(Thảo luận) Thắc mắc Vi Diệu Pháp

Thiên Không

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
19 Thg 4 2018
Bài viết
783
Điểm tương tác
211
Điểm
43
Thật tình thì khi Lão sư Khuclunglinh viết như trên thì Thiên Không không dám bàn thêm vì TK được học Vi Diệu Pháp từ vị Thượng toạ đó, nay thấy bài của Sư phụ thì đệ tử nào dám bàn?
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

anatta

Member
Thượng toạ
Tham gia
26 Thg 12 2017
Bài viết
75
Điểm tương tác
40
Điểm
18
Xin chào Thiên Không & Khuclunglinh,

Tôi đã tìm được giải đáp cho câu hỏi mà tôi đã đặt ở đầu Thread này, xin chia sẻ :).

- Sở hữu TƯỞNG nằm trong dòng Hộ Kiếp. Hẳn TK và KLL đều đã rõ là sở hữu Tưởng là một trong 7 sở hữu biến hành.
:)

PS. Xin lỗi tôi vô tình tạo thêm 1 thread mới không cần thiết về sở hữu Tưởng và Tâm Hộ Kiếp. Tôi đã closed it. Xin bạn TK vui lòng xóa (delete) cái thread đó giùm. Cảm ơn.
 

Thiên Không

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
19 Thg 4 2018
Bài viết
783
Điểm tương tác
211
Điểm
43
Xin chào Thiên Không & Khuclunglinh,

Tôi đã tìm được giải đáp cho câu hỏi mà tôi đã đặt ở đầu Thread này, xin chia sẻ :).
- Sở hữu TƯỞNG nằm trong dòng Hộ Kiếp. Hẳn TK và KLL đều đã rõ là sở hữu Tưởng là một trong 7 sở hữu biến hành.:)

PS. Xin lỗi tôi vô tình tạo thêm 1 thread mới không cần thiết về sở hữu Tưởng và Tâm Hộ Kiếp. Tôi đã closed it. Xin bạn TK vui lòng xóa (delete) cái thread đó giùm. Cảm ơn.

-------------------------------

TÂM SỞ BIẾN HÀNH:

- Định nghĩa theo Vi Diệu Pháp Pali: có 7 tâm sở chung cho tất cả các loại tâm vương, gọi là tâm sở Phổ Thông, hay Biến Hành. Tâm vương còn gọi là Tâm, gồm có 121 tâm vương gồm 54 Tâm thuộc Dục Giới, 15 Tâm thuộc Sắc Giới, 12 Tâm thuộc Vô Sắc Giới, và 40 Tâm Siêu Thế. Sở hữu của Tâm vương gọi là Tâm Sở hay là Sở hữu tâm, gồm có 52 tâm sở theo Vi Diệu Pháp Pali.

- Định nghĩa theo Duy thức thì Tâm sở Biến hành nghĩa là đi khắp 4 chỗ:
1. Tất cả thời gian (quá khứ, hiện tại và vị lai),
2. Tất cả chỗ (không gian: Ba cõi, chín địa),
3. Tất cả các thức (Tám thức Tâm Vương),
4. Tất cả tánh (tánh lành, dữ và tánh không lành dữ).

- Tâm sở theo Duy thức Sankrit: 51 tâm. Tâm vương xếp thành 8 thức.

- Tâm sở Biến hành trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma Pali) gồm có 7 tâm sở là:
1. Xúc,
2. Thọ,
3. Tưởng,
4. Tư,
5. Nhất hành,
6. Mạng quyền,
7. Tác ý.

Xem chi tiết tại đây: https://www.budsas.org/uni/u-vdp-vdcm/ts-02.htm

- Trong Duy thức tông, Đại sư Vô Trước trong Đại thừa a-tì-đạt-ma tập luận (Abhidharmasamuccaya) gồm có 5 tâm sở là:
1. Xúc,
2. Thọ,
3. Tưởng,
4. Tư (tương ưng với tất cả tâm và tâm sở),
5. Tác ý.
 

Thiên Không

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
19 Thg 4 2018
Bài viết
783
Điểm tương tác
211
Điểm
43
Đây là bảng Nêu chi pháp dùng trong nghiên cứu Vi Diệu Pháp (Abhidhamma):

31945273_369356216893676_3353137652965572608_n.jpg


- Để tìm hiểu tổng quát về Tâm vương còn gọi là Tâm, gồm có 121 tâm vương gồm 54 Tâm thuộc Dục Giới, 15 Tâm thuộc Sắc Giới, 12 Tâm thuộc Vô Sắc Giới, và 40 Tâm Siêu Thế. Sở hữu của Tâm vương gọi là Tâm Sở hay là Sở hữu tâm, gồm có 52 tâm sở theo Vi Diệu Pháp Pali.

 

Thiên Không

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
19 Thg 4 2018
Bài viết
783
Điểm tương tác
211
Điểm
43
Giới thiệu tóm tắt về Vi Diệu Pháp (Abhidhamma)

1. Vi Diệu Pháp xuất phát từ đâu?

Theo lịch sử Phật Giáo thì Vi Diệu Pháp được Ðức Phật thuyết vào hạ thứ bảy tại cung trời Ðạo Lợi (Tam Thập Tam Thiên - Tāvatimsa) với mục đích là độ thân mẫu của Ngài.

Theo một vài học giả thì Vi Diệu Pháp không phải do chính Ðức Phật thuyết mà là do các vị Sư uyên bác soạn thảo ra sau nầy. Ðại Ðức Nārada, một nhà học Phật lão thành đã viết: "Ðúng theo truyền thống thì chính Ðức Phật đã dạy phần chính yếu của tạng nầy. Những đoạn ấy được gọi là Ðầu đề (Mātikā) hay nồng cốt nguyên thủy của giáo lý như Pháp Thiện (Kusalā Dhammā), hay Pháp Bất Thiện (Akusalā Dhammā), Pháp Vô-Ký (Abyākatā Dhammā)."

Trong 6 tập của Tạng Diệu Pháp (trừ tập Ngữ Tông - Kathāvatthu - do Ngài Mục Kiền Liên Đế-tu (Moggallanaputta) viết; cũng có thuyết cho rằng tập này do chính Ðức Phật thuyết nhưng Ngài Moggallana thêm vào 500 câu) đều do Ðức Phật thuyết và Ðại Ðức Xá lợi Phất (Sārīputta) được danh dự giảng rộng và sâu vào chi tiết.

Dầu tác giả là ai, nhưng chắc chắn Tạng Diệu Pháp là một công trình sáng tác của một bộ óc kỳ tài có thể so sánh với một vị Phật.

Chúng ta không cần phải biết là Vi Diệu Pháp có phải do chính Ðức Phật thuyết hay không mà chỉ cần sáng suốt nhận định về những điều mà Tạng Diệu Pháp đề cập đến. Bởi người nào thấu rõ được chân lý thì người đó chính là người giác ngộ (hay Phật) và chỉ người nào hiểu được lẽ thật, người đó mới nói lên được sự thật.

2. Vi Diệu Pháp là gì?

Phạn ngữ Abhidhamma có nghĩa là những giáo lý cao siêu, vi diệu. Tiếp đầu ngữ Abhi dùng để diễn đạt sự tinh tế, thù thắng, sâu xa. Danh từ Dhamma dịch là Pháp, một Phạn ngữ có nhiều nghĩa, ở đây nó có nghĩa là lời dạy của Ðức Phật, giáo điều hay giáo lý. Vậy Vi Diệu Pháp là những giáo lý tinh hoa của Ðức Phật, giáo lý này có tính chất đặc thù hơn Kinh tạng và Luật tạng.

Chúng ta có thể thắc mắc là tại sao Kinh tạng và Luật tạng nói riêng, và toàn thể giáo lý của Ðức Phật nói chung, đều có hiệu năng đưa đến giải thoát; tại sao lại có phần này gọi là Vi Diệu mà phần kia thì không?.

Ở đây, tiếng Vi Diệu (cao sâu) không dùng với ý niệm giải thoát mà dùng trên phương tiện diễn đạt. Trong khi tạng Kinh và Luật trình bày Pháp lý theo ngôn từ phổ thông, theo Pháp Tục Ðế; thì tạng Abhidhamma trình bày những pháp bản thể chơn tướng hay pháp Chơn Ðế (Paramattha).

Một điều cần ghi nhận là tạng Diệu Pháp dùng các danh từ diễn đạt pháp lý theo một thuật ngữ chuyên môn, tức là các danh từ chơn đế (danh chơn chế định).

Như ở Kinh tạng và Luật tạng, khi nói đến chúng sanh, Phật dùng các danh từ mặc ước, khái niệm như Chư thiên, Ma vương, Vua, Quan, ... Còn ở tạng Abhidhamma khi đề cập đến chúng sanh, Phật dùng các từ như Uẩn, Xứ, Giới, Ðế, ...

Về phương diện diễn đạt, tạng Abhidhamma chú trọng về 4 pháp gọi là Vô Ngại Giải (Patisambhidā, sự thông suốt, không có ngăn ngại trong việc giảng giải). Bốn pháp vô ngại giải ấy là:

1) Pháp vô ngại giải (Dhammapatisambhidā): là sự diễn đạt thông suốt các pháp, vì ở tạng Vi Diệu Pháp các pháp được gom lại thành một giềng mối và phân tích rõ ràng.

2) Nghĩa vô ngại giải (Atthapatisambhidā): là các ý nghĩa được trình bày, giải thích một các rộng rải, không sai lầm. Trong tạng Diệu Pháp, các ý nghĩa của danh từ, của các pháp được minh định một cách rõ ràng chứ không có sự lôi thôi trong vấn đề định nghĩa.

3) Từ vô ngại giải (Niruttipatisambhidā): là sự dùng từ để diễn đạt pháp rất thông suốt, không lẩn lộn. Trong tạng Diệu Pháp các từ ngữ được dùng một cách rất chính xác, đâu ra đấy. Thí dụ như tiếng "tư tưởng" mà ta thường dùng theo phổ thông được hiểu là ý nghĩ, nhưng ở tạng Diệu Pháp, "Tư" là sự cố ý, suy nghĩ và "Tưởng" được dùng để chỉ sự nhớ lại, ôn lại ...

4) Biện vô ngại giải (Paiibhānapatisambhidā): là sự thông suốt, lưu loát trong sự biện bác. Trong tạng Diệu Pháp, pháp lý được trình bày đầy đủ, nghĩa lý được giải thích rõ ràng, ngôn từ dùng đúng chỗ không lẩn lộn. Nhờ các ưu điểm ấy, người học Abhidhamma sẽ không lúng túng khi trình bày các pháp lý.

Với những lý do trên, nên tạng này được gọi là Vi Diệu. Ngoài ra, chữ Abhidhamma còn được các dịch giả Trung Hoa dịch là :

- Vô tỷ pháp: là pháp cao siêu, không có pháp nào so sánh bằng.

- Thắng pháp: là pháp thù thắng hơn Kinh tạng và Luật tạng.

- Ðại pháp: là pháp cao sâu, rộng rãi hơn các pháp trong Kinh tạng và Luật tạng.

- Ðối pháp: là đối tượng của trí tuệ cao siêu, sáng suốt.

- Hướng pháp: là pháp có khả năng hướng đến sự giải thoát, giác ngộ, liểu tri các pháp.

3. Nội dung:

Ở tạng Diệu Pháp, bốn vấn đề trọng yếu được trình bày là Tâm (thành phần tri giác của chúng sanh); Sở hữu tâm (Thành phần phụ thuộc của tâm); Sắc pháp (thành phần vật chất) và Niết Bàn (sự vắng lặng các pháp hành).

Khi bàn về Tâm cũng như Sở hữu tâm, Vi Diệu Pháp đã cho ta thấy những Duyên (Paccayo) hay yếu tố tạo thành sự hiện hữu của Tâm và sự diễn tiến hoại diệt của từng tâm sát na trong Lộ trình tâm (Cittavithā).

Cũng vậy, khi nói về Sắc pháp, Vi Diệu Pháp đã trình bày về thể trạng của Sắc pháp, những duyên trợ tạo và gìn giữ sắc pháp, cũng như tiến trình sanh diệt của từng sát na sắc pháp trong Lộ sắc.

Cuối cùng, sau khi đã trình bày về các pháp hữu vi (pháp do duyên trợ tạo), Vi Diệu Pháp còn trình bày về Niết Bàn (một trạng thái vô vi), không bị chi phối bởi vô thường, khổ não, vô ngã.

Ðể kết luận, ta có thể nói, nội dung của Vi Diệu Pháp là dạy cho chúng ta rõ về con người, thế gian và xuất thế gian (Niết Bàn).

Dẫn nguồn: https://www.budsas.org/uni/u-vdp/vdp-index.htm
 

anatta

Member
Thượng toạ
Tham gia
26 Thg 12 2017
Bài viết
75
Điểm tương tác
40
Điểm
18
Đây là bảng Nêu chi pháp dùng trong nghiên cứu Vi Diệu Pháp (Abhidhamma):

31945273_369356216893676_3353137652965572608_n.jpg


- Để tìm hiểu tổng quát về Tâm vương còn gọi là Tâm, gồm có 121 tâm vương gồm 54 Tâm thuộc Dục Giới, 15 Tâm thuộc Sắc Giới, 12 Tâm thuộc Vô Sắc Giới, và 40 Tâm Siêu Thế. Sở hữu của Tâm vương gọi là Tâm Sở hay là Sở hữu tâm, gồm có 52 tâm sở theo Vi Diệu Pháp Pali.


Chào bạn Thiên Không,

Theo Vi Diệu Pháp -- cũng như bảng chi pháp đã chỉ ra -- thì Niết Bàn nằm ngoài tâm, tức là ngũ uẩn. Sở hữu Trí Tuệ thì thuộc về Tâm.

Theo TK thì sự khác nhau giữa sh Trí Tuệ và Niết Bàn ra sao, như thế nào?

anatta
 

Thiên Không

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
19 Thg 4 2018
Bài viết
783
Điểm tương tác
211
Điểm
43
Kính chào Lão Tiền bối!

Theo sự hiểu biết của Thiên Không thì Niết bàn nằm ngoài Ngũ uẩn là hiển nhiên, tâm sở Trí tuệ thuộc về Tâm là loại tâm nắm được cảnh Niết bàn trong khi tuệ Đạo và tuệ Quả (cũng thuộc về sở hữu Trí tuệ) sinh khởi để chứng Thánh (chứng nghiệm được trạng thái Niết bàn). Bởi vì Tâm có khả năng nhận biết mọi cảnh dù là hữu vi hay vô vi nên loại sở hữu tâm phù hợp với việc ghi nhận cảnh phù hợp sẽ sinh khởi tương ưng để thực hiện nhiệm vụ đó.

Kính !

--------------------------------
Tham khảo:

1. Nípbàn là “trạng thái tịch tịnh tuyệt đối, yên lặng các pháp hữu vi, không có danh sắc chi cả”. Khi Nípbàn bị tâm biết, bấy giờ gọi là cảnh Nípbàn.

Tâm biết cảnh Nípbàn không phải “có tâm trong Nípbàn”. Ví như người đứng dưới chân núi, thấy được đỉnh núi. Chi pháp cảnh Nípbàn chính là Nípbàn. Biết cảnh Nípbàn có 51 tâm là:

- Biết nhất định: 40 tâm Siêu thế.

- Biết bất định có 11 tâm = tâm Hướng ý môn + 8 Đổng lực Dục giới có trí [30] + 2 tâm Thông.

Trường hợp nào 8 đổng lực hợp trí Dục giới biết cảnh Nípbàn?

- Tâm Thiện Dục giới hợp trí biết được cảnh Nípbàn với 3 trường hợp:

*- Là tâm Gotrabhū (tuệ Chuyển tánh) hoặc tâm Vodanā (tuệ Tiến bậc) trong lộ Đắc đạo.

*- Là tâm phản khán trong lộ phản khán Đạo, quả Siêu thế và Nípbàn (tuệ Phản khán trong lộ tâm đắc Đạo).

*- Là tâm Gotrabhū trong lộ nhập thiền quả của bậc Thánh Hữu học.

- Tâm Đại tố hợp trí biết được cảnh Nípbàn với 2 trường hợp:

*- Trong lộ phản khán đắc Tứ đạo.

*- Là Gotrabhū trong lộ nhập thiền quả của vị thánh Alahán.

- Tâm sở Trí chỉ có trong những tâm hợp trí. Tâm sở trí có trong 79 tâm tốt đẹp có trí (12 tâm Dục giới có trí + 27 tâm Đáo đại ... Khi ở trong tâm quả thiền, tâm sở Trí làm được ba việc: Tục sinh, hữu phần, tử. Tâm sở Trí. Hợp được 79 tâm có trí = 67 tâm thiền + 12 tâm Dục giới có trí. Không hợp với 42 tâm ly trí = 30 tâm “không tốt đẹp” + 12 tâm Dục giới hữu nhân ly trí. Tâm sở Trí, hợp với 37 tâm sở = 13 tâm sở Tợ tha + 24 tâm sở Tốt đẹp (trừ tâm sở trí).

Nguồn: http://budsas.net/uni/u-chanhminh/dvtp12.htm - trích Đường vào Thắng pháp - mục 146; mục 30,31 phần C- Tâm sở Tốt đẹp (sobhanacetasikā) phối hợp.

-----------------------------

2. Khuynh hướng của trí trong tâm Siêu thế trái với khuynh hướng “tích lũy” của Tư tâm sở, tâm sở Tư tích lũy nghiệp cho quả tái sanh vào các cảnh giới. Do đó, trong tâm thiện Siêu thế vai trò của Tư tâm sở không còn là chủ yếu, tuy Tâm Đạo tạo thành tâm Quả Siêu thế nhưng đó không phải là thành tựu của Tư tâm sở, mà đó là kết quả của Trí trong tâm Đạo, nên tâm quả Siêu thế chỉ nhận độc nhất cảnh Níp Bàn mà thôi,
Còn tâm quả hiệp thế là thành quả của Tư tâm sở, nên các tâm quả hiệp thế nhận nhiều cảnh nhưng không thể nhận cảnh Níp Bàn.
Nói cách khác: Tư tâm sở trong tâm Siêu thế chỉ có thành tựu thông thường là: “tập hợp các pháp tương ưng hướng về cảnh” mà thôi, còn phận sự lưu giữ chủng tử không thể thực hiện được.

Tuy tâm sở Trí là thành viên trong hành uẩn có Tư tâm sở đứng đầu, nhưng trong tâm thiện Siêu thế trí vượt trội hơn Tư tâm sở, nên Tư tâm sở “đành phải nương theo trí”, ví như vị cố vấn Đại thần sáng suốt hơn Đức vua, nên Đức vua đành phải theo ý kiến của vị Đại thần.

Nguồn: https://www.budsas.org/uni/u-vdp-vdcm/ts-01.htm - trích Tâm Sở vấn đáp - câu số 30: Vai trò của Tư tâm sở trong các loại tâm ra sao?


-------------------------
Chào bạn Thiên Không,
Theo Vi Diệu Pháp -- cũng như bảng chi pháp đã chỉ ra -- thì Niết Bàn nằm ngoài tâm, tức là ngũ uẩn. Sở hữu Trí Tuệ thì thuộc về Tâm.
Theo TK thì sự khác nhau giữa sh Trí Tuệ và Niết Bàn ra sao, như thế nào?
anatta
 

anatta

Member
Thượng toạ
Tham gia
26 Thg 12 2017
Bài viết
75
Điểm tương tác
40
Điểm
18
Chào bạn Thiên Không,

Cám ơn bạn đã trả lời dẫn chứng tỉ mỉ. Trong một post nào đó mà anatta đọc hôm kia biết được bạn học VDP từ thầy Chánh Minh, nên anatta đặt câu hỏi vừa qua để xác định sự hiểu biết của mình. Trong một kinh nào đó anatta đã quên, thì Đức Phật ví Niết Bàn như là hòn đảo, tứ thánh quả như là những vị đang bơi từ ngoài biển vào. A La Hán là người đã lên hẳn trên bờ. A Na hàm là thì đã bơi đến đảo, còn 2 vị kia thì còn đang bơi hướng đến đảo.

Sẵn dịp, bạn có thể vui lòng nói thêm sự khác biệt giữa Chánh Niệm và sở hữu Trí Tuệ (Tuệ Tri) trong khi ta đang thiền quán, thí dụ như đề mục hơi thở ra vào?

anatta
 

khuclunglinh

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
26 Thg 12 2017
Bài viết
6,436
Điểm tương tác
1,135
Điểm
113
ha ha hah a... đại ca nè:

Tâm, ý, thức bát chủng

Tục cố tướng hữu biệt

Chơn cố tướng vô biệt

-->> Tướng, sở tướng vô cố.” - Kinh Lăng Già [smile]


cho nên ... NHẤT CỐ khuynh nhân thành .. TÁI CỐ khuynh nhân quốc .. toàn là NHỮNG KHÁI NIỆM TỤC CỐ [smile]

mà đúng không ?

KLL
 

anatta

Member
Thượng toạ
Tham gia
26 Thg 12 2017
Bài viết
75
Điểm tương tác
40
Điểm
18
ha ha hah a... đại ca nè:

Tâm, ý, thức bát chủng

Tục cố tướng hữu biệt

Chơn cố tướng vô biệt

-->> Tướng, sở tướng vô cố.” - Kinh Lăng Già [smile]


cho nên ... NHẤT CỐ khuynh nhân thành .. TÁI CỐ khuynh nhân quốc .. toàn là NHỮNG KHÁI NIỆM TỤC CỐ [smile]

mà đúng không ?

KLL

Khái Niệm là tục đế (tục cố?) là phải rồi, KLL.

Chân Đế (chân cố) là thực tánh, nó là nó, là như vậy thì còn gì để phân biệt.

:)
 

khuclunglinh

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
26 Thg 12 2017
Bài viết
6,436
Điểm tương tác
1,135
Điểm
113
Dạ đại ca:

Tục Cố: chắc là lúc quay đầu lại tìm chỗ cứng cáp như là KIM CANG .. tất cả là từ các thứ khác nhau mà ra ... nên thiệt là có thấy nhiều món .. nên có nhiều phân biệt [smile]

còn Chơn Cố: lúc quay đầu lại nhìn lại tìm chỗ cứng cáp như là KIM CANG .. tất cả chỉ có một HẢI HUYNH ... tức là từ một thứ mà ra .. nên xưa nay VẪN LÀ NGÀI ... gọi là chơn bởi vì trong đó tự đã có TAM MINH [smile]


mà đúng không ?

KLL
 

Thiên Không

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
19 Thg 4 2018
Bài viết
783
Điểm tương tác
211
Điểm
43
Trả lời về sự khác biệt giữa Chánh Niệm và sở hữu Trí trong khi đang thiền quán...

Kính Tiền bối Anatta,

Hôm nay Thiên Không xin mượn "Phương pháp niệm Tâm" thay vì đề mục Hơi thở như yêu cầu của Tiền bối Anatta (trích Chín yếu tố phát triển Thiền Quán - tg: TT.Thiện Minh - dẫn nguồn: https://www.budsas.org/uni/u-9yeuto/9yeuto-01.htm)

1- Chánh niệm thể hiện qua cách chú tâm, ghi nhận, quan sát đề mục Tâm hành:

Quán niệm các trạng thái của tâm và các tiến trình tâm, nghĩa là khi có một tâm nổi lên với một đối tượng ở quá khứ, hiện tại hay tương lai, tâm đó phải được theo dõi và quán chiếu một cách thấu suốt, có thể niệm là "suy nghĩ..., suy nghĩ...". Khi định tâm và tuệ giác đã trở nên vững chắc và mạnh mẽ, và khi hành giả đạt đến Diệt trí (Bhanga Nàna), vị ấy sẽ thấy ngay khi vừa mới niệm tâm thì tâm đó liền biến mất, không còn tồn tại nữa.

2- Sở hữu Trí tuệ ở đây là Tuệ giác được phát sinh rõ ràng khi Chánh niệm đã thành thạo trong quan sát đề mục niệm Tâm:

Khi đã thấy tâm diệt thật nhanh chóng, hành giả nhận ra rằng tiến trình tâm không thường hằng (Anicca). Tốc độ diệt quá nhanh, nên nó là sự áp bức, sự đau khổ (Dukkha). Không có cách nào để ngăn chặn sự hoại diệt nhanh chóng này, nó cứ thao túng hay biến mất theo ý riêng của nó, nó là vô ngã (Anatta). Tam tướng trở nên rất rõ ràng đối với hành giả.

Vì không muốn diễn giải dài dòng mà không đi vào trọng tâm câu hỏi, nên mượn bài trên để nói rõ câu hỏi cần trả lời.

Trân trọng.


----------------------
Chào bạn Thiên Không,
(...) bạn có thể vui lòng nói thêm sự khác biệt giữa Chánh Niệm và sở hữu Trí Tuệ (Tuệ Tri) trong khi ta đang thiền quán, thí dụ như đề mục hơi thở ra vào?
anatta
 

anatta

Member
Thượng toạ
Tham gia
26 Thg 12 2017
Bài viết
75
Điểm tương tác
40
Điểm
18
Dạ đại ca:

Tục Cố: chắc là lúc quay đầu lại tìm chỗ cứng cáp như là KIM CANG .. tất cả là từ các thứ khác nhau mà ra ... nên thiệt là có thấy nhiều món .. nên có nhiều phân biệt [smile]

còn Chơn Cố: lúc quay đầu lại nhìn lại tìm chỗ cứng cáp như là KIM CANG .. tất cả chỉ có một HẢI HUYNH ... tức là từ một thứ mà ra .. nên xưa nay VẪN LÀ NGÀI ... gọi là chơn bởi vì trong đó tự đã có TAM MINH [smile]


mà đúng không ?

KLL

Chưa đến chỗ thấy pháp thực tánh Chơn đế hay Chơn cố nên chưa biết được Nó ra làm sao, KLL.

:)
 

anatta

Member
Thượng toạ
Tham gia
26 Thg 12 2017
Bài viết
75
Điểm tương tác
40
Điểm
18
Kính Tiền bối Anatta,

Hôm nay Thiên Không xin mượn "Phương pháp niệm Tâm" thay vì đề mục Hơi thở như yêu cầu của Tiền bối Anatta (trích Chín yếu tố phát triển Thiền Quán - tg: TT.Thiện Minh - dẫn nguồn: https://www.budsas.org/uni/u-9yeuto/9yeuto-01.htm)

1- Chánh niệm thể hiện qua cách chú tâm, ghi nhận, quan sát đề mục Tâm hành:

Quán niệm các trạng thái của tâm và các tiến trình tâm, nghĩa là khi có một tâm nổi lên với một đối tượng ở quá khứ, hiện tại hay tương lai, tâm đó phải được theo dõi và quán chiếu một cách thấu suốt, có thể niệm là "suy nghĩ..., suy nghĩ...". Khi định tâm và tuệ giác đã trở nên vững chắc và mạnh mẽ, và khi hành giả đạt đến Diệt trí (Bhanga Nàna), vị ấy sẽ thấy ngay khi vừa mới niệm tâm thì tâm đó liền biến mất, không còn tồn tại nữa.

2- Sở hữu Trí tuệ ở đây là Tuệ giác được phát sinh rõ ràng khi Chánh niệm đã thành thạo trong quan sát đề mục niệm Tâm:

Khi đã thấy tâm diệt thật nhanh chóng, hành giả nhận ra rằng tiến trình tâm không thường hằng (Anicca). Tốc độ diệt quá nhanh, nên nó là sự áp bức, sự đau khổ (Dukkha). Không có cách nào để ngăn chặn sự hoại diệt nhanh chóng này, nó cứ thao túng hay biến mất theo ý riêng của nó, nó là vô ngã (Anatta). Tam tướng trở nên rất rõ ràng đối với hành giả.

Vì không muốn diễn giải dài dòng mà không đi vào trọng tâm câu hỏi, nên mượn bài trên để nói rõ câu hỏi cần trả lời.

Trân trọng.


----------------------

Chào bạn Thien Khong,

Bạn gọi tôi bằng tên được rồi. Nghe bạn gọi tôi là tiền bối, tôi giật mình :).
Tôi lớn hơn KLL vài tuổi.
Cám ơn TK dẫn giải về Chánh Niệm và Trí Tuệ qua phưong pháp quán Tâm.

:)
anatta
 

khuclunglinh

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
26 Thg 12 2017
Bài viết
6,436
Điểm tương tác
1,135
Điểm
113
Chào bạn Thien Khong,

Bạn gọi tôi bằng tên được rồi. Nghe bạn gọi tôi là tiền bối, tôi giật mình :).
Tôi lớn hơn KLL vài tuổi.
Cám ơn TK dẫn giải về Chánh Niệm và Trí Tuệ qua phưong pháp quán Tâm.

:)
anatta


ha ha hah ah ... Ờ .. hồi mới vào đây HỶ cũng không quen .. nhưng bi giờ KÍNH TIỀN BỐI ANATTA 1 chung trả [smile]

KLL
 

Thiên Không

Active Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
19 Thg 4 2018
Bài viết
783
Điểm tương tác
211
Điểm
43
Kính Tiền bối Anatta,

Trong diễn đàn này bên cạnh TT.Viên Quang và các vị lớn khác, Thiên Không được hữu duyên kết bạn với Lão huynh Khuclunglinh qua nhiều bài viết và được nghe giảng từ Lão sư Auduongphong, mà 2 vị này tuổi tác đều hơn 10 tuổi với Thiên Không tiểu bối, đã từng nghe Lão huynh KLL nói Ngài là người trao Tín Tâm Minh cho Lão huynh, nay được biết Ngài còn lớn hơn Lão huynh nữa, thành ra Cung kính người trên sẽ được Phước Đức nên Thiên Không khép nép kính Ngài xưng Tiểu hậu bối để cầu được chút phước báo trên đường tu học muôn trùng này.

Kính quý Ngài hoan hỷ biết cho.

------------------------
Chào bạn Thien Khong,
Bạn gọi tôi bằng tên được rồi. Nghe bạn gọi tôi là tiền bối, tôi giật mình :).
Tôi lớn hơn KLL vài tuổi.
anatta
 

khuclunglinh

Well-Known Member
Quản trị viên
Thượng toạ
Tham gia
26 Thg 12 2017
Bài viết
6,436
Điểm tương tác
1,135
Điểm
113
ha ha ha ha.. bạn TK mau quên quá .. kể lại câu truyện "hai câu đó" ... rùi bạn hỏi đại ca thử xem ...

KLL
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên