Ba Tuần

Mèo hoá Rồng

khuclunglinh

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
26/12/17
Bài viết
6,449
Điểm tương tác
1,152
Điểm
113
ha ha ha[smile]

A ahhahaha .. ít khi nào thấy SÔ CÔ LA say sẩm nhỉ ? [smile]


(1) NHƯ THỊ NGÃ VĂN [smile] ---> vì đó là DI GIÁO của ĐỨC PHẬT [smile]

tr ước khi ông Phật chết .. có nhiều đệ tự tỏ ra buồn rầu nên ổng mới nói

Ðức Phật lại nói :
- Các Ông không nên đau buồn ---> vạn vật trong trời đất, hễ có sinh thì tất nhiên phải có tướng vô thường. Ðịnh luật này, bất kỳ là ai chăng nữa cũng không trốn thoát được. Ta đã chẳng nói điều này cho các ông nghe rồi sao ? Những gì mình yêu thương đều phải có lúc mất mát, có tụ họp thì phải có xa lìa, thân thể của người đời do tâm và vật chất tụ lại mà thành thì tất nhiên là vô thường, thì không thể tự do như người ta thường tưởng. Thân xác thịt không thể vĩnh viễn tồn tại, ta đã không thường xuyên nhắc nhở điều này hay sao? Muốn ứng thân của Phật ở mãi trên thế gian là đi ngược lại với quy tắc tự nhiên của pháp tính. Ta là người đã thị hiện chân lý của vũ trụ, thì đương nhiên là không thể đi ngược lại với pháp tính. Nếu các ông muốn ta ở lại mãi trên thế gian là các ông đã không y theo giáo pháp của ta đã giảng dạy mà tu hành, vậy thì cho dầu ta có sống thêm ngàn vạn năm nữa phỏng có ích lợi gì ?

Nếu các ông có thể ---> y theo giáo pháp của ta --> mà tu hành thì chẳng khác nào ta sống vĩnh viễn trong tâm các ông.

Pháp thân huệ mệnh của ta ---> biến khắp tất cả mọi nơi, luôn ở cùng một chỗ với các ông và với chúng sinh đời vị lai.

Các ông hãy giữ lòng tin kiên cố, ---> quy y nơi pháp, ---> y pháp mà tu hành, ---> không nên quy y nơi gì khác.
Các ông tu học thánh đạo không biếng trễ, giải thoát phiền não, trụ tâm không loạn, thì các ông đúng là đệ tử chân chính của ta. (1)



Tự quy y Pháp

Đương nguyện chúng sanh


Thâm nhập kinh tạng Trí huệ như hải


(2) Sao Không Thấy đệ tử PHẬT MÔN QUY Y VÔ TRỤ NHỈ ? [smile]

---> Tại vì QUY Y VÔ TRỤ hỏng đáng tin cây sao ? [smile] ... hay thiếu sự thuyết phục [smile]




(1) Như Thị Ngã Văn

A Nan thỉnh giáo đức Phật :
Thế Tôn, chúng con không cách nào mà không buồn thương cho được, nhưng chúng con có bốn vấn đề cuối cùng xin thỉnh Thế Tôn chỉ bày :

Thứ nhất, lúc Thế Tôn còn tại thế, Ngài là thầy cho chúng con nương dựa. Thế Tôn Niết Bàn rồi, chúng con biết nương dựa vào người thầy nào đây ?

Thứ hai, lúc Thế Tôn còn tại thế, chúng con an trụ vào Phật.
Thế Tôn Niết Bàn rồi, chúng con biết an trụ vào đâu ?

Thứ ba,
lúc Thế Tôn còn tại thế thì người hung ác đã có Thế Tôn điều phục. Thế Tôn Niết Bàn rồi, làm sao điều phục người hung ác đây ?

Thứ tư, lúc Thế Tôn còn tại thế, ngôn giáo của Phật nói ai cũng đễ tin dễ hiểu. Thế Tôn Niết Bàn rồi, kinh điển kết tập làm sao cho người ta tin tưởng ?


Ðức Phật trả lời một cách từ bi, vui vẻ :
A Nan, ông được đại chúng đề cử đến hỏi ta bốn vấn đề này, thật là vô cùng quan trọng. Các ông không nên bi lụy như thế, giả như Xá Lợi Phất hay Mục Kiền Liên mà còn sống, chắc chắn họ sẽ không cư xử như các ông đâu ! Ðại Ca Diếp hiện giờ còn trên đường về, ông ấy sẽ không về kịp trước giờ ta Niết Bàn. Các ông phải nhận biết pháp tính, nếu Phật dùng ứng thân ở tại thế gian, thì đây là tướng vô thường cuối cùng, phải nhập Niết Bàn. Các ông y theo pháp mà hành thì không khác gì Phật thường còn ở thế gian vậy.

Nay ta sẽ trả lời bốn vấn đề của các ông hỏi, các ông hãy nhớ kỹ lấy :

Thứ nhất, các ông hỏi ta Niết Bàn rồi thì ai là thầy cho các ông nương : hãy nương vào Ba La Ðề Mộc Xoa.

Thứ hai,
các ông hỏi ta Niết Bàn rồi thì nên an trụ vào đâu : hãy an trụ vào Tứ Niệm Xứ.

Thứ ba,
các ông hỏi ta Niết Bàn rồi thì làm sao điều phục người hung ác : nên im lặng tách xa họ ra. (smile)

Thứ tư,
các ông hỏi ta Niết Bàn rồi thì làm sao cho người ta tin vào kinh điển : phải đặt bốn chữ “Như Thị Ngã Văn” ở ngay đầu tất cả mọi bộ kinh. A Nan, các ông nên thường xuyên nhớ nghĩ đến chỗ Phật sinh ra, chỗ Phật giác ngộ, chỗ Phật thuyết pháp và chỗ Phật Niết Bàn. Ðiều cần thiết là thân phải từ, miệng phải từ và ý phải từ, chuyện khác không cần quan tâm đến. Hôm nay không nên bi lụy, hãy mau vì ta mà đến giữa hai gốc cây Sa La mà sắp đặt chỗ nằm.


ờ mà đúng hông? [smile]
 
Last edited:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

CHOCOLATE

Registered
Phật tử
Tham gia
17/1/24
Bài viết
151
Điểm tương tác
121
Điểm
43
Ha ha...

Khúc huynh cứ linh sờ tinh thế nhờ :D

Quy Y Phật, Pháp, Tăng tức là Hành Vô Trụ chứ ai nói quy y Vô Trụ :D

là khúc huynh không phân biệt được hay cố tình không rõ ràng đấy nhỉ? :D

Ha ha....
 

khuclunglinh

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
26/12/17
Bài viết
6,449
Điểm tương tác
1,152
Điểm
113
ha ha ha [smile]

A ahhahahah .. Ờ lại sao sao sao sao nhỉ [smile]

Vô trụ là pháp hành ---> không phải nghĩa văn tự ---> nên tiểu đệ không được đa văn cho lắm.

..hay là SÔ CÔ LA làm vài bài VĂN TỰ SÔ CÔ LA xem coi khác NHƯ THỊ NGÃ VĂN như thế nào ? [smile]

ờ mà đúng hông? [smile]
 

CHOCOLATE

Registered
Phật tử
Tham gia
17/1/24
Bài viết
151
Điểm tương tác
121
Điểm
43
ha ha ha [smile]

A ahhahahah .. Ờ lại sao sao sao sao nhỉ [smile]

Vô trụ là pháp hành ---> không phải nghĩa văn tự ---> nên tiểu đệ không được đa văn cho lắm.

..hay là SÔ CÔ LA làm vài bài VĂN TỰ SÔ CÔ LA xem coi khác NHƯ THỊ NGÃ VĂN như thế nào ? [smile]

ờ mà đúng hông? [smile]

Ha ha...

Kính khúc huynh!

Vô Trụ trong 1 chữ Buông vô biên diệu nghĩa tự nhiên sẵn sàng :D

Nơi này không thiếu, cũng không dư

Không nói lại vẫn đủ

Mà thêm lời cũng không thừa :D

Kẻ vô trụ thì chuyển được pháp

Người chấp trụ ắt bị pháp chuyển thôi :D
 

khuclunglinh

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
26/12/17
Bài viết
6,449
Điểm tương tác
1,152
Điểm
113
ha ha ha[smile]

A hahahahah .. CHẾT TOI RÙI [smile]

thế là từ này CHÂN LÝ ... hết là CỤ THỂ [smile]

ờ mà đúng hông? [smile]
 

CHOCOLATE

Registered
Phật tử
Tham gia
17/1/24
Bài viết
151
Điểm tương tác
121
Điểm
43
ha ha ha[smile]

A hahahahah .. CHẾT TOI RÙI [smile]

thế là từ này CHÂN LÝ ... hết là CỤ THỂ [smile]

ờ mà đúng hông? [smile]

Ha ha ...

Kính khúc huynh!

Chân lý phải là cụ thể :D

Kẻ hành vô trụ đến Nhất Tâm bất loạn tức Chánh Định mới có sự giải thoát :D

Hì hì...
 

khuclunglinh

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
26/12/17
Bài viết
6,449
Điểm tương tác
1,152
Điểm
113
ha ha ha [smile]

Chân Lý phải là cụ thể ... cái câu này cứ hay hay lạ lùng sao đó nhỉ ? [smile]


thế là có nghĩa 1 buổi chiều

Văn đến với TA ... là NHƯ THỊ (smile)

là đồng diệu nghĩa với vô biên [smile]

người QUY Y PHÁP ... để nương nhờ

Con Thuyền Bát Nhã ... vượt bể sâu [smile]


ờ mà đúng hông? [smile]
 

CHOCOLATE

Registered
Phật tử
Tham gia
17/1/24
Bài viết
151
Điểm tương tác
121
Điểm
43
Ha ha....

Trong Chánh Định Nhất Tâm thì

Tâm hành xứ diệt

Tướng Hành Giả diệt

Chỉ còn nước Thành Đạo chứ chẳng thành gì khác Được :D

Ha ha...

Đạo xưa nay đã có ấy vậy mà vẫn có đường để người người theo nhau THÀNH ĐẠO

Tuyệt vời thay!

Ha ha....
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
28/7/16
Bài viết
1,724
Điểm tương tác
796
Điểm
113
Hoa cỏ bay, hoa cỏ bay,
Xuân qua Hạ tới, một màu xanh tươi.
Hỏi người rộng bước thảnh thơi,
Vô duyên hữu độ, tình thời lặng chưa ?

Mai này gió nhẹ sóng đưa,
Thuyền Từ một áo nâu xưa bạc mầu.
Chân trần đội nắng vô sầu,
Thong dong bước nhẹ, vô cầu vô tranh.

Tam tạng giáo làu thông uyên bác,
Trí vô sư lưu xuất vô vi,
Bình sinh là đấng nam nhi,
Địa Tâm Trí hải, vô nghì bước lên.

Nam mô Thường tinh tấn Bồ Tát,
Ba Tuần.
 

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
28/7/16
Bài viết
1,724
Điểm tương tác
796
Điểm
113
Giới là thuận theo nhân và quả,
Ý khởi Hành, tạo nghiệp thọ sinh.
Thiện sinh quả báo đẹp xinh,
Ác thời quả ấy thật kinh, thật sầu.

Hỏi thiện ác từ đâu sinh khởi ?
Vì cớ gì nghiệp chẳng theo Ta ?
Nghiệp kêu tạo ác làm Ma,
Ta thời thuận thích, dừng ngăn, chẳng ngừng.

Nghiệp ta tạo, Ta nào chủ nghiệp,
Bởi thế nên tạo khổ cầu vui,
May thay Đấng Giác cứu đời,
Dạy răn nghiệp ấy tùy thời gỡ ra.

Trước phải biết Nghiệp do Ý tạo,
Ý như Lý thời Nghiệp dừng sinh,
Chớ nên vun đắp tội tình,
Tâm viên ý mã, khéo rình khéo lo.

Chợt ý khởi, kiết già yên toạ.
Hơi thở vào, ý lại theo sau.
Hơi sau hơi trước đều nhau,
Thân thời an định, ý thời lặng yên.

An ban thủ ý phép "Tiên",
Là "Chỉ" dừng ý, là đường an tâm.
Nhưng mà thật nghĩa bên trong,
Ý sinh ý diệt đâu riêng tại mình.

Cảnh sinh tình thức sẽ sinh,
Cảnh kia xoay chuyển, ý về nơi nao ?
Nếu như lặng lẽ xoay vào,
Ta thời ta biết, cảnh thời vô can.

Như Không vô ngại nhân gian,
Sinh thời sẽ diệt, Không thời vẫn yên.
Sinh sinh tử tử triền miên,
Hạnh ta chỉ chữ Yên Yên Bình Bình.

Nam mô Thường tinh tấn Bồ Tát.
Ba Tuần.
 
Last edited:

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
28/7/16
Bài viết
1,724
Điểm tương tác
796
Điểm
113
Lý Đại thừa thâm sâu khó hiểu,
Đạo Tiểu thừa gần gũi dễ nghe.
Thế nên học đạo viễn ly,
Giới thời trước giữ,
Hạnh thời làm theo.

Ngày một bữa xin ăn nuôi mạng,
Chẳng phi thời, đúng ngọ dùng cơm.
Mỗi thìa mỗi muỗng đưa lên,
Cảm ân thí chú, chánh tâm thọ trì.

Xét đạo hạnh ngày nay đủ, khuyết,
Thọ dùng xong, gắng trí luyện tâm,
Không tham, không hận, không sân,
Mạn kiêu lược bỏ, dâm si xa lìa.

Ở không nơi nhà cao ghế lớn,
Đứng ngồi nằm tề chỉnh nhẹ nhàng,
Đàn ca xướng kỹ chẳng màng,
Lặng thầm giữ đạo, khổ hành giữ tâm.

Phật Tổ răn xả thân cầu đạo,
Phú xa lìa, bần khổ giữ theo.
Thọ thực xong nghe học Kinh Luân,
Khi trời xế bóng, vắt chân kiết già.

Bao Kinh Luật Luận đem ra,
Tâm thời xét rõ, ý thời nương theo.
Tới đêm cảnh trí tịch liêu,
Buông Kinh rời kệ, khéo điều khí thân.

Từ từ vào định lắng trong,
Tịch tịch tỉnh tỉnh rõ Không sáng đầy,
Nhẹ nhàng quán chiếu là đây,
Chợt nghe chim hót, mới hay sáng rồi.

Thanh thanh phiêu bạt kiếp người,
Tịch tịch tỉnh tỉnh sớm chiều giữ bên,
Phật Trời ngó xuống cười xem,
Lành thay Thích Tử, giữa đời nhiễm ô.

Mến kính,
Ba Tuần.
 
Last edited:

Ba Tuần

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
28/7/16
Bài viết
1,724
Điểm tương tác
796
Điểm
113
KÍNH NGƯỠNG THẾ TÔN,
BẬC CHÁNH ĐẲNG GIÁC,
BẬC THẦY CỦA TRỜI NGƯỜI,
SOI SÁNG CON ĐƯỜNG CHO CHÚNG SANH
RA KHỎI SI ÁM, VĨNH THOÁT KHỔ ĐAU.

"Người gia trưởng hay con người gia trưởng hay một người sanh giai cấp khác, sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tín ngưỡng Như Lai.
Khi có lòng tín ngưỡng ấy, người ấy suy nghĩ: "Ðời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật không dễ gì cho một người sống ở gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình".
- Kinh Kandaraka -

"Người muốn tu hành,
Tại gia cũng được chẳng do tại chùa."

- Kinh Pháp Bảo Đàn -

I, Trước phải giữ gìn Thánh giới cho nghiêm, Tổ nói: "hạnh chánh tức là đạo", Giới chính là Chánh hạnh, là đạo lộ để phàm phu dần thoát tục tiến lên địa vị Hiền Thánh.
KINH BHADDÀLI - Nguyên nhân Phật chế giới đã viết:
Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, lúc xưa các học giới tuy ít hơn, nhưng các Tỷ-kheo đã ngộ nhập chánh trí nhiều hơn. Bạch Thế Tôn, lại do nhân gì, do duyên gì, ngày nay các học giới nhiều hơn, nhưng các Tỷ-kheo ngộ nhập chánh trí ít hơn?

- Này Bhaddali, khi các loài hữu tình bị thối thất, khi diệu pháp bị diệt mất, thời các học giới có nhiều hơn và các vị Tỷ-kheo ngộ nhập chánh trí ít hơn. Này Bhaddali, khi nào một số hữu lậu pháp chưa hiện khởi trong Tăng chúng, khi ấy bậc Ðạo Sư vẫn không chế định một học giới cho các đệ tử. Và này Bhaddali, ở đây, chỉ khi nào một số hữu lậu pháp hiện khởi trong Tăng chúng, chỉ khi ấy bậc Ðạo Sư mới chế định học giới cho các đệ tử để đối trị lại các pháp hữu lậu ấy.

ĐẠI KINH ĐOẠN TẬN ÁI - Giới căn bản. đã viết:
1. "Từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình."

2. "Từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, sống thanh tịnh, không có trộm cắp."

3. "Từ bỏ tà hạnh, sống theo phạm hạnh, sống hạnh viễn ly, từ bỏ dâm dục hèn hạ."

4. "Từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt, không phản lại đối với đời."

5. "Từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia, không đến nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia."

6. "Từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời nói không lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người."

7. "Từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh Pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi."

8. "Từ bỏ làm hại đến các hột giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời."

9. "Từ bỏ đi xem múa, hát, nhạc, trình diễn, từ bỏ trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thơm và các thời trang."

10. "Từ bỏ dùng giường cao và giường lớn."

11. "Từ bỏ nhận vàng bạc."

12. "Từ bỏ nhận ruộng nương và đất đai."

13. "Từ bỏ nhận người môi giới hoặc tự mình làm môi giới, từ bỏ buôn bán, từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc, đo lường."

14. "Từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo, từ bỏ làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá."

15. "Biết đủ với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng."
KINH BHADDÀLI đã viết:
Này các Tỷ-kheo, Ta chỉ ngồi ăn một lần trong ngày. Này các Tỷ-kheo, do Ta chỉ ngồi ăn một lần trong ngày, Ta cảm thấy ít bệnh, ít não, nhẹ nhàng, có sức và lạc trú. Này các Tỷ-kheo, hãy chỉ ngồi ăn một lần trong ngày. Này các Tỷ-kheo, hãy chỉ ngồi ăn một lần trong ngày, và các Ông sẽ cảm thấy ít bệnh, ít não, nhẹ nhàng, có sức và lạc trú.

II. Song song với sự nghiêm trì Thánh giới, người đệ tử Phật phải Hộ trị các căn của mình và Tỉnh giác trong mọi hành vi.

KINH NHIỀU CẢM THỌ - 5 dục trưởng dưỡng hay 5 nguồn nuôi dưỡng dục lớn thêm đã viết:
1. Các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, tương ứng với dục, hấp dẫn.

2. Các tiếng do tai nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, tương ứng với dục, hấp dẫn.

3. Các hương do mũi nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, tương ứng với dục, hấp dẫn.

4. Các vị do lưỡi nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, tương ứng với dục, hấp dẫn.

5. Các xúc chạm do thân nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, tương ứng với dục, hấp dẫn.

Này Ananda, như vậy là năm dục trưởng dưỡng. Duyên năm dục trưởng dưỡng này khởi lên lạc và hỷ, như vậy gọi là dục lạc.
Này Ananda, ai nói như sau: "Lạc và hỷ này là tối thượng mà các chúng sanh có thể cảm thọ", Ta không thể chấp nhận như vậy. Vì sao vậy? Vì có một lạc khác với lạc kia, vi diệu hơn và thù thắng hơn.

Khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi biết vị, thân cảm xúc, ý nhận thức, "không nắm giữ tướng, những nguyên nhân gì khiến các căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu, bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy".

"Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác, khi ăn uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác, khi đi đại tiểu tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, im lặng đều tỉnh giác."

III. Đoạn trừ 5 triền cái:
"Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng, an trú chánh niệm trước mặt.
1. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái.

2. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa, tâm hết sân hận.

3. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên.

4. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối tiếc.

5. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp."
ĐẠI KINH GIÁO GIỚI LA HẦU LA đã viết:
Này Rahula, hãy tu tập sự tu tập về lòng từ. Này Rahula, do tu tập sự tu tập về lòng từ, cái gì thuộc sân tâm sẽ được trừ diệt .

Này Rahula, hãy tu tập sự tu tập về lòng bi. Này Rahula, do tu tập sự tu tập về lòng bi, cái gì thuộc hại tâm sẽ được trừ diệt.

Này Rahula, hãy tu tập sự tu tập về hỷ. Này Rahula, do tu tập sự tu tập về hỷ, cái gì thuộc bất lạc sẽ được trừ diệt.

Này Rahula, hãy tu tập sự tu tập về xả. Này Rahula, do tu tập sự tu tập về xả, cái gì thuộc hận tâm sẽ được trừ diệt.

Này Rahula, hãy tu tập sự tu tập về bất tịnh. Này Rahula, do tu tập sự tu tập về bất tịnh, cái gì thuộc tham ái được trừ diệt.

Này Rahula, hãy tu tập sự tu tập về vô thường. Này Rahula, do tu tập sự tu tập về vô thường, cái gì thuộc ngã mạn được trừ diệt.

ĐẠI KINH GIÁO GIỚI LA HẦU LA đã viết:
Này Rahula, hãy tu tập sự tu tập về niệm hơi thở vô hơi thở ra. Này Rahula, do tu tập niệm hơi thở vô hơi thở ra, làm cho sung mãn, nên được quả lớn, được lợi ích lớn. Và này Rahula, thế nào là tu tập niệm hơi thở vô hơi thở ra, làm cho sung mãn nên được quả lớn, được lợi ích lớn?

Ở đây, này Rahula, vị Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Hay thở vô dài, vị ấy biết: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài, vị ấy biết "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô," vị ấy tập. "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

"Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành (Cittasankhara), tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

"Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

"Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

Tu tập niệm hơi thở vô hơi thở ra như vậy, này Rahula, làm cho sung mãn như vậy, có quả lớn, có lợi ích lớn. Này Rahula, tu tập niệm hơi thở vô hơi thở ra như vậy, làm cho sung mãn như vậy, thời khi những hơi thở vô, hơi thở ra tối hậu chấm dứt, chứng được giác tri, không phải không được giác tri.

IV. Nhập Thiền:

ĐẠI KINH XÓM NGỰA đã viết:
1. Sau khi đã đoạn trừ năm triền cái trên, những triền cái làm ô nhiễm tâm tư, làm yếu ớt trí tuệ, vị ấy ly dục, ly ác, bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không có hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.
2.Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
3. Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "xả niệm lạc trú", chứng và trú Thiền thứ ba. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.
4. Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
ĐẠI KINH XÓM NGỰA đã viết:
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Chánh trí.


V. Phát minh Trí tuệ :

KINH TẤT CẢ LẬU HOẶC đã viết:
Vị ấy như lý tác ý như sau:
KINH TẤT CẢ LẬU HOẶC đã viết:
- "Ta có mặt trong thời quá khứ, hay ta không có mặt trong thời quá khứ?
    • Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào?
    • Ta có mặt trong thời quá khứ hình vóc như thế nào?
    • Trước kia ta là gì và ta đã có mặt như thế nào trong thời quá khứ?
    • Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay ta sẽ không có mặt trong thời vị lai?
    • Ta sẽ có mặt trong thời vị lai như thế nào?
    • Ta sẽ có mặt trong thời vị lai, hình vóc như thế nào?
    • Trước kia ta là gì và ta sẽ có mặt như thế nào trong thời vị lai?
    • Ta có mặt hay ta không có mặt?
    • Ta có mặt như thế nào?
    • Ta có mặt hình vóc như thế nào?
    • Chúng sanh này từ đâu đến?
Và rồi sẽ đi về đâu?".
Mến kính,
Ba Tuần.
PS:
KINH KANDARAKA-Lộ trình giải thoát đã viết:
Này các Tỷ-kheo, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi riêng tự chứng ngộ với thượng trí, thế giới này là Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên bố điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh.

Người gia trưởng hay con người gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp (hạ tiện) nghe pháp ấy, sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, người ấy suy nghĩ: "Ðời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật không dễ gì cho một người sống ở gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình". Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ, hay bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, hay bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Vị ấy xuất gia như vậy, hành trì các học giới và hạnh sống các Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết xấu hổ, sợ hãi, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Vị ấy từ bỏ đời sống không Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống đời sống viễn ly, tránh xa dâm dục hạ liệt.

Vị ấy từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, liên hệ đến sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời. Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chuyện chia rẽ ở những người kia. Như vậy, vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thích thú trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Vị ấy từ bỏ nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời nói dịu hiền, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người; vị ấy nói những lời nói như vậy. Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói pháp, nói luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, hợp lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.

Vị ấy từ bỏ không làm hại đến các hạt giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ các món ăn phi thời; từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc, các cuộc trình diễn; từ bỏ không dùng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa, trang sức, và các thời trang; từ bỏ không dùng giường cao và giường lớn; từ bỏ không nhận vàng và bạc; từ bỏ không nhận các hạt giống; từ bỏ không nhận thịt sống, từ bỏ không nhận đàn bà con gái; từ bỏ không nhận nô tỳ gái và trai; từ bỏ không nhận cừu và dê; từ bỏ không nhận gia cầm và heo; từ bỏ không nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái; từ bỏ không nhận ruộng nương đất đai; từ bỏ không dùng người làm môi giới hoặc tự mình làm môi giới; từ bỏ không buôn bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ không làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá.

Vị ấy sống biết đủ, bằng lòng với tấm y để che thân với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát). Như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh, cũng vậy, Tỷ-kheo bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo. Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, nội tâm hưởng lạc thọ không khuyết phạm.

Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự các nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, những nguyên nhân gì, vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy thành tựu Thánh hộ trì các căn này, nội tâm hưởng lạc thọ không uế nhiễm.

Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác.

Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ trì các căn này, thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một trú xứ thanh vắng, như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây ngoài trời, đống rơm.

Sau khi ăn xong và đi khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ dục tham ở đời, sống với tâm thoát ly dục tham, gột rửa tâm hết dục tham. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử, hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.

Vị ấy sau khi từ bỏ năm triền cái này, các pháp làm tâm cấu uế, làm trí tuệ trở thành yếu ớt, vị ấy ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do dục sanh, với tầm với tứ.

Vị ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.

Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba.

Vị ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến túc mạng trí. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, hai mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, vị ấy nhớ đến những đời sống quá khứ, cùng với các nét đại cương và các chi tiết.

Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến sanh tử trí của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ tri rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Vị ấy nghĩ rằng: "Thật sự những vị chúng sanh này thành tựu những ác hạnh về thân, thành tựu những ác hạnh về lời nói, thành tựu những ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những vị chúng sanh này thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, Thiên giới, trên đời này". Như vậy, vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ tri rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.

Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy tuệ tri như thật: "Ðây là Khổ", tuệ tri như thật: "Ðây là Khổ tập", tuệ tri như thật: "Ðây là Khổ diệt", tuệ tri như thật: "Ðây là Con Ðường đưa đến khổ diệt" tuệ tri như thật: "Ðây là những lậu hoặc", tuệ tri như thật: "Ðây là nguyên nhân của các lậu hoặc", tuệ tri như thật: "Ðây là sự diệt trừ các lậu hoặc", tuệ tri như thật: "Ðây là Con Ðường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc".

Nhờ biết như vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại, không có trở lui đời sống này nữa".
KINH POTALIYA - QUY Y TAM BẢO đã viết:
Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử; từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
 
Last edited:
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Bên trên