vienquang2

Vô Tự Chân Kinh

Vo Minh

Registered
Phật tử
Tham gia
27/12/17
Bài viết
2,257
Điểm tương tác
377
Điểm
83
Con người luôn PHẢI DỰA vào Lục Căn, Lục Thức, Lục Trần để HỎI hay TRẢ LỜI, hay DIỄN TẢ.
Vô Ngôn là phương pháp mà các Thiền Sư làm cho con người không thế nào DỰA vào Lục Căn, Lục Thức, Lục Trần.

Vô Ngôn KHÔNG PHẢI là KHÔNG NÓI.
Vô Ngôn là NÓI mà KHÔNG DỰA vào Lục Căn, Lục Thức, Lục Trần.

Nói một cách khác,
Vô Ngôn là cách nói của người VÔ NIỆM.

Người VÔ NIỆM nói từ TÂM THANH TỊNH.
Con người nói từ TÂM VIÊN Ý MÃ.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Hoàng

Registered
Phật tử
Tham gia
23/12/23
Bài viết
133
Điểm tương tác
109
Điểm
43
Con người luôn PHẢI DỰA vào Lục Căn, Lục Thức, Lục Trần để HỎI hay TRẢ LỜI, hay DIỄN TẢ.
Vô Ngôn là phương pháp mà các Thiền Sư làm cho con người không thế nào DỰA vào Lục Căn, Lục Thức, Lục Trần.

Vô Ngôn KHÔNG PHẢI là KHÔNG NÓI.
Vô Ngôn là NÓI mà KHÔNG DỰA vào Lục Căn, Lục Thức, Lục Trần.

Nói một cách khác,
Vô Ngôn là cách nói của người VÔ NIỆM.

Người VÔ NIỆM nói từ TÂM THANH TỊNH.
Con người nói từ TÂM VIÊN Ý MÃ.
....
 

khuclunglinh

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
26/12/17
Bài viết
6,449
Điểm tương tác
1,152
Điểm
113
ha ha ha [smile]

19. Này các Tỷ kheo, thế nào là Khổ tập Thánh đế? Sự tham ái --> đứa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Như dục ái, hữu ái, vô hữu ái. - Kinh Trường Bộ

Một Pháp Bảo Đảm Không Tái Sanh

Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ một pháp. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh. Thế nào là một pháp?

Tham, này các Tỷ-kheo, là một pháp,
các Thầy hãy từ bỏ!
Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến. Với tham bị tham đắm, Chúng sanh đi ác thú, Bậc thiền quán, chánh trí, Từ bỏ tham ái ấy, Từ bỏ, không bao giờ Trở lại tại đời này - Kinh Tiểu Bộ



ha ha ah... người còn tham chính mình ... làm sao .. hỏng có TÁI SANH ĐƯỢC ? [smile] ...

Niệm đã KHỞI ĐÓ [smile] ... làm sao QUÊN ĐƯỢC

THAM ÁI .. còn đó ... làm sao CĂN chẳng XÚC TRẦN mà nói là XUẤT TRẦN VÔ NIỆM [smile]

(1) Từ Bỏ Đi .. Nhàm Chán Đi [smile]

HÍ LUẬN là TẬP KHÍ của Vô Minh! HÍ LUẬN chỉ TĂNG TRƯỞNG VÔ MINH!

Vô Minh THẬT KHÔNG THẾ NÀO hết TẬP KHÍ VÔ MINH này. (smile)

Thành thật KÍNH XIN Ban Quản Trị XOÁ BỎ user account của Vô Minh.

Ban Quản Trị XOÁ BỎ user account của Vô Minh mới giúp Vô Minh XOÁ BỎ TẬP KHÍ này.

KÍNH XIN CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG Ban Quản Trị! - VM

ờ mà đúng hông? [smile]
 
Last edited:

An Long

Registered
Phật tử
Tham gia
3/11/21
Bài viết
1,500
Điểm tương tác
209
Điểm
63
Địa chỉ
Nam Định .Việt Nam
KINH LĂNG GIÀ ;
..." -Lại nữa Đại Huệ ! Các Thanh Văn sợ cái khổ của vọng tưởng sanh tử mà cầu Niết Bàn.CHẲNG BIẾT TẤT CẢ TÁNH SAI BIỆT CỦA SANH TỬ,NIẾT BÀN LÀ VỌNG TƯỞNG TÁNH PHI TÁNH,DO CẢNH GIỚI CÁC CĂN THÔI NGHỈ,CHO LÀ NIẾT BÀN,CHẲNG PHẢI CHUYỂN TẠNG THỨC THÀNH TỰ GIÁC THÁNH TRÍ VẬY "...

 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,007
Điểm tương tác
972
Điểm
113
Vô tự Chân kinh. Bài 18.- Ngôn mà Vô Ngôn.- THIỀN NGỮ VÀ HÌNH ẢNH THI CA.

Tôn chỉ của Thiền là "Bất lập Văn Tự".- Thế nhưng Ngôn ngữ Văn Tự, mà Thiền môn dùng để giáo hóa Đạo Thiền lại vô cùng phong phú.

Nhưng đó là một loại: Ngôn mà Vô Ngôn. Văn tự mà siêu xuất Văn Tự. Nghĩa là Vô Ngôn có thể không rời ngôn thuyết. Vô Văn Tự vẫn có thể ở trong Văn Tự.

Để dẫn vào Vô Ngôn, Thật Tướng.- Thiền sư thường dùng những hình ảnh cụ thể làm phương tiện đưa người hành giả đến sự đạt ngộ.

Khi Vô Ngôn Thông được người ta hỏi về thiền và thiền sư, ông đã im lặng lấy tay chỉ vào một gốc cây thoan lư.

Thiền và Thiền sư trong lãnh vực đàm luận chỉ có thể là những khái niệm trừu tượng; gốc cây thoan lư là một hình ảnh cụ thể của thực tại; nếu nhìn thấy gốc cây thoan lư trong chính thực tại của nó tức đã thâm nhập thế giới thiền và trở thành thiền sư.

Các thiền sư không bao giờ muốn đưa học trò mình đi vào thế giới suy luận trừu tượng.

Khi Nam Tuyền hỏi Triệu Châu (hai vị thiền sư Trung Hoa thuộc thế kỷ thứ chín) về chủ ý của Bồ Ðề Ðạt Ma khi qua Trung Hoa, Triệu Châu cũng đã chỉ ra ngoài sân và nói: “Nhìn cây tùng ở ngoài sân”.

Thiền học, vì vậy rất gần với thi ca ở chỗ chú trọng tới hình ảnh mà xem thường những khái niệm trừu tượng.

Thi ca không có hình ảnh thì không còn là thi ca nữa, cũng như đi vào suy luận siêu hình thì thiền không còn có thể là thiền. Cho nên ta không lấy làm lạ khi thấy có những thiền sư dùng những câu thơ làm thiền ngữ. Một thiền sư có tâm hồn thi sĩ tự khắc diễn tả thực chứng bằng thi ca và hướng dẫn thiền giả bằng những hình ảnh thi ca.

Thiền sư Tuyết Ðậu (980 – 1052) ở Trung Hoa là một thi sĩ lớn trong thiền môn. Ông là người đã dựng nên truyền thống lấy hình ảnh thi ca làm thiền ngữ. Sự xuất hiện tại Việt Nam năm 1069 của thiền sư Thảo Ðường, đệ tử thiền sư Tuyết Ðậu, đã khiến cho khuynh hướng thiền ngữ thi ca ảnh hưởng sâu đậm đến thiền học Việt Nam, đặc biệt là trong thiền phái Vô Ngôn Thông. Thảo Ðường đã mang qua Việt Nam các tác phẩm của Tuyết Ðậu vốn thấm nhuần tính chất thi ca, và trong thiền phái Vô Ngôn Thông, nhiều thiền sư như Minh Trí (mất năm 1190) và Quảng Nghiêm (mất năm 1190) rất hâm mộ Tuyết Ðậu Ngữ Lục. Tuy nhiên, trước thiền sư Thảo Ðường, tại Việt Nam có thiền sư Thiền Lão cũng đã dùng những hình ảnh thi ca làm thiền ngữ. Thiền sư Thiền Lão (mất năm 1037) ở chùa Trùng Minh, núi Thiên Phúc, huyện Tiên Du, sau có về núi Từ Sơn dạy học, học chúng quy tụ có hơn một ngàn người. Vua Lý Thái Tông có vào núi thăm thiền sư. Sau đây là cuộc đối thoại giữa hai người:

Vua: Ngài ở đây từ bao lâu rồi?

Thiền Lão:

Sống trong giờ hiện tại

Ai hay năm tháng xưa?

(Ðản tri kim nhật nguyệt

Hà thức cựu xuân thu?)

Vua: Ngài làm gì hàng ngày ở đây?

Thiền Lão:

Trúc biếc hoa vàng đâu ngoại cảnh

Trăng soi mây bạc hiện toàn chân.

(Túy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh

Bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân.)

Vua: Như vậy ý chỉ là gì, xin ngài cho biết?

Thiền Lão: Nói nhiều lời, sợ sau này bất lợi.

Những câu thơ mà Thiền Lão đọc ở đây không phải chỉ là những câu thơ, mà còn là những câu thoại đầu, những lời thiền sư nhằm đánh thức sự tỉnh ngộ của thiền giả. Vua Lý Thái Tông, sau hai câu thiền ngữ, không hiểu được chủ ý của thiền sư và đã hỏi lại. Chính vì tính chất thoại đầu của các câu thơ mà thiền sư đã đáp: Chừng đó lời đã quá đủ, nhà vua chỉ cần tham cứu cho kỹ, nói thêm thì sau sẽ bất lợi (từ đa, vô hậu ích).

Vị thiền sư thi sĩ tài ba nhất của thiền phái Vô Ngôn Thông là thiền sư Viên Chiếu (998 – 1090). Ông họ Mai, tên là Trực, con anh bà Linh Cảm Thái Hậu. Ông rất am tường phương pháp Tam Quán của kinh Viên Giác. Sách Thiền Uyển Tập Anh nói ông thâm đắc “ngôn ngữ tam muội”; các thiền ngữ của ông xuất phát từ thực chứng sâu xa về thiền. Ông là tác giả những cuốn:

– Tán Viên Giác Kinh

– Thập Nhị Bồ Tát Hạnh Tu Chứng Ðạo Trường

– Tham Ðồ Hiển Quyết

– Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn

Cuốn Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn được vua Lý Nhân Tông sai sứ thần đem sang tặng vua Triết Tông nhà Tống. Vua Tống giao sách này cho các thiền sư chùa Tướng Quốc xem và bảo có chỗ nào đáng sửa chữa thì sửa chữa lại. Các vị này xem xong thì tâu vua: “Ðây là đấng hóa thân đại sĩ ra đời ở phương Nam, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, chúng tôi không dám thêm bớt gì nữa”. Vua Tống liền cho sao lại một bản, còn bản chính thì gửi trả lại vua Lý Nhân Tông với những lời khen ngợi. Sau đây là một số thiền ngữ có tính cách thi ca còn được chép lại trong Thiền Uyển Tập Anh, có lẽ là những gì còn lại trong tập Tham Đồ Hiển Quyết, một tác phẩm ghi lại những đề án thiền học. Một vài câu vấn đáp:

Hỏi: Phật và Thánh khác nhau ở chỗ nào?
Ðáp: Cúc trùng dương dưới dậu
Oanh thục khí đầu cành.
(Ly hạ trùng dương cúc
Chi đầu thục khí oanh.)
Hỏi: Kẻ học nhân chưa hiểu, xin thầy dạy lại.
Ðáp: Ngày quạ vàng chiếu rạng
Ðêm thỏ ngọc sáng soi.
(Trú tắc kim ô chiếu
Dạ lai ngọc thố minh.)
Hỏi: Ðã nhận được yếu chỉ
Nhưng huyền cơ ra sao?
Ðáp: Nước đầy bình vạc, chân vô ý
Vấp ngã một lần, hối kịp sao?
(Bất thận hủy bàn kinh mãn xứ
Nhất tao sa điệt hối hà chi?)

Và:

Muốn dìm cho sóng chết
Ai hay thân tự trầm.
(Mạc quán giang ba nịch
Thân lai khước tự trầm.)

Hỏi: Bồ Ðề Ðạt Ma ở núi Thiếu Thất hành đạo đạt đến chỗ huyền diệu sâu thẳm; từ xưa đến nay ai là kẻ thừa kế xứng đáng nhất?
Ðáp: Trời tối sáng soi nhờ nhật nguyệt
Ðất hiểm phân ranh có núi sông.
(U minh càn tượng nhân ô, thố
Khuất khúc khôn duy vị nhạc, hoài.)

Hỏi: Thế nào là một con đường đưa thẳng đến căn nguyên của đại đạo?

Ðáp: Cỏ mạnh đứng bờ cao gió dữ
Nước nhà thời loạn biết trung lương.
(Cao ngạn tật phong tri kỉnh thảo
Bang gia bản đãng thức trung lương.)

Hỏi: Tất cả chúng sinh từ đâu tới và sẽ đi về đâu?

Ðáp: Rùa mù xuyên vách đá
Rùa què leo núi cao.
(Manh quy xuyên thạch bích
Bì miết thượng cao sơn.)

Hỏi: Người ta nói: Khóm trúc xanh xanh kia là Chân như. Vậy công dụng của Chân như là gì?

Ðáp: Ðưa người xa ngàn dặm
Cười tặng một bình trà.
(Tặng quân thiên lý viễn
Tiếu bả nhất bình trà.)

Thiền sư Trí Bảo (mất năm 1190), một thiền sư sống khổ hạnh có đức khiêm nhượng lớn, mỗi khi có người trêu chọc thường chắp hai tay lại, cũng là một thiền sư hay dùng thiền ngữ thi ca. Ông thường ra tay bắc cầu sửa đường mỗi khi gặp cầu hư, đường lở. Trong khi đàm luận với thầy là Ðạo Huệ, ông đã dùng những câu sau đây:

Không nhờ gió cuốn mây trôi hết
Màu xanh sao tỏ một trời thu?
(Bất nhân phong quyện phù vân tận
Tranh kiến thanh thiên vạn lý thu?)

Và:

Quen biết đầy thiên hạ
Tri âm được mấy người?
(Tương thức mãn thiên hạ
Tri âm năng kỷ nhân?)


Thiền sư Tịnh Không (mất năm 1170) chuyên tu hạnh đầu đà, mỗi lần nhập định lâu tới năm bảy ngày. Có một lần kẻ trộm tới, ông chỉ vào thùng phước sương cho kẻ kia lấy tiền. Ðây cũng là một thiền sư thi sĩ. Người ta hỏi Phật là gì, ông đáp:


Nhật nguyệt trời cao soi mọi cõi

Ai hay mây khói phủ non sông.

(Nhật nguyệt lệ thiên hàm trân sát

Thùy tri vân vụ lạc sơn hà?)


Người kia hỏi: Làm thế nào mà hiểu?

Ông đáp: Mục đồng ngủ mãi lưng trâu nọ

Câu chuyện anh hùng biết được sao?

(Mục đồng kỳ quán ngọ ngưu bối

Sĩ hữu anh hùng khoa đắc y)


Hỏi: Ý chỉ của tổ truyền khác với ý chỉ của giáo lý ở chỗ nào?


Ðáp: Chư hầu vạn nẻo đều xuôi Khuyết.

(Vạn lý thê hàng giai triều Khuyết.)


Hỏi: Hòa thượng có sở đắc đặc biệt tại sao không nói cho chúng con nghe?


Ðáp: Ông thổi lửa, tôi vo gạo.

Ông khất thực tôi mang bình

Ai cô phụ ai đâu?


Một hôm ông họp đại chúng lại đọc một bài thơ sau đây:


Trên không manh ngói che

Dưới không đất cắm dùi

Người xách gậy tìm lại

Kẻ mặc áo lạ tới

Khi hành động xúc tiếp

Như rồng nhảy đớp mồi.

(Thượng vô phiến ngõa già

Hạ vô trác chùy địa

Hoặc dị phục trực nghệ

Hoặc sách trượng nhi chí

Ðộng chuyển xúc xử gian

Tợ long dược thôn nhỉ.)


Có một vị tăng bước ra hỏi: “Ngài nói cái gì thế?”.


Ông cười: Ngày ngày đi gặt hái


Kho lúa vẫn rỗng không!

(Nhật nhật khứ hoạch hòa

Thời thời không thương lẫm!)


Thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi cũng chịu ảnh hưởng lối dùng thiền ngữ thi ca, nhưng ít hơn thiền phái Vô Ngôn Thông. Thiền sư Chân Không (mất năm 1100) giỏi về sử học, cũng đã từng cư trú núi Từ Sơn nơi Thiền Lão dạy học. Những thiền ngữ của ông chứa đầy thi vị. Một hôm có vị tăng hỏi: “Diệu đạo là gì?”. Ông nói: “Giác rồi mới biết”. Người kia nói: “Học nhân chưa hiểu được, xin thầy dạy cho”. Ông nói:


Ðến được động tiên sâu thẳm ấy

Linh đơn đổi xác mới quay về.

(Nhược đáo tiên gia thâm động nội

Hoàn đan hoán cốt đắc hoài quy.)

Hỏi: Linh đơn nào mới được chứ?

Ðáp: Vạn kiếp si mê không hiểu thấu

Sáng nay bừng mở nẻo khai minh.

(Tịch kiếp ngu mông vô động hiểu

Kim thần nhất ngộ đắc khai minh.)

Hỏi: Nhưng khai minh thế nào?

Ðáp: Khai minh thấy hết trần gian nọ

Muôn loại sinh linh thảy một nhà.

(Khai minh chiếu triệt ta bà giới

Nhất thiết chúng sinh cộng nhất gia.)


Hỏi: Người ta nói: “Tuy không biện luận nhưng đâu đâu cũng gặp người”. Người đây là ai?


Ðáp: Lửa cháy tàn rồi, tan sạch hết

Non xanh, mây trắng vẫn còn bay.

(Kiếp hỏa đồng nhiên hào mạt tịnh

Thanh sơn y cựu bạch vân phi.)


Hỏi: Sau khi chết xác thân tan rã rồi thì sao?


Ðáp: Xuân đi xuân đến ngờ xuân hết

Hoa nở hoa tàn cũng lại xuân.

(Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận

Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân.)


Người kia đang suy nghĩ thì ông hét một tiếng và nói:


Bình nguyên sau trận cháy

Cây cỏ càng xanh thơm.

(Bình nguyên kinh hỏa hậu

Thực vật các thù phương.)

Người kia bừng tỉnh bèn lạy xuống.


Nói tóm lại: Phương tiện Thiền.- Có thể dùng Văn tự để vượt khỏi Văn Tự. Dùng Ngôn Ngữ để đưa vào Vô Ngôn.- Bởi vì MUÔN PHÁP NHẤT NHƯ.- Mọi Ngôn Ngữ- Văn Tự Thiền để dẫn đến Chân Như- Vô Ngôn, tuyệt lự.
thuyen1.webp
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,007
Điểm tương tác
972
Điểm
113
Vô tự Chân kinh. Bài 19.- Bất Nhị Pháp Môn (kết thúc).

Kinh Duy Ma Cật. Có đoạn nói đến cảnh giới "Vô Ngôn".- Là Bất Nhị Pháp Môn.

Khi ấy ông Duy-ma-cật bảo các vị Bồ-tát:
- Này các nhân giả! Thế nào là Bồ-tát vào pháp môn không hai? Mỗi vị tùy theo sở thích của mình mà nói.
Trong hội có vị Bồ-tát tên là Pháp Tự Tại nói rằng:
- Này các nhân giả, sanh diệt là hai. Pháp xưa chẳng sanh, nay ắt chẳng diệt, được vô sanh pháp nhẫn này, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Đức Thủ nói:
- Ngã, ngã sở là hai. Nhân có ngã nên liền có ngã sở. Nếu không có ngã thì không ngã sở, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Bất Thuấn nói:
- Thọ, không thọ là hai. Nếu pháp không thọ thì không thể được; do không thể được nên không thủ không xả, không tác không hành, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Đức Đảnh nói:
- Nhơ sạch là hai. Thấy thật tánh của nhơ thì không tướng sạch, thuận nơi tướng diệt, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Thiện Túc nói:
- Có động, có niệm là hai. Không động thì không niệm, không niệm tức là không phân biệt. Người thông đạt chỗ này, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Thiện Nhãn nói:
- Một tướng, không tướng là hai. Nếu biết một tướng tức là không tướng, cũng không chấp thủ không tướng, vào chỗ bình đẳng, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Diệu Tý nói:
- Tâm Bồ-tát, tâm Thanh văn là hai. Quán tướng tâm không, như huyễn hóa, không tâm Bồ-tát không tâm Thanh văn, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Phất-sa nói:
- Thiện ác là hai. Nếu chẳng khởi thiện ác, vào mé vô tướng mà thông đạt điều này, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Sư Tử nói:
- Tội phước là hai. Nếu thông đạt tánh tội ắt cùng với phước không khác, dùng trí tuệ kim cương quyết trạch rõ ràng tướng này, không trói không mở, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Sư Tử Ý nói:
- Hữu lậu vô lậu là hai. Nếu được các pháp bình đẳng thì không khởi tưởng lậu vô lậu, không chấp nơi tướng cũng không trụ vô tướng, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Tịnh Giải nói:
- Hữu vi vô vi là hai. Nếu lìa tất cả số thì tâm như hư không, do trí tuệ thanh tịnh không chỗ chướng ngại, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Na-la-diên nói:
- Thế gian, xuất thế gian là hai. Tánh thế gian là không, tức là xuất thế gian. Ở trong kia không nhập không xuất, không đầy không vơi, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Thiện Ý nói:
- Sanh tử Niết-bàn là hai. Nếu thấy tánh sanh tử thì không sanh tử, không trói không mở, chẳng sanh chẳng diệt, người hiểu như thế, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Hiện Kiến nói:
- Tận bất tận là hai. Pháp hoặc cứu cánh tận hoặc bất tận, đều là tướng vô tận; tướng vô tận tức là không, không thì không có tướng tận và bất tận. Người được như thế, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Phổ Thủ nói:
- Ngã vô ngã là hai. Ngã còn không thể được, vô ngã làm sao có thể được? Thấy thật tánh của ngã đó, không lại khởi hai, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Điện Thiên nói:
- Minh vô minh là hai. Thật tánh vô minh tức là minh, minh cũng không thể chấp thủ, lìa tất cả số, ở trong đó được bình đẳng không hai, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Hỷ Kiến nói:
- Sắc, sắc không là hai. Sắc tức là không, chẳng phải sắc diệt mới không, tánh sắc tự không. Như thế thọ tưởng hành thức, thức không là hai, thức tức là không, chẳng phải thức diệt mới không, thức tánh tự không, ở trong đó mà thông đạt được, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Minh Tướng nói:
- Bốn chủng khác, không chủng khác là hai. Tánh bốn chủng tức là tánh không chủng, như mé trước mé sau không, nên mé giữa cũng không. Nếu hay biết các chủng tánh không như thế, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Diệu Ý nói:
- Mắt, sắc là hai. Nếu biết tánh của mắt đối với sắc không tham không sân không si, ấy gọi là tịch diệt. Như thế lỗ tai - tiếng, lỗ mũi - mùi, lưỡi - vị, thân - xúc, ý - pháp là hai, nếu biết tánh của ý đối với pháp không tham không sân không si gọi là tịch diệt, an trụ trong đó, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Vô Tận Ý nói:
- Bố thí, hồi hướng Nhất thiết trí là hai. Tánh bố thí tức là tánh hồi hướng Nhất thiết trí, như thế trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, hồi hướng Nhất thiết trí là hai, tánh trí tuệ tức là
tánh hồi hướng Nhất thiết trí, ở trong đó vào một tướng, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Thâm Tuệ nói:
- Không, vô tướng, vô tác là hai. Không tức vô tướng, vô tướng tức vô tác; nếu không vô tướng vô tác thì không tâm không ý không thức. Đối với một môn giải thoát tức là ba môn giải thoát, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Tịch Căn nói:
- Phật, Pháp, Tăng là hai. Phật tức là Pháp, Pháp tức là Tăng, Tam bảo này đều là tướng vô vi, đồng với hư không, tất cả pháp cũng vậy. Người hay tùy thuận hạnh này, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Tâm Vô Ngại nói:
- Thân, thân diệt là hai. Thân tức là thân diệt. Vì cớ sao? Thấy thật tướng của thân, không khởi thấy thân và thấy thân diệt, thân cùng thân diệt không hai không phân biệt, ở trong kia không kinh không sợ, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Thượng Thiện nói:
- Thân khẩu ý thiện là hai. Ba nghiệp ấy đều là tướng vô tác, thân tướng vô tác tức là khẩu tướng vô tác, khẩu tướng vô tác tức là ý tướng vô tác, ba nghiệp tướng vô tác ấy tức tất cả pháp tướng vô tác. Hay tùy thuận trí tuệ vô tác như thế, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Phước Điền nói:
- Phước hạnh, tội hạnh, bất động hạnh là hai. Thật tánh ba hạnh tức là không, không thì không phước hạnh, không tội hạnh, không bất động hạnh. Ở trong ba hạnh này mà không khởi, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Hoa Nghiêm nói:
- Từ ngã khởi hai là hai. Thấy thật tướng của ngã, không khởi hai pháp, nếu không trụ hai pháp thì không có thức, không có sở thức, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Đức Tạng nói:
- Có tướng sở đắc là hai. Nếu không sở đắc thì không thủ xả. Không thủ xả ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Nguyệt Thượng nói:
- Tối cùng với sáng là hai. Không tối không sáng thì không có hai. Vì cớ sao? Như nhập Diệt thọ tưởng định, không tối không sáng, tất cả pháp tướng cũng lại như thế, ở trong kia bình đẳng mà nhập, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Bảo Ấn Thủ nói:
- Ưa Niết-bàn chẳng ưa thế gian là hai. Nếu chẳng ưa Niết-bàn chẳng chán thế gian ắt không có hai. Vì cớ sao? Nếu có trói ắt có mở. Nếu xưa
không trói thì cầu mở làm gì? Không trói không mở thì không ưa không chán, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Châu Đảnh Vương nói:
- Chánh đạo tà đạo là hai. Người trụ chánh đạo ắt chẳng phân biệt là tà là chánh, lìa hai việc này, ấy là vào pháp môn không hai.
Bồ-tát Nhạo Thật nói:
- Thật không thật là hai. Thật thấy đó còn không thấy thật, huống là chẳng phải thật! Vì cớ sao? Chẳng phải chỗ thấy con mắt thịt, tuệ nhãn mới có thể thấy, mà tuệ nhãn này không thấy không chẳng thấy, ấy là vào pháp môn không hai.
Như thế chư vị Bồ-tát mỗi vị đã nói rồi, mới hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi:
- Thế nào là Bồ-tát vào pháp môn không hai?
Ngài Văn-thù nói:
- Như ý tôi, đối với tất cả pháp không nói không rằng, không chỉ bày không phân biệt, lìa các hỏi đáp, ấy là vào pháp môn không hai.
Khi ấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi ông Duy-ma-cật:
- Chúng tôi mỗi người đã tự nói xong, nhân giả phải nói thế nào là Bồ-tát vào pháp môn không hai?
Bấy giờ ông Duy-ma-cật lặng thinh không nói.
Ngài Văn-thù-sư-lợi khen:
- Lành thay, lành thay! Cho đến không có văn tự ngữ ngôn, đây thật là vào pháp môn không hai.
(hết trích)
++++++
Lời Bàn: “Trong đối thoại về Bất-Nhị-môn này, sự im lặng của Duy Ma Cật được nhận thức là cao nhất, là diễn tả tuyệt vời nhất về Bất Nhị. Nhưng, nhìn từ một hướng khác, nếu không có minh giải từ Văn Thù thì sự im lặng của Duy Ma Cật trở thành vô nghĩa! Cho nên, điều vi diệu ở đây là nói lên được cái không thể nói. Trước, sự im lặng của Duy Ma Cật là diễn đạt của Văn Thù. Sau, sự im lặng của Duy Ma Cật cũng là sự diễn đạt của Văn Thù. Cả hai, Thánh-mặc-nhiên và Thánh-ngôn-ngữ đều cùng hiển thị một thực tướng duy nhất, là thực tướng ly ngôn…”
GS.TS Nguyễn Hùng Hậu có lời nhận thức:​
Thì ra, trưởng giả Duy Ma Cật tuy dùng sự im lặng, nhưng cũng phải có cái hữu-tướng mới có thể trình bày được cái vô-tướng; cũng như ngài Văn Thù Sư Lợi, đã dùng ngôn-ngữ để giãi bày cái vô-ngôn.

Triết lý vô ngôn là triết lý về sự im lặng. Sự im lặng bên ngoài là sự phản ánh sự im lặng bên trong. Chỉ có những người đạt tới một trình độ nhất định mới có được sự im lặng, còn đại đa số là ầm ĩ, ồn ào, khuếch trương, lăng nhăng lít nhít. Dân ta có câu "Thùng rỗng kêu to" là vậy. Nếu lời nói là quí thì yên lặng còn quí hơn nhiều. Tục ngữ thế gian cũng có câu: Ngôn ngữ là bạc, yên lặng là vàng. Những nơi yên lặng nhất là những nơi sâu thẳm nhất. Nguyễn Du cho rằng chân kinh chính là kinh không chữ. Đường Huyền Trang sang Tây Trúc thỉnh kinh lần đầu được toàn kinh không chữ. Để kết luận, tôi xin dẫn ra lời của một vị thiền sư: Bầy chim hót giữa những bông hoa hương thơm ngào ngạt, tiếng chim hót của bầy chim ở đâu, đó là lời, còn hương thơm ngào ngạt, đó là sự im lặng, nơi đó trú ngụ chân lý. (hết trích)

Kính các Bạn. Đây cũng là những tư duy mà VQ mượn của các bậc Thức Giả để làm lời kết cho bài viết Vô Tự Chân Kinh.

Kính chúc Tất cả hành giả đến được Pháp môn Bất Nhị, Chân Như, Vô ngôn, Tuyệt lự.

A Di Đà Phật


VÔ TỰ CHÂN KINH Duyma-10
 

trừng hải

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
30/7/13
Bài viết
1,293
Điểm tương tác
923
Điểm
113
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cầu cho chúng sanh Thường an lạc, đắc Giải thoát, đáo Niết bàn

trừng hải
 

khuclunglinh

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
26/12/17
Bài viết
6,449
Điểm tương tác
1,152
Điểm
113
ha ha ha [smile]

(1) Vạn Pháp ---> Tâm Pháp ---> Vô Ngôn Tự Thuyết [smile]

Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải.

người học đạo phật khi biết quy y pháp .. tự lấy kinh tạng làm chỗ học hỏi ... trong Kinh Pháp Hoa, ông Phật nêu ra một số phương tiện truyền đạt tâm ... một trong những phương tiện đó chính là truyền đạt tâm qua ngôn ngữ .. là phương pháp ông Phật truyền đạt cho hàng Thanh Văn


Thanh Văn nghe pháp bằng ngôn ngữ .. dần đần tìm hiểu được ý nghĩa của Pháp ở trong tâm ...bởi vì trong kinh Phật .. ông Phật thuyết pháp qua tâm ... dần dần hàng Thanh Văn chứng nghiệm được tâm với pháp là một ...

do chứng nghiêm được tâm với pháp là một .. họ bắt đầu nhìn thấy sự vật giống như ông Phật hồi xưa lúc đi tu thấy [smile]

vạn pháp vô ngã ---> quán sát quá trình các pháp "nhiệm trì tự tánh, quỹ sinh vật giải" ... cũng như là quá trình người ta nhập vào cái gọi là VÔ NGÔN TỰ THUYẾT [smile]

đó là lời của CHÂN TÂM [smile] .. bởi vì CHÂN TÂM tuy chẳng nói 1 lời .. nhưng luôn luôn lại xảy ra như vậy "nhiệm trì tự tánh" ...


do đó .. Ông Phật thuyết pháp 49 năm .. và ông thuyết pháp qua tâm ... pháp với tâm là một .... dẫn người học kinh phật nghe lời phật thuyết từ từ tới cảnh giới tự tu hành TẠI TÂM [smile]

Phật đạo tu hành ---> tại tâm [smile] ...

thì đúng hơn .. chính tâm ... là đạo tràng ... là nơi mà các hành giả thập phương chính nghiệm ... vi hiện tượng vạn pháp vô ngã là các các biểu hiện chân thật của CHÂN TÂM .. hiển lộ TỰ TÁNH CHÂN THẬT của mỗi chúng sinh tâm ----> và dù CHÂN TÂM chẳng nói một lời ... các hiện tượng chân thật đó vẫn luôn xảy ra ...

---> ông Phật gọi đó là VÔ NGÔN TỰ THUYẾT [smile]



do đó .. sự im lặng của Cư Sĩ Duy Ma Cật .. ... nói đúng ra .. chẳng phải là ngài Duy Ma Cật chẳng biết gì ...

mà là Ngài ấy đang diễn đạt cảnh giới đã tự tu hành tại tâm .. thâm nhập BỒ TÁT ĐẠO [smile]



(2) Bối Cảnh Kinh Pháp Hoa [smile] ---> Phật im lặng ... dạy Bồ Đề Tâm [smile]

Bối cảnh kinh Pháp Hoa miêu tả các phương tiện ông Phật sử dụng để truyền đạo

- sau khi 40 năm du thuyết giảng đạo ... từ Vườn Lộc Uyển ---> Ta La ... ông Phật thuyết pháp bằng ngôn ngữ [smile] .. dẫn dắt các đệ tử trên Thanh Van Thừa

dẫn dắt họ bằng lời thuyết ... bằng ngôn ngữ ... thâm nhập tâm, pháp, ... rùi TÂM PHÁP [smile]


- Sau 40 năm giảng đạo .. ông Phật trở về Vương Thành, thủ đô nước Ma Kiệt Đà ... ông Phật "YÊN LẶNG"

Nói kinh Đại-thừa này
Sau khi Phật yên lặng
Tuyên bày giúp giáo hóa.
Mỗi vị Sa-di thảy Số chúng sanh mình độ


Các vị đó lại nghĩ : "Nay đức Phật yên lặng chẳng thấy dạy bảo, chúng ta phải làm thế nào?"

do đó .. qua sự yên lặng .. ông Phật từng bước chuyển hoá tâm của hàng THANH VĂN thành Bồ Tát Tâm [smile] ...lắng nghe ... lời tự thuyết của CHÂN TÂM .. thâm nhập tự tu hành tại tâm ... thực hành Bồ Tát Đạo [smile]

bởi vì cốt lõi của đạo phật là giải thoát chúng sinh ra khỏi khổ ... sanh tử luân hồi .. sanh lão bịnh khổ [smile] .. cho nên .. đó là con đường thực hành và chứng nghiệm HOÁ THÂN .. HÓA TÂM [smile]

ờ mà đúng không? [smile]
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,007
Điểm tương tác
972
Điểm
113
ha ha ha [smile]

(1) Vạn Pháp ---> Tâm Pháp ---> Vô Ngôn Tự Thuyết [smile]

Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải.

người học đạo phật khi biết quy y pháp .. tự lấy kinh tạng làm chỗ học hỏi ... trong Kinh Pháp Hoa, ông Phật nêu ra một số phương tiện truyền đạt tâm ... một trong những phương tiện đó chính là truyền đạt tâm qua ngôn ngữ .. là phương pháp ông Phật truyền đạt cho hàng Thanh Văn


Thanh Văn nghe pháp bằng ngôn ngữ .. dần đần tìm hiểu được ý nghĩa của Pháp ở trong tâm ...bởi vì trong kinh Phật .. ông Phật thuyết pháp qua tâm ... dần dần hàng Thanh Văn chứng nghiệm được tâm với pháp là một ...

do chứng nghiêm được tâm với pháp là một .. họ bắt đầu nhìn thấy sự vật giống như ông Phật hồi xưa lúc đi tu thấy [smile]

vạn pháp vô ngã ---> quán sát quá trình các pháp "nhiệm trì tự tánh, quỹ sinh vật giải" ... cũng như là quá trình người ta nhập vào cái gọi là VÔ NGÔN TỰ THUYẾT [smile]

đó là lời của CHÂN TÂM [smile] .. bởi vì CHÂN TÂM tuy chẳng nói 1 lời .. nhưng luôn luôn lại xảy ra như vậy "nhiệm trì tự tánh" ...


do đó .. Ông Phật thuyết pháp 49 năm .. và ông thuyết pháp qua tâm ... pháp với tâm là một .... dẫn người học kinh phật nghe lời phật thuyết từ từ tới cảnh giới tự tu hành TẠI TÂM [smile]

Phật đạo tu hành ---> tại tâm [smile] ...

thì đúng hơn .. chính tâm ... là đạo tràng ... là nơi mà các hành giả thập phương chính nghiệm ... vi hiện tượng vạn pháp vô ngã là các các biểu hiện chân thật của CHÂN TÂM .. hiển lộ TỰ TÁNH CHÂN THẬT của mỗi chúng sinh tâm ----> và dù CHÂN TÂM chẳng nói một lời ... các hiện tượng chân thật đó vẫn luôn xảy ra ...

---> ông Phật gọi đó là VÔ NGÔN TỰ THUYẾT [smile]



do đó .. sự im lặng của Cư Sĩ Duy Ma Cật .. ... nói đúng ra .. chẳng phải là ngài Duy Ma Cật chẳng biết gì ...

mà là Ngài ấy đang diễn đạt cảnh giới đã tự tu hành tại tâm .. thâm nhập BỒ TÁT ĐẠO [smile]



(2) Bối Cảnh Kinh Pháp Hoa [smile] ---> Phật im lặng ... dạy Bồ Đề Tâm [smile]

Bối cảnh kinh Pháp Hoa miêu tả các phương tiện ông Phật sử dụng để truyền đạo

- sau khi 40 năm du thuyết giảng đạo ... từ Vườn Lộc Uyển ---> Ta La ... ông Phật thuyết pháp bằng ngôn ngữ [smile] .. dẫn dắt các đệ tử trên Thanh Van Thừa

dẫn dắt họ bằng lời thuyết ... bằng ngôn ngữ ... thâm nhập tâm, pháp, ... rùi TÂM PHÁP [smile]


- Sau 40 năm giảng đạo .. ông Phật trở về Vương Thành, thủ đô nước Ma Kiệt Đà ... ông Phật "YÊN LẶNG"

Nói kinh Đại-thừa này
Sau khi Phật yên lặng
Tuyên bày giúp giáo hóa.
Mỗi vị Sa-di thảy Số chúng sanh mình độ


Các vị đó lại nghĩ : "Nay đức Phật yên lặng chẳng thấy dạy bảo, chúng ta phải làm thế nào?"

do đó .. qua sự yên lặng .. ông Phật từng bước chuyển hoá tâm của hàng THANH VĂN thành Bồ Tát Tâm [smile] ...lắng nghe ... lời tự thuyết của CHÂN TÂM .. thâm nhập tự tu hành tại tâm ... thực hành Bồ Tát Đạo [smile]

bởi vì cốt lõi của đạo phật là giải thoát chúng sinh ra khỏi khổ ... sanh tử luân hồi .. sanh lão bịnh khổ [smile] .. cho nên .. đó là con đường thực hành và chứng nghiệm HOÁ THÂN .. HÓA TÂM [smile]

ờ mà đúng không? [smile]
hs2.webp


.......................................................................................................Mô Phật. - Đúng....
 

Vo Minh

Registered
Phật tử
Tham gia
27/12/17
Bài viết
2,257
Điểm tương tác
377
Điểm
83
DANH TỰ đạt được đều chẳng phải THẬT PHÁP.
Pháp CHẲNG PHẢI DANH TỰ,

CHỈ vì THẾ TỤC HƯ VỌNG GIẢ DANH mà NÓI ra.
KHÔNG Pháp DANH TỰ nói là DANH TỰ.


DANH TỰ là KHÔNG không có gì cả. Không có gì cả ấy CHẲNG PHẢI Đệ nhất NGHĨA.
CHẲNG PHẢI Đệ nhất NGHĨA ấy tức Pháp phàm phu HƯ VỌNG.

THẾ TỤC HƯ VỌNG Ở đâu là Ở đây nè???
 

vienquang2

Administrator
Quản trị viên
Tham gia
12/7/07
Bài viết
1,007
Điểm tương tác
972
Điểm
113
DANH TỰ đạt được đều chẳng phải THẬT PHÁP.
Pháp CHẲNG PHẢI DANH TỰ,

CHỈ vì THẾ TỤC HƯ VỌNG GIẢ DANH mà NÓI ra.
KHÔNG Pháp DANH TỰ nói là DANH TỰ.


DANH TỰ là KHÔNG không có gì cả. Không có gì cả ấy CHẲNG PHẢI Đệ nhất NGHĨA.
CHẲNG PHẢI Đệ nhất NGHĨA ấy tức Pháp phàm phu HƯ VỌNG.

THẾ TỤC HƯ VỌNG Ở đâu là Ở đây nè???
hs2.webp
 

Vo Minh

Registered
Phật tử
Tham gia
27/12/17
Bài viết
2,257
Điểm tương tác
377
Điểm
83
TÂMTẤT CẢ (Tất cả Pháp là Phật Pháp), nhưng TÂM là gì???

Đã có không biết bao nhiêu loại tâm lý học, học thuyết và triết gia tìm cách trả lời TÂM là gì???

Mặc dù KHÔNG AI thấy được TÂM ra sao???

Con người CHỈ là một HỢP THỂ (do DUYÊN SINH KHÔNG THẬT CÓCHỈ…. là…. là HIỆN TƯỢNG BIẾN HIỆN) của NĂM UẨN (sắc, thọ, tưởng, hành, thức).


Nói gọn lại còn hai phần:
TÂM và THÂN là DANH TỰ (HƯ VỌNG) chuyên môn thường dùng trong Phật giáo Nam tông là DANH và SẮC.

TÂM là DANH (HƯ VỌNG) (nama), THÂN là SẮC (HƯ VỌNG) (rupa).

Câu hỏi Ở đây là: TÂMDANH KHÔNG PHẢI là con người.???
Vậy CON NGƯỜI là cái gì Ở ĐÂY nè???

Có người nào đó Ở ĐÂY nè cái gì Ở ĐÂY nè??? tìm cách trả lời GIÙM Đức-Phật (ai tu mà RẢNH THIỆT) cho người KHÁC cũng Ở ĐÂY nè "con người là cái gì Ở ĐÂY nè???" [vô minh smile]

TÂM
là gì???

LIÊN QUAN giữa THÂN TÂM và NGŨ UẨN (cũng HỎNG PHẢI là con người) như sau:

THÂN = SẮC (HƯ VỌNG)

TÂM = thọ, tưởng, hành, thức. (cũng HỎNG PHẢI là con người)


Khi Thế Tôn giảng về DUYÊN KHỞI, Tôn giả Moliya Phagguna hỏi: "Bạch Thế Tôn, Ai cảm xúc? Ai thọ? Ai khát ái? Ai chấp thủ? (Tương Ưng Bộ kinh II, tr. 15-16).

Đức Phật dạy: "Như Lai CHỈ dạy xúc, thọ, ái, thủ..., chớ không dạy NGƯỜI nào (do DUYÊN SINH KHÔNG THẬT CÓ → CHỈ…. là…. là HIỆN TƯỢNG BIẾN HIỆN),

Xúc thọ, ái, thủ..., nên câu hỏi của Tôn giả không phù hợp với định lý DUYÊN KHỞI.

Câu hỏi phù hợp là:

"Do DUYÊN gì???, XÚC sinh? THỌ sinh??? v.v..." (Tương Ưng II, tr.16).

Câu hỏi Ở đây là:

Đức-Phật DẠY xúc, thọ, ái, thủ hay CHÂN TÂM (DANH TỰ????? CHO cái gì Ở ĐÂY nè???
 

khuclunglinh

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
26/12/17
Bài viết
6,449
Điểm tương tác
1,152
Điểm
113
TÂMTẤT CẢ (Tất cả Pháp là Phật Pháp), nhưng TÂM là gì???

Câu hỏi Ở đây là: TÂMDANH KHÔNG PHẢI là con người.???
Vậy CON NGƯỜI là cái gì Ở ĐÂY nè???

Có người nào đó Ở ĐÂY nè cái gì Ở ĐÂY nè???

TÂM
là gì???

"Do DUYÊN gì???, XÚC sinh? THỌ sinh??? v.v..." (Tương Ưng II, tr.16).


Đức-Phật DẠY xúc, thọ, ái, thủ hay CHÂN TÂM (DANH TỰ????? CHO cái gì Ở ĐÂY nè???

ha ha ha[smile]

A hahahahah .. VM học Phật Pháp ... mà cứ coi một môn học như là MÌ ĂN LIỀN vậy ---> điều này chứng tỏ VM cứ BÍ LỐI là tự mình đi tìm PHÁP ĐỐI ĐÃI [smile] ... chứ chưa hề thực chứng .. thực nghiệm [smile] ...

vì lý do đó .. VM cảm thấy hỏng tự tại ... thoải mái .. do đánh mất sự TĂNG TRƯỞNG của sự an vui .. khi học hỏi và tu học phật pháp[ smile]

mà cách đối đãi của VM .. là HỎI OM XÒM ĐỦ KIỂU LÊN [smile] .. cho ra vẻ HIỀN TRIẾT [smile] .. .thì cũng là CÁI KẾT QUẢ mà VM cố tình đang làm ra khác đi [smile] ... cho dù 10 năm sau gặp lại .. cũng là 1 VM như vầy thôi [smile]



Ờ ... để giải thích cho VM một vâdn đế nho nhỏ nè

(1) Thực Tại [smile]


Có hai thực tại.

(i) Thực tại bề ngoài, hay tục đế,



(ii) thực tại cùng tột, chân đế (Paramatthadhamma), hay đệ nhất nghĩa đế. ... Chân Đế = tâm, tâm sở, sắc và Niết Bàn

Thực tại bề ngoài là chân lý chế định, quy ước, thực tại thông thường của thế gian (sammuti sacca). Thực tại cùng tột là chân lý tuyệt đối, trừu tượng (paramattha sacca). - Vi Diệu Pháp

cho nên ... khi VM đặt câu hỏi về NIẾT BÀN [smile] ...thì nên hỏi về các pháp VÔ VI [smile] ... chứ hông nên nói về các SẮC PHÁP

theo ngài A Nậu Lâu Ðà (Anuruddha) ... cái ông này là 1 trong 5 THƯỢNG THỦ ĐẠI ĐỒ TÔN của ông Phật Thích Ca .. còn có tên gọi là THIỀN TĂNG [smile] .. vì ổng rất rành về THIỀN [smile] ...


theo A Nậu Lâu Đà ... thì 28 sắc pháp .. có 18 sắc thật ... và các sắc thật có đặc tính gọi là hữu vi ..và có tam tướng: khổ, vô thường, vô ngã .. có tính chất riêng ...

ngoài ra còn có các tâm pháp do NGHIỆP KHỞI ... cũng là có tam tướng [smile] ... tức là cũng lọt vào hữu vi luôn [smile]


ĐÓ ... Ở ĐÂY vẫn là BÌNH YÊN mà [smile] ... A hhahahahahah

ờ mà đúng hông? [smile]
 
Last edited:

Vo Minh

Registered
Phật tử
Tham gia
27/12/17
Bài viết
2,257
Điểm tương tác
377
Điểm
83
TÂMTẤT CẢ (Tất cả Pháp là Phật Pháp)

Chú giải:
Tất cả Pháp là Phật Pháp là Đệ Nhất NGHĨA ĐẾ.



Đức-Phật DẠY Đệ Nhất NGHĨA ĐẾ (DANH TỰ?????)
CHO cái gì Ở ĐÂY nè?
??
 

Vo Minh

Registered
Phật tử
Tham gia
27/12/17
Bài viết
2,257
Điểm tương tác
377
Điểm
83

TÂMTẤT CẢ (Tất cả Pháp là Phật Pháp)

KHÔNG chúng sinh thì:
CÁI GÌ là "TÂMTẤT CẢ (Tất cả Pháp là Phật Pháp)"
 

khuclunglinh

Well-Known Member
Quản trị viên
Tham gia
26/12/17
Bài viết
6,449
Điểm tương tác
1,152
Điểm
113
ha ha ha[smile]

TÂMTẤT CẢ (Tất cả Pháp là Phật Pháp)
Tất cả Pháp là Phật Pháp là Đệ Nhất NGHĨA ĐẾ.


vậy PHÁP là gì hả VM ? [smile] ... mí lần trươc VM hỏng biết trả lời [smile] ... hôm nay VM có biết pháp là gì chưa ?



ờ mà đúng hông? [smile]
 

Vo Minh

Registered
Phật tử
Tham gia
27/12/17
Bài viết
2,257
Điểm tương tác
377
Điểm
83
Cái gì CÓ là PHẢI BIẾT: "TỪ ĐÂU mà CÓ?????
Cái gì CÓ là PHẢI BIẾT: "CỘI NGUỒN???

CÓ???? "TỪ ĐÂU mà CÓ?????"

VÔ THỦY VÔ MINH???????[/size
]
 

Vo Minh

Registered
Phật tử
Tham gia
27/12/17
Bài viết
2,257
Điểm tương tác
377
Điểm
83
TA??? "TỪ ĐÂU mà CÓ?????"

"Như Lai CHỈ dạy xúc, thọ, ái, thủ...,
CHỚ không dạy NGƯỜI nào
(do DUYÊN SINH KHÔNG THẬT CÓ → CHỈ…. là…. là HIỆN TƯỢNG BIẾN HIỆN), [vô minh smile]
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung: Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP (Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Users search this thread by keywords

  1. https://diendanphatphap.com/diendan/threads/vo-tu-chan-kinh.38703/

TOP 5 Tài Thí

Bên trên