[NEN="http://trungtamtutam.com/diendantuthien/picture.php?albumid=21&pictureid=3291"]
TỪ THIỀN ĐẾN HOA NGHIÊM
Suzuki - Tuệ Sỹ (dịch và bình chú)
TỪ THIỀN ĐẾN HOA NGHIÊM
Suzuki - Tuệ Sỹ (dịch và bình chú)
<table align="left" border="0" cellpadding="3" cellspacing="0" width="1"> <tbody><tr><td>
</td></tr> <tr><td style="padding-left: 5px; padding-right: 5px;" align="Center">TỪ THIỀN ĐẾN HOA NGHIÊM</td></tr> </tbody></table>
1 KHỞI THUỶThiền đã không kết chặt với Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha-sūtra) như Lăng già (Laṅkāvatāra) hoặc Kim cang (Vajracchedikā). Bồ-đề-đạt-ma trao truyền Lăng-già cho người đệ tử Trung Hoa tâm tuỷ của ngài là Huệ Khả 慧可, coi như kinh này chứa đựng một nền giáo pháp quan hệ mật thiết với Thiền, và sau Hụê Khả kinh đã là tinh túy học tập của các môn đệ Thiền. Họ biết đến kinh Kim cang vào thời Hoằng Nhẫn弘忍 và Huệ Năng耐慧能, khoảng một năm rưỡi năm sau Bồ-đề-đạt-ma. Nhưng Thần Hội 神會, vốn là một trong những đệ tử chân truyền của Huệ Năng, đi xa hơn nữa, khi tuyên bố rằng chính vị Sơ Tổ của Thiền đã trao tay Kim cang cho Huệ Khả[1] . Dù quan điểm này có thể không đúng theo lịch sử, chúng ta vẫn có thể khẳng định rằng kinh Kim cang đã có ảnh hưởng lớn lao trên việc học Thiền vào thời bấy giờ, khoảng cuối thế kỷ VII. Mối liên hệ giữa kinh Hoa nghiêm và Thiền chưa bắt đầu trước thời Trừng Quán 澄觀(738-839), Tứ tổ Hoa nghiêm tông của Phật giáo Trung Hoa, học Thiền với Vô Danh無名, một đệ tử của Thần Hội. Trừng Quán là một triết gia lớn và đã cố công kết nạp Thiền vào thể hệ của riêng mình. Sau sư, có Khuê Phong Tông Mật 圭峰宗密 (780-842), cũng từng học Thiền và cho ra một bản đại sớ về kinh Viên giác圓覺經 [2] mà sư giải thích theo triết lý của tông phái mình. Sư cũng viết một tác phẩm về các đường lối lãnh hội Thiền khác nhau; không may, sách đã bị thất lạc, chỉ trừ phần tựa.[3]
Đại ý là nêu những điểm cốt yếu của Thiền và tách biệt chúng khỏi những ngộ nhận không chỉ đã từng xảy ra đối với bản thân của Thiền mà còn đối với sự quan hệ của nó trong triết lý của đạo Phật. Như thế, do Tông Mật, Thiền mới có liên lạc với những kinh điển khác ngoài Lăng già và Kim cang, và nhất là Hoa nghiêm.
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập [4] do Hoa nghiêm chủ xướng, và họ cố gắng đưa nó vào trong những bài pháp của mình. Chẳng hạn, Thạch Đầu (699-790) trong Tham đồng khế,[5] miêu tả tích cách tương giao của Sáng và Tối như là hạn chế lẫn nhau và đồng thời dung hợp lẫn nhau. Động Sơn (806-859), trong một đoản văn theo thể kệ, gọi là Bảo kinh tam muội ca,[6] giảng giải về tích cách tương giao của thiên 偏 (lệch) và chính 正 (ngay), phần lớn có công dụng như của Thạch Đầu, vì cả Thạch Đầu và Động Sơn đều thuộc về lưu phái Thanh Nguyên Hành Tư 青原行思 (tịch 740) được gọi là phái Thiền Tào động 曹洞宗 [7] . Ý tưởng này, về Tương tức và Hồi hỗ[8], chắc chắn phát xuất từ triết lý Hoa nghiêm do Pháp Tạng 法藏 (Tl. 634-712) tập đại thành. Bởi vì Thạch Đầu và Động Sơn đều là Thiền sư, nên lối trình bày của họ hoàn toàn không như của một nhà huyền học.
Có thể “bốn liệu giản ” [9] của Lâm Tế cũng xuất phát từ giáo học của Pháp Tạng.
Ảnh hưởng của Hoa nghiêm tông nơi các Thiền sư càng lúc càng tăng gia theo với thời gian, và đạt đến cao độ của nó ở thế kỷ X kể từ Tông Mật, tổ thứ năm của Hoa nghiêm tông Trung Hoa. Chính Pháp Nhãn Văn Ích 法眼文益 (885-958) người sáng lập nghành Thiền Pháp nhãn, đã kết nạp triết lý Hoa nghiêm vào trong pháp môn Thiền học của mình, mặc dầu sư không phải là người trong Hoa nghiêm tông, nhưng đã hẵn là có ấn tượng sâu đậm về các tác phẩm của Đỗ Thuận 杜順 (tịch Tl. 640) và Pháp Tạng (tịch 712), và những triết gia Hoa nghiêm khác; vì sự thực hiển nhiên là sư đã dạy các môn đệ mình nghiên cứu các sáng tác của họ coi như một trợ duyên để thành tựu Thiền. Sư cũng viết một bản bình giải về Tham đồng khế của Thạch Đầu, mà, như tôi đã nói ở trên, vốn căn cứ trên siêu hình học của Hoa nghiêm.
Trào lưu này, trào lưu kết hợp Thiền với triết học của Hoa nghiêm kinh (Avataṃsaka) hay của Pháp hoa kinh (Saddharma-puṇḍarika) lên đến tột đỉnh khi Vĩnh Minh Diên Thọ 永明延壽 (904-975) viết trường thiên Tông kính lục,[10] gồm một trăm quyển.
Trong tác phẩm này, sư có ý dung hợp tất cả những dị biệt của tư tưởng Phật học vào học thuyết duy tâm – “Tâm” theo nghĩa là một thực tại cứu cánh tự giác sát, chứ không phải là sở cứ của tâm thức thường nghiệm chúng ta. Đừng nên nhầm lẫn học thuyết duy tâm này với triết học duy thức (vijñānamātra) của phái Du-già hành (Yogācāra), vì Diên Thọ theo dòng tư tưởng xuyên qua Lăng già (Laṅkāvatāra), Hoa nghiêm (Avataṃsaka) và Khởi tín luận (Śraddhotpāda), vân vân.[11]
2
Nói cho chí lý, Thiền có lãnh vực riêng của nó, ở đó phát huy tất cả diệu dụng của mình. Ngay khi vi hành ngoài lãnh vực này, nó đánh mất sắc thái bản hữu của mình và đến mức nào đó thì mất luôn cả bản tính. Khi có ý định tự xiển dương bằng một hệ thống triết lý, nó hết còn là Thiền thuần túy và đơn giản; và xen lẫn vào những cái không liên hệ thiết tha. Dù có giải thích hợp lý, Thiền cũng bị giả trang.
Vì lý do đó, các bậc thầy của nó đã cố thủ để khỏi bị chen chân với bất cứ tông phái siêu hình nào, dù Phật hay Lão hay Khổng. Ngay cả khi Bồ-đề-đạt-ma trao tay Lăng-già cho Huệ Khả, mà Huệ Khả và các môn độ của ngài đã không chịu viết gì hết về kinh này trong bản chất của một luận giải. Mặc dù Huệ Năng hình như đã phô diễn kinh Kim cang theo sở đắc, các miêu duệ của ngài lại hoàn toàn quên lãng nó, và những pháp thoại hay những ngữ lục của họ diễn tiến trong một chiều hướng khác hẳn. Dĩ nhiên, họ thường tham khảo tất cả các kinh luận, tự do dẫn chứng các đoạn văn trong ấy, nhưng họ luôn luôn cẩn thận để khỏi bị vướng mắc vào văn tự, khỏi bị sơn phết với những ý tưởng siêu hình làm luận cứ cho những sáng tác này.
Các Thiền sư đã dẫn chứng kinh Hoa nghiêm (Avataṃsaka) ngay cả trước Đỗ Thuận, bởi vì, theo Lăng già sư tư ký,[12] Huệ Khả nhắc nhở rất nhiều về kinh này hậu thuẫn cho sở kiến, theo đó, cái Một luân lưu toàn vẹn trong thế giới đa thù; còn Đạo Tín 道信, đồng thời với Đỗ Thuận, cũng dẫn chứng một đoạn trong kinh này nói rằng một hạt bụi bao trùm trong nó vô số thế giới. Là những Thiền sư, họ không có ý hệ thống hoá những trực giác về Thiền của mình; họ bằng lòng dẫn chứng những đoạn văn nào đồng điệu với những ý tưởng của mình. Vì vậy, những dẫn chứng của họ không giới hạn vào kinh Hoa nghiêm; họ tìm thấy đâu những câu dùng được thì dùng liền; chẳng hạn, từ kinh Pháp hoa (Saddharma-puṇḍarika), Duy ma cật (Vimalakīrti), kinh Kim cang (Vajracchedikā), Lăng già (Lankāvatāra), Bát-nhã, Pháp cú (Dharmapada), vân vân. Nhưng trong trường hợp Hoa nghiêm, sự trích dẫn có tính cách cục bộ và chuyên biệt hơn nhiều, nó được đặt trong toàn thể tư tưởng cốt yếu của kinh này. Từ chỗ đó, hình như các Thiền sư ngay từ đầu đã coi đây là một kinh văn hậu thuẫn những chứng nghiệm của họ ngang tầm Lăng già và Kim cang. Nhưng vì lập trường của họ là nặng về tâm mà nhẹ hẳn về văn tự, nên họ không tiến xa đến chỗ thiết định một nền triết lý truyền theo Hoa nghiêm. Luôn luôn họ cố thủ trên những sự thật chứ không ở trên những ý tưởng. Bởi vì họ nói, dẫn kinh Hoa nghiêm, rằng:
“Như một người nghèo ngày đêm đếm những kho tàng không thuộc về mình, trong lúc y không có lấy một quan tiền làm của. Học nhiều thì cũng vậy. Lại nữa, nhất thời các người có thể đọc sách, nhưng hãy cẩn thận để sang một bên ngay khi có thể.
Nếu các người không rời bỏ sách, sẽ trở thành thói quen chỉ luyện tập văn tự. Cái đó y như tìm băng giá bằng cách hâm nóng dòng nước chảy, hay như tìm tuyết bằng cách đun sôi nước nóng. Vì vậy, có lúc chư Phật nói rằng (đạo lý tối thượng) khả thuyết, có lúc nói rằng là bất khả thuyết. Sự thật thì không có gì khả thuyết, hay bất khả thuyết nơi Pháp tánh (thật tướng), vốn là cảnh giới của các pháp hiện tiền. Khi một cái này mà nắm được trọn vẹn, thì muôn nghìn cái khác cũng theo luôn. Cũng vậy, kinh Pháp hoa nói rằng Thực tại chẳng phải thực hay phi thực, chẳng phải Như hay không Như.” [13]
3
Kinh điển, nhất là kinh điển Đại thừa, là những phát biểu trực tiếp của các kinh nghiệm tâm linh; chúng chứa đựng những trực giác đạt được do đào sâu vào hố thẳm Vô thức; và không có ý định trình bày những trực giác này qua trung gian của trí năng. Nếu chúng không có vẻ hoàn toàn duy lý hay thuyết minh hợp lý, đây chỉ là ngẫu nhiên. Hết thảy kinh điển cốt cho ra những trực giác sâu xa cuả Phật trí như đã từng bộc lộ cho các môn đệ Đại thừa ở Ấn trong thời sơ khai. Vì vậy, khi kinh nói hết thảy các pháp là Không, vô sinh, siêu việt nhân quả, lời nói ấy không phải hậu quả của lý luận siêu hình; nó là một kinh nghiệm Phật trí sâu xa nhất. Chính vì thế mà rất nhiều học giả và triết gia của đạo Phật, tích cực để lãnh hội hay quảng diễn những trực giác này theo các luật tắc của luận lý, đã thất bại trong những nổ lực của họ. Trong kinh nghiệm Phật giáo, có thể nói họ là cái kẻ ngoại cuộc, và do đó, nhất định phải lạc hướng.
Những trực giác của kinh điển và của Thiền sư cũng như nhau cả, nếu tất cả còn tính cách Phật. Thảng hoặc có khác nhau trong lối phô diễn, đấy là do tâm lý của các thiên tài Hoa và Ấn. Nếu Thiền vẫn là một hình thức đạo Phật Ấn-độ du nhập Trung Hoa, những kinh nghiệm của nó tự căn bản thảy đều là của đạo Phật như nhau. Nhưng tích cách dị biệt tâm lý của dân tộc được thấy rõ, một khi những kinh nghiệm ấy bắt đầu có vị trí trong mối hòa điệu với những điều kiện mới mẻ chi phối chúng để hầu phát triển.
Quá trình dị biệt hoá này có thể thấy rõ trong những bài pháp của các Thiền sư, khi họ, một lần nữa, được tách khỏi ảnh hưởng trực tiếp của vị thầy đầu tiên từ Ấn-độ. Khi Thiền năm bắt tâm tính Trung Hoa, những diễn đạt của nó trở thành Trung Hoa một cách đặc trưng, và rồi có người bắt đầu nghi ngờ tính cách nhất trí thiết yếu của chúng với nguyên khởi. Lúc mà sự phân hoá đã tiến xa đến độ chừng như nó phản đối chính nó, các sư tổ gấp rút bù đắp chỗ tổn thương và tái hợp nó với cội nguồn của chính nó. Đây quả thực là ý nghĩa của trào lưu khởi sắc ở thế kỷ XVIII và XIX, điển hình với Tông Mật hay Pháp Nhãn.
Xin đề cử những điển hình về sự biến chuyển lần hồi diễn ra trong lối biểu hiện của trực giác Thiền suốt năm trăm năm sau khi Bồ-đề-đạt-ma dẫn Thiền vào Trung Quốc. Ngài là một nhà sư từ Ấn đến, có lẽ mất vào khoảng 528 sau TL. Dưới đây là những trang dẫn chứng từ các bài pháp của các Thiền sư thuộc nhiều chi phái khác nhau phát khởi trong suốt thời gian này. Trong những bài pháp ấy, chúng ta lưu ý sự biến thiên từ khuôn mẫu thuyết giảng của kinh đến khuôn mẫu của Thiền tông Trung Hoa.
4
Chúng ta hãy bắt đầu với Bồ-đề-đạt-ma, Sơ Tổ của Thiền tông Trung quốc, nói về Vô tâm [14]:
“Lý rốt ráo vốn không lời, nhưng mượn lời để diễn Lý. Đạo cả vốn không hình tướng, nhưng để tiếp xúc với phàm ngu mà hiển hiện thành hình.
Bây giờ, giả sử có hai người đang bàn bạc về vô tâm. Đồ đệ hỏi thầy:
“Đ. (Lý rốt ráo là) hữu tâm hay vô tâm?
“T. Vô tâm.
“Đ. Nếu là vô tâm, ai đang thấy, nghe, hay, biết? [15] Cái người nhận biết rằng vô tâm ấy là ai?
“T. Chính do vô tâm mà có thấy, nghe, hay, biết. Chính do vô tâm mà biết là vô tâm.
“Đ. Đã là vô tâm, là sao lại có thể thấy, nghe, hay, biết? Vô tâm tất nhiên không thể có sự thấy, nghe, hay biết.
“T. Dù rằng ta vô tâm nhưng ta vẫn có thể thấy, nghe, hay, biết.
“Đ. Nếu có thể thấy, nghe, hay, biết thì không thể là vô tâm, mà phải là một loại hữu tâm.
“T. Thấy, nghe, hay, biết, hết thảy chính là những hoạt dụng của vô tâm. Ngoài thấy, nghe, hay, biết, không có vô tâm. Ta e rằng con không lãnh hội điều đó, nên ta sẽ tìm cách giảng giải vấn đề từng bước một để khiến con nhìn thẳng vào chân lý. Thí dụ, khi đang thấy, tất nhiên có cái đang thấy, như thế là vì có cái không thấy; cái đang thấy như thế chính là vô tâm. Khi đang nghe, tất nhiên có cái đang nghe, như thế là vì có cái không nghe: nghe chính là vô tâm. Khi đang nhớ nghĩ; nhớ nghĩ chính là vô tâm. Khi đang biết, tất nhiên có cái đang biết, như thế là vì có cái không biết; không biết chính là vô tâm. Khi đang làm, tất nhiên có cái đang làm, như thế là vì có cái không làm; đang làm chính là vô tâm. Vì vậy, ta nói rằng thấy, nghe, hay, biết, hết thảy đều là vô tâm?
“Đ. Làm sao biết rằng cái ấy thuộc vô tâm?
“T. Con cứ xét kỹ vấn đề thêm, rồi nói cho ta rõ tâm có hình tướng khả tri nào không. Nếu có, như thế sẽ không phải là tâm chân thật. Phải nhìn nó có ở trong, ở ngoài hay ở giữa. Tâm không thể được tìm thấy ở đâu trong ba chỗ ấy.
Cũng không thể được trực nhận bất cứ ở những nơi nào khác. Vì vậy, gọi là vô tâm.
“Đ. Bạch thầy, nếu chính ở khắp mọi nơi thảy đều là vô tâm, vậy lẽ ra không có tội hay phước; vậy tại sao chúng sinh trôi lăn trong sáu nẻo và sống chết xoay vần không dứt?
“T. Đây là do chúng sinh điên đảo trong tâm mà chấp ý tưởng mê hoặc về một thực tại (cá biệt) nơi vô tâm, và, rồi tạo tác mọi hành vi, chấp trước mê lầm quan niệm cho rằng quả thực có một cái tâm hữu tâm. Vì lý do đó, chúng trôi lăn trong sáu nẻo và sống chết không dứt.
“Như một người trong đêm tối thấy một gốc cây trụi[16] hay một sợi giây mà tưởng là bóng ma hay con rắn, rồi sợ hãi. Cũng vậy, chúng sinh chấp trước mê hoặc cũng vậy.
Ở nơi vô tâm, lmê lầm chấp là hữu tâm, rồi gây nên các nghiệp, khiến phải luân hồi trong sáu nẻo. Những hạng chúng sinh như thế nếu gặp được bậc đại thiện tri thức dạy cho tọa thiền để giác ngộ vô tâm, thì hết thảy nghiệp chướng đều bị tiêu trừ và chuỗi dây sinh tử bị cắt đứt.
Như ánh mặt trời một khi soi thấu vào chỗ tối tăm xô đuổi tất cả những gì tối tăm, hết thảy tội lỗi của chúng đều bị diệt trừ khi chúng tỏ ngộ được vô tâm.
“Đ. Đệ tử ngu muội, tâm chưa hoàn toàn tỏ rõ trong tất cả mọi trường hợp tác dụng của sáu căn đáp ứng (sự kích thích) ra sao.[17]
“T. Mọi toan tính đều được thực hiện bằng lời nói.[18]
“Đ. Phiền não và Bồ-đề, sinh tử và Niết-bàn, phải chăng hết thảy cũng là vô tâm?
“T. Quả vậy, hết thảy đều là vô tâm. Chính vì chúng sinh chấp trước sai lầm ý tưởng về một tâm hữu tâm nên có đủ tất cả phiền não và Bồ-đề, sinh tử và Niết-bàn. Nếu tỏ ngộ vô tâm, thì hết thảy không có phiền não, không có sinh tử, không có Niết-bàn. Bởi vậy, đối với người vọng chấp hữu tâm, Như lai nói có sinh tử; đối đãi với phiền não mà tên gọi Bồ-đề; đối đãi với sinh tử mà có tên gọi Niết-bàn. Tất cả những danh tự đó đều là pháp đối trị. Khi chứng đắc vô tâm, không còn có phiền não hay Bồ-đề, sinh tử hay Niết-bàn.
“Đ. Nếu không có bồ-đề, không có Niết-bàn, vậy nói thế nào về bồ-đề mà chư Phật trong quá khứ đã chứng đắc?
“T. Cái đó chỉ nói theo văn cú ước lệ. Đối với chân lý tuyệt đối, chẳng có cái gì như vậy. Do đó, kinh Duy-ma-cật (Vimalakīrti) nói rằng Bồ-đề không thể được chứng đắc bằng thân, cũng không thể được chứng đắc bằng tâm.[19] Lại nữa kinh Kim cang nói rằng không có bất cứ một pháp nào để có thể chứng đắc. Chư Phật Như Lai duy chỉ bằng sự không chứng đắc mà chứng đắc. Do đó, nên biết rằng khi có tâm thì tất cả đều có; khi không tâm (vô tâm) thì tất cả đều không.
“Đ. Bạch Thầy, Thầy nói rằng khắp tất cả mọi nơi thảy đều vô tâm. Mà gỗ đá cũng đều là vô tâm; vậy phải chăng (hết thảy chúng sinh) cũng đồng như gỗ đá?
“T. Nhưng vô tâm được chứng ngộ trong tâm thức ta không phải đồng với gỗ đá. Tại sao? Nó như cỗ trống trời, tuy vô tâm, mà tự nhiên trỗi lên nhiều thứ âm thanh vi diệu để giáo huấn hết thảy các loài. Lại cũng như hạt như ý bảo châu (maṇi), tuy vô tâm mà tự nhiên biến hiện vô số hình sắc. Cũng vậy, vô tâm tác dụng qua tâm thức của ta, khiến cho nó thấu rõ chân tính của thực tại; nó có đủ cả trí tụê siêu việt chân thật, Ba Thân tự tại, ứng dụng thông suốt.[20] Như kinh Bảo Tích (Ratnakūṭa) có nói rằng: “Bằng không tâm ý mà hiện hành.”[21] Vậy sao lại có thể như gỗ đá? Vô tâm là chân tâm, Chân tâm là Vô tâm.
“Đ. Vậy phải tự tu tập như thế nào với tâm (tương đối) của chúng ta đây?
“T. Chỉ cần tỏ ngộ vô tâm trong tất cả các pháp, trong tất cả các hành vi. Đây là con đường tụ tập, không có con đường nào khác. Như thế biết rằng khi tỏ ngộ vô tâm thì các pháp không còn nhiễu loạn chúng ta nữa.[22]
“Khi nghe điều này, đồ đệ tức thì hốt nhiên đại ngộ và nhận ra rằng không có vật ở ngoài tâm, không có tâm ở ngoài vật, đạt được tự do viên mãn trong tất cả cử chỉ và hành vi của mình; hết thảy màng lưới nghi ngờ bị xé thành mảnh vụn và không thấy còn có chướng ngại nào nữa.”
Đạo Tín 道信 (tịch 651) thường được coi là Tứ tổ của Phật giáo Thiền tông Trung Hoa, nói bài pháp sau đây về: “Xả thân pháp”: [23]
“Phương pháp xả bỏ sắc thân[24] trước trước hết do tư duy về tánh không, nhờ đó mà tâm thức trở thành không. Hãy để cho tâm và cảnh nghỉ yên nơi trạng thái hoàn toàn tĩnh lặng; hãy buộc tư tưởng trong các nhiệm mầu của tịch tĩnh,[25] để cho tâm không còn dông ruỗi từ vật này đến vật khác. Khi tâm được bình lặng trong chỗ sâu xa nhất của nó, những vướng mắc của nó bị cắt đứt hết. Sâu thẳm thay! Mịt mù thay! Trong thanh tịnh tuyệt đối của nó, tâm chính là không. Nó tựa hồ dửng dưng thay! Như cái chết không còn có hơi thở. Nó an trụ trong chỗ thanh tịnh rốt ráo của Pháp thân và không còn lệ thuộc vào một đời sống tương lai nữa. Khi tâm thức bị khuấy động và mê hoặc khởi lên trong nó thì không thể trốn khỏi thọ sinh một đời sống khác. Vì vậy, trước hết hãy tự mình tu tập để chứng đắc trạng thái hoàn toàn tịnh tĩnh trong tâm mình, và cả trong cảnh giới của nó. Đây là con đường tu tập cần phải thực hiện.
“Thế nhưng, trong sự tu tập này, quả thực không có gì để coi là một thành tựu quyết định, và sự không thành tựu này là cái được thành tựu bởi sự tu tập đó;[26] bởi vì thực tại đạt được do vô tác, và vô tác chính là chân lý. Do đó, kinh nói: ‘Không, vô tác, vô nguyện, vô tướng,[27] ấy là giải thoát chân thật!’ Vì lý do đó, thực tại là vô tác.
“Pháp xả thân là phải có một cái thấy sâu xa soi vào bản chất giả tạm của nó khi tâm và cảnh trở thành trong suốt và những công năng của nó bừng sáng.
“Thêm nữa, nói như Trang Tử ‘Trời đất là một ngón tay, muôn vật là một con ngựa.’[28]
[Nhưng điều đó không đúng]; kinh Pháp cú nói. ‘Đừng nghĩ cái một là một. Vì để diệt trừ ý tưởng về đa thù nên cái một gọi là một, nhưng cái đó chỉ cốt nói cho tâm trí nông cạn.’[29] [Vì lẽ đó,] chúng ta có thể nói rằng, Trang Tử không vượt ra ngoài cái Một nổi.
“Lão tử nói: ‘Sâu thẳm thay! Mịt mù thay! Trong đó có yếu tính!’[30] Với Lão Tử, bên ngoài tuy không còn tướng, nhưng bên trong vần còn tâm. Kinh Hoa nghiêm nói: ‘Đừng chấp vào hai tướng, vì một cũng không, hai cũng không!’[31]
Kinh Duy ma cật nói: ‘Tâm không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa – đó là chứng ngộ.’[32] Vì lý do đó, chúng ta biết rằng Lão Tử vẫn còn bị ngưng trệ với một cái tinh thức.”
Nơi khác, Đạo Tín giảng giải ý nghĩa của tịch tĩnh tánh không như sau:
“Hãy nhìn lại sắc thân của mình xem nó là cái gì. Nó là không, bất thực như một bóng mờ.[33] Nó được cảm nghiệm [như là có thật], nhưng không có gì ở đó để mà nắm giữ. Trí Bát-nhã khởi lên ngay giữa những vật ủ bóng này, không có xứ sở cho nó ngay nơi chỗ mà nó được cố định. Tự nó bất động, mà vẫn tương ứng với vật, biến hóa không cùng.
“Từ giữa lòng tánh không trỗi dậy sáu căn và sáu căn cũng là không tịch mà sáu trần cảnh được cảm thọ cũng như mộng như huyễn. Như mắt thấy vật, mà trong mắt không có vật. Như tấm gương soi mặt mũi, thấy rõ phân minh; nhưng trong cái không mà hiện hình ảnh, chứ trong gương tự nó không có một vật gì. Mặt người không đi vào bộ phận của tấm gương, tấm gương cũng không ra khỏi mình để đi vào mặt người. Nếu nhận ra mặt gương và mặt người liên hệ nhau như thế nào. Không đến, không đi, đó là nghĩa Như Lai.”[34]
5
Ta có thể thấy ngay rằng Bồ-đề-đạt-ma và Đạo Tín cùng nói về một chủ đề từ những góc cạnh khác nhau của hiểu biết. Cái Vô tâm của Bồ-đề-đạt-ma là “Không”, “Tịch tịnh”, “Hoảng hốt”, v.v..của Đạo Tín. Một người dùng những từ ngữ tâm lý học, còn một người thì hướng tới triết học Bát-nhã. Trong khi bài giảng của Bồ-đề-đạt-ma về Vô tâm có thể được coi như còn phù hợp với lề lối tư tưởng Ấn-độ, thì Đạo Tín ít nhiều pha màu tư tưởng Đạo giáo. Tuy nhiên, không có gì riêng biệt của Thiền hiển lộ ở họ. Chính ở Huệ Năng và các môn đệ của ngài, Thiền mới bắt đầu rõ rệt là Trung Hoa, cả trong diễn đạt cũng như giải thích.
Ý thức của Thiền, đặc sắc là sự đốn ngộ của vô niệm, ló dạng trong tâm trí của Huệ Năng. Nếu Bồ-đề-đạt-ma đã dùng chữ vô tâm để chỉ choo vô thức, thì Huệ Năng đã thay thế tâm bằng niệm. Niệm thông thường có nghĩa là “nhớ nghĩ”, “tưởng nhớ”, “suy tưởng về quá khứ”, vân vân, và được dùng như là tương đương với smṛti của Phạn ngữ. Do đó, khi nó được sử dụng liên hệ với vô như vô niệm, thì đây là asmṛti, có nghĩa là “mất hết ý nghĩa” hay “quên lãng” và trong các bản Phạn văn nó được dùng theo nghĩa này. Tuy nhiên, việc dùng chữ vô niệm theo nghĩa “vô thức” và hàm súc một ý nghĩa tâm linh sâu sắc, theo xét đoán của tôi, bắt đầu với Huệ Năng. Vô niệm ở đây không chỉ là quên lãng không nhớ lại một việc làm; nó không chỉ là một từ ngữ tâm lý học. Khi Hụê Năng lấy vô niệm làm sự kiện căn bản nhất của sinh hoạt Thiền, nó phù hợp với ba môn Giải thoát: Không (śūnyatā), vô tướng (animitta) và vô nguyện (apraṇihita); vì đối với môn đệ Thiền, chứng vô niệm tức là chứng giải thoát. Và tự bản chất, đây là từ ngữ Trung Hoa.
Một ý tưởng đặc sắc khác ở Hụê Năng là đốn giáo, trực nhận về thực tại. Theo ngài, nét đặc sắc của chứng nghiệm Thiền là đốn, vì đây là bản chất của chính tuệ giác Bát-nhã. Tiệm giáo do đối thủ của ngài là Thần Tú chủ trương, không thể ứng dụng cho trực quán vốn diễn ra trong tư duy của Thiền. Bát-nhã hoạt dụng theo trực giác hiện tiền, và cái mà nó tiếp nhận được tiếp nhận tức khắc, không có diễn trình của tư duy, giải kết hay liên tục. Như Hụê Năng nói: “Trong giáo lý của ta không có phân biệt định và tuệ; định là thể của tuệ và tuệ là dụng của định. Khi các người có tuệ; định ở trong tuệ. Khi các người có định, tuệ ở trong định. Chúng không phải là một, không phải là hai.” Bằng cách lặn sâu vào hố thẳm của thực tại như thế, Huệ Năng dạy các môn đệ của ngài hãy nhìn ánh sáng hiện tiền của tuệ giác Bát-nhã chớp ngang qua lớp vỏ cứng của ý thức thường nghiệm. Chỉ lặn suông vào hố sâu ấy không phải là chủ đích của pháp môn Thiền; trừ phi định đạt đến cao điểm là đố ngộ, nếu không thì không có Thiền trong đó.
Bây giờ, chúng ta hãy coi Huệ Năng nói gì về vô niệm.[35]
“Thiện tri thức, giáo pháp của ta từ trước đến nay, dù đốn hay tiệm, lập vô niệm làm tông, vô tướng làm thể và vô trụ làm gốc. Vô tướng là gì? Là đối với tướng mà lìa tướng. Vô niệm là đối với niệm mà không niệm. Vô trụ là bản tánh của người. Niệm niệm không dừng nghỉ. Niệm trước rồi niệm sau, niệm niệm tiếp nối không có đoạn tuyệt. Nếu một niệm đoạn tuyệt, thì pháp thân lìa khỏi sắc thân. Niệm niệm trong mọi thời không dừng nghỉ trên một pháp. Nếu một niệm dừng nghỉ thì niệm niệm liền dừng nghỉ, đây gọi là hệ phược. Nơi hết thảy các pháp, niệm niệm không dừng nghỉ, tức là không hệ phược. Vì vậy, lấy vô trụ làm gốc [của đời sống chúng ta].
“Thiện tri thức, bên ngoài lìa hết thảy tướng, gọi là vô tướng. Nếu lìa được tướng, tánh và thể [của vô niệm] vốn là thanh tịnh. Do đó lấy vô tướng làm thể.
“Nơi tất cả ngoại cảnh mà không bị nhiễm – đó gọi là một với vô niệm, nghĩa là, lìa khỏi các cảnh dù chúng hiện tiền trong niệm, bởi vì niệm không sinh ra trong những niệm đối cảnh. Khi tất cả những tư tưởng [tản mác] như vậy bị trừ khử, thì tất cả những nhiễm ô bị quét sạch khỏi niệm. Khi một niệm này hoàn toàn lau sạch, sẽ không còn có sự thọ sinh nữa, kẻ học đạo hãy dụng tâm đừng sao lãng vấn đề này. Khi không nắm vững ý nghĩa này, không chỉ tự mình nhầm lẫn mà còn khiến kẻ khác mê lầm theo và lại còn huỷ báng kinh pháp. Do đó mà lập vô niệm làm tông.
“Khi người ta chỉ lệ thuộc vào danh tự, họ cố tạo ra niệm về trần cảnh, và những tư tưởng ấy đưa đến tà kiến. Hết thảy trần lao vọng niệm từ đó sinh ra. Vì vậy, giáo pháp này lập vô niệm làm tông. Mọi người hãy nên loại trừ những thiên kiến của mình đừng để làm nảy sinh những tư tưởng hệ lụy. Nếu không có niệm, thì cái vô niệm không lập.
“Nói là vô, vậy thì vô cái gì? Niệm là niệm vật gì? Vô là lìa hai tướng, các trần lao. Niệm khởi lên từ Chân Như; Chân Như là thể của niệm, và niệm là dụng của Chân Như. Niệm, cố nhiên khởi từ Chân Như, tuy tức thấy nghe, nhớ, hiểu, mà Chân Như không nhiễm vạn cảnh, thường thường tự tại. Vậy nên kinh Duy ma nói:
“Bên ngoài khéo hay phân biệt các pháp tướng mà nguyên lý cứu cánh nội tại vẫn không lay động.”
Vô niệm, theo Huệ Năng, là cái tên không những chỉ cho thực tại cứu cánh, mà còn chỉ cho trạng thái ý thức trong đó cái cứu cánh tự hiện tiền. Bao lâu ý thức cá biệt của chúng ta còn bị tách rời khỏi thực tại ở đằng sau nó, những nổ lực của nó vẫn là ngã mạn một cách hữu ý hay vô ý, và hậu quả là một cảm giác cô liêu và đau khổ. Phải làm sao cho ý thức liên lạc với vô thức, nếu nó không là vô thức; còn nếu là vô thức, sự quan hệ phải được thể hiện, và sự thể hiện này được gọi là vô niệm.
Những Hán ngữ hay Phạn ngữ một khi được dịch thẳng thường bị hiểu lầm to tát. Vô niệm là một; vì vô niệm mà được hiểu là trạng thái “không tư tưởng” chắc chắn sẽ là một tâm trạng quá nhàm tởm đối với mục đích của Thiền học, hay với mục đích của bất cứ thực tập tâm linh nào. Chúng ta hãy nghe Huệ Năng thêm; ngài tiếp tục giảng giải ý nghĩa vô niệm.
“Thiện trị thức, một lần ngộ là biết ngay Phật là gì. Một khi ánh sáng của trí tuệ soi thấu vào tự tánh tâm địa, thì trong ngoài thảy đều sáng tỏ; mọi vật trở thành trong suốt, và biết được bản tâm của mình. Biết bản tâm tức là giải thoát.
Chứng giải thoát tức là chứng Bát-nhã tam-muội (prajñā-samādhi). Ngộ Bát-nhã tam-muội tức là vô niệm.
“Vô niệm là gì? Là thấy tất cả các pháp mà không chấp trước pháp nào; hiện diện khắp nơi mà không dính mắc nơi nào; tự tính thường tịnh; khiến cho sáu tên giặc chạy ra khỏi sáu cửa mà vào trong sáu trần, nhưng không lìa, không nhiễm; đi và đến tự do. Đấy là chứng Bát-nhã tam-muội, tự tại, giải thoát, gọi là hạnh vô niệm. Nếu không có tư tưởng khởi lên trên bất cứ vật gì, đây là sự đoạn tuyệt của niệm, và như thế là ở trong sự ràng buộc của pháp, tức là biên kiến.
“Ai ngộ pháp vô niệm thì thấu suốt hết thảy vạn pháp. Ai ngộ pháp vô niệm thì thấy được cảnh giới của Chư Phật. Ai ngộ đốn pháp vô niệm là đi đến chỗ quả vị của Phật.”
Giáo pháp vô niệm cùng với đốn ngộ đã là đề tài lôi cuốn nhất trong thời đại Huệ Năng và các môn đệ của ngài. “Đốn ngộ” là Hán dịch của từ Prajñā, và “vô niệm” là cách diễn tả sự chứng ngộ về tánh không (śūnyatā) và bất sinh (anutpāda) của người Trung Hoa. Trong một chiều hướng nào đó, thuyết vô vi của Lão Tử có thể được coi là đang sống trong cái vô niệm của Huệ Năng. Tất nhiên, triết học của đạo Phật có bất sinh (anutpāda), vô nguyện (apraṇihitā), vô hành (anabhisaṃkāra), vô công dụng (anābhogā), v.v.. và vô niệm có thể được coi là xuất xứ từ những khái niệm đó [36]. Tuy nhiên điều chắc chắn rằng Đạo giáo có góp công trong việc thiết lập Phật giáo Thiền tông mà chúng ta quả quyết là sự kiến thiết của thiên tài Trung Hoa.
6
Thần Hội [37] là một trong những đệ tử lớn của Huệ Năng, và chính môn phái ngài nảy nở ngay sau khi thầy mất, vì ngài mạnh dạn đề khởi tiêu chuẩn của “đốn môn” đối nghịch “tiệm môn” của Thần Tú là đối thủ của Huệ Năng. Những trang dưới đây trích từ ngữ lục của Thần Hội.[38]
“Trương Yên Công[39] hỏi: Thiền sư thường nói về pháp vô niệm, khuyên mọi người hãy tu tập theo đó. Vậy vô niệm ấy là hữu hay vô?
“Đ. – Vô niệm không phải là hữu, không phải là vô.
“H. - Tại sao không phải hữu hay vô?
“Đ. – Khi nói là hữu, đây không nói theo nghĩa thế gian thường tình. Khi nói là vô, cũng không theo nghĩa thế gian thường nói. Vì vậy không thể nói vô niệm là hữu hay vô.
“H. - Vậy Đại sư gọi nó là vật gì?
“Đ. – Không thể nói là “vật” gì.
“H. - Nếu vậy, phải nói là gì?
“Đ. - Chẳng thể chỉ cái gì hết. Vì vậy nói là vô niệm. Nó vượt ngoài sự miêu tả. Cái cớ nó được nói đến ở đây hoàn toàn là vì có những câu hỏi đặt ra cho nó. Nếu không nêu lên câu hỏi nào cả, thì sẽ không có nói năng gì về nó. Chẳng khác như tấm gương sáng khi không có vật gì trước nó thì không có ảnh tượng trong nó. Nay những ảnh tượng có thể thấy nơi nó là bởi cớ rằng nó đứng trước vật. Vì vậy mà có các ảnh tượng.
“H. - Nếu gương không có vật trước nó, vậy nó có chiếu sáng hay không?
“Đ. – Ta vừa nói về những vật chiếu sáng của nó, nhưng dù có đứng trước vật hay không, luôn luôn nó vẫn chiếu sáng.
“H. - Nếu nó không có hình tượng, không thể diễn tả bất cứ theo nghĩa nào, vì nó vượt hẳn ngoài hữu và vô, nhưng nếu nó có chiếu sáng, thì chiếu cái gì?
“Đ. – Khi nói gương có chiếu sáng, là vì tự tính của nó có tính sáng ấy. Khi tâm của chúng sinh trong sáng, thì bản tính sáng đầy của trí tuệ sẽ chiếu sáng khắp cả thế gian.
“H. - Nếu đúng vậy, bao giờ có thể có?
“Đ. - Chỉ khi nào nhìn thấy cái vô.
“H. - Phải chăng vô không phải là vật để thấy?
“Đ. – Dù có hành vi thấy, cái được thấy không thể nói là “vật” gì.
“H. - Nếu không nói là “vật gì”, vậy cái thấy là gì?
“Đ. - Thấy chỗ không có “vật gì”; đấy là cái thấy chân thật, cái thấy vĩnh cửu.”
Thần Hội tiếp tục thêm một đoạn nữa:
“H. – Vô niệm nghĩa là gì?
“Đ. – Không niệm hữu và vô, không niệm thiện và ác, không niệm cùng và vô cùng, không niệm cân lường, không niệm Bồ-đề (giác), không hệ niệm nơi Bồ-đề, không niệm Niết-bàn, không hệ niệm nơi Niết-bàn. Đây là những chứng đạt vô niệm.
“Vô niệm[40] ấy không khác Bát-nhã ba-la-mật, và Bát-nhã ba-la-mật không khác với nhất hành tam-muội (ekavyūha-samādhi).[41] Các thiện tri thức, nếu có kẻ trong hàng hữu học ôm giữ một niệm trong tâm, niệm ấy có thể dẫn tới chỗ Chính giác, nhưng khi cả đến một niệm như thế không còn khởi lên trong tâm, Chính giác cũng sẽ không còn nữa, và đấy chính là vô niệm. Trong vô niệm không có cảnh giới.[42] Nếu có, không tuỳ thuận với vô niệm...Ai quán vô niệm, kẻ ấy lau sạch những ô nhiễm của lục tình. Ai quán vô niệm, kẻ ấy đang hướng đến Phật trí. Ai quán vô niệm, kẻ ấy ở trong con đường giữa, trong chính chân lý cứu cánh. Ai quán vô niệm kẻ ấy tức thì tăng trưởng phước đức nhiều như cát sông Hằng. Ai quán vô niệm, kẻ ấy có thể thấy vạn vật. Ai quán vô niệm, kẻ ấy ôm trọn vạn vật trong lòng mình...
“Nếu có người chứng ngộ rốt ráo, người ấy bất động và kiên cố như Kim cang, và vì người ấy đã quán thấy vô niệm, nên dù ở giữa rừng gươm oán tặc đe dọa phanh thây vẫn hoàn toàn ngồi yên lặng. Ngay cả khi Hằng hà sa số chư Phật hiện đến chào đón, tâm y cũng không gợn lên một niệm hoan lạc. Bởi vì bậc tinh tấn dũng mãnh này đã đạt đến không tánh (śūnyatā) và tâm bình đẳng tánh (samacittatā).”
Tự Đạo Vương 嗣道王 muốn biết pháp môn vô niệm dành cho thánh nhân hay phàm phu. Rõ ràng ông nghi ngờ giá trị của pháp môn cao siêu như vậy đối với phàm phu. Thiền sư Thần Hội đáp: “Pháp môn vô niệm dành cho thánh nhân, nhưng nếu phàm phu tự tu tập theo đó, họ không còn là phàm phu nữa.”
Từ ngữ vô niệm không chỉ dành cho bản thân của thực tại cứu cánh, ở đó tâm thức cá biệt tìm thấy căn cơ tối hậu của nó, mà còn dành cho công dụng của thực tại trong tâm chúng ta. Chính nhờ công dụng này mà ý thức tâm lý thường nghiệm của chúng ta có thể lặn sâu vào hố thẳm uyên áo của thực tại. Và công dụng này không tách rời thực tại, cái vô niệm. Ý thức được gọi như thế vốn có thể được coi như là lãnh vực hoạt dụng của vô thức (vô niệm). Nhưng nếu chúng ta dứt mình ra khỏi cội nguồn ấy, tưởng rằng ý thức của mình là một thực tại độc lập và cứu cánh, chúng ta lạc lối và không biết đi hay đứng nơi nào; kết quả là một trạng thái vô cùng ngưng trệ của tâm linh. Dù vậy, Tự Đạo Vương muốn biết vô và niệm có nghĩa là gì.
“Đ. – “Vô” có nghĩa là vô nhị tướng. “Niệm” tức là niệm Chân như.
“H. - Giữa người niệm và Chân Như có sự khác biệt nào?
“Đ. – Không khác biệt giữa hai bên.
“H. - Nếu không có sự khác biệt, tại sao có niệm về Chân Như ấy?
“Đ. – “Niệm” là dụng của Chân Như, và Chân Như là thể của niệm. Vì vậy, vô niệm chính là đạo lý (của pháp môn thiền). Khi chứng đạt (vô niệm) với tất cả sự thấy, nghe, hay, biết của nó, vô niêm ấy vẫn mãi mãi là tịch tĩnh không hư.
7
Với Đại châu Huệ Hải 大珠慧海, 1 vô niệm vẫn tiếp tục là một trong những đề tài thảo luận lôi cuốn nhất. Dù không có gì đặc sắc nơi quan niệm của ngài, ta cũng nên trích một đoạn dưới đây, rút ra từ tác phẩm của ngài nhan đề Đốn ngộ nhập đạo yếu môn luận 2 . Huệ Hải phân biệt tà niệm với chính niệm và nói rằng trong vô niệm có chính niệm chứ không có tà niệm.
“H.- Thế nào là chính niệm?
“Đ. – Chính niệm là niệm Bồ-đề, chính giác.
“H. – Bồ-đề có thể đắc?
“Đ. – Không thể đắc.
“H. – Nếu không thể đắc, làm sao có thể niệm?
“Đ. – Bồ-đề chỉ là giả danh, và không có (thực tại cá biệt tương ứng làm đối tượng để) đắc. Trong quá khứ chứ từng có ai đắc, trong vị lai sẽ không hề có người đắc. Vì là bất khả đắc, nên không có gì để niệm, ngoại trừ chính vô niệm. Đây gọi là niệm chân chính.
“Bồ-đề là không có niệm về bất cứ cái gì (nghĩa là, không vô tâm đối với tất cả). Không có cái gì được niệm tức là vô tâm trong mọi trường hợp...[43] Khi đã hiểu như vậy, thì đạt được vô niệm, và khi đắc vô niệm, thì tự nhiên giải thoát.”[44]
Trong đoạn này, rõ ràng Huệ Hải đồng nhất vô tâm với vô niệm, và vì cả hai là một, có thể dịch là “vô thức” hay “không bận tâm” tuỳ theo trường hợp. Bồ-đề-đạt-ma dùng chữ vô tâm. Huệ Năng và Thần Hội dùng chữ vô niệm. Huệ Hải, ở đây coi cả hai đồng nghĩa, căn cứ theo đó giải thích Bồ-đề và giải thoát. Dù sao, mục đích tối hậu của Thiền, nói một cách phổ thông hơn, cốt yếu ở chỗ không chấp trước, bởi vì tất cả mọi cái nằm trong thế giới sai biệt này đều có thể miêu tả bằng cách này hay cách khác nhưng không cách nào rốt ráo. Thực tại rốt ráo vượt lên hết thảy mọi phạm trù, và do đó, vượt ngoài khả năng tư duy và sở đắc, hoá cho nên, không thể diễn tả, ngọai trừ gọi nó là “vô tâm” với hai ý nghĩa, như là hình dung (to be unconscious) và danh từ (the Unconsious). Dưới đây là một thí dụ, nói lên đường lối mà Huệ Hải vận dụng để khai thị cho môn đồ và những người hỏi đạo về thuyết lý “Vô tâm” hay vô vi của ngài.
“Sư thường nói với các đệ tử: ‘Ta chẳng hiểu Thiền, và cũng chẳng có một pháp gì để chỉ bày cho các người. Vì vậy, các người khỏi phải mất công đứng lâu ở đây. Hay nhất là các người hãy tự mình giải quyết vấn đề.’ Nhưng người học càng ngày càng đến sư đông hơn, hỏi han sư suốt cả ngày đêm. Sư chẳng có cách nào hơn là phải trả lời hết câu này đến câu khác. Biện tài của sư lưu loát tuyệt vời.[45]
“Một hôm, có một vài vị pháp sư đến tham kiến, và nói: ‘Chúng tôi muốn hỏi ngài một câu; ngài có thực tâm khơi sáng cho chúng tôi chăng?’
“Sư: ‘Bóng trăng dưới ao sâu, hãy tự tiện mà vớt lên.’
“Pháp sư hỏi: ‘Phật là ai?’
“Sư: ‘Ao trong đối mặt; chẳng phải Phật, thì là ai?’
“Cả bọn bối rối. Sau một đỗi, họ lại hỏi: ‘Sư nói pháp gì để độ người?’
“– Bần đạo chưa từng có một pháp gì để độ người.’
“– Hết thảy Thiền gia đều như vậy.’
“Bấy giờ sư mới hỏi: ‘Đại đức nói pháp gì để độ người?’
“– Chúng tôi giảng kinh Kim cang Bát-nhã.
“– Giảng đã bao nhiêu lần?
“– Trên hai chục lần.
“– Ai thuyết kinh này?
“Vị pháp sư lên giọng: ‘Thiền sư chứ có đùa. Kinh há không phải do Phật thuyết ư?’
“Sư: ‘Kinh nói, nếu bảo rằng Như Lai có pháp gì để thuyết, ấy là huỷ báng Phật. Người ấy không ý nghĩa mà Ta nói.’[46] Nếu bảo kinh này không do Phật thuyết, ấy là huỷ báng kinh. Xin Đại đức hãy nói rõ chỗ này.’
“Các vị pháp sư không trả lời được. Một lát sau, sư lại hỏi: ‘Kinh nói, Nếu do sắc mà thấyTa, bằn âm thanh mà tìm Ta; người ấy hành tà đạo, không thể thấy Như Lai.[47] Đại đức hãy nói, cái nào là Như lai?’
“ – Đến chỗ này, chúng tôi bị mê mờ.’
“ – Xưa nay chưa có gì để ngộ, thì có cái ghì để mê?’
“ – Xin Thiền sư giảng giải cho.’
“ – Đại đức nói đã giảng kinh này trên hai chục lần, nhưng lại chưa biết Như lai sao?’
“Vị pháp sư làm lễ một lần nữa, và khẩn cầu sư chỉ giáo.
“Sư: – ‘Như lai, đó là các nghĩa Như (tathātā) của các pháp.[48] Sao lại có thể quên?’
“ – Vâng phải, đó là nghĩa Như của các pháp.
“ – Nhưng, thưa chư Đại đức, cái ‘vâng phải’[49] của các ngài chưa nhất thiết là rốt ráo.
“ – Tại sao không thể là rốt ráo? Điều đó được nói phân minh trong Kinh văn.
“- Đại đức có phái là Như không?
“ – Thưa phải.
“ – Gỗ, đá có phải là Như không?
“ – Thưa phải.
“ – Như của các ngài cũng đồng với Như của gỗ, đá chăng?[50]
“ – Thưa, không khác.
“ – Nếu vậy, Đại đức và gỗ, đá khác nhau chỗ nào?
Thầy tăng không trả lời được, và phải công nhận là không thắng nổi sư. Sau một lúc, ông lại hỏi:
“ – Làm thế nào để đắc Đại Niết-bàn?
“ – Không tạo nghiệp sinh tử.
“ –Nghiệp sinh tử là gì?
“ – Mong cầu Đại Niết-bàn, xả cấu nhiễm, thủ thanh tịnh, cho rằng có sở đắc và sở chứng, không thoát khỏi đối trị môn, đấy là nghiệp sinh tử.
“ – Làm sao để đắc giải thoát?
“ – Vốn không trói, thì không cần cởi. Làm theo ý muốn, đi theo sở thích, không tạp niệm nào, đây là con đường tối thắng[51].
“– Như Thiền sư Hòa thượng, thật là hy hữu.
“Nói như vậy xong, họ làm lễ và lui ra.”
8
Bởi vì đây không cốt để cập đến một trang lịch sử của tư tưởng Thiền tông trong triều đại nhà Đường (A.D 618-922), tôi sẽ không dẫn chứng thêm nhiều Thiền sư khác, ngoại trừ một Triệu Châu Tùng Thẩm (778-897) và một Lâm Tế (tịch 867) và một vài vị nữa. Vì lẽ, những vị này cũng đủ để cho thấy sự chuyển dịch của giáo nghĩa Thiền, và cuối cùng các Thiền sư đã nổ lực như thế nào để hòa điệu với cách ngữ của Ấn và đường hướng tư tưởng trong các kinh điển.
Sau đây là một đoạn trong bài pháp của Triệu Châu Tùng Thẩm.[52]
“Phật vàng không độ qua lò. Phật gỗ không độ qua lửa. Phật đất không độ qua nước. Phật thứ thiệt ngồi ở bên trong. Bồ-đề và Niết-bàn, Chân như và Phật tính, tất cả là chiếc áo ngoài buộc siết thân thể. Chúng cũng được coi như là phiền não (kleśa). Khi không có vấn đề phải hỏi, không có phiền não. Trong giới hạn của thực tại, trong căn cơ của chân lý tuyệt đối, không có gì cả cho các ngài bám vào. Khi không có một niệm móng khởi bên trong, thì không có lỗi lầm sai quấy nào hết. Muốn đạt đến sâu thẳm của thực tại, chỉ yên lặng ngồi xuống, cứ gì hai hay ba chục năm, nếu mà các ngài vẫn không thấu hiểu nổi, cứ cắt cái đầu của lão tăng đi. Tất cả như mộng, như huyễn, như hoa đốm giữa trời, ích gì mà nhọc công chụp bắt. Khi các ngài có thể giữ cho các tâm niệm không lang thang, muôn pháp đều thành nhất như. Không có vật gì từ ngoài đến, tại sao phải bận rộn? Ích gì mà quanh quẩn, như dê thọc mũi vào mọi chỗ, nhặt lượm bất cứ thứ gì rồi cho vào miệng? Khi lão tăng ở với Thạch Đầu,[53] mỗi khi có ai hỏi, ngài thường nói: “Câm mồm lại, đừng sủa như chó!” Lão tăng theo gương đó, mà nói: “Câm mồm lại, đừng sủa như chó!” Chấp thủ ngã là cáu bẩn; không chấp thủ ngã là tịnh.[54] Các ngươi như một con chó săn, chỉ muốn có cái gì bỏ vào mõm. Vậy đến bao giờ mới hiểu Phật pháp? Một nghìn, cho đến hàng chục nghìn người, đều là những kẻ đang đi tìm Phật. Trong đó, không có lấy một người đáng gọi là chân nhân. Nếu các ngươi muốn là đệ tử của Không Vương, chớ để cho tâm vướng phải bịnh ngặt nan y. Khi thế giới chưa có, tính này đã có; khi thế giới này hủy hoại, tính này vẫn không hoại. Một khi ta tham kiến lão tăng này, ta là ta chứ không ai khác. Ta là chủ nhân ông của ta. Các ngươi khỏi cần tìm kiếm chủ nhân ông đó ở thế giới bên ngoài. Chủ nhân ông ở ngay đây, chớ có quay đầu thay đổi não mà bỏ lở cơ hội tham vấn.”
Ngữ lục của Triệu Châu phần lớn gồm những “vấn đáp” chứ không có nhiều bài pháp. Nếu có, thì rất ngắn và chỉ thẳng.
***
Một hôm, Sư thượng đường, sau một đỗi, vẫn im lặng. Cuối cùng, Sư nói: “Đại chúng đến đủ cả chưa?”
- Bẩm, đến đủ cả.
- Đợi thêm một người nữa đến, ta sẽ nói.
Một thầy tăng nói:
- Con sẽ báo Hòa thượng biết khi không còn ai đến nữa.
Sư nhận xét:
- Rất khó được người.[55]
***
Một lần khác, Sư thị chúng: “Tâm sinh, tức mọi pháp sinh. Tâm diệt tức mọi pháp diệt. Thế thì các ông nói cái gì?”
Một thầy tăng bèn hỏi: “Nếu không sinh, cũng không diệt, thì sao nhỉ?”
Sư bảo “Ta hứa khả ông một câu hỏi này.”[56]
***
Một hôm, Sư bảo[57]: “Khi các người nói, nó mười phần sáng rõ, nhưng không hoàn toàn thế. Lối đi (đạo) vẫn tối như lúc hoàng hôn.[58] Các người ở đâu?”
Một thầy tăng nói “Tôi không ở bên này hay bên kia.”
“Vậy là ông ở giữa.”
“Ở giữa tức là ở một bên nào đó.”
“Dường như một thời ông đã từng tu hành ở chỗ ta, nên ông mới nói được một câu như vậy. Nhưng ông chưa vượt ngoài ba câu[59]. Dù ông nói vượt, tôi quyết rằng ông chưa. Ông nói sao?”
“Tôi biết dùng ba câu.”
Sư nói: “Tại sao ông không nói sớm?”
***
Một lần khác, Triệu Châu nói: “Đường lớn ngay trước mắt, nhưng khó thấy.”[60]
Một thầy tăng hỏi: “Nó có hình thù gì để người học có thể thấy?”
“Giang nam hay Giang bắc mặc tình ông.”
“Hòa thượng há không có phương tiện nào vì người (làm cho người học hiểu rõ hơn)?
“Ông vừa hỏi cái gì đó?”[61]
***
Một hôm, Triệu Châu thượng đường, bảo chúng tăng: “Đạo lý của cái này khó mà nắm được, và ngay cả một nhân vật dị thường không bị ràng buộc những ý tưởng đối đãi[62] cũng thấy khó vượt những cản trở. Khi ta ở với Tổ Quy Sơn, có một thầy tăng hỏi Tổ: “Ý Sơ Tổ từ Tây đến là gì?” Tổ bảo: ‘Mang cái ghế lại đây cho ta.’ Khi một bậc Tông sư xuất hiện, ngài tiếp đãi vào mọi người bằng chính kiến giải siêu việt của mình[63].”
Bấy giờ một thầy tăng bước lên hỏi Triệu Châu: “Ý Tổ từ Tây đến là gì?”
Sư bảo: “Cây bách trước sân.”
“Xin ngài đừng đem cảnh mà chỉ thị người.”
“Không, ta không đem cảnh chỉ thị người.”
“Ý Tổ từ Tây lại là gì?
Sư : “Cây bách trước sân.”
Sư nói thêm: “Đã chín chục năm rồi[64] từ khi ta ở bên Mã Tổ Đại sư; dưới ngài có hơn 80 viên thiện tri thức, mà mỗi vị đều là bậc chân sư. Nhưng bây giờ ra sao? Những người gọi là sư đó giống như là những cành nhánh nhỏ, càng sinh trưởng càng bỏ xa gốc chính. Vì họ càng lúc càng xa cách các bậc đại hiền,[65] mỗi thế hệ trở thành tệ hơn trước. Nam Tuyền thường nói: ‘Hãy hướng thẳng vào giữa dị loại mà đi.’ Này các ngươi, các ngươi hiểu như thế nào? Hôm nay tôi quan sát những kẻ miệng vàng vọt, ấu trĩ, ở giữa ngã tư đường mà giảng đủ thứ sắn bìm. Họ nhận những cúng dường cung kỉnh của môn đồ, nhiều khoảng đến ba hay năm trăm, họ tự cho là danh sư và gọi kẻ khác là đồ đệ.”[66]
***
Một hôm Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: “Xin một lời ly tứ cú, tuyệt bách phi.”[67]
Nam Tuyền không nói gì hết, lui về phương trượng.
Triệu Châu nói: “Lão Hòa thượng thường thì nói bô bô. Nhưng một hi bị hỏi thì một lời cũng không nói.”
Thị giả bảo: “Tốt hơn, ông đừng có nói điều đó.”
Triệu Châu tát cho một cái.
Bây giờ Nam Tuyền đóng cửa phương trượng, và rải tro chung quanh, bảo chúng tăng: “Nếu các ông nói được một tiếng, cửa này sẽ mở.”
Có nhiều người bầy tỏ sở kiến, nhưng không có ý của ai phù hợp với Nam Tuyền hết.
Triệu Châu kêu lên: “Trời ơi! Trời ơi!”
Nam Tuyền bèn mở cửa.
9
Lâm Tế là một trong những bậc thầy lớn nhất của thế kỷ XIX; tông phái của Sư vẫn còn phát triển tại Nhật Bản và Trung Hoa, dù ở Trung Hoa Thiền bây giờ đang hồi gần như tàn tạ. Ngữ lục của Lâm Tế[68] được nhiều người xem là quyển sách Thiền mạnh bạo nhất mà chúng ta có. Một trong những bài pháp của ngài Sư nói[69]:
“Điều cốt yếu trong việc học hỏi Phật pháp bây giờ là phải có kiến giải chân chính. Nếu có được kiến giải chân chính, người ta không bị nhiễm sinh tử; đi đứng được tự do. Khỏi cần tìm cầu cái thù thắng, mà thù thắng tự nó đến.
“Này các đạo lưu, các đấng Tiên đức xưa thảy đều có con đường nhiếp dẫn mọi người; riêng lối chỉ dạy người của sơn tăng đây, chỉ cốt giúp mọi người không bị mê hoặc. Nếu các ngài muốn dùng, thì cứ dùng, đừng có chần chờ thắc mắc. Ngày nay kẻ học vì bịnh ở chỗ nào mà không thể chứng đắc? Bịnh chính ở chỗ họ không đủ tự tin. Khi các ngài không đủ tự tin, tức thì bị những ảnh ngộ chung quanh dày xéo. Khi bị ngoại cảnh sai sử và lôi kéo, các ngài hết còn có tự do nào nữa. Nếu các ngài không còn mãi miết theo ngoại cảnh, các ngài sẽ được như các đấng Tiên đức xưa[70].
“Các ngài có muốn biết các đấng Tiên đức xưa như thế nào chăng? Họ chẳng khác những người đang đứng ngay trước mặt các ngài nghe ta giảng pháp. Chỉ vì thiếu niềm tin mà mải miết đuổi theo ngoại vật. Và những gì mà các ngài bắt được bằng sự đeo đuổi ấy chỉ là cái tuyệt diệu của văn tự,[71] xa vời cuộc sống của các Tổ đức xưa. Mong sao các đạo lưu đừng nhầm lẫn chỗ này!
“Đời này mà không gặp gỡ, muôn kiếp nghìn đời sẽ lăn tròn trong ba cõi. Đua đòi và ôm ấp những điều vui thú, rồi sẽ phải tái sinh vào bụng dạ của lừa, trâu.
“Các đạo lưu, theo chỗ thấy của sơn tăng đây, cùng với đức Thích-ca không khác. Ngày nay, trăm đường ứng dụng còn thiếu chỗ nào đâu? Sáu nẻo thần quang, chưa từng trắc trở. Nếu thấy được như thế, quả thật là kẻ một đời vô sự.
“Các Đại đức, ba cõi bất an, y như ngôi nhà rực lửa. Đây không phải là nơi ngừng nghỉ lâu dài của các ngài. Con quỷ vô thường dữ tợn đến từng khoảnh khắc, chẳng lựa sang hèn, già trẻ. Nếu các người muốn cùng Tổ và Phật không khác, đừng săn đuổi bên ngoài. Ánh sáng thanh tịnh trên một niệm tâm của các ngái, chính là Pháp thân Phật ngay trong mình đó. Ánh sáng vô phân biệt trên một niệm tâm của các người, chính là Báo thân Phật ngay trong mình đó. Ánh sáng vô sai biệt trên một niệm tâm của các ngài, chính là Hóa thân Phật ngay trong mình đó. Ba thân này không gì khác hơn là kẻ đang nghe pháp của ta ngay trước mặt của các ngài bây giờ đó. Chỉ cần đừng dong ruổi tìm ở bên ngoài thì có công dụng ấy.
“Cứ như kinh luận gia, họ lấy Ba thân làm chuẩn tắc cứu cánh. Theo chỗ thấy của sơn tăng thì không phải vậy. Ba thân ấy chỉ là danh ngôn. Và rồi mỗi thân đều có cái khác nó để mà y tựa. Cổ nhân nói: ‘Thân y tựa nghĩa là lập, quốc độ y cứ thể mà luận.’[72] Vậy Pháp tánh thân và Pháp tánh độ rõ ràng là những phản ánh của ảnh sáng (bản hữu). Các Đại đức, mong sao các ngài hãy nhậ biết kẻ đùa với những phản ảnh ấy chính là suối nguồn của hết thảy chư Phật và khắp mọi nơi đều là quê nhà để trở về của các đạo lưu. Cái sắc thân tứ đại của các ngài không biết nói pháp và nghe pháp. Tì, vị, gan, mật cũng không biết nói pháp và nghe pháp. Hư không cũng không biết nói pháp và nghe pháp. Cái gì biết nói pháp và nghe pháp? Chính là cái sờ sờ trước mắt các ngài đấy, cái không có hình dạng, sảng tỏ một cách lẻ loi; chính cái đó biết bói pháp và nghe pháp.
“Nếu thấy được như thế, thì cùng với Tổ và Phật không khác. Chỉ có điều, trong mọi đời đừng để gián đoạn; chạm mắt đến đâu là thấy nó ở đó. Bởi vì tình bị khuấy, trí bị ngăn, tưởng bị biến, thể bị lay, nên lăn lóc trong ba cõi mà chịu đủ khổ não. Nếu theo chỗ thấy của Sơn tăng, đâu chả là (Đạo lý) sâu xa, đâu chả là giải thoát.
“Các đạo lưu, tâm pháp vô hình nhưng thông suốt cả mười phương. Ở mắt gọi là thấy; ở tai gọi là nghe; ở mũi gọi là ngửi; ở miệng gọi là bàn bạc; ở tay là bắt nắm; ở chân là chạy nhảy. Vốn là một cái tinh minh, phân thành sáu hoà hiệp. Một tâm đã không, tuỳ chỗ mà giải thoát. Sơn tăng nói thế, cốt ý ở đâu? Chỉ cốt mong các ngài thôi dong ruổi theo ngoại cảnh; chỉ vì lẽ săn đuổi không chán đó mà cổ nhân đặt bày cơ cảnh để gạt các ngài.
“Các đạo lưu, nếu các ngài nhận được chỗ thấy của Sơn tăng đây, các ngài có thể ngồi ngay trên đầu của Báo Phật, Hoá Phật; chư Bồ tát trọn vẹn chứng tâm Thập địa chỉ như khách làm thuê; hàng Đẳng giác, Diệu giác tợ hồ những gã mang gông; La hán, Bích chi vẫn còn như hầm phẩn; Bồ-đề, Niết-bàn như cọc trói lừa. Tại sao? Bởi vì, này các Đạo lưu, chỉ vì các ngài chưa đạt đến ba tăng kỳ kiếp trống không, nên mới có những chướng ngại đó. Nếu là hàng Đạo nhân chân chính, trọn vẹn không như vậy. Chỉ những ai có thể tuỳ duyên làm tiêu nghiệp cũ, thì cứ mặc tình mặc áo mang quần, muốn đi là đi, muốn ngồi là ngồi, không một tâm niệm mong cầu Phật quả. Duyên đâu ra thế? Cổ nhân nói: ‘Nếu tác nghiệp mà cầu Phật, thì Phật là cái triệu lớn sinh tử.’
“Chư Đại đức, hãy biết tiếc cái thời gian. Đừng có làm thói lần mò lê lết bên hàng xóm mà học Thiền học Đạo, tìm chữ tìm câu, cầu Phật, cầu Tổ, cầu thiện tri thức. Hãy đắn đo ý đừng để sai lầm. Đạo lưu, chỉ có một cha mẹ, còn đi tìm cầu cái gì nữa? Các ngài hãy phản chiếu lại mình mà xét xem. Đức Phật[73] kể cho chúng ta nghe chuyện Diễm-nhà-đa (Yajñādatta). Y nghĩ rằng mình đã mất đầu, bèn chạy quàng đi tìm kiếm; nhưng khi biết đầu mình chưa hề mất, y thành ra người vô sự. Chư Đạo đức, hãy cứ bình thường, đừng bắt chước trò hề điên dại. Có một bọn trọc điên khùng chẳng biết tốt xấu gì hết, nhìn đâu cũng thấy toàn là quỷ, là thần, chỉ Đông trỏ Tây, cầu mưa cầu tạnh. Cái bọn đó, chắn chắc có ngày mang nợ đến trước mặt Diêm Vương mà nuốt cục sắt nóng. Con trai con gái nhà lành bị một bọn chồn hoang yêu quái ám làm bại hoại mất tinh khí. Thật là lũ mù khốn khổ! Có ngày chúng phải trả nợ gạo cơm.”
Ở đây, chúng ta thấy Lâm Tế như một tay phá hoại thứ đạo Phật ước lệ với những ý tưởng được sắp xếp một cách dung tục theo văn cú Ấn-độ. Sư không thích con đường loanh quanh của các triết gia, bác học khi họ tường trình kinh nghiệm của đạo Phật. Ngài muốn đi thẳng tới đích, phá huỷ mọi chướng ngại trên đường dẫn về thực tại; hươi chày kim cang tả hữu, không những chống lại bọn phân biệt trí, mà chống luôn các thiền sư đương thời. Ngài đứng vời vợi giữa thời nhân, mà thái độ hẳn nhiên cực kỳ hấp dẫn tâm hồn Trung Hoa. Tâm lý Trung Hoa vốn thực tiễn, không thích bị kiềm hãm bởi quá nhiều ước lệ, trí thức các thứ. Nó tạo ra Lão tử và Trang tử, và lại được tái xác nhận bởi Thiền, nhất là trong phương pháp trao Thiền của Lâm Tế. Rất mới mẻ và rất sôi động, người ta thấy Lâm Tế hoàn toàn trần truồng, lột bỏ các thứ hoa hoè trong cuộc vật lộn với Thiền.
Nhưng cùng lúc, nên nhớ kỹ rằng cái thái độ Thiền đối với truyền thống này, và triết lý đạo Phật, như thế có khuyng hướng coi nhẹ việc học hỏi theo thứ lớp của nó, lơ là kinh điển và các thứ siêu hình trong kinh.
10
Những tiết dưới đây sẽ trích dẫn từ các Thiền sư sống khoảng cuối nhà Đường và đầu nhà Tống. Chủ đích là để xem xu hướng phát triển của giáo pháp Thiền khi nó thay thế lần hồi các tông phái Phật giáo khác ở Trung Hoa. Đồng thời chúng ta sẽ ghi nhận có tương quan nào giữa những bài pháp của chúng và những vấn đáp đặt ra cho kinh pháp đặc trưng của Ấn-độ.
Trí Thường [74] bảo tăng chúng: “Nay tôi sắp giảng Thiền. Các ông hãy bước tới đây cả.” Khi họ bước tới, sư tiếp: “Ông nghe hạnh của Quán Âm, khéo ứng các phương sở.”[75]
Một thầy tăng hỏi: “Hạnh của Quan Âm là gì?”
Sư búng ngón tay và nói: “Ông có nghe không?”
Thầy tăng nói: “Có nghe.”
Sư căn dặn: “Một bọn ngây ngô; các ông muốn tìm kiếm cái gì ở đây?”
Nói xong, sư lấy gậy dạt họ ra, rồi cười lớn và bỏ đi vào phương trượng.
[/NEN]