Liên Tông Bảo Giám

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>CHƯƠNG 2
<B>PHÂN BIỆT RÕ THÂN TÂM CHÂN VỌNG</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói về thân thì có Pháp thân, có Sắc thân. Truyền Đại sĩ nói rằng: <I>"Trí tỏ rõ cảnh chân thật, cùng tận pháp làm thân nên gọi là Pháp thân. Thân do cha mẹ sanh ra, hư huyễn không thân nên gọi là Sắc thân".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói về tâm thì có chân tâm, vọng tâm. Chân tâm sáng suốt nhiệm mầu, rỗng rang linh thông, nên gọi là chân tâm. Theo cảnh sanh diệt, chợt có chợt không nên gọi là vọng tâm. Tổ sư khuyên niệm Phật Tam muội, ở trong chân tâm của chính mình lưu xuất một câu A Di Đà, mỗi niệm mỗi niệm quán chiếu, mỗi pháp mỗi pháp dung thông, như thế gọi là: <I>"Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, ở trong một niệm thành tựu Phổ Hiện Sắc thân Tam muội"</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thời nay, có một hạng người chẳng biết chân vọng, nhận lầm sắc thân là ta, lấy vọng niệm làm cứu cánh. Phần nhiều là hít thở xoa bóp, làm dáng làm vẻ mà hy vọng thành đạo, không phải là sai lầm lắm sao! Thật đáng gọi là bỏ vàng ròng, lượm ngòi gạch.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói chung, người học đạo cần phải phân biệt rõ thật giả, cho nên trong Tông Cảnh Lục nói: "Tu đạo lấy tâm làm tông, cần phải xét nét chính chắn đạo lý cứu cánh. Từ mặt hữu tình giới, chân vọng dường như phân chia, không thể cho là đồng nhau. Có người lạm dụng Viên Giác, vàng và khoáng đều đốt thì mới phân biệt thật giả, cát và gạo đều nấu thì sống chín khác nhau. Tam thừa mộ đạo, cái thấy có khác, lầm nhận vọng tâm làm chân thật. Vì như nhận giặc làm con, bị cướp hết tài sản; cho mắt cá là ly châu, làm mê mờ mắt trí huệ. Bèn khiến cho những kẻ ngu si rơi vào trùng quan khó thoát, những người tà hiểm chìm đắm trong dòng sống kiến chấp, đùa giỡn trong căn nhà cũ mục rực lửa, quên khổ đau, quên mệt mỏi; nằm mộng lớn trong đêm dài mà chẳng biết lúc tỉnh. Mê tâm mê tánh đều do chấp vào suy nghĩ phan duyên làm tâm mình, bỏ quên chân tâm mà dính mắc vào nơi thinh sắc. Đó là lỗi lầm của phàm phu và ngoại đạo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hoặc có những người học giáo pháp, học Thiền tông, chấp vào phương tiện của Phật, như mắc vào lưới không thể thoát ra được. Năm thừa<SUP><B>(143) đối với Bốn cơ<SUP><B>(144)</B></SUP></B></SUP>, vượt qua một niệm hiện giờ mà chạy xa ba a tăng kỳ, luống công nhọc nhằn trong Đại kiếp<SUP><B>(145)</B></SUP>. Rời Bảo sở ngưng trệ mãi nơi Hóa thành, mệt mỏi trên con đường dài xa. Đó là lỗi lầm mê muội đi theo vọng tâm, không thấu suốt chân tâm.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bài Phú về tâm của thiền sư Vĩnh Minh nói:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Tánh chẳng tạo tác, Lý thật dung thông
Người thấu rõ, ngay nơi động mà tĩnh
Kẻ mê muội cho Tây là Đông
Mặc biển cạn non dời, cũng chưa phải sức lực vô vi
Dẫu đi mây đạp nước, đều là thần thông hữu lậu
Phân biệt ngọc, cần phải rõ chân
Tìm kiếm châu, nước nên lóng lặng
Nếu hướng ngoại cảnh để tìm tâm
Nào biết hoa đốm là do mắt nhặm
Thuận Pháp giới tánh, thuận chân như tâm.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế thì nhanh chóng vào biển đại từ bi của Như Lai. So với những kẻ dính mắc hình tướng và tu hành trên đãy da hôi thối, lẽ nào có thể cùng bàn luận được?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(143) <B>Năm thừa</B>:
<p style="padding-left: 69px;">a. Nhân thừa: Tức lợi ích thiết thực ngay trong đời này và cả đời sau.
b. Thiên thừa: Tức giáo pháp dạy chúng ta tu để được sanh về cõi trời.
c. Thanh văn thừa; và d. Duyên giác thừa: Hai giáo pháp này đều dạy chúng ta tu để giải thoát sanh tử.
e. Bồ tát thừa: Tức giáo pháp dạy chúng ta tu vừa lợi mình vừa lợi người, cuối cùng đều đi đến giác ngộ giải thoát.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(144) <B>Bốn cơ</B>: Bốn căn cơ:
<p style="padding-left: 69px;">a. Cơ Trời, Người: Không làm điều ác, thực hành các việc lành.
b. Cơ Nhị thừa: Chán ghét sanh tử, ưa cầu Niết Bàn.
c. Cơ Bồ tát: Trước làm lợi ích mọi người, từ bi nhân ái.
d. Cơ Phật: Đối với tất cả các pháp quán xét lý Trung đạo thật tướng, chấm dứt mọi mê lầm, vượt khỏi sanh tử.
<P style="TEXT-INDENT: 22pt; TEXT-ALIGN: justify">(145) <B>Đại kiếp</B>: Vốn là đơn vị thời gian rất dài của Bà la môn giáo ở Ấn Độ thời xưa. Về sau, Phật giáo dùng theo và coi đó là thời gian không thể tính toán được bằng năm tháng.
<CENTER>CHƯƠNG 3
<B>BIỆN MINH TAM BẢO</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong giáo lý nói:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Các đức Phật mười phương
Những kinh điểm viên mãn
Tăng Đại thừa Bồ tát
Công đức khó nghĩ bàn!</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">1. <B>Đồng thể Tam Bảo</B> nghĩa là lý chân như tự tánh bản giác, gọi là Phật bảo; đức dụng khuôn phép tự tánh chân chánh, goi là Pháp bảo; hòa hợp không tranh cãi, tự tánh thanh tịnh, gọi là Tăng bảo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">2. <B>Xuất thế gian Tam Bảo</B>: Nghĩa là Pháp thân, Báo thân và Hóa thân, tùy loại ứng hiện đó là Phật bảo; giáo nghĩa Lục độ, Tứ đế, Duyên sinh đó là Pháp bảo; Bồ tát Thập địa<SUP><B>(146)</B></SUP>, Tứ hướng<SUP><B>(147)</B></SUP>, Ngũ quả<SUP><B>(148)</B></SUP> gọi là Tăng bảo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">3. <B>Thế gian trụ trì Tam Bảo</B>: Nghĩa là tranh vẽ, hình tượng Phật, gọi là Phật bảo; kinh sách giáo lý gọi là Pháp bảo; những người cạo tóc, mặc áo nhuộm, gọi là Tăng bảo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người trở về nương tựa Tam Bảo thì chư Thiên hộ trì; người cúng dường Tam Bảo, được phước điền vô lượng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay có những kẻ ngu không hiểu, ngụy soạn kinh <I>Chân Tông Diệu Nghĩa</I>, nói càn: tinh là Phật bảo, khí là pháp bảo, thần là tăng bảo. Lần lượt truyền trao học tập, đến nỗi khiến cho những người lành tin theo tà thuyết này chẳng còn tôn kính Tam Bảo. Thật đáng thương xót!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu như không tôn kính Thế gian Tam Bảo ắt tự mê muội tâm mình, đã tự mê muội tâm mình thì quên mất bản tánh, làm sao đạt được Đồng thể và Xuất Thế gian Tam Bảo? Tự dối gạt mình còn có thể, lại đi dối gạt người khác, đó gọi là: làm lầm lạc con đường chân chánh của Người và Trời, làm mù tối đôi mắt của Nhân Thiên, mê muội đối với giáo lý nhân quả chân thật, khiến lu mờ nếp tinh thuần Định Tuệ. Sự tai hại lỗi lầm không gì hơn điều này!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đức Phật nói: <I>"Tất cả chúng sanh nếu không trở về nương tựa Tam Bảo thì muôn kiếp rơi vào đường ác"</I>. Huống chi, ngài Từ Chiếu biên tập từ nơi kinh điển soạn thành Sám nghi, khiến cho người học y theo nghĩa lý vi diệu sâu xa trong kinh điển Đại thừa. Từ thân này cho đến lúc thành Phật, vì chúng sanh trong pháp giới trở về nương tựa Phật thường trụ, trở về nương tựa Pháp thường trụ, trở về nương tựa Tăng thường trụ. Người tốt có lòng tin chân chánh đã được nghe, nghe rồi đọc tụng lễ bái, cố nhiên tự tôn kính, tự tin tưởng. Ngay nơi tâm kính tin này, bắt đầu có thể gần gũi nơi Phật đạo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu thấy tất cả các tượng Phật, nên khởi ý tưởng là Như Lai, thấy tất cả kinh giáo nên sinh ý tưởng khó gặp gỡ, thấy tất cả Tỳ kheo nên khởi ý tưởng là Tổ sư. Phải nên lễ bái cúng dường không được xem thường, dùng sự trang nghiêm của Phật mà trang nghiêm mình, như thế Nhất thể Tam Bảo duy tâm đầy đủ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu như chấp vào cái thấy thấp kém, chẳng rõ cội gốc, vọng tin theo tà giáo, làm nghi ngờ lầm lạc người sau, tất tự chuốc lấy trầm luân chìm mãi trong nẻo ác. Đó là lỗi của ai?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(146) <B>Thập địa</B>: Mười giai vị Bồ tát nói trong kinh <I>Hoa Nghiêm</I>:
<p style="padding-left: 69px;">a. Hoan hỷ địa: Giai vị mới lên bậc Thánh, liền sanh tâm hoan hỷ.
b. Ly cấu địa: Giai vị lìa bỏ tâm sai lầm, phá giới, phiền não cấu.
c. Minh địa: Giai vị nhờ thiền định mà được ánh sáng trí tuệ, tu Tam huệ văn, tư, tu khiến cho chân lý dần sáng tỏ.
d. Diệm địa: Giai vị lìa bỏ kiến giải phân biệt của ba địa trước, dùng lửa trí tuệ thiêu đốt củi phiền não, nhờ đó mà giác ngộ được bản thể trí tuệ.
e. Nan thắng địa: Giai vị đã được chánh trí nên khó có thể siêu xuất được nữa.
f. Hiện tiền địa: Giai vị nghe Bát nhã Ba la mật, hiện tiền sinh khởi đại trí.
g. Viễn hành địa: Giai vị tu hạnh Vô tướng, tâm tác dụng xa lìa thế gian. Giai vị này trên không còn Bồ đề để cầu, dưới không cầu chúng sanh để cứu độ, do đó mà chìm đắm trong Vô tướng tịch diệt, có cái lo không thể tu hành. Đây gọi là nạn Thất địa trầm không.
h. Bất động địa:: Giai vị không ngừng sanh khởi trí tuệ Vô tướng tuyệt đối, không bị phiền não làm lay động.
i. Thiện huệ địa: Bồ tát dùng năng lực vô ngại để thuyết pháp, hoàn thành hạnh lợi tha, là giai vị mà tác dụng trí tuệ được tự tại.
j. Pháp văn địa: Giai vị được đại Pháp thân, có năng lực tự tại.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(147) <B>Tứ hướng</B>: Hướng nghĩa là đang tiến lên, hướng tới quả vị, gồm: Tu đà hoàn hướng, Tư đà hàm hướng, A na hàm hướng và A la hán hướng.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(148) <B>Ngũ quả</B>: Năm quả vị. Chỉ cho bốn quả hữu vi, sáu nhân sanh ra và một quả vô vi nhờ đạo lực mà chứng được. Đó là:
<p style="padding-left: 69px;">a. Quả đẳng lưu: cũng gọi là quả Y, quả Tập.
b. Quả Dị thục: Cũng gọi là quả Báo.
c. Quả ly hệ</I>: Cũng gọi là quả Giải thoát.
d. Quả Sĩ dụng: Cũng gọi là quả Sỉ phu, quả Công dụng.
e. Quả Tăng thượng
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong năm quả trên, quả Ly hệ thuộc về quả vô vi, bốn quả còn lại thuộc quả hữu vi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Theo luận <I>Câu Xá</I>, trong bốn quả hữu vi thì quả Đẳng lưu là từ hai nhân Đồng loại và Biến hành trong sáu nhân mà sanh ra; quả Dị thục thì từ nhân Dị thục mà ra; quả Sĩ dụng từ hai nhân Câu hữu và Tướng ứng mà ra; quả Tăng thượng thì từ nhân Năng tác mà ra, còn quả Ly hệ thì không do sáu nhân sinh ra, chỉ nhờ đạo lực mà chứng được Trạch diệt vô vi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nhưng luận <I>Thành Duy Thức</I> thì cho rằng năm quả là do mười nhân và bốn duyên sinh ra. Trong đó, quả Dị thục là do nhân dắt dẫn, nhân sinh khởi, nhân định dị, nhân đồng sự và nhân không trái nhau sinh ra; quả Đẳng lưu thì từ nhân dẫn dắt, nhân sinh khởi, nhân nhiếp thọ, nhân dẫn phát, nhân định dị, nhân đồng sự và nhân không trái nhau sinh ra; quả Ly hệ thì từ các nhân: nhiếp thọ, dẫn dắt, định dị, đồng sự và không trái nhau sinh ra; riêng quả Tăng thượng thì do cả mười nhân sinh ra; còn quả Sĩ dụng thì hoặc từ các nhân: quan đãi, nhiếp thọ, đồng sự, không trái nhau sinh ra hoặc do các nhân: quan đãi, dắt dẫn, sinh khởi, nhiếp thọ, dẫn phát, định đị, đồng sự và không trái nhau sinh ra.
<CENTER>CHƯƠNG 4
<B>BIỆN BIỆT THẤY NGHE HIỂU BIẾT</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bậc Cao đức ngày xưa nói: <I>"Ở nơi thai gọi là thân, ở nơi đời gọi là người, ở nơi mắt gọi là thấy, ở nơi tai gọi là nghe, ở nơi mũi thì ngửi mùi, ở nơi lưỡi thì luận bàn, ở nơi tay thì nắm bắt, ở nơi chân thì đi chạy. Hiện khắp của bao trùm pháp giới, thâu nhiếp lại ở một vi trần. Người tỏ rõ thì biết là Phật tánh, kẻ không hiểu gọi là linh hồn".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Gần đây, có một hạng người ngu không biết nghĩa lý của Phật, ngầm ở trong pháp giới của ta chuyên lấy việc truyền thọ làm tông, nói càn nơi sáu căn thấy tánh, chỉ tứ đại sắc thân là thể Phật, tự lập ba mươi sáu quan, bảy mươi hai tín, ghép vào những việc quái dị, lừa dối làm mê hoặc người lành. Nói càn rằng: thịt bên này máy động thì ai đó sẽ đến, chỗ bên kia đau đớn thì việc gì đó đã xảy ra, nói rằng biết trước kiết hung họa phước. Người ngu nghe được cho là Phật pháp linh cảm, hết lòng tin tưởng, bố thí cúng dường, truyền bá lời nói tà mị này, ghi nhớ trong lòng chưa từng tạm bỏ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đâu biết rằng, tánh Phật chân thật thanh tịnh lặng yên, vì có thân hư vọng nên có vọng thức, che lấp bản tánh, chẳng thấy ánh sáng trí tuệ. Một niệm tâm rỗng không gọi là ngộ đạo, kinh <I>Lăng Nghiêm</I> nói: <I>"Thấy biết mà lập thấy biết là cội gốc vô minh; thấy biết mà không lập thấy biết, đó là Niết bàn".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì thế, Tổ sư lập giáo chỉ lấy niệm Phật Tam muội làm chánh tông, chưa từng có mảy may pháp thật để ràng buộc người. Đâu ngờ, kẻ thế tục ngu mê chẳng rõ tông chỉ, bỏ trung hiếu không thực hành, trái nhân nghĩa không tu tập, giả danh Liên tông, thực hành những pháp khác biệt, tham cầu âm thầm cảm ứng, lấy việc kỳ quái để mê hoặc người. Thế nên, tạo thành những việc tà ma yêu mị, dựa vào thân người nhiễu loạn chánh tín, do đó đều bị ma nhiếp phục. Thật đáng buồn thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người tu Tịnh nghiệp nên khéo léo xét suy chánh tà, lấy việc cứu xét tâm tánh làm bổn phận, phân biệt xác đáng, tin tưởng thành thật, nhớ Phật niệm Phật, nguyện sanh về Tịnh Độ, cẩn thận chớ mong cầu điều gì khác. Thiền sư Vĩnh Minh nói:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Chớ chọn lá cành, nên tìm cội gốc
Bỗng nhiên vô minh chợt tan
Lặng lẽ tình trần tự dứt.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Thẳng tận đầu nguồn tìm dấu Phật
Chọn lá tìm cành ta chẳng kham.</I>
<CENTER>CHƯƠNG 5
<B>PHÁ TRỪ VỌNG THUYẾT HỌA PHƯỚC</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chánh pháp của Phật Tổ lấy bản tánh Di Đà làm thể, lấy Tín, Nguyện niệm Phật làm tông, lấy việc tự mình tu hành và giáo hóa mọi người làm dụng. Đó chính là lời nói khuôn phép của Phật Tổ, làm mẫu mực cho người sau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thường bảo rằng âm thanh là Phật sự, đốt đèn là đạo tràng, việc ấy vốn chỉ là pháp môn phương tiện để đưa Quyền trở về Thật. Gần đây, người học mê mờ bỏ mất tông chỉ, tham chấp sự tướng, chẳng tuân theo giáo lý, hướng ngoại làm càn, mắt tâm không sáng, cạnh tranh nhau xưng làm sư trưởng. Đây thật là việc tệ hại trong pháp môn, hoặc tìm quỷ khiếu giống như đồng bóng, hoặc xưng là Di Lặc hạ sanh, hoặc nói chư thiên dựa xác, hoặc trên ánh sáng của ngọn đuốc thấy thần thấy quỷ, hoặc ở trên khói hương đoán kiết đoán hung, làm mờ mịt ba ánh sáng, lừa dối thánh hiền, lường gạt xóm làng, mong cầu lợi dưỡng. Đến khi hỏi họ về hạnh nguyện chân thật thì ngậm miệng không lời, chẳng rõ cội gốc bản tánh Di Đà, cuồng loạn cả đời đều là dối trá, đã tự làm mê lầm chính mình, lại còn làm lầm người khác. Thật đáng buồn thay! Thế nên, kinh <I>Lăng Nghiêm</I> nói: <I>"Này thiện nam tử! Do ứng theo tâm ái, khi ấy thiên ma được tiện lợi, phi tinh dựa vào người, bới móc lỗi người, không sợ lời chê bai, ưa nói trước việc họa phúc, đến lúc xảy ra không sai tơ hào. Những người ngu mê lầm cho là Bồ tát, gần gũi cúng dường. Những người này phá giới luật của Phật, âm thầm làm việc tham dục, đó gọi là tinh mị đã sống lâu nhiều kiếp. Quỷ thần có sức mạnh lớn lâu năm thành ma, não loạn người này. Người ấy chẳng biết ma dựa, lại cho rằng chứng Thánh, đến khi loài ma kia sanh tâm chán nản, bỏ thân thể họ đi, bấy giờ thầy và đệ tử đều bị luật pháp trừng trị. Ông nên cảnh giác trước để khỏi đọa vào luân hồi, mê hoặc không biết gì thì rơi vào địa ngục Vô gián".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Than ôi! Những người tốt mới phát tâm chẳng phân biệt thật giả, tin theo tà thuyết kia, chẳng lo gìn tâm tích đức, vọng tưởng cầu phước mà bị họ làm lầm lẫn. Tôi nghe rằng: <I>"Gia đình tích lũy điều lành ắt có dư niềm vui, gia đình tích lũy điều ác thì có thừa tai họa".</I> Thế nên, kiết hung họa phước do nơi lòng người, sao có thể xu nịnh để mong cầu giàu sang, cẩu thả tránh bừa tai họa? Thiền sư Vĩnh Minh nói:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Ác từ tâm khởi, tợ sắt rĩ tự hủy hoại mình
Thiện từ tâm sanh, như châu phát sáng mà soi lại châu thể.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Do đó, tôi khuyên những người lành khởi tâm làm việc phải nên chọn đạo thực hành, chọn lễ để theo, chọn bạn giao du, chon nơi mà ở, chọn thầy tôn thờ, thận trọng giữ tâm, nơm nớp gìn tiết tháo, niệm niệm không mê mờ, chẳng sơ thất đối với lẽ tự nhiên để thực hành giáo pháp Tây phương, còn những việc xem đuốc bàn họa phước chớ nên tham dự!
<CENTER>CHƯƠNG 6
<B>BIỆN MINH VỀ CHẤP KHÔNG</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nói không là để phá trừ sự chấp trước vào cái có. Bậc đại giác Thế Tôn khai thị chánh pháp, muốn khiến cho tất cả mọi người biết rõ vạn pháp trong thế gian đều rỗng không, tự tỏ ngộ chân không của bản tánh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chân không là pháp giới của Như Lai, là bản tâm của chúng sanh. Không mà chẳng không, có mà chẳng có. Người ngộ được chỗ này, ở trong chỗ chẳng có mà vận dụng khó báu của nhà mình. Nếu dò xét thì vô cùng, sử dụng thì vô tận, gọi đó là đạo vi diệu Nhất thừa, chớ chẳng phải là không ngơ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay, có một hạng người ngu khăng khăng nói không, bác không nhân quả. Mỗi bước thực hành đều ở nơi có, nhưng trên môi nói toàn là không. Lại bảo úong rượu, ăn thịt chẳng ngại Bồ đề; trộm cắp, hành dâm không chướng Bát nhã. Dọc ngang phóng túng, dong ruổi điên cuồng, chê bai Phật, hủy báng kinh, xem thường tất cả, bừa bãi không còn phép tắc. Lấy đó cho là tông thừa, khinh lờn Thánh hiền, tự xưng đắc đạo. Những người như thế đâu đâu cũng thấy; đó là điều mà ngài Huyền Giác gọi:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Đắm ngoan không, bác nhân quả
Mờ mịt rối ren chuốc ương họa.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <I>Lăng Nghiêm</I> nói: <I>"Nếu tâm dính mắc vào không thì có mà Đại Lực Không nhập vào tâm. Người ấy không biết đó là do ma dựa, miệng nói kinh pháp mà ngấm ngầm thực hành tham dục, hủy báng kinh điển hình tượng, làm mê lầm rối loạn mọi người, khiến ai nấy đều rơi vào đường tà. Khi loài ma sanh tâm chán nản thì bỏ thân thể gười ấy, bấy giờ thầy và đệ tử đều bị pháp luật trừng trị. Lúc mạng chung, làm quyến thuộc của ma, khi nghiệp ma hết, đọa vào địa ngục Vô gián".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Than ôi! Cách Phật đã xa, diệu pháp không còn, dị đoan sinh khởi, trái ngược đại nghĩa, không vướng vào có thì mắc nơi không. Vướng vào có thì chấp danh tướng, dính hữu vi, bám chặt vật ngã, câu nệ kẻ oán người thân, bó buộc nơi giáo lý cạn cợt, đánh mất nghĩa cao sâu; mắc vào không thì mê muôi nhân quả, lẫn lộn thiện ác, dứt bỏ giới luật, trái ngược lễ nghĩa. Bởi vì chẳng rõ Trung đạo mới là điều thiện tột cùng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có người hỏi rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Sao gọi Trung đạo?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đáp:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Có cũng chẳng vướng, không cũng chẳng không. Không chẳng rời có, có chẳng rời không, oán thân bình đẳng, vật ngã ngang bằng, nhân quả rõ ràng, thiện ác minh bạch, giới luật được ứng dụng, lễ nghĩa được thực hành, thấu suốt giáo lý cạn cợt, tận cùng nghĩa lý cao sâu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trung đạo rộng lớn thay! Là tên gọi khiến vạn vật nhiệm mầu, là danh từ xứng hợp với bản tánh. Nếu thấu suốt lý này thì không rơi vào chỗ thiên lệch. Như thế, gọi là được chánh định niệm Phật.
<CENTER>CHƯƠNG 7
<B>BIỆN MINH TƯỚNG HỢP NHẤT</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <I>Kim Cang</I> nói: <I>"Như Lai nói tướng hợp nhất tức chẳng phải tướng hợp nhất, đó gọi là tướng hợp nhất".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bởi người đời mê mờ tánh nhất chân, chạy theo trần cảnh, tức chẳng phải tướng hợp nhất. Người trí thấy rõ chân tâm chính mình, dứt bỏ trần lao, trở về tỉnh giác. Một tâm niệm giác cùng với pháp giới chân không của mười phương chư Phật hợp nhau, đó tức là nghĩa lý tướng hợp nhất. Thiền sư Huyền Giác nói: <I>"Tánh ta cùng hợp với Như Lai".</I> Phàm phu không rõ lý này, tham chấp sự tướng, tự mình vọng chấp chặt tình tâm ý thức cùng hợp với sơn hà đại địa, tường vách ngói gạch, mê mờ đối với chân không lý tánh, như thế tức sai lầm. Lục Tổ nói: <I>"Tâm thấy được điều gì thì chẳng phải là tướng hợp nhất, tâm không thấy có được gì cả tức là tướng hợp nhất".</I>, chính là nói về lý này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay, có những người ngu chẳng hiêurox Phật pháp, ở trong giáo pháp của ta nóicàn: "Vợ chồng là tướng hợp nhất", thật là quá sai lầm! Bởi lẽ, tình cảm vừa sanh, trí tuệ bị ngăn cách; tư tưởng vừa biến hiện, bản thể đã sai khác,bị nghiệp chướng làm lụy, ương họa sâu dày, trái ngược nhân, mê muội quả, hiểu sai lầm Thánh điển, hủy báng làm ô nhục giáo môn. Tịnh nghiệp chánh tông đâu dung thuyết ấy! Người chân thật tu hành, cần giữ vững lòng tin chân chánh, chuyên niệm Phật A Di Đà, ở trong một niệm chẳng vướng vào tướng, nội tâm ngoại cảnh tỏ sáng nhất như, tự nhiên thầm phú hợp với chân lý. Cho nên, thiền sư Phật Quả Khắc Cần dạy chúng rằng: <I>"Mọi người các ông chỉ trong hai mươi bốn giờ, trên chẳng thấy có chư Phật, dưới chẳng thấy có chúng sanh, bên ngoài chẳng thấy có sơn hà đại địa, bên trong chẳng có sự thấy nghe hiểu biết thiện ác, tốt xấu, nhồi thành một khối, mỗi mỗi nêu ra, không còn cái thấy khác".</I> Đó tức là nghĩa lý tướng hợp nhất rõ ràng phân minh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Nguyệt dù thành lửa, nhật thành băng
Ma nào phá được chân giáo thuyết.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó chính là con đường lớn dẫn đến đạo, yếu quyết chân chánh để tỏ ngộ tông chỉ.</P>
senie.gif
</span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>CHƯƠNG 8
<B>BIỆN MINH SONG TU</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Song tu là tu phước và tu huệ. Trong giáo lý nói: <I>"Tu phước không tu tuệ thì mang thân voi được trang sức anh lạc; tu tuệ không tu phước thì La hán chẳng có đầy đủ vật cúng dường. Trang nghiêm cả hai phước và tuệ mới có thể thành tựu chánh giác".</I> Bậc cao đức ngày xưa nói: <I>"Phước không thể không làm, tuệ không thể không học".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Long Thơ Tịnh Độ</I> nói: <I>"Người tu Tịnh Độ tuy chuyên lấy niệm Phật làm sự thực hành, nhưng cũng cần phải gồm tu phước tuệ mới mong được sự, lý dung thông".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bên trong thì tu tuệ hàm dưỡng rốt ráo, thấu suốt cội nguồn, khiến cho trí tuệ tăng trưởng, rộng lớn bao trùm khắp hư không, không việc gì mà chẳng biết, không vật gì mà chẳng chiếu soi. Bên ngoài thì tu phước, từ bi phương tiện, nhu hòa khéo tùy thuận, làm lợi ích giúp đời, thấy tất cả mọi người đều cung kính như nhau, tùy căn cơ thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, làm tất cả việc lành. Đó là phước tuệ song tu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay, có một hạng người ngu, thường thực hành giáo lý khác lạ, dối xưng là đệ tử của Liên tông. Họ chỉ dạy song tu sai trái, âm thầm làm việc dâm dục, tạo nghiệp địa ngục, làm cho người tốt bị mê lầm, chìm đắm trong dục lạc, cam chịu rơi vào vực sâu hiểm ác. Như thế, thật quá sai lầm! Chúng đích thực là loài hồ mị yêu tinh, nào khác gì súc sinh! Kinh <I>Lăng Nghiêm</I> nói: <I>"Nếu các chúng sinh không có tâm dâm thì không theo dòng sanh tử. Ông tu chánh định vốn muốn ra khỏi trần lao mà không trừ bỏ tâm dâm thì trần lao không thể ra khỏi. Dù có nhiều trí huệ ắt phải rơi vào đường ma, thượng phẩm thường làm ma vương, trung phẩm làm ma dân, hạ phẩm làm ma nữ.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Các người tu hành, trước phải đoạn trừ dâm tâm. Đó gọi là lời dạy rõ ràng thanh tịnh quyết định bậc nhất của Thế Tôn và chư Phật thuở trước. Nếu không đoạn dứt dâm dục mà tu về Bồ đề, cũng như nấu cát muốn thành cơm, dầu phải trải qua trăm ngàn kiếp rốt cuộc vẫn chẳng được gọi là cơm. Ông lấy thân dâm dục mà cầu quả Phật nhiệm mầu, cho dù được diệu ngộ nhưng đều là cội gốc của dâm dục. Cội gốc đã là dâm dục thì xoay vần trong ba đường, rốt cuộc không thể thoát ra được. Vậy thì Niết bàn của Như Lai từ con đường nào tu chứng? Thế nên, phải khiến cho sự dâm dục của thân và tâm đều dứt, tánh đoạn dứt cũng không thì đối với quả Bồ đề của Phật mới có thể mong đợi. Như những điều ta nói, đó gọi là lời Phật nói, trái lại tức là lời của ma Ba Tuần.</I><SUP><B>(149)</B></SUP>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay, khuyên Bồ tát tại gia nên y theo giới luật tu hành, đừng phạm vào tà vạy sai quấy, tâm thanh tịnh ít dục, phước huệ song tu, hồi hướng về Tây phương, <I>Long Thơ Tịnh Độ</I> nói:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Tu phước, lại tu tuệ
Tin sâu, niệm Di Đà
Sẽ sinh Thượng Thượng phẩm
Chắc chắn chẳng còn nghi.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu không như thế thì muốn được cơm mà lại nấu cát là phí sức, gánh củi vào lửa nhất định rước họa về thân!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(149) <B>Ma Ba Tuần</B>: Ba Tuần Du, Ba Tỳ (Pāpiyān, Māra Pāpīmān - The evil one, the murderer who wants to kill all goodness) Ma Ba Tuần, Trung Hoa dịch là Ác giả, là người ác; Sát giả, là kẻ giết hại pháp thân huệ mạng của người thiện, kẻ lúc nào cũng theo phá hoại những người thực hành điều lành, tu tập chánh pháp.
<CENTER>CHƯƠNG 9
<B>BIỆN MINH BA XE</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phẩm <I>Thí dụ</I> trong kinh <I>Pháp Hoa</I> nói: <I>"Nếu có những chúng sanh tư nơi Phật nghe pháp tin nhận, ân cần tinh tấn cầu Nhất thiết trí, Phật trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí, giống như những người con kia vì cần xe trâu mà ra khỏi nhà lửa".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nên biết các người con là chỉ cho chúng sanh, nhà lửa dụ cho ba cõi, ba xe dụ cho ba thừa. Như Lai thấy chúng sanh ở trong ba cõi không toát ra được nên nói pháp ba thừa, dẫn dắt khiến họ thoát khổ não. Ví như các người con đùa giỡn trong nhà lửa, Trưởng giả dùng ba thứ xe để dẫn dụ họ thoát ra.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có hạng người ngu mê giả dặt nói rằng: Văn Thù hỏi Phật, vọng bảo: tánh là xe trâu, tâm là xe dê, còn ý là xe hươu. Lại nói xe trâu chở diệu pháp, xe dê chở liên hoa, xe hươu chở kinh. Thật là thượng vị đề hồ hiếm quí trên đời, gặp bọn người này trở thành độc dược.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <I>Pháp Hoa</I> là vua các pháp, được chư Phật hộ niệm, đâu thể bàn luận bừa bãi như thế! Chẳng ngờ tà sư hiểu lầm, lấy quấy làm phải, lấy phải làm quấy, pháp lại nói là phi pháp, phi pháp lại nói là pháp, lừa dối mọi người, hủy báng Phật pháp. Như thế, há chẳng phải là mang tội lớn ngũ nghịch hay sao? Kinh <I>Pháp Hoa</I> nói: <I>"Nếu có người hủy báng kinh này, nên biết người ấy sẽ đọa vào địa ngục A Tỳ đầy đủ một kiếp, hết kiếp lại thọ sanh, lần lượt như thế cho đến vô số kiếp. Từ địa ngục ra sẽ rơi vào loài súc sanh, do hủy báng kinh này nên mắc tội như thế".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xét kỹ những điều này thật đáng xót xa. Vì thế mà tôi dám dùng lời chân thật tuyên cáo thống thiết với các đạo hữu. Nay ở trong tâm của chính mình mà khai thị ngộ nhập Tri kiến Phật thì tâm này thanh tịnh như hoa sen nở, đó gọi là Pháp Hoa Tam muội. Người tỏ ngộ lý này tức là ngồi xe trâu trắng ra khỏi nhà lửa Tam giới. Đâu không thấy thiền sư Pháp Đạt tham kiến Lục Tổ trình kệ:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Tụng kinh ba ngàn bộ
Tào Khê một câu quên
Chưa rõ ý xuất thế
Nào dứt sự điên cuồng.
Dê, hươu, trâu tạm đặt
Đầu, giữa, sau khéo bày
Ai biết trong nhà lửa
Nguyên là bậc Pháp vương.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lúc ấy, Lục Tổ bèn nói bài kệ chứng minh
<p style="padding-left: 65px;"><I>Tâm mê Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa
Tụng lâu không thấu suốt
Nơi nghĩa thành oán thù
Vô niệm, niệm là chánh
Hữu niệm niệm thành tà
Nếu hiểu được như thế
Ngồi mãi Bạch ngưu xa.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu như người mê muội chấp chặt không phản tỉnh tất tự chuốc lấy trầm luân. Tôi chẳng biết làm thế nào nữa!
<CENTER>CHƯƠNG 10
<B>BIỆN MINH BA QUAN ẢI</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ba quan ải là lời dạy chúng của thiền sư Đâu Suất Duyệt:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Nhọc nhằn tìm cầu thiện tri thức chỉ mong thấy tánh. Hiện nay bản tánh của Thượng tọa ở đâu?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Rõ được bản tánh thì phải thoát sanh tử. Lúc sanh tử đến thì làm sao thoát được?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thoát được sanh tử phải biết chỗ đi. Khi tứ đại phân ly thì đi đâu?</I><P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nên, người thấu suốt quan ải, chẳng còn bị ràng buộc bởi sanh tử, người tỏ rõ đạo lý nào này ắt không trở ngại việc đến đi. Do vậy, những tòng lâm trong thiên hạ, các bậc đại Tôn Túc đều xét thấu cội nguồn nên có thể hoàn toàn minh bạch, ý chỉ rõ ràng, quyết không có những thuyết khác lạ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay, có hạng người ngu mê, vọng chỉ ba đơn điền nơi thân người là ba quan ải ở bên trong, dạy người vận chuyển khí huyết gọi đó là thấu qua ba quan ải. Lại nói rằng: từ chân đến hông, ba chỗ đau đớn là ba quan ải ở bên ngoài, vọng lấy chỗ đó mà đoán định lúc lâm chung. Thế gian phần nhiều truyền bá tập làm theo, ai nấy đều đi vào đường tà!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Xét kỹ, giáo lý niệm Phật là pháp môn thẳng tắt, chỉ dạy người tu hành ở trong hai mươi bốn giờ trì niệm một câu A Di Đà, tư tưởng chuyên nhất lặng lẽ, lại có thể soi sáng mình xem cái gì là bản tánh Di Đà của ta, khi tứ đại phân ly sẽ đi về đâu? Thường có mối nghi ngờ này thì một hôm bỗng nhiên rõ được, liền biết chỗ tột cùng. Ngay đó tức là con đường chân chánh tu hành, tỉnh lực trực tiếp. Ngoài chỗ này ra, vừa có dính dáng đến mảy may dị thuyết thì liền rơi vào rừng rậm tà kiến.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Than ôi! Kẻ ngu mê trái chân theo vọng, thật đáng thương xót! Nếu như tin được điều này, cắt đứt dây mơ rễ má, ắt mở sáng con mắt, thấu suốt đất trời, nhìn thấu tâm tưởng là vọng.
<CENTER>CHƯƠNG 11
<B>BIỆN MINH ĐẠI THỪA, TIỂU THỪA</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bậc đại Pháp vương kiến lập sự giáo hóa, thâu nhiếp mọi căn cơ. Mỗi mỗi giáo pháp được lập ra đều có tác dụng, luật Tiểu thừa giống như quyền hạn của lễ bộ hình bộ; Đại thừa giống như đảm trách việc cầm cân nẩy mực để được quân bình; làm những việc phước giống như vị quan trông coi việc vận chuyển lương thực; soạn thuật giống như người nắm giữ lời nói của nhà vua, trăm quan lại trong quốc gia đều thực hành đâu vào đấy, giống như các tông phái trong Phật giáo cùng nhau truyền bá. Nếu hiểu rõ ý nghĩa này, đâu còn chấp vào dị đoan. Cần phải lường xét tài năng của mình, tùy sức truyền bá rộng rãi. Gặp thời làm lành cứu giúp mọi người, lúc khốn cùng chuyên lo tu tập. Tuy ai nấy truyền bá tông phong nhưng đều phát xuất từ lòng từ bi tế độ, đồng trở về biển cả hòa hợp, chung nhau ngồi trên giường giải thoát. Nếu như thế tức là kim chỉ nam trên đường mê, là bậc tuyên dương chánh pháp trong giáo môn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Biết làm thế nào! Nguồn xa dòng khác nên đại đạo lu mờ. Người thích màu đỏ thì ghét màu tía, kẻ ưa ngọt lại ghét đắng, chưa thấu suốt chỗ viên dung, ai nấy đều ở nơi chỗ y cứ của mình mà lường xét. Đâu biết chúng sanh và Phật vốn đồng nhất, bản tánh Thánh phàm bình đẳng, nhưng họ không thể trở về tự tánh bởi do mê muội đối với thân tâm, bị ràng buộc trong sanh tử.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nên biết, sự xấu ác và lỗi lầm của thân nếu không có giới luật không thể kiểm soát, sự hôn trầm và tán loạn nơi tâm, nếu không có thiền định và trí tuệ thì chẳng thể tiêu trừ. Kiếm xét lỗi lầm xấu ác của thân, tiêu trừ hôn trầm tán loạn nơi tâm mà vẫn còn lo đạo không sáng tỏ, chưa thể trở về tự tánh được, huống chi chôn vùi trong đường tà ma, phải quấy lẫn nhau!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hoặc nói rằng: tôi học Tiểu thừa nhưng họ lại chẳng biết trì giới, bố thí, lễ bái, tụng niệm là pháp Tiệm tu. Hoặc nói rằng: tôi học Thượng thừa mà họ chẳng rõ yếu chỉ Di Đà tự tánh, Tịnh Độ duy tâm. Không vướng vào sự tướng thì lại rơi vào không ngơ, giống như kẻ bị mù bẩm sinh, ở vùng sâu xa, ngồi một góc chẳng biết Đông, Tây, Nam, Bắc; vọng sinh phân biệt kia sai đây đúng, kia đúng đây sai. Đó gọi là người nắm chặt đầu rắn chết, sai lầm nơi đường lối tu hành, ở nơi điều xấu ác không chừa việc gì, đối với sự hiểu biết và thực hành lại chẳng thấy gì đáng sợ, cho đến tích tập trở thành tánh, tự hủy diệt thân mình. Lúc mới học thì ngưỡng mộ Thánh hiền, nhưng rốt cuộc lại chìm trong xấu ác. Những kẻ như thế, thật đáng thương xót!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiền sư Vĩnh Minh nói:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Ví như chim sẻ nào biết được tâm tư của thiên nga.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tựa hồ ếch ngồi đáy giếng đâu lường nổi bể khơi rộng lớn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Hoặc theo người khác mong cầu, giống như dùi băng tìm lửa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chỉ trở về chính mình mà hiểu rõ, cũng như từ sữa được tô.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cẩn thận chớ dựng cờ ngã mạn, giăng lưới tà kiến.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khinh lờn bậc tiên giác, làm mê hoặc người sau.</I><P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lời nói ấy thật chí lý, tỏ sáng tợ vầng nhật giữa trời trong. Rộng lớn thay Phật Tổ uy linh! Người thực hành giáo pháp đâu không lo sợ, chỉ cần tin niệm A Di Đà thì có thể tránh khỏi lỗi lầm ấy.</P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>CHƯƠNG 12
<B>BIỆN MINH KHÔNG SINH KHÔNG DIỆT</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Bát Nhã Tâm Kinh</I> nói: <I>"Tướng không của các pháp không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt. Cho nên, ở trong tánh không, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức..."</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <I>Duy Ma</I> còn nói: <I>"Các pháp bất thiện không sanh, pháp thiện không diệt".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nên biết sắc tướng có đến có đi, Phật tánh không sanh không diệt. Nay, có những người ngu mê vọng cho rằng: không sanh con nối dòng đó là chẳng sanh, không dứt đoạn tâm dục đó là chẳng diệt. Họ quấy nhiễu thế gian bằng những lời quái dị, mê hoặc mọi người bằng việc yêu ma, thầm tà dâm với nhau làm việc bất tịnh, đoạn dứt chủng tánh Phật, rối loạn luân thường. Vì thế, kinh <I>Lăng Nghiêm</I> nói: <I>"Thiện nam tử! Tâm ái dục cùng cực thì phát cuồng. Tham dục mạnh mẽ thì có ma dục nhập vào tâm, một mực nói dục là đạo Bồ đề, dạy mọi người cư sĩ hành dâm không phân biệt, làm cho chúng sanh nghi ngờ lầm lạc, đọa vào địa ngục vô gián"</I>. Bởi vì ngu mê chẳng phân biệt tịnh uế, bất giác gặp ma nên mới sinh ra nỗi khổ này. Xét khi trời đất vừa phân chia, có âm dương thì có nam nữ, có nam nữ thì có vợ chồng, có vợ chồng thì có cha con, có cha con tì có vua tôi, có vua tôi thì có đạo Tam cang Ngũ thường<SUP><B>(150)</B></SUP>. Tam cang là bao quát nhân luân đạo đức, Ngũ thường làm chân chánh sự giáo hóa. Đó là pháp kiến lập thế gian của Thánh nhân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tổ Huệ Viễn có nói: <I>"Người tại gia xem trọng thân thể, chăm lo cuộc sống, chưa quên chấp ngã, lấy tình dục làm vườn tược, lấy thinh sắc làm chỗ dạo chơi, say đắm niềm vui ở thế gian không thể thoát ra được. Đức Phật giáo họ trở về cội gốc để tìm cầu tông chỉ, ở tại nhà mà thực hành giáo pháp, chẳng bỏ sót lễ nghĩa, phụng thờ song thân, tôn kính vua chúa. Vì thế trước dẫn dắt bằng năm giới; không giết hại giữ gìn nhân, không trộm cắp giữ gìn nghĩa; không tà dâm giữ gìn lễ, không nói dối giữ gìn tín, không uống rượu giữ gìn trí. Thân tâm đã vâng theo giới luật, sau đó mới dạy giáo pháp xuất thế, bảo tu niệm Phật Tam muội, lấy đó làm đường về Tây phương, đạt đến đạo chẳng sanh chẳng diệt".</I> Do đó, vương thần ngoại hộ, giáo pháp lưu bố khắp cả thiên hạ,ngàn năm cũng như một ngày. Tại sao hiện nay, kẻ tiểu nhân và bậc quân tử lẫn lộn, đậu lúa cùng chung thửa ruộng? Thật không dễ dàng phân biệt!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vì thế, nay tôi dám đem lòng chân thành khuyên bảo khắp tất cả nhưng người có lòng tin. Ngoài việc nhất tâm không loạn, chuyên niệm Phật Di Đà ra, hễ có hình tướng đều là sự hiểu biết tà vạy. Cần phải chính chắn chân thật tu hành, thiện thì theo, ác thì tránh; tà thì dẹp trừ, chánh thì vâng giữ. Còn như việc lập thân hành đạo và ý chỉ dừng tâm thấu suốt cội nguồn, phần trước đã trình bày đầy đủ. Nếu rõ được thì khuôn phép cũng đã nhiều rôi, tuân theo thực hành những điều này tức là quyến thuộc của pháp môn, làm trái ngược tức là đồng bọn với ma; khi sống sa vào vương pháp, lúc chết đọa xuống A tỳ, tai họa đến nhiều đời, đừng bảo là tôi không nói trước. Tại sao? Vì: <I>"Nếu muốn không vướng nghiệp Vô gián, đừng phỉ báng chánh pháp Như Lai".</I><P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(150) <B>Tam cang Ngũ thường</B>: Tam cang hay Tam cương là ba giềng hay ba mối, gồm: Quân thần cang, Phụ tử cang, Phu thê cang.
<p style="padding-left: 69px;">a. Quân thần cang: giềng mối vua tôi.
b. Phụ tử cang: giềng mối cha con.
c. Phu thê cang: giềng mối chồng vợ.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ngũ thường là năm hằng, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
<p style="padding-left: 69px;">a. Nhân: lòng thương người mến vật.
b. Nghĩa: cư xử theo lẽ phải (đạo lý).
c. Lễ<: phép tắc tốt đẹp trong xử thế.
d. Trí: năng lực hiểu biết.
e. Tín: tin tưởng.
<CENTER>CHƯƠNG 13
<B>BIỆN MINH TÀO KHÊ LỘ</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thuở xưa, đại sư Huyền Giác đến Tào Khê lễ bái Lục Tổ được ấn chứng tâm địa. Về sau, ngài sáng tác <I>Chứng Đạo Ca</I>, nói rằng:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Từ khi rõ được Tào Khê lộ
Mới hay sống chết chẳng tương quan.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là nói Thiền tông trong thiên hạ xuất phát từ nguồn Tào Khê, gọi là Tào Khê lộ. Tại sao có kẻ ngu mê lại chỉ bừa thân người có cặp xương sống là song quan, cho đó là một phái Tào Khê? Lại nói càn Lục Tổ bảo rằng:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Thà độ cư sĩ ngàn ngàn vạn
Chẳng độ cửa không nửa ông Tăng.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những kẻ như thế không chỉ làm mê lầm người sau, mà còn vu không cho bậc Thánh thuở trước. Đâu chẳng nghe ngài Huyền Giác nói:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Đầu tiên Ca Diếp đèn tâm truyền
Hai tám đời Tổ sư Tây thiên
Pháp sang Động Độ vào Trung thổ
Bồ Đề Đạt Ma làm sơ Tổ
Sáu đời truyền y, thiên hạ nghe
Người sau được đạo nhiều vô số.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, lẽ nào lại có việc chỉ độ cư sĩ mà không có độ người xuất gia hay sao?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Than ôi! Bọn tà vọng không biết lai lịch, trộm danh của Tổ sư làm thành kiến giải tà ma yêu mị, khiến cho người tốt mê lầm, đúng là kẻ mù dẫn bọn đui kéo nhau vào hầm lửa!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tôi biết đức hạnh chân thật của Tổ sư, vì thế xưng tán truyền bá. Tôi biết tội Xiển đề bạc phước, phỉ báng tông ta, vì thế mà lo sợ. Tôi nay còn biết rất lo sợ, huống chi những kẻ phỉ báng đạo của bậc Thánh sư, lừa dối hậu học, sao lại có thể không lo sợ?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Các ông nên nhanh chóng diệt trừ tà ngụy, sửa đổi thành chân chánh. Chớ để tôi phải thêm xấu hổ!
<CENTER>CHƯƠNG 14
<B>BIỆN MINH PHẬT PHÁP ẨN DẤU</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Phật pháp là đạo xuất thế, là pháp vô vi. Kinh <I>Niết Bàn</I> nói: <I>"Như Lai khai phát hiển bày thanh tịnh không khuất lấp. Người mê không hiểu bảo là dấu kín, người trí thấu suốt thì chẳng gọi là ẩn dấu".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có một hạng người ngu mê nói bừa rằng: "Pháp quan thì rõ ràng, pháp Phật thì ẩn dấu". Ngụy soạn một loạt lời tà, đóng cửa truyền trao, gọi đó là quyển sách huyền bí về sanh tử (sanh tử áo điển). Họ làm mê hoặc người sau, đến chết cũng không nói cho người rõ, cho nên lúc sắp lâm chung, kéo dài dây dưa. Giống như người nghèo nhặt được một miếng thiết mà gọi là vàng ròng, ở trước người sáng mắt làm sao dám đưa ra? Tự không biết sai lầm mà còn khoe khoang hiểu biết, đúng là lừa dối người khác lại còn tự lừa dối mình! Đâu biết, Phật nói tất cả pháp để độ tất cả tâm, bởi tâm thể của chúng sanh vốn đồng nhất nhưng tác dụng không giống nhau, nên đức Phật mới nói ra tất cả pháp. Tổ sư cũng nói: <I>"Bình, mâm, nhẫn, xuyến vốn cùng một chất vàng; danh tướng bất đồng, bản thể không hai".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Than ôi! Thời mạt pháp phát sanh nhiều sự gian tà, thường thường bỏ mất bản thể, trao chuốt lời nói khéo léo, làm dáng làm vẻ lừa dối người đời. Một khi sự tà ngụy đã lưu hành, mọi người không thể phân biệt rõ được những điều chân thật. Huống chi, những kẻ ưa lợi nhỏ, lúc đến cửa hàng của người, chẳng chọn tốt xấu, chỉ mong đẹp rẻ, dễ dàng bị kẻ khác lấy tro trét mặt, lôi vào chỗ tối, tráo đổi món đồ. Đến khi mở mắt ra thì trong tay chỉ là đất sét. Như thế còn không nhận ra, nói gì đến việc phân biệt vàng thau thật giả! Kẻ ngu vừa nắm được, liền âm thầm che dấu, cho là vật quý báu lạ kỳ sợ người khác biết. Bỗng nhiên gặp phải một người trí thức, bị họ chỉ rõ ra, chừng đó mới hay chẳng đáng một đồng tiền. Những hạng người như thế rất nhiều. Chỉ vì ngu mê phước mỏng, mắt không sáng nên một đời nghèo khó, tâm thô tháo lỗ mãng, bởi do không gặp được bậc thầy chân chánh nên mới như thế. Đâu biết rằng, chất vàng ròng để làm nhẫn xưa nay vốn đã có. Nếu không gặp thợ giỏi nung luyện, đập nện manh mẽ, rèn dũa một phen, làm sao thấy được tính chất mềm dẻo của vàng lấp lánh sáng chói một khối, toàn thể đều là nguyên chất, sau đó mới tùy ý tạo ra món đồ mình muốn. Ánh sáng lấp lánh của nó chói mắt người, mãi không đổi sắc. Còn những điều khác không cần nói, đâu chẳng phải là báu vật quý nhất sau! Người tu có lòng tin chân chánh cần phải lưu tâm.
<CENTER>CHƯƠNG 15
<B>BIỆN MINH ÁNH SÁNG VƯỢT HƠN NHẬT NGUYỆT</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <I>Vô Lượng Thọ</I> nói: <I>"Ánh sáng của Phật A Di Đà vô cùng rộng lớn, là vua trong tất cả ánh sáng của chư Phật. Cho nên ngài có hiệu là Phật Vô Lượng Quang, Phật Vô Biên Quang, Phật Vô Ngại Quang, Phật Vô Đối Quang, Phật Diệm Vương Quang, Phật Thanh Tịnh Quang, Phật Hoan Hỷ Quang, Phật Trí Huệ Quang, Phật Nan Tư Quang, Phật Bất Đoạn Quang, Phật Vô Xưng Quang, Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ánh sáng của ngài chiếu soi khắp cả thiên hạ, tận những nơi âm u tăm tối, làm cho đều được sáng tỏ. Chư Thiên, loài người, cầm thù, các loài bò, bay, máy, cựa thấy ánh sáng này ai nấy đều vui mừng phát sanh lòng từ, đều được giải thoát. Thế nên, chư Phật, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác ở khắp mười phương cùng chung khen ngợi. Nhân đó ngài có tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang (đức Phật có ánh sáng vượt hơn ánh sáng của mặt trời, mặt trăng). Bởi vì mặt trời hay chiếu sáng ban ngày, mặt trăng hay tỏ rạng lúc ban đêm, tác dụng của chúng không toàn vẹn. Ánh sáng của Phật ngày đêm thường tỏa chiếu không thiếu sót, cho nên gọi là ánh sáng vượt hơn ánh sáng mặt trời, mặt trăng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay, có bọn người ngu mê, chỉ dạy bậy bạ cho người, khi mặt trời, mặt trăng mọc, dùng miệng hớp lấy ánh sáng nuốt vào bụng, muốn ánh sáng ấy trở thành vật báu. Lấy đó làm pháp môn bí mật của sự tu hành, gọi là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Như thế, thật rất sai lầm! Ví như vượn ngu buộc chặt hai tay mà leo lên cây bên bờ vực thẳm, xuống ao nước mò bắt bóng trăng, chỉ lao công phí sức, rốt cuộc chẳng được gì. Nếu là người trí quán xét thấu suốt, nên nhanh chóng rời bỏ, sớm tìm cầu chánh pháp để khỏi rơi vào bến mê, chuyên niệm Phật A Di Đà, cứu xét rõ tâm địa.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đâu chẳng thấy Tổ sư nói: <I>"Những thứ từ cửa mà vào, chẳng phải vật báu nhà mình. Linh quang của chính mình chiếu soi trời đất, ở nơi mỗi người vốn đã thành tựu trọn vẹn".</I> Một điểm linh quang không trong không ngoài, hiển bày khắp nơi, sáng tỏ ngay trong sự vật. Nếu có thể ngộ chỗ này, tức là một luồng ánh sáng vượt hơn mặt trời, mặt trăng của Như Lai.
<CENTER>CHƯƠNG 16
<B>BIỆN MINH HẠT CHÂU TRONG BÚI TÓC</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <I>Pháp Hoa</I> có nói về hạt châu trong búi tóc: <I>"Như vua Chuyển Luân được cõi nước pháp. làm vua trong ba cõi mà các Tiểu vương không chịu thuận theo khuất phục. Bấy giờ, vua Chuyển Luân dấy binh sáng thảo phạt. Những người chiến đấu có công thì ban thưởng cho mọi thứ, riêng có một hạt châu trên đỉnh đầu của nhà vua là không ban cho. Sau cùng nhà vua mới giao phó. Đức Như Lai cũng như vậy, thấy quân Hiền Thánh cùng ma ngũ ấm, ma phiền não, ma chết đánh nhau, diệt ba độc để ra khỏi ba cõi, phá tan lưới ma. Khi ấy đức Như Lai rất hoan hỷ vì họ nói các pháp nhưng không nói kinh Pháp Hoa này, đến hôm nay mới nói. Cũng như vua Chuyển Lân giữ gìn hạt minh châu đã lâu, cuối cùng mới trao cho".</I><P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là vì sau cùng Thế Tôn mới nói về pháp bảo Đại thừa, vượt lên trên các bậc Thánh, nên lấy hạt minh châu trong búi tóc của vua Chuyển Luân làm ví dụ. Hạt châu đó là trí tuệ viên mãn của chư Phật, chínhlà lý tánh của chúng sanh. Tỏ ngộ chỗ đó thì nhanh chóng vượt qua ba A tăng kỳ kiếp, mê lầm nơi đó thì trầm luân trong sáu nẻo.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay, có một hạng người ngu mê hiểu sai ý chỉ của kinh, vọng lấy việc vận khí vào đỉnh đầu làm hạt châu trong búi tóc, gọi là pháp Tối thượng thừa. Âm thầm truyền trao cho nhau, dạy người chuyển tinh vận khí đưa lên đỉnh đầu, muốn được như đức Thế Tôn trên đảnh có Châu nhục kế. Tại sao lại ngu muội đến thế? Đâu chẳng biết nhục kế của Thế Tôn là vô kiến đảnh tướng, biểu tượng cho đại pháp Nhất thừa. Vô kiến là tự mình không thể thấy, vì lìa cái thấy về mình. Khuôn phép cùng cực hướng thượng, các bậc Thánh đều không thấy được, vì rời cái thấy về người khác. Trong bài Phú về Tâm, thiền sư Vĩnh Minh nói: <I>"Pháp tòa cao lớn, Thanh văn thấp kém chẳng thể bước lên. Vầng nhật chói chang, ngoại đạo, trẻ con làm sao thấy được. Không thiên không lệch, chí cực chí tôn".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Than ôi! Kẻ ngu si chẳng biết chánh pháp, điên đảo sai lầm rối loạn, gieo tai họa tới người sau, lừa dối những người phàm phu lương thiện, làm họ rơi xuống hố sâu. Thật đáng tiếc thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay, tôi khuyên những người có lòng tin, nên cứu xét giáo lý căn bản một cách chính chắn, dốc lòng niệm Phật, hối lỗi, hiểu rõ những việc sai lầm thuở trước, thấu suốt các pháp vốn không, hạt châu trong búi tóc tự nhiên hiển hiện. Rõ ràng riêng hiển lộ, đâu nhờ tìm cầu ở nơi người khác!
<CENTER>CHƯƠNG 17
<B>BIỆN MINH QUẢ VÔ LẬU</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Kinh <I>Pháp Hoa</I> nói: <I>"Các lậu đã hết, không còn phiền não".</I> Đó là sự tu hành của bậc Thanh văn La hán đạt đến chỗ tập khí hữu lậu đều không còn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vô lậu là do sáu căn của con người thường bị sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp làm mê hoặc. Tâm theo cảnh chuyển làm duyên hữu lậu, cho nên dòng luân hồi không ngừng nghỉ. Nếu sáu căn hành giả tự lặng lẽ, không bị sáu trần lay chuyển tức là vô lậu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay, có một hạng người ngu mê, vọng đem ghèn và nước mũi nuốt hết, gọi đó là tu vô lậu. Tại sao lại ngu xuẩn đến thế? Tôi từng thương xót hỏi họ rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Sáu căn bốn đại là bao máu mũ, là hang ổ của phân tiểu, ghèn, nước mắt, nước mũi đều thuộc là nhơ nhớp, tại sao lại lấy ăn?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Họ đáp rằng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Trong thân người có bảy thứ quý báu không thể vứt bỏ. Người khéo tu tập sẽ kết thành xá lợi, chứng quả vô lậu.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khổ thay! Khổ thay! Điên đảo như thế thật là không chịu nổi?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại có một hạng người lấy việc bí tinh làm vô lậu, lẫn lộn vào trong giáo pháp ta, lần lượt truyền trao tập theo, ngấm ngầm tham dục, làm bại hoại chánh pháp. Đó là yêu tinh quỷ quái đêm tụ ngày tan, là bọn ăn rau thờ ma, chẳng phải là đệ tử của Liên tông.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Những năm gần đây, có nhiều dạng như thế, làm loạn động mọi người. Kẻ nam nử có lòng tin trong sạch chẳng hay chẳng biết bèn đi vào đường ma. Thế nên, kinh <I>Lăng Nghiêm</I> nói: <I>"Này thiện nam tử! Cội gốc của tâm đi soi xét tận cùng sự biến hóa của mọi vật. Thiên ma được tiện lợi, loài phi tinh dựa vào người, nói Niết bàn của Phật là nhục thân hiện tại. Cha cha, con con lần lượt sinh nhau từ đời này sáng đời khác thường còn chẳng dứt, không có nơi tinh sạch nào khác. Kẻ ngu tin nhận, quên mất bản tâm, mê hoặc cho người ấy là Bồ tát. Họ thường nói mắt, tai, mũi, lưỡi đều là Tịnh Độ, hai căn của nam nữ tức là Bồ đề, hoặc ăn phân tiểu, thực hành rộng rãi việc dâm dục nhơ uế. Những kẻ vô tri tin theo lời xằng bậy này nên dễ đi vào hiểu biết tà vạy, đó gọi là thuốc độc. Ác quỷ não loạn những người ấy, thầy và đệ tử đều bị pháp luật trừng trị. Ông nên biết trước điều này để chẳng đi vào luân hồi. Mê hoặc không hiểu biết thì rơi vào địa ngục Vô gián, khi họ hết nghiệp trong địa ngục lại đi vào loài súc sanh, ngạ quỷ".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay, xét những bọn tà sư làm bậy, giả danh là giáo pháp của Phật Tổ mà tạo nghiệp ác bất tịnh, trái với nhị nghi, ngược với tam quang, phỉ báng Phật Tổ, phá hoại luân thường, lăng xăng như loài dòi ở trong phẩn uế. Hiện tại bị nhiều đau khổ, sau khi chết rơi vào trầm luân, quả báo tội lỗi ấy làm sao thoát khỏi? Điều đó chẳng có gì là? Không chỉ sau khi chết bị quả báu mà hiện tại, pháp luật cũng chẳng dung tha. <I>Luận Ngữ</I> nói:<I>"Dùng chánh trị để giáo hóa nhân dân, dùng hình phạt quản lý nhân dân, làm như thế nhân dân chỉ nghĩ làm sao để tránh khỏi hình phạt mà không nghĩ đến đáng xấu hổ hay không xấu hổ. Dùng đức hạnh giáo hóa nhân dân, dùng lễ trông nom nhân dân, thì nhân dân không chỉ giữ gìn pháp luật, biết hổ thẹn, mà có thể sửa đổi hướng thiện".</I> Lời nói ấy rất đúng.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay, tôi khuyên những người lành nên xét kỹ lời dạy của bậc Thánh, tự mình phải biết hổ thẹn,lo sợ sửa đổi lỗi lầm, giảm bớt tình cảm, tuyệt dứt lo nghĩ, sửa mình chân chánh để tu hành. Nếu có thể dùng lời dạy của người xưa để soi rọi tâm tư mình tự nhiên sáng tỏ, gương xưa chiếu yêu, yêu tinh tự hiện nguyên hình. Nếu chuyên tinh nơi tịnh hạnh ắt tiến đến Bồ đề, quyết không lầm lẫn. Còn như không làm theo đây thì:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Biển nghiệp Tam đồ không bờ mé
Ngàn Phật ra đời khó cứu ông.</I></P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>CHƯƠNG 18
<B>BIỆN MINH TRÀ TRIỆU CHÂU</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thuở xưa, hòa thượng Triệu Châu thấy vị tăng, bèn hỏi:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Ông từng đến đây chưa?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vị Tăng thưa:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Đã từng đến.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Triệu Châu bảo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Uống trà đi!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại hỏi một vị Tăng:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Đã từng đến đây chưa?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Vị Tăng thưa:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Chưa từng đến.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Triệu Châu bảo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Uống trà đi!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Viện chủ hỏi:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Người đã từng đến thôi không nói. Người chưa từng đến đây sao ngài cũng bảo uống trà đi?
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Triệu Châu bèn gọi:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Viện chủ!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Viện chủ:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Dạ!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Triệu Châu bảo:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">- Uống trà đi!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong tòng lâm, nhân đó có công án uống trà của ngài Triệu Châu. Nay có kẻ ngu mê không rõ ý chỉ của Tổ sư, vọng tự tạo tác đem nước miếng trong miệng súc ba mươi sáu lần rồi nuốt, gọi là uống trà Triệu Châu. Hoặc có người sắp lâm chung, họ vọng chỉ dạy dùng mạt châu sa pha vào một chung trà rồi uống liền có thể chết, cho đó là thể hội ý chỉ của Triệu Châu. Thật đáng thương xót!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại có một bọn ma, lấy nước tiểu làm trà Triệu Châu. Tại sao lại ngu mê đến thế? Họ quả thật là loài yêu quái.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người tu tâm chân chánh chỉ y theo bổn phận mà niệm Phật cầu sanh về Tịnh Độ, quyết không nên vọng đem những công án của Tổ sư bịa dặt gán ghép, đó là tội nhân hủy báng Đại Bát Nhã. Đâu không thấy nói:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Dù cho tan thân ngàn muôn kiếp
Chớ đem Phật pháp loạn truyền trao.</I>
<CENTER>CHƯƠNG 19
<B>BIỆN MINH GIÁO NGOẠI BIỆT TRUYỀN</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiền sư Viên Ngộ nói: <I>"Đức Phật ra đời ở nước Ta Tỳ La Vệ, dùng vô biên diệu dụng dẫn dắt chúng sanh, phương tiện thuận nghịch, khai mở ngăn chận, kinh điển để lại đầy dẫy trong Đại Tạng. Đến sau cùng mới lộ bày ra một cơ phong, gọi là truyền riêng ngoài giáo lý (giáo ngoại biệt truyền)".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Từ khi ngài Ca Diếp mỉm cười tiếp nhận đến nay, sáng tỏ lâu dài. Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, chẳng lập thứ bậc, không sanh tri kiến. Bậc lợi căn thượng trí nhanh chóng vượt qua hang ổ vô minh, mau chóng thoát khỏi cội gốc phiền não, tức thời chứng ngộ được đại giải thoát. Hai mươi tám vị Tổ Ấn Độ<SUP><B>(151)</B></SUP>, sáu vị Tổ Trung Hoa<SUP><B>(152)</B></SUP> đều là bậc long tượng, tiếp độ hàng thượng căn. Thầy hay trò giỏi lãnh hội ở ngoài cung cách bình thường, ngay đó nghiệp chướng tiêu tan, tức thời nhận lấy. Tự nhiên có thể nhồi thành một mảnh, nhanh chóng khế hợp địa vị Phật, như thế còn chẳng chịu trầm mình trong ao tù nước đọng. Các ngài lại hát câu thấu huyền diệu, vượt qua Phật Tổ, chặt đứt dây sắn dây bìm, như cầm kiếm Thái A lẫm liệt thần uy, ai dám tới gần! Bậc thiền sư chứng ngộ luận bàn xác thật, mới có tác dụng luận bàn huyền diệu, hướng thượng hướng hạ. Vừa có mảy may liền bị quát, mà bảo rằng chẳng phải là người kế thừa, ngay đó thành tựu trọn vẹn. Rèn luyện thành thục, thực hành chân thật mới tạm tha cho, còn e sau này họ gặp cảnh duyên ép bức không vượt qua được, đôi mặt chân chánh bị mù tối.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Than ôi! Tôi thấy có một giống chồn mù, chưa từng mộng thấy Tổ sư mà nói bừa Tổ Đạt Ma đi về không, bảo đó là "truyền pháp cứu mê tình". Thậm chí mượn danh các bậc đại tông sư như Mã Tổ, Triệu Châu để lừa gạt người sau. Còn khoe khoang Sơ Tổ quảy dép về Tây, ngài Phổ Hóa để quan tài trống mà siêu thoát. Bảo rằng những thuật ấy đều có hiệu nghiệm, gọi là pháp bí mật của sự sanh tử, hình (thân), thần (tâm) đều mầu nhiệm, lần lượt truyền trao tập theo, mọi người đều rất ưa thích. Lo lắng lúc sắp chết hoảng sợ, tranh nhau học phương pháp trở về. Đêm giao thừa lạy bóng mình kêu chủ nhân ông, thật là dối gạt xóm làng, bày điều bịa đặt, làm cho bậc Cao nhân chê cười!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại có một hạng giả mượn danh kế thừa Tổ Đạt Ma, trao truyền "Thập Nhị Thời Biệt Ca" của ngài Triệu Châu, "Chuyển hằng Sa Tụng" của cư sĩ Bàng Uẩn, thầm trao truyền giữ, mong được sinh lên cõi trời, còn muốn biết trước ngày chết. Hoàn toàn chẳng hay đó là vọng tưởng, tâm tà ác kiến. Quả thật vốn là nhân lành, lại chuốc quả ác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thấy phần nhiều những kẻ hào kiệt bàn luận cao xa, chẳng biết căn do của tông môn, thường thường tin theo. Đâu biết, bắt chước người khác không thành, trái lại mất đi kỹ năng của mình, vẽ cọp thành chồn! Người sáng mắt xem thấy âm thầm thương xót, lẽ nào thể chế của chư Phật và Tổ sư chỉ thế thôi sao? Rõ ràng có thể biết được, chẳng từng tự mình soi xét lại gốc ngọn. Rất nhiều người học theo đây, tập tành trở thành phong trào, thản nhiên chẳng biết đó là quái dị. Người hiểu biết sâu rộng ắt chẳng chạy theo, chỉ e rằng người hiểu biết chưa sâu, lập chí tuy chuyên, dù đã từng trải nhưng gặp kẻ tăng thượng mạn này dẫn vào rừng rậm tà kiến, một sai lầm ban đầu, mãi mãi không sao xoay lại. Những tai hại này lan tỏa rộng lớn chẳng thể ngăn chận, do đó tôi mới thốt lên những lời này để nói cho mọi người thấy rõ. Mong rằng, người có chí nguyện nơi đại giải thoát, đại tổng trì, có thể phân biệt rõ ràng, cùng vào biển cả Nhất thiết chủng trí, dong thuyền từ tiếp độ muôn loài, làm cho đạo nhiệm mầu chân chánh lưu truyền đến vô cùng tận. Như thế, thật thỏa chí lắm thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(151) <B>Hai mươi tám vị Tổ Ấn Độ</B>: Hai mươi tám vị Tổ sư của Thiền tông Ấn Độ. Đó là:
  1. Ma Ha Ca Diếp.
  2. Tôn giả A Nan.
  3. Thương Na Hòa Tu
  4. Ưu Ba Cúc Đa.
  5. Đề Đa Ca.
  6. Di Già Ca.
  7. Bà Tu Mật.
  8. Phật Đà Nan Đề.
  9. Phục Đà Mật Đa.
  10. Hiếp Tôn Giả.
  11. Phú Na Da Xá.
  12. Mã Minh đại sĩ.
  13. Ca Tì Ma La.
  14. Long Thọ đại sĩ.
  15. Ca Na Đề Bà.
  16. La Hầu La Đa.
  17. Tăng Già Nan Đề.
  18. Già Da Xá Da.
  19. Cưu Ma La Da.
  20. Xà Dạ Da.
  21. Bà Tu Bàn Đa.
  22. Ma Noa La
  23. Hạc Lặc Na.
  24. Tôn giả Sư Tử.
  25. Bà Xá Tư Đa.
  26. Bất Như Mật Đa.
  27. Bát Nhã Đa La.
  28. Bồ Đề Đạt Ma (kiêm sơ Tổ ở Trung Quốc).
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(152) <B>Sáu vị Tổ ở Trung Hoa</B>:
  1. Bồ Đề Đạt Ma (? - 532).
  2. Huệ Khả (487-593).
  3. Tăng Xán ((?-606)
  4. Đạo Tín (580-651).
  5. Hoằng Nhẫn (601-674).
  6. Huệ Năng (638-713).
<CENTER>CHƯƠNG 20
<B>BIỆN MINH ĐÓNG CÁC NẺO ÁC
KHAI THỊ ĐƯỜNG NIẾT BÀN CHÂN CHÁNH</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cửa của các đường ác chính là ba nghiệp thân, miệng, ý, nghĩa là thân sát sanh, trộm cướp, tà dâm; miệng nói dối, nói lời ác, nói lời thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều; ý tham lam, sân hận, si mê. Người tu Tịnh nghiệp tâm chân chánh hướng về đạo, đoạn dứt mười hành vi bất thiện nói trên thì không còn đi vào đường ác, gọi đó là đóng cửa các nẻo ác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Khai thị là chỉ ra, Niết bàn là chẳng sinh, chẳng diệt, chân chánh là con đường không nghiêng lệch, tức con đường Tây phương.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay, có người ngu muội bảo rằng: miệng là cửa của các điều ác, mũi là con đường Niết bàn. Dạy người sắp lâm chung, đóng chặt miệng lại khiến cho khí ra nơi mũi, gọi là một bước ra cửa. Lại vọng đem chữ "À" làm công án, dạy người dốc sức dẫn khí vào trong miệng để thấu qua cửa ải này. Hoặc bảo rằng bốn nét bao quanh chữ "À" là tửu, sắc, tài, khí, hoặc đất, nước, gió, lửa, hoặc nói sanh, già, bệnh, chết... tất cả đều là những lời nói suy đoán lường xét bừa bãi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Than ôi! Một chữ "À" này lừa dối biết bao nhiêu người. Đâu biết rằng chữ này trong sách <I>Ngọc Thiên</I> ghi rõ là "hộ ngọa thiết", tức là chữ "A khứ thinh". Chữ "À" này trong miệng của tất cả mọi người đời đều có nói. Như kẻ bị thất lạc người hoặc đồ vật bỗng nhiên tìm thấy, bất giác phát ra một tiếng này, đó là chữ "À". Trong tông môn, phần nhiều nói chữ này là vì người tìm thầy hỏi đạo, tham cứu hai ba mươi năm, bỗng nhiên phát hiện bản tâm, thể hội được việc này, chợt kêu lên một tiếng "À". Như khi bị mất đồ vật mà tìm thấy được, thỏa thích cả đời, chính là ý nghĩa của chữ này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế thì, người niệm Phật chỉ ở trong mỗi niệm chính chắn thể cứu bản tánh Di Đà, bỗng nhiên tự thân rõ ngộ, tận mắt thấy. Thật sự đến chỗ "À" một tiếng thì tự nhiên thấu suốt. Thế nên, thiền sư Vĩnh Minh nói:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Ngoài tâm cầu pháp, mong thạch nữ sanh con
Trên ý nghĩ suy, mong hoa trong hư không kết trái
Vốn chẳng hữu tác, tánh tự vô vi
Người trí chẳng thể vận dụng ý nghĩ
Thợ đắp tượng đâu thể tạc dung nghi
Ngôn ngữ không còn, đó là ngày được lối về
Tâm tư bặt dứt, chính là lúc xả thân bỏ mạng.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, có thể gọi là:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Chỉ một việc này thôi
Hai thứ chẳng phải chân.</I>
<CENTER>CHƯƠNG 21
<B>BIỆN MINH BỐN LOÀI CHÚNG SANH</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thiền sư Đại Châu Huệ Hải nói: <I>"Chín loài chúng sanh trong một tâm đều đầy đủ, tùy theo sự tạo tác mà thành. Vô minh che đậy là nõan sanh; phiền não bao bọc là thai sanh; nước ái thấm nhuần là thấp sanh; chợt khởi vọng niệm là hóa sanh. Ngộ thì thành Phật, mê tức chúng sanh. Bồ tát chỉ lấy mỗi niệm trong tâm là chúng sanh, nếu rõ tâm thể rỗng lặng gọi là độ chúng sanh. Người trí hóa độ chúng sanh trong bản tâm mình lúc chưa thành hình. Khi chưa thành hình đã thấu suốt là không, biết rằng thật sự không có chúng sanh nào được diệt độ".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Có một hạng người ngu mê chẳng biết tự tâm, suy xét bừa bãi, vọng nói lúc lâm chung mắt thấy xe ngựa, lâu đài, tràng phan, não bạc là những thứ dẫn dắt đi vào bốn loài sáu nẻo. Nếu không đi theo chúng thì thoát khỏi bốn loài.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đâu chẳng biết, những cảnh hiện ra lúc lâm chung là tướng nghiệp thiện ác đã làm nơi thường ngày, thần thức tự hiện thì chẳng phải là ở bên ngoài đến. Cho nên bậc cao đức nói: <I>"Làm ác thì cảnh ác hiện ra, niệm Phật thì cõi Phật tự đến"</I>. Nếu trong lúc ấy nắm không chặt, không làm chủ được, thường bị vọng tưởng đảo điên sai khiến, ngay khi gió lửa tan rã thì như con cua bị rơi vào nối nước sôi, đâu thể làm chủ được. Do đó, thiền sư Khuê Phong nói:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Làm việc có nghĩa
Là tâm tỉnh ngộ
Làm việc vô nghĩa
Là tâm cuồng loạn
Cuồng loạn theo tình niệm
Lâm chung bị nghiệp lôi
Tỉnh ngộ không theo tình
Lâm chung hay chuyển nghiệp.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay lấy lời này nói thẳng với mọi người, nên tự nghĩ rằng: <I>"Tôi nay tu hành Tịnh nghiệp vốn vì sanh tử, Phật Tổ dạy bảo đâu có lừa dối chúng ta".</I>Nên y theo chánh pháp mà chân thật giữ gìn tâm ý, chuyên niệm Phật A Di Đà, trừ bỏ sự giả dối. Sóm tối nghĩ tưởng, mỗi niệm mỗi niệm nguyện sanh về Tây phương. Như thế, trần lao nghiệp thức ngay đó tiêu tan chẳng còn sanh khởi. Xét lại sự tử sanh của chính mình còn không thật thì gọi cái gì là chúng sanh? Vì thế, trong <I>Văn Sám</I> nói: <I>"Ở trong một niệm được niệm Phật Tam muội, độ khắp tất cả chúng sanh trong sáu nẻo mười phương, ai nấy thoát khỏi nỗi khổ luân hồi, đồng vãng sanh Tịnh Độ".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Như thế, thật đáng gọi là:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Chỗ không vọng tâm tức Bồ đề
Sanh tử, Niết bàn vốn bình đẳng.</I></P>
senie.gif
</span></span>
 

Tuấn Tú

Registered
Phật tử
Tham gia
18 Thg 1 2013
Bài viết
1,071
Điểm tương tác
293
Điểm
83
<span style="font-family: Times New Roman; font-size:16pt"><span style="color: blue;">
<CENTER>CHƯƠNG 22
<B>PHÁ DẸP VIỆC LẬP MƯỜI HIỆU SAI LẦM</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Văn Tây Phương</I> nói: <I>"Người niệm Phật ở trong ánh sáng tướng hảo được thấy Phật A Di Đà thì nhanh chóng phá trừ vô minh, dứt hẳn phiền não, bỗng nhiên thông suốt môn pháp giới, nhanh chóng khai sáng được Nhất thừa, đầy đủ mười hiệu, trọn vẹn ba thân".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đó là nói rõ người tu hành chứng được quả Phật ăst đầy đủ mười hiệu. Mười hiệu này nơi kinh <I>Bồ Tát Giới</I> nói:
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">1. Như Lai: nghĩa là không giả dối.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">2. Ứng cúng: nghĩa là mảnh đất phước tốt lành.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">3. Chánh Biến Tri: nghĩa là thấu suốt pháp giới.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">4. Minh Hạnh Túc: nghĩa là đầy đủ Tam Minh (Thiên nhãn trí minh, Túc mạng trí minh, Lậu tận trí minh).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">5. Thiện Thệ: nghĩa là không trở lại.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">6. Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ: nghĩa là biết rõ hai thế gian, một là thế gian quốc độ, hai là thế gian chúng sanh
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">7. Điều Ngự Trượng Phu: nghĩa là hay điều phục chúng sanh khác.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">8. Thiên Nhân Sư: nghĩa là mắt sáng cho chúng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">9. Phật: Nghĩa là biết rõ pháp thiện và bất thiện, pháp chẳng thiện và pháp chẳng phải chẳng thiện.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">10. Thế Tôn: nghĩa là trong một cõi không có hai Phật.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tại sao người ngu không biết Phật pháp, vọng lập ra quy trình mười hiệu, gọi là pháp bí mật về sự sanh tử của đại sư Đạt Ma truyền sang? Lại bảo rằng ổ chim quán đảnh, cỏ lau xuyên gối, cột ngọc hỗn tạp, rắn bò vào quần, Ba Tư dâng báu, trống trời không vang, ao sen khô nước, Nhị Tổ chặt tay, đứng ngoài trời đến khi tuyết phủ tới hông, thần quang chẳng hiện, gọi là đại sự nhân duyên. Đệ tử Liên tông thường bị bọn thầy mù này lần lượt truyền trao, lừa dối mọi người, từ nơi tối vào chỗ tối, rơi vào con đường sai lầm. Tại sao lại không xét suy cho thật kỹ? Đại sư Đạt Ma ban đầu đến đây không lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Sao lại có một pháp để truyền trao. Đâu chẳng nghe, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn bảo Lục Tổ rằng: <I>"Phật dung tâm truyền tâm, pháp là dung tâm ấn tâm. Phật Phật chỉ truyền bản thể, thầy thầy thầm trao bản tâm".</I> Đây chính là nói ý này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trang Tử bảo: <I>"Giả sử Đạo có thể truyền cho người thì ai ai cũng truyền cho con cháu. Nếu Đạo có thể dâng hiến cho người thì ai cũng dâng hiến cho vua chúa và người thân. Đạo sở dĩ không truyền trao và dâng hiến cho người khác bởi vì trong không có chủ, còn bên ngoài không có người chứng nhận".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại từng nghe, Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni trải qua ngàn đời rèn luyện đức hạnh, trăm kiếp tu tâm, mới từ trời Đâu Suất giáng sanh xuống vương cung, bỏ vinh hoa phú quí, lên núi Tuyết tu hành, ăn lúa, ăn mè, sáu năm khổ hạnh, thấy sao sáng ngộ đạo thành Phật. Trong loài người, trong hàng Thánh, ngài được tôn xưng là bậc Đại giác, đầy đủ mười hiệu, làm thầy trời, người. Đến như việc chim làm tổ trên đầu, cỏ lau mọc xuyên qua gối, đều là sự thật khi xưa. Ban đầu không phải pháp biểu trưng, chỉ ngồi im không động, định lâu nên quên thân thể.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Người học sau này không gần gũi bậc trí tuệ, chẳng thể hội sự kiến lập giáo môn của Phật, hoàn toàn chẳng phải là dễ dàng. Họ mới vừa tu học mà chẳng học tập hạnh nguyện, sự thấy biết đều không có nhưng lại muốn làm thầy tiếp độ đệ tử, làm ra dáng vẻ to lớn, khoe khoang tài năng của mình, đi vào trong bọn tà ma, học những pháp tà của họ, tạp độc nhập tâm, như quỷ rơi xuống nước, ở chỗ tối tăm kéo người xuống địa ngục. Thật khổ thay! Khổ thay!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Lại như Nhị Tổ chặt tay dứng ngoài tuyết ngang đến hông, chính là ý chí mãnh liệt vì pháp quên thân trong lúc ấy. Trong sử còn ghi chép đầy đủ rõ ràng, người học nên tự cứu xét tường tận, đâu nên làm bừa mà cam chịu tội lỗi hủy báng chánh pháp, mãi mãi đắm chìm trong biển khổ. Thiền sư Huyền Giác nói:
<p style="padding-left: 65px;"><I>Sai chẳng sai, đúng chẳng đúng
Lệch một đường tơ đi ngàn dặm
Đúng tức Long nữ chóng thành Phật
Sai thì Thiện Tinh rơi địa ngục.</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mọi người có tin hay không?
<p style="padding-left: 65px;"><I>Dốc lòng dẹp sạch vật trong nhà
Cây sắt trổ hoa xuân riêng biệt.</I>
<CENTER>CHƯƠNG 23
<B>THỆ NGUYỆN LƯU THÔNG</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Một niệm ban đầu vốn từ nơi Tịnh Độ mà đến, nhiều đời chìm đắm chưa thoát khỏi thế giới Ta Bà. May gặp Liên Xả, hội ngộ Chánh tông, nhờ ân đức Tam Bảo, thấm nhuần lời giáo hóa của Đạo sư.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Trong giáo môn có nhiều người lầm lối tu hành. Than ôi! Những người có lòng tin đều trở thành dân ma, những kẻ lương thiện đều rơi vào đường tà, chánh nhân bị tiêu diệt, huệ mạng khó bảo tồn, lại chuốc lấy tội lỗi hủy báng giáo pháp, làm sao có được công đức lớn trì tụng, thấy cảnh này thở ngắn than dài, đau xót thân tâm không chịu được.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thế nên, tôi mới rút ra yếu chỉ trong Đại Tạng dùng để chứng minh cho tông này, dẹp trừ sự phải quấy của trăm nhà, mở ra đại đạo sáng tỏ. Ở đây, hoàn toàn y theo kinh mà phân biệt nghĩa lý, hiển chánh dẹp tà, soi sáng không riêng tư, cho nên gọi là Bảo Giám (gương soi quý báu). Khiến cho kẻ hậu học chiếu soi tâm mắt, đẹp xấu tự hay biết; dẫn dắt họ trên đường mê, trở về quê nhà để tránh khỏi nổi trôi lưu lạc.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Sách này được thành, chí nguyện nhỏ hẹp của tôi phần nào được bày tỏ. Trăm lạy Tổ đình, nay trình bày đại thệ nguyện lần nữa: <I>"Kính bạch chư Phật, chư Đại Tổ sư trong khắp mười phương, phóng từ quang chứng minh thệ nguyện.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Ưu Đàm kính cẩn tự phát tâm lập nguyện y theo số thiên chữ trong Liên Tông Bảo Giám, mỗi chữ lạy ba lạy, mỗi lạy tụng tâm chú Lăng Nghiêm một lần, xưng tôn hiệu Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát ba lần. Mong lòng đại bi thương xót thầm gia bị, ban cho pháp lực, khiến tà ma ngoại đạo quy y. Mong chân thừa được lưu bố rộng rãi, mở mắt cho những kẻ mù, làm lương y cho những người bệnh khổ. Nơi con đường tăm tối làm đuốc làm đèn, trong biển khổ ba đào làm thuyền làm bè, ở chỗ nguy hiểm làm chiếc cầu lớn, trong đường tà mê chỉ ra lối chân chánh.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nay khắp vì các bậc Thượng thiện nhân trong Liên Xã mười phương, dốc lòng sám hối thân tâm, cầu nguyện để trừ tiêu nghiệp chướng, diệt hết những lỗi lầm phi pháp nói tà pháp, pháp nói là phi pháp. Một trí tuệ hay tiêu diệt ngu si trong muôn kiếp, một ngọn đèn hay xua tan bóng tối cả ngàn năm. Vọng ý tiêu trừ, hoa đốm trong hư không tan biến, chánh tín sinh khởi, tịnh hạnh hiển bày.</I><P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><I>Tín lễ Phật Di Đà, đồng hồi hướng khắp cả, cùng với đại chúng từ hôm nay phát tâm Bồ đề, tận đời vị lai muôn kiếp thường thực hành đạo Bồ tát, rời những việc trái với phạm hạnh, lìa xa thầy tà kiến. Nguyện khi hết báo thân này, đồng sanh cõi An Lạc, thường tu Lục niệm</I><SUP><B>(153)</B></SUP> <I>và Lục Ba la mật, vận dụng Tứ vô lượng tâm cùng Tứ hoằng thệ nguyện</I><SUP><B>(154)</B></SUP>. <I>Phát bốn mươi tám nguyện như Phật A Di Đà, được niệm Phật Tam muội như Đại Thế Chí, tu hành nguyện Phổ Hiền, bằng với lòng từ bi của Quán Âm, học đảití tuệ như Văn Thù, dần dần bước lên vị Bổ xứ như Di Lặc, nhanh chóng thể nhập pháp giới, chứng ngộ viên mãn thượng thừa, phân thân khắp đến mười phương, đại bi phổ độ tất cả. Dựng pháp tràng, lập tông chỉ, mặt trời trí tuệ rạng soi, xua tan tối tăm si ám, tà ma ngoại đạo đều quy hàng, khắp cùng đất trời thấm nhuần giáo hóa. Tài hùng biện vô ngại, lợi ích pháp giới rộng sâu, oai đức vô biên, cứu vớt muôn loài. Cha mẹ, sư trưởng đều vào cửa giải thoát, oán thân nhiều kiếp cùng ra khỏi biển khổ trầm luân.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cúi mong người xem quyển sách này phát khởi tâm hộ pháp, diệt hết mê tình trong muôn kiếp, phá tan lưới nghi ngàn trùng, nhanh chóng khai mở tuệ nhãn, tỏ ngộ bản tâm. Tịnh Độ dạo tràng chẳng cất bước mà đến, Đại Thánh Tây phương như đối diện trước mắt, muôn pháp tỏ tường, sự mầu nhiệm ở nơi đây vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cúi mong Thiên Long hoan hỷ nghe chánh pháp mà hộ trì, phàm thánh quy y dẹp thói tà ma bặt dấu. Hoằng dương đạo Tổ, quảng bá tông phong; dung Đại thiên cùng làm cõi ước thanh thái, khiến bốn biển chung vui sự giáo hóa vô vi. Chánh kiến tà kiến đều đi vào vô sinh; ân vua, ân Phật nhất thời đồng báo đáp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Cõi hư không cùng tận, cõi chúng sanh cùng tận, nghiệp chúng sanh cùng tận thì nguyện của tôi mới cùng tận. Nhưng vì cõi hư không cho đến cõi chúng sanh và phiền não không thể cùng tận, nên nguyện vương này của tôi cũng không có cùng tận, niệm niệm tiếp nối không gián đoạn, nghiệp thân, miệng, ý không biết mỏi mệt chán nản.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Bồ tát Phổ Hiền đã phát nguyện như thế, chư đại Tổ sư cũng phát nguyện như thế, nay tôi cũng phát nguyện như thế, vì khắp cả đại chúng trong Liên Xả cũng phát nguyện như thế, cùng tận bờ mé vị lai; tất cả loài hữu tình và vô tình cũng phát nguyện như thế. Như thế, như thế... không ai chẳng như thế.
<p style="padding-left: 65px;">Nguyện cùng như thế hằng sa chúng
Trọn vào trong biển nguyện Như Lai.</I><P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify"><B>CHÚ THÍCH</B>:
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(153) <B>Lục niệm</B>: Sáu điều mà người tu Phật đạo phải luôn nhớ nghĩ.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. Niệm Phật: Nghĩ nhớ công đức vô lượng, đại từ, đạibi của chư Phật
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. <B>Niệm Pháp</B>: Nghĩ nhớ ba tạng, mười hai thể loại kinh của đức Phật đã dạy, để làm lợi ích cho khắp chúng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. <B>Niệm Tăng</B>: Nghĩ nhớ chư Tăng đầy đủ giới, định, huệ làm ruộng phước cho chúng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">d. <B>Niệm Giới</B>: Nghĩ nhớ giới hạnh có năng lực lớn hay trừ các phiền não xấu của chúng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">e. <B>Niệm Thí</B>: Nghĩ nhớ bố thí có công đức lớn, hay trừ tham lam keo kiệt của chúng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">f. <B>Niệm Thiên</B>: Nghĩ nhớ chư Thiên ở ba cõi đều nhờ căn lành đời xưa đã tu tịnh giới, bố thí, văn tuệ mà được quả báo an vui này.
<P style="TEXT-INDENT: 42pt; TEXT-ALIGN: justify">(154) <B>Tứ hoằng thệ nguyện</B>: Bốn điều nguyện rộng lớn mà tất cả Bồ tát nên phát khởi khi còn ở Nhân vị. Nội dung và sự giải thích về tứ hoằng thệ nguyện thấy rải rác trong các kinh luận, nhưng các kinh ghi chép nhiều cách khác nhau.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tứ hoằng thệ nguyện trong Lục Tổ Đàn Kinh, là:
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">a. Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ: Bồ tát thệ nguyện cứu độ tất cả chúng sanh.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">b. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn: Bồ tát thệ nguyện đoạn trừ tất cả phiền não.
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">c. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học: Bồ tát thệ nguyện học hiểu tất cả Phật pháp
<P style="TEXT-INDENT: 66pt; TEXT-ALIGN: justify">d. <I>Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành</I>: Bồ tát thệ nguyện chứng đắc quả Bồ đề tối cao.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tứ hoằng thệ nguyện này được phối hợp với Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo; thệ nguyện đầu tiên thuộc về lợi tha, ba thệ nguyện còn lại thuộc về tự lợi.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tứ hoằng thệ nguyện trong phẩm <I>Thủ Hạnh, kinh Đạo Hành bát Nhã 8 </I>(Đại 8, 465 hạ): <I>"Những người chưa được độ ta sẽ độ, người chưa giải thoát ta đều làm cho giải thoát, người sợ hãi ta sẽ làm cho được an vui, người chưa Bát nê hoàn ta đều làm cho Bát nê hoàn".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tứ hoằng thệ nguyện trong phẩm <I>Dược Thảo Dụ</I>, kinh <I>Pháp Hoa 3</I> đại khái giống như kinh <I>Đạo hành bát Nhã</I>, nhưng lời văn đơn giản hơn (Đại 9, 19 trung): <I>"Người chưa được độ ta sẽ độ; người chưa giải thoát ta sẽ làm giải thoát, người chưa an ta sẽ làm cho an, người chưa Niết bàn ta sẽ làm cho được Niết bàn".</I>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tứ hoằng thệ nguyện trong Kinh <I>Bồ tát Anh Lạc Bản Nghiệp, thượng</I> (Đại 24, 1013 thượng): <I>"người chưa vượt qua Khổ đế, ta sẽ làm cho vượt qua được Khổ đế, người chưa giải thoát Tập đế, ta sẽ làm cho giải thoát được Tập đế; người chưa tu tập Đạo đế ta sẽ làm cho tu tập được Đạo đế, và người chưa chứng đắc Niết bàn ta sẽ làm cho chứng đắc Niết bàn".</I>
<CENTER><B>LỜI BẠT</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quyển Liên Tông Bảo Giám do hòa thượng Ưu Đàm trước tác, luận bàn sâu sắc về duy tâm. Trên thì tiếp dẫn hàng căn cơ lanh lợi, dưới đến những người xưng niệm danh hiệu Phật. Thâu nhiếp cả ba căn, thật là xiển dương rực rỡ pháp môn Tịnh nghiệp.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Về sau, Ngài Vân Thê trước tác <I>Di Đà Sớ Sao</I> chuyên phát huy pháp Trì Danh, song lấy Sự Lý nhất tâm mà quy kết đến chỗ nhất tâm không loạn. Lý là duy tâm, Sự là xưng danh, nhất tâm không loạn là đi đến chỗ cùng tột. Hai quyển sách này bỗng nhiêm âm thầm phù hợp dù cách nhau xa. Người tu hành Tịnh nghiệp nên xem kỹ hai quyển này.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quyển <I>Di Đà Sớ Sao</I> tôi đã khắc bản mới, còn <I>Liên Tông Bảo Giám</I> thì chưa khắc lại. Mùa thu năm Quý Mùi, cư sĩ My Sơn nghỉ ngơi ở Trúc Song, Thượng nhân Thủy Vân cũng ở đó, lúc bàn luận đến <I>Liên Tông Bảo Giám</I>, cư sĩ liền hứa chép tay lại, Thượng nhân cũng vui lòng để hiệu đính. Tôi vui vẻ nói: "Các vị đều chiếm duyên lành làm việc này, tôi đâu dám từ chối!" Do đó, quyên tiền, bảo thợ khắc bản lại. Quyển sách này được thành, thật là ngọn đèn sáng của Tịnh nghiệp, là chiếc bè quý báu trong thời mạt pháp!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Mùa hạ năm thứ 5, niên hiệu Quang Tự (1879).
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Đệ tử tịnh nghiệp Diệu Năng, Tánh Bản cùng hoa duyên khắc bản.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thích Thọ Giác giảo chính.
<p align="right"><I>Dịch xong 12/04/2005 tại chùa Bửu Liên.</I>
<CENTER><B>MẤY LỜI TÂM HUYẾT</B></CENTER>
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Thuyết pháp giảng kinh, viết sách giáo lý nhà Phật, hoặc in kinh sách đem phát cho mọi người xem, để họ sớm giác ngộ. Được như thế công đức vô lượng, đó gọi là Pháp thí.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Nếu không đủ điều kiện làm những việc ấy, thì thỉnh một số kinh sách chịu khó đem đến từng nhà cho mượn đọc, rồi sau đó lại lần lượt cho nhà khác mượn nữa, hoặc đọc cho kẻ khác nghe, nhất là cho người không biết chữ nghe, cũng được công đức vô biên, đó cũng gọi là Pháp thí.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chính đức Phật đã dạy: "Trong số các sự bố thí chỉ có Pháp thí là công đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng".
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tưởng về lợi cũng như về danh, chúng ta đừng lo nghĩ vội, mà điều tối cần là làm sao cho rạng rỡ chánh đạo trước cái đã. Đó là mục đích chính và thiêng liêng cao cả của chúng ta. Nền móng đạo pháp cần nhờ sự chung lưng góp sức của chúng ta. Vậy mỗi người nên xây đắp vào đó một ít vôi, một ít nước, hoặc một tảng đá hay một viên gạch v.v... ngõ hầu cái nền móng ấy được thêm bền vững và kiên cố đời đời.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Chúng ta không nên quan niệm ở công đức vô lượng vô biên, mà điều cần thiết là nên nghĩ nhiều đến những người lầm đường lạc lối, sống trong vũng lầy tội lỗi không có lối thoát, hãy mau cứu vớt họ, cảnh tỉnh họ để cùng quay về chân lý. Nếu được như thế chính ta đã làm lợi ích cho Phật pháp vậy.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Với hoài bão cuộc đời, chúng ta hãy "Tất Cả Vì Phật Pháp". Hy vọng mấy lời tâm huyết này được nhiều vị hảo tâm in kinh sách cho muôn dân xem.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Được như vậy công đức không gì sánh bằng! Tha thiết mong mỏi như thế!
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Tặng cho thân nhân một số tiền nhỏ, lòng mình không vui. Nhưng mình không đủ sức tặng nhiều hơn. Chỉ có một cách là tặng các loại sách tu hành để xây dựng cho đời sống thanh cao, thì dù một quyển sách giá chỉ có vài ngàn, nhưng vẫn quý hơn bạc vạn.
<P style="TEXT-INDENT: 25pt; TEXT-ALIGN: justify">Quý vị nào muốn phát tâm ấn tống kinh sách xin liên hệ:
<CENTER><B>CHÙA HOẰNG PHÁP</B>
Điện thoại: (08)7130002 - (08)7133817
Email: chuahoangphap@gmail.com
<BR>
1oeo.jpg
</CENTER>
</span></span>
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên