Bài 6.- Kiết Sử ?
Kiết là kết (cột trói) giống như người ta xâu kết các hạt thành chuỗi tràng hạt; Sử là sai sử.
Kiết Sử là những món cột trói và sai sử, bắt con người (chúng sanh) làm nô lệ cho nó. Giống như con trâu, bị người ta cột cái dây vào lỗ mũi dắt đi, không tự chủ được. Kiết sử cũng có các tên khác như: Thập phiền não, thập hoặc, thập tùy miên...

Trong Phật Đạo, Kiết Sử thường được chia làm hai phần, gồm năm độn sử (chậm chạp) và năm lợi sử (lanh lẹ) .
1. Năm “độn sử” hay “Lỗi hành vi ,”
Là những món trói buộc căn bản, mỗ̃i chúng sanh đều có. Gọi là độn, vì năm món này làm cho người mê muội, chậm Giác Ngộ.
Tham: Ham muốn, đắm mê những thứ phiền não, hạ liệt của ba cõi (dục, sắc và vô sắc) không thể Giác Ngộ.
Sân: Sân hận, giận dữ, não hại mình, não hại người.
Si: Mờ tối, mê mờ, không thấy được ánh sáng Giác Ngộ.
Mạn: Thấy mình hơn hoặc thua người (tự tôn hoặc tự ti).
Nghi: Nghi ngờ (hoài nghi) có 3 món gồm:
- Nghi mình: Nghi bản thân không thể Giác Ngộ;
- Nghi người: Nghi bậc Đạo sư không thể dạy đạo Giác Ngộ;
- Nghi pháp: Nghi Giáo Pháp ta đang tu tập không đưa đến Giác Ngộ.
2. Năm “lợi sử ” hay “Lỗi nhận thức, ”.
Là những món cột buộc thuộc về nhận thức (sai lệch), nó chỉ có đối với hạng người lanh lợi. Vì thế năm lợi sử còn gọi là “ngũ kiến” hay “ác kiến”, tức các thấy biết đi ngược tinh thần Giác Ngộ.
Thân kiến: Chấp thủ những hiểu biết sai lầm về thân.
Biên kiến: Chấp chặt một bên, nắm giữ một định kiến.
Kiến thủ kiến: Nắm giữ các quan niệm, các thấy biết phi chân lý.
Giới cấm thủ kiến: Không hiểu rõ giới, chấp chặt. Hy vọng giới có thể thành tựu cứu cánh nào đó trong Phật Đạo.
Tà kiến: Hiểu biết sai lệch về Giáo Pháp, không như chân lý mà giúp mình cùng người Giác Ngộ.
(trích Khái niệm kiết sử- Lý Tứ- An Lạc Luận)
Cổ đức Xưa có bài sám Ngã Niệm nói về Kiết Sử:
Đệ tử chúng đẳng
tự vi chơn tánh, uổng nhập mê lưu.
Tùy sanh tử dĩ phiêu trầm,
trục sắc thanh nhi tham nhiểm.
Thập triền
thập sử tích thành hữu lậu chi nhân.
Lục căn lục trần vọng tác vô biên chi tội,
ngưỡng Tam Bảo dĩ từ bi, lịch nhất tâm nhi sám hối.(hết trích)
Ở đây nói đến 10 pháp kiết sử, gồm:
+ 5 thượng phần kiết sử.
Trong một bài giải thích khác:
Là năm sợi dây trói buộc về trạng thái có hình sắc (sắc giới) và trạng thái không hình sắc (vô sắc giới). Năm Thượng Phần Kiết Sử gồm có:
1- Sắc ái Kiết Sử: Những vật chất có hình ảnh làm cho chúng ta ưa thích như nhà lầu xe hơi, chùa to Phật lớn, tivi, tủ lạnh, vi tính, v.
2- Vô sắc ái Kiết Sử: Những vật không hình sắc như các cảm thọ: thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ thường sinh ra ưa thích và không ưa thích; như các hành: Thân hành, khẩu hành, ý hành làm cho chúng ta ưa thích.
3- Mạn Kiết Sử: Nói đủ là ngã mạn. Ngã mạn là tính kiêu căng tự đắc xem trời đất không ai bằng mình.
4- Trạo cử Kiết Sử: Những phiền não khiến tâm bất an, đó là về tâm. Còn trạo cử về thân thì thân đau nhức chỗ này, chỗ kia hoặc mỏi mệt bất an, lăn qua lộn lại, thân nhút nhít, động đậy không lúc nào yên.
5- Vô minh Kiết Sử: Trạng thái hôn trầm, thuỳ miên, vô ký khiến cho thân lười biếng, muốn đi nằm, đi ngủ, nói chung là trạng thái tham ăn tham ngủ, không tinh tấn siêng năng tu tập. Muốn đoạn diệt Năm Thượng Phần Kiết Sử thì duy nhất phải tu pháp môn Tứ Niệm Xứ, ngoài pháp môn Tứ Niệm Xứ thì không có pháp nào diệt nó được.
+ 5 hạ phần kiết sử, gồm:
thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham dục và sân -- là những kiết sử trói buộc con người vào sanh tử luân hồi. Có thoát ly khỏi các hạ phần kiết sử, mới mong đạt được Thánh quả.
ĐẠI KINH MALUNKYAPUTTA (Nikaya): Đức Phật giải nghi về các kiết sử.
Thế Tôn hỏi các Tỷ-kheo có ai thọ trì năm hạ phần kiết sử này thời Tôn giả Màlunkyaputta đáp là có thọ trì năm pháp này nhưng bị ngoại đạo dùng ví dụ đứa con nít ngây thơ đang nằm ngửa, không có tự thân, thời đâu có thân kiến; không biết đến các pháp, thời từ đâu có thể khởi lên các nghi hoặc đối với các pháp; không có giới, thời từ đâu có thể khởi lên giới cấm thủ trong các giới; không có dục vọng, thời từ đâu nó có thể khởi lên tham dục trong các dục; nếu đứa con nít nằm ngửa không có biết các loài hữu tình, thời từ đâu nó có thể khởi lên lòng sân?
Đứng trước những lời chỉ trích như vậy, đức Phật dạy cách trả lời là đứa con nít nằm ngửa, tuy không có thân kiến hiện hành, nhưng thật sự thân kiến sống tiềm tàng trong nó. Tuy không có nghi hoặc khởi lên, nhưng nghi hoặc tùy miên sống tiềm tàng trong nó. Tuy không có giới, nhưng giới cấm thủ tùy miên sống tiềm tàng trong nó. Tuy không có tham dục, nhưng tham dục tùy miên sống tiềm tàng trong nó. Tuy không có các loài hữu tình, nhưng sân tùy miên sống tiềm tàng trong nó. (hết trích)