nguyenvanhoc2006

Nhật ký Dharamsala

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Mà nói đến ăn xin, tôi nhận xét thấy một điều thật tương phản giữa người Ấn
độ và người Tây tạng. Đó là, người Ấn độ đi ăn xin rất nhiều. Nhan nhản trên
đường phố Ấn độ. Người Ấn độ ăn mày còn vào cả trong các tu viện đi ăn xin
các du khách và chư tăng, nhất là trong những dịp lễ lạc lớn khi có nhiều
người ngoại quốc về tham dự. Và họ níu kéo cả tay áo của du khách, làm
phiền cho đến khi xin được tiền mới thôi. Ngược lại, trong suốt những lần đi
về các tu viện và các trại tỵ nạn của người Tây tạng, cũng như trong suốt
thời gian ở tại Dharamsala, tôi chưa hề thấy một người Tây tạng nào đi ăn
xin. Có những người Tây tạng rất nghèo khó, làm việc cực nhọc kinh khủng
để kiếm sống, nhưng họ không đi ăn xin, không ăn cắp, và họ rất vui vẻ,
hiếu khách và dễ dàng chia sớt vật dụng thức ăn cho người khác. Điều này
cũng làm cho tôi phải sinh lòng kính trọng nền văn hóa đặc biệt ấy. Đến đây,
tôi lại bồi hồi nhớ đến lần công tác ở Việt nam, khi đó tôi vào thăm Huế, chợ
Đông Ba, dân chúng cũng có cái giống như người Tây tạng, rất giữ nề nếp, đi
bán chè cũng mặc áo dài, nhưng chân đi đất vì nghèo, và cũng giữ cái liêm
chính không ăn cắp vặt. Tôi nghĩ, người Huế giữ được cái truyền thống của
mình, làm cho du khách đến thăm phải sinh lòng kính trọng…
Sau năm tiếng đi xe, chúng tôi tới Bangalore, thày viện trưởng đưa tôi vào
khách sạn quen, trong đó đã có thấy nhiều vị tăng quen biết đang ở. Tôi còn
được hơn một ngày để đi dạo chơi thành phố Bangalore. Khác với lần thày
viện trưởng dẫn tôi đi Bangalore năm 2002, hồi đó, ngài dẫn tôi đi thăm thú
nhiều nơi. Bây giờ, ngài đã già hơn, và chỉ dặn tôi là thích đi chơi đâu thì cứ
đi, còn thày chỉ ở trong phòng của khách sạn thôi.
Tôi cũng đâu có thích thú đi chơi gì lắm. Đầu tiên là về phòng tắm rửa sau
chuyến đi dài 5 tiếng mệt mỏi. Sau đó, tôi cần một thời thiền định để an
tâm, rồi mới đi đâu thì hãy tính sau. Tôi kính chào thày và đi về phòng mình.
Trong thời thiền quán, không biết tại sao lòng tôi cứ xúc động liên miên và
trào nước mắt. Phải chăng là vì những ưu tư lo lắng của thày viện trưởng khi
ngài kể lại cho tôi nghe những khó khăn hiện giờ tu viện phải đương đầu, mà
chính yếu là vấn đề chủ nghĩa đồng hóa và đàn áp cũng như xâm phạm chủ
quyền của Trung quốc đối với người Tây tạng... Những lo lắng đương đầu với
các vấn đề chính trị và ảnh hưởng của Trung quốc đối với chính phủ Ấn độ,
làm cho chính phủ lưu vong của Tây tạng càng ngày càng gặp khó khăn
trong chính sách đối ngoại cũng như đối với đồng bào tỵ nạn. Hay là vì tôi
thấy thày đã già đi, không còn như năm 2002, khỏe mạnh và dẫn tôi đi
thăm mọi nơi… Những kỷ niệm quá khứ trở về, mà ngày hôm nay, tất cả như
là giấc mộng.
Sau thời thiền quán, tôi ngủ một giấc chưa kịp thức dậy, thì có tiếng gõ cửa.
Hai vị tăng thị giả của thày viện trưởng rủ tôi đi ăn cơm trưa trễ và nhân tiện
mua chút gì về cho thày. Chúng tôi ăn nhanh nhanh để mang thức ăn về
phòng cho thày, và tôi ngồi bên thày suốt buổi ăn trưa thật trễ đó. Nghe
thày kể chuyện điều hành của tu viện, những khó khăn hiện tại của thày
cũng như của đức Đạt Lai Lạt Ma đối với tình hình Tây tạng và với nhóm tu
tập pháp môn Shugden Dorje…Khi thày ăn xong và nằm nghỉ, tôi xin phép
thày ra ngoài đi dạo một vòng , nhân tiện gửi vài lá điện thư thăm hỏi và kể
chuyện cho bạn bè về chuyến đi của mình.
Trên đường về phòng, tôi ghé qua một tiệm trái cây bên lề đường, mua một
ký quýt lớn, tôi biết thứ quýt lớn, tươi và ngọt này, thày viện trưởng rất
thích, định bụng để cúng dường ngài sau thời nghỉ ngơi. Lần trước năm
2002, tôi cũng rất thường mua quýt này cúng dường thày dùng sau thời gian
nghỉ trưa.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

6. Ngày 17 tháng 2, 2008


Sáng sớm thiền tọa hành trì khá yên ổn và an bình. Thành phố Bangalore
bắt đầu hoạt động náo nhiệt kể từ 7 giờ sáng. Một ngày trong thành phố lớn
bắt đầu bằng lễ cúng dường của đền thờ Ấn độ giáo không xa nơi khách sạn
của chúng tôi lắm. Người Ấn độ hành lễ cúng dường vào mỗi sáng rất sớm,
và họ cũng gọi những buổi lễ ấy là lễ cúng dường, Ấn ngữ gọi là " puja ", sau
đó thì họ đi làm, và thành phố bắt đầu tấp nập, ồn ào.
(Nếu vào giờ sáng sớm đi làm ấy, bạn ra đường thì thấy nơi hai chân mày giao nhau,
giữa trán mỗi người đều có một chấm bằng phấn màu đỏ. Đó là vệt phấn ban phép
lành hộ trì[15]. Chấm ban phép lành này khác với chấm son màu đỏ của các bà
Ấn độ, tượng trưng cho một đóa hoa đã có chủ, nghĩa là phụ nữ đã có chồng).

Đền thờ Ấn độ giáo cầu nguyện rất ầm ỹ, vì họ bắc loa phát những lời cầu
nguyện đó ra các góc đường sáng sớm, làm buổi thiền tọa của tôi phải chấm
dứt để chuyển sang tụng chú.
Buổi sáng hôm nay, thày viện trưởng dẫn chúng tôi đi ăn sáng rất trễ. Thày
có ý muốn dẫn tôi vào một tiệm ăn Ấn khá ngon, chuyên làm ăn sáng với
các món thuần tuý của Ấn độ như là món bánh kẹp "dosa", giống như món
bánh kếp "pancake" thật mỏng, bên trong bỏ nhân bằng khoai tây nghiền và
chứa rất nhiều gia vị Ấn độ. Tuy bánh khá ngon mà tôi không dám ăn nhiều
vì bánh quá nhiều dầu và bụng không quen với các món gia vị Ấn độ. Thày
dùng món điểm tâm "itry", giống như món bánh bò, chấm vào các dĩa sốt
cà chua, hoặc dừa giã nhuyễn, tất cả các sốt ấy lại cũng đầy gia vị. Lần đầu
tiên, nghe thày dạy là món "itry", mà với giọng đọc Ấn độ quá nhanh, tôi cứ
ngỡ món ấy tên là "italy", và cứ gọi tên như thế làm thày cười quá.
Vì ăn sáng quá trễ, nên sau khi về phòng, chúng tôi đi ăn trưa cũng rất trễ
và mua thức ăn mang về phòng cho thày. Thày bảo là tối nay chúng ta sẽ đi
ra trạm xe lửa lúc 7 giờ để lấy chuyến tàu đi New Delhi lúc 8 giờ 15.
Tối hôm đó, khi lên được xe lửa tôi mới biết là vì mua vé khó khăn nên
giường của của tôi và của thày viện trưởng ở hai toa xe khác nhau, như vậy
là tôi sẽ phải ngồi riêng một mình trên một toa xe khác, cạnh toa xe của
thày. Khi vác được va-li để dưới gầm giường và ngồi trên giường, tôi nhìn lại
toa xe để định vị trí của xe lửa Ấn độ, mà đây là lần đầu tiên tôi bước lên.
Cũng chẳng khác gì xe lửa Việt nam lắm. Giường của tôi ở tầng giữa cho nên
muốn ngồi thì phải khom lưng. Nhưng thường thì giường từng giữa chỉ được
hạ xuống khi đi ngủ, còn những lúc ban ngày thì treo lên để tất cả các hành
khách có thể ngồi thẳng lưng cho thoái mái. Vì chuyến xe này là chuyến tốc
hành cho nên thời gian đi từ Bangalore đến New Delhi chỉ mất 32 tiếng, các
chuyến xe bình thường phải mất 40 tiếng mới đến nơi.
Lên xe lửa ngồi một lúc thì các hành khách chia chung phòng với tôi bắt đầu
lên xe. Hai tầng giường trên cùng là hai cô thiếu nữ Ấn nằm. Hai tầng dưới
cùng là hai vợ chồng Ấn trung niên. Đối diện với tầng của tôi là một thanh
niên Ấn cỏ vẻ là sinh viên, mang bài sách vở ra học trên xe lửa. Còn hai
giường kia dọc hành lang thì có một thanh niên Ấn nằm, giường trên cùng
thì bỏ trống. Tôi bỡ ngỡ khi nhìn thấy hai vợ chồng trung niên Ấn lấy ổ khóa
ra và khoá các hành lý của họ vào giây xích của xe lửa đã có sẵn để dùng
vào việc bảo vệ an toàn chống mất cắp. Tất cả đều thật lạ lùng mới mẻ với
tôi, và tôi mở to mắt ra quan sát mọi sự chung quanh mình.
Xe lửa chuyển bánh không được bao lâu thì nhân viên cho ăn tối. Chuyến tốc
hành này cũng khá tốt vì bao gồm cả các bữa ăn. Tuy các phần ăn mỗi bữa
không nhiều, nhưng đủ để cho no lòng cho người ăn quen đồ ăn Ấn. Các
món ăn hoàn toàn thuần túy Ấn độ, nghĩa là ăn chay, và thật nhiều gia vị.
Do đó, tôi chỉ dám ăn khoảng một phần ba của phần ăn, còn lại thì đành
phải bỏ thôi, vì không muốn đau bụng và rắc rối nếu lỡ mang bệnh.
Sau bữa ăn tối, mọi người chia chung phòng chuyện trò trao đổi thoải mái,
không khí vui như trong một gia đình. Còn tôi thì không nói gì cả, vì không
biết tiếng Ấn, và ngồi nhắm mắt dưỡng thần. Đang nhắm mắt thiền định thì
thày viện trưởng ghé qua xem tình hình của tôi ra sao, ngài hơi quan tâm
đến tôi vì biết đây là lần đầu tiên tôi đi xe lửa Ấn độ. Tôi chắp tay kính lễ
thày và thưa là mọi chuyện tốt đẹp, và đưa thày về chỗ của ngài để nghỉ
ngơi.
Sau đó, hai vợ chồng Ấn đi ngủ, và tôi cũng đi làm vệ sinh, rồi hành trì trong
tư thế nằm trước khi vào giấc ngủ qua hôm sau.


________

15. Blessings.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

7. Ngày 18 tháng 2, 2008

Sáng sớm tinh mơ tôi đã thức giậy đánh răng rửa mặt sạch sẽ và hành trì.
Dù sao, tôi cũng không thể ngủ được vì đêm qua, anh chàng thanh niên đối
diện tầng giường của tôi ngáy to quá, cộng thêm hai vợ chồng Ấn ở từng
dưới và anh chàng ở giường bên hành lang cũng ngáy làm thành bản hòa tấu
suốt đêm dài. Tôi cố gắng cả đêm trì chú nên khi mệt quá cũng thiếp đi vài
tiếng. Hình như là tôi có nghiệp thu hút tiếng ngáy. (Lần tôi về chùa Trúc
Lâm của thày Thanh Từ tu tập năm 1998, nhân chuyến đi công tác tại Việt
nam, tôi cũng bị tình trạng như thế, bên cạnh giường của tôi là phái đoàn
nha sĩ từ Sài gòn về chữa răng cho chư tăng, có một vị nam nha sĩ mập mạp
to lớn và ngáy rất là to, làm tôi phải xin đổi phòng xuống nhà bếp ngủ mới
được yên).
Nguyên ngày hôm nay trên xe lửa có biết làm gì đâu ! Trừ những lúc nhân
viên phát phần ăn cho các bữa ăn, tôi thường hay ngồi khoanh chân thiền
định, cho nên trong ngày mấy lần thày viện trưởng ghé qua chỉ thấy tôi
nhắm mắt xếp bằng . Còn các vị hành khách Ấn độ kia thì chuyện trò vui vẻ
(sau này thày kể lại với tôi là ghé qua thăm, thì chỉ thấy như thế). Người Ấn
độ di chuyển rất nhiều bằng xe lửa, và họ có một thói quen khá hay, là khi
chia chung phòng, họ làm thân với nhau và coi nhau như người trong một
gia đình, truyện trò đùa giỡn cho qua hai ngày dài trên xe lửa.
Sau này, khi không khí quen thuộc với nhau, vào những bữa cơm, các vị Ấn
độ chung phòng đó hỏi tôi đi về Ấn làm gì, tại sao không chịu ăn gì cả, và họ
cũng bắt đầu dạy tôi vài ba chữ tiếng Ấn, vâng dạ, không, có v.v… Họ còn
hỏi tôi theo đạo gì mà cả ngày ngồi nhắm mắt hoặc tụng lẩm bẩm trong
miệng. Tối hôm sau đó, tôi ngủ được yên ổn vì anh chàng thanh niên ở
giường đối diện ôm cả chồng sách qua học với bạn và ngủ luôn ở bên kia. Tôi
ngủ được và thấy khoẻ khoắn hơn nhiều.


(còn tiếp phần 3: Tu học tại Dharamsala)

Không Quán
20 march 2008.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Nhật ký Dharamsala

Phần 3: Tu học tại Dharamsala

8. Ngày 19 tháng 2, 2008

Sáng hôm đó chuyến xe lửa đến New Delhi lúc 9 giờ. Thày viện trưởng và
hai vị sư phụ tá cùng tôi đi đến nhà riêng của một trong hai vị sư này để
nghỉ ngơi, và dùng bữa trưa.
Khi bước chân ra khỏi nhà ga xe lửa, đến ngoài đường, điều đầu tiên đập vào
thị giác, cũng như tràn đầy khứu giác của tôi là thành phố New Delhi thật là
… đông dân và bẩn thỉu. Cảnh đập vào mắt là xe chen chúc chật cả mọi nơi,
xe taxi chui ra được khỏi cái sân của nhà ga là một kỳ công. Vị tài xế phải
vận dụng toàn thân người, vừa lái, vừa la hét om sòm cho những xe hơi và
xe lam ba bánh khác nhích ra, bấm còi inh ỏi, và có lúc phải nhoài người ra
khỏi xe để xem có đi lọt ra khỏi những khoảng cách bé xíu và sát rạt với các
xe khác. Thật quả là nếu chưa đi đến New Delhi, chắc chắn không thể tưởng
tượng ra nổi một thành phố kỳ cục như vậy. Mạnh ai nấy chạy, mạnh ai nấy
lái, không cần ngưng khi đèn đỏ, hễ không có xe là cứ chạy luôn. Đúng là
một màn biểu diễn lái xe kinh hồn.
Tràn đầy khứu giác là mùi xăng nhớt và ô nhiễm. Bụi dơ bay loạn trong
không khí và ô nhiễm đến độ nhìn vào khoảng không chỉ thấy một màu mờ
mờ…Không khí khó thở đến mức độ tôi cảm thấy muốn ho. Rất tiếc là tôi
không mang theo khẩu trang để đeo. Tự nhiên tôi đưa tay bịt mũi…và e ngại
sẽ bị viêm cuống họng.
Rồi cũng về đến nhà vị sư phụ tá trong một ngõ hẻm, người tài xế taxi nhất
định không dám lái xe vào. Thày và chúng tôi phải xuống đi bộ một quãng
mang theo tất cả hành lý nặng nhọc vì đường gập ghềnh quá độ, không thể
kéo hành lý trên bánh xe lăn, mặc dù hành lý nào cũng có bánh xe.
Vào được nhà thì thày đi nghỉ. Tôi cũng thấy mệt và buồn ngủ, nên sau khi
rửa mặt và làm vệ sinh, xin với vị sư phụ tá vào phòng trong để ngủ trên
một cái ghế trường kỷ. Tơi thầm nghĩ là chuyến hành trình khó nhọc đi về
Dharamsala sẽ thật sự bắt đầu từ New Delhi này đây.
Khi ngủ dậy, tôi cảm thấy sự lo ngại của tôi đã thành sự thật: tôi bắt đầu ho
và cảm thấy có đờm trong cổ họng và trong xoang mũi. Có lẽ tôi đã bị nhiễm
trùng cổ họng và viêm xoang mũi[16] rồi. Thây kệ, tôi ngồi xếp bằng, hành trì
cho đến khi người trong nhà gọi tôi ra dùng cơm trưa.

Đến chiều hôm đó thày viện trưởng gọi tôi vào phòng dặn dò. Ngài nói vé xe
lửa không mua được vì số lượng người đổ về Dharamsala quá đông. Vì thế
nên tôi phải lấy xe buýt để đi về Dharamsala, (thày viện trưởng sẽ đi xe lửa
đến đó). Trên xe buýt sẽ rất chật chội và khó khăn, nên ngài dặn tôi để hết
hành lý lại tại nhà vị sư phụ tá, chỉ mang tối thiểu đồ đạc và bỏ vào trong
hành lý xách tay để tránh nặng nhọc và cực khổ khi di chuyển. Khi xong thời
gian tu học tại Dharamsala thì tôi chỉ phải ghé qua New Delhi lấy hành lý gửi
tại đây và ra phi trường New Delhi để đi thẳng về Montreal. Tôi nhân tiện
thưa với thày về số tiền mang theo để cúng dường đức Đạt Lai Lạt Ma và
chư tăng. Vì phải đi một mình trên chuyến xe buýt, nên tôi cảm thấy ngại
ngùng nếu phải mang nhiều tiền trong người, và xin cúng dường lên thày
ngay để thày lo liệu mọi chuyện hộ cho tôi. Thày hoan hỷ nhận lời.
Còn tôi, sau khi cúng dường tịnh tài xong, tôi cũng thấy trong lòng hoan hỷ
và nhẹ nhõm. Đồng thời, tôi đã bắt đầu thực sự hiểu ra sự khó nhọc của đời
sống ở đây, khi đi lang thang trên các nẻo đường gập ghềnh, và nhất là lúc
phải leo cầu thang cao vời vợi để đi vào nhà ga xe lửa. Ở đây, chẳng làm gì
có thang cuốn bằng máy, cho nên tôi đi thu xếp lại hành lý, và chỉ chọn
những vật dụng tối cần thiết để mang đi về Dharamsala trong cái va-li xách
tay. Còn lại bao nhiêu đồ đạc, tôi nhét chật cứng vào trong va-li to và gửi lại
đây cùng với cái thangka đức Phật Dược sư mà thày viện trưởng đã cho
người may lại (rất đẹp và khá lớn). Xong xuôi, tôi thở phào và cầu nguyện
cho chuyến đi xe buýt tối nay được mọi sự an lành.
Đúng 4 giờ chiều, vị sư phụ tá đón tôi đi ra trại tỵ nạn của người Tây tạng để
chờ sẵn, vì trại tỵ nạn Tây tạng rất gần trạm xe, có thể đi bộ ra được.
Chuyến xe sẽ khởi hành lúc 6 giờ chiều, nhưng cần phải đi sớm để còn xếp
hành lý lên trên xe. Vị sư phụ tá dẫn tôi vào trong một căn nhà nhỏ nghèo
nàn để đợi chuyến xe buýt. Tôi nhân tiện đi vòng vòng khu phố của trại tỵ
nạn. Dọc khu phố có đầy các gian hàng bán trên vỉa hè. Đường xá và không
khí cũng vẫn ô nhiễm và bẩn thỉu. Tôi quay trở về căn nhà ngồi nhắm mắt
tụng chú, và chìm vào trong một giấc ngủ ngắn. Khi căn nhà ồn ào tiếng nói
thì tôi tỉnh giấc và thấy rất nhiều vị tăng sĩ của Sera cũng tụ họp tại đây để
lấy xe buýt như tôi đi về Dharamsala. Như vậy có nghĩa là trên xe buýt sẽ
không đáng ngại lắm, vì hành khách gần như chỉ toàn các tăng sĩ Sera. Một
vị tăng đến gần tôi và tự giới thiệu bằng anh ngữ, tên là Achoo. Vị này được
chỉ định đi theo tôi để giúp đỡ khi cần và chúng tôi có 3 người, sẽ ngồi gần
nhau: hai tăng sĩ là Achoo, cháu của thày viện trưởng tên là Tenzin Kelsang
và tôi. Tôi nhìn kỹ Achoo. Đó là một tăng sĩ trung niên, nhưng vẫn nhỏ tuổi
hơn tôi khá nhiều, khuôn mặt thật hiền lành chất phác. Tôi thấy rất là cảm
mến. Vị tăng sĩ cháu của thày viện trưởng thì tôi đã quen biết từ năm 2002
và tôi thường hay giúp đỡ tịnh tài để tu học. Tôi cảm thấy yên tâm và nghĩ
thầm: cho dù chuyến hành trình sẽ thật là cực nhọc, nhưng bên những người
bạn tăng sĩ này, tôi sẽ cảm thấy trong lòng ấm áp và vui vẻ.


_________

16. Sinusitis.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Lúc 6 giờ chiều, chúng tôi đi bộ ra bến xe, mỗi người tự xách hành lý của
mình. Bến đã đông người và hai ba chiếc xe buýt đang nhận người lên xe và
chất hành lý. Bến xe thì thực là bẩn thỉu vì bò lớn bò bé đi thanh thản và lâu
lâu làm một bãi phân to tướng. Tôi cứ phải nhắc chừng hai vị tăng đi theo để
tránh phân bò, họ cười nói là không có sao. Thật đúng là Ấn độ. Tôi nghĩ
bụng nếu hai vị này đạp phân mà leo lên xe buýt ngồi cạnh mình thì quả là
khó khăn, chưa kể là nếu hành lý phải xếp dưới chân chỗ ngồi.
Cuối cùng chuyến xe của chúng tôi cũng đến, hai vị tăng đẩy tôi lên xe buýt
cho lẹ, mang theo cả cái hành lý xách tay duy nhất của tôi và của họ lên xe.
Ba chỗ ngồi của chúng tôi thuộc hai hàng ghế cuối cùng. Tôi vào ghế ngồi và
để va-li xách tay của tôi dưới gầm ghế là hết chỗ. Hai vị tăng đành phải ra
khỏi xe, ném hành lý của mình lên để cho lơ xe chụp lấy và xếp lên mui. Đi
như vậy, nếu bị mưa thì lãnh đủ, vì bên trong hành lý sẽ ướt hết. Mà cái lối
ném hành lý lên mui xe cũng thật là thủ công nghệ: các sư tung hành lý lên
cao cho lơ xe chụp lấy và sắp trên mui. Nếu có lỡ tay chụp hụt mà rớt xuống
thì ở dưới ráng mà chụp lại. May mà chư tăng chỉ thường dùng loại hành lý
bằng bao vải bố và trong hành lý chỉ phần lớn là quần áo, nếu có chụp hụt
cũng chẳng vỡ đồ đạc gì. Thế mới biết là hai ngày qua đi xe lửa sướng hơn
rất nhiều, vừa có giường, vừa có chỗ để hành lý rộng hơn xe buýt nhiều lắm.
Tôi lại nghĩ thầm, chuyến hành trình này xuống thêm một cấp nữa nhé…
Nhìn lại xe buýt, tôi mới học thêm một điều mới lạ: xe buýt ở đây có hai
tầng. Tầng trên toàn là giường nằm, rộng rãi đỡ khổ hơn là ngồi ghế. Dĩ
nhiên là giường trên xe buýt nhỏ hơn giường trên xe lửa nhiều. Ngay cả tầng
dưới cũng chia hai bên. Bên của tôi chỉ toàn là chỗ ngồi, còn bên kia có tới
ba cái giường. Mỗi giường đều có hai cánh cửa có thể khép kín lại để bớt bị
ồn ào và dễ nghỉ ngơi. Vậy mà vị tăng sĩ phụ trách mua vé hộ tôi không mua
được, chắc vì mua trễ nên đã hết chỗ giường nằm trên xe buýt.
Giá vé đi xe buýt từ New Delhi về Dharamsala khá rẻ. Đoạn đường dài
khoảng 511km, mà giá vé khoảng 600 rupees (gần 15$ đô la). Còn giá vé
của giường nằm chỉ đắt hơn có 200 rupees (thêm 5$ đô la). Vì đường đi leo
núi đèo, ngoằn ngoèo khúc khuỷu, rất là xấu, cho nên xe buýt sẽ chạy rất
chậm. Nhanh lắm thì cũng phải 12 tiếng là tối thiểu.
Ngồi vào chỗ trên xe buýt mới thấy vấn đề. Xe làm tại Trung quốc cho nên
chỗ ngồi rất nhỏ và hẹp. Hình như xe làm để chở những người Trung hoa lục
địa gầy gò và nhỏ con. Không thoải mái chút nào như xe buýt vùng Bắc Mỹ.
Đành vậy, tôi cố ngồi thu nhỏ lại.
Xe khởi hành sau 15 phút. Vị tăng sĩ Achoo tuy gầy, nhưng cao, nên ngồi
ghế sau tôi cũng không thoải mái chút nào. May quá, một vị tăng sĩ khác
ngồi chỗ ghế bên cạnh Achoo là bạn thân của vị tăng trẻ mua vé giường bên
cạnh, và sau khi trò chuyện thân tình đã chui vào nằm chung giường của vị
tăng sĩ trẻ đó. Achoo thích quá, ngả lưng nằm trên hai ghế. Còn tôi vội vàng
lấy hành lý xách tay ra khỏi dưới ghế, đặt vào dưới chân chỗ của vị tăng đã
bỏ vào giường nằm để chúng tôi có thể dễ dàng duỗi chân. Vui vẻ và thoải
mái cho cả Achoo lẫn tôi và Tenzin Kelsang ngồi cạnh tôi. Chúng tôi duỗi
chân được nên thoải mái hơn trước, lúc hành lý còn ở dưới gầm ghế. Còn
Achoo thì nằm ở đàng sau và ca hát luôn miệng những bài hát Tây tạng hay
Ấn độ đang nổi tiếng thời thượng. Tôi ngủ được một chút thì xe buýt ngừng
bánh tại một tiệm ăn. Chúng tôi xuống xe kiếm gì ăn vì đi từ 4 giờ chiều,
chưa ăn gì cả nên bụng đã bắt đầu sôi sục. Mà cũng chẳng ăn được nhiều vì
tiệm ăn Ấn độ làm thức ăn rất cay và thêm quá nhiều gia vị. Tôi ăn chút
chút, còn Achoo, Tenzin Kelsang và hai vị tăng sĩ ngủ giường bên cạnh thì
ăn rất nhiều. Nhìn họ ăn uống ngon lành, tôi thấy thèm. Khi bồi bàn mang
giấy tính tiền ra để chúng tôi trả thì tôi thấy giá quá mắc, chắc là tại ăn
khuya giữa đường nên bị bắt chẹt. Nhìn các sư ngần ngại trước giá tiền, tôi
lẳng lặng cầm lấy biên lai và ra trả tiền cho tất cả năm người. Dù sao, tôi
vẫn là người đến từ Bắc Mỹ và có thể trả thoải mái cho họ.
Khi lên trở lại xe thì các lơ xe đi soát vé. Chúng tôi gặp rắc rối vì anh chàng
Ấn độ lơ xe chẳng hiểu ất giáp gì, thấy Achoo ngồi một mình hai ghế thì kêu
ầm ỹ lên, la hét và xô Achoo sang một bên, bảo rằng còn chỗ cho một người
hành khách khác. Achoo phân trần, nhưng phần thì tiếng Ấn độ không rành,
phần thì Achoo hiền quá, nên anh lơ xe làm dữ, đổ cho Achoo là ăn gian một
ghế. Tôi phải can thiệp và mở cửa của giường nằm đối diện, kêu vị tăng sĩ
kia chui ra và trình vé. Anh lơ xe giận dữ càu nhàu cấm không cho vị tăng sĩ
đó chia giường chung với bạn. Thật là vô lý. Cuối cùng, anh lơ xe đuối lý và
bỏ đi để cho chúng tôi yên ổn muốn làm gì thì làm. Thế là tạm yên ổn.
Chưa được bao lâu thì lại có rắc rối. Vị hành khách ngồi trước tôi hạ thấp
lưng ghế xuống để nằm ra và ngủ. Vì thế chỗ của tôi ngồi trở thành chật hẹp
vô cùng và tôi không thể xoay sở. Một mặt, tôi không muốn bắt vị đó dựng
lưng ghế lên, mặt kia, tôi cũng không muốn hạ lưng ghế mình làm khổ
Achoo nằm ngay đàng sau tôi. Thật là khổ, vì chỗ hẹp quá đến nỗi bắp vế và
bàn tọa của tôi ê ẩm và muốn bị vọp bẻ ! May quá, hơn một tiếng đồng hồ
sau thì thì xe ngừng cho hành khách đi nhà vệ sinh. Và khi trở lại xe, Tenzin
Kelsang nhỏ con hơn tôi nhiều, chịu đổi chỗ cho tôi ngồi mé ngoài để tôi
được tự do hơn một chút.
Lúc đó trời đã bắt đầu khuya và lạnh. Sau khi lên lại xe, tôi phải lôi hết tất
cả hai cái áo ấm ra, một cái là áo bông vải, cái kia là áo bành tô mùa đông
của Canada mặc vào mới tạm thoải mái.
Tôi cố gắng ngủ gà ngủ gật. Được một lúc thì tạm ngủ yên. Nhưng đang ngủ
thì bỗng giật nẩy mình. Xe cán cái ổ gà to đến độ, tôi nảy mình tung lên trên
ghế, đầu đập vào trần xe đau điếng người. Tỉnh giậy nhìn lại, đường xe chạy
bắt đầu leo núi, xe chạy cán ổ gà quá nhiều, mà ghế chúng tôi là hai hàng
cuối cùng sau xe, nên bị nhồi khủng khiếp. Thế mà xe cũng chẳng phải là
chạy nhanh lắm.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

9. Ngày 20 tháng 2, 2008

Càng về khuya xe càng leo núi lên cao và trong xe càng lạnh. Tôi co ro trong
hai lần áo. Càng ngày càng ho khúc khắc và bị đờm. Tôi không hiểu vì sao
mà trong xe lạnh quá mức như thế. Vừa lạnh vừa ẩm. Tôi quen khí hậu lạnh,
nhưng khô của Canada, nên không chịu được cái loại rét ẩm ướt thấu vào
trong lục phủ ngũ tạng. Phải gọi là rét mướt. Rét và ẩm nên gọi là mướt. Đôi
khi tôi phải chui đầu vào trong cái áo bành tô để giữ hơi thở ấm áp của mình
trong lần áo, sưởi ấm cho thân một chút hơi nóng.
Mà tôi vẫn thắc mắc tại sao mà trong xe lại lạnh kinh khiếp như vậy. Mãi cho
đến khi tới Dharamsala và nói chuyện với một chú bé Tây tạng mà chúng tôi
nuôi cho ăn học, ra đón tôi tại trạm xe buýt thì mới hiểu. Chú bé này có đi
học trường trung học ngoài đời tại Ấn nên khả năng anh ngữ khá khá một
chút. Lý do, chú giải thích là vì các tăng sĩ không quen đi xe hơi, nhất là xe
đò, bị xóc nhiều, cho nên các vị đều bị say sóng nôn mửa. Và để tiện việc
nôn mửa, gần như cả xe đều mở toang cửa sổ để sẵn sàng thò đầu, nôn qua
cửa kính, ra ngoài xe. Thảo nào mà tôi thấy trong quá lạnh như vậy, lạnh và
gió mà tôi cứ tưởng là đến từ sàn xe.
Do đó tôi càng ho, nhiễm trùng cổ họng và xoang mũi nhiều hơn. Khi xe đến
bến xe tại Dharamsala, quận McCleod Ganj, nơi trú ngụ của đức Đạt Lai Lạt
Ma thì đã hơn 9 giờ sáng. Chuyến xe rút cục lấy gần 16 tiếng đồng hồ. Mười
sáu tiếng tôi chịu trận, vừa đói vừa lạnh run.
Khi xuống được xe và gặp chú bé, tôi vẫn run lập cập, vì hôm đó thời tiết rất
lạnh tại McCleod Ganj. Chú bé thì mặc phong phanh có cái áo bông vải. Còn
tôi thì mặc cả áo bông lẫn bành tô mà lại run vì lạnh. Chú bé cười ngất và
hỏi, sao người Canada mà chịu lạnh kém thế. Tôi cũng không giải thích
nhiều, lo lấy hành lý ra và đi về khách sạn. Nhìn cảnh chư tăng chụp hành lý
do lơ xe đứng từ trên mui thảy xuống mà tôi ngao ngán lắc đầu. Quả là xứ
Ấn độ. Nói vậy chứ có vài va-li nặng quá thì lơ xe cũng phải thòng giây mà
thả xuống. Tôi mau mau ra phụ các tăng sĩ chụp hộ hành lý để sang một
bên cho mọi người rồi bảo chú bé dẫn về khách sạn. Từ trạm xe buýt đến
khách sạn chỉ khoảng 15 phút đi bộ. Nhưng đường xá ở đây thì quá lầy lội,
hỏi chú bé thì hóa ra trời đêm hôm qua vừa trải một cơn mưa lớn. Đi về đến
khách sạn thì đôi giày ba-ta của tôi đã lấm đầy bùn đỏ quạch.
Ngồi trong phòng rửa ráy mặt mũi tay chân và rửa giày ba-ta, tôi mừng
thầm là chuyến đi cực kỳ khó khăn đã trải qua rồi. Bây giờ, được nghỉ ngơi,
nhưng tôi sẽ phải đối phó với vần đề nhiễm trùng cổ, ho và viêm xoang mũi.
Chú bé rủ tôi đi ăn sáng. Tôi nhận lời và chúng tôi ra quán ăn nhỏ góc
đường. Tôi kêu một món trứng chiên và cà phê, còn chú bé và Tenzin
Kelsang thì ăn điểm tâm món ăn Ấn độ và uống trà sữa.
Hôm nay theo chương trình thì chúng tôi được nghỉ một ngày. Nhưng chú bé
và Tenzin Kelsang thì nói rằng chờ khi thày viện trưởng đến sẽ rủ tôi đi đến
thăm ngài. Tôi gật đầu và nói là bây giờ tôi sẽ về phòng nằm nghỉ. Khi nào
thày viện trưởng đến thì cứ ghé phòng tôi mà gọi.
Về đến phòng, tôi xem xét. Căn phòng nhỏ thôi, có hai giường đơn kê sát
nhau, nhưng cũng được lắm. Nước nóng có, nhưng thời tiết rất lạnh khoảng
4 hay 5 độ C gì đó. Chẳng thể nào tắm nổi cho dù có nước nóng. Tôi chỉ đi
rửa mặt mũi tay chân, rồi lên giuờng nằm ngủ một giấc vì cả đêm qua tôi đã
quá cực nhọc với chuyến xe. Phải thu hết can đảm mà chui vào trong chăn,
dùng hơi nóng thân mình để sưởi ấm chăn đệm. Nhưng một khi đã cảm thấy
ấm áp rồi thì lại không còn có can đảm chui ra khỏi giường.
Khi ngủ giậy và thấy khỏe khoắn hơn, tôi tọa thiền và hành trì các phần tu
tập hứa nguyện, sau đó tôi ra ngoài phố đi tản bộ và xem xét đường xá.
Thành phố Dharamsala nằm giữa thung lũng Kangra và bao gồm một diện
tích khoảng 29 cây số vuông. Tuy nằm giữa thung lũng, nhưng Dharamsala
khá cao, ở độ cao trung bình 1457 mét (4780 bộ anh). Vì nằm giữa thung
lũng và có núi lớn bao quanh, nên khí núi và hơi nước đọng lại khó thoát ra
được. Mùa đông, lạnh và ẩm, khoảng thời gian tôi đến là lúc lạnh nhất, nhiệt
độ xuống gần 0°C, và có những hôm tuyết rơi rất nhẹ. Khó khăn nhất là
những hôm mưa, vì vừa lạnh lại vừa ướt át khó chịu. Người dân ở đây nói với
tôi là mùa hè cũng khó khăn lắm vì tuy khí hậu nóng, nhưng vô cùng ẩm
thấp đến độ quần áo giặt xong mang phơi không khô nổi mà chỉ lên mốc
kim. Cách đi đến Dharamsala thường là bằng xe lửa, xuống trạm Pathangkot
(tuy viết vậy, nhưng tiếng Ấn đọc là Pa-tăng-cốt-ti, cách 120km đường xe
hơi) hay trạm Chakki Bank (150 km đường xe).
Dharamsala bao gồm Dharamsala thượng (upper Dharamsala, gọi đúng tên
là quận McLeod Ganj, độ cao là 1,700 mét hay 5,580 bộ anh) và Dharamsala
hạ (lower Dharamsala, thấp hơn 460 mét). Hai miền thượng và hạ cách
nhau 9 km đường xe, và miền hạ có thành phố đông đảo sầm uất hơn.
Tư dinh của đức Đạt Lai Lạt Ma và chính phủ lưu vong Ấn độ nằm tại
Dharamsala thượng, nối liền với ngôi chùa chính (main temple), là nơi ngài
thuyết pháp cho chư tăng và Phật tử. Chỉ riêng chư tăng về dự cũng đã
khoảng 6000 vị, và tổng số các Phật tử Tây tạng cũng như ngoại quốc mọi
nơi về tham dự ước lượng sơ khởi cũng phải đến 5000 hay 6000 người.
Tôi không có đủ thì giờ xuống thăm Dharamsala hạ, chỉ có một vài lần đi
ngang qua thành phố chính thì thấy ở đấy rất sầm uất. Phần lớn thì giờ tôi tu
học tại McLeod Ganj (Dharamsala thượng) tại ngôi chùa chính. Quận McLeod
Ganj rất là nhỏ, chỉ gồm vài cây số đường, và có hai đường song song dẫn
đến ngôi chùa chính nơi Phật tử đến ngồi nghe pháp.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

9. Ngày 20 tháng 2, 2008

Càng về khuya xe càng leo núi lên cao và trong xe càng lạnh. Tôi co ro trong
hai lần áo. Càng ngày càng ho khúc khắc và bị đờm. Tôi không hiểu vì sao
mà trong xe lạnh quá mức như thế. Vừa lạnh vừa ẩm. Tôi quen khí hậu lạnh,
nhưng khô của Canada, nên không chịu được cái loại rét ẩm ướt thấu vào
trong lục phủ ngũ tạng. Phải gọi là rét mướt. Rét và ẩm nên gọi là mướt. Đôi
khi tôi phải chui đầu vào trong cái áo bành tô để giữ hơi thở ấm áp của mình
trong lần áo, sưởi ấm cho thân một chút hơi nóng.
Mà tôi vẫn thắc mắc tại sao mà trong xe lại lạnh kinh khiếp như vậy. Mãi cho
đến khi tới Dharamsala và nói chuyện với một chú bé Tây tạng mà chúng tôi
nuôi cho ăn học, ra đón tôi tại trạm xe buýt thì mới hiểu. Chú bé này có đi
học trường trung học ngoài đời tại Ấn nên khả năng anh ngữ khá khá một
chút. Lý do, chú giải thích là vì các tăng sĩ không quen đi xe hơi, nhất là xe
đò, bị xóc nhiều, cho nên các vị đều bị say sóng nôn mửa. Và để tiện việc
nôn mửa, gần như cả xe đều mở toang cửa sổ để sẵn sàng thò đầu, nôn qua
cửa kính, ra ngoài xe. Thảo nào mà tôi thấy trong quá lạnh như vậy, lạnh và
gió mà tôi cứ tưởng là đến từ sàn xe.
Do đó tôi càng ho, nhiễm trùng cổ họng và xoang mũi nhiều hơn. Khi xe đến
bến xe tại Dharamsala, quận McCleod Ganj, nơi trú ngụ của đức Đạt Lai Lạt
Ma thì đã hơn 9 giờ sáng. Chuyến xe rút cục lấy gần 16 tiếng đồng hồ. Mười
sáu tiếng tôi chịu trận, vừa đói vừa lạnh run.
Khi xuống được xe và gặp chú bé, tôi vẫn run lập cập, vì hôm đó thời tiết rất
lạnh tại McCleod Ganj. Chú bé thì mặc phong phanh có cái áo bông vải. Còn
tôi thì mặc cả áo bông lẫn bành tô mà lại run vì lạnh. Chú bé cười ngất và
hỏi, sao người Canada mà chịu lạnh kém thế. Tôi cũng không giải thích
nhiều, lo lấy hành lý ra và đi về khách sạn. Nhìn cảnh chư tăng chụp hành lý
do lơ xe đứng từ trên mui thảy xuống mà tôi ngao ngán lắc đầu. Quả là xứ
Ấn độ. Nói vậy chứ có vài va-li nặng quá thì lơ xe cũng phải thòng giây mà
thả xuống. Tôi mau mau ra phụ các tăng sĩ chụp hộ hành lý để sang một
bên cho mọi người rồi bảo chú bé dẫn về khách sạn. Từ trạm xe buýt đến
khách sạn chỉ khoảng 15 phút đi bộ. Nhưng đường xá ở đây thì quá lầy lội,
hỏi chú bé thì hóa ra trời đêm hôm qua vừa trải một cơn mưa lớn. Đi về đến
khách sạn thì đôi giày ba-ta của tôi đã lấm đầy bùn đỏ quạch.
Ngồi trong phòng rửa ráy mặt mũi tay chân và rửa giày ba-ta, tôi mừng
thầm là chuyến đi cực kỳ khó khăn đã trải qua rồi. Bây giờ, được nghỉ ngơi,
nhưng tôi sẽ phải đối phó với vần đề nhiễm trùng cổ, ho và viêm xoang mũi.
Chú bé rủ tôi đi ăn sáng. Tôi nhận lời và chúng tôi ra quán ăn nhỏ góc
đường. Tôi kêu một món trứng chiên và cà phê, còn chú bé và Tenzin
Kelsang thì ăn điểm tâm món ăn Ấn độ và uống trà sữa.
Hôm nay theo chương trình thì chúng tôi được nghỉ một ngày. Nhưng chú bé
và Tenzin Kelsang thì nói rằng chờ khi thày viện trưởng đến sẽ rủ tôi đi đến
thăm ngài. Tôi gật đầu và nói là bây giờ tôi sẽ về phòng nằm nghỉ. Khi nào
thày viện trưởng đến thì cứ ghé phòng tôi mà gọi.
Về đến phòng, tôi xem xét. Căn phòng nhỏ thôi, có hai giường đơn kê sát
nhau, nhưng cũng được lắm. Nước nóng có, nhưng thời tiết rất lạnh khoảng
4 hay 5 độ C gì đó. Chẳng thể nào tắm nổi cho dù có nước nóng. Tôi chỉ đi
rửa mặt mũi tay chân, rồi lên giuờng nằm ngủ một giấc vì cả đêm qua tôi đã
quá cực nhọc với chuyến xe. Phải thu hết can đảm mà chui vào trong chăn,
dùng hơi nóng thân mình để sưởi ấm chăn đệm. Nhưng một khi đã cảm thấy
ấm áp rồi thì lại không còn có can đảm chui ra khỏi giường.
Khi ngủ giậy và thấy khỏe khoắn hơn, tôi tọa thiền và hành trì các phần tu
tập hứa nguyện, sau đó tôi ra ngoài phố đi tản bộ và xem xét đường xá.
Thành phố Dharamsala nằm giữa thung lũng Kangra và bao gồm một diện
tích khoảng 29 cây số vuông. Tuy nằm giữa thung lũng, nhưng Dharamsala
khá cao, ở độ cao trung bình 1457 mét (4780 bộ anh). Vì nằm giữa thung
lũng và có núi lớn bao quanh, nên khí núi và hơi nước đọng lại khó thoát ra
được. Mùa đông, lạnh và ẩm, khoảng thời gian tôi đến là lúc lạnh nhất, nhiệt
độ xuống gần 0°C, và có những hôm tuyết rơi rất nhẹ. Khó khăn nhất là
những hôm mưa, vì vừa lạnh lại vừa ướt át khó chịu. Người dân ở đây nói với
tôi là mùa hè cũng khó khăn lắm vì tuy khí hậu nóng, nhưng vô cùng ẩm
thấp đến độ quần áo giặt xong mang phơi không khô nổi mà chỉ lên mốc
kim. Cách đi đến Dharamsala thường là bằng xe lửa, xuống trạm Pathangkot
(tuy viết vậy, nhưng tiếng Ấn đọc là Pa-tăng-cốt-ti, cách 120km đường xe
hơi) hay trạm Chakki Bank (150 km đường xe).
Dharamsala bao gồm Dharamsala thượng (upper Dharamsala, gọi đúng tên
là quận McLeod Ganj, độ cao là 1,700 mét hay 5,580 bộ anh) và Dharamsala
hạ (lower Dharamsala, thấp hơn 460 mét). Hai miền thượng và hạ cách
nhau 9 km đường xe, và miền hạ có thành phố đông đảo sầm uất hơn.
Tư dinh của đức Đạt Lai Lạt Ma và chính phủ lưu vong Ấn độ nằm tại
Dharamsala thượng, nối liền với ngôi chùa chính (main temple), là nơi ngài
thuyết pháp cho chư tăng và Phật tử. Chỉ riêng chư tăng về dự cũng đã
khoảng 6000 vị, và tổng số các Phật tử Tây tạng cũng như ngoại quốc mọi
nơi về tham dự ước lượng sơ khởi cũng phải đến 5000 hay 6000 người.
Tôi không có đủ thì giờ xuống thăm Dharamsala hạ, chỉ có một vài lần đi
ngang qua thành phố chính thì thấy ở đấy rất sầm uất. Phần lớn thì giờ tôi tu
học tại McLeod Ganj (Dharamsala thượng) tại ngôi chùa chính. Quận McLeod
Ganj rất là nhỏ, chỉ gồm vài cây số đường, và có hai đường song song dẫn
đến ngôi chùa chính nơi Phật tử đến ngồi nghe pháp.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
duongdenDLLM.jpg

Hình 5: Một con đường chính của McLeod Ganj (nơi tôi đi qua hằng ngày đến chùa nghe pháp).


tuchoNgaingoi.jpg

Hình 6: Sân các Phật tử ngồi nghe pháp (chụp từ nơi dựng bảo tòa đức Đạt Lai Lạt Ma ngồi).
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

ThienThuThienNhan.jpg



ThienThuThienNhan2.jpg

Hình 7a, b: Tượng Phật Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn rất linh thiêng trong ngôi chùa chính,
nơi các Phật tử Tây tạng (và cả cá nhân tôi) thường đến cúng dường đèn bơ, cầu nguyện và hồi
hướng.
Vị sư geshe-la trong hình bên phải là vị sư hương đăng, theo lời thỉnh cầu của Phật tử đến chiêm
bái, thày làm đèn bơ và cúng dường hộ cho mình lên đức Phật Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Hinh81.jpg
Hinh82.jpg
hinh83.jpg

Hình 8: Hình chụp thung lũng ở Dharamsala, nhìn từ con đường dẫn về ngôi chùa chính.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
Hinh91.jpg


Hình 9: Cảnh thung lũng nhìn từ khách-sạn Shiwala (nơi tôi trú ngụ).
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Tôi cũng chưa biết là nơi ngồi nghe pháp được sắp đặt ra sao, nên đi bộ và
hỏi thăm đường đến ngôi chùa chính để xem trước. Khi vào đến ngõ đưa vào
chùa thì thấy có dán giấy trên tường, thông báo chương trình thuyết pháp sẽ
bắt đầu vào ngày 22 tháng 2 và chấm dứt ngày 2 tháng 3 (tổng cộng là 10
ngày). Tôi đi vào trong chùa, xem xét chỗ ngồi của thính chúng. Đó là một
cái sân rất lớn (hình 6), chia làm nhiều khu vực. Khu bên trái dành cho người
Tây phương, có được chút mái hiên che mưa nắng. Khu chính giữa dành cho
người Tây tạng và chừa một khoảng đường cho đức Đạt Lai Lạt Ma đi lên tòa
giảng. Khu bên phải, một phần dành cho người Đài Loan, một phần dành cho
người Nhật và Đại Hàn. Hai khu còn lại này không có một chút mái hiên nào.
Lúc tôi đến sân để xem xét thì đã có khá đông người. Họ vạch một khoảnh ô
vuông trên sân, và ghi tên lên trên để dành chỗ ngồi cho những ngày đến
nghe pháp.
Nhìn lại khoảng sân thì hơn hai phần ba diện tích đã có ghi tên, và nhiều chỗ
họ còn dán cả nệm mỏng lên trên để ngồi nghe cho ấm bàn tọa. Điều này
rất cần thiết vì sân bằng xi măng lạnh lắm, ngồi thẳng lên trên sẽ bị khí lạnh
thấm vào cột xương sống lưng, thành bệnh. Tôi thấy họ làm như vậy thì
cũng đi tìm bút và vạch một ô cho mình.
Đang loay hoay làm thì nghe bên cạnh có ai nói mấy câu tiếng Pháp. Tôi
quay ngang xem thì có hai vợ chồng người da trắng đang bàn nhau vạch ô
ngồi. Tôi quay lại nhìn họ cười, hỏi họ từ đâu đến. Hóa ra họ đến cùng tỉnh
của tôi ở Canada. Bắt tay chào đồng hương xong, tôi hỏi thăm họ tình hình
và tin tức. Họ nói có một số người Canada đến dự và cho tôi biết một thông
tin khá quan trọng là đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ bắt đầu thuyết pháp buổi sáng
hôm sau (21 tháng 2), chứ không phải là ngày 22 tháng 2 như đã thông
báo. Tôi hỏi họ làm sao biết được như thế, họ giải thích là đã lên phía bên
trên sân và nói chuyện với nhóm chuyên môn quay phim cho đức Đạt Lai Lạt
Ma cho nên biết được tin này. Tôi mừng quá, vì đã đến đây thì phải nghe học
đầy đủ, thiếu một ngày (nhất lại là ngày đầu) thì uổng quá.
Sau khi vạch chỗ ghi tên cho có thôi (chứ tôi không hy vọng gì vì khi đông
quá thì khó mà còn giữ được chỗ như vậy), tôi thấy đói bụng nên đi ăn trưa.
Sau đó, tôi đi tìm tiệm thuốc mua nước xúc miệng cực mạnh để triệt trùng
miệng mỗi sáng và tối trước khi đi ngủ, hy vọng sẽ giảm ho và đờm trong cổ
họng và xoang mũi.
Sau buổi trưa, tôi về phòng để ngủ vì tôi vẫn chưa lại sức sau chuyến đi mệt
mỏi. Trong giấc ngủ chập chờn, tôi nghe tiếng gõ cửa. Chú bé Tây tạng ghé
qua kêu tôi đi chung qua thăm thày viện trưởng. Ngài ở khách sạn Shiwali,
cách khách sạn Shambala nơi tôi đang tạm trú một đoạn đường ngắn và một
con dốc. Khi đến nơi thì thày đang ngồi ngoài sân thượng trước của phòng
trên lầu ba. Thày vui mừng hỏi thăm chuyến đi xe buýt về Dharamsala của
tôi và cảm thông với tôi nỗi niềm khổ nhọc trên chuyến đi. Sau đó thày thăm
hỏi chú bé Tây tạng, cũng là một cháu họ xa của ngài và cho chú bé ít tiền
sinh sống. Ngồi với thày chưa được bao lâu thì có phái đoàn tăng sĩ đến
thăm hỏi thày. Vì thày là viện trưởng nên rất nhiều tăng sĩ cũng như Phật tử
ghé đến thăm hỏi hoặc xin ngài làm lễ. Chúng tôi cũng gặp thày phụ tá
geshe Norbu Chopel, trụ trì tại ngôi chùa ở Wesminster, California, nơi mà
tôi đã giúp thày viện trưởng xây cất năm 2003. Thày phụ tá dẫn cô con dâu
của anh chị bạn đạo chúng tôi (hiện trú ngụ tại Toronto) đi hành hương các
Phật tích trong suốt hai tuần nên có vẻ khá mệt mỏi. Thăm hỏi thày phụ tá
xong, chúng tôi chào thày viện trưởng và ra về.
Buổi chiều hôm đó, tôi ghé lại ngôi chùa chính một lần nữa để tham bái, và
sau đó đi ăn tối rất nhẹ tại một tiệm ăn Tây tạng nhỏ xíu có tên là Drasang
House (nhà ăn Drasang). Tôi thìch ăn mì tại tiệm này vì là món ăn tương đối
nhẹ và dễ nuốt trước đi ngủ. Mì, tạng ngữ gọi là “thukpa”. Tiệm này nhỏ
nhưng nấu cũng tạm ăn được, nên chư tăng ghé vào đây ăn đông, có khi vào
mà không còn chỗ. Khi đến ăn nhiều lần rồi thì khi hết chỗ, các thực khách
quen sẽ tự động nhích sát vào nhau cho mình ngồi, rất là thân thiện và hiếu
khách. Tiệm ăn chỉ làm vài món: cơm chiên, mì chay rau cải, gọi là “vegthuk”,
hoặc mì bò yak gọi là “ya-thuk” và mô-mô chay hay mặn (là món
hoành thánh “wonton” của Tây tạng). Nói là mì bò (yak), nhưng chỉ là mì
chay rắc thêm vài mảnh thịt băm rất là dai. Cho nên cứ ăn mì chay là hay
nhất. Còn cơm chiên chay hay mặn cũng y vậy, chỉ toàn là cơm chiên dầu,
trộn thêm ít trứng gà, chút rau cải xắt nhỏ hoặc vài ba mảnh thịt băm. Tôi
chỉ ăn thử một lần, không thấy ngon lắm.
Ăn xong cơm tối, tôi đi gửi điện thư báo tin cho vài người bạn, xong là trở về
phòng ngay, tọa thiền và đi ngủ rất sớm lúc 8 giờ tối. Đang ngủ thì cửa
phòng lại gõ ầm ầm. Hóa ra là vị thày trẻ Tenzin Kelsang cùng đi xe buýt với
tôi, xin về phòng ngủ chung vì căn nhà lớn dành cho chư tăng Sera Mey
không còn chỗ. Lúc đó là khoảng 9h30 tối. Thày Tenzin nhất định bắt tôi
phải lấy thêm chăn của thày mà đắp thêm vì trong phòng khá lạnh, còn thày
đã có tấm áo choàng nỉ của chư tăng rất ấm. Tôi không chịu và nói là chăn
dày lắm, đã đủ ấm rồi. Nhân tiện, tôi báo cho thày biết là đức Đạt Lai Lạt Ma
sẽ thuyết pháp sáng mai. Thày nhất định nói là không có, không tin vào tin
tức của tôi có và nói là hãy để mai tính xem sao.
Đêm hôm đó, tôi ngủ giấc thật là ngon lành, phần vì vì mệt, phần vì thày
Tenzin Kelsang rất an tĩnh, ngủ khá yên lặng, không hề ngáy chút nào. Tôi
rất thích chia phòng với thày.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

10. Ngày 21 tháng 2, 2008

Sáng sớm tôi đã thức giậy, bên kia giường, vị thày trẻ vẫn còn ngủ. Giấc ngủ
rất an lành. Tôi nhẹ nhàng vào phòng tắm làm vệ sinh sáng trong yên lặng,
xong thì lên lại giường ngồi hành trì thiền quán.
Vì nguyên một đêm dài được nghỉ ngơi đầy đủ nên sáng nay, tôi thấy trong
người tỉnh táo và khoẻ hơn nhiều. Trong khi hành trì thiền quán sám hối và
quán tưởng hóa thành Hộ Phật, tự nhiên tôi rất xúc động khi trực ngộ về nỗi
khổ của con người, nhất là của chư tăng sĩ trong các điều kiện sinh sống khó
khăn và thiếu thốn. Đã là con người, ai lại không khổ khi phải sống trong
cảnh thiếu thốn. Đồng thời, tôi cũng trực ngộ đến sự may mắn của bản thân,
sinh sống tại một nước giàu có như Mỹ hay Canada. Dù ở Canada có lạnh
đến đâu chăng nữa, khi tôi về nhà là được sưởi ấm áp, chỉ cần mặc áo thun
quần đùi trong nhà y như là được ở một nơi của vùng nhiệt đới. Ở trong nhà,
tôi chưa bao giờ phải chịu nỗi khổ của cái rét mướt, lạnh lẽo như ở trong
phòng khách sạn này. Đêm qua chắc nhiệt độ phải xuống thấp hơn không
độ. Đó là tôi đã được ở trong phòng khách sạn, là phải sướng hơn biết bao
người dân đang ở trong vùng này rồi. Tôi nhớ lại lời thày tôi nói, người Tây
tạng cả năm cũng không tắm, mà đâu có sao. Phải rồi, trong điều kiện sinh
sống như thế này, chính bản thân của tôi cũng không thể tắm và không dám
tắm. Và như thế, tôi nhận thấy rõ rệt sự may mắn của mình. Có nhân duyên
sinh sống tại một nơi với những điều kiện quá tốt. Vậy mà vẫn không tu tập
được như chư tăng, các vị thiếu thốn hơn mình ngàn lần.
Khi quán đến đây thì tôi xúc động vô biên trong tâm, và tôi xin nguyện sẽ
làm hết sức mình để giúp chư tăng tu học. Khi đó, tôi cảm thấy hai giòng
nước mắt của tôi chảy dài trên má. Và cả bản thân mình nữa, tôi sẽ hết sức
cố gắng tu tập, mình thật là quá sướng hơn chư vị tăng sĩ mà còn không chịu
tu học. Thày bổn sư đã dạy dỗ cho biết bao pháp môn hành trì rất thâm sâu,
sống trong những điều kiện đầy đủ, ăn uống dư thừa, quần áo nhà cửa ấm
áp bảo bọc tấm thân mình chẳng hề thiếu thốn. Đi một bước ra ngoài nhà thì
lên xe hơi. Vậy đó, mà chuyện hành trì thì thấy thật là xa vời.
Tôi nhớ đến ngày xưa, các báo chí chỉ trích các nhà chính trị “ăn trên ngồi
chốc”, gọi họ là các nhà chính trị sa-lông (nghĩa là họ làm chính trị trong
phòng khách sang trọng của họ và chỉ ba hoa mà thôi). Để nhận ra là, có lẽ
tôi cũng chỉ tu tập sa-lông mà thôi.
Bây giờ, ở đây, tôi nhận ra sự khác biệt giữa hai sự tu tập - trong những
điều kiện sung sướng của một nước giàu có, và trong những điều kiện thiếu
thốn nghèo nàn - khác nhau lớn lao như thế nào.
Thôi, từ nay, tôi xin tự hứa như lời đức Đạt Lai Lạt Ma đã dạy: khi cõi này
còn tồn tại, tôi nguyện sống cuộc đời mình để phục vụ mọi chúng sinh hữu
tình…Nhất là phục vụ cho chư tăng ở các tu viện nghèo khó, những vị đã
nguyện dành cả cuộc đời để cứu độ tất cả chúng sinh hữu tình vượt thoát
khổ đau. Quán tưởng đến đây, tôi rất hoan hỷ vì đã hy sinh chuyến đi hành
hương và để hết số tiền đó cúng dường lên chư tăng…
Buổi thiền quán thật là cảm động. Thực tâm, tôi nhìn thấy những điều mà có
lẽ suốt đời tôi cũng sẽ không nhìn thấy khi còn ở tại Canada và tu tập trong
hoàn cảnh của đời sống đó.
Xả thiền xong thì vị thày trẻ cũng vừa thức giấc. Chúng tôi chào nhau buổi
sáng và thày vào phòng tắm. Xong xuôi, thày rủ tôi đi ăn sáng. Tôi nói là trễ
rồi, bây giờ tôi phải đi sắp hàng để vào nghe pháp. Thày nói được, vậy
chúng ta cùng đi, nếu không có thuyết pháp thì mình đi ăn sáng. Tôi đồng ý.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Chưa vào được chùa chính thì chúng tôi đã phải chia tay. Vì thày phải sắp
hàng theo cái đuôi dành cho tăng sĩ dài lắm, ra cả đến ngoài đường mấy
trăm thước. Còn tôi thì sắp hàng theo đuôi của Phật tử cũng dài dằng dặc.
Điều lạ lùng tôi nhận xét được ngay từ ngày đầu tiên phải sắp hàng này, là
số phụ nữ về nghe pháp đông hơn gấp bội số lần nam Phật tử về tham dự.
Theo tôi ước lượng thì tỷ lệ là khoảng 10:1. Thật là lạ lùng, tại vì về
Dharamsala tu học thật là cực khổ, thường thì phụ nữ cần các tiện nghi
nhiều hơn và ngại khổ nhọc hơn nam phái. Thế mà khi đi học đạo thì số phụ
nữ lại đông đảo hơn. Thực ra, khi nghĩ lại, thì cũng không có gì lạ lắm vi tôi
nhớ trong các chùa cũng y vậy. Số nữ Phật tử trong chùa bao giờ cũng đông
hơn số nam Phật tử. Nhất là trong các buổi nhập thất hay thọ bát quan trai.
Đôi khi trong các buổi đó, tôi thấy chỉ có thày trụ trì và tôi là nam phái, còn
lại mười mấy người khác tham dự chỉ toàn là phái nữ. Đàn ông mải mê tham
đắm trong công danh sự nghiệp nên không chịu theo đạo, phần lớn chỉ biết
lo kiếm tiền và hưởng thụ lạc thú của đời người, mải lo chuyện tậu nhà cao
cửa rộng, o bế xe mới mua, hoặc mê mải buôn bán thủ tiền vào túi mà
không quay về đạo.
Khi qua được hàng rào an ninh khám xét xong, vào đến bên trong sân chùa
chính thì số người đến đã đông lắm. Đặc biệt là số lượng người Tây tạng quá
nhiều đến mức độ họ tràn cả qua bên chỗ dành cho người tây phương ngồi.
Dĩ nhiên là chỗ của tôi đã dành, vạch và ghi tên sẵn đã bị số đông ngồi lên
cả rồi. Chẳng làm gì hơn được, tôi ngồi đại vào một chỗ đàng sau những
người đến từ Canada, và họ vui vẻ nhích vào để tôi ngồi chung nghe pháp.
Sáng hôm đó, nghe đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết pháp, tôi bàng hoàng cả
người. Đề tài ngài thuyết chính là Bồ đề tâm, những điều ngài dạy và khuyến
tu trùng hợp với những trực ngộ hồi sáng, tâm tôi đã khởi sinh. Tôi không
thể nào không thầm nghĩ, hay là sáng nay, chính ngài đã gửi cho tôi thông
điệp đó. Trong thời thuyết pháp, ngài dặn dò tất cả hãy cố thuần hóa tâm
mình để hướng về thương yêu và phục vụ, mang lại hạnh phúc cho các
chúng sinh hữu tình khác. Đừng nghĩ đến bản thân mình, từ bỏ lòng vị kỷ để
hành động lợi tha. Nghe ngài thuyết giảng, niềm cảm xúc sáng nay khi thiền
tọa lại khởi lên trong tâm tôi.
Trong thời pháp, khi ngồi nghe tiếng của vị thông dịch sang Anh ngữ tôi giật
mình cứ tưởng geshe Thupten Jinpa đã về đây dịch thuật (và cũng là thày
của tôi). Tôi tò mò quá, phải lên hỏi các vị an ninh canh gác xem ai là vị
thông dịch. Hóa ra không phải là geshe Thupten Jinpa mà là geshe Dorje
Tamdul. Vị thày này có một giọng nói tiếng anh thật là giỏi và điêu luyện.
Giọng của thày nghe rất giống giọng của Geshe Thupten Jinpa, là vị thông
dịch viên chính thức của đức Đạt Lai Lạt Ma tại Mỹ.
Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết giảng về Tam thượng học, Giới, Định, Tuệ và
giảng sang Kinh Hiền Ngu của Tây tạng, với câu chuyện “Bồ tát cá làm phép
lạ”. Sau đó, ngài nói là vì có một số đồng bào Tây tạng đi về Dharamsala
thăm thân nhân, nhưng không thể ở lại lâu hơn để nghe pháp, cho nên ngài
sẽ làm lễ cầu nguyện cho các đồng bào đó. Rồi ngài giảng về cách hành trì
Thất Chi Nguyện và làm lễ cúng dường.
Buổi chiều hôm đó không có chương trình gì cả, tôi lại ghé thăm thày viện
trưởng và thày bảo tôi hãy dọn về khách sạn Shiwala ở cạnh phòng của ngài,
bởi vì cô con dâu của người bạn tôi tại Toronto đã đi về Canada, và ngài có
phòng trống bên cạnh. Tôi xin phép được ở lại khách sạn Shambala với thày
Tenzin Kelsang, nhưng thày bảo tôi hãy nghe lời. Tôi vâng dạ, và trở về
phòng thu xếp hành lý để dọn qua khách sạn mới.
Tối hôm đó, tôi cũng hành trì rất sớm và đi ngủ lúc 8 giờ tối. Nhưng ban đêm
tôi vẫn bị ho và bị đờm xanh rất khó thở.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

11. Ngày 22 tháng 2, 2008

Vì hôm qua, khi tôi đến ngôi chùa chính để nghe pháp thì đã có đông người
làm đuôi thật dài, cho nên sáng nay tôi phải thức giậy sớm hơn từ lúc 5.30
sáng để có đủ thì giờ hành trì và đi sắp hàng để khỏi vào trễ. Như thói quen,
tôi bắt đầu bằng thời thiền tọa an tâm. Vì còn sớm quá, nên thành phồ đang
ngủ yên. Tất cả thật là an tĩnh chung quanh tôi và chỉ ít phút sau tâm thức
đi vào một sự bình an và hỷ lạc không thể nào diễn tả nổi. Tự nhiên tâm tôi
sung sướng như mới nở ra một đóa hoa và hiểu được niềm hạnh phúc nhất
trong một ngày chính là thời thiền tọa sáng sớm tinh mơ khi tất cả còn đang
yên ngủ. Đó là lý do tại sao chư vị tôn đức tổ sư đã đặt ra thời tọa thiền
công phu khuya trong các thiền viện. Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đi ngủ rất
sớm và giậy từ 4 giờ sáng hành trì phu tọa. Lúc sáng tinh mơ này là thời
điểm dễ dàng nhất để nhập định và an trú trong niềm hạnh lạc của thiền
duyệt. Một phần vì thân tâm đã trải qua một đêm an nghỉ và sẵn sàng để
hành trì công phu tinh tấn. Phần khác, khi không khí và môi trường chung
quanh còn đang yên ngủ rất tĩnh lặng, không làm chia chẻ tâm thức an tĩnh
sau một đêm an nghỉ của chúng ta. Tất cả đều dễ dàng đưa thân tâm chín
mùi của mình vào trong niềm an định nhẹ nhàng sung sướng. Rồi niềm hỷ
lạc phát khởi lại càng đưa tâm thức vào trong cảnh giới an bình nội tại.
Chính từ tâm an bình đó - như một mặt hồ tĩnh lặng và nước hồ lóng xuống
đáy trong suốt - mà thiền giả trực ngộ ra nhiều điều hữu ích lớn. Khi tâm đạt
đến cao điểm của sự an tĩnh sẽ nở ra thành tiểu ngộ. Sau nhiều lần tiểu ngộ
và tiếp tục hành trì thành thục chín mùi sẽ đưa đến đại giác.
Chính vậy, hạnh phúc là niềm an lạc của buổi thiền định sáng sớm tinh mơ
khi một ngày bắt đầu. Tất cả trí tuệ sẽ tự khởi sinh từ tâm an tĩnh, niềm
khinh an nhẹ nhàng của thần trí cực kỳ tỉnh táo và cảnh giác. Có lẽ vì vậy
mà phần lớn các sự giác ngộ[17] đều xảy ra khi trời vừa hừng sáng. Tôi nhớ
đến các kinh sách kể lại cuộc đời của đức Thích Ca Mâu Ni tọa thiền 49 ngày
dưới gốc cây bồ đề và đại giác ngộ trước khi trời sáng. Hãy nhìn vào tượng
Phật an tọa kiết già, khuôn mặt thanh tịnh trong niềm an tĩnh, hai bàn tay
xếp trên nhau, rất an lạc. Đó chính là cõi cực lạc ngay tại thế gian này.
Nếu có ai hỏi tôi: lúc nào là lúc hạnh phúc nhất đời bạn ? Tôi sẽ trả lời: là lúc
sáng sớm tinh mơ, hành thiền quán, là những giây phút trụ trong thiền định
bất khả thuyết, bất khả tư nghì.
Đó là lý do tại sao các hành giả du già thường không ăn bữa tối (hoặc ăn tối
thiểu), để dạ dầy trống rỗng, nghỉ ngơi trong giấc ngủ sớm, an lành và sáng
thức giấc rất sớm trong niềm an tĩnh, khinh an và hành thiền giác ngộ.
Cho nên sáng nay, vì không muốn đi nghe pháp quá trễ phải làm đuôi rất
lâu, tôi cố thức giậy thật sớm, làm vệ sinh cá nhân sạch sẽ, bụng thật nhẹ
nhàng trống rỗng. Thế mà nhờ vậy, lại vô tình đi vào cõi thiền định tràn đầy
niềm an lạc vô biên. Sau đó tôi hành trì các pháp môn hứa nguyện trong
niềm an vui vô tận.
Rồi tôi ra khỏi khách sạn đi lên chùa chính nghe pháp. Hôm nay tôi đi sớm
nên bớt đông hơn, thế mà qua khỏi được hàng kiểm soát anh ninh và vào
trong sân nghe pháp thì cũng đã đầy nửa. Dĩ nhiên là chỗ của tôi đã có
người ngồi. Tôi lui xuống ngồi sau hàng của các bạn người Canada. Một lúc
sau thì họ đến đầy đủ. Tôi lại nhích ra cho họ vào chỗ ngồi của họ và vô tình
ngồi trên một ô vuông có viết chữ Marie, USA. Chả sao, tôi thầm nghĩ, chỗ
của mình, người ta cũng đã ngồi lên. Được một lúc sau, gần đến giờ thuyết
pháp thì có một cô vội vã bước về phía chỗ tôi ngồi và loay hoay tìm kiếm.
Tôi nhìn kỹ cô xem có phải là hôm qua cô đã ngồi chỗ này không, nhưng
không nghĩ là cô đã đến nghe pháp hôm qua. Cô đòi lại chỗ ngồi của cô bằng
tiếng Mỹ “this is my place, Marie is my name”. Tôi nói vâng (“yes”) và ngồi
lui lại đằng sau cô trả lại chỗ của cô. Chưa đầy năm phút sau có hai vị Phật
tử nam nữ người Mỹ đến hỏi tôi xin ngồi chỗ bên cạnh (“is there anybody
here, can we seat here”), tôi vui vẻ trả lời là: tôi không biết, nhưng hai bạn
cứ ngồi đi, cùng lắm chúng ta ngồi chật lại và chia sẻ chỗ, chúng ta đến đây
để cùng chung nghe pháp, và đức Đạt Lai Lạt Ma đã dạy chúng ta phải chia
sẻ và giúp đỡ mọi người và tôi rất hoan hỷ chia sẻ (“I don’t know, but please
sit down, anyway if others come, we will sit even more closer to share the
place, after all we are here to learn Buddhism and one thing that His
Holiness always teaches us is to share and help, so it is my pleasure to
share”). Sau khi tôi nói vậy, hai bạn kia vui mừng ngồi xuống, còn cô Phật
tử lúc nãy đòi chỗ của mình không biết nghĩ gì, nhưng một lúc sau cũng
nhích chỗ cho hai người Tây tạng ngồi chung và nói tôi cũng chia sẻ đây (“I
also can share”).
Tôi mỉm cười và bắt đầu lấy máy radio ra bắt đài FM 92.30 MHz để nghe vị
thông dịch sang tiếng anh là geshe Dorje Tamdul.
Tôi thầm nghĩ, đức Đạt Lai Lạt Ma đã dạy không biết bao nhiêu rồi, mà trong
đời sống hằng ngày, chỉ hơi vô ý là chúng ta sẽ mắc phải cái ngã, của tôi,
của anh, và tất cả mọi tranh chấp trên thế giới này, dù lớn hay nhỏ cũng
không qua khỏi cái bản ngã thâm căn cố đế đó. Sáng hôm qua và sáng hôm
nay, tôi cũng có thể đi tìm đến ô vuông tôi đã ghi tên và đòi chỗ của tôi, dù
chưa chắc là người ngồi trên đó đã chịu trả. Nhưng tôi biết là tôi đã không
thể làm vậy. Cái gì gọi là của tôi ? Chỉ là một vạch ngang dọc trên mặt đất
và ghi tên lên trên. Thế là đã nảy sinh một sự gán ghép[18] chỗ ngồi ở trong
tâm thức, và bắt đầu bằng cái bản ngã để mặc nhiên công nhận, nó là của
tôi. Tất cả phiền não khởi sinh ra từ đó mà thôi.
Nếu tôi không học được điều này, thì cho dù tôi có đi nghe hết cả mười mấy
ngày thuyết pháp, thuộc lòng mọi lý thuyết cũng chẳng lợi lạc gì cho tôi và
cho các chúng sinh hũu tình khác, đã từng là mẹ tôi qua vô lượng kiếp tái
sinh luân hồi và nhất họ là cũng chẳng khác gì bản thân tôi, cùng đi tìm về
đạo.


_________

17. Nhật ngữ gọi là satori.
18. The notion “my and mine” is a mere imputation in our mind, having no intrisic value.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Đức Đạt Lai Lạt Ma mở đầu nói rằng khóa thuyết giảng này sẽ chính thức bắt
đầu hôm nay và kéo dài trong 10 ngày và sau đó giảng về giòng truyền thừa
ngài đã thọ lãnh và giới thiệu đề tài thuyết giảng là Kinh Hiền Ngu và Kinh
Pháp Cú theo bản cổ văn của Phật giáo Tây tạng. Sau đó ngài trì tụng các
bài cầu nguyện khai kinh và hỏi có bao nhiều người Tây tạng cũng như
Trung hoa và Tây phương về tham dự.
Rồi ngài giảng về sự khác biệt của con người với loài thú. Tuy cùng giống
nhau ở chỗ là có nhu cầu sinh tồn, muốn được an lành no đủ, nhưng con
người khác ở chỗ có trí tuệ và luôn luôn có nhu cầu tìm về đạo, hướng
thượng, khác với loài thú chỉ lo tìm thỏa mãn miếng ăn và sự sống. Chính vì
sự thông minh hơn loài vật này mà con người lâm vào thế kẹt khi tâm thức
quá lo lắng bất an cho tương lai. Do đó cần phải tu luyện chuyển hóa tâm
thức.
Rồi ngài giảng rất sâu sắc và thâm thúy về cái bản ngã, cái “tôi” khởi đầu chỉ
sự gán ghép của tâm thức và sau đó lại mắc kẹt vào chính sự gán ghép này
để thấy là cái “tôi” đó có thật, hiện hữu riêng biệt, tách rời và độc lập với
mọi chúng sinh khác, và từ đó mà mọi tà kiến khởi sinh.
Đến 11 giờ 30 thì đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng và nghỉ trưa, thời giảng buổi
chiều sẽ bắt đầu lại lúc 1 giờ. Tôi không có gì ăn trưa nên định ra ngoài chùa
để mua thức ăn. Khi ra đến cuối sân chùa mới thấy là hàng ngàn chư tăng
và Phật tử đang chen chúc trong ngõ hẹp để đi ra khỏi chùa. Như thế này thì
dành chịu trận ở đây thôi, không có đủ thì giờ để đi ăn trưa. Cho dù có ra nổi
cũng phải sắp hàng qua khám xét an ninh để vào trở lại. Tôi quay trở lại
trong sân chùa lục túi đeo vai kiếm miếng bánh quy ăn tạm cho đỡ đói và
sau đó tìm chỗ nằm ngả lưng một chút trước thời pháp.
Sau khi nghỉ được 15 phút, tôi tìm nhà tắm để đi tiểu. Đây cũng là một vấn
đề vì cả buổi sáng ngồi nghe pháp không đi được. Bây giờ mới thấy là nhà
tắm ở ngoài vòng kiểm soát an ninh. Cho nên tôi đành chịu mất thì giờ để
sắp hàng đi tiểu và trở lại hàng khám an ninh sau đó.
Buổi chiều, đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết giảng tổng hợp về Phật giáo. Ngài
nhắc lại ba kỳ chuyển pháp luân. Lần đầu, tại vườn Lộc uyển, Sarnath gần
Varanasi, giảng về Tứ diệu đế và Tam tạng kinh điển. Lần hai, tại núi Linh
thứu, Rajagriha, Bihar, giảng về Bát nhã, Tánh không và Bồ đề tâm. Còn lần
thứ ba, tại Shravasti và các vùng lân cận của Kusinagara, giảng về Đại Bát
Niết Bàn kinh, Hoa Nghiêm kinh, nhấn mạnh đến Phật tánh, Như Lai Thai
Tạng.
Ngài nhân đó mà giảng thêm về Tứ diệu đế và duyên khởi rồi sau đó nhắc lại
giòng truyền thừa không đứt đoạn của Tạng mật. Rồi ngài giảng kinh Pháp
cú, qua hết phẩm 1- Vô thường và phẩm 2 - Ái dục.
Chiều hôm đó, bắt đầu các buổi ôn giảng từ 4 đến 6 giờ chiều do chính
geshe Dorje Tamdul đảm trách. Tôi không có giờ để đi ăn, phải chịu bụng đói
để đi học lớp ôn giảng. Nhưng quả thật là không uổng công vì geshe Dorje
Tamdul ôn giảng thật là hay và dễ hiểu. Phật tử tham dự lớp ôn giảng rất
đông và mọi người đều thich thú được ôn lại các điều đức Đạt Lai Lạt Ma đã
giảng trong ngày.
Geshe Tamdul nhắc lại là, trong khi tất cả các giáo phái hữu thần (ngọai đạo
Phật) khẳng định thuyết Hữu ngã với 3 đặc tính:

_ 1. ngã thường còn, tồn tại vĩnh viễn (permanent quality).
_ 2. ngã là một nhất thể, không thể nhầm lẫn với cái ngã khác (unitary,
monolithic quality)
_ 3. độc lập với mọi sự vật chung quanh (inherently independent quality)
thì Phật giáo hùng hồn đả phá tận cùng cái ngã và tuyên bố: ngã chỉ là sự
gán ghép quy ước trong tâm, và phủ nhận cái ngã thường còn qua giáo lý:

1). thuyết nhân quả (có nhân thì sẽ có quả, gieo nhân nào thì gặt quả
ấy) và vô thường (sinh lão bệnh tử, có sinh thì phải có diệt) (causality
and impermanence).
2). thuyết duyên khởi và tánh không (mọi pháp đều do duyên sinh, cho
nên chư pháp không có tự tánh và mọi pháp đều cùng có một tánh, đó
là tánh không) (dependant origination and emptiness)
3). vô ngã (mọi pháp đều do duyên sinh, không có cái gì tồn tại độc lập
cho nên vô ngã) (selflessness)

Sau lớp học ôn giảng, mọi người thật là hoan hỷ, trân trọng kính chào thày
geshe Tamdul và ra về nghỉ ngơi, trong lòng phơi phới an vui.
Tôi vội đi về và mau mau vào quán Drasang House kêu tô mì chay, đói quá
rồi. Tôi ăn thật ngon lành xong, đi về phòng rửa mặt mũi tay chân để còn
hành trì và ngủ thật sớm, dưỡng sức cho những ngày tu học đạo.


(còn tiếp phần 4: Tu học tại Dharamsala)

Không Quán
05 april 2008.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
Nhật ký Dharamsala
Phần 4: Tu học tại Dharamsala
(tiếp theo và hết)​

1. Ngày 23 tháng 2, 2008

Qua kinh nghiệm thiền định hôm qua, sáng nay tôi tiếp tục giậy sớm để
hành thiền. Niềm an lạc tiếp tục tăng trưởng trong những giây phút thiền
định vào khi tất cả chung quanh thật là yên tĩnh. Nhưng hôm nay, trong
niềm an bình của tâm lại khởi lên một niềm cô đơn, nhưng lại hòa chung với
cảm giác vô cùng hạnh phúc. Một điều trực ngộ sáng nay vừa nở ra trong
tâm: tôi chợt hiểu tại sao một hành giả cần phải sống đời sống phạm hạnh
[17]. Dĩ nhiên là sống phạm hạnh thì giới sắc. Nhưng giới sắc chẳng phải phải
là điều chính yếu, mà ở đây, chuyện chính yếu là phải sống trong niềm cô
đơn an tĩnh. Chính là nhờ sống trong niềm cô đơn an tĩnh, hành giả mới trực
ngộ được những điều quan trọng qua sự hành trì tĩnh tâm: chỉ khi nào mình
đi một mình trên con đường hành trì, thiếu thốn tất cả, từ các tiện nghi, ăn
uống, cho đến thiếu thốn cả những tình cảm, những sự chia sẻ tâm hồn, và
thực sự đơn độc, thì niềm cô đơn và an tĩnh ấy mới un đúc, mới kết tinh lại
và nở ra thành đóa hoa của sự trực ngộ thẳng vào bản tánh sự vật, bản tánh
của chân tâm. Điều này chúng ta khó có thể làm được khi chúng ta sồng đầy
đủ dư thừa quá, dư thừa từ thức ăn cho đến dư thừa tình cảm. Chỉ khi nào
chúng ta cảm thấy ăn chưa đủ no, mặc chưa đủ ấm, nghĩa là cảm nhận một
chút về đói lạnh, bụng trống rỗng nhẹ hẫng và hoàn toàn cô đơn an tĩnh thì
chúng ta mới có thể thực sự định tâm trong an tĩnh. Khó nhất là khi chúng ta
sống đời sống lứa đôi với người bạn đời, hay sống trong gia đình, tâm ta luôn
luôn bị khuấy động trong ái dục và khó có thể trực diện với niềm cô đơn an
tĩnh đủ lâu, đủ chín mùi để đưa chúng ta vào sự trực ngộ bản tánh[18] của sự
vật. Tất nhiên là tôi chỉ nói khó, chứ không phải là không thể làm được. Do
đó, mà ta cần xuất gia, cắt ái từ sở thân và sống đời sống đạm bạc:
Vật năng tri túc, tâm thường định
Nhân đáo vô cầu, phẩm tự cao.[19]
Như vậy, niềm cô đơn trong sự an tĩnh là điều kiện phải có, tối thiết20 cho sự
trực ngộ. Có thể nói là từ sự cô đơn mà trực ngộ ra niềm hạnh phúc của đạo
và sự an lạc của tâm tĩnh lặng. An tĩnh, đây là điểm chính yếu của tu đạo.

(Quả tình, đất Dhramsala là một thánh địa. Hai hôm liền, tôi thiền tọa đều
liên tiếp trực ngộ những điều mà trước kia, tôi chưa rõ lắm hay là chưa quyết
tâm. Không những Dharamsala là thánh địa, mà tôi lại còn được bảo bọc
chung quanh bởi chư thầy tổ, chư tôn đức. Và sức gia trì của đức Đạt Lai Lạt
Ma, cũng như của chư vị, hòa trong tâm thức chín mùi sẵn có trong tâm từ
những thời gian hành trì trước khi đi về đây tu học đã làm cho tâm thức nở
bung ra trong những điều kiện thật là khó khăn của sự đói lạnh. Từ khi về
Sera Mey, tôi vẫn cảm thấy sự gia trì liên tục của giòng truyền thừa của chư
tôn đức trên tâm thức. Cho đến hôm nay, hai hôm rồi, tâm thức đã kinh
nghiệm được những điều thật là kỳ diệu).
Sau thời hành trì các pháp môn hứa nguyện, tôi càng ngộ ra thêm là niềm
vui sắc dục rất nhỏ bé so với niềm an lạc của sự thiền định an tĩnh. Niềm hỷ
lạc thiền định thật là thanh tịnh và an hòa, trong khi khoái lạc của sắc dục
nặng nề ô trược hơn nhiều. Và càng ngộ ra thêm hơn là nếu đã có bạn tình
hay bạn đời, thì con đường hay nhất là hãy tìm cách chuyển hóa tình yêu với
người bạn tình đó thành tình thương vô bờ bến, và đi xa hơn nữa, thành tâm
Bồ đề, để sau đó cùng nhau thành tựu đạo pháp, tay trong tay mà hóa lạc
về Đâu Suất Thiên Nội Viện[21].
Xả thiền xong và thấy trong lòng thật nhẹ nhàng an vui, tôi sửa soạn rời
phòng và đi về ngôi chùa chính để nghe pháp. Khi ra đường, tôi mới nhận
thấy là trời đã mưa suốt đêm qua cho nên sáng nay đường xá lầy lội, đọng
đầy nước trên mặt đường. Mặt trời vắng bóng, mây đen bao phủ làm cho
bầu trời trông thật ảm đạm. Thời tiết rất ẩm và lạnh, cái lạnh buốt cắt da
thịt và thẩm thấu vào trong xương. Cơn đói sáng sớm chợt ùa đến. Nhìn vào
quán ăn nhỏ như là một quán cóc bên vệ đường, tôi thấy những người Ấn độ
đang ăn sáng với món “roti”[22] chung với một chén khoai nghiền đầy gia vị.
Dĩ nhiên là tôi không dám đụng vào dù bụng đói. Tôi lấy bánh mì không
trong túi đeo vai ra, vừa đi vừa ăn. Đói và lạnh làm cơn ho chợt nổi lên rũ-rượi.

Khi vào trong được sân chùa chính, ngồi chờ nghe pháp mới thấm cơn lạnh
sáng nay. Không những mưa, lạnh mà còn gió. Phải ở đây mới thấy là mỗi vị
tăng đều có một cái khăn choàng vuông vắn lớn, màu đỏ bằng nỉ rất là tiện
lợi, thường thì chư tăng quấn khăn choàng vuông đó chung quanh thân, để
hở hai cánh tay ra ngoài. Thế nhưng khi trời lạnh kinh khủng và nhất là khi
trái gió trở trời như thế này, ngồi nghe pháp thì chư tăng cởi khăn choàng
vuông đó mà trùm hẳn lên trên đầu và bao bọc kín mít quanh thân người.
Rất là ấm áp và ngăn che gió máy. Khi nào cần tọa cụ để thiền tọa thì chư
tăng lại xếp cái áo vuông đó lại thành một cái gối nhỏ để làm tọa cụ, ngồi
lên trên rất là dễ chịu khi hành thiền. Còn tôi thì mặc áo bông, và áo bành tô
mùa đông, đầu đội mũ len che kín hai tai, nhưng vẫn thấy gió rét luồn qua
cổ áo rất khó chịu, nên ngồi co ro và ho rũ. Bà Phật tử người Tây ban nha
ngồi bên cạnh tội nghiệp nên phải cho tôi kẹo ho suốt mấy ngày. Ho và đờm
trong cổ họng lẫn trong xoang mũi thật là khó chịu.
Hôm nay đức Đạt Lai Lạt Ma mở đầu giảng rất kỹ về tín tâm trong Phật giáo.
Ngài dạy là tín tâm cần phải đi theo với trí tuệ chứ không nên tin một cách
mù quáng. Ngài kể câu chuyện xưa có một lần, hồi còn ở Lhasa, ngài gặp
một người Tây tạng đến đảnh lễ và bảo người đó hãy tìm học Phật pháp chứ
đừng để mình mù chữ, thất học giáo lý. Người đó thưa với ngài là: chỉ có chư
tăng mới phải học, còn các cư sĩ thì chỉ cần tín tâm. Ngài cười và kể tiếp, lại
còn có các tăng sĩ hành lễ và nghi thức thật giỏi và đẹp, nhưng khi hỏi là các
nghi thức ấy tụng để làm gì thì các tăng sĩ đó trả lời là công việc của họ chỉ
là hành lễ và tụng kinh, còn hiểu nghĩa thì không phải phần việc của họ. Đức
Đạt Lai Lạt Ma lại cười và nói quý vị đừng như thế nhé.
Sau đó ngài giảng có hai loại giáo lý Phật giáo: quyền giáo và thật giáo[23].
Ngài dặn kỹ là khi chúng ta học Phật giáo thì phải hiểu cái nào là quyền giáo
(dùng tạm thời, trong một trường hợp, để giáo hóa chúng sinh) và cái nào là
thật giáo (thắng nghĩa giáo, luôn luôn đúng trong mọi thời). Do đó, phải học
với trí tuệ và tìm hiểu cặn kẽ thấu suốt, chứ không nên mù quáng chấp theo
văn tự.
Rồi ngài giảng qua kinh Pháp cú, từ chương 3 – Ái, đến hết chương 7 – Thiện
hạnh
Buổi chiều, ngài giảng tiếp từ chương 8 - Ngữ hạnh, cho đến hết chương 23
– Tự Ngã.
Nguyên cả ngày mưa lạnh và gió rất là khó khăn. Thế mà đại chúng vẫn ở lại
nghe pháp, thật là tội nghiệp. Biết bao nhiêu người cũng kẹt ở lại buổi trưa,
chịu đói và lạnh, không thể rời sân chùa chính để đi ăn.


_________

17. Sống đời phạm hạnh nghĩa là sống không có liên hệ ái dục, không có gia đình vợ con. Cát ái từ sở thân nghỉa là lìa
bỏ ái dục, vì ái dục khuấy động tâm.
18. Direct insight of the true nature.
19. Sống đời biết đủ, tâm thường định. Người đạt vô cầu, phẩm cách cao.
20."Conditio sine qua non": (a condition) without which it could not be.
21. Tìm xem bài viết Khổ đau và hạnh phúc - phần 3, của cùng tác giả Không Quán.
22. Roti: tiếng Hindi, một loại bánh mì rất thông dụng của Ấn độ.
23. Quyền giáo: expedient (temporary) teachings, thật giáo: true (ultimate) teachings.
(expedient: suitable for achieving a particular end in a given circumstance).
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
Đến 4 giờ chiều thì lại đi học lớp ôn giảng ngay. Geshe Dorje Tamdul ôn bài
lại rất hay. Là một chúng sinh, ai cũng muốn có sự an vui hạnh phúc và xa
lìa khổ đau, nhưng khi đi tìm về hạnh phúc, có người ham thích các hạnh
phúc tạm bợ trong cõi thế gian hoặc các vui sướng cao hơn, nhưng vẫn là
tạm bợ của các cõi trời. Thày tóm gọn là trong thế gian có thể xếp loại hai
hạng người tu đạo:

1. Người tu đạo tìm hạnh phúc (tạm bợ) của thế gian. Hạng người
này tìm những nẻo tái sinh tốt ở trong luân hồi như là cõi người, trời
hay A tu la. Họ tu hành theo Thập thiện, để đạt được các cõi tái sinh
cao.
2. Người tu đạo tìm hạnh phúc thường hằng của Niết bàn. Người tu
Niết bàn lại chia làm hai: 1. muốn chứng quả A la hán, đạt Niết bàn
cho mình; 2. muốn chứng quả Phật tối thượng, đạt Niết bàn vô trụ[24].
Muốn chứng quả A la hán, cần tu tập thiền định để phá bỏ màn vô minh, đạt
lên các từng lớp thiền theo thứ tự, thực chứng thẳng vào Tánh không, tất cả
mọi tà kiến điên đảo, sai lầm thô tế đều bị bứng trừ ra khỏi tâm thức, và đạt
đến trình độ diệt tận định. Khi đó hành giả đắc quả A la hán, và chứng Hữu
dư Niết bàn. Rồi khi lìa bỏ thân phàm, bát Niết bàn, thì lúc đó hành giả đi
vào Vô dư Niết bàn. Đạt quả A la hán, hành giả trụ trong Niết bàn tịch tĩnh
và trong niềm đại hỷ lạc khi tất cả tham ái đã hoàn toàn tắt ngấm, và mọi
khổ đau đã hoàn toàn tiêu trừ.

Còn khi hành giả trên con đường chứng quả, hoặc khi đã chứng quả A la hán
mà lại phát Bồ đồ tâm, xa lìa mọi trụ xứ, “chẳng trụ ta bà, chẳng trụ Niết
bàn, tâm vô sở trụ”, và phát nguyện dẫn dắt mọi chúng sinh đạt đến Phật
quả, thì sau khi tuần tự thành tựu Thập địa bồ tát, chứng ngộ Phật quả tối
thượng, đạt vào Vô trụ Niết bàn. Khi đạt vào Vô trụ Niết bàn thì tâm chấm
dứt tất cả khái niệm nhị nguyên[25], tâm đối đãi: cõi ta bà, đối với Niết bàn,
sinh đối với diệt…Khi đạt đến Vô trụ cũng là đạt đến trạng thái bất nhị26.
Khi nghe giảng đến đây, tôi nhớ thầm trong đầu trong bài tụng của Lễ Cúng
dường Đức Bổn Sư có câu kệ:

Xin giải thoát chúng con ra khỏi nỗi sợ của luân hồi sinh tử và của Niết
Bàn, xin cho chúng con đạt Toàn giác…


Câu tụng này ý nghĩa cực kỳ thâm thúy, chính là xin cầu nguyện Đức Bổn Sư
ban cho chúng con đạt được Vô trụ Niết bàn, bởi vì chẳng vướng nỗi sợ bị
kẹt trong ta bà cũng chẳng vướng nỗi sợ bị kẹt trong niềm vui tịch tĩnh của
Niết bàn, nghĩa là xa lìa mọi mắc kẹt vào trong các trụ xứ. Tức là “ưng vô sở
trụ nhi sanh kỳ tâm”[27]. Chữ “kỳ” ở đây, tiếng hán viết là 其, nghĩa là cái ấy,

vậy kỳ tâm nghĩa là cái tâm ấy. Vì trong toàn bộ kinh Kim Cang, đức Phật
giảng về cách thành tựu “A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm”, nghĩa là
Phật quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Do đó, câu trên nghĩa là “chẳng
trụ vào chỗ nào mà sinh cái tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác ấy”.
Nhân ở đây, geshe Tamdul cũng ôn giảng lại phần đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết
về đề mục “tìm mà không thấy được tự ngã, cho dù ở trong cũng như ở
ngoài thân28”, và do đó mà phải kết luận là tự ngã vốn là sản phẩm của
vọng tưởng29 mà ta gán ghép trong tâm thức.
Ngày nào được nghe ôn giảng tôi cũng cảm thấy cực kỳ hoan hỷ và phấn
khởi. Mặc dù tôi rất đói và khi vừa mới xong lớp ôn giảng là tôi mau mau đi
tìm tiệm ăn. Khi ra ngoài đường, vẫn còn mưa âm u và lạnh buốt, tôi đi ăn
tối xong, liền nhanh nhanh để quay về phòng hành trì và đi ngủ ngay.
.


_______

24. Non-abiding Nirvana.
25. Duality.
26. Non-dual.
27. Câu này trích ra từ kinh Kim Cang: đức Phật thuyết giảng cách hàng phục tâm và an trụ tâm, đạt đến trạng thái xả
ly, không còn vướng mắc, chấp trước vào bất kỳ cái gì, xả ly ngay cả các thành tựu, ngay cả Phật quả. Trong kinh
này, đức Phật đã sử dụng biện chứng pháp “phủ định trên phủ định” để phá bỏ toàn bộ mọi tâm chấp trước khái
niệm, ngay cả chấp trước vào trong cái mà mình vừa mới phủ định. Trong kinh, có những đoạn như thế "Trang
nghiêm cõi Phật tức không phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm". Cách "phủ định trên phủ định" nhằm để phá
bỏ toàn bộ tâm chấp ngã qua khái niệm: “cái tôi, của tôi và cái thấy về cái tôi” của các hành giả. Nhờ phá bỏ toàn
diện các tâm khái niệm chấp trước về bản ngã mà các hàng Bồ-tát mới hàng phục được tâm và an trụ tâm trong “vô
sở trụ”. Toàn bộ kinh được tiêu biểu bằng câu: “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, tiếng hán viết là
應無所住而生其心”, đó là điểm then chốt của kinh này.
28. Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển 1- phần Bảy chỗ gạn hỏi tìm tâm
29. Mental fabication, imputation of the mind.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
2. Ngày 24 tháng 2, 2008

Sáng sớm thức dậy, cảm thấy thật là lạnh. Cả đêm qua tôi vẫn bị ho thật
nhiều và đờm, dù sáng sơm cũng như đêm tối trước khi ngủ, tôi đã xúc
miệng cẩn thận bằng thuốc rửa miệng triệt trùng cực mạnh “Listerine”. Thời
tiết buốt giá vì mấy hôm liền mưa liên miên và gió rét thổi rất mạnh. Trong
phòng trên lầu 3, suốt đêm gió thổi đùng đùng tứ phía. Phòng không có sưởi
nên chỉ nhờ ánh mặt trời để sưởi ấm được chút nào hay chút ấy mà mấy
hôm nay vì không có mặt trời nên nhiệt độ trong phòng hạ xuống rất thấp.
Lạnh đến mức mà tôi không dám thả mép mền ngoài thành giường vì hơi
lạnh từ sàn bốc lên trong đêm làm tôi không ngủ được. Kinh nghiệm cho biết
là muốn giữ hơi ấm trong giường ở đây, tôi phải quấn mép chăn chung
quanh người để thân nhiệt được giữ lại trong chăn, như thế ban đêm, tôi mới
ngủ được mặc dù cả đêm không dám thay bộ quần dài và áo bông cho thoải
mái.
Tuy vậy, sáng nay tôi vẫn thức sớm để thiền tọa. Thân và tâm cũng đã huân
tập phần nào với cái lạnh buốt xương, thịt da đã cảm thấy quen thuộc dần
với cái lạnh cắt buốt, các cảm giác của thân thể đã bớt than vãn kêu la. Tất
cả chỉ là huân tập, chỉ là tập khí, và tạng thức chứa các tập khí ấy. Rửa sạch
tập khí đi để mà an tĩnh...

Sau khi rửa ráy sạch sẽ, tôi an ổn thiền tọa. Lòng hướng về đức Đạt Lai Lạt
Ma, với tâm niệm an bình, với một ngày mới, như sự sống khởi sinh – sinh
và diệt - chuyển hóa. Vô thường chẳng phải là vô thường, vô thường chỉ là
chuyển hóa giữa các sinh khởi và diệt. Giòng chuyển hóa không ngừng, đặc
tính nhất thiết của luân hồi.
Tôi tự nhiên khởi lên, làm trong tâm bài thơ:

Chuyển hóa
Giữa giòng chuyển hóa,
Sinh và diệt không ngừng.
Tịch mặc an nhiên.
Giòng sống bình thản,
Thường chuyển buông trôi.
Mỉm cười,
Giăng tâm ôm vòng vũ trụ,
vuốt ve giòng chuyển hóa.
Sự sống,
Ôi, niềm nhiệm mầu sáng ngời...


Sau đó tôi đi vào hành trì thiền quán các pháp môn hứa nguyện. Niềm mầu
nhiệm vẫn ngời sáng trong tâm như ánh sáng mặt trời. Giòng sống đang
khởi sắc trong bài cầu nguyện nghi thức hành lễ cho đến khi có tiếng gõ cửa.
Theo lệnh của thày viện trưởng, vị thày phụ tá mang cho tôi ít nước sôi để
uống cà phê bột sáng sớm cho tỉnh, miếng bánh mì phô mai và ít mứt gừng
giúp chống ho. Hôm qua, khi tôi ghé phòng thày để vấn an, ngài đã dặn tôi
đừng làm việc quá sức vì lớp học ôn giảng kéo dài đến hơn 6 giờ tối. Ngài
muốn tôi nghỉ ngơi vì các điều kiện ẩm thực ở Dharamsala không cho phép
phung phí sức khoẻ. Nhưng tôi vẫn cảm thấy rất thích đi học lớp ôn giảng vì
geshe Tamdul rất uyên bác.
Rời phòng lúc 7.45 sáng, tôi ghé sang phòng thày cảm ơn và lên đường đi
đến chùa chính sau đó.
Buổi sáng, đức Đạt lai Lạt Ma mở đầu bằng bài học, đừng làm bạn với người
ác, mà hãy gần gũi với thiện tri thức. Mặc dầu vậy, ngài dặn thêm là đừng
phân biệt, hãy mở rộng vòng tay ôm lấy tất cả mọi người, đối xử với mọi
chúng sinh như nhau. Nhưng khi học hỏi thì hãy chọn gần gũi các thiện tri
thức, chọn các bậc thày chứ đừng theo bạn xấu.

Sau đó ngài giảng sang kinh Pháp cú, phẩm 24 – Bỉ dụ[30] cho đến phẩm cuối
cùng là phẩm 33 – Bà la môn. Như vậy đức Đạt Lai Lạt Ma đã giảng hết kinh
Pháp cú.
Buổi chiều, đức Đạt Lai Lạt Ma giảng kinh Hiền ngu, phẩm 1 – Hổ mẫu[31], cho
đến phẩm 7 – Ajastya, vị tu sĩ khổ hạnh.
Sau đó tôi đi học lớp ôn giảng. Buổi chiều hôm nay, geshe Tamdul tiếp tục
ôn lại phần đức Đạt Lai Lạt Ma giảng về đề tài chấp ngã. Chúng sinh khổ vì
phiền não khởi sinh. Chấm dứt mọi phiền não là Niết bàn tịch tĩnh. Phiền não
đến từ 4 tà kiến (những cái nhìn điên đảo, sai lầm), có thể tóm gọn như sau:

1. Thấy cái bất tịnh, mà cho là tịnh.
(thân xác của mình vốn bất tịnh, mà mê đắm vào thân xác, cho là
thơm tho sạch sẽ)
2. Thấy cái khổ, mà cho là sướng.
(cảm thọ luôn luôn đưa đến khổ đau, trừ cảm thọ vô ký)
3. Thấy cái vô thường, mà cho là thường còn mãi mãi.
(tâm thức thay đổi, mới sướng đây đã thành khổ, nhưng lúc sướng thì
cứ nghĩ là sướng mãi, còn lúc khổ thì thấy quá khổ, không thoát ra
được, phát điên luôn)
4. Thấy cái vô ngã mà cho là có tự ngã.
(thấy thân mình có thật, có cái tôi, thấy mọi sự vật có thật, chẳng biết
là người và vật đều tùy duyên mà sinh, cho nên chấp vào ngã, chấp
vào pháp, chẳng biết là nhân vô ngã, pháp vô ngã).

Nhưng tựu chung lại thì tà kiến nặng nhất vẫn là chấp ngã, cho rằng cái tự
ngã của mình là có thật, rồi từ đó mà suy nghĩ hành động ích kỷ để thỏa
mãn những đòi hỏi của tự ngã. Chính nơi đó mà tạo tâm phiền não biến kế[32].
Bản chất tâm biến kế có 3 đặc điểm:

1. Là tâm khái niệm: tà kiến cho là mọi sự vật đều có thật, từ ngã
đến chư pháp đều thấy có. Không hiểu mọi sự vật đều là do duyên
hợp, cho nên giả huyễn. Còn cái thấy có thật đó chỉ là sự gán ghép sai
lầm của tâm thức. Như khi nhìn đóa hoa trên mặt bàn, thấy hoa có
thật, khởi tâm tham ái chiếm đoạt.
2. Là tâm phóng đại (hoặc hạ thấp): khi ưa thích thì phóng đại, khi
ghét thì hạ thấp, thí dụ là nhìn đoá hoa trên bàn thấy là đẹp vô cùng
mà thực ra hoa chỉ tương đối.
3. Là tâm cố chấp: tâm này đưa đến hành động và tạo nghiệp. Khi
ưa thích thì tìm cách thủ hữu, khi ghét thì tìm cách tống khứ đi hoặc
hãm hại.


________

30. Bỉ dụ nghĩa là so sánh.
31. Hổ mẫu - tigress.
32. Biến kế, (mental fabrication) như khi đi ban đêm, nhìn cuộn giây mà tưởng là con rắn.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Như vậy, tiến trình của phiền não khởi lên trong tâm và gây nghiệp là:
1. Nhận thức và quy kết (gán ghép), (perceive and impute),
2. Ngộ nhận và biến kế, (misconceive and mental fabrication),
3. Phóng đại, (exaggerate),
4. Tạo tác, (create action),
5. Tích nghiệp, (accumulate karma).
Gốc rễ của tất cả các phiền não trên là vô minh.

Geshe Tamdul nhắc lại hôm qua, đức Đạt Lai Lạt Ma giảng về chấp ngã có
nói là “quý vị thấy tôi có thực quá”. Thày giải thích thêm là khi thấy đức Đạt
Lai Lạt Ma là có thật, quý vị khởi tâm tham ái được gần bên ngài và quý vị
bon chen, giành giựt để được diện kiến, để được ngài ban phép lành hay là
nắm tay ngài. Tất cả đều đến từ cái nhìn sai lầm điên đảo, thấy có, và chấp
là có thực. Không hiểu là tất cả như trong mộng huyễn: như khi ngủ mơ, quý
vị thấy bị hại, khởi tâm vô cùng sợ hãi, giật mình tỉnh giấc, thấy là không
thật.
Khi nghe đến đây, tôi lại không khỏi nghĩ là thực tâm, tôi không ưa thích bon
chen, và nhớ đến lần tôi được mời sang vùng Đông Hoa Kỳ để diện kiến đức
Đạt Lai Lạt Ma. Lúc đầu thì tôi nhận lời, nhưng sau đó tôi đã từ chối không
đi. Lý do là vì tôi không có nhiệm vụ gì thiết thực trong buổi họp, mà thấy số
người xin được về diện kiến quá đông, ban tổ chức phải lo liệu chỗ ăn ở. Sau
này, có vài người bạn hỏi tại sao tôi "gàn" thế, có dịp được diện kiến đức Đạt
Lai Lạt Ma mà bỏ qua. Tôi chỉ cười và nghĩ là, nếu cứ lấy tâm đời mà xét thì
quả là tôi kỳ cục thật.
Tôi nhớ đến chuyện của ngài Tu Bồ Đề: “…tương truyền một hôm Tu Bồ Đề
đang ngồi vá áo trong động Kỳ Xà trên núi Linh Thứu thì bỗng nhiên ngài
quán thấy Phật du hóa phương xa đang trên con đường trở về. Ngài định rời
động xuống núi đón Phật, nhưng lại nghĩ rằng Phật dạy không có cái ta,
cũng không có cái của ta. Đã không có cái ta và cái của ta thì tướng các
pháp vốn không tịch vắng lặng. Phật đã chứng được thật tánh không tịch
vắng lặng tuyệt đối ấy mà thực hiện tự ngã vô ngã siêu tuyệt không hai
trong nhân loại, thì không có cái gì mà không phải là Phật, không ở đâu mà
không có Phật. Vậy hà tất phải xuống núi mới gọi là đi đón Phật. Nghĩ như
thế xong, ngài bình thản ngồi tiếp tục vá áo.
Bấy giờ Tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc nhờ đã chứng được thần thông như Mục
Kiền Liên, biết được Phật sắp về, liền xuống núi nghênh đón. Bà lấy làm tự
hào nghĩ rằng trong Thánh chúng chỉ có mình bà hay tin Phật về và đi đón
Phật trước hơn ai hết. Phật nhìn Liên Hoa Sắc mỉm cười bảo rằng:- Trước
nhà ngươi đã có Tu Bồ Đề đón ta rồi[33].“…
Tôi nhớ thêm đến kinh Kim Cang, đức Phật đã dạy:

"Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thanh cầu ngã;
Thị nhân hành tà đạo,
Bất năng kiến Như-Lai"


Dịch nghĩa là:

(Nếu nhìn ta qua sắc tướng,
Nếu cầu ta qua âm thanh,
Những kẻ đó hành tà đạo,
Không thể thấy được Như-Lai)


Ngày hôm nay, đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nhắn nhủ: quý vị thấy tôi có thực
quá..., chấp vào thân tôi qua hình danh sắc tướng. Mà đó chỉ là thân giả
duyên, sinh diệt ngũ uẩn.
Ngay ở Dharamsala đây, tôi cũng đã thấy một lần, cô Phật tử đòi chỗ ngồi
hôm trước, đột nhiên đứng dậy và đẩy mọi người ra, đạp lên cả giày dép của
mọi người mà chạy lại phía hàng rào nơi mọi người đang sắp hàng chờ đức
Đạt Lai Lạt Ma đi ngang…Hoặc trong chùa, tôi cũng thấy những mẫu người
bon chen tu học, trong các buổi tụng kinh, họ thường đóng các kinh sách lại
để trước mặt để kín đáo khoe rằng, tôi thuộc kinh gốc bằng tiếng Tây tạng,
tôi hành trì giỏi nhất, trong khi thày geshe Tây tạng chính gốc, thuộc lòng
kinh như cháo, thì vẫn mở cuốn kinh để trước mặt và lật từng trang để đọc
tụng. Nhìn những cảnh tượng như vậy, tôi thường rút lấy bài học cho bản
thân, sờ lên gáy mình và tự nhắc nhủ: cẩn thận nhé, hãy cẩn thận... hãy
nhìn cho kỹ cái bản ngã của mình xem nó đang làm gì...
Và chính như là bài giảng hãy thấy mọi chuyện như mộng huyễn của đức Đạt
Lai Lạt Ma dạy, trong kinh Kim Cang, đức Phật cũng nói:

Nhất thiết hữu-vi pháp,
Như mộng huyễn bào ảnh,
Như lộ diệc như điện,
Ưng tác như thị quán.


Dịch nghĩa là:

(Tất cả các pháp hữu vi, sanh diệt)
Đều như mộng huyễn, bọt, ảnh
Như sương mai, và cũng như ánh chớp
Hãy nên luôn quán chiếu như thế...)


Thật tình, đức Phật đã dạy:”Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ
thành”. Tất cả rồi sẽ tuần tự thành tựu Phật quả mà thôi, vậy thì có gì mà
phải bon chen? Chẳng qua là mạt-na thức của mình thúc đẩy, muốn làm
thỏa mãn tâm tự ngã. Cho nên mình cần nhìn kỹ lại mình trong hành động
của đời sống hàng ngày. Cần giữ chánh niệm (awareness), và cảnh giác
(alertness), đâu phải chỉ cứ trong lúc thiền tọa mới chánh niệm.
Trước khi dứt buổi học ôn, thày Tamdul nhắc lại lời của tổ Long Thọ, nói là
"vị hành giả nào, khi nhập vào được tánh không mà vẫn tôn trọng, tuân thủ
luật nhân quả, thì mới thực sự chứng ngộ Tánh Không" và kể câu chuyện lý
thú như sau:

Một vị học trò theo lời dạy của thày mình, ngồi thiền định vào Tánh
Không. Khi hết sức chú tâm vào Tánh Không, vị học trò thấy mình bị
mất tiêu luôn, sợ quá, ngồi khóc hu hu vì đã đánh mất mình. Vị thày đi
ngang qua, hỏi chuyện gì? Học trò vừa khóc vừa nói "con bị mất tiêu
rồi (không còn tồn tại)”. Thày liền hỏi: "ai đang khóc thế ?” Học trò nói
"con đang khóc". Thày trả lời ngay "ồ, vậy thì con làm gì có mất tiêu
hồi nào đâu!”.
Mọi người đều cười ồ lên vui vẻ, và sau đó ra về.

_______

33 Trích từ cuốn sách: “Phật và Thánh chúng”, tác giả là Cao Hữu Ðính.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

TOP 5 Tài Thí

Bên trên