1/.Nhân Duyên nào tạo thành Pháp Thân ?
2/. Dùng "Trí Không" như nào để Quán Thật Tướng Pháp Thân ?
Kính cảm ơn các Bạn vào Thảo luận.
Bạn KLL nói đúng ạ.(Xin cảm ơn Bạn)
Với các câu hỏi:
Câu 2/. Dùng "Trí Không" như nào để Quán Thật Tướng Pháp Thân ?
Đáp: "Trí Không", là Trí biết các Pháp là "KHÔNG".- Tức dùng Lý Bát Nhã để quán các Pháp.(mới thấy Thật Tướng Pháp Thân).
Ví như Quán rằng:
Hữu vi pháp Không có Tự Tánh.
Vô vi pháp Không có Tự Tánh.
Phật Tánh Không có Tự Tánh.
Niết Bàn (Pháp Thân) Không có Tự Tánh.
(Hết trích lời HT. Thích Từ Thông)
Tư duy.-
Hỏi: Vì sao Tất cả Pháp Không Tự Tánh ?
Đáp:
- Các Pháp đều do Nhân Duyên Sanh. Mà "Cái Nhân Duyên" để sanh các Pháp cũng lại do nhân duyên sanh. Truy cùng đuổi tận, tất cả "Cái nhân để sanh Pháp" đều không thể tìm được.- Vì "Trùng trùng duyên sanh".- Đó là lý "Nguồn cội các pháp không có tự tánh"
- Nguồn cội các pháp là không có tự tánh. Không tự tánh thì không phải có nghĩa là Không có các pháp, mà là các pháp giả có . Nếu chấp cái Không ấy thì rơi vào Đoạn kiến Không, nếu chấp Đoạn kiến Không thì là Tà kiến. Do vậy phải quán Không Không.
- Không Không là nói các pháp là NHƯ. Như là BẤT SANH, BẤT DIỆT, TỊCH DIỆT CHÂN NHƯ, LÀ UYÊN NGUYÊN VẮNG LẶNG BẶC NGÔN NGỮ SUY LƯỜNG.
- Tất cả Pháp từ Bản Thể NHƯ mà đến. Chung cuộc thì trở về NHƯ. Nên gọi là NHƯ LAI.- Đây là nghĩa NHƯ của các Pháp.
- Như Lai cũng là Pháp Thân Phật.- Nên cả Vũ Trụ này đều là Như Lai, là Pháp Thân Phật.
Kính các Bạn: Chỉ thành Phật mới có được Pháp Thân. VQ chưa có được Pháp Thân, mà cần phải tu, thì mới có hy vọng.
Với câu hỏi: 1/.Nhân Duyên nào tạo thành Pháp Thân ?
Đáp: Kinh dạy: có năm nhơn:
Một, sanh nhơn
Hai, hòa hợp nhơn
Ba, trụ nhơn
Bốn, tăng trưởng nhơn
Năm, viễn nhơn
1.Sanh nhơn: Như hạt giống cỏ cây, như nghiệp phiền não của con người.
2.Hòa hợp nhơn: Như pháp lành hợp tâm lành. Pháp ác hợp với tâm ác. Pháp vô ký hợp với tâm vô ký.
3.Trụ nhơn: Như nhờ đất mà núi rừng sông suối...có chỗ đứng vững. Nhờ cột trụ mà nóc, mái nhà thành tựu...
4.Tăng trưởng nhơn: Như do thực phẩm, y phục...mà con người tăng trưởng tồn sanh. Do nước, phân, chăm sóc mà hạt giống cỏ cây sum sê phát triển, do thiện hữu tri thức mà đạo tâm, đạo hạnh, đạo lực, đạo quả ngày thêm thắng tấn viên thành.
5.Viễn nhơn: Như quốc pháp nghiêm minh, thì người dân trong nước được an ninh không bị trộm cướp. Nhờ ánh sáng mặt trời mà lá cây được xanh, hoa hồng được đỏ...Vô tình chúng sanh là viễn nhơn của hữu tình chúng sanh và ngược lại.
Thiện nam tử ! Đại Bát Niết Bàn không phải do năm thứ nhơn ấy làm ra, cho nên không vô thường.(Pháp Thân cũng là Niết Bàn không phải do năm thứ nhơn ấy làm ra)
Ngoài năm thứ nhơn vừa nói, còn có hai thứ nhơn dành để cho người có tu tập tư duy mới nhận biết rõ ràng:
Một, tác nhơn.
Hai, liễu nhơn.
1). Như người thợ gốm và khí cụ của người thợ gốm để làm thành chén, dĩa, ấm chè....gọi là tác nhơn.
2). Như đèn đuốc soi sáng, khiến cho người ta thấy vật trong hang động tối, gọi đó là liễu nhơn.(Liễu Nhân này hình thành Pháp Thân)
Thiện nam tử ! Tác nhơn không làm ra được Đại Niết Bàn. Liễu nhơn làm hiển lộ Đại Niết Bàn. Do vậy, Đại Niết Bàn là pháp thường trú, bất sanh, bất diệt, hiện hữu và tồn tại vô khứ vô lai !(K. Đại Niết Bàn).
Kính các Bạn:
* Ví như vàng còn trong quặn, chưa được tinh luyện thì chưa gọi là Vàng. Phải gia công, chế tác thì Tinh Thể vàng mới hiện.- Nhất là phải được Trí Huệ Bát Nhã soi tỏ.- Như đèn đuốc soi sáng, khiến cho thấy các vật trong hang động tối vô minh được sáng tỏ.- mới thấy được vàng.
* Tu cũng vậy. - Tu là gia công, chế tác .- Nhất là phải được Trí Huệ Bát Nhã soi tỏ.- Như đèn đuốc soi sáng, khiến cho thấy các vật trong hang "Tâm" vô minh. Khi ấy Thể NHƯ mới hiện. Khi đó mới là Pháp Thân. Nên cái Nhân để tạo ra Pháp Thân, gọi là LIỄU NHÂN.