sư đã tập hợp các đồ đệ dạy rằng: "Ta từ lúc năm mươi tuổi gởi thân nơi núi này, tự xét ắt có ngày mạng tận mới dứt tuyệt duyên ngoài để mong toại chí nguyện của mình. Chẳng mấy chốc thân thể già suy đã tám mươi ba tuổi rồi, nay ngày giờ đã đến, chỉ mong chôn xương cốt nơi rừng tùng, lấy ngọn núi làm phần mộ, đồng hình trạng với đất đai cây cỏ. Đó là lễ của người xưa, các ông chớ làm trái ngược! Nếu khiến tinh thần chẳng mờ tối mới mong để đạt đến chỗ chí thành. Thương xót thay! Đức Thế Tôn cũng sẽ dùng đạo lực gia hộ".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại sư nói xong, liền qua đời. Hàng đệ tử và Thái thú Tầm Dương cùng các quan làm lễ an táng và xây tháp Sư ở phía Tây Lô Sơn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vua An Đế sắc phong cho Đại sư thụy hiệu: "Lô Sơn Tôn Giả, Hồng Lô Đại Khanh Bạch Liên Xã Chủ", tháp được đặt tên là Ngưng Tịch. Tạ Linh Vận lập bia ghi lại đức hạnh của Sư, Trương Dã viết lời tựa. Đại sư có trước tác Khuôn Sơn Tập 10 quyển, lưu hành ở đời.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thụy hiệu của Tổ sư Huệ Viễn được phong qua các triều đại:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Niên hiệu Nghĩa Hy đời Tấn An Đế, phong thụy hiệu: Lô Sơn Tôn Giả, Hồng Lô Đại Khanh Bạch Liên Xã Chủ.
<p style="padding-left: 56px;">- Năm Mậu Thìn niên hiệu Đại Trung đời Đường, phong thụy hiệu: Đại Sư Biện Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Năm thứ ba niên hiệu Thăng Nguyên đời Nam Đường, phong thụy hiệu: Đại Sư Chánh Giác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Năm thứ ba niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc đời Tống, phong thụy hiệu: Đại Sư Viên Ngộ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Năm thứ hai niên hiệu Càn Đạo đời Tống, phong thụy hiệu: Đại Pháp Sư Đẳng Biến Chánh Giác Viên Ngộ.
<CENTER>CHƯƠNG 2
<B>ĐẠI SƯ MINH GIÁO GHI LẠI LỜI KÝ NƠI NHÀ THỜ DI ẢNH TỔ SƯ HUỆ VIỄN</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sự tích ngài Huệ Viễn, học giả tuy xem nhưng ít ai hiểu tường tận được, khiến cho người đời chẳng thấy tỏ tường đức hạnh của bậc tiên hiền. Đó cũng là lỗi lầm của kẻ hậu học.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôi đọc Cao Tăng Truyện, Liên Xã Lục và Cửu Giang Tân Cựu Lục, rất mến mộ sáu việc của ngài Huệ Viễn. Thấy rằng có thể dùng để khuyên bảo người học nên mới dẫn ra giải thích, nêu lên nơi nhà thờ di ảnh, nói rõ với những người đến đây.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Lục Tu Tĩnh là học giả khác đạo mà đưa qua khỏi Hổ Khê, đó là không do người mà vứt bỏ lời nói của họ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Đào Uyên Minh say sưa rượu chè mà vẫn qua lại, là bởi bỏ qua tiểu tiết, nhận lấy sự thông đạt của người.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Cao tăng Bạt Đà do hiển bày những việc lạ kỳ nên bị đuổi mà mời về, lại còn khen ngợi, là bởi trọng người có trí thức để sửa đổi những kẻ ganh ghét bậc hiền tài.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Tạ Linh Vận do tâm hỗn tạp nên không tiếp nhận, kết quả bị chết bởi hành hình, là vì biết tánh khí của người ấy mà cẩn thận về sau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Lô Tuần muốn tạo phản mà nắm tay nhận bạn cũ, là bởi vì tự tin tưởng đạo đức.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Hoàn Huyền uy thế lẫy lừng mà chống lại không khuất phục, là bởi vì có tiết tháo lớn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói chung, tình người xưa nay không ai chẳng sợ uy thế mà tạm lánh tai ương, quên tình nghĩa để tránh sự nghi ngờ, háo danh mê mờ sự thật, a dua theo quyền thế, tàn nhẫn đối với kẻ cô độc; thay đổi cử chỉ vì sợ liên lụy; cho mình là đúng, kẻ khác là sai.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ai có đạo đức được tôn kính một đời, làm bậc thầy của người hiền, lại vì vài lời nói mà nghe theo người sao?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ai vốn đã có đức thù thắng, hạnh trong sạch, lại chịu kết giao với kẻ say sưa, tôn trọng sự thông đạt của người?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có ai lại hạ thấp sự tôn nghiêm của bậc thầy mà quý trọng người khách bị kích bác và xua đuổi, bày tỏ sự hiền tài của người?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có ai cự tuyệt kẻ sĩ danh tiếng lẫy lừng, chẳng tiếp nhận giáo hóa, giữ được toàn vẹn về sau?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có ai vì nghĩa chẳng tránh tai họa, vẫn thân thiện với bạn cũ, tin tưởng đạo đức của người?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có ai đứng trước uy quyền của tướng soái, ở nơi sát phạt bạo ngược mà giữ đạo chẳng khuất phục, gìn tiết tháo của mình?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nên, kiến thức và độ lượng của ngài Huệ Viễn rộng lớn, vượt hẳn cả xưa nay. Còn như việc gánh vác chánh pháp, mở rộng đạo Thánh, lưu lại công hạnh cho trời người. Kẻ ngu tối này chẳng thể hiểu tường tận, có lẽ Ngài là bậc Thánh chăng? Bậc Hiền chăng?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vĩ đại thay! Khí phách trùm thiên hạ, thanh phong khắp đất trời, đó là danh tiếng của ngài Huệ Viễn. Vẻ thu bốn biển, sừng sửng trong núi thần, đó là sự thanh cao của ngài Huệ Viễn. Rồng trong loài người, phụng trong hàng tăng, từ bỏ quyền vị giống như Sào Phủ, Hứa Do<SUP><B>(65)</B></SUP> đó là phong cách của ngài Huệ Viễn. Mây trắng hang sâu, cây ngọc cỏ thơm, là nơi gởi thân của Ngài Huệ Viễn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kẻ ngu tối này tuy mến mộ nhưng lại hận sinh sau Ngài. Nay chiêm lễ di ảnh, cúi đầu đảnh lễ, nguyện đem lời văn quê dốt ghi lên nơi vách.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Tên họ mười tám bậc đại hiền ở Lô Sơn
  1. Tổ sư Huệ Viễn, họ Cổ, người ở xứ Lâu Phiền, Nhạn Môn.
  2. Pháp sư Huệ Vĩnh, họ Phồn, người ở Hà Nội.
  3. Pháp sư Huệ Trì, sư đệ của ngài Huệ Viễn, cùng sư huynh tôn thờ Pháp sư Đạo An làm thầy.
  4. Pháp sư Đạo Sinh, họ Ngụy, người ở Cự Dã, cư ngụ tại Bành Thành, sinh ra trong gia đình quan lại.
  5. Tôn giả Phật Đà Da Xá, Trung Hoa gọi là Giác Minh, người ở nước Kế Tân, dòng dõi Bà la môn.
  6. Tôn giả Phật Đà Bạt Đà La, Trung Hoa gọi là Giác Hiền, hậu duệ của Cam Lồ Phạn Vương.
  7. Pháp sư Huệ Duệ, người ở Ký Châu.
  8. Pháp sư Đàm Thuận, người ở Hoàng Long.
  9. Pháp sư Đạo Kính, họ Vương, ở Lang Da (huyện Chư Thành ở Sơn Đông), ông nội là Vương Ngưng Chi coi giữ Giang Châu.
  10. Pháp sư Đàm Hằng, người ở Hà Đông, xuất gia lúc còn trẻ thơ, chẳng biết họ gì.
  11. Pháp sư Đạo Bính, người ở Dĩnh Xuyên, họ Trần.
  12. Pháp sư Đàm Tiên, người ở Quảng Lăng, chẳng biết họ gì.
  13. Cư sĩ Lưu Di Dân, húy Trình Chi, tự Trọng Tư, người ở Tụ Lý tại Bành Thành.
  14. Cư sĩ Lôi Thứ Tôn, tự Trọng Luân, người ở Nam Xương.
  15. Cư sĩ Tôn Bính, Thiếu Văn, người ở Nam Dương.
  16. Cư sĩ Trương Dã, tự Lai Dân.
  17. Cư sĩ Trương Thuyên,
  18. Cư sĩ Châu Tục Chi, tự Đạo Tổ, người ở Hoàng Vu, Nhạn Môn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bài thơ của Thiền sư Quán Hưu được ghi nơi thơ di ảnh 18 bậc Đại Hiền.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(65) <b>Sào Phủ, Hứa Do</b>: tên một tích truyện cổ Trung Quốc, lấy tên hai nhân vật trong đó là Sào Phủ (chữ Hán:巢父) và Hứa Do (許由).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo truyền thuyết, hai nhân vật này sống đời vua Nghiêu. Câu chuyện như sau (lời đối thoại theo Chuyện giải buồn của Huỳnh Tịnh Của):
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hứa Do được tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền ngôi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hứa Do từ chối, cười mà về rồi ra suối rửa tai.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi đó, Sào Phủ mới dắt trâu tới suối uống nư?c, thấy Hứa Do rửa tai, bèn hỏi tại sao.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hứa Do trả lời:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Vua Nghiêu đòi tôi, bảo tôi thì làm vua.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sào Phủ bèn dắt trâu bỏ lên trên giòng nước cho uống.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hứa Do hỏi tại sao, Sào Phủ đáp:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Anh rửa tai anh xuống đó, tôi sợ trâu tôi uống nhằm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sào Phủ lại nói:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Anh đi đâu cho người ta biết vua mà muốn nhường ngôi vua cho anh, ấy là tại bụng anh vẫn còn danh lợi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Huỳnh Tịnh Của phê rằng: "Nghe mà rửa, chi bằng giữ vẹn đừng nghe".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tích Sào Phủ Hứa Do trở thành một điển cố về lòng trong sạch và tính ẩn dật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đnh Chiểu, đoạn Vân Tiên, Vư?ng Tử Trực, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm vào quán nước gặp một chủ quán có vẻ có tài, Vân Tiên khuyên ông ra làm quan. Ông trả lời:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Quán rằng: Nghiêu Thuấn thuở xưa
Khó ngăn Sào Phủ khôn ngừa Hứa Do.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ý nói, ngay cả đời thịnh vượng thanh bình như thời vua Nghiêu, vua Thuấn mà còn có người ẩn dật không ra làm quan, huống chi thời này!</P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>CHƯƠNG 3
<B>NÓI RÕ VIỆC THÀNH ĐẠO CỦA TỔ HUỆ VIỄN</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sách Lễ Ký nói: "Tổ tiên không có điều hay mà khen ngợi, là lừa dối; có điều lành mà chẳng biết, là không rõ; biết mà chẳng lưu truyền, là bất nhân. Ba việc ấy là điều mà người quân tử lấy làm hổ thẹn".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ôi! Đối với người học Phật chúng ta lẽ nào lại không như thế! Tổ sư Huệ Viễn đức hạnh quả vị sáng ngời, công đức rộng lớn. Kẻ ngu này hổ thẹn được dự vào giáo pháp của Ngài, là con cháu trong thời kỳ Liên tông suy vi sa sút, quê mùa dốt nát, ít học bất tài, chưa có thể tiếp nối tông phong thuở trước. Thật là phụ bạc ân đức từ bi của người xưa! Từng đọc Minh Giáo Ký, rất lấy làm hổ thẹn. Lại từng xem Thông Luận của Thiền sư Tú ở Thạch Thất có nói rằng: "Cách Khổng Tử một trăm năm có Mạnh Kha (Mạnh Tử). Khi đó, đạo của Khổng Tử gần như suy vi, Mạnh Kha nỗ lực thực hành đạo ấy, do vậy mà chấn khởi lại".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật giáo sang phương Đông, trải qua ba trăm năm có ngài Huệ Viễn. Khi ấy, người xuất gia dần dần thêm nhiều, nhưng chưa có sự thực hành riêng biệt, chưa chế định phép tắt và khuôn mẫu tốt đẹp, làm bậc tông sư trong thiên hạ như ngài Huệ Viễn, Phật đạo do đó bắt đầu chấn hưng. Bởi thế, từng bảo rằng, ngài Huệ Viễn có công lớn đối với Phật giáo, giống như Mạnh Tử trong nhà Nho. Ngài cùng với cao tăng triều sĩ đồng tu Tịnh độ, đạo đức vang đến tận tai vua, giáo pháp truyền khắp thiên hạ. Những người tu tập niệm Phật sau này, chẳng biết ngọn ngành của Tổ sư, mất đi nguồn dòng. Thấy những kẻ Xiển đề bạc phước ở đời ngụy soạn Lô Sơn Thành Đạo Ký, trao chuốt những ngôn từ dối trá, toàn là những lời nói vô căn cứ, dối gạt thiện tín, truyền khắp tai mắt mọi người, đến nay chẳng thể sửa đổi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôi mới tham khảo Đại tạng, Hoằng Minh Tập, Cao Tăng Truyện. Xét tận tường chỗ chính yếu, lược nêu bảy việc để phá trừ mọi sự nghi hoặc. Người hiểu biết nên soi xét:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">1. Ngài Huệ Viễn lễ Pháp sư Đạo An ở núi Thái Hành xuất gia, lại tuyên truyền bừa bãi rằng lễ Tôn giả Chiên Đàn làm thầy, đó là điều dối trá thứ nhất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">2. Bừa bãi cho rằng Đạo An là cháu của ngài Huệ Viễn, đó là điều dối trá thứ hai.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">3. Ngài Huệ Viễn ba mươi năm không ra khỏi núi, chân không bước vào thế tục, lại bừa bãi nói rằng bị Bạch Trang cướp bắt, đó là điều dối trá thứ ba.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">4. Vua nhà Tấn ba lần mời thỉnh, ngài Huệ Viễn lấy cớ bệnh từ chối không đến, lại bừa bãi nói rằng Ngài bán thân làm nô bộc cho Thôi tướng công, đó là điều dối trá thứ tư.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">5. Cánh tay phải ngài Đạo An có vòng thịt, lại bừa bãi nói rằng là ngài Huệ Viễn, đó là điều dối trá thứ năm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">6. Khi lâm chung, dặn dò thi hài xương cốt đặt dưới cội tùng ở phía Tây Lô Sơn, xem nơi tháp Ngưng Tịch có thể làm chứng cứ. Thế mà bừa bãi nói rằng Ngài ngồi trên thuyền nhiều màu sắc lên trời Đâu Suất, đó là điều dối trá thứ sáu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">7. Pháp sư Đạo Sinh giảng kinh ở Hổ Khâu, chỉ đá phát thệ, đá bèn gật đầu. Thế mà nói bừa bãi đó là ngài Huệ Viễn, đây là điều dối trá thứ bảy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Buồn thay! Những kẻ gian nịnh ở đời chẳng biết đạo đức chân thật của Tổ sư, chỉ nghe lời đồn, tô vẽ bừa bãi nhiều việc càn dở, truyền tiếng xấu đến đời sau, khắp nơi chê cười nhạo báng, khinh lờn đạo đức của bậc Thánh. Người hiểu biết thấy vậy chẳng xét nét nguyên do, há lại xem thường Tổ sư hay sao? Như thế, đâu chẳng phải là làm thân Phật ra máu, phạm tội ngũ nghịch ư?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôi từng thấy, vào niên hiệu Nguyên Gia đời Tống, Sư Tài Quán, Huệ Nghiêm và Tạ Linh Vận phiên dịch kinh Niết bàn thêm bớt từ ngữ, nhân đó mơ thấy vị thần quở trách rằng: "Dám đem tình phàm xem thường Thánh điển!". Sư Tài Quán sợ hãi mà ngưng lại.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Còn có ngài Huệ Lâm, do tài học nên được nhà vua quý mến, người thời ấy gọi Huệ Lâm là "Tể tướng áo đen". Ông tự trước tác Hắc Bạch Luận hủy báng Phật giáo, liền bị cảm bệnh dữ, da thịt thối rữa mà chết.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ôi! Như thế viết bừa bãi truyện ký về Tổ sư, há lại không sợ rơi vào ba đường địa ngục sao?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phàm những người đồng chí hướng với tôi, nên xét kỹ những việc thật về ngài Huệ Viễn từ gốc đến ngọn; nói rõ khắp nơi, làm cho đạo Tổ sáng ngời mới mong nỗi oan ức của bậc Thánh Hiền do đây được rửa sạch.
<CENTER>CHƯƠNG 4
<B>ĐẠI SƯ ĐÀM LOAN</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thuở nhỏ, nhân dạo núi Ngũ Đài, Đại sư Đàm Loan thấy thần tích linh dị, bèn phát tâm xuất gia. Sư nghiên cứu đầy đủ giáo pháp Đốn, Tiệm của ba thừa, khai mở Định, Tuệ. Sư thường bị bệnh, khi đi đến Phần Châu, chợt thấy mây che khắp cả, cửa trời mở toan, bậc thang dẫn đến sáu tầng trời cõi Dục<SUP><B>(66)</B></SUP> trên dưới trùng điệp. Sư vừa chớp mắt, bệnh liền được khỏi. Từ đó, khẩn thiết dụng tâm nơi Phật đạo, thường gắng sức như không kịp; dạy bảo cho những kẻ thế tục mê mờ, không phân biệt xa gần.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lúc đầu, Sư thích thuật học của đạo Tiên, nghe Đào Ẩn Cư được pháp trường sinh, từ xa tìm đến. Đào Ẩn Cư trao cho mười quyển kinh Tiên. Sư rất vui mừng, cho rằng đạo thuật Thần Tiên là điều cần thiết.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi trở về, qua Lạc Dương, gặp Pháp sư Bồ Đề Lưu Chi, trong lòng tâm đắc bèn hỏi rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Trong đạo Phật có pháp trường sinh bất tử chăng?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bồ Đề Lưu Chi cười đáp:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Nói về trường sinh bất tử, thật ra chỉ có Phật pháp mà thôi!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói xong, lấy kinh Quán Vô Lượng Thọ trao cho và bảo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Tu học theo đây thì không còn luân chuyển trong sáu đường, thoát ly hẳn ba cõi. Sự thịnh suy thành bại, đường họa phước xuống lên, cũng không còn ràng buộc được. Nói về thọ lượng thì kiếp đá và cát sông Hằng cũng chẳng thể sánh bằng. Đây mới thật là pháp trường sinh của đức Phật vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngài Đàm Loan nghe nói liền phát khởi lòng tin sâu chắc, bèn đốt kinh Tiên đã học, chuyên tu theo kinh Quán Vô Lượng Thọ. Từ đó, Ngài thông suốt nghĩa lý trong kinh ấy và tu ba phước nghiệp, quán tưởng chín phẩm. Dù lạnh nóng thay đổi, bệnh tật đến thân cũng không lười biếng bê trễ, giữ vững tâm ban đầu. Vua nước Ngụy mến trọng ý chí cao thượng, lại khen ngợi sự tu hành và giáo hóa mọi người, đạo nghiệp rộng lớn, ban hiệu cho Sư là Thần Loan, lại sắc chỉ cho Sư trụ trì chùa Đại Nghiêm ở Tinh Châu, chưa bao lâu dời về chùa Huyền Trung ở Phần Châu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Một hôm, Sư đang trì tụng, có một vị tăng người Ấn Độ dáng vẻ phi phàm vào trong thất bảo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Ta là Long Thọ, ở nơi Tịnh độ, do ông có tâm hướng về Cực Lạc nên đến thăm viếng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư thưa:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Có việc gì xin Ngài chỉ dạy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngài Long Thọ nói:
<p style="padding-left: 56px;"><I>Đã qua, chẳng theo kịp
Chưa đến, không thể tìm
Hiện tại, nay ở đâu
Ngựa khỏe khó kéo lại.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói xong liền biến mất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do thấy điều kỳ lạ nên Sư biết đã đến kỳ vãng sinh, liền tập hợp đệ tử mấy trăm người, răn dạy rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Bốn loài luân chuyển nhọc nhằn không có ngày dừng nghỉ. Nỗi khổ nơi địa ngục rất đáng kinh sợ, tịnh nghiệp nơi chín phẩm cần gắng tu!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói xong, bảo hàng đệ tử cao tiếng niệm Phật A DiĐà. Sư bèn hướng về phương Tây, nhắm mắt cúi lạy rồi thị tịch.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lúc ấy, kẻ tăng người tục đều nghe tiếng nhạc rền vang giữa hư không, từ phương Tây vọng lại giây lâu mới dứt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(66) <B>Sáu tầng trời cõi Dục</B>: chỉ cho sáu tầng trời cõi Dục. Đó là:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. <I>Tứ Đại Vương Thiên</I>: cũng gọi Đại Vương Thiên, Tứ Vương Thiên. Có bốn vua trời là: Trì Quốc, Tăng Trưởng, Quảng Mục, Đa Văn và các Thiên chúng. Người ở cõi trời này cao bằng ¼ câu lô xá, sống 500 tuổi; một ngày đêm ở đây bằng 50 năm ở trần gian.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. <I>Tam Thập Tam Thiên</I>: cũng gọi là Đao-lợi Thiên. Gồm 33 cõi trời: Trời Đế Thích ở giữa, 4 phương mỗi phương đều có 8 cõi trời. Thân cao bằng ½ câu lô xá, sống 1000 tuổi; một ngày đêm ở đây bằng 100 năm ở nhân gian.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. <I>Dạ Ma Thiên</I>: cũng gọi Diệm Ma Thiên, Viêm Ma Thiên, Thời Phần Thiên. Đứng đầu cõi trời này là Tu Dạ Ma thiên, thân cao bằng ¾ của một câu lô xá, sống 2000 tuổi; một ngày đêm ở cõi trời này bằng 200 năm ở nhân gian.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">d. Đâu Suất Thiên: cũng gọi Đổ Sử Đa Thiên, Đâu Suất Đà Thiên, Hỷ Túc Thiên. Đứng đầu cõi trời này là vua trời San Đâu Suất Đà. Thân cao một câu lô xá, sống 4000 tuổi; một ngày một đêm nơi này bằng 400 năm ở nhân gian.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">e. <I>Hóa Tự Tại Thiên</I>: cũng gọi là Lạc Biến Hóa Thiên, Vô Kiêu Lạc Thiên, Vô Cống Lao Thiên, Ni Ma La Thiên. Đứng đầu cõi trời này là vua trời Thiện Hóa. Thân cao một câu lô xá 1/4 , sống 8000 tuổi; một ngày đêm ở cõi trời này bằng 800 năm ở nhân gian.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">f. <I>Tha Hóa Tự Tại Thiên</I>: cũng gọi Tha Hóa Tự Chuyển Thiên, Tha Hóa Lạc Thiên, Hóa Ứng Thanh Thiên, Ba La Ni Mật Thiên. Đứng đầu cõi trời này là vua trời Tự Tại. Thân cao một câu lô xá ½, sống 16.000 tuổi; một ngày đêm tại đầy bằng 1.600 năm ở nhân gian.</P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>CHƯƠNG 5
<B>ĐẠI SƯ TRÍ GIẢ</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư húy Trí Khải, tự Đức An, họ Trần, quê ở Dĩnh Xuyên. Mẹ họ Từ, mộng thấy mây khói năm sắc bay quanh thân mà cảm mang thai Ngài. Đến khi đản sinh, trong nhà bỗng nhiên ánh sáng chiếu soi rạng ngời.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư sinh ra đã có tướng lạ: mày thanh tú, mắt dài sáng, mỗi tròng có hai con ngươi. Lúc còn nhỏ hễ gặp hình tượng Phật Bồ tát thì liền đảnh lễ, thấy chư tăng thì rất cung kính.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm mười tám tuổi, Sư nương theo Pháp sư Pháp Chữ ở chùa Quả Nguyện, tại Tương Châu xuất gia. Sư thường tụng kinh Pháp Hoa, kiêm thông luật tạng, tính ưa tu tập Thiền định. Về sau, lại nhắm hướng Bắc đến núi Đại Tô, lễ Thiền sư Huệ Tư làm thầy. Ngài Huệ Tư vừa nhìn thấy Sư, liền bảo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Ta với ông xưa kia đồng nghe kinh Pháp Hoa ở Linh Sơn, duyên xưa vẫn còn, nay lại gặp nhau!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhân đó, được Thiền sư truyền trao pháp tu Pháp Hoa Tam muội.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư tụng kinh trải qua hai mươi mốt ngày, đến phẩm Dược Vương Bổn Sự tới câu: "Đó là tinh tấn chân thật, đó gọi là cúng dường pháp chân thật...", thân tâm chợt rỗng rang, lặng lẽ vào định, soi sáng Pháp Hoa như mặt trời chiếu khắp vạn vật; thấu suốt tướng của các pháp như gió mát dạo giữa hư không. Sư đem chỗ chứng ngộ bạch với ngài Huệ Tư. Thiền sư ngợi khen, bảo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Chỉ riêng ông mới chứng, duy có ta mới biết! Cảnh mà ông chứng đó là tiền phương tiện của Pháp Hoa Tam muội. Ông được Tuyền Đà la ni, trong những người thuyết pháp ông là bậc nhất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Về sau, Sư hoằng pháp ở Nghiệp Đô, các Pháp sư tài giỏi đương thời thảy đều khuất phục.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sau, Sư vào núi Thiên Thai, hàng phục ma quân, tiến tu đạo hạnh. Khi hóa duyên đã mãn, Sư ở trước tượng Phật bằng đá lớn tại Tân Xương thị hiện có bệnh, bảo rằng nhập diệt. Đệ tử thưa hỏi:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Ngài có được sinh về Tây Phương chăng?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư đáp:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Các thầy bạn đều theo Bồ tát Quán Âm tới rước ta vãng sinh!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đến tối, thị giả thấy có Phật đến, thân Phật to lớn gấp đôi tượng Phật đá lớn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lúc sắp lâm chung, Sư nói về các pháp môn, bảo đại chúng tụng kinh Vô Lượng Thọ và đề mục của kinh Quán Vô Lương Thọ. Sư bèn nhìn khắp đại chúng, chắp tay khen ngợi rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Bốn mươi tám nguyện trang nghiêm Tịnh độ, ao sen cây báu dễ vãng sinh mà ít kẻ nguyện cầu. Người tạo năm tội nghịch, mười điều ác tướng địa ngục hiện, một niệm cải hối còn được sinh về; huống là bậc huân tu giới định, nỗ lực thực hành đạo Thánh, tất công phu chẳng luống uổng vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói xong, xướng danh Tam Bảo rồi điềm nhiên thị tịch.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Về sau, có vị tăng mong muốn biết Sư sinh về cõi nào, bèn nằm mộng thấy Ngài theo sau Bồ tát Quán Thế Âm thân sắc vàng chói, cao lớn mấy trượng, đi đến bảo rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Trí Giả đã sinh về Tây Phương! Ông đừng nên nghi ngờ nữa!
<CENTER>CHƯƠNG 6
<B>ĐẠI SƯ THIỆN ĐẠO</B>
(Tổ thứ hai của Liên tông)</CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Niên hiệu Trinh Quán đời Đường, Đại sư Thiện Đạo chu du khắp nơi tìm hỏi đạo pháp, nhân thấy Thiền sư Đạo Xước ở Tây Hà thực hành những phương pháp sám hối Đại thừa và đạo tràng Tịnh độ cửu phẩm, giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ, Sư rất vui mừng bảo: “
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Đây mới thật là lối chính yếu đi vào cảnh Phật. Tu các hạnh nghiệp khác quanh co khó thành tựu, chỉ môn quán này mau thoát sinh tử. Nay ta đã được rồi vậy!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từ đó, Ngài siêng năng tinh tấn không ngại khổ nhọc như cứu lửa cháy trên đầu. Về sau, đến kinh sư khuyến khích bốn chúng đệ tử<SUP><B>(67)</B></SUP> tu hành, không kể là kẻ sang người hèn, ngay cả bọn bán rượu thịt cũng cảm ngộ được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư mỗi khi vào thất, quỳ chắp tay nhất tâm niệm Phật, nếu chưa đến lúc kiệt sức, quyết không chịu thôi nghỉ, thậm chí trời lạnh buốt cũng đổ mồ hôi. Tướng trạng ấy là bày tỏ lòng chí thành tinh tấn của Sư.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lúc ra thất, diễn nói pháp môn Tịnh độ cho đại chúng, giáo hóa người tăng kẻ tục, làm cho họ phát tâm đạo tâm tu hạnh Tịnh độ, không khi nào không làm lợi ích cho mọi người. Hơn hai mươi năm không có chỗ ngủ nghỉ, chưa từng tạm thời nghỉ ngơi, trừ khi tắm gội, chưa từng cởi áo. Sư thực hành pháp Ban chu Tam muội, lễ Phật Phương Đẳng, chuyên lấy đó làm trách nhiệm của mình.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư giữ gìn giới hạnh không sai phạm một mảy may, chưa từng ngước mắt nhìn người nữ, tâm dứt hẳn nơi danh lợi, tránh xa những sự cười đùa. Dùng việc tu thân thanh tịnh làm sự cúng dường; đồ ăn, thức uống, tứ sự<SUP><B>(68)</B></SUP> không tự hưởng đều đem bố thí. Được thức ăn ngon đưa cho nhà trù để cúng dường đại chúng, chẳng dùng sữa lạc, đề hồ, phần mình chỉ dùng thức ăn đạm bạc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư đem những tịnh tài được dâng tặng dùng để viết hơn mười vạn quyển kinh A Di Đà, vẽ hơn ba trăm bức Tịnh độ biến tướng; thấy chùa tháp hư hoại đều tu sửa lại, đốt đèn tiếp nối ánh sáng suốt năm chẳng dứt; ba y, bình bát chẳng sai khiến người khác mang rửa, trước sau không đổi thay.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư giáo hóa những người có duyên, thường tự đi một mình không đi chung với mọi người, sợ đi cùng với người khác bàn luận việc đời trở ngại cho việc tu hành của mình. Hoặc có người tìm kiếm lễ bái được nghe Ngài nói một ít pháp, hoặc có người được cùng dự đạo tràng, đích thân tiếp nhận lời dạy bảo; hoặc có người chưa từng thấy nghe, tìm kiếm giáo nghĩa; hoặc có người truyền trao lần lượt pháp môn Tịnh độ hoặc tụng kinh A Di Đà mười vạn biến, cho đến ba mươi vạn biến, niệm Phật A Di Đà mỗi ngày một vạn năm ngàn câu, cho đến mười vạn và được niệm Phật Tam muội, vãng sinh Tịnh độ đông không thể kể xiết.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có người hỏi:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Niệm Phật được vãng sinh chăng?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngài đáp:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Tùy theo sự tinh tấn niệm Phật, chắc chắn ông sẽ được mãn nguyện.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói xong, Ngài tự niệm Nam mô A Di Đà Phật, liền có một tia sáng từ trong miệng phóng ra. Kế lại liên tiếp niệm từ mười cho đến một trăm câu, ánh sáng cũng thế.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Một hôm, Đại sư bỗng bảo mọi người:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Thân này đáng chán, các khổ bức ngặt, tâm tư biến đổi không tạm dừng nghỉ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói xong, leo lên cây liễu trước chùa, hướng về Tây nguyện rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Nguyện oai thần của Phật mau chóng tiếp dẫn con; Bồ tát Quán Âm Thế Chí cũng đến trợ giúp, khiến tâm con chẳng mất chánh niệm, chẳng sợ hãi, ở trong giáo pháp Phật Di Đà chẳng phát sinh mảy may lui sụt.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nguyện xong, Ngài ở trên cây, đứng nghiêm trang thoát hóa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi ấy, các sĩ đại phu ở kinh sư, thành kính tin tưởng thâu nhặt hài cốt an táng. Hoàng đế Cao Tông nghe nói Ngài niệm Phật phát ra ánh sáng, lại hay khi xả bỏ báo thân an lành đến như thế, nên ban một tấm biển sắc tặng hiệu chùa là Quang Minh Tự.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lược truyện của ngài Tuân Thức ở chùa Thiên Trúc nói Hòa thượng Thiện Đạo là Phật A Di Đà hóa thân. Từ khi đến Trường An, nghe tiếng nước chảy, Hòa thượng bảo có thể dạy niệm Phật, bèn lập Ngũ Hội Giáo, khuyên bảo giáo hóa rộng rãi. Có người rất mực tin tưởng, thấy Hòa thượng niệm Phật, Phật từ trong miệng hiện ra. Sau ba năm, trong thành Trường An đều biết niệm Phật. Việc này thấy trong biệt truyện, về sau có Đại sư Pháp Chiếu là hậu thân của ngài Thiện Đạo, vào thời vua Đức Tông mở Ngũ Hội Giáo ở Tinh Châu dạy người niệm Phật. Nhà vua ở Trường An thường nghe phía Đông Bắc có tiếng niệm Phật. Vua sai sứ đi tìm, đến Đại Khang quả nhiên thấy ngài Pháp Chiếu dạy người niệm Phật. Vua bèn mời vào cung. Ngài bèn mở năm hội niệm Phật dạy mọi người trong cung tu hành, việc này có ghi rõ trong truyện ký.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(67) <B>Bốn chúng đệ tử</B>: chỉ cho bốn chúng đệ tử tạo thành giáo đoàn Phật giáo, tức Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hoặc chỉ riêng cho bốn chúng xuất gia là Tỷ kheo, Tỷ- kheo ni, Sa di và Sa di ni.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(68) <B>Tứ sự</B>: dâng cúng bốn món cần thiết trong sinh hoạt hàng ngày lên Phật và Tăng, đó là y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men hoặc chỉ cho y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, phòng xá.</P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>CHƯƠNG 7
<B>ĐẠI SƯ PHÁP CHIẾU</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Niên hiệu Đại Lịch thứ hai đời nhà Đường (767), Ngài ở chùa Vân Phong tại Hành Châu huân tu từ bi, nhẫn nhục, giới hạnh, Thiền định, được mọi người đương thời quy kính.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Một buổi sáng nọ, vào lúc thanh trai, Sư thấy trong bát cháo nơi tăng đường hiện rõ bóng mây ngũ sắc. Trong mây hiện ra cảnh chùa, phía Đông Bắc của chùa có dãy núi lớn, chân núi có khe nước. Phía Bắc có khe nước lại có cửa ngõ bằng đá. Trong ngõ đá, khoảng năm dặm lại có một ngôi chùa, trên bảng vàng đề “Đại Thánh Trúc Lâm Tự”. Tuy mắt Ngài thấy mà trong lòng còn ngờ là lúc ấy tinh thần không tỉnh sáng. Mấy hôm sau, khi thọ trai, Ngài lại thấy trong bát hiện mây ngũ sắc, trong mây hiện ra mấy cảnh chùa; không có núi rừng nhơ xấu, thuần là cõi sắc vàng; ao đài, lầu các cùng các thứ báu xen kẽ lẫn nhau, muôn vị Bồ-tát ở trong đó. Trong ấy, cõi nước trang nghiêm của chư Phật, đủ mọi tướng thù thắng. Sư vui thích đem cảnh tượng này tìm hỏi, có hai vị tăng Gia Diên và Đàm Huy nói: "Sự biến hiện của chư Thánh không thể dùng phàm tình lường xét được, nhưng nếu luận về địa thế non sông, thì đó là cảnh Ngũ Đài Sơn".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mùa hạ năm Đại Lịch thứ tư (769), Đại sư mở đạo tràng Ngũ Hội Niệm Phật ở chùa Hồ Đông tại Hành Châu. Ngày 02 tháng 06 năm ấy, mây lành ngũ sắc che khắp cả chùa. Trong mây hiện ra lầu các, trên lầu các có mấy vị tăng người Ấn Độ thân cao hơn một trượng, cầm tích trượng hành đạo. Lại thấy Phật A Di Đà và hai vị Bồ tát Quán Âm, Thế Chí thân tướng cao lớn khắp cả hư không. Lúc trời tối, ở ngoài đạo tràng, Sư gặp một cụ già bảo
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Trước ông đã phát nguyện muốn đến thế giới kim sắc đảnh lễ Đại thánh Văn-thù, sao đến nay vẫn chưa thực hiện?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngài nói:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Thời gian và đường sá khó khăn, biết làm thế nào?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cụ già bảo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Chỉ cần đi ngay thì được, nào có gian nan gì!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngài chưa trả lời thì cụ già biến mất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do thấy sự lạ kỳ, nên lại phát nguyện:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Nguyện đem thân này đến gặp Đại Thánh, dù cho có vào trong biển lửa sông băng cũng quyết không lui bước.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngày 13 tháng 08 năm ấy, Đại sư cùng mấy người đồng chí hướng, từ Nam Nhạc xuất phát, quả nhiên không gặp gian nan hiểm trở. Ngày mồng 05 tháng 04 năm Đại Lịch thứ 5 (770), đến huyện Ngũ Đài, từ xa trông thấy phía Nam của chùa có mấy luồng ánh sáng. Ngày mồng 06 đến chùa Phật Quang, in như những cảnh thấy trong bát, không sai khác chút nào. Đêm ấy, vào khoảng canh tư, lại có ánh sáng lạ từ phương Bắc chiếu đến. Ngài chẳng rõ mới hỏi:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Đây là điềm gì? Lành hay dữ?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vị tăng bảo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Đây là ánh sáng chẳng nghĩ bàn của Đại Thánh thâu nhiếp thân tâm ông, tại sao lại hỏi như thế?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại sư nghe rồi, liền đầy đủ oai nghi tiến bước đến chùa. Đến phía Đông Bắc của chùa khoảng năm dặm, quả nhiên có một dãy núi. Dưới chân núi có khe nước, phía Bắc khe có cửa cổng bằng đá. Nơi cửa có hai vị đồng tử, một vị xưng là Thiện Tài, vị kia xưng là Nan Đà. Hai vị dẫn Sư vào cửa, đi về phương Bắc khoảng năm dặm lại thấy một cổng vàng, phía trên có lầu các, bên cạnh lầu các lại có một ngôi chùa, cổng chùa có tấm biển vàng lớn đề: "Đại Thánh Trúc Lâm Tự".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chu vi của chùa khoảng hai mươi dặm, hơn một trăm viện, mỗi viện đều có bảo tháp. Vàng ròng làm đất, đài hoa cây ngọc đầy khắp trong đó. Sư vào chùa, lên giảng đường, thấy Bồ tát Văn Thù bên Tây, ngài Phổ Hiền bên Đông. Hai vị đều ngồi tòa sư tử cao đẹp. Sư đến trước hai vị Bồ tát đảnh lễ, thưa rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Hàng phàm phu thời mạt pháp, hiểu biết cạn cợt, tuy có Phật tánh tâm địa mà không sao hiển lộ được. Chưa biết tu hành pháp môn nào là thiết yếu nhất? Cúi mong Đại Thánh giải trừ mối nghi ngờ cho con!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bồ tát Văn Thù bảo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Lời ông hỏi hiện nay rất đúng lúc. Các môn tu hành, không gì hơn niệm Phật. Ta trong đời quá khứ nhờ niệm Phật mà được Nhất Thiết Chủng Trí. Tất cả các pháp Bát nhã Ba la mật đa, những môn Thiền định thậm thâm, cho đến biển Chánh Biến Tri của chư Phật đều từ niệm Phật mà sinh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Pháp Chiếu lại hỏi:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Nên niệm thế nào?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngài Văn Thù dạy:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Về Phương Tây của thế giới này có Phật A Di Đà, nguyện lực của đức Phật ấy chẳng thể nghĩ bàn. Ông nên chuyên niệm danh hiệu của Ngài nối tiếp không gián đoạn, khi mạng chung chắc chắn được vãng sinh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói xong, hai vị Bồ tát đồng đưa tay vàng xoa đầu Sư, rồi thọ ký:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Do ông thực hành pháp niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn, nên rốt cuộc chứng được đạo giác ngộ tột cùng. Nếu thiện nam tín nữ nào muốn mau giải thoát thì nên niệm Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khi ấy, hai vị Bồ tát cùng nói kệ. Ngài Pháp Chiếu nghe rồi càng thêm vui vẻ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bồ tát Văn Thù lại bảo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Ông có thể đi qua các viện đảnh lễ chư Bồ tát để được dạy bảo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư theo lời dạy, lần lượt thỉnh vấn và được dạy bảo. Sau đó, đến vườn hoa thất bảo, rồi trở về chỗ Đại Thánh lễ tạ, được hai vị đồng tử Thiện Tài và Nan Đà khi trước đưa ra cửa. Sư lại đảnh lễ từ biệt, vừa ngẩng đầu lên thì người và cảnh đều biến mất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đến ngày 13, Sư cùng hơn năm mươi vị tăng đến hang Kim Cang Vô Trước, nơi của Đại Thánh. Bỗng thấy chỗ ấy rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh, cung điện bằng lưu ly, Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền và khoảng một vạn vị Bồ tát, Phật Đà Ba Lợi cũng ở trong ấy. Ngài Pháp Chiếu được thấy, rồi theo đại chúng trở về chùa. Đêm ấy, vào lúc canh ba, ở lầu Tây viện Hoa Nghiêm lại thấy ven khe nước bên vách núi ở phía Đông chùa có ngọn đèn năm nhánh lớn hơn một thước (khoảng bốn tấc ta). Sư nói: "Nguyện chia làm một trăm ngọn đèn, để về một mặt". Đèn chia ra như nguyện, lại nguyện chia làm ngàn ngọn đuốc, đuốc cũng như vậy, hàng hàng đối nhau, ánh sáng mỗi mỗi giao nhau. Những điều kỳ lạ trong ánh sáng khắp cả núi rừng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngài Pháp Chiếu lại đến hang Kim Cang, mong được thấy Đại Thánh. Đến canh ba, thấy một vị tăng người Ấn Độ tự xưng là Phật Đà Ba Lợi dẫn vào chùa. Đến ngày mồng một tháng chạp, Sư vào đạo tràng niệm Phật ở viện Hoa Nghiêm, nhớ lời hai vị Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền nói Ngài rốt cuộc chứng được đạo giác ngộ tột cùng, lại ghi nhận Ngài niệm Phật A Di Đà quyết định vãng sinh, do đó một lòng niệm Phật. Đang lúc niệm Phật, Sư bỗng thấy một vị tăng người Ấn Độ bước vào đạo tràng bảo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Đài hoa nơi Tịnh độ của ông đã hiện rồi. Ba năm sau hoa nở, ông sẽ vãng sinh. Song, ông được thấy các chùa Trúc Lâm, tại sao không nói cho mọi người được rõ?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại sư nghe rồi, nhớ lại những cảnh được thấy trước kia, bảo những người thợ điêu khắc trên đá, đồng thời ở chỗ được thấy Trúc Lâm Tự, đặc biệt xây dựng một ngôi chùa, lấy hiệu là Trúc Lâm. Công trình xây dựng chùa hoàn tất, Sư bảo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Việc của tôi đã xong, tôi đâu thể ngưng trệ ở lâu nơi đây.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vài ngày sau, Sư bèn thị tịch.
<CENTER>CHƯƠNG 8
<B>ĐẠI SƯ THIẾU KHANG</B>
(Tổ thứ năm của Liên tông)</CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư là người ở vùng núi Tiên Đô xứ Tấn Vân. Mẹ là La Thị, nhân dạo ở đỉnh Hồ Phong, được ngọc nữ trao cho hoa sen xanh, bảo rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Hoa này tốt lành, trao cho bà sẽ sinh quý tử.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngày sinh ra Sư, có ánh sáng xanh đầy khắp nhà, mùi thơm tợ hoa sen.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm 15 tuổi, Sư đọc năm bộ kinh như: Pháp Hoa, Lăng Nghiêm..., lại học tập nghiên cứu giới luật và nghe các bộ luận Hoa Nghiêm, Du Già.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Niên hiệu Trinh Nguyên năm đầu (785), Sư đến viếng chùa Bạch Mã ở Lạc Dương. Thấy chỗ để sách trong đại điện phóng quang, Sư lại tìm xem, thì ánh sáng ấy phát xuất từ tập văn Tây Phương Hóa Đạo của Hòa thượng Thiện Đạo, Sư liền khấn rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Nếu tôi có nhân duyên Tịnh độ, nguyện tập văn này phóng quang một lần nữa!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chưa dứt lời, ánh sáng lại càng chiếu xa rực rỡ. Sư nói:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Kiếp đá có thể mòn, nhưng nguyện của tôi không thay đổi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhân đó, Sư đến Trường An, chiêm lễ di ảnh của Hòa thượng Thiện Đạo, thành tâm thiết lễ cúng dường. Đang khi lễ, bỗng thấy Đại sư Thiện Đạo hiện trên hư không bảo Ngài rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Ông y theo lời dạy của ta, làm lợi lạc cho chúng sinh, ngày kia công thành sẽ sinh về Cực Lạc!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sư nghe rồi như có điều chứng đắc. Sau đó đi về phương Nam, đến chùa Quả Nguyện, ngang qua Giang Lăng, trên đường đi Sư gặp một vị tăng bảo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Ông muốn dạy người niệm Phật, nên qua xứ Tân Định.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói xong, bỗng biến mất.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đến Mục Châu, thấy mọi người chưa được giáo hóa, Sư quyên tiền dẫn dụ trẻ con: "Ai niệm một câu A Di Đà Phật thì cho một đồng tiền". Trẻ con vì muốn được tiền nên niệm Phật rất nhiều. Sư lại bảo niệm Phật mười câu mới cho một đồng. Một năm như thế, lớn nhỏ sang hèn, mọi người gặp Sư đều niệm A Di Đà Phật! Do đây, người niệm Phật đầy khắp trên đường.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Năm thứ mười niên hiệu Trinh Nguyên (794), Sư thành lập đạo tràng Tịnh độ ở núi Ô Long, xây đàn tam cấp. Mọi người nhóm họp trưa tối hành đạo. Khi vào đạo tràng, Sư lên tòa bảo đệ tử nam nữ hướng về phương Tây to tiếng niệm A Di Đà Phật. Đại chúng thấy Sư niệm một câu Phật thì Phật từ miệng Ngài hiện ra, niệm liên tục mười câu thì Phật cũng hiện ra liên tiếp như xâu chuỗi. Đại sư bảo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Mọi người thấy Phật chăng? Nếu người thấy Phật chắc chắn vãng sinh Tịnh độ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng cũng có kẻ lễ Phật mà chẳng thấy Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngày 03 tháng 10 năm thứ 21 niên hiệu Trinh Nguyên (805), Sư dặn dò kẻ tăng người tục:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Các vị nên phát tâm tinh tấn tu hành để vãng sinh Tịnh độ, đối với Diêm phù đề nên sinh lòng chán nản xa lìa. Giờ đây, thấy Phật mới thật sự là đệ tử của tôi!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói xong, Sư phóng mấy tia sáng lạ đẹp, rồi lặng lẽ thị tịch.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đại chúng xây tháp Sư ở Đài Nham. Về sau, Thiền sư Đức Thiều ở Thiên Thai trùng tu lại. Người sau phần nhiều cho rằng, tháp ấy là tháp của ngài Thiện Đạo.</P>
senie.gif
</span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên