nguyenvanhoc2006

Nhật ký Dharamsala

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113
3. Ngày 25 tháng 2, 2008

Sáng sớm thức giậy vào phòng tắm rửa ráy, liếc nhìn ra bầu trời âm u bao
phủ. Lúc 6 giờ sáng, tôi bắt đầu tọa thiền, vào trong nhất điểm thiền định.
Tâm tôi đi vào niềm tĩnh lặng, hoàn toàn trụ trong buông thư và hơi thở an
bình. Thật là thoải mái và sung sướng. Rồi, từ tâm, khởi lên những lời giảng
của đức Đạt Lai Lạt Ma. Tất cả đều là huyễn hóa. Như mộng huyễn bào ảnh.
Tâm tôi tự nhiên khởi lên câu tụng từ Lễ Cúng dường đức Bổn sư :

"Chúng con được hộ trì của Ngài để thành tựu hạnh thiền định quán
huyễn hóa,
Nhận chân mọi pháp trong, ngoài, đều không có tự tánh mà vẫn hiển
bày,
Như ảo ảnh trong gương, như mộng ảo, như bóng trăng trên mặt hồ
nước lặng…"


Và từ đó tôi lại đi vào trong niềm an bình của mặt hồ nước lặng… Tôi không
còn để ý đến thời gian hay gì khác nữa…
Khi xuất ra khỏi thiền định, tôi mới thấy là thời giờ đi qua thật nhanh. Tôi
hành trì nốt các pháp môn, và sửa soạn đi nghe pháp.
Từ sâu thẳm của tâm thức, tôi chợt nhớ lại mấy câu trong Cung Oán Ngâm Khúc :

Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì!
[34]

Tuồng ảo hóa: trò chơi của kiếp người, khi tôi còn trẻ có đọc say mê cuốn
Sói đồng hoang (Steppenwolf) của Hermann Hesse, và cuốn sách này để lại
cho tôi một ấn tượng mạnh. Sói đồng hoang kể lại câu chuyện của anh
chàng Harry Haller, một chàng trai rất thông minh, và những khó khăn của
anh ta, khi gia nhập cuộc chơi dạ vũ đeo mặt nạ thâu đêm, nhưng lại giấu ở
phía sau một thế giới thứ hai, cao cả hơn, không thể hủy diệt được, vượt quá
Sói Đồng Hoang và cái cuộc sống mơ hồ lăn lộn trong những buổi dạ vũ thâu
đêm…Hồi trẻ, tôi đã đồng hóa mình với anh ta và đã mộng những giấc mộng
của chàng Harry Haller đó…
Vào được chùa chính, ngồi xuống chỗ, tôi mới nhận ra là mấy hôm nay ngồi
trên sàn xi măng lạnh buốt bàn tọa, các đầu gối và mông cũng ê ẩm mỏi
mệt đến độ, khi về phòng sau khi ăn buổi tối xong, rất khó ngồi thiền tọa
lâu, mà cần nghỉ ngơi đến sáng hôm sau mới ngồi thiền thoải mái được. Tối
nay chắc tôi sẽ phải đi kiếm mua một miếng đệm mỏng bằng bọt xốp để mai
lót thêm lên chỗ ngồi cho bớt lạnh.
Sáng hôm nay, trước khi đi vào giảng về kinh Hiền Ngu, đức Đạt Lai Lạt Ma
nhắc lại đề tài thuyết giảng hôm trước. Ngài nhấn mạnh là tất cả phiền não
đều từ tâm chấp ngã. Chính tâm chấp ngã này làm cho chúng ta khi nhận
thức một sự vật nào cũng đều thêm vào cái ngã của mình để nhìn sự vật ấy
một cách méo mó qua hai khía cạnh: hoặc thích và dính mắc tham ái, hoặc
ghét và muốn hủy hoại tống khứ. Nếu một vật thực sự đẹp, thì tất cả mọi
người đều phải cùng nhìn thấy nó đẹp. Nhưng thực tế thì không phải vậy,
người khác không thấy nó đẹp như ta thấy.

Do đó, nên hiểu là chính tâm chấp ngã của ta đã bóp méo sự vật theo lăng
kính của tự ngã. Do đó, ta nhìn sự vật với tà kiến, quy kết gán ghép cho sự
vật những đặc tính mà nó không có, thí dụ như nhìn sự vật quá có thực, quá
thường hằng. Thực ra, nếu thấy một điều gì tốt, chỉ nên đánh giá đúng điều
đó, và dừng lại ở chỗ "đó là một chuyện tốt". Nhưng tâm ta lại không thế, vì
tâm chấp ngã làm ta luôn luôn phóng đại mọi chuyện, hoặc là tốt quá, hơn
sự thật, hoặc là xấu quá, kém sự thật.
Từ vô thỉ vô chung, chúng ta đã bị kiềm chế bởi tâm chấp ngã này, và không
thể diệt trừ được nó.
Thế nhưng nếu đặt câu hỏi: tất cả mọi người đều có nên học phá bỏ và diệt
trừ ngã không ? Câu trả lời là không nhất thiết. Vì sao ? Vì thuốc phải tùy
bệnh mà cho. Tôn giáo cũng như là thuốc trị bệnh. Do đó mà đức Phật đã
tùy người mà ban pháp, có khi đức Phật giảng về hữu ngã cho những người
còn quá chấp vào ngã (giảng vô ngã cho họ, có thể làm hại họ). Còn đối với
bậc căn cơ cao, đức Phật giảng vô ngã, vì họ có thể thọ lãnh pháp vô ngã và
được nhiều lợi lạc.
Sau đó, đức Đạt Lai Lạt Ma giảng kinh Hiền Ngu, phẩm 8 - Từ bi lực, cho đến
phẩm 16 - Ấu thuần điểu[35]. Mọi người ai cũng ngạc nhiên tại sao đức Đạt Lai
Lạt Ma lại giảng kinh nhanh như thế. Với vận tốc này thì sẽ khóa thuyết
giảng sẽ xong sớm hơn dự định nhiếu.
Nhưng chưa kịp nghĩ xa hơn thì đã nghe đức Đạt lai Lạt Ma thông báo sẽ
giảng xong kinh Hiền Ngu ngày mai 26 tháng hai, và kể từ ngày 27 trở đi,
ngài sẽ ban Lễ Quán Đảnh "Kadampa Thập Lục Tổ[36]". Tôi nghe ngài nói mà
tim muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, vì tôi đã mong đợi thọ Lễ Quán Đảnh này
từ lâu, ít khi ngài ban lễ này lắm, mà nay ngài như là có thần thông hiểu
được sự mong đợi của tôi và ban cho Lễ Quán Đảnh. Tôi chợt nhớ lại là suốt
từ khi đi qua Ấn ở Sera cho đến bây giờ, tôi luôn luôn cảm nhận sự hộ trì của
giòng chư tổ phái Giới đức (Gelug), mà phái Giới đức chính là truyền thừa
của giòng Kadampa.

_________

34. Câu 101-104, Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều.
35. Ấu thuần điểu: chim cút con.
36. The 16 drops of Kadampa.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Mừng quá, tôi sung sướng đi học lớp ôn giảng buổi chiều. Geshe Tamdul ôn
lại kinh Pháp cú, phẩm 12 - Đạo lộ. Thày giảng tóm lược lại ý chính của
phẩm 12 nói về nền tảng của đạo Phật chính là diệt trừ mọi tầng lớp của vô
minh để có thể chứng quả giác ngộ Bồ đề. Hơn nữa, tổ Long Thọ đã giảng:
"trí tuệ Tánh Không chính là nền tảng của giải thoát giác ngộ". Đức Phật
Thích Ca cũng đã vạch rõ vô minh qua giáo lý "Phật giáo Tứ ấn" (kinh Ðại
Bát Niết Bàn[37]) như sau:

1. Vô thường: nhất thiết pháp (hữu vi) vô thường[38],
2. Khổ: nhất thiết pháp (hữu lậu[39]) khổ não,
3. Không: nhất thiết pháp không (tức vô ngã),
4. Niết Bàn tịch tĩnh: đoạn diệt phiền não tức thị Niết Bàn tịch tĩnh.
Sau đó thày trả lời câu hỏi về vấn đề "hiện hữu (existence)" và "phi hữu
(non-existence)" vì có người đặt câu hỏi làm sao mà tin được là cõi thiên có
thật. Tất cả các pháp (sự vật) hiện hữu trong 6 cõi được phân làm 3 loại như
sau:
1. hiển hiện pháp (evident phenomena): là những sự vật hiển
nhiên tồn tại, mắt thấy, tai nghe và cò thể tiếp cận sờ mó được,
2. phần tàng pháp (slightly hidden phenomena): là những sự vật
bị che dấu một phần trong vũ trụ, không nhìn thấy được mà phải dùng
lý luận hoặc khoa học để chứng minh sự tồn tại của nó, thí dụ như
dòng điện, từ trường,
3. tuyệt đối tàng pháp (absolutely hidden phenomena): là những
sự vật hoàn toàn bị che dấu trong vũ trụ, không những không thể nhìn
thấy mà còn không thể chứng minh sự hiện hữu của nó qua khoa
học...
Do đó, cõi thiên tuy có thật, nhưng không thể dùng khoa học mà chứng
minh sự tồn tại. Tuy nhiên, thày nhấn mạnh là đừng mất thì giờ tìm cách
chứng minh các pháp loại 3 có hiện hữu, bởi vì điều đó không giúp ích thiết
thực gì trong việc tu hành đạt đến giác ngộ của mình. Nên tránh mất thì giờ
trong các chứng minh hý luận và hãy đặt trọng tâm lên những pháp môn
hành trì thiết thực đưa mình thăng tiến trên con đường đạo thì hay hơn.

Sau buổi học tối hôm đó, tôi đi ăn mì tại tiệm Drasang, khi đến nơi thì đã
trễ, nhưng có hai vị sư vui lòng ngồi nhích vào cho tôi chỗ. Ngồi xuống cạnh
hai vị, tôi cám ơn và hỏi thăm đến từ tu viện nào thì họ nói đến từ Gaden
Shartse, cũng là nơi vị thày bổn sư của cả gia đình tôi, Lati Rinpoche, trụ trì.
Mừng quá tôi hỏi thăm hai vị, thày Lati Rinpoche có về Dharamsala không ?
Họ nói có và chỉ chỗ để tôi đến thăm thì mới biết là thày tạm trú ngay tại nơi
chùa chính, chỗ nghe pháp. Sau khi ăn xong, tôi đi về phòng, nhưng cảm
thấy như bị trúng lạnh. Cả ngày mưa dầm dề buốt giá khó chịu và tôi bị ho
càng ngày càng nặng. Đang nghĩ cách mua đi thuốc ho để uống thì may quá,
tôi gặp thày Tenzin trước cửa phòng và hỏi thày chỉ chỗ bán thuốc, rồi sau
đó hành trì trước khi đi ngủ.

_________

37. Mahaparinirvana sutra.
38. Pháp hữu vi, anh ngữ là compound phenomena, cũng là composite things.
39. Pháp hữu lậu, anh ngữ là contaminated phenomena, cũng là contaminated things.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

4. Ngày 26 tháng 2, 2008


Sáng sớm thức dậy, nhìn ra ngoài thì thấy bầu trời vẫn âm u. Lại thêm một
đêm mưa dầm dề. Rửa ráy xong, tôi ngồi vào thiền định như mọi sáng.
Nhưng sáng nay thì tôi cảm thấy lạnh quá. Hậu quả của những ngày ăn
thiếu và nhiễm trùng cổ, ho và viêm xoang mũi. Trong người cảm thấy như
không đủ năng lực. Lạnh và ẩm quá chừng cho nên tôi cứ bị sổ mũi liên miên
trong tình trạng thiếu thốn năng lượng để chống đỡ. Tôi thầm nghĩ, thân
mình mà còn lo chưa xong, không chịu nổi khổ cực và khó khăn thì còn
mong gì cứu độ ai. Lo thân không xong, đói rét không kham nhẫn nổi! Con
đường Bồ tát đạo quá rộng lớn, mà thân mình thì quá mong manh, quá quen
thuộc với tiện nghi tập khí, đắm trong đời sống lợi dưỡng thân mình...
Nhìn lại chư tăng, để vai trần, đức Đạt Lai Lạt Ma cũng để vai trần mà đi,
nguyên một bên tay không áo che. Nhưng chư vị vẫn thản nhiên vui vẻ và tu
hành tinh tấn như không.
Vậy mới ngộ ra là tất cả đều do tâm, tâm nhiễm tập khí là chủ nhân ông,
khó có thể điều phục, khó kham nhẫn. Lấy gì mà tinh tấn tu trên đường đạo?
Quả tình, lúc nào mình cũng chỉ chăm chăm bo bo lo bồi dưỡng thân ngũ
uẩn. Khổ thì sinh bệnh, đói cũng sinh bệnh. Thân mình là chủ, hành hạ mình
lên xuống chạy theo lo cung ứng cho các đòi hỏi của ngũ uẩn. Tứ đại thì bất
an vì bàn tọa ê ẩm sau mấy ngày ngồi trên sàn xi măng lạnh lẽo nghe pháp
trong mưa gió...
Không chịu thua, tôi quyết tâm tọa thiền, ngồi chú tâm chánh niệm, xả bỏ
tất cả những đau đớn của thân thể và của bệnh tật. Thế là tôi lại hưởng được
những giây phút an lành của thiền định, và cảm nhận lòng tri ân sâu xa đối
với chư tổ sư giòng truyền thừa đã ban cho những pháp môn hành trì thật là
mầu nhiệm và an lạc.
Khi hành trì xong đi ra ngoài để đi nghe pháp, tôi ngạc nhiên vui thích khi
thấy thời tiết đã thay đổi thật bất ngờ. Mặt trời ló dạng và chiếu muôn ngàn
tia sáng thật đẹp. Mây âm u đã bay đi nhiều và chỉ còn lại một vài đám lưa
thưa. Niềm vui tọa thiền được tăng trưởng thêm với ánh rực rỡ của buổi sáng
đẹp trời.
Sáng nay, tôi lại nhận thấy có một sự trùng hợp khi Đức Đạt Lai Lạt Ma
không giảng thẳng vào kinh Hiền Ngu, mà lại bắt đầu bằng chính bài giảng
về chánh niệm. Ngài nhắc lại phần giảng kinh Pháp cú mấy ngày trước rằng
chính nhờ chánh niệm (mind consciousness) và cảnh giác (alertness) mà
hành giả đạt đến giác ngộ, ngài sách tấn chúng ta hãy hoan hỷ tinh tấn hành
trì gìn giữ hai phương pháp thiền định quý giá đó và nhận chân tất cả các
khoái cảm cũng như đau đớn đều xuất phát từ duyên khởi. Do nhân duyên
này mà ta thọ nhận thứ này, do nhân duyên kia mà ta thọ báo thứ kia. Vì
thế mà hãy luôn luôn cảnh giác và chánh niệm gìn giữ để tâm thức mình
không khởi lên phiền não trong mọi hoàn cảnh. Khi phiền não đoạn diệt thì
chứng giác ngộ. Hãy tiêu trừ tâm tập khí bất trị và đoạn diệt phiền não.
Tôi nghe những lời pháp này mà thấy như luồng nước cam lồ tuôn chảy
trong thân. Chẳng phải là sáng nay tôi vừa mới trải qua một trường tranh
đấu với thân tâm bất trị sao? Quả là mầu nhiệm khi mỗi bài pháp ngài ban
cho chính là những hành trì từng ngày. Nhật tân nhật nhật tân, hựu nhật
tân, mỗi ngày ngài lại ban cho một bài pháp khuyến tu, khế hợp với sự hành
trì…
Ngài giảng, như khi giặt sạch quần áo, có những vết bẩn thô, dễ gột sạch,
cũng có những vết bẩn vi tế khó tẩy trừ. Các lậu hoặc trong tâm cũng phân
làm hai loại, thô và vi tế:
1. nghiệp bất thiện : là những lậu hoặc thô
2. đắm nhiễm luân hồi: vi tế hơn, vì phải xả bỏ tất cả các dục lạc
trong sáu cõi, ngay cả hỷ lạc của các từng trời cao nhất cũng phải xả
bỏ.
Chính là nhờ thiền định mà có thể chuyển hóa tâm thức, qua phương pháp
chánh niệm và cảnh giác, mà thuần hóa các tập khí bất trị trong tâm.
Ngài nhấn mạnh thêm: ngoài ra, tinh tấn huân tập và thiền quán khởi sinh
tâm thiện không phải chỉ là ngồi yên thiền định, mà chính là sự gìn giữ
chánh niệm và cảnh giác tâm thức trong suốt mọi thời. Như thế mới chứng
đắc giác ngộ. Trăm năm qua đi như bóng câu qua cửa sổ, thế mà tất cả mọi
tranh chấp trên thế giới đều gây ra từ những con người với mạng sống trăm
năm đó, thật là phi lý.
Sau đó, ngài giảng tiếp qua phần hôm trước phẩm 16 - Ấu thuần điểu, cho
đến phẩm 21 – Truyện Bồ tát Kuddhabodhi. Đặc biệt, phẩm 19 – Liên hoa
căn (Lotus roots) kể một câu chuyện cực kỳ cảm động và đã làm tôi rơi nước
mắt. Khi ngài giảng đến đoạn vị tu sĩ khổ hạnh trải qua ngày thứ năm không
có thức ăn và chỉ còn da bọc xương mà vẫn an vui và từ bi với mọi người thì
tôi cảm động quá và chảy nước mắt nghẹn ngào…
Sau đó là giờ nghỉ trưa, đặc biệt, hôm nay, chư tăng mang những thùng
canh lớn và bánh mì phát cho mọi người ở lại không ra ngoài được. Có lẽ đức
Đạt Lai Lạt Ma thấy tình cảnh khó khăn của Phật tử nghe pháp mà không ra
ngoài ăn trưa được nên phân phát chút thức ăn. Tôi cũng xin được chén canh
cải bắp chay và miếng bánh mì ăn đỡ đói.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

Buổi chiều, đức Đạt Lai Lạt Ma giảng sang phẩm 22 – Nga điểu vương, cho
đến hết phẩm 23 - Đại Bồ Đề Hiền giả. Phẩm 23 này là một câu chuyện thật
hay và có ý nghĩa cực kỳ thâm sâu. Vị hiền giả Đại Bồ Đề đã sử dụng biện
chứng pháp để thuyết giảng những tư tưởng về nhân quả và phá tà hiển
chánh của Phật giáo một cách thật là cao diệu.
Sau đó đức Đạt Lai Lạt Ma dặn dò đôi điều về Lễ Quán Đảnh Thập Lục Tổ
Kadampa trong ba ngày 27, 28 và 29 vào buổi chiều. Ba ngày đó sẽ không
có thuyết giảng trong buổi sáng vì đức Đạt Lai Lạt Ma cần phải cầu nguyện
và sửa soạn cho Lễ Quán Đảnh.
Hôm nay, trong buổi học ôn giảng, vì có nhiều câu hỏi liên hệ đến Lễ Quán
Đảnh Thập Lục Tổ Kadampa[40] cho nên thày Tamdul bắt đầu buổi học bằng
lời giải thích những tiêu chuẩn cho phép một Phật tử thọ lễ này. Tóm lại,
thày khuyên nên xét kỹ trước khi quyết định xin thọ lễ hay không, như sau :

1. Vị nào mới đi vào theo mật tông hay tương đối mới làm quen với
tông phái không nên thọ lễ bởi vì thọ lễ này là một hành động khá
quan trọng, cần phải suy xét kỹ lưỡng và không nên thọ lễ bừa bãi.
Nếu chỉ vì thấy đức Đạt Lai Lạt Ma quá siêu phàm, và chỉ vì ưa thích
nhân cách của ngài mà thọ lễ ngày mai, rồi sau đó về nhà và quên
khuấy đi, hoặc không còn ưa thích nữa thì không nên chút nào. Điều
nên nhớ, khi quý vị đi nghe pháp thì đức Đạt Lai Lạt Ma chưa phải là
đức bổn sư, nhưng khi đã thọ lễ quán đảnh thì vị thày ban lễ sẽ trở
thành đức bổn sư chính thức của quý vị. Mối liên hệ "bổn sư-đệ tử" cần
phải gìn giữ cho tuyệt đối thanh tịnh và tôn kính, nếu không thì sẽ tạo
nghiệp xấu.
2. Quý vị nào hành trì Shudgen Dorje không nên dự lễ này.
3. Quý vị nào muốn thọ lễ phải tìm học kỹ càng hai đề mục "Ba
nguyên tắc của đạo lộ" và "Tứ diệu đế".
4. Sau khi thọ lễ thì phải hành trì mỗi ngày:
• Lục thời du già quán tụng (tối thiểu là bản rút ngắn)
• Bồ tát giới
• Mật tông giới.
Rồi thày Tamdul ôn lại "Phật giáo Tứ ấn" (trang 50), và giải thích rõ thêm
hai ấn đầu như sau:
Ấn thứ nhất, pháp hữu vi là vô thường, bởi vì hữu vi nghĩa là giả hợp từ nhân
duyên. Do đó sinh diệt, và sinh diệt thì vô thường. Sinh diệt thì chuyển biến
từng sát na, thân hiện tại này chính là thân của sát na ngay trước đó, mỗi
mỗi sát na đều già cỗi đi, để cuối cùng đi vào nghĩa địa (hủy diệt theo nghĩa
thế gian). Pháp hữu vi không những bao gồm các sự vật, mà còn bao gồm
cả tâm thức. Cũng y như vậy, tâm thức sinh diệt vô thường. Tâm ngày hôm
nay là tâm của 24 giờ trong ngày, là tổng hợp của tâm mỗi giây phút. Rồi đi
sâu hơn nữa thì tâm hiện tại này chính là tâm của sát na ngay trước đó. Tâm
sau chẳng thể có nếu tâm trườc chưa sinh, niệm niệm sinh khởi, sát na sinh
diệt. Do đó, thân và tâm đều sinh diệt vô thường.
Ấn thứ hai, pháp hữu lậu là khổ, vì hữu lậu nghĩa là dò rỉ, chỉ cho tâm
phiền não khởi sinh, mà có phiền não tức là có khổ. Phiền não phá hoại
đê điều chánh niệm bảo vệ thân tâm và tổn hại thiện căn. Tỷ dụ như khi
phiền não khởi sinh thì đang ăn miếng ngon cũng không còn thấy ngon vì
phiền não che lấp tất cả. Cả tâm chấp trước cũng là hữu lậu, chấp vào
vật thì sinh tham ái và phóng đại sự vật qua lòng tham ái.
Sự liên hệ của hai ấn đầu tiên là: 1. ta luôn luôn chuyển biến về một chỗ
nào đó[41] mà vì vô minh, ta mù mờ không nhận thức rõ, 2. ta bị kiềm chế
bởi phiền não, và luôn luôn chạy đuổi theo tâm vô minh này. Do đó mà
ta luôn luôn chuyển biến (theo ấn thứ nhất).
Để thí dụ cho dễ hiểu sự vô minh mù mờ về sinh diệt chuyển biến của ta,
thày Tamdul kể câu chuyện. Như khi đi xa nhà 10 năm, quay trở về, nhìn
trước sân thấy cây táo cao lớn mọc xum xuê xinh đẹp, ta kinh ngạc và vô
tình cảm thấy cây đột nhiên hiện hữu! Nhưng đó là sai lầm của tâm thức
trong ta, cây không phải đột nhiên mà có, chỉ vì 10 năm đã qua, mà ta
không chánh niệm đó thôi. Nhìn lại, ta thấy đời người đi rất nhanh như
bóng câu, càng ngày ta càng đi đến gần về sự chết, điều đó làm tâm ta
sợ hãi. Trong đời sống bận rộn miệt mài bận bịu, làm cho chúng ta
thường quên lãng đi, không có chút chánh niệm nào, ngay cả với hơi thở
của mình.
Nghe thày giảng về sự vô minh mù mờ đến đây, tôi chợt nhớ lại câu chuyện
thiền tông sau:

Một hôm, Bá Trượng Hoài Hải đi hầu sau Mã Tổ Đạo Nhất. Thấy một
bầy vịt trời bay ngang qua đầu, Mã Tổ hỏi Bá Trượng:
-Đó là cái gì?
Bá Trượng thưa:
-Đàn vịt trời.
-Bay đi đâu?
-Bay ngang qua.

Mã Tổ bèn nắm lỗ mũi Bá Trượng kéo mạnh, khiến Bá Trượng kêu thất
thanh.
Mã Tổ bảo:
-Lại nói bay qua đi.
Ngay câu đó, Bá Trượng tỉnh ngộ.
Sau khi học lớp ôn giảng xong, tôi đi ra ngoài ăn một chút rồi quay lại chùa
chính đi hỏi thăm tìm phòng của thày Lati Rinpoche để đến thăm. Chư tăng
cũng không rành lắm cho nên cứ chỉ lung tung, và tôi gõ tới phòng thứ năm
mới đúng là phòng của thày Lati Rinpoche. Hai vị đệ tử ra mở cửa và nói tôi
vào ngồi chờ một lúc ngắn thì thày Ngawang xuất hiện. Thày nhìn tôi một
vài giây và nhớ ra, vì tướng mạo tôi bây giờ đã thay đổi nhiều, nhưng tôi vẫn
quỳ xuống đảnh lễ và thưa con là Sonam Nyima đây.
Thày Ngawang kéo tôi đứng lên. Mấy năm rồi mà thày vẫn y như xưa, chỉ có
tôi là già đi nhiều. Thày mừng rỡ ôm lấy tôi dẫn vào bên phòng trong, bảo
tôi ngồi trên giường chờ thày lo vài chuyện đang dở dang với vị Phật tử đến
trước. Chỉ một chút sau, thày Ngawang trở lại và dẫn tôi vào vấn an ngài
Lati Rinpoche. Tôi vào phòng thày Lati Rinpoche và đảnh lễ dâng khăn. Thày
Lati Rinpoche đưa hai tay ôm lầy đầu tôi và ban phép lành hộ trì rất lâu và
sau đó ban cho sợi giây hộ trì màu đỏ để đeo vào cổ. Xong ngài hỏi thăm tôi
và gia đình qua sự thông dịch của thày Ngawang. Trước khi ra ngoài để nghe
pháp buổi chiều, tôi thưa thày Ngawang xin cúng dường, nhưng thày
Ngawang ngăn lại, nói là con cần tiền tiêu trong những ngày ở đây học đạo.
Tôi năn nỉ thày, thưa là gặp được Lati Rinpoche rất khó khăn, mà con ở đây
chẳng tiêu được gì, mỗi ngày ăn một bữa thôi mà tiệm ăn thì rất rẻ, cho nên
con chẳng tiêu dùng gì được và cho con cúng dường. Sau cùng Lati Rinpoche
hoan hỷ nhận lời và tôi đi về chỗ ngồi để nghỉ ngơi một chút trước khi buổi
thuyết pháp bắt đầu. Thày Ngawang dặn dò tôi là từ hôm nay, mỗi tối hãy
ghé qua dùng cơm tôi với thày. Tôi thưa vâng.
Trên đường đi về phòng, tôi thấy trong lòng vô cùng mừng rỡ vì được gặp
thày Lati Rinpoche và lúc nào cũng được thọ nhận từ chư vị một tình thày trò
tràn ngập thương yêu và từ bi.

_________

40. Đây là đại lễ quán đảnh, (tạng ngữ gọi là wang), chứ không phải tiểu lễ quán đảnh (tạng ngữ là tchenang). Nhưng
đại lễ quán đảnh này không có ban mật pháp hành trì (saddhana Trung Hoa dịch là nghi quỹ), chỉ có ban hứa nguyện
hành trì, (tạng ngữ là damtsig, phạn ngữ là samaya), xem lời khuyên, phần 4 ở bên trên.
41. Thí dụ như nghĩa địa.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

5. Ngày 27, 28 và 29 tháng 2, 2008


Ba ngày này, đức Đạt Lai Lạt Ma ban lễ quán đảnh Thập Lục Tổ Kadampa. Vì
là pháp môn mật tông cho nên tôi không được phép phổ biến ra ngoài. Mặc
dù sáng sáng, tôi vẫn thiền tọa và hành trì, cũng như quán tưởng theo
những buổi thọ lễ quán đảnh và lời dạy của ngài.
Duy trong những buổi thiền toạ sáng sớm, tôi vẫn tiếp tục nhận thức và
quán chiếu rõ ràng về đề tài thân như bọt huyễn.
Khi ở trong hoàn cảnh khó khăn, nơi xa lạ, tôi mới thấy ra sự bất lực và vô
dụng của mình, không làm được gì giúp cho thày của mình mà ngược lại,
chư tăng còn phải lo cho mình, như mỗi sáng thày ban cho nước sôi để pha
trà hay cà phê, ban cho ít bánh và mứt gừng để trị ho. Thân mình, cứ ngỡ là
cúng rắn lắm, thế mà chỉ vì không quen thủy thổ, không đủ tiện nghi mà
sinh bệnh nhiễm trùng. Ho liên miên không dứt. Lại thêm đói lạnh. Thân
mong manh như bọt bèo, khó kiếm mà dễ mất. Thày Ngawang có dạy tôi là:
"Con về đây tu học sẽ tốt cho con rất nhiều để thấy ra là con ở Canada rất là
sướng". Quả là như thế, tôi tỉnh ngộ ra rất nhiều. Ở Canada sung sướng hơn
là thế mà tâm phiền não vẫn không dứt được.
Sáng hôm đó, tôi ra ngoài và tìm ra được nhà thuốc tây, mua được thuốc trụ
sinh Cipro trị mọi loại vi trùng và uống. Mấy ngày nay, trời rất đẹp và ấm áp
trở lại, làm tôi như được hồi sinh, bớt lạnh hơn nên tôi có thể tắm rửa sạch
sẽ mỗi ngày. Xong, tôi đi mua quýt tươi và to mang đến cúng dường thày
Khen Rinpoche, vì sáng nay được nghỉ không có thuyết pháp. Đến nơi, thày
vui mừng kéo tôi vào nghe nói chuyện vì mấy hôm nay tôi mải lo đi nghe
pháp và học ôn giảng nên không gặp ngài nhiều. Ngài khuyên tôi nên nghỉ
ngơi. Sau đó, bóc quýt ăn, ngài tư lự kể lại chuyện đời của ngài, tại sao lại
thích ăn quýt:
Vào những năm đầu tiên khi đức Đạt Lai Lạt Ma và chư tăng bỏ trốn
qua Ấn tỵ nạn Trung cộng, chính phủ Ấn đưa toàn thể cộng đồng Tây
tạng về Bengali tạm trú. Thời trước đó, Bengali là một xứ do thực dân
Anh cai trị. Để chấn chỉnh và giữ an ninh, thực dân Anh quốc đã cho
xây một trại tù rộng lớn đến hàng cây số. Sau khi thực dân trả tự do
cho Ấn độ thì trại tù đó đã được giải tỏa. Chính phủ Ấn thoạt đầu
không biết làm sao giải quyết vấn đề tỵ nạn Tây tạng, bèn tách rời
chính phủ lưu vong và đức Đạt Lai Lạt Ma ra riêng, còn cộng đồng dân
Tây tạng, phần lớn là chư tăng thì đưa về trại tù Bengali, sửa chữa tạm
bợ thành trại tỵ nạn để cho họ ở.
Thày im lặng một lúc như để tưởng nhớ, và tiếp tục.
Con biết không, lúc đó rất là khổ cực vì bị nhốt trong một trại lớn, bao
quanh bởi tường cao bằng hàng rào kẽm gai và không được phép đi
đâu ra ngoài vòng trại tỵ nạn đó. Bốn góc thành và rải rác là các trạm
canh cao, trên đó có lính đeo súng gác. Chính phủ Ấn mang đến đồ ăn
cho chư tăng mỗi ngày. Trong vùng Bengali đó, đặc biệt là, cây quýt
mọc lên tự nhiên rất nhiều ở mọi nơi và có những trái rất lớn, tươi
ngon. Sống trong trại tỵ nạn như thế, chư tăng không thể làm gì được
ngoài cầu nguyện hành trì, và khi rảnh rỗi thường hái trái quýt về ăn.
Cho nên khi con mang quýt đến cúng dường, thày lại nhớ lại thời xa
xưa khổ cực đó… Tôi mủi lòng, ngồi im lặng một lúc.
Thày lại nói tiếp. Con biết không, ngay góc của trại tỵ nạn là một cái
tháp, trong đó dựng máy chém đầu tù nhân. Thực dân Anh đã mang
không biết bao nhiêu người Ấn, tốt cũng có, xấu cũng có, cả những
nhà đấu tranh chống thực dân Anh ra đó xử trảm. Oan hồn ban đêm
thường hiện ra than khóc và làm mọi người sợ hãi. Chư tăng ở trong
trại cũng rảnh rỗi bèn họp nhau lại, lập đàn tràng làm lễ cầu siêu cho
các oan hồn uổng tử nên sau đó không còn bị cảnh oan hồn hiện ra
trong đêm…
Tôi xúc động khi nghe thày kể chuyện đời xưa, cũng nhờ tôi hay để ý thương
thày, mang cúng dường những món thày thích nên hôm nay được nghe tự
ngài kể chuyện đời xưa một cách sống động.
Chiều hôm 28 tháng 2, khi tôi đi dự lễ quán đảnh về, khi đến lầu 3, sắp vào
phòng thì thấy một số người Việt nam đứng tụ họp gần trước của phòng,
dường như chờ đợi để vào thăm Khen Rinpoche. Trong đó có một vị sư cô
mặc áo vạt hò ngắn, có vẻ lớn tuổi, vẻ mặt rất hiền từ. Tôi cũng không quen
biết ai trong nhóm đó, trừ cô Phật tử ngồi trước chỗ ngồi nghe pháp của tôi,
thì cũng chỉ biết qua những buổi nghe pháp. Cô thấy tôi đi vào phòng, cạnh
phòng thày Khen Rinpoche bèn hỏi xin mượn phòng tôi nghỉ ngơi tránh nắng
và sử dụng nhà tắm. Tôi hoan hỷ chắp tay và xin họ chờ giây phút để vào
dọn dẹp phòng một chút, trước khi thỉnh họ vào vì trong nhóm có một sư cô.
Khi ra ngoài thỉnh họ vào thì sư cô cảm ơn và nói là không dám làm phiền.
Tôi bèn quay vào phòng mang quýt và nước uống mời họ giải khát. Sau này,
tôi mới được người bạn đạo ở Paris, cùng là tác giả chuyển dịch nhiều cuốn
kinh sách chung với nhau cho biết, vị sư cô nghiêm trang và hiền từ đó chính
là má nuôi của vị bạn đạo đó, gọi tên thân mật là má Đều. Má Đều (vị sư cô
đó) là một vị khá đặc biệt, vì ngoài tính tình nghiêm trang hiền từ, còn rất là
mộ đạo, năm nào cũng đi Ấn hành hương, dù nghèo và có khi phải mượn
tiền để đi hành hương cúng dường chư tăng. Trong 10 ngày qua, má Đều đi
nghe pháp đầy đủ, từ sáng đến chiều và cũng phải nhịn ăn như tôi, mà má
vẫn an nhiên vui vẻ dù toàn bộ 10 ngày không hề có thông dịch Việt ngữ
hay Pháp ngữ để má có thể nghe hiểu (vì má ở bên Pháp). Khi tôi nghe
chuyện đó, tôi cảm thấy thật là cảm phục má, 10 ngày ngồi chen chúc, từ
sáng đến chiều mà không có thông dịch! Tôi cảm phục lòng nhẫn nại vô biên
của má quá. Đặc biệt má còn nói, 10 ngày má sung sướng được an trú trong
Pháp nhũ. Quả là một vị sư cô khác thường. Tôi rất lấy làm tiếc là đã không
biết má trong khi ở đó và hy vọng là nhật ký này sẽ đến tay má để ít nhiều
có thể tóm lại những ý chính của 10 ngày thuyết pháp làm quà cho má.
Đường nhập vào cửa đạo có hai: hạnh nhập hoặc lý nhập. Tôi thì có thói
quen đi nghe pháp, học đạo, do đó theo lý nhập trước, rồi phát triển hạnh
nhập sau, còn má Đều thì chọn con đường hạnh nhập là chính yếu. Tôi thầm
nghĩ là con đường hạnh nhập thực là hay và cao cả.
Tối hôm đó, khi đến dùng cơm chung với thày Ngawang, bệnh ho của tôi có
vẻ bớt đi. Thày Ngawang vui vẻ hỏi thăm tại sao tôi lại cạo đầu. Tôi kể lại
căn bệnh của tôi, phải đi chữa bệnh bằng tia cực tím. Thày căn dặn tôi kỹ
càng về nghiệp, khi các chướng ngại đã trổ ra thì sẽ khó khăn như thế nào.
Và dẫn tôi qua thăm ngài Lati Rinpoche, hỏi ngài về bệnh của tôi cũng như
về gia đình tôi. Lati Rinpoche dặn tôi là kể từ hôm nay cho đến khi về, phải
đi cúng dường đèn bơ mỗi ngày. Thày Ngawang theo lời ngài, dẫn tôi đến
tận tôn tượng linh thiêng thờ đức Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn và chỉ
cách cho tôi cúng dường đèn bơ, dâng khăn trắng với vị thày hương đăng, và
hồi hướng. Tự nhiên, lòng tôi khởi lên tín tâm sâu xa mạnh mẽ vào sự hành
trì hồi hướng. Kể từ đó, mỗi ngày còn ở lại Dharamsala, tôi đều đi đến cúng
dường đèn bơ và hồi hướng cho tất cả, thân nhân, bạn bè quyến thuộc được
mọi sự an lành, tai qua nạn khỏi và nhất là tiêu trừ bệnh tật, khoẻ mạnh an
vui trong đời sống và an hưởng đạo pháp. Ngày hôm đó, tôi cũng được thày
Ngawang giới thiệu với một vị tăng trẻ rất giỏi, geshe Jangchup Choden, rất
thông thạo Anh ngữ và cũng là người thường hay viết thư tiếng Anh cho thày
Ngawang để gửi đi Montreal cho tôi.
Ngày 29 tháng 2, thày geshe Norbu dẫn phái đoàn đi hành hương khắp nơi
đã trở về Dharamsala, nhiều vị trong phái đoàn có vẻ gầy đi và tiều tụy, có
lẽ vì bệnh hoạn và những khó nhọc trong chuyến đi, nhưng ai cũng vui vẻ và
chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi nhau tíu tít.
 

nguyenvanhoc2006

Ban Cố Vấn Chủ Đạo Diễn Đàn
Phật tử
Tham gia
2/12/06
Bài viết
5,891
Điểm tương tác
1,535
Điểm
113

6. Ngày 1 và 2 tháng 3, 2008


Hôm qua, 29 tháng 2, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã hoàn thành lễ quán đảnh Thập
Lục Tổ Kadampa. Từ 8.30 sáng ngày mùng 1 tháng 3, ngài tiếp tục giảng
thêm về kinh Hiền Ngu, phẩm 24 – Đại Hầu Bồ tát, cho đến phẩm 31 – Trác
mộc điểu[42] truyện.
Đến trưa, ngài tuyên bố khóa thuyết giảng 10 ngày Đại Lễ Cầu Nguyện
(Monlam Chenmo[43]) đã hoàn tất.
Chiều hôm đó, phái đoàn chúng tôi được phép vào tư dinh của đức Đạt Lai
Lạt Ma để diện kiến ngài và chụp hình. Tuy buổi diện kiến rất ngắn vì ngài
phải gặp nhiều phái đoàn khác, nhưng tôi vô cùng xúc động khi đứng bên
ngài chụp hình chung với phái đoàn, và ngài nhìn tôi, nói: "Ta còn nhớ con …
(I remember you)", khi tôi thưa với ngài về lần gặp ngài vừa qua ở Ottawa.
Ngày mùng 1 tháng ba, geshe Norbu mướn xe buýt lớn đưa phái đoàn đi
thăm Norbulingka rất vui vẻ, và tôi cũng xin đi theo. Norbulingka là nhà nghỉ
mát của đức Đạt Lai Lạt Ma, nơi ngài thường về trong những kỳ nghỉ hè. Tại
đó chúng tôi được vào xem một Bảo tàng viện rất đẹp, có những cảnh làm
bằng những tượng nặn nhỏ xíu, tái tạo các hoạt động tại Dharamsala thời
xưa, cũng như là các sự tích lớn như là sự tích của tổ Milarepa. Trên đường
về, chúng tôi ghé thăm Thượng Mật Viện[44], nơi ngài Karmapa đời thứ 17
đang trú trì.

Trên đường về, một chị đạo hữu tự nhiên đến trước mặt tôi, lấy tay để trên
trán tôi và sau đó đặt lên trán chị. Tôi ngạc nhiên hỏi chị làm gì thế, thì chị
cười và nói, làm thế để xin anh chuyển bớt một ít trí tuệ sang đầu tôi đấy
mà. Tôi bật cười nói, từ khai thiên lập địa đến giờ làm gì có ai học được cho
ai. Trí tuệ là tự mình đi học thôi, ngay cả đức Thích Ca ngày xưa cũng đã
nói: hãy tự đốt đuốc lên mà đi! Chị đạo hữu vẫn cười vui vẻ nói là chẳng sao,
xin của anh một ít trí thông minh. Tôi cũng cười quá, và rất vui, mọi người
thật là hồn nhiên.
Tối hôm đó, tôi ghé đến phòng thày Lati Rinpoche để ăn tối cùng thày
Ngawang, sau đó giã từ ngài, thày Ngawang và hai vị đệ tử. Thày Lati
Rinpoche lại ôm đầu tôi ban phép lành hộ trì rất lâu, tặng cho tôi vài món
quà mang về Montreal và dặn dò đôi điều. Sau đó tôi bịn rịn giã từ thày
Ngawang để đi vế phòng hành trì và đi ngủ vì ngày hôm sau, chúng tôi sẽ
rời Dharamsala để lấy xe lửa đi về New Delhi, rồi bay về Montreal.
Sáng ngày 2 tháng 3, khi tôi ngồi tọa thiền và nhìn lại, thấy trong lòng cảm
nhận sâu xa lý vô thường. Chuyến tu học hành hương này đã gần như hoàn
tất trong vòng một tháng. Toàn bộ chuyến đi, rút cục tôi cảm nhận rõ ràng,
chính yếu là cúng dường. Cúng dường liên miên. Tu tập đạt giác ngộ cần ba
đại a tăng kỳ kiếp. Đại a tăng kỳ kiếp đầu tiên là đạo lộ Tích tụ, cho nên
cúng dường…để tích tụ công đức.
Tôi lại khởi lên trong tâm lời kinh của Lễ Cúng dường đức Bổn sư, phần Bố
thí ba la mật:
Chúng con xin được hộ trì của đức Bổn Sư để thành tựu hạnh bố thí ba la mật
Nhờ ngài chỉ dạy cách tăng trưởng tâm bố thí mà không dính mắc
Chính là chuyển hóa thân, tài vật và công đức của chúng con qua ba đời
Thành những thức ước muốn của mỗi chúng sinh hữu tình.
Chiều ngày 3 tháng 3, lúc 2 giờ chiều, chúng tôi lấy xe buýt lớn để đi đến
trạm xe lửa Chakki Bank. Chuyến đi mất hơn 3 giờ. Tối hôm đó, chúng tôi
ngủ trên xe lửa, và sáng hôm sau, trở lại New Delhi vào lúc 9.30 sáng ngày
4 tháng 3. Ngày hôm sau, mùng 5 tháng 3, chúng tôi lấy taxi ra phi trường
New Delhi lúc 11 giờ đêm để lấy máy bay về Canada.


_________

42. Chim gõ kiến.
43. Monlam Chenmo, anh ngữ là The Great Prayer Festival.
44. Gyuto Tantric College.

HẾT
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

TOP 5 Tài Thí

Bên trên