Bài 14.- Kiết sử thứ 2.- Nghi a). Nghi Tăng.
Nghĩa là NGHI là pháp trói buộc, chướng Đạo.- Phải giải tỏa mới được Nhập lưu.
Phật dạy:
Kiết sử “hoài nghi” được định nghĩa như là nghi ngờ về sự Giác ngộ của Đức Phật, nghi ngờ về Giáo pháp của Ngài, và về sự hành trì của các vị Thánh tăng đệ tử. [Tăng Chi 10.92]
Nghi Phật, Nghi Pháp thì ở trên chúng ta ít nhiều đã quán sát.
Về Nghi Tăng ?
Đáp: điển hình có một bạn ý kiến về quý Thầy thế này: Có vị tên là
Tụ Hương (không biết là phật tử hay ngoại đạo ha ?). Nói rằng:
·
này không đúng ạ. Phật dạy giữ giới,
đãnh lễ đức hạnh bằng tâm chứ không phải bằng tiền.
Bố thí ở đây hiểu đúng là cơm, đồ ăn. nếu quý vị tu nhiệt tình, hành trì giới nhiệt tình thì ngày ăn 1 bữa cho gì ăn đó miễn là đồ chay thì lo gì đói mà kêu gọi cúng dường. chùa to phật lớn cũng không để làm gì nếu chính các vị tu không giữ giới. những thứ họ nhìn thấy đều không đúng giới phật dạy. chừng nào dân họ nhìn họ thương, họ rơi nước mắt thì họ sẵn sàng chia sẽ nửa phần ăn ngay và luôn. (hết trích)
Kính quý ĐH. Vị này xem chư Tăng như kẻ ăn mày đói rách, chư Tăng cần sự thương hại của người đời bằng cách "khổ nhục kế" để sống nhờ sự:" chừng nào dân họ nhìn họ thương, họ rơi nước mắt thì họ sẵn sàng chia sẽ nửa phần ăn ngay".
THẬT LÀ TỘI NGIỆP.- NGHI TĂNG là vậy.- Không có lòng Tin nơi Tăng Bảo.
Kính các Bạn. Thật tế.- Đối với Tăng là:
người đời trọng của báu,
Tăng quý phút an tịnh,
của báu rối lòng người,
Tịnh rồi lòng thanh thảng.
Ý là:
- Người đời có 7 Ái Tài, nên đời Bố Thí: vàng, bạc, tiền tài, cơm, thức ăn v.v...(Bạn Tụ Hương chỉ có cơm, thức ăn thôi).
- Chư Tăng có 7 Thánh Tài, nên Tăng Bố Thí: Tín – Giới – Tàm – Quý – Văn – Tinh Tấn – Trí Tuệ.
Người thích tử với danh xưng BẦN ĐẠO
Thân có BẦN, ĐẠO có BẦN chi!
BẦN biểu hiện áo khâu áo vá
ĐẠO không BẦN, tâm chứa NHƯ Ý châu
* Ngọc NHƯ Ý, dùng sao cho hết
Nó chứa đầy TỨ TRÍ , TAM THÂN
Vẹn LỤC THÔNG , BÁT GIẢI cùng tròn
TÂM ĐỊA sáng độ sinh vô cùng số.
(Chứng đạo ca)
Tăng - Tục là Bố thí lẫn nhau, trao đổi 2 chiều thôi. Dùng Ái Tài, đổi Thánh Tài.- Tùy nhu cầu. Nếu không muốn- thì đâu ai ép buộc ai !!! Cũng đừng nên ỷ mình có của rồi khinh rẻ nhau !!!
Hiện nay, do một số biến động trên xã hội, mà có một số nghi rằng:
* Nghi chư Tăng nhận tiền là không chơn tu ! Chùa chiền to lớn là không chơn tu ! Mà Chơn tu là phải rách rưới, đói khổ, lang thang, không nơi ăn chốn ở . mới là phải phải !!!
Đáp: Kính các ĐH. Phật Giáo trên thế giới từ trên 2500 nay có 2 hệ phái: Nam Tông và Bắc Tông.
+Hệ Nam Tông: Như ở Campuchia, Thái Lan, Miến Điện, Lào v.v... có chùa vàng, chùa bạc đó, Tăng ở đó nếu không nhận vàng bạc thì lấy cái gì để tạo ra chùa vàng ?. Như vậy không chơn tu à ? Chư Tăng hệ Nguyên thủy ở các nơi ấy, đi khất thực vẫn nhận tiền và các vật khác là không chơn tu à ?
+ Hệ Bắc Tông: Như ở Trung Quốc, Nhật Bổn, Đoài Loan v.v...Mấy ngàn năm nay Vẫn có chùa to Phật lớn, chùa nào cũng có thùng "phước điền".- là không chơn tu à ? Hay chỉ những ông ăn mày chính hiệu mới là Chơn tu ?
+ Té ra. Đối với số người tà kiến, Mạn Phật - Khinh Tăng, thì: Những người làm hạnh lạ (dù sai Luật Phật, luật Tăng Đoàn mà họ không biết) thì họ cho là Chơn tu. Rồi so sánh mà phỉ báng Chư Tăng.-Đó là Nghi Tăng.
Đối với vấn đề nhận cúng dường bằng 7 báu (tiền bạc v.v...) Kinh Phật có nhiều dẫn chứng như sau:
1+ Tích Trưởng giả Tu Đạt:
Ở thành Xá Vệ Ấn Độ cổ. Có ông trưởng giả tên Tu Đạt, hiệu Cấp cô độc.
Khi gặp Đức Phật, ông muốn cúng dường khu đất để làm Tịnh Xá để Phật thuyết Pháp.
Nhưng khu đất xinh đẹp ấy lại là của hoàng tộc. Hoàng thân Kỳ-Đà (Jeta) là sở hữu chủ, Trưởng giả Tu-Đạt khăn áo chỉnh tề đến xá lạy hoàng thân Kỳ-Đà ngõ ý muốn hoàng thân chuyển nhượng cho miếng đất ấy.
Hoàng thân Kỳ-Đà ngẩng đầu lên, trả lời:
- Ta cũng không bán đâu, thưa ngài triệu phú. Ở Xá-Vệ này chẳng nơi nào đẹp và quí bằng khu rừng của ta.
- Dạ biết, thưa hoàng thân!
Hoàng thân Kỳ-Đà cao giọng:
- Vậy sao ngài triệu phú còn đòi mua? Ta biết ngài triệu phú giàu sang nức tiếng mấy đời, nếu ngài có khả năng thì cứ lấy vàng mà lót đầy trên đất đó, ta sẽ bán cho.
Trưởng giả Tu-Đạt hớn hở:
- Thưa hoàng thân, đổi như thế nào ạ?
- Suối không kể, đá không kể, chỉ tính là đất thôi - ngài lấy vàng lát cho đầy mặt đất, vàng lát đến đâu là đất ta bán cho ngài đến đó!
- Đồng ý. Tôi sẽ mua với giá như vậy. Tôi biết hoàng thân là người trọng tín nghĩa nổi danh ở đất Xá-Vệ này, một lời nói ra xem nặng bằng non!
Thế là suốt mấy ngày ròng rã, trưởng giả Tu-Đạt với hàng trăm gia nhân hì hục vận chuyển vàng từ kho này sang kho khác, những mong lấp cho đầy đất, mua trọn cả khu rừng để cúng dường đến Đức Thế Tôn và Tăng chúng.
Hoàng thân Kỳ-Đà không ngờ chuyện nói chơi mà thành thật. Ông vội vã cho thắng ngựa đến nơi xem. Ngạc nhiên làm sao, từ khu đất này sang khu đất khác, vàng đã được lát đầy, sít sao không có kẽ hở! Và kìa, trưởng giả Tu-Đạt đang đứng trầm ngâm nhìn ngắm những gốc cây cổ thụ.
Hoàng thân Kỳ-Đà mỉm cười:
- Sao? Đắt quá phải không? Ta không cần vàng đâu, ngài triệu phú! Hãy rút lời lại đi, cũng không muộn mà!
- Dạ, không ạ! Thưa hoàng thân! Tôi không dám nghĩ là đắt đâu! Tôi đang tính toán là vàng phải lát như thế nào ở nơi những gốc cổ thụ choáng đất kia!
Hoàng thân Kỳ-Đà mở lớn mắt, ông không còn dám tin vào tai của mình nữa. Quả có chuyện kỳ lạ như vậy ư? Ông triệu phú này điên khùng hay sao mà dám coi vàng còn tệ hơn đất cục? Đồng ý là đất này quí nhưng cũng không thể quí bằng vàng được! Từ ngạc nhiên đến tò mò, hoàng thân bèn cặn kẽ hỏi lý do. Trưởng giả Tu-Đạt cũng tự sự đầu đuôi kể cho hoàng thân nghe về Đức Thế Tôn và Tăng chúng. Ông cũng không quên kể chuyện là vua Bình Sa đã qui y Đức Thế Tôn, cúng dường Trúc Lâm tịnh xá như thế nào. Riêng ông thì được nghe pháp và sự chuyển hóa lạ lùng, sự bình an lạ lùng xảy ra trong tâm ông ra sao!
Hoàng thân Kỳ-Đà chăm chú lắng nghe, tự nghĩ:
"- Ông Phật, qua đó chắc là một vị đạo cao đức trọng, một vị Thánh đang xuất hiện ở đời này. Ông triệu phú đã làm một việc có ý nghĩa vĩ đại. Ông ta là hạng dân dã mà dám phát tâm cao thượng - còn ta, ta cũng nên đóng góp vào đấy một chút công đức."
Bèn nói:
- Thôi! Ngài triệu phú đừng tính vàng nơi mấy gốc cây kia nữa, nhiều lắm đấy! Ngài cúng dường đất đến Đức Phật và Tăng chúng còn ta thì xin được cúng dường cây. Đất là của ngài triệu phú, còn cây là của Kỳ-Đà này, được chăng?
Vì tích này nên Kỳ Viên tịnh xá còn được gọi là Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên (Kỳ thọ: cây của Kỳ Đà; Cấp Cô Độc viên: vườn của Cấp Cô Độc)
Tạm lượt truyện.
Kính các Bạn:
- Trưởng Giả Cấp Cô Độc cúng Phật và Tăng.Vườn, đất, tinh xá v.v...
- Thái tử Kỳ Đà cúng hẳn số vàng còn lại của ngài mà phần ngài nên nhận.
2 tấm gương trên đâu phải chỉ là cơm thừa, canh cặn do thương xót mà bố thí (như bạn Tụ Hương khinh Tăng đã nói).
2+ Như Đoạn kinh Diệu Pháp Liên Hoa:
Kính các Bạn. Trừ nhóm đệ tử của Nguyên Thủy Chơn Như (đập tượng Phật), thì quý ĐH là Phật tử Bắc Tông ai cũng biết Phẩm Phổ Môn. Phật dạy:
Bồ tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Nay con phải cúng dường đức Bồ tát Quán Thế Âm."
Nói xong liền cởi chuỗi ngọc đương deo nơi cổ, gồm toàn châu báu, trị giá trăm nghìn lượng vàng dâng lên đức Quán thế âm và thưa rằng: "Cúi xin Nhơn giả nhận chuỗi trân bảo pháp thí này".
Lúc ấy, đức Bồ tát Quán thế âm chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô Tận Ý lại bạch đức Bồ tát Quán thế âm rằng: "Cúi xin Nhơn giả, vì thương xót chúng tôi, thâu nhận chuỗi ngọc này".
Bấy giờ, Phật bảo đức Bồ tát Quán thế âm rằng: "Ngươi nên lân mẫn Bồ tát Vô Tận Ý và hàng tứ chúng, cùng hết thảy Thiên, Long, Dạ xoa, Can thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Nhơn và phi nhơn các loại, mà thâu nhận chuỗi ngọc kia."
Bồ tát Quán thế âm xót thương tứ chúng cùng thiên, long, nhơn , phi nhơn các loại, nhận lấy chuỗi ngọc chia làm hai phần, một phần dâng cúng đức Phật Thích ca Mâu ni, một phần dâng cúng tháp đức Phật Đa bảo.
Kính các Bạn. Quan Âm Bồ Tát là Thánh Tăng đó. Ngài vâng lời Phật mà nhận trân bảo, tiền bạc đó. Chư Tăng nhận tiền bạc cúng dường, thì tội gì ???
Nghi Tăng.- Là NGHI KIẾT SỬ.