hungcom

Thiền Uyển Tập Anh

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Danh tiếng: 100%
Tham gia
1/4/12
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Thanh thanh thúy trúc

[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Thanhthanhthuytruc_zps1d546d07.jpg"]
.



































.[/NEN]​
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

hungcom

Registered
Phật tử
Danh tiếng: 100%
Tham gia
29/8/09
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
Thế Hệ Thứ Bảy (7 người, khuyết 1)

9. THIỀN SƯ Viên Chiếu (999 - 1090)​

Chùa Cát tường, kinh đô Thăng Long, Sư họ Mai, tên Trực, người Long đàm Phúc đường, là con người anh bà Linh Cảm thái hậu nhà Lý. Thuở nhỏ thông minh hiếu học, nghe đồn vị trưởng lão tại chùa Mật nghiêm quận mình xem tướng giỏi, nên đến xem thử cho biết. Vị trưởng lão nhìn kỹ rồi bảo: "Ngươi có duyên với Phật pháp, nếu xuất gia sẽ là người trong hàng thiện Bồ tát, bằng không thì việc thọ yểu khó bảo toàn". Sư cảm ngộ, giã từ cha mẹ, đến núi Ba tiêu theo học với Định Hương, hầu hạ nhiều năm, nghiên cứu Thiền học, Sư thường trì kinh Viên giác, rõ thấy được phép Tam quán (1). Một tối trong lúc thiền định, Sư thấy Bồ tát Văn Thù cầm dao mổ bụng, rửa ruột rồi dùng thuốc rịt lại. Từ ấy, những gì đã học trong lòng, trở thành rõ ràng như từng biết (2), sâu rõ ngôn ngữ Tam muội (3), thuyết giảng lưu loát. Sau đó, Sư đến bên tả kinh thành dựng chùa để ở. Người học qui tụ đông đảo.

Có tăng hỏi: "Phật với Thánh, nghĩa ấy thế nào ?"
Sư đáp: "Cúc trùng dương dưới dậu _ Oanh thục khí đầu cành" (4) (*)

Lại hỏi: "Cảm ơn, nhưng người học này không hiểu xin thầy dạy lại".
Sư đáp: "Ngày thì ác vàng dọi _ Đêm đến thỏ bạc soi" (**)

Tăng lại hỏi: "Chân ý Sư đã rõ, Máy huyền ấy thế nào?"
Sư đáp: "Nước đựng đầy thau bưng bất cẫn
Một phen vấp ngã hối mà chi !"
(***)

Vị tăng nói: "Cảm ơn thầy".
Sư chỉ nói: "Sóng sông chìm chớ tát _ Gieo mình tự đắm thôi".

Lại hỏi: "Thiếu Thất, Ma kiệt rất huyền, từ xưa đến nay, ai nối nhau làm chủ?"(5).
Sư đáp: "Sáng tối tượng trời do quạ thỏ _ Lõm lồi hình đất nọ núi sông" (6)

Lại hỏi: "Thế nào là căn nguyên đại đạo thẳng đường đi?"
Sư đáp: "Gió lộng bờ cao hay cỏ cứng _ Nhà tan nước mất biết trung lương".
(7)


Chú thích :

(1)
Tức ba phép tu thiền định kê ra trong kinh Viên giác nhằm đạt được sự giác ngộ hoàn toàn, đây là samatha (Phạn: samatha), tam ma bạt đề (samàpatti) và thiền na (dhyàna). Samatha nguyên nghĩa nó là dừng nghỉ, nghĩa là, làm cho tâm hồn đang tán loạn phải dừng nghỉ lại một chỗ. Do sự thanh trừng các ý niệm sai lầm và hiểu được sự vọng động của các thức, "trí tuệ thanh tịnh phát sinh, thân tâm khách trần theo đấy mà mất hẳn, từ đó bên trong cảm thấy tĩnh tịch nhẹ nhàng. Do sự tịch tĩnh đó nên tâm của các Như Lai mười phương thế giới được hiện rõ như bóng ở trong gương. Phương tiện đó gọi là sa ma tha". Samàpatti nguyên nghĩa là để vào một nơi, tập trung vào một chỗ, nghĩa là "đem cái tâm giác ngộ thanh tịnh, hiểu biết rằng tâm tính và căn trần đều do huyễn hóa mà dấy lên các huyễn để trừ huyễn, biến ra các huyễn để phơi bày mọi thứ huyễn, nên bên trong phát ra lòng đại bi nhẹ nhàng. Phương tiện đó gọi là tam ma bát đề". Dhyàna nguyên nghĩa là suy nghĩ, chiêm nghiệm nghĩa là, "biết rõ rằng thân tâm đều trở ngại vì không biết sự giác ngộ sáng suốt là không dựa vào các thứ ngăn che, vĩnh viễn vượt qua được thế giới có ngăn che và không ngăn che, phiền não và niết bàn cũng không còn vướng mắc nhau, thì niềm nhẹ nhàng tịch diệt phát ra bên trong phương tiện đó gọi là thiền na". Xem Đại Phương Quảng Viên Giác tu đa la liễu nghĩa kinh ĐKT 842 tờ 917c14 tờ 918 a 4

(2)
An nam chí nguyên 3 tờ 209 dẫn đoạn này: "Thiền sư Viên Chiếu là vị sư huyện Thanh Đàm thông minh hiếu học, nghiên cứu Thiền tôn. Một hôm nằm mộng thấy Bồ tát Văn Thù đem dao đến mổ bụng súc ruột dùng thuốc rịt lại. Từ đó những gì đã học trong lòng trở thành rõ ràng như đã từng biết. Về sau tôn phong của Sư nổi lớn". Xem thêm Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16 a 4-5.

(3)
Ngôn ngữ Tam muội này, tức là một tên khác của Phân biệt chư pháp cú Tam muội, một trong 108 thứ tam muội do Đại phẩm bát nhã dẫn ra, mà Đại trí độ luận giải thích thế này: "Chứng được thứ Tam muội đó thì có thể phân biệt hết ngôn ngữ văn tự của tất cả các pháp, giảng thuyết cho chúng sanh không vướng mắc trở ngại". Xem Đại trí độ luận 17 tờ 400c 28-29.

(4)
An nam chí lược 15 tờ 147 dẫn đoạn này, rồi bảo là từ Tham đồ hiển quyết. Nó viết: " Thiền sư Mai Viên Chiếu thường viết Tham đồ hiển quyết, đại khái nói rằng: "Một hôm đang ngồi trước nhà, bỗng có một vị sư đến hỏi: "Phật với Thánh, nghĩa ấy thế nào?"
Chiếu đáp: "Cúc trùng dương dưới dậu _ Oanh thục khí đầu cành.
Sách ấy phần lớn gồm những lời như vậy".
Cứ vào đâu nói "Sách ấy phần lớn gồm những thứ đó" của Lê Tắc, ta có thể kết luận rằng tất cả cơ duyên thoại ngữ trong truyện này đều rút ra từ Tham đồ hiển quyết, nếu không là toàn bộ Tham đồ hiển quyết, mà các tác giả Thiền uyển tập anh đã chép vào đây. Chúng tôi nghĩ rằng, nó rất có thể là toàn bộ, bởi vì so với phần Đối cơ của Thượng sĩ ngữ lục, số thoại ngữ dẫn ra đây lên tới đến 180 câu hỏi đáp, trong khi của Thượng sĩ ngữ lục chỉ tới 96 câu mà thôi, thì cũng đủ thấy nó đã đầy đủ tới mức nào . Dầu một phần hay toàn bộ, ta có thể nói rằng Tham đồ hiển quyết là tác phẩm văn học và tư tưởng xưa nhất của đời Lý được bảo tồn dưới một dạng hình trọn vẹn.

(5)
Bồ Đề Đạt Ma chín năm bích quán trên Thiếu thất. Phật Thích Ca 20 ngày trầm mặc tại Ma Kiệt đà. ở đây muốn nói đến mật chỉ của Phật và Tổ. Lâm Khê Kỉnh Thoát hoà thượng, Nhập đạo thiển thâm tụng:

Thiếu thất dữ Ma kiệt
Đệ đại xưng dương hử
Ngã kim vấn nhữ đồ
Thủy tác tương lai chủ.

(6)
Càn tượng và Khôn duy là những từ lấy ở Chu Dịch, thiên Hệ từ thượng:"Trời cao đất thấp, định ra càn và khôn. ở trên trời thành nên tượng, ở dưới đất tạo nên hình, biến hóa mà hiện ra". Những từ đấy dùng để chỉ trời đất. Từ Nhạc Hoài là để chỉ núi sông. Nhạc tức là Ngũ nhạc, tức năm ngọn núi lớn của Trung quốc, đây tượng trưng cho tất cả núi. Hoài tức sông Hoài, đây chỉ cho tất cả sông.

(7)
Ý và tứ rút từ hai câu của Đường Thái Tôn tặng cho Tiêu Vũ:
Tật phong tri kỉnh thảo
Bản đảng thức thành thần.

Trong Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi dịch:
"Khi bão mới hay là cỏ cứng
Thuở nghèo thì biết có tôi lành."


-------------

Chú thích của hungcom :

(*)

Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh.

(**)

Trú tắc kim ô chiếu,
Dạ lai ngọc thố minh.

(***)

Bất thận thủy bàn kình mãn khứ,
Nhất tao tha điệt hối hà chi.
 

hungcom

Registered
Phật tử
Danh tiếng: 100%
Tham gia
29/8/09
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
Lại hỏi: "Tất cả chúng sanh từ đâu mà đến? Trăm năm sau sẽ về đâu?"
Sư đáp: "Rùa mù chui vách đá
Trạch què bò núi cao"

Lại hỏi: "Xanh xanh trúc biếc thảy chân như (1). Thế nào là dụng của chân như?".
Sư đáp: "Tặng anh ngàn dặm xa
Cười mang một bình trà" (2)

Tăng thưa: " Đến suông có ích gì là sao?" (3)
Sư đáp: "Ai biết đi Đông a
Nửa đường đầu đã bạc" (4)

Lại hỏi: "Đã hiên một cửa vắng
Thong thả gõ ai hay" (5)
Sư đáp: "Kim cốc đìu hiu hoa cỏ rối
Mà nay hôm sớm thả trâu dê".

Tăng thưa: "Vì sao như vậy?"
Sư đáp: "Giàu sang cùng kiêu thái
Lầu chợ khiến tan hoang" (6)

Lại hỏi: "Long nữ dâng châu thành Phật quả,
Đàn na bố thí phước ra sao?" (7)

Sư đáp: "Trong trăng quế muôn thuở
Rậm, thưa vẫn một vành".
Tăng thưa: "Nhọc mà vô ích là sao?" (8)
Sư đáp: "Như gương treo trên trời
Nhân gian soi khắp nơi".(9)

Lại hỏi: "Qua sông phải dùng bè _ Đến bến hết cần ghe
Khi không qua sông thì sao?" (10)
Sư đáp: "Ao khô cá lên cạn
Sống cả vạn năm xuân".

Tăng thưa: "Thế nào là "Theo dòng mới đạt được Diệu lý?"(11)
Sư đáp: "Nghe nói bạn Kinh Kha
Một đi không trở lại" (12)

Lại hỏi: "Lẫn lộn quặng vàng cùng một chất
Xin thầy phương tiện luyện tinh ròng" (13)
Sư đáp: "Không phải khách Tề quân
Sao biết biển cá lớn" (14)

_____________

Chú thích :

(1)
Có người hỏi Thiền sư Viên Chiếu: "Một tạng tròn sáng, thì thế là gì?" Chiếu đáp: "Nhọc người xa đến". Hỏi: "Thế thì chẳng phải là một tạng tròn sáng hay sao?". Chiếu đáp: "Xin uống một chén trà". Xem Truyền đăng lục 20 tờ 367c13-15.

(2)
Có người hỏi Thiền sư Án Xương: "Khi không chịu bàn bạc thì sao?" Xương đáp: "Thì đến mà làm gì?". Hỏi: "Đến cũng không bàn bạc". Đáp: "Đến suông cũng ích gì?" (Không lai hà ích). Xem Truyền đăng lục 20 tờ 363 b 15-17.

(3)
Có người hỏi Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: Pháp thân và Bát nhã là gì? Hải đáp: "Xanh xanh trúc bíêc đều là pháp thân, dờn dợn hoa vàng chẳng cái nào là chẳng Bát nhã". Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247 c15.

(4)
Đông a, nơi ông già hẹn gặp Trương Lương sau 13 năm. Trương Lương là bầy tôi nước Hàn. Khi Tần Thỉ Hoàng thống nhất Trung quốc, Lương muốn báo thù cho nước, nhưng không có cách nào thành công. Môt hôm gặp một ông già trên cầu. Ông đánh rơi chiếc dép xuống cầu và bảo Lương đi lượm. Lương dầu tức giận, vẫn làm theo lời ông. Sau ông trao bí quyết cho Lương và dặn Lương sau 13 năm đến gặp ông ở Cốc thành. Bùi Ân chùa Cốc thành ở huyện Đông a. Xem Sử ký 55 tờ 2b2-4.

(5)
Dã Hiên, tên một vị Thiền sư. Những tài liệu Phật giáo và Thiền tông Trung quốc không ghi một ai có tên như vậy cả. Trong Thượng sĩ hành trạng do Trần Nhân Tôn viết và in ở Thượng sĩ ngữ lục tờ 40a4-5, Trần Nhân Tôn nói rằng trong khi để tang mẹ mình thì có yêu cầu Tuệ Trung "giảng hai lục Tuyết đậu và Dã hiên". Tuyết đậu lục là của Thiền sư Trùng Hiển ((980-1052). Còn
Dã hiên lục của ai, thì nay ta không rõ. Rất có thể là tác phẩm của một Thiền sư Việt Nam. Nếu Dã Hiên là một Thiền sư Việt Nam thì ông phải sống trước thời Viên Chíêu, tức trước năm 999.

(6)
Kim Cốc, nơi Thạch Sùng, người giàu nhất đời Tấn, xây dựng lâu đài cực kỳ tráng lệ xa hoa và là nơi ái thiếp của Sùng là Lục Châu tự tử, hiện ở phía tây bắc huyện Lạc dương, tỉnh Hà nam. Xem Tấn thư 3 tờ 10b7-13a4.

(7)
Long nữ hiến châu. Điển một người con gái dâng châu cho Phật trên hội Linh sơn và thành Phật ngay sau đó. Xem Diệu pháp liên hoa kinh 12, phẩm Đề Bà Đạt Đa tờ 3a-b. Xem thêm Hoà thượng Đan Hà Ngoạn châu ngâm:

Long nữ Linh sơn thân hiến Phật
Bần nhi y hạ kỷ ta đà.


(8)
Lao nhi vô công. Chữ lấy từ thiên Hiếu Hạnh lãm của Lã thị xuân thu: "Cầu chi kỳ bản, kinh tuần nhi đắc, cầu chi kỳ mạt, lao nhi vô công." (Tìm cái gốc nó thì qua tuần tất có, tìm cái ngọn nó thì nhọc mà vô ích). Xem Lã thị xuân thu 14 tờ 3a8, thành ngữ Lao nhi vô công cũng thường dùng trong Phật giáo để chỉ việc tu Thiền mà không kiêm tu Tịnh độ.

(9)
Có người hỏi Thiền sư Âu Chương:
"Thế nào là: Một vầng trăng treo
Muôn nước đều thấy ?"
Chương đáp: "Khó nói với kẻ nhắm mắt". Xem Truyền đăng lục 20 tờ 367b 23-24.

(10)
Thí dụ chiếc thuyền, rút ra từ kinh Kim Cang:
"Nên biết rằng Ta nói pháp cũng như thí dụ về chiếc thuyền" (*). Xem Kim Cang kinh tờ 749b10. Vĩnh Gia Huyền Giác, Quán tâm thập môn:

Nhiên độ hải ưng thượng thuyền
Phi thuyền hà năng độ?

(Nhưng qua biển phải lên thuyền,
Không thuyền sao qua được?)


Xem Truyền đăng lục 5 tờ 242a18-19

(11)
Tùy lưu thỉ hoạch diệu lý. Từ và ý rút ra từ bài kệ truyền pháp của Ma Noa La, tổ thiền thứ 22 ở Ấn độ:

Tâm tuỳ vạn cảnh chuyển
Chuyển xứ thật năng u
Tùy lưu nhận đắc tánh
Vô hỷ phục vô ưu

Xem Truyền đăng lục 2 tờ 214a 24-25

(12)
Điển Kinh Kha đi sứ Tần trong Chiến quốc sách. Thái tử nước Yên và khách khứa tin Kinh Kha đến sông Dịch. Cao Tiệm Ly đánh đàn, Kinh Kha tiến mà ca:

"Gió vi vu hề sông Dịch lạnh tê
Tráng sĩ một đi hề không trở về"

Xem Chiến quốc sách 31 tờ 5b10-11

(13)
Thí dụ vàng quặng của kinh Viên giác: "Thiện nam tử, như luyện quặng vàng, vàng không phải do luyện mà có. Khi đã thành vàng rồi thì không trở lại làm quặng nữa, trải qua thời gian vô cùng, tính vàng vẫn không hoại mất". Xem Đại phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh tờ 915c17-18.

(14)
Điển của Tề Văn trong Chiến quốc sách và của thiên Thuyết lâm trong Hàn phi tử. Tỉnh Quách Quân nước Tề muốn xây thành
Tiết. Có nhiều người can ngăn nên dặn kẻ gác cửa, nếu ai xin vô để can ngăn thì đừng cho vô. Có người nước Tề xin vô để nói ba tiếng thôi, rồi chết cũng đành. Quách Quân cho vô. Người khách chỉ nói lớn ba tiếng "Biển cá lớn", rồi vọt chạy. Quách Quân ngạc nhiên cho gọi lại. Người khách mới giải thích ba chữ đó có nghĩa gì. Quách Quân mới thôi xây thành Tiết. Xem Chiến quốc sách 8 tờ 1b-2a và Hàn phi tử 8 tờ 5b-6a.

_________

Chú thích của hungcom :

(*)

"Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai thường thuyết:
Nhữ đẳng Tỳ kheo, tri ngã thuyết pháp, như phiệt dụ giả. Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp!"


(Do bởi nghĩa trên, cho nên Như Lai thường hay nói rằng :
Tỳ kheo các ông nên biết, lời Như Lai nói pháp cũng như thuyền bè, chỉ tạm dùng để qua sông. Phật pháp còn không được cố chấp hà huống chi Thế gian pháp.)


(Kinh Kim Cang)
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Danh tiếng: 100%
Tham gia
1/4/12
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113


(*)

"Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai thường thuyết:
Nhữ đẳng Tỳ kheo, tri ngã thuyết pháp, như phiệt dụ giả. Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp!"


(Do bởi nghĩa trên, cho nên Như Lai thường hay nói rằng :
Tỳ kheo các ông nên biết, lời Như Lai nói pháp cũng như thuyền bè, chỉ tạm dùng để qua sông. Phật pháp còn không được cố chấp hà huống chi Thế gian pháp.)


(Kinh Kim Cang)

[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/KKC14_zps78b98f7d.jpg"].



































....
[/NEN]

http://www.diendanphatphap.com/dien...m-Cang-(Ảnh-hóa)&p=80375&viewfull=1#post80375
 

hungcom

Registered
Phật tử
Danh tiếng: 100%
Tham gia
29/8/09
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
Tăng thưa: "Quách quân nếu không nhận
Can gián chẳng làm chi".
Sư đáp: "Nếu muốn bưng uống trước
Vẽ rắn khéo hãy thôi" (1)

Lại hỏi: "Rắn chết giữa đường
Xin thầy cứu sống" (2)
Sư đáp: "Ngươi là người phương nào?".
Tăng đáp: "Vốn người ở núi".
Sư dạy: "Mau về non cũ ẩn
Chớ gặp Hứa Chân Quân" (3)

Lại hỏi: "Hải tạng (4) mênh mông không nên hỏi
Tào khê từng giọt nghĩa ra sao?"
Sư đáp: "Rừng tùng tiếng gió thê lương thổi,
Mưa tạnh bùn nhơ ngập lối đi".

Tăng thưa: "Không khác với ngày nay, là thế nào?" (5)
Sư đáp: "Cúc trùng dương dưới giậu
Oanh ngày nắng đầu cành".

Lại hỏi: "Sờ sờ ở khoảng mắt lòng
Rành rành trong chốn sắc thân
Nhưng lý không thể phân
Tướng không thể thấy
Vì sao không thấy được?" (6)
Sư đáp: "Trong vườn hoa rực rỡ
Trên bờ cỏ tràn lan".

Tăng thưa: "Năm lạnh mầm non rụng
Lấy gì để thưởng công".
Sư đáp: "Mừng cho ông tự rõ
Sung sướng biết chừng nào !"

Tăng thưa: "Hôm nay, may nghe giải
Từ nay hết hoang mang ".
Sư dạy: "Đắm cạn vừa vớt ra
Ngoảnh đầu đầm muôn trượng".

Lại hỏi: "Trong thành Niết bàn vẫn còn nguy hiểm (7)
Thế nào là chỗ không nguy hiểm?".
Sư đáp: "Trên rèm che làm tổ
Cành lau xõa tóc mai".

Tăng thưa: "Nếu gặp lúc cấp bách Đôi đường xử lẽ nào ?".
Sư đáp: "Trượng phu theo phóng khoáng
Trăng gió hãy vui chơi" (8)

Lại hỏi: "Hết thảy chúng sanh đều bảo là Phật, lẽ ấy chưa tường, mong thầy chỉ dạy?".
Sư đáp: "Nông trang hãy gắng khuyên anh thế Đợi thỏ người kia chớ nhọc theo" (9)

Tăng thưa: "May được thầy chỉ rõ
Trọn chẳng đến ai tìm".
Sư dạy: "Khá thương một lần nghẹn
Ngồi đó trót quên ăn”.


Chú thích :

(1)
Điển của Tề Văn 2 trong Chiến quốc sách. Nước Sở có hai người thi vẽ rắn để uống rượu. Một người vẽ xong trước lại vẽ rắn thêm chân. Người vẽ xong sau không chịu, cho rằng rắn không có chân, rồi giựt ly rượu mà uống.

(2)
Thiền sư Thanh Lâm:

Tử xà dương đại lộ
Khuyết tử mạc đương đầu


(Rắn chết giữa đường lớn
Xin ông chớ đương đầu)


(3)
Hứa Chân Quân, tên tục là Hứa Tốn làm quan lịnh Tinh dương đời Bắc ngụy. Theo truyền thuyết, ông sau theo đạo thần tiên và bay lên trời, đến đời nhà Triệu Tống thì được phong là Thần công diệu tế chân quân. Cái tên Hứa Chân Quân do thế mà có.

(4)
Hải tạng : chỉ đạo Phật trong kinh điển hay tất cả kinh điển đạo Phật. Tào khê, chỉ cho Thiền phái. Phật Quả tham bái Chân Giác Thắng. Thắng chích cánh tay chảy máu rồi nói: "Đây là một giọt Tào khê".

(5)
Bất dị kim thời : đặc ngữ của Thiền chỉ cho việc sau khi giác ngộ không khác gì lúc chưa giác ngộ. Hoà thượng Bảo Chí, Thập nhị thời tụng:

Giả sử tâm thông vô lượng thì
Lịch kiếp hà tằng dị kim nhật


(Giả sử lòng thông từ vô thỉ
Nhiều kiếp sao từng khác hôm nay).


(6)
Thiền sư Minh Giác thượng đường, có vị sư hỏi: "Sờ sờ ở khoảng mắt lòng, mà tướng không thể thấy, rành rành trong vòng sắc trần mà lý không thể phân. Đã ở trong khoảng mắt lòng sao lại không thấy tướng của nó?” (Chiêu chiêu ư tâm mục chi gian, nhi tướng bất khả đổ. Hoảng hoảng tại sắc trần chi nội nhi lý bất khả phân. Ký ư tâm mục chi gian, vi thập ma bất đổ kỳ tướng?)

(7)
Thiền sư Đồng An Sát, Thập huyền đàm, "hồi cơ":

Niết bàn thành lý thượng do nguy
Mạch lộ tương phùng một định kỳ
Quyền quải cấu y vân thị Phật
Khước trang trân ngự phục danh thùy
Mộc nhân dạ bán xuyên ngoa khứ
Thạch nữ thiên minh tải mạo qui
Vạn cổ bích đàm không giới nguyệt
Tái tam lao lộc nãi ưng tri.

(Niết bàn thành ấy vẫn còn nguy
Đường phố gặp nhau chẳng hẹn kỳ
Giả mặc đồ dơ tên gọi Phật
Nếu mang áo ngự gọi tên gì
Nửa đêm người gỗ mang giày mất
Vừa sáng gái trơ đội mũ về
Đầm biếc ngàn xưa trăng luống giọi
Ba lần mò mẫm mới hay ri).


(8)
Long Đàm Sùng Tín hỏi Đạo Ngô: "Làm sao để quyết chắc?"
Ngô nói: "Nhiệm tính tiêu diêu
Tuỳ duyên phóng khoáng"


(Tiêu diêu mặc tính
Phóng khoáng tùy duyên)

(9)
Điển rút từ thiên Ngũ đồ trong Hàn Phi Tử. Nước Tống có người làm nông gặp một con thỏ chạy vấp phải một gốc cây mà chết. Anh đem về làm thịt ăn. Hôm sau anh ra đồng, bỏ cả cày bừa, đến gốc cây ngồi đợi một con thỏ khác. Thỏ khác đã không được, mà còn bị cả nước Tống cười.
 
Last edited by a moderator:

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Danh tiếng: 100%
Tham gia
1/4/12
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113

hungcom

Registered
Phật tử
Danh tiếng: 100%
Tham gia
29/8/09
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
Lại hỏi: "Bao năm dồn chứa ngọc trong túi (1)
Tận mặt hôm nay thấy rõ rành”
Sư đáp: "Trăng trung thu chờ mãi
Gặp phải mây mưa xông" (2)

Tăng thưa: "Tuy nghe thầy dạy bảo
Lý đó vẫn chưa thông".
Sư dạy: "Cười người suông ôm cột
Chết đuối nhắm giữa dòng !" (3)

Tăng hỏi: "Thế nào là một phái?" (4)
Sư đáp: "Vừa thấy Xuân gieo và Hạ lớn
Gặp ngay Thu chín với Đông thâu".

Tăng thưa: "Thành Phật nhiều thế là sao?".
Sư đáp: "Tổ Long thôi nghĩ chạy
Từ Phúc luống đường xa" (5)

Tăng hỏi: "Kiến tính thành Phật, nghĩa ấy thế nào?".
Sư đáp: "Xuân đến cây khô hoa đua nở
Gió đưa ngàn dặm nức hương thần" (6)

Tăng thưa: "Học nhân không hiểu, xin thầy dạy lại".
Sư đáp: "Muôn năm cây cà ấy, (7)
Xanh ngát tận chân mây".

Lại hỏi: "Ma ni cùng các sắc
Chẳng hợp chẳng phân ly" (8)
Sư đáp: "Hoa xuân cùng bươm bướm
Lúc luyến lúc ruồng nhau".

Tăng hỏi: "Theo người xen lẫn là sao"
Sư đáp: "Chẳng phải mắt Hồ tăng (9)
Uổng công dâng ngọc Biện" (10)

Lại hỏi: "Thế nào là chạm mắt là Bồ đề?" (11)
Sư đáp: "Cây cong chim mãi sợ
Dưa nguội người thổi hoài".

Tăng thưa: "Học nhân không hiểu, xin thầy cho ví dụ khác".
Sư đáp: "Kẻ điếc nghe tiếng đàn
Người mù ngắm bóng trăng".

Lại hỏi: "Vốn đã có hình thêm có ảnh
Có lúc ảnh cũng lìa hình sao?".
Sư đáp: "Trăm sông đổ về Đông kìa, muôn dòng đua chảy.
Ngàn sao chầu Bắc đẩu kìa, thiên cổ quy tâm".

Lại hỏi: "Thế nào là một câu tỏ ngộ, vượt muôn ngàn?" (12)
Sư đáp: "Xa kẹp Thái sơn qua biển Bắc
Ngửa quăng gậy chống vào cung trăng."


__________

Chú thích :

(1)
Nang trung bảo” từ rút ra từ khác phẩm Ngũ bách đệ tử thọ ký của kinh Pháp hoa, nhằm chỉ cho Phật tánh sẵn có trong mọi người. Thơ của Thiền sư Đỗ Lăng :

Ngã hữu thần châu nhất khỏa
Cửu bị trần lao cơ tỏa
Kim triêu trần tịnh quang sanh
Chiếu kiến sơn hà vạn đóa.
(**)


(Ta có ngọc thần một quả
Lâu bị bụi trần phủ xoá
Sáng nay bụi sạch sáng ra
Soi thấu sơn hà muôn đóa).


(2)
Có người hỏi Âu Chương: "Bỗng nhiên không mây, thì trăng trung thu ra sao?". Chương đáp: "Tốt nhất là không mây".

(3)
Điển lấy từ thiên Đạo chích của Trang Tử : Vỹ Sinh có hẹn với một đứa con gái dưới cầu. Người con gái ấy không đến. Nước sông dâng lên. Vỹ Sinh ôm cột cầu mà chết.

(4)
"Một pháp" hay "nhất pháp", nếu muốn cho đủ thì phải nói:

"Thật tế lý địa
Bất thọ nhất trần
Phật sự môn trung
Bất xả nhất pháp".


(5)
Tổ Long, một biệt hiệu của Tần Thỉ Hoàng, hâm mộ thuật trường sinh, sai Đạo sĩ Từ Phúc, cũng có tên là Từ Thị, dẫn một ngàn đồng nhi ra biển Đông tìm Bồng lai vào năm 217 trước Tây lịch. Bồng lai đâu không thấy, mà bảy năm sau, Tần Thỉ Hoàng chết. Và họ chẳng bao giờ trở về.

(6)
Có người xin Viên Chiểu "Chặt đứt cội gốc"
Chiểu đáp: "Ít gặp khách sâu mũi
Nhiều trạm người khắc thuyền"

Hỏi: "Chính vào lúc đó thì sao?"
Chiểu đáp: "Rùa mù gặp gỗ đầu yên ổn
Cây héo sinh hoa vật ngoại Xuân".

(7)
Có người hỏi Thiền sư Huệ Thanh: "Xưa Phật chưa ra đời thì như sao?". Thanh đáp: "Ngàn năm gốc cà ấy" (Thiên niên già tử căn).

(8)
Thiền sư Văn Ích, Văn Ích tụng:

Ma ni bất tuỳ sắc
Sắc lý vật ma ni
Ma ni dự chứng sắc
Bất hiệp bất phân ly


(Ma ni không theo sắc)
Trong sắc chẳng ma ni
Ma ni cùng các sắc
Không hiệp không phân ly)

(9)
Hồ Tăng Nhãn : Bồ Đề Đạt Ma thường được các môn đệ thiền gọi là Bích nhãn hồ tăng, "thầy tu Hồ (người Ấn độ) mắt xanh".

(10)
Điển rút từ thiên Hoà thị của Hàn phi tử. Biện Hòa người nước Sở được ngọc phác, dâng Lệ Vương, bịchặt hết một chân, vì Lệ Vương cho là dối, sau lại dâng vua kế vị là Vũ Vương, lại bị chặt một chân nữa cũng cùng lý do.

(11)
«Xúc mục Bồ Đề » : nhìn bất cứ đâu cũng thấy là giác ngộ cả. Thạch Sương Khánh Chư tham kiến Đạo Ngô, hỏi: "Thế nào là xúc mục bồ đề?". Đạo Ngô gọi sa di. Sa di đáp: "Dạ". Đạo Ngô nói: "Thêm nước vào tịnh bình".

(12)
Dẫn Vĩnh Gia Huyền Giác, Chứng đạo ca:

Phần cốt tuỷ thân vị túc thù (*)
Nhất cú liêu nhiên siêu bách ức


(Nát thịt tan xương chưa đủ đền
Một câu rõ được vượt muôn ngàn).

------------

Chú thích của hungcom :

(*)

“Phấn cốt toái thân vị túc thù,
Nhất cú liễu nhiên siêu bách ức”.

(**)


Thiền sư Úc ở Trà Lăng (Trung Hoa đời Tống) một hôm cỡi ngựa đi qua cầu ván, chân ngựa sụp lỗ hổng, Thiền sư té nhào bỗng đại ngộ, đọc bài kệ:


Ngã hữu minh châu nhất khỏa,
Cửu bị trần lao quan tỏa.
Kim triêu trần tận quang sanh,
Chiếu phá sơn hà vạn đóa.
Dịch:
Ta có một viên minh châu,
Đã lâu vùi tại trần lao.
Hôm nay trần sạch sáng chiếu,
Soi tột núi sông muôn thứ.



www.thientongvietnam.net

 

Hắc phong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Danh tiếng: 100%
Tham gia
7/9/10
Bài viết
2,665
Điểm tương tác
476
Điểm
113

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Danh tiếng: 100%
Tham gia
1/4/12
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Ngã hữu minh châu


[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/ngahuuminhchau_zps0744c8f1.jpg"].


































.[/NEN]​
 

hungcom

Registered
Phật tử
Danh tiếng: 100%
Tham gia
29/8/09
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
Lại hỏi: "Chỉ một sự này Thật,
Còn hai chẳng phải Chân (1)
Thế thì, Chân là gì?".
Sư đáp: "Gió dễ lay đầu gậy
Mưa thành nẩy trên đường".

Lại hỏi: "Không nhắm Như Lai xin Diệu tạng
Không mong lửa tổ nối đèn chong
Ý chỉ rốt ráo thế nào?".
Sư đáp: "Trời thu lúa xào xạt
Cảnh tuyết mẫu đơn cười".

Lại hỏi: "Thế nào là câu tối diệu?"
Sư đáp: "Một người ngoảnh mặt khóc
Cả tiệc uống không vui" (2)

Lại hỏi: "Xưa nay việc lớn xin không hỏi
Điểm lạ Tây lai ý thế nào?" (3)

Sư đáp: "Kẻ khéo lời đẹp mặt (4)
Phường đập ngói hong rùa" (5)

Lại hỏi: "Tâm, pháp đều quên, thì tính tức chân (6)
Thế nào là chân?".
Sư đáp: "Đàn Bá Nha gió khua sân trúc (7)
Lệ Nữ Thần mưa rắc hoa non (8)

Lại hỏi: "Thế nào là câu tối diệu?".
Sư đáp: "Yếu hầu còn mắc nghẹn
Yên ở chẳng vui gì".

Lại hỏi: "Có tu có chứng, khơi bốn bệnh (9)
Ló đầu sao được thoát hồng trần".
Sư đáp: "Núi cao chất nhất dung muôn vật
Biển rộng bao la chứa vạn sông".

Lại hỏi: "Chỉ có Phật với Phật mới biết việc đó (10)
Thế thì việc đó là thế nào?".
Sư đáp: "Đường hẹp chi chít trúc
Gió thổi nhạc tự thành".

Lại hỏi: "Chẳng cần bình thường, chẳng cần thiên nhiên,
chẳng cần tác dụng, thì nay làm gì đây?".
Sư đáp: "Cỏ bồng én đậu thấp
Biển rộng ẩn cá lân".

Lại hỏi: "Tứ đại mang về từ nhiều kiếp
Xin thầy phương tiện thoát luân hồi".
Sư đáp: "Loài thú trên đời Tê là quý
Nó ăn gai góc mẹp bùn nhơ" (11)


Chú thích :

(1)
Duy thử nhất sự thật, dư nhị tắc phi chân. Câu rút ra từ phẩm Phương tiện của kinh Pháp hoa nhằm nói chỉ một Phật thừa duy nhất là sự thật, hai thừa kia, tức Thanh văn thừa và Duyên giác thừa, chỉ là sự quyền biến.

(2)
Nguyên văn:

"Nhất nhân hướng ngung lập
Mãn tòa ẩm bất hoan."


Nhưng cứ vào xuất xứ của từ và ý của hai câu này, chúng ta phải đọc:

"Nhất nhân hướng ngung khấp
Độc hướng ngung dĩ yểm lệ".


Và dịch theo cách đọc ấy. Bởi vì trong bài Sênh phú, Phan Nhạc có viết câu:

"Chúng mãn đường nhi ẩm tửu
Độc hướng ngung dĩ yểm lệ".


Lý Thiện chú thích nó thế này: "Thuyết uyển nói: Người xưa cho thiên hạ giống như một nhà. Nay cả nhà uống rượu, một người riêng bỗng nhiên ngoảnh mặt khóc thì người trong nhà đều không vui". (Thuyết uyển viết: Cổ nhân ư thiên hạ nhất chi đường thượng, kim hữu mãn đường ẩm tửu, hữu nhất nhân độc sách thiên hướng ngung khấp, tắc nhất đường chi nhân giai bất lạc).

(3)
Việc lớn hay đại sự tức đại sự nhân duyên, mà phẩm Phương tiện của kinh Pháp hoa nói tới, đây là mở bày cho chúng sanh con đường để đi vào tri kiến giác ngộ. Tây lai ý, chỉ cho sự mật truyền của Bồ Đề Đạt Ma.

(4)
Dẫn chữ từ thiên Học nhi của Luận ngữ: "Xảo ngôn lịnh sắc, tiện hỷ nhân". (Kẻ khéo nói, đẹp mặt, thường ít có lòng nhân).

(5)
Nguyên văn: Toản quy đả ngõa nhân. Về từ"Toản qui" xuất xứ của nó từ phần Quy sách trong Sử ký 128 tờ4a7-8. Theo đó thì "Bậc vương giả ra quân làm tướng tất phải toản qui trên miếu đường, để giải quyết việc tốt xấu". Lời chua của Dương Kinh trong thiên Vương chế của Tuân Tử 5 tờ10a3 viết: "Toản qui tức là đốt lửa bằng cỏ gai mà hong mu rùa". Toản qui do thế có nghĩa là bói rùa. Còn Đả ngõa hay đập ngói thì lấy từ tích của quan làm việc Trường Di bị tầng lớp quân đội ném gạch đá vào, vì Di chủ trương không cho họ dự vào hàng thanh phẩm.

(6)
Dẫn Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác:

Tâm thị căn, pháp thị trần
Lưỡng chủng do như kính trượng ngân
Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện
Tâm pháp song vong tánh tức chân.


(Tâm là căn, pháp là trần
Hai thứ còn như vết trên gương
Vết bụi chùi sạch gương mới sáng
Tâm pháp đều quên tính tức chân).

(7)
Về đờn của Bá Nha, thiên Hiếu Hạnh lãm của Lã thị xuân thu nói: "Bá Nha đánh đờn, Chung Tử Kỳ nghe đờn. Khi Nha mới đánh đờn, và ý nghĩ đến Thái sơn, Chung Tử Kỳnói: "Đánh đờn hay thay ! cao ngất như núi Thái sơn!". Một chặp, Nha lại nghĩ đến dòng nước chảy, Chung Tử Kỳnói: "Đánh đờn hay thay ! ồ ạt như dòng nước chảy !". Chung Tử Kỳchết, Bá Nha phá đờn, cắt dây. Suốt đời không còn đánh đờn lại nữa, cho rằng đời không còn ai còn đủ khả năng nghe mình đánh đờn nữa".

(8)
Vũ trích nham hoa, Thiền sư Minh Giác, có người hỏi « bản nguyên chư Phật ra sao ? », đáp: "Màu lạnh ngàn núi". Lại hỏi: "Nguyên ủy hướng thượng có có không?". Sư đáp: "Mưa rơi hoa non" (Vũ trích nham hoa).

(9)
Bốn bệnh: tức bệnh làm ra (tác bệnh), bệnh phó mặc (nhiệm bệnh), bệnh đình chỉ (chỉ bệnh) và bệnh hủy diệt (diệt bệnh), mà người ta gặp phải trên con đường đi tìm sự giác ngộ hoàn toàn. Kinh Viên Giác, định nghĩa bốn bệnh như sau: Bệnh làm ra xảy ra khi người ta nghĩ rằng "tôi làm ra các hạnh để cầu Viên giác". Bệnh phó mặc mắc phải khi người nói rằng: "tôi không có ý đoạn tuyệt với sinh tử, không cầu Niết bàn đối với « Niết bàn sinh tử » không có ý niệm dấy lên hay diệt đi, phó mặc cho tất cả, tuỳ thuận pháp tính để cầu Viên Giác" (*). Bệnh đình chỉ tức bệnh nói rằng "tự tâm tôi, tôi đứt hết các ý niệm được tất cả tính bình đẳng tịch diệt để cầu Viên giác". Bệnh huỷ diệt có được khi người ta nói rằng: "tôi diệt hết tất cả phiền não thân tâm hoàn toàn không, không có, huống hồ là cảnh giới hư vọng của căn trần, tất cả đều vắng lặng hẳn để cầu Viên giác". Xem Đại phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh tờ 920b.

(10)
Chữ lấy từ kinh Pháp hoa: "Duy Phật dữ Phật nãi năng cứu tận chư pháp thật tướng" (chỉ người giác ngộ với người giác ngộ mới có thể rõ hết thật tướng thật của tất cả mọi vật).

(11)
Nội thiên trong Bảo phác tử của Cát Hồng (284-363) nói: "Con Tê giác sở dĩ nó có thể chống độc, ấy bởi nó là con thú chuyên ăn mọi thứ có độc và những cây có gai nhọn, chứ không ăn bậy những thứ cỏ cây mềm dẻo bao giờ".(Thông thiên tê sở dĩ năng cấp độc giả, kỳ vi thú chuyên thực bách thảo chi hữu độc giả cập chúng mộc hưu thích cứu giả, bất vọng thực nhu hào chi thảo mộc).

------------

Chú thích của hungcom :

(*)

Câu này : "tôi không có ý đoạn tuyệt với sinh tử, không cầu Niết bàn đối với « Niết bàn sinh tử » không có ý niệm dấy lên hay diệt đi, phó mặc cho tất cả, tuỳ thuận pháp tính để cầu Viên Giác", đề nghị sửa lại như sau :

"tôi không có ý đoạn tuyệt với sinh tử, không cầu Niết bàn đối với "Niết bàn và Sinh tử" tôi không có ý niệm cần thoát ra, tôi phó mặc cho tất cả, tôi không cần phải tuỳ thuận pháp tính để làm gì !"

Lý do : Câu "Tùy thuận pháp tính để cầu Viên Giác" KHÔNG PHẢI LÀ BỆNH NHIỆM, mà là thái độ đúng đắn của Phật tử Đại Thừa.
 

hungcom

Registered
Phật tử
Danh tiếng: 100%
Tham gia
29/8/09
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
Lại hỏi: "Mọi thứ thủ xả đều luân hồi, không thủ không xả thời thế nào?" (1)
Sư đáp: "Giềng hồng đẹp đẽ xưa nay vậy
Có lá sum sê chẳng có hoa".

Lại hỏi: "Dứt hết nói năng ý ấy thế nào?" (2)
Sư đáp: "Theo gió tiếng còi luồn bụi trúc
Kèm trăng trái núi quá đầu tường".

Lại hỏi: "Chư Phật thuyết pháp là để giáo hóa mọi loài,
nếu hiểu được bản ý thì gọi là xuất thế, bản ý là gì?".
Sư đáp: "Xuân dệt hoa như gấm
Thu sang lá tựa vàng".

Lại hỏi: "Thế nào là một đường nhắm thẳng?" (3)
Sư đáp: "Đông tây xe ngựa ruỗi
Hôm sớm bụi mờ bay".

Lại hỏi: "Có pháp, có tâm, sinh vọng thức
Làm sao tâm, pháp thảy tiêu vong?".
Sư đáp: "Ví được lá tùng xanh cao ngất
Sá gì sương tuyết lả tả rơi".

Lại hỏi: "Ý tổ và ý kinh thế nào?".
Sư đáp: "Chống trượng lên mây khi thích chí
Mệt buông rèm trúc ngủ giường tre".

Lại hỏi: "Tổ tổ truyền nhau là truyền những gì?".
Sư đáp: "Đói đến tìm thức ăn
Rét thời xin áo mặc" (4)

Lại hỏi: "Thế nhân đều thuê nhà
Người dột ở đâu ta?".
Sư đáp: "Vầng ô cùng ngọc thố
Tròn khuyết dối nhọc chia".

Lại hỏi: "Thế nào là con đường duy nhất đến Tào khê?".
Sư đáp: "Khá thương kẻ khắc thuyền (5)
Rốt cuộc ý hoang mang".

Sư từng soạn Dược sư thập nhị nguyện văn (6). Vua Lý Nhân Tôn lấy bản thảo của Sư, sai sứ đem sang Triết Tôn (7) Triết Tôn cho mời Pháp sư Cao tòa chùa Tướng quốc đến xem (8). Xem xong liền chắp tay lạy, mà nói rằng: "Phương Nam có bậc Đại sĩ nhục thân ra đời, ấy là vị Pháp sư khéo giảng kinh điển vậy. Bần đạo đâu có thể dám thêm bớt". Nhân đó chép lại một bản, rồi giao trả bản cũ. Sứ giả trở về thuật lại vua nghe, vua rất khen thưởng.
Vào một ngày tháng chín năm Canh ngọ Quảng Hựu thứ sáu (1090), Sư không bệnh, gọi chúng đến dạy rằng: "Trong thân ta đây, thịt xương gân cốt, tứ đại giả hợp, đều là vô thường, ví như ngôi nhà kia khi sụp đổ, cột kèo đều đổ. Cùng các con giã từ, hãy nghe bài kệ ta đây:

Thân như tường vách đổ xiêu rồi,
Thiên hạ bồn chồn xót dạ thôi,
Nêu rõ tâm không, không tướng sắc,
Sắc không ẩn hiện mặc xoay dời.
(*)

Nói kệ xong, Sư ngồi ngay thẳng viên tịch, thọ 92 tuổi đời, và 56 tuổi hạ. Có để lại tập Tán Viên Giác kinh, Thập nhị bồ tát hành tu chứng đạo trườngTham đồ hiển quyết một quyển (9) ngày nay còn truyền ở đời (10)


Chú thích :

(1)
Ý rút ra từ Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác:

Xả vọng tâm, thủ Chân lý
Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy.


(Bỏ lòng vọng, lấy lẽ chân
Bỏ lấy, lòng đó thành dối xảo).


(2)
Ngôn ngữ đạo đoạn. Luận Đại trí độ: Thế nào là Chân lý tuyệt đối?" Đáp: "Tất cả ngôn ngữ đều dứt, tâm hành đều diệt"
(nhất thiết ngôn ngữ đạo đoạn tâm hành xứ diệt). Xem thêm Tín Tâm Minh:

Tín tâm bất nhị
Bất nhị tín tâm
Ngôn ngữ đạo đoạn
Khứ lai phi kim.
(**)


(3)
Thiền sư Phong Huyệt Diên Chiểu, có người hỏi: " Thiền nào là một đường thẳng?". "Nhắm thẳng vào chỗ cong". Xem thêm Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác: "Trực diệt căn nguyên của Phật sở ấn" (***)

(4)
Ý lấy từ hai câu của Tuệ Trung quốc sư: "Cơ tức nghiết phạn, hàn tức trước y. (Đói thì ăn cơm, rét thì mặc áo).

(5)
Khắc chu khách. Điển lấy từ Thiện thận đại lãm của Lã thị xuân thu. Nước Sở có người đi thuyền, bị rơi kiếm xuống sông, bèn làm dấu chỗ rơi trên mạn thuyền để tới bến mà tìm. Kinh Bách dụ có một chuyện tương tự thế đó. Xem Bách dụ kinh ĐKT 209 tờ 545c. Thiền sư Văn Ích cũng có làm bài tụng:

Bảo kiếm bất thất
Hư chu bất khắc
Bất thất bất khắc
Bất tử vi đắc.


(6)
Nghệ văn chí của Lê Quí Đôn ghi: "Dược sư thập nhị nguyện văn, 1 quyển Long Đàm Viên Chiếu thiền sư soạn ".Văn tịch chí của Phan Huy Chú chỉ ghi :"Dược sư thập nhị nguyện văn, 1 quyển", mà không ghi tác giả. Đây chắc là một bài văn phát triển 12 nguyện của Phật Dược Sư, trong kinh Dược Sư nhấn mạnh đến tính chất tại thế của kinh này.

(7)
Đây chắc phải là Sứ bộ năm 1087 do Hộ bộ viên ngoại lang Lê Chung và Phó hiệu uý Đỗ Anh Bối làm chánh và phó sứ dẫn đầu, bởi vì Triết Tôn lên ngôi 1086 và đến năm 1090 nghĩa là năm Viên Chiếu mất, ta mới gởi một bộ phái khác sang kết hiếu. Do thế nếu phái bộ ngoại giao năm 1090 có mang sách Dược sư thập nhị nguyện văn sang Tống để cho các nhà sư Tống ngợi ca, thì ở nhà Viên Chiếu đã mất, nên Chiếu không thể nào nhận lời khen của Lý Nhân Tôn được.

(8)
Pháp sư Cao Tòa ở đây có thể là Thiền sư Đại Bản .Lâm gian lục quyển hạ tờ 55a5-b2 nói Đại Bản bị triệu đến ở chùa Tướng quốc dưới thời Tống Thần Tôn và rất có thể sống ở đó cho tới năm 1087, khi sứ bộ ta tới.

(9)
An nam chí lược15 tờ157: "Thiền sư Mai Viên Chiếu thường soạn Tham đồ hiển quyết đại lược nói: "Một hôm khi đang ngồi trước nhà, bỗng có 1 vị Tăng hỏi: "Phật cùng với Thánh, nghĩa ấy thế nào ?". Đáp: "Dưới dậu thu cúc rậm. Đầu cành xuân yến ca". Sách ấy phần lớn gồm những thứ như thế đó. Cứ vào dẫn chứng này của Lê Tắc, ta có thể nói rằng tất cả cơ duyên thoại ngữ dẫn chứng trong truyện này đã hoàn toàn rút ra từ Tham đồ hiển quyết, nếu không nói là chúng chính là toàn bộ nội dung và văn ngữ của Tham đồ hiển quyết. Nếu khẳng định tất cả cơ duyên thoại ngữ đấy là Tham đồ hiển quyết, thì nó là một tác phẩm đời Lý được giữ lại cho tới ngày nay, một tác phẩm xưa nhất của lịch sử văn học, tư tưởng và triết học Phật giáo nước ta.

(10)
Cứ vào truyện này thì tác phẩm của Viên Chiếu gồm có:

1. Dược Sư thập nhị nguyện văn
2. Tán Viên Giác kinh
3. Thập nhị Bồ tát hành tu chứng đạo tràng
4. Tham đồ hiển quyết


Nhưng cứ một câu viết trong truyện của Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm ở dưới, theo đó, "Viên Chiếu thường có ca thi gởi tặng Bảo Tính, ngợi ca cái chí hướng cao thượng của Tính, có ghi đầy đủ trong tập của Chiếu nên đây không phiền chép ra"
(Chiếu thường hữu ca thi di Bảo, mỹ kỳ cao chí, cụ tại tập trung, tư bất phiền lục). Ta bắt buộc phải nghĩ rằng Chiếu còn có một tác phẩm khác bao gồm tất cả thi ca của Chiếu mang tên có lẽ là Viên Chiếu tập hay Viên Chiếu thi tập. (?)

Chú thích của hungcom :

(*)
Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thế thông thông thục bất bi.
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiển nhậm suy di.


身如墻壁圮頹時
舉世忽忽熟不悲
若達心空無色相
色空隱顕任推移


(**)

"Khứ lai phi kim" (đến và đi không phải bây giờ) câu này tối nghĩa, bản khác chép là "Phi cỗ lai kim" (Chẳng có xưa nay gì cả) : KHÔNG CÓ THỜI GIAN, h/c xin tùy quý đạo hữu chọn.

(***)

Trực triệt căn nguyên Phật sở ấn

(Thẳng tận đầu nguồn phăng dấu Phật
_ Trúc Thiên dịch)


直截根源佛所印
 

Hắc phong

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Danh tiếng: 100%
Tham gia
7/9/10
Bài viết
2,665
Điểm tương tác
476
Điểm
113

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Danh tiếng: 100%
Tham gia
1/4/12
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Danh tiếng: 100%
Tham gia
1/4/12
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Thân như tường bích


[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/thannhutuongbich_zps76107cee.jpg"].


































.[/NEN]​
 

hungcom

Registered
Phật tử
Danh tiếng: 100%
Tham gia
29/8/09
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
10. THIỀN SƯ Cứu Chỉ

Chùa Diên linh, núi Long đội, Yên lãng, Người Phù đàm, Châu minh, họ Đàm. Thuở nhỏ hiếu học, sách Nho, sách Phật, không thứ gì là không quán xuyến. Một ngày nọ ôm sách than rằng:
"Khổng Mặc chấp có, Trang Lão chấp không, sách vở của thế tục chẳng phải là phương giải thoát. Chỉ có Phật pháp không kể có không, có thể dứt sanh tử, nhưng phải siêng năng giữ giới, cầu bậc thiện tri thức ấn chứng cho mới được". Nhân đó bỏ tục, đến chùa Cảm ứng ở Ba sơn thọ Cụ túc với Định Hương trưởng lão.

Ngày cầu đạo, Trưởng lão hỏi: "Thế nào là nghĩa của cứu cánh?".
Sư đáp: "Chưa"
Sơn nói: "Ta với ngươi là nghĩa của cứu cánh rồi !".
Sư ngẫm nghĩ.
Sơn nói: "Qua mất rồi". (*)
Nhờ lời nói đấy, Sư rõ được yếu chỉ. Nhân đó lấy tên Cứu Chỉ. Sau Sư vào chùa Quang minh ở núi Tiên du, tu khổ hạnh đầu đà (1) sáu năm không bước chân xuống núi. Tiếng tăm giáo hóa của sư vang đến tai vua. Vua Lý Thái Tôn nhiều lần cho mời, Sư không đến, nên ba lần thân hành đến chùa Sư, lấy lời an ủi thăm hỏi. Thái Sư Lương Văn Nhậm cũng rất kính trọng.

Trong khoảng Long Thụy Thái Bình (1054 - 1058) Tể tướng Dương Đạo Gia đem chùa mình, mời Sư về trụ trì. Sư quyết từ không được, đành phải làm theo. Ngày Sư xuống núi bèn nói với mọi người rằng: "Ta không trở lại đây nữa". Chim muông trong rừng kêu thương ba tuần không dứt. Ở vừa ba năm,vào một ngày tháng, năm nào đó của niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059 - 1065), khi sắp thị tịch, Sư họp môn đồ dạy rằng:

Tất cả pháp môn
Vốn từ tính ngươi
Tất cả pháp tính
Vốn từ tâm ngươi
Tâm, pháp như một
Vốn chẳng hai pháp
Phiền não trói buộc
Tất cả đều không
Phải quấy, tội phứơc
Tất cả đều huyễn
Không đâu chẳng quả, chẳng nhân
ở trong nghiệp không phân biệt
ở trong báo không phân biệt
Nếu có phân biệt đối với nghiệp
Thì không tự tại
Tuy thấy tất cả pháp
Mà không chỗ thấy
Tuy biết tất cả pháp
Mà không chỗ biết
Biết tất cả pháp
Nhân duyên làm gốc
Thấy tất cả pháp
Chính tâm làm tôn
Tuy nhiễm thực tế
Hiểu rõ thế gian
Đều như biến hóa
Thấu rõ chúng sanh
Chỉ là một pháp
Không có hai pháp
Không bỏ nghiệp cảnh
Phương tiện thiện xảo
Đối giới hữu vi
Bày pháp hữu vi
Mà không phân biệt
Tướng của vô vi
Vì muốn dứt trừ
Vọng niệm so đo
Của ta ấy vậy.
(**)

Rồi nói kệ rằng:

"Rõ biết thân tâm vốn lặng yên,
Thần thông biến hóa hiện mọi tướng
Hữu vi vô vi từ đây hiện
Thế giới hà sa không thể lượng
Tuy dù biến khắp cả hư không
Mỗi mỗi xem ra chẳng hình dạng
Ngàn năm muôn năm khó sánh đó
Xứ xứ nơi nơi thường tỏ rạng
(2)

Đúng ngọ hôm ấy, dựng đàn trà tì, đồ chúng thu linh cốt của Sư xây tháp phụng thờ.



____________

Chú thích :

(1)
Đầu đà, phiên âm chữ Phạn Dhùta. Dhùta đến từ động từ Dhù có nghĩa là rũ bỏ, tiêu diệt, cho nên hạnh đầu đà, có nghĩa là rũ bỏ các phiền não, tiêu diệt những chướng ngại do ăn mặc ở tạo nên. Vì vậy, nội dung hạnh tu này đại khái gồm 12 việc sau: Đấy là mặc áo dùng đồ giẻ rách may lại , không quá ba cái, đi xin mà ăn (khất thực), chỉ ăn một lần trong ngày, không ăn nhiều, ở nơi quạnh vắng, ở bên bãi mồ, ở dưới gốc cây, ở giữa đất trống, nơi hang động, thường ngồi mà không nằm. Đấy là 12 việc, người tu hạnh đầu đà phải hoàn thành.

(2)
Nguyên văn:

Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch
Thần thông biến hóa hiện chư tướng
Hữu vi vô vi tùng thử xuất
Hà sa thế giới bất khả lượng
Tuy nhiên biến mãn hư không giới
Nhất nhất quán lai một hình trạng
Thiên cổ vạn cổ nan thử huống
Giới giới xứ xứ thường lãng lãng"
. (***)

Bài kệ này rập vần mà mượn chữ từ bài kệ sau của Huệ Tư (514-577):

Đốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng
Ẩn hiện linh thông hiện chư tướng
Độc hành độc tọa thường nguy nguy
Bách ức hoá thân vô số lượng
Tung hiệp bức tắc mãn hư không
Khán thời bất kiến vi trần tướng
Khả tiếu vật hề vô tỉ huống
Khẩu thổ minh châu quang hoảng hoảng
Tầm thường kiến thuyết bất tư nghì
Nhất ngữ tiêu danh ngôn hạ đáng.


-------------
Chú thích của hungcom :

(*) Hình như văn bản này đã bị gỏ sai, h/c đã tra cứu một văn bản khác, rõ nghĩa hơn :

Nhân đó Sư xả tục xuất gia, tìm đến Ấp Sơn, chùa Cảm Ứng xin làm đệ tử Trưởng Lão Định Hương.
Giờ tham thỉnh, Sư hỏi: Thế nào là nghĩa cứu cánh ?
Trưởng Lão im lặng giây lâu, hỏi lại Sư: Hiểu chưa ?
Sư thưa: Chưa hiểu.
Trưởng Lão bảo: Ta đã cho ngươi nghĩa cứu cánh.
Sư suy nghĩ.
Trưởng Lão bảo: Lầm qua rồi!
Ngay câu nói này, Sư thấu triệt ý chỉ. Nhân đó Trưởng Lão đặt tên Sư là Cứu Chỉ.


www.thuongchieu.net

(**)
"Nhất thiết pháp môn, bản tòng nhữ tính; nhất thiết pháp tính, bản tòng nhữ tâm. Tâm pháp nhất như, bản vô nhị pháp. Khiên triền phiền não, nhất thiết giai không; tội phúc thị phi, nhất thiết giai huyễn. Vô sở phi quả phi nhân. Bất ư nghiệp trung phân biệt báo; bất ư báo trung phân biệt nghiệp. Nhược hữu phân biệt, bất đắc tự tại. Tuy kiến nhất thiết pháp nhi vô sở kiến, tuy tri nhất thiết pháp nhi vô sở tri. Tri nhất thiết pháp, nhân duyên vi bản; kiến nhất thiết pháp, chính chân vi tông. Tuy nhiễm thực tế giải liễu thế gian như biến hoá; minh đạt chúng sinh duy thị nhất pháp, vô hữu nhị pháp. Bất xả nghiệp cảnh, thiện xảo phương tiện, phương ư hữu vi giới thị hữu vi pháp, nhi vô phân biệt vô vi chi tướng. Cái dục tuyệt ngã vọng niệm, kế giác cố dã”.

(Hết thảy mọi pháp môn bắt nguồn từ tính ngươi; hết thảy mọi pháp tính, bắt nguồn từ tâm ngươi. Tâm pháp là một, đâu phải là hai. Tội phúc thị phi, tất cả đều ảo; trói buộc phiền não, tất cả đều không. Chẳng cái gì không phải nhân; chẳng cái gì không phải quả. Chớ nên phân biệt nghiệp với báo; chớ nên phân biệt báo với nghiệp, ắt không tự tại. Dù thấy hết mọi pháp cũng là không thấy; dù biết hết mọi pháp cũng là không hay. Biết hết mọi pháp, nhân duyên là gốc; thấy hết mọi pháp, chính chân là nguồn. Dù đắm trong thực tế vẫn hiểu thế gian đều là biến hoá. Thấu rõ chúng sinh chỉ là một pháp, chứ không phải hai. Không bỏ nghiệp cảnh, đó là phương tiện thiện xảo. Như thế thì ở trong thế giới hữu vi mà chỉ rõ được pháp hữu vi và không phân biệt với tướng vô vi. Đó là vì muốn dứt bỏ mọi vọng niệm, mọi sự phân biệt mà thôi).

(***)
心法

覺了身心本凝寂,
神通變化現諸相。
有為無為從此出,
河沙世界不可量。
雖然遍滿虛空界,
一一觀來沒形狀。
千古萬古難比況,
界界處處常朗朗。
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Danh tiếng: 100%
Tham gia
1/4/12
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Giác liễu thân tâm



[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/Giaclieiuthantam_zpsae81dd6a.jpg"].


































.[/NEN]​
 

hungcom

Registered
Phật tử
Danh tiếng: 100%
Tham gia
29/8/09
Bài viết
726
Điểm tương tác
342
Điểm
63
11-12 HAI THIỀN SƯ Bảo Tính (?- 1034), Minh Tâm (?- 1034)

Chùa Cảm ứng, Ba sơn, phủ Thiên đức. Đều là người Châu minh, (1) Bảo Tính họ Nghiêm, Minh Tâm họ Phạm. Thuở nhỏ cùng sớm xuất gia, là đôi bạn tri kỹ.

Lúc đầu, cùng với Thiền sư Viên Chiếu, đều thờ Định Hương thượng nhân, sâu hiểu chỗ cốt tuỷ của Hương. Về sau mỗi người mang tâm ấn, tuỳ phương giáo hóa, nổi tiếng là bậc thượng thủ của tòng lâm.

Viên Chiếu thường có ca, thơ gởi tặng Bảo Tính ngợi khen cái chí hướng cao thượng của Sư. (Có đủ ở tập của Chiếu, ở đây không phiền chép).

Hai Sư sống chung thường lấy việc trì tụng kinh Pháp hoa làm phận sự. Trải mười lăm năm, chưa từng trễ nãi tí nào. Mỗi lần tụng đến phẩm Dược Vương (2), họ đều rơi nước mắt, bảo nhau: "Nhân địa của Bồ tát nhiều kiếp huân tu, mà đối với tâm Đại thừa, còn phải phát đại dũng mãnh tinh tấn, không tiếc thân mạng. Huống gì bọn chúng ta ở trong đời mạt pháp, là người mới phát tâm. Nếu chẳng chí thành như vậy, thì đối với chân tâm đại Bồ đề của Đại thừa làm sao có thể mong thấy được !".

Đến tháng tư năm Thiên Thành thứ bảy (1034) hai Sư sắp thiêu thân thì được mời vào triều, bèn mở hội giảng Kinh. Họ cùng vào trong Tam muội Hỏa quang (3). Những hài cốt còn lại đều thành thất bảo.

Có chiếu lưu ở chùa Trường thánh để cúng dường. Lý Thái Tôn cho là linh dị, cải nguyên Thông Thụy (4) dựng tháp thờ.


___________

Chú thích :

(1)
An nam chí nguyên 5 tờ 211 viết: "Hai Thiền sư Bảo Tính và Minh Tâm là sư huyện Đông ngạn, đứng đầu trong tòng lâm, có lần dựng hội giảng Kinh, cùng vào Hỏa quang Tam muội. Xương cốt đều hoá thành thất bảo".

(2)
Tức phẩm Dược Vương Bồ tát bản sự của kinh Pháp hoa, chép sự tích Bồ Tát Dược Vương tự đốt mình để phụng sự đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức. Xem Diệu pháp liên hoa kinh

(3)
Hoả quang tam muội, Phạn tejoprabhàsamàdhi, cũng gọi Hỏa quang định, tức một loại thiền định khiến cho thân thể bốc lửa. Xem Bản hạnh tập kinh. "Bấy giờ đức Như Lai cũng vào Hỏa quang Tam muội như thế, thân mình bốc ra ngọn lửa lớn" (Như Lai dĩ thời diệc nhập như thị Hỏa quang Tam muội, thân xuất đại hỏa).

(4)
Toàn thư B2 tờ22a4-6 và Cương mục chính biên2 tờ38b6-39a1 viết: "Thiên Thành năm thứ nhất. Bấy giờ, có hai nhà sư Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm thiêu thân mình tự thành bảy báu. Vua xuống chiếu đem bảy báu đó giữ lại ở chùa Trường thánh để cúng dường đèn nhang. Vua cho đó là điềm lành, nên cải nguyên là Thông Thụy".
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Danh tiếng: 100%
Tham gia
1/4/12
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Nhất thiết pháp môn


[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/nhatthietphapmon_zps46832b5a.jpg"].


































.[/NEN]​
 

hoatihon

Cựu Thành Viên Diễn Đàn
Danh tiếng: 100%
Tham gia
1/4/12
Bài viết
2,688
Điểm tương tác
1,736
Điểm
113
Vô sở phi quả phi nhân


[NEN="http://i1240.photobucket.com/albums/gg499/hoatihon/vosophiquaphinhan_zpseaed300c.jpg"].


































.[/NEN]​
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên