học thiền 1

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Tứ Thiền và 18 cõi nơi Sắc giới :

I - Sơ Thiền:
1-Phạm Chúng
2- Phạm Chuyển
3- Đại Phạm

II – Nhị Thiền :
1- Thiểu Quang
2- Vô Lượng Quang
3- Quang Âm

III – Tam Thiền :
1- Thiểu Tịnh
2- Vô Lượng Tịnh
3- Biến Tịnh

IV – Tứ Thiền :
Cõi chứng của Phàm phu:
1- Phúc Sinh
2- Phúc Ái
3- Quang Quả

Cõi chứng của Ngoại Đạo :
1- Vô Tưởng

Cõi chứng của Thánh Quả
1- Vô Phiền
2- Vô Nhiệt
3- Thiện Kiến
4- Thiện Hiện
5- Sắc Cứu Kính.
----------------------------------
Mến,
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Hải Ấn Đại Định
(Kai-in zammai)


“Hải ấn đại định”, hay như đôi khi được dịch, “định phản chiếu trong đại dương”, là định từ đó kinh Hoa Nghiêm khởi lên, phát hiện một cách thình lình quang cảnh bao la của sự giác ngộ của Phật. Luận Tham Thiền Trở Về Nguồn, một tác phẩm tông Hoa Nghiêm được thông dụng trong các phái Thiền Trung Hoa, nói, “Hải Ấn là tánh giác nền tảng của Chân Như. Khi vọng tưởng chấm dứt, tâm trong sáng và vô số hình tướng đồng thời xuất hiện. Nó giống như đại dương : do gió mà có sóng khởi ; nếu gió dừng nước đại dương lặng sáng, và mọi hình ảnh phản chiếu trong đó.” Như thế, nói theo phương diện tâm, hải ấn đại định ám chỉ tánh giác bình đẳng và khắp cả.

Cuốn thứ hai mươi lăm của kinh Ratnakūta nói, “Như mọi dòng suối chảy vào đại dương, tất cả mọi hiện tượng đi vào ấn của những hiện tượng, như vậy có tên ấn đại dương.” “Ấn của những hiện tượng”, hay “pháp ấn”, ám chỉ ba pháp ấn của Phật giáo. Cuốn thứ hai mươi hai của Luận Đại Trí Độ nói, “Pháp ấn của Phật giáo có ba : thứ nhất, tất cả mọi sự vật hợp tạo sanh ra và diệt mất trong từng khoảnh khắc, tất cả đều vô thường ; thứ hai, mọi sự vật đều vô ngã ; thứ ba là niết bàn vắng lặng.” Cuốn thứ hai mươi của luận ấy nói, “Nếu người ta nghĩ theo một cách phân biệt, đây là mạng lưới của ác ma ; không chuyển động và không trụ trong cách ấy là ấn của pháp.”

Trong tiểu luận này Đạo Nguyên giới thiệu vào hải ấn đại định bằng một đoạn trong kinh Duy Ma Cật và ngữ lục của đại thiền sư Mã Tổ. Theo Mã Tổ, Đạo Nguyên trích kinh theo cách này : “Chỉ bởi sự hợp tạo của nhiều yếu tố hiện tượng mà thân này được tạo thành. Vào lúc nó sanh khởi, chỉ có những yếu tố sanh khởi ; vào lúc nó tan biến, chỉ có những yếu tố tan biến.” Chiến lược phân tích thành những yếu tố là một sách lược Phật giáo để giải tan ý niệm cá thể nội tại của thân (và tâm) như là một cái ngã hay nhân vật ; nó cũng chống lại ý niệm cá thể nội tại của bất kỳ sắc tướng hợp tạo nào. Cùng lúc, trong sự áp dụng rộng lớn của nó, đoạn này ám chỉ đến “thân” của vũ trụ như là một hợp thể độc nhất hay một liên kết những yếu tố, một quan điểm đặc trưng của Hoa Nghiêm. Như Đạo Nguyên làm cho rõ ở sau, cái thấy này về toàn thể liên kết chính là hải ấn đại định.

Kinh mà Đạo Nguyên đã trích còn tiếp tục nói rằng những yếu tố không loan báo sự sanh khởi và biến mất của chúng. Điều này giống như nói rằng chúng không có tự tánh. Ý niệm những hiện tượng sanh và diệt dựa trên tư tưởng phân biệt. Theo Luận Đại Thừa Khởi Tín, phổ thông trong cả Thiền tông và Hoa Nghiêm tông, tỉnh giác có hai mặt : tỉnh giác của Chân Như và tỉnh giác của sanh tử. Mê lầm là bị giam nhốt trong cái sau, trong tư tưởng phân biệt, nó tách biệt những sự vật thành những thực thể biệt lập và như thế nó là một cách tri giác theo đường thẳng, liên tiếp, làm ra những bắt đầu và kết thúc. Nó là mê lầm khi nó được tin – ngấm ngầm hay công khai – rằng nó là tất cả hiện hữu, là cách độc nhất của sự thấy, là diễn tả chân thật của thực tại. Loại tỉnh giác này có bản chất hạn hẹp và loại trừ, tạo ra phân rẽ và xung đột. Để đặt nó vào một viễn cảnh rộng lớn hơn, tỉnh giác về Chân Như (cái như vậy, không có sự hào nhoáng của ý niệm) được trau dồi trong Phật giáo. Rốt ráo, giác ngộ bao gồm cả hai mặt, khiến người ta không bị bắt buộc lầm cho rằng tư tưởng và phân biệt phát hiện toàn thể thực tại, cũng không trở nên bất lực không thể có tri giác có trật tự và lý luận suy diễn.

Phần cuối của đoạn kinh này gợi ý phương pháp đạt đến tổng hợp này : “Khoảnh khắc trước, khoảnh khắc tiếp theo – mỗi khoảnh khắc tiếp nối không chờ đợi cái kế tiếp : yếu tố trước, yếu tố tiếp theo, những yếu tố không chờ đợi nhau. Đây gọi là hải ấn đại định.” Từ “khoảnh khắc” cũng có thể dịch là “tư tưởng” (chữ “niệm” trong tiếng Trung Hoa), và trong những bản văn Sanskrit từ “khoảnh khắc-tư tưởng” hay “khoảnh khắc tâm thức” thường được tìm thấy. Điểm chánh yếu là, như nó được áp dụng trong thiền định của Thiền, có vẻ là cái tỉnh giác về dòng những khoảnh khắc mà không bám níu, không dừng lại để trói buộc, đóng khung chúng thành những cơ cấu hay hình ảnh chấp chặt. Khi chú ý không bị vướng mắc hay trụ vào bất kỳ vật gì đặc trưng hóa một cách ý niệm, tỉnh giác toàn khắp vẫn nguyên là tự do và không bị chướng ngại, như thế dòng những sự kiện phản chiếu rõ ràng và thanh thản trong đó. Trong phần sau của tiểu luận Đạo Nguyên tiếp tục nêu ra thêm những trích dẫn và ám chỉ từ những kinh điển và ngữ lục để khai triển những minh giải về tánh giác và những cách thức củng cố thiền định để đạt đến cái thức về toàn thể tức thời.


Hải Ấn Đại Định

Để là chư Phật chư Tổ, cần thiết phải là hải ấn đại định. Bơi lội trong đại định này, có một thời để thuyết pháp, có một thời để kinh nghiệm, một thời để hành động. Công đức dạo chơi trên đại dương bao hàm việc dạo chơi cho đến đáy ; sự dạo chơi trên đại dương này là dạo chơi đến đáy sâu nhất của đại dương. Hy vọng chuyển sự trôi nổi trên những sóng của sanh tử trở lại về nguồn không phải là “cái này là hành động gì của tâm thức ?”(1) Tuy vậy vượt qua những hàng rào chắn và phá tan những chia cắt từ trước đến giờ vốn là việc của chư Phật, chư Tổ, đây là hải ấn đại định trở lại nguồn cội.

Đức Phật nói rằng thân này được tạo chỉ bởi sự kết hợp của nhiều yếu tố. Vào lúc nó khởi, chỉ là các yếu tố sanh khởi ; khi nó diệt, chỉ những yếu tố diệt. Vào lúc những yếu tố này sanh khởi, chúng không nói “tôi sanh khởi”, vào lúc những yếu tố này diệt, chúng không nói “tôi diệt mất”. Khoảnh khắc trước, khoảnh khắc tiếp theo – mỗi khoảnh khắc tiếp nối không chờ đợi cái kế tiếp : yếu tố trước, yếu tố tiếp theo, những yếu tố không chờ đợi nhau. Đây gọi là hải ấn đại định.

Người ta cần khảo sát và thiền định về lời dạy này của Phật trong chi tiết. Đạt đạo và đi vào chứng ngộ không nhất thiết dựa vào học nhiều hay nói nhiều. Học rộng vẫn còn kẹt trong bốn câu,(2) thì nghiên cứu triệt để vô số giáo lý chỉ để sau cùng đi vào chứng ngộ trong chỉ một dòng hay một câu kệ. Câu nói này còn hơn thế biết bao nhiêu – nó không phải là tìm kiếm bản giác trong tương lai, nó cũng không nuôi dưỡng thủy giác trong chứng ngộ.(3)

Thời của cái gọi là định phản chiếu trong đại dương chính xác là thời của chỉ bởi nhiều yếu tố. Nó là sự diễn đạt của chỉ bởi nhiều yếu tố. Thời này được gọi là kết hợp thành thân này. Cái hình sắc đơn lẻ được kết hợp bởi nhiều yếu tố là cái thân này. Đấy không phải là xem thân là một hình sắc được kết hợp – nó là một kết hợp của nhiều yếu tố ; nó được diễn đạt là sự kết hợp để làm thân này thành thân này.

Khi nó sanh khởi, chỉ có những yếu tố sanh khởi – cái những yếu tố sanh khởi này không bao giờ để lại sự sanh khởi : bởi thế sanh khởi không phải là tỉnh giác nhận thức, không phải là hiểu biết hay tri giác – đây gọi là “chúng không nói tôi sanh khởi”.(4) Trong “không nói tôi sanh khởi”, đó không phải là những cái khác tri giác hay nhận thức, suy nghĩ hay nhận rõ rằng những yếu tố ấy sanh khởi. Thật vậy, khi gặp gỡ một cách siêu xuất, không có việc mất thời cơ trong gặp gỡ. Sanh khởi chắc hẳn là sự xảy đến của thời gian, bởi vì thời gian là sanh khởi. Cái gì đang sanh khởi ? Nó phải là “đã sanh khởi”. Cái đã sanh khởi này nó là thời gian, khiến da, thịt, xương và tủy đều được phát lộ riêng một mình. Bởi vì sanh khởi là sự sanh khởi của tạo thành bởi kết hợp, chính chỉ bởi nhiều yếu tố này nó là cái thân này của sự sanh khởi, nó là “tôi sanh khởi” của sự sanh khởi. Đó không phải chỉ là thấy và nghe nó như âm thanh và hình sắc ; nó là nhiều yếu tố của “tôi sanh khởi”, nó là cái “tôi sanh khởi” không được nói ra. Không nói ra không phải là không diễn đạt, bởi vì diễn đạt thì không phải là việc nói. Thời gian của sanh khởi là những yếu tố này, nó không phải là hai mươi bốn giờ. Những yếu tố này là thời gian của sanh khởi, không phải sự sanh khởi đồng thời của ba cõi.

Thời xưa đức Phật nói, “Đột nhiên lửa sanh khởi.” Sự độc lập của sanh khởi này được diễn đạt là lửa sanh khởi. Một bậc giác ngộ thời cổ nói, “Như thế nào khi sanh khởi và diệt mất không dừng lại.”(5) Thế nên sự khởi diệt này không ngừng, như chúng ta khởi, chúng ta diệt. Nhận xét về không dừng này cần được hiểu một cách tích cực bằng cách để cho nó trở lại với chính nó. Nó khiến cho cái thời gian khi khởi và diệt không dừng này diệt dứt và tiếp tục như là nhịp đập đời sống của các bậc giác ngộ. Khi khởi và diệt không ngừng là khởi và diệt của ai ? Khởi và diệt của ai là dành cho những người có thể được giải thoát bằng thân này…, nó là bấy giờ biểu lộ thân này…, nó là… và chỉ dạy họ,(6) nó là tâm quá khứ bất khả đắc,(7) nó là người đã đạt đến tủy ta, nó là người đã đạt đến xương ta(8) – bởi vì nó là khởi và diệt của ai.

“Khi những yếu tố này diệt mất, chúng không nói ‘tôi diệt mất’ ” – thật vậy, thời gian của việc chúng không nói tôi diệt mất là khi những yếu tố này diệt mất. Diệt mất là sự diệt mất của những yếu tố ; dù nó đang diệt, nó phải là những yếu tố. Bởi vì chúng là những yếu tố, chúng không phải là những phiền não nhiễm ô ngẫu phát ; bởi vì chúng không phải là những phiền não nhiễm ô ngẫu phát, chúng không nhiễm ô. Chính cái không nhiễm ô này là chư Phật và chư Tổ. Các ông cũng là như vậy, một vị Tổ nói – kẻ nào không phải là các ông ? Điều này bởi vì khoảnh khắc trước và khoảnh khắc tiếp theo đều là Tôi. Trong sự diệt mất này phô bày nhiều tay nhiều mắt(9) – được ám chỉ như là “đại niết bàn vô thượng”, “đây gọi là chết”, “tịch diệt”, “là chỗ an trụ”. Thế nghĩa là, nhiều tay mắt như vậy là những phẩm tính của diệt mất.(10) Không nói ‘tôi’ vào lúc diệt, không nói ‘tôi’ vào lúc khởi, đó là không sanh không diệt.

Nó là sự diệt của những yếu tố trước, nó là sự diệt của những yếu tố tiếp theo, nó là khoảnh khắc trước của những yếu tố, nó là khoảnh khắc tiếp theo của những yếu tố. Chúng là những yếu tố trước và tiếp theo những yếu tố khoảnh khắc, chúng là những khoảnh khắc trước và tiếp theo của những yếu tố. Không chờ đợi nhau là những yếu tố khoảnh khắc, không liên hệ lẫn nhau là những yếu tố. Chúng không liên hệ lẫn nhau và không chờ đợi lẫn nhau chỉ là sự diễn đạt tám mươi hay chín mươi phần trăm. Có sự buông bỏ và có sự nắm lấy làm cho bốn đại và năm uẩn của sự tịch diệt biến thành những tay và mắt. Có sự tiến bộ và có sự gặp gỡ làm cho bốn đại và năm uẩn thành con đường. Vào lúc này khắp suốt thân là những tay và mắt, nhưng còn chưa đủ(11) ; toàn thân là những tay và mắt, nhưng còn chưa đủ.(11)

Nói chung, tịch diệt là một phẩm tính của chư Phật và chư Tổ. Về phần bây giờ có nhận xét về sự không liên hệ và không chờ đợi, hãy biết rằng sanh khởi là sanh khởi trong bắt đầu, chặng giữa và chấm dứt ; đó là trường hợp chính thức công khai thì thậm chí một cây kim cũng không được nhận vào ; mà riêng tư kín đáo thì thậm chí một con ngựa và cỗ xe cũng có thể trót lọt.(12) Thế không phải là làm cho tịch diệt chờ đợi hay liên hệ với bắt đầu, chặng giữa và chấm dứt. Cho dù những yếu tố đột nhiên sanh khởi ở nơi tịch diệt, đó không phải là sự sanh khởi của cái tịch diệt, đó là sự sanh khởi của những yếu tố. Bởi vì nó là sự sanh khởi của những yếu tố, chúng không chờ đợi lẫn nhau. Nó cũng không liên hệ tịch diệt với tịch diệt. Tịch diệt cũng là tịch diệt của bắt đầu, chặng giữa và chấm dứt. Đó là trường hợp không sanh nó ra khi gặp gỡ, không phân biệt khi nó có mặt. Cho dù đột nhiên có tịch diệt nơi đã sanh khởi, đó không phải là sự tịch diệt của sanh khởi, đó là sự tịch diệt của những yếu tố. Dù nó có thể là cái đây là của tịch diệt, dù nó có thể là cái đây là của sanh khởi, nó chỉ là hải ấn đại định được gọi là trùng trùng vô tận yếu tố. Sự tu và chứng cái đây là không phải là không có, nó chỉ là cái không nhiễm ô này được gọi là hải ấn đại định. Đại định là sự hiện thực, nó là ban đêm khi người ta quày tay ra sau lưng đụng phải cái gối. Đụng phải cái gối vào ban đêm khi người ta đưa tay ra sau lưng không chỉ là hàng tỷ kiếp – đó là trường hợp trong đại dương tôi duy nhất khai diễn vĩnh cửu kinh Hoa Sen của Diệu Pháp.

Bởi vì nó không nói ‘tôi sanh khởi,’ nó là Tôi, trong đại dương. Mặt trước đang khai diễn một cách vĩnh cửu, nó là một làn sóng vừa động, vô số làn sóng theo ; mặt tiếp theo là kinh Hoa Sen của Diệu Pháp của vô số làn sóng vừa động, một làn sóng động theo.(13) Những “mặt trước và tiếp theo” là Tôi, trên một đại dương – đó giống như nói điểm trước và điểm tiếp theo. “Điểm trước và điểm tiếp theo” là đặt một cái đầu lên trên đầu. Trong đại dương thì không có người ; Tôi, trong đại dương thì không phải là chỗ ở của người trong thế giới, nó không phải là cái mà người trí ưa. Tôi một mình duy nhất trong đại dương – đây là sự diễn bày của duy nhất, vĩnh cửu. Đây là trong đại dương không phải là địa phận của ở giữa, ở trong hay ở ngoài : nó là vĩnh cửu khai diễn kinh Hoa Sen của Diệu Pháp. Dù nó không trụ ở đông, tây, nam hay bắc, nó là thuyền đầy trống không chở trăng về. Sự trở về chân thật này là trở về trực tiếp(14) – ai nói đây là hành động còn lần lữa trong nước ? Nó chỉ là biểu lộ cái thực trong Phật đạo, thế thôi. Cái này được xem là cái ấn đóng lên nước. Hơn nữa, chúng ta nói nó là cái ấn đóng lên bùn. Cái ấn đóng lên nước không hẳn là cái ấn đóng lên đại dương ; nó phải là cái ấn đóng lên đại dương một cách siêu việt. Đây gọi là ấn của đại dương, ấn của nước, ấn của bùn, ấn của tâm. Truyền đạt tâm ấn một cách thanh tịnh, nó đóng lên nước, đóng lên bùn, đóng lên hư không.(15)

Một nhà sư hỏi Tổ Tào Sơn, “Con biết trong kinh có nói đại dương không lưu giữ xác chết – cái gì là đại dương ?” Tào Sơn nói, “Nó chứa mọi cái hiện hữu.” Nhà sư nói, “Tại sao nó không lưu giữ xác chết ?” Tào Sơn nói, “Người không có hơi thở thì không dính mắc.” Nhà sư nói, “Bởi vì nó chứa mọi cái hiện hữu, tại sao người không có hơi thở thì không dính mắc ?” Tào Sơn nói, “Thực ra không phải vô số cái hiện hữu là không có hơi thở.”(16)

Tào Sơn này là huynh đệ của Vân Cư ; ở đây thông điệp cốt lõi của Tào Sơn thật là chính xác. Cái con biết trong kinh có nói ám chỉ lời dạy chân thật của Phật và chư Tổ ; đó không phải là những lời dạy của người phàm, người thánh, đó không phải là lời dạy nhỏ giáo truyền. Đại dương không chứa một xác chết – cái gọi là đại dương này thì không phải là một đại dương bên trong hay một đại dương bên ngoài, và không thể giống như tám biển. Nhưng cái ấy không phải là cái học trò hỏi. Người này chỉ nhận biết cái gì không phải là đại dương, nó không nhận biết cái gì là đại dương. Dù người ta cứ nói chúng là biển, nhưng chúng không được gọi là đại dương. Đại dương không nhất thiết là một vực sâu với nước mặn hay cái gì đó. Nhiều yếu tố phải kết hợp để tạo thành. Làm sao đại dương chỉ là nước sâu ? Vì lý do đó, hỏi đại dương là gì là nói đến đại dương bởi vì đại dương thì cả trời và người chưa biết đến. Về phần không chứa một xác chết, không chứa phải là khi ánh sáng đến, đánh ánh sáng ; khi bóng tối đến, đánh bóng tối.(17) Xác chết là tro hỏa táng ; nó là biết bao lần gặp gỡ mùa xuân mà không đổi tâm. Xác chết là cái gì chưa có ai từng thấy – đó là lý do không biết.

Câu nói của Tào Sơn nó chứa mọi cái hiện hữu nói đến đại dương. Sự diễn tả của thông điệp cốt lõi này không nói rằng một vật gì nó là người chứa mọi cái hiện hữu ; nó đang chứa mọi cái hiện hữu. Nó không nói rằng đại dương chứa mọi cái hiện hữu ; nói ‘nó chứa tất cả những cái hiện hữu’ chỉ đơn giản là đại dương. Dù không được biết như là một vật, trong lúc này nó là mọi cái hiện hữu. Khi chứa đựng, dù là một trái núi, nó không chỉ là đứng trên đỉnh cao nhất ; dù là nước, nó không chỉ là đi dưới đáy biển sâu nhất. Nắm lấy là phải giống cái này, buông bỏ là phải giống cái này. Đại dương của Phật tánh, đại dương của kho tàng Tỳ Lô Giá Na, chỉ là mọi cái hiện hữu.

Dù bề mặt của đại dương không thấy được, không có nghi ngờ gì về hành động bơi lội cùng với nó. Chẳng hạn trong sự phát biểu của Tafuku về một lùm tre, dù nếu đó là một nhánh thẳng, hai nhánh cong, ba nhánh bốn nhánh là đà,(18) dù nếu đó là hành động khiến mọi cái hiện hữu bị bỏ lỡ, tại sao ngài không nói nó là ngàn nhánh cong, vạn nhánh cong, tại sao ngài không nói ngàn lùm, vạn lùm ? Chúng ta chớ quên nguyên lý rằng chỉ duy nhất một lùm tre hiện hữu theo cách đó. Câu nói của Tào Sơn, nó chứa mọi cái hiện hữu thì vẫn là mọi cái hiện hữu.(19)

Về phần câu nói của nhà sư, Tại sao người không có hơi thở thì không dính mắc ? – khi nó là khuôn mặt của sự nghi ngờ sai lầm, nó phải là cái này là hành động gì của tâm thức ? Khi cho đến giờ tôi vẫn nghi ngờ người bạn này, thì chỉ gặp cho đến giờ tôi vẫn nghi ngờ người bạn này. Trong chỗ nào là tại sao người không có hơi thở thì không dính mắc, là tại sao nó không lưu giữ một xác chết. Ở đây chính xác là bởi vì nó chứa mọi cái hiện hữu, tại sao nó không lưu giữ một xác chết ? Chúng ta cần biết rằng chứa không phải là sự dính mắc ; chứa không phải là sự lưu giữ. Dù cho mọi cái hiện hữu là một xác chết, phải là vô số năm không lưu giữ. Nó phải là sự diễn đạt duy nhất của ông sư già này về không dính mắc. Điều Tào Sơn cố gắng nói với câu thực ra không phải vô số cái hiện hữu là không có hơi thở là dù mọi cái hiện hữu không có hơi thở hay không, người ta phải không dính mắc. Cho dù một xác chết là một xác chết, bao giờ có sự thực hành tương tự với học hỏi từ vô số cái hiện hữu, nó phải chứa, nó phải đang chứa. Tiến trình trước và tiến trình tiếp theo, chúng là mọi cái hiện hữu, có hiệu quả của chúng – điều này thì không phải không có hơi thở. Nó là cái được gọi là một người mù dẫn một nhóm người mù. Nguyên lý một người mù dẫn một nhóm người mù là, đúng ra, một người mù dẫn một người mù, một nhóm người mù dẫn một nhóm người mù. Khi một nhóm người mù dẫn một nhóm người mù, đó là cái chứa mọi cái hiện hữu thì được chứa bởi cái chứa mọi cái hiện hữu. Trong Đạo Lớn người ta tiếp tục du hành, nếu nó không là mọi cái hiện hữu, sự thực hành không thành hiện thực. Đây là hải ấn đại định.

TS Đạo Nguyên
----------------------------------------
Chú thích

1. “Cái này là hành động gì của tâm thức ?” là một thiền ngữ thường được dùng để hỏi tư tưởng hay hành động có vẻ hay thực sự tùy tiện ; hoặc nó được dùng để hỏi một ý định hay diễn đạt của tư tưởng hay hành động mà không có giả định trước.

2. “Bốn câu”, tứ cú là có, không, cả hai và không phải cả hai.

3. “Bản giác” là Phật tánh vốn có sẵn trong tất cả chúng sanh ; “thủy giác” là sự chứng ngộ bản tánh này. Trên sự chứng ngộ thủy giác này, sự phân biệt giữa bản giác và thủy giác biến mất.

4. “Những yếu tố sanh khởi không bao giờ để lại sự sanh khởi” – nghĩa là, mỗi khoảnh khắc là mới mẻ, sự trở nên là liên tục : “bởi thế sanh khởi không phải là tỉnh giác nhận thức, không phải là hiểu biết hay tri giác” – kinh nghiệm trực tiếp có tính chất “không để lại sự sanh khởi”, hay sự làm mới lại liên tục, không thể nói là tỉnh giác nhận thức, hiểu biết hay tri giác bởi vì những cái này là những cơ cấu dữ liệu sau sự kiện được nhớ lại từ khoảnh khắc trước của dòng đang chảy. Chúng cũng là sự chỉ bảo của nhị nguyên chủ thể-đối tượng, nó không có trong kinh nghiệm trực tiếp. Như thế sự không đồng hóa với những yếu tố sanh khởi ám chỉ kinh nghiệm tức thời không có sự ý niệm hóa hay đặt tên.

5. Một nhà sư hỏi Razan, “Như thế nào khi khởi và diệt không dừng ?” Razan nói, “Chậc ! Nó là sự khởi diệt của ai ?” (hay “Ai khởi và diệt ?”) (Thong Dong Lục, tắc 43).

6. Kinh Pháp Hoa về “Bậc Đầy Đủ Tất Cả Các Mặt” (Phổ Môn) nói sự hiện thân của lòng bi vũ trụ biểu lộ những thân như vậy cho người có thể giải thoát bởi những thân như vậy để giáo hóa họ. Trong một nghĩa tổng quát, “thực tại” xuất hiện sai khác tùy theo người tri giác. Thế nên Đạo Nguyên nói, “nó là khởi và diệt của ai” trong một nghĩa ám chỉ đến sự tương đối của người tri giác và cái được tri giác.

7. Kinh Kim Cương nói : “Tâm quá khứ bất khả đắc (không thể tìm thấy, không thể nắm lấy) ; tâm hiện tại bất khả đắc ; tâm vị lai bất khả đắc.” Câu hỏi “ai ?” thường được dùng trong thiền định của Thiền để tập trung sự chú ý theo một cách để dẫn đến kinh nghiệm thực tế “tâm không thể tìm thấy”. Sự chọn riêng “tâm quá khứ” ở đây hình như để hướng dẫn sự chú ý vào tánh giác tức thời.

8. “Ngươi đã đạt đến tủy ta, ngươi đã đạt đến xương ta” : theo truyền thuyết Thiền, khi sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma sắp từ giã Trung Hoa, ngài gọi bốn đệ tử đã ngộ và bảo họ phát biểu chỗ hiểu của họ theo từng người một. Khi bốn đệ tử đã phát biểu xong, để trả lời cho họ, Bồ Đề Đạt Ma nói với người thứ nhất, “Ngươi đã đạt đến da ta”, với người thứ hai, “Ngươi đã đạt đến thịt ta”, với người thứ ba, “Ngươi đã đạt đến xương ta”, và với người sau cùng, “Ngươi đã đạt đến tủy ta”. Từ da-thịt-xương-tủy thường được Đạo Nguyên dùng, với nghĩa toàn thể cái đang là, toàn thể kinh nghiệm hay chứng ngộ. Đạo Nguyên không xem chúng là bốn cấp độ hiểu.

9. Nhiều tay nhiều mắt, bồ tát của lòng bi, đức Quán Thế Âm có ngàn tay ngàn mắt để thấy và cứu chúng sanh. Tắc 89 của Bích Nham Lục, mà Đạo Nguyên nhắc lại trong tiểu luận này, cũng được cho là nói đến cái toàn thể : Vân Nham hỏi Đạo Ngô, “Bồ tát Đại Bi làm gì với nhiều tay nhiều mắt như thế ?” Đạo Ngô nói, “Giống như người ban đêm quày tay ra sau lưng đụng phải cái gối.” Vân Nham nói, “Con hiểu.” Đạo Ngô nói, “Thế nào ?” Vân Nham nói, “Tất cả thân là những tay và mắt.” Đạo Ngô nói, “Ngươi nói được một ít, nhưng chỉ tám mươi phần trăm.” Vân Nham nói, “Thầy nói sao ?” Đạo Ngô nói, “Khắp suốt thân là những tay và mắt.”

10. “Diệt mất” là một lời dùng để chỉ “tịch diệt” và niết bàn. Trong phần sau “tịch diệt” được dùng thay cho “diệt mất” để thích hợp hơn.

11. Thay vì “chưa đủ”, có một cách đọc khác là “không phải nó”. Những giải thích xúc cảm, hay bám chấp vào mặt hiện hữu, là không đúng. Xem bài kệ và bình giảng tắc 89 của Bích Nham Lục.

12. Điều này nghĩa là mọi sự hiện hữu một cách có điều kiện (“riêng tư”) trong khi không có gì hiện hữu một cách tuyệt đối (“chính thức”). Nó cũng có nghĩa trí huệ, thấy suốt qua mọi sự, không bám chấp cái gì, nhưng lòng bi có thể sử dụng bất kỳ phương tiện nào thích hợp cho giác ngộ.

13. Đoạn này có thể được giải thích theo cả hai giáo lý Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Theo triết học Hoa Nghiêm, sự tương quan và tương thuộc của mọi sự có nghĩa rằng cái một bao hàm cái nhiều và cái nhiều bao hàm cái một – thế nên, “khi một làn sóng động, vô số động theo ; khi vô số làn sóng động, một động theo”. Một giải thích khác là xem “một” trong nghĩa toàn thể : toàn thể cái một chứa đựng nhiều yếu tố, nhiều yếu tố làm thành cái một. Theo khuôn khổ này, phần đầu (vô số theo một) tiêu biểu giáo lý Hoa Nghiêm trong khi cái thứ hai (một theo vô số) tiêu biểu Pháp Hoa. Nghĩa là Hoa Nghiêm nhấn mạnh nhiều giáo lý khởi lên từ sự giác ngộ toàn khắp của Phật ; Pháp Hoa nhấn mạnh nhiều giáo lý dẫn vào sự giác ngộ toàn bộ của Phật.

14. Biên Niên của Hội Trường Trống Không, một tác phẩm Thiền của Tào Động Trung Hoa, nói trong tắc 17 : “Xoay ánh sáng của tỉnh giác để soi sáng bên trong, bạn trực tiếp trở về : rõ ràng đến nguồn tâm, không lấy hay bỏ”.

15. “Đóng dấu bùn, nước, hư không” : theo vị thầy Tào Động Tenkei Denson, “Dù chúng ta chia nó làm ba ấn theo tiềm năng con người lớn, vừa, nhỏ, thực sự Đạo Lớn có một ấn, không có cái nào khác cả. Nếu bạn đóng lên hư không, không có manh mối hay dấu vết ; nếu bạn đóng lên nước, có vẻ có manh mối ; nếu bạn đóng lên bùn, khuôn dấu hiện ra rõ ràng”. (Hekiganroku Kōgi)

16. Đoạn dịch này căn cứ trên một trích dẫn đã cắt bớt như nó xuất hiện trong một số bản văn của Chánh Pháp Nhãn Tạng. Đạo Nguyên dùng đoạn cắt bớt này là hình thức để gởi đến quan niệm không dính mắc không có nghĩa là hoại diệt. Cắt một trích dẫn để tạo ra một cái gì hoàn toàn khác với bản gốc là điều Đạo Nguyên thỉnh thoảng làm khi nó phù hợp với ý định của ngài.

17. Đoạn này ám chỉ xóa bỏ dính mắc vào sự sai khác và không sai khác, hiện hữu và không hiện hữu.

18. Một nhà sư hỏi Tafuku, “Cái gì là một lùm tre của Tafuku ?” Tafuku nói, “Một nhánh, hai nhánh là đà.” Nhà sư nói, “Tôi không hiểu.” Tafuku nói, “Ba nhánh, bốn nhánh cong cong.” (Truyền Đăng Lục, quyển 11.)

19. Đọc cách khác : thì vẫn là đại dương.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Vô Niệm (Kōshō Uchiyama

Một thiền sư Nhật bản đương thời là thiền sư Kōshō Uchiyama, thuộc dòng Tào Động (Nh. Soto), có viết cuốn sách "Opening the Hand of Thought, Approach to Zen" trong đó sư có trình bày về pháp tu Vô niệm như sau:

***" Khi chúng ta tọa thiền (zazen) có nghĩa là mọi ý nghĩ phải ngưng bặt và đầu óc trống rỗng phải không? Không, dĩ nhiên là không phải thế. Khi mà chúng ta còn sống thì các ý nghĩ khởi lên là điều tự nhiên, ngày cả khi tọa thiền cũng vậy. Điều quan trọng là để chúng tự đến và đi mà ta không theo đuổi chúng hoặc dẹp trừ chúng."

***"Nếu niệm khởi thì chúng ta có phải gắng để dẹp nó không? Nếu làm như vậy tức là chúng ta lập ra ý nghĩ là phải dẹp niệm đó"

`Lấy một thí dụ trong cuộc sống là lái xe hơi. Khi chúng ta lái xe mà trong đầu suy nghĩ đủ thứ chuyện thì sẽ bị rối loạn, căng thẳng và nguy hiểm cho việc lái xe. Muốn giữ cho an toàn thì cần phải thư dãn và tỉnh giác."

***"Tọa thiền là để cho bản thể biểu hiện một cách tự nhiên và thanh tịnh".

***"Niệm khởi là điều tự nhiên. Nhưng khi chúng ta bám vào niệm đó, chạy theo chúng thì là chúng ta đang suy nghĩ."

***"Thế nào là buông xả các niệm? Khi chúng ta suy nghĩ là suy nghĩ về một cái gì đó . Nghĩ về cái gì là dùng ý nghĩ để bám vào cái đó. Không bám vào cái đó tức là buông xả."

Thí dụ niệm 'A' (bông hoa) khởi lên khi ta nhìn thấy bông hoa. Nếu có niệm 'A1' (bông hoa này đẹp) tiếp theo sau thì đó là suy nghĩ, dính mắc. Sau niệm A1 sẽ lại tiếp tục A2, A3 ... Tức là dù có niệm A nhưng nếu không có suy nghĩ nào tiếp theo thì niệm A sẽ tự biến đi nếu ta không dính mắc vào nó. Như vậy là ta buông xả suy nghĩ.

Sư so sánh những trạng thái biến đổi trong tâm ta như là quang cảnh thiên nhiên: có những lúc trời xanh quang đãng, có lúc mây mù, có lúc mưa bão X... những cảnh đó đến rồi tự nó đi, không có gì ta phải bận tâm dính mắc.

----------------------------------------------------
Người Vô niệm không phải là ngây ngây ngô ngô, không biết gì hết. Lục Tổ dạy: "sáu căn tuy có thấy nghe hiểu biết mà không nhiễm muôn cảnh". Gọi là Vô niệm nhưng sáu căn vẫn có "thấy nghe hiểu biết" (kiến văn giác tri) chứ đâu phải là không "thấy nghe hiểu biết" như gỗ đá, chỉ có khác là "không nhiễm". Cư sĩ Thiền tông Bàng Uẩn cũng có nói: "không cùng muôn pháp làm bạn" là cùng ý đó. Được như vậy mới có thể nói: "đối trên các cảnh tâm không nhiễm gọi là vô niệm. Ðối trên niệm thường lìa các cảnh, chẳng ở trên cảnh mà sanh tâm".

Thiền sư Thần Hội là một đệ tử xuất sắc của tổ, đã có công trong việc truyền bá pháp môn của tổ, và cũng có nghi vấn là Thần Hội có dự phần nào trong việc sửa đổi cuốn Pháp Bảo Đàn kinh. Sư đã giảng về Vô niệm một cách sâu sắc như nói rõ Vô niệm là Bát Nhã Ba La Mật, là Phật trí. Tu Vô niệm là chẳng niệm Bồ đề, Bồ đề tâm, Niết bàn. Như vậy sư đã thấy rằng có Vô niệm thì đạt được trí Bát Nhã, lúc đó không còn có niệm nào khác, ngay cả Bồ đề tâm, Niết bàn nữa.

Trong kinh "Văn Thù sư lợi sớ thuyết Ma ha Bát Nhã Ba La Mật" ngài Văn Thù có nói: "Không thấy Bồ tát pháp, cũng không thấy tu hạnh bồ đề và người chứng quả bồ đề."

Nên lưu ý là có ý kiến cho rằng pháp "kiến tánh" của Thiền tông tức là "phát bồ đề tâm", nói như vậy là chưa hiểu rõ về Thiền tông. Tuy rằng "phát bồ đề tâm" là pháp tu quan trọng, nhưng cũng cần biết là mỗi tông phái đạo Phật có đường lối tu khác nhau dù rằng cứu cánh là một.

Nhưng cũng sẽ có câu hỏi được nêu ra là, nếu không dứt niệm chẳng lẽ để cho niệm khởi triền miên mà không lo diệt trừ hay sao. Tổ chỉ rõ là "Ngoài nếu chấp tướng, trong tâm tức loạn", vì vậy nên cần hiểu rõ pháp "Vô tướng" của tổ. Thiền sư Thần Hội cũng nói: "Các nhân giả dụng tâm, tức là dùng pháp điều phục. Nếu dùng pháp điều phục, sao gọi là giải thoát?"

Những vọng niệm chỉ là do tâm mình tạo ra, rồi lại lo diệt chúng, như vậy chỉ là cái vòng luẩn quẩn. Tổ chỉ rõ là vọng niệm là do tự tánh, Phật tánh khởi nên chứ đâu phải là cái gì riêng biệt ngoài tự tánh "tất cả muôn pháp đều từ nơi Tự tánh khởi dụng" . Ngay nơi sóng mà thấy nước, không cần phải bỏ hay diệt trừ sóng mới thấy nước. Tự tánh là cái thể của muôn pháp, những vọng niệm là tướng của tự tánh biến hiện. Nếu chỉ chấp vào tướng thì vọng niệm vẫn khởi, vì vậy phải thấy rõ tự tánh, đạt tới Vô tướng, Vô trụ thì mới không có vọng niệm, chứ không phải là chỉ lo diệt trừ vọng niệm.

Thiền sư Uchiyama, với tên cuốn sách là "Opening the Hand of Thought" dùng một hình ảnh tượng trưng là, ta thường nắm chặt lấy những suy tính, tư duy, vậy muốn hành Thiền thì phải mở nắm tay ra để buông xả những thứ đó. Sư cho rằng tâm mỗi người, với đủ thứ khái niệm, ưa thích riêng biệt, khả năng rất hạn chế. Có buông bỏ được thì tự tánh, tức bản thể, chân tánh, Phật tánh, của mình mới có dịp biểu lộ một cách vô ngại. Sư thấy rằng khi ngồi thiền thì niệm có khởi ta chỉ coi chúng như những đám mây trên trời, chúng đến rồi tự động đi. "Bộ óc của ta nó không ngưng hoạt động, cũng như dạ dầy không ngưng tiêu hóa. Niệm có khởi thì chỉ cần không chạy theo chúng, không dính mắc, không nắm chặt lấy chúng, chứ cũng không cần phải lo diệt trừ chúng. Chỉ biết ngồi thiền mà không quan tâm đến những sự hoạt động đó của bộ óc."


Để nói rõ thêm về pháp tu Vô niệm, tổ Huệ Năng chỉ rõ thêm hai pháp là Vô tướng và Vô Trụ để làm sáng tỏ thêm.

Tổ nói: "Đối trên các pháp mỗi niệm không trụ, tức là không phược (không bị trói buộc), đây là lấy vô trụ làm gốc". Không trụ vào các Niệm nên không còn bị dính mắc, bị chi phối. Còn làm sao không trụ? Tổ chỉ thêm:

"chấp tất cả tướng tức tâm, lìa tất cả tướng tức Phật"

"ngoài lìa tất cả tướng gọi là vô tướng, hay lìa nơi tướng tức là pháp thể thanh tịnh, đây là lấy vô tướng làm thể" . Đó cũng là theo ý kinh Kim Cang:

"Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. (nghĩa: Phàm những gì có tướng đều là hư vọng") (Kinh Kim Cang, đoạn 5)"

Nếu không thấy các pháp là hư vọng, vẫn chấp chặt vào các tướng của muôn pháp và trụ vào đó thì chẳng bao giờ đạt được Vô niệm, dù tìm mọi cách để bặt đường suy nghĩ.

Có ý kiến lại nói Vô tướng là thấy người mà không cần biết đó là đàn ông hay đàn bà, không cần biết tên người đó là gì ... Những ý kiến kỳ lạ như vậy không phải là không có, chỉ những người không chịu tìm hiểu mới làm như vậy.

Thiền sư Huệ Hải còn nói rõ về Vô trụ: "Tâm không trụ là tâm Phật."

"Người đời do mê bên ngoài nên chấp tướng, mê bên trong nên chấp không. Nếu hay nơi tướng mà lìa tướng, nơi không mà lìa không thì trong ngoài chẳng mê"

"Nếu ở tất cả chỗ mà không trụ tướng, ở trong tướng kia, không sanh yêu ghét, cũng không thủ xả, chẳng nghĩ các việc lợi ích thành hoại v.v... an nhàn điềm tịnh, hư dung đạm bạc, đây gọi là nhất tướng tam-muội."

---------------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Trăng trong thùng nước .

Hoàng tử trẻ hỏi thầy dạy thiền:

- Tại sao con phải tọa thiền mới được giác ngộ? Con có thể học. Con có thể cầu kinh. Con có thể suy nghĩ về nhiều việc một cách sáng suốt. Sao còn có chuyện “làm tâm trống trơn” vớ vẩn này?

- Ta sẽ chỉ anh hiểu.

Thầy múc một thùng nước đem ra vườn, dưới vầng trăng tròn sáng, bảo:

- Ta quậy mặt nước, anh thấy gì?

- Những dải ánh sáng.

- Hãy chờ một lát.

Thầy đặt thùng nước xuống. Hai thầy trò đứng nhìn hồi lâu mặt nước phẳng lặng trong chiếc thùng ghép bằng tre. Thầy lại hỏi:

- Bây giờ, anh thấy gì?

Hoàng tử đáp:

- Mặt trăng.

- Cũng thế, ông hoàng trẻ ạ, duy nhất khi tâm đã bình lặng, yên định rồi mới có giác ngộ.

----------------------------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Sư Trí Nhàn vốn là người thông minh lanh lợi, cùng với Qui Sơn ở trong hội Tổ Bá Trượng lâu năm nhưng tham thiền chẳng ngộ. Đến khi Tổ Bá Trượng tịch, Sư lại theo Qui Sơn. Một hôm Qui Sơn bảo Sư:

- Tôi nghe ông ở chỗ Tiên sư Bá Trượng, hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm, đó là ông thông minh lanh lợi, ý hiểu thức tưởng, là cội gốc của sanh tử, Giờ đây ông thử nói một câu trước khi cha mẹ chưa sanh xem?

Sư bị một câu hỏi này liền mờ mịt không đáp được. Trở về liêu, Sư soạn hết sách vở đã học qua, tìm một câu đáp trọn không thể có. Cuối cùng Sư than: “Bánh vẽ chẳng làm no bụng đói!”, bèn đến cầu xin Qui Sơn nói phá. Qui Sơn bảo:

- Nếu tôi nói cho ông, về sau ông sẽ chửi tôi; tôi nói là việc của tôi, đâu dính dáng gì đến ông?

Sư bèn đem những sách vở đã thu thập được ra đốt hết và nói: “Đời này chẳng học Phật pháp nữa, chỉ làm ông tăng bình thường làm việc cơm cháo, khỏi phải nhọc tâm thần”. Sư bèn khóc từ giã Qui Sơn ra đi.

Sư đi thẳng đến Nam Dương, chỗ di tích Quốc sư Huệ Trung. Sư ở đây, một hôm nhân cuốc cỏ trên núi, chợt hòn sỏi văng trúng bụi tre vang ra tiếng, bỗng tỉnh ngộ, phá lên cười. Sư trở về tắm gội, thắp hương nhắm hướng Qui Sơn đảnh lễ, ca tụng: “Hòa thượng thật từ bi hơn cha mẹ, trước kia nếu Ngài vì con nói ra thì làm gì có ngày hôm nay!”

----------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Ngài Pháp Nhãn cùng với Thiệu Tu, Hồng Tiến đi tham học, gặp trời trở tuyết, cùng nhau ở lại viện Địa Tạng của Thiền sư Quế Sâm. Quế Sâm nhân đó gạn hỏi:

- Trong Triệu Luận nói: “Trời đất cùng ta đồng gốc”, vậy núi sông, quả đất cùng với cái chính mình của Thượng tọa là đồng hay khác?

Pháp Nhãn đáp:

- Khác.

Quế Sâm liền đưa hai ngón tay lên. Pháp Nhãn bèn đáp:

- Đồng.

Quế Sâm cũng đưa hai ngón tay lên, rồi đứng dậy đi.

Khi tuyết tan, ba người từ giã đi, Quế Sâm đưa ra cửa hỏi:

- Bình thường Thượng tọa nói: “Ba cõi chỉ là Tâm, muôn pháp chỉ là Thức”, vậy phiến đá trong sân này là ở trong tâm hay ở ngoài tâm?

Pháp Nhãn đáp:

- Ở trong tâm.

Quế Sâm bảo:

- Người hành cước cớ gì lại đem phiến đá để trên đầu tâm?

Sư bí không đáp được.

-------------------------------------------------
Thiền Sư Pháp Nhãn bị gài bẫy trong tình trạng nhị nguyên :"Đồng - Khác", "Trong - Ngoài"
------------------------------------------------

Một cách để phá nhị nguyên:

Có vị tăng hỏi Thiền sư Ba Lăng:

- Ý Phật và ý Tổ là đồng hay khác?

Ba Lăng đáp:

- Gà lạnh lên cây, vịt lạnh xuống nước.

Ba Lăng đã phá cái "Đồng - Khác" bằng "Lên -Xuống" với cái "LẠNH" .
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Thiền sư Pháp Diễn tự thuật:

- Hôm qua lão tăng vào trong thành thấy một giàn xiếc với người gỗ máy, bèn đến gần trước xem, hoặc thấy đẹp đẽ lạ kỳ, hoặc thấy rất xấu xí, chuyển động khi đi khi ngồi, xanh vàng đỏ trắng. Thấy rõ mọi thứ xong, đến khi xem kỹ lại thì vốn là tấm màn vải xanh bọc lại, bên trong có người.

Pháp Diễn nhịn không nổi, liền bước tới hỏi: - Ông tên họ gì?

Đáp: Ông Hoà thượng này, thấy là xong, còn hỏi tên họ làm gì?

Pháp Diễn cứng miệng không biết nói gì nữa !

------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Một người hỏi ngài Manjusri, « Giác ngộ là gì ? » hoặc « Làm thế nào để đạt giác ngộ ? »
Ngài cho một câu trả lời rất sáng suốt và nhẹ nhàng.
Ngài nói, « Tôi không hối thúc bất cứ chúng sinh nào tiến đến Giác Ngộ, bởi vì chúng sinh không khi nào hiện hữu, và không có bản ngã. Bằng chứng là Giác Ngộ và chúng sinh đều giống nhau, không khác. Cái không khác nầy chúng ta gọi là Không. Trong cái Không, chẳng có gì để mà tìm kiếm. »

Kinh:«Lời tiên tri về Ngài Manjusri đạt quả vị Phật ».
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Một vị tu sĩ nhận một đề tài thiền quán từ nơi Đức Phật, và rồi đi vào rừng để thực tập.
Nhưng khi vị ấy không thể nào tiến triển tốt trong việc thực hành thiền (Jhana). Vị ấy quyết định trở về gặp thầy của mình. Trên đường đến gặp đức Phật, vị ấy thấy một ảo giác.
Vị ấy tự nghĩ, « Như là khi mùa nóng bắt đầu, ta thấy những ảo giác hiện diện từ nơi xa, nhưng khi ta đến gần thì chúng tự dưng biết mất, như vậy tính chất của sự hiện hữu chỉ là sanh và diệt » .
Như thế, vị ấy đã thực hành thiền xuyên qua một ảo giác.
Sau khi tắm trong dòng sông, vị ấy ngồi bên bờ sông, dưới bóng cây, gần một thác nước. Vị ấy thấy bong bóng nổi lên và vỡ tan. Vị ấy tự nghĩ, « Đây là sự hiện hữu có mặt và mất đi. » Và như vậy, vị ấy đã biết sử dụng đề tài thiền quán. Sau đó, đức Phật mới nói bài kệ như sau :

Phenupamam kaayamimam viditvaa
Mariicidhammam abhisambudhaano
Chetvaana maarassa papupphakaani
Adassanam maccuraajassa gacche

Ý nghĩa của bài kệ trên là :

Người nào biết rõ thân mình như bọt nước, người ấy hiểu rõ thực chất của ảo giác là gì, người ấy có thể tiêu diệt những cuống hoa ham muốn và rời xa thần chết.


------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
40 bài thực tập thiền trong Con đường Thanh Tịnh hoá

Nếu một người không có thầy để dạy thiền về một đề tài nào đó, thì người này cần dựa vào sự hiểu biết và bản tánh của mình để mà tìm một đề tài thiền thích hợp. Có bốn mươi bài thực tập thiền(kammatthana)thích hợp cho từng loại bản tánh, được vị thầy vĩ đại Buddhaghosa ghi chép ra. Với mục đích thiền , ngài Buddhaghosa lưu ý đến sáu cá tánh : trung thành, thông minh, có tính chất suy đoán (nơi đây những gốc rễ tốt của không tham, không sân , và không si mê có ưu thế khác nhau theo từng trường hợp); tham lam, ghét bỏ, và si mê (nơi đây tham, sân, si chiếm ưu thế). Vấn đề ở đây có hai phần : thứ nhất, rất ít loại “thanh khiết” được tìm thấy, phần đông con người có lẫn lộn cả hai hoặc nhiều cá tánh – hơn nữa những lẫn lộn này luôn trên đà thay đổi; và thứ hai, thật là khó khăn khi phán quyết cá tánh của một người nằm trong thành phần nào, bởi vì sự kiêu ngạo và si mê của một người sẽ làm mờ đi sự phán đoán của mình. Đây là một vấn đề nhỏ mà giá trị của vị thầy dạy thiền có thể phân biệt được dễ dàng. Tuy nhiên, một người có thể khám phá ra nhiều điều về chính bản thân mình, bằng cách sử dụng chánh niệm của mình vào những dự kiện xảy ra một cách bất ngờ. Ngay lúc ấy, một người có thể nhận diện được phản ứng của mình và những vết nhơ hiện diện trong tâm thức. Những phán xét sau đó không có giá trị nhiều, bởi vì vào lúc này tâm thức đã có lý do để tự bào chữa, và sự việc chính cũng đã ít nhiều không còn chính xác.

Sau đây là danh sách của bốn mươi bài thiền tập với vài ghi chú về việc thực hành, những cá tánh nào lợi ích, và chúng chiến đấu với những cá tánh xấu nào. Những bài thiền tập được sử dụng nhiều hơn hết được đánh dấu bằng ngôi sao (*) .

Mười biến xứ (kasinas)

1. đất

2. nước

3. lửa

4. gió

5. xanh

6. vàng

7. đỏ

8. trắng

9. ánh sáng *

10. giới hạn không gian

Thực tập số 5 – 8 dành cho cá tánh ghét bỏ bởi vì màu sắc của chúng dễ chịu và thanh khiết.

Trừ ra số 5 – 8 , không có vết nhơ đạo đức đặc biệt nào bị mười biển xứ kháng cự lại . Vì những biển xứ này được phát triển qua cặp mắt, do đó chúng không thích hợp cho người nào có thị giác yếu (theo ngài Buddhaghosa).

Chỉ có một trong mười biến xứ (kasinas) dường như được thực hành nhiều hiện nay là thực hành về ánh sáng, mà một số người cho rằng ánh sáng xuất hiện một cách tự nhiên khi tâm thức họ bắt đầu chú tâm. Trong khi những giải thích nơi Aricaya Buddhaghosa trong Con đường Thanh tịnh dường như nhấn mạnh đến sự quan trọng trong việc sử dụng những ủng hộ bên ngoài cho việc thực tập (thực tập về biến xứ đất được miêu tả rất chi tiết), khi người viết nghe đến những thực tập biến xứ được sử dụng (ở Thái lan), chúng luôn nằm trong phạm vi của bản chất thị lực( tướng - nimitta) xuất hiện ở bên trong và được phát triển từ nền tảng này. Đây cho thấy rằng sự trầm tư mặc tưởng về những hiện tượng bên ngoài biến xứ đất, nước, gió,v…v… là không được biết đến ở Thái lan.

Mười thứ bất tịnh (asubha)

11. (xác chết) trương phồng làm mất tác dụng về sự ham thích sắc đẹp

12. tím bầm …………………………… nét đẹp của màu da

13. thối rửa …………………… hương thơm và nước hoa

14. bị cắt ra …………………… sự nguyên vẹn hoặc rắn chắc

15. bị gậm nhấm ……………… thân thể thịt đầy đặn

16. bị phân tán………………… tay chân lành lặn

17. bị hốc hác phân tán………… vẻ đẹp của thân thể khi còn nguyên vẹn

18. bị ra máu…………………… trang sức và nữ trang

19. bị dòi đục khoét…………… sở hữu thân thể

20. bộ xương ………………… khi còn xương răng tớt

(11-20 dành cho những cá tánh tham lam.)

Những điều này và các danh sách tương tự trong Kinh Bốn Niệm Xứ (Satipatthana Sutta), nhắc về thời mà các xác chết được tập trung ở một mảnh đất chung (charnel grounds). Tuy nhiên, hiện giờ nghĩa địa như thế cũng khó kiếm, ngay cả ở những mảnh đất Phật giáo, nói chi ở các nước phương Tây. Hiện giờ các vị Thầy ở Thái Lan nhấn mạnh rằng thân thể của một người phải được quan sát bằng những phương pháp này theo cái nhìn của tướng (nimitta) để phát triển trí tuệ. Những phương pháp này rất ghê khiếp, một người cần được một vị thầy kinh nghiệm chỉ dẫn về cách đối phó với những tướng trạng như thế, khi thực hiện được thì đây là một hoàn cảnh thuận lợi tốt nhất. Cũng cần nên nhấn mạnh ở đây là không có gì là không lành mạnh trong khi suy ngẫm những hình ảnh như thế, bên trong cũng như bên ngoài. Tình trạng mục nát của thân thể là một điều rất tự nhiên, nhưng vì theo thói thường thì con người không thích nhìn nhận việc này. Thay vì đối diện với sự mục nát tự nhiên của thân thể và đem việc này ra ngoài ánh sáng, các xác chết lại được các tay ướp xác và mỹ phẩm làm cho đẹp; và khi mà không thể làm được, các xác chết được xếp dọn gọn ghẽ trong những quan tài thật đẹp với những vòng hoa sáng chói, v…v… Thực tập của người Phật tử làm cho người này nhìn chân thật vào những khía cạnh đó của đời sống mà thường(vì tham đắm) không được xem là “xinh đẹp”, và làm cho người đó đối diện được với những điều này một cách bình tỉnh đặc biệt nói về thân và tâm của một người.

Mười điều tuỳ niệm (anussati)

21. nhờ vào đức Phật *

22. ……… Pháp (Dhamma)

23. ……… Tăng (Sangha)

24. ……… giới (sila)………[chống lại kiết sử (kilesa) của hạnh kiểm xấu (duccarita) ]

25. ……… rộng lượng……[chống lại tính bủn xỉn (macchariya) ]

26. …… thiên đàng……[chống lại nghi ngờ (vicikiccha) ]

27. ……… cái chết………[chống lại sự lười biếng ]

28. ……… thân thể *……[chống lại ham muốn & nhục dục (kama-raga) ]

29. ……… hơi thở *……[chống lại si mê & lo âu ]

30. …… an lạc…………[chống lại sự xáo trộn ]

21 – 26 dành cho cá tính có tín tâm

27……………………… thông minh

28……………………… tham lam

29……………………… lừa dối, suy đoán

30……………………… thông minh

Nhóm mười điều tuỳ niệm này có cá tính hỗn hợp nhiều hơn hai nhóm trước. Trong sự thực tập ba điều đầu (21 – 23 ) một người thuộc danh sách phẩm chất của từng điều tuỳ niệm. [6] Tỷ như tinh thần không trở nên nguyên nhất với phương thức này, một người nên chọn một phẩm chất đặc biệt và đọc thuộc lòng một cách thầm lặng và không ngừng nghỉ ( chẳng hạn như “Buddho” hoặc “Araham”). Lần chuỗi cũng được sử dụng trong vài trường hợp liên kết với sự thực tập kiểu này. Việc ghi nhớ về đức hạnh và lòng quảng đại thường rất tốt cho việc thực tập trong lúc về già. Một người xét lại những công đức đáng khen (puñña) đã làm trong cuộc sống, và ghi nhớ chúng, tinh thần sẽ trở nên yên tịnh và sung sướng, khi có được một trạng thái tinh thần như thế này lúc sắp chết, một người chắc chắn sẽ được tái sinh nơi chỗ tốt đẹp. Một người không thể ghi nhớ những vị trời (deva) nếu như chưa được thấy qua. Thực tập này chỉ thích hợp cho những người đã thăng tiến về mặt tinh thần và đã có những liên hệ với những sinh vật tinh tế. Những cá tính thông minh có thể ghi nhớ được cái chết bởi vì họ không kinh hãi khi thấy những khía cạnh ghê sợ sẽ xảy ra trong khi thực tập. Đây là một điều khích lệ rất lớn để thực tập ngay bây giờ khi một người không biết được mình sẽ còn sống không trong giây phút tới. Sự ghi nhớ tuỳ niệm hai mươi tám - - về thân thể - - dành cho cá tính tham lam, cần phát triển sự lãnh đạm về thân thể. Thành công về mặt này bằng cách phân tách thân thể ra làm ba mươi hai phần không hấp dẫn, và rồi chọn một hay nhiều phần để khảo sát. Tuy nhiên, sự thực tập này trở nên hoàn hảo khi sự thấu hiểu sâu sắc về thân được sáng tỏ và những thành phần khác nhau được nhìn thấy một cách rõ ràng và hiểu được bản chất tự nhiên của chúng. Sự chú tâm vào hơi thở được đề nghị để làm lắng dịu và sáng tỏ tinh thần, và một người dù với cá tính nào cũng có được lợi ích khi thực tập, cũng cần có sự thận trọng trong những phạm vi tinh tế trong lúc thực tập. Hơi thở không bao giờ bị bắt buộc mà chỉ được quan sát liên tục với chánh niệm, điểm tập trung thường là chót mũi hoặc hai lỗ mũi. Tuy vậy, sự thay đổi tuỳ thuộc vào các vị thầy. Sự ghi nhớ về an lạc, một bậc Thánh thiện nói, chỉ là một lợi ích hiển nhiên cho những ai đã kinh nghiệm qua Niết bàn, chẳng hạn như những vị Dự Lưu (stream-enterers); nhưng các vị khác cần đạt được sự tỉnh lặng từ sự suy ngẫm về an lạc. Sự an lạc nơi đây thật sự là Niết bàn, và một người không thể ghi nhớ về điều mà mình chưa biết, nếu đó là người trần tục (puthujjana), vì đây là sự thực tập của các vị Thánh thiện (ariya).

Bốn Phạm Trù (Brahma-vihara)

31. thân ái *……[ chống lại vết bẩn của sân hận, ganh ghét]

32. từ bi …………[ chống lại sự lãnh đạm nhẫn tâm ]

33. vui mừng (với kẻ khác)…… [ chống lại ganh tỵ]

34. bình thản ………[chống lại lo âu]

(31 dành cho cá tính ganh ghét)

Bốn trạng thái không hình thể (arupa-bhava)

35. phạm vi của không gian vô hạn

36. …………… ý thức vô hạn

37. …………… hư vô

38. …………… phi tưởng phi phi tưởng xứ

Những sự thu hút không hình thể này không thể được phát triển trừ khi người này đã hoàn thành bốn sự thu hút tầm thường của hình thể. Nhóm bốn này có thể khảo sát tỉ mỉ trên phương diện của bốn tầng thiền định (jhana). Vì rất ít người kinh nghiệm qua sự thực tập này, chúng ta tiến đến :

Nhận thức về sự chán ghét thức ăn

39.
Trong khi một vị tỳ kheo nương nhờ vào sự khất thực (đôi lúc tốt, đôi lúc không tốt), cư sĩ cũng được lợi ích trong thực tập này, vị Thánh thiện Buddhaghosa ghi nhận rằng, đối với những cá tính thông minh, hoặc thấp hơn, sự cúng dường đưa đến việc tiêu diệt tham lam và ham ăn.

Định nghĩa của bốn hợp thể lớn

40.
Những hợp thể là đất (tính chất rắn chắc), nước (sự liên kết), lửa (nhiệt độ), và không khí (sự di động), tất cả đều bao gồm trong thân thể của chúng ta. Những hợp thể này có thể được nhận thấy bởi sự phân tách dựa trên việc sử dụng tinh thần. [7] Thực tập này cũng đặc biệt thích hợp cho những cá tính thông minh.

Những thực tập không được nhắc đến trong sự liên kết với cá tính có thể thích hợp cho bất cứ người nào. Vì tất cả những thực tập này đều nhắm đến việc làm giảm dần và tiêu diệt những kiết sử (kisela), một người có thể hiểu rõ giá trị quan trọng của những điều này trong sự thực tập của Phật giáo. Nơi nào mà kiết sử có mặt, thì bóng tối và vô minh cai trị, nhưng chúng luôn bị tìm thấy; nơi đó trí tuệ và lòng từ bi của sự giác ngộ sẽ sáng tỏ.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Những nguy hiểm trong lúc thực tập thiền

Trong khi thực tập thiền, một thiền sinh có thể bị lạc đường, vì có nhiều lý do. Những điều quan trọng sẽ được nêu ra sau đây để cảnh giác mỗi thiền sinh vì chúng thường hay xảy ra. Trước hết, một nguy hiểm quan trọng là thiếu sự thúc đẩy đứng đắn trong việc thực hành thiền. Khi Bát Chánh Đạo được trình bày, phần “trí tuệ” đứng ngang hàng với (lần đầu) sự hiểu biết trí thức đứng đắn, kế đến là động cơ thúc đẩy chính đáng, và rồi nhấn mạnh về những gốc rễ khéo léo của cảm xúc làm nền tảng cho sự thực hành : những gì có liên quan đến sự từ bỏ (không ham muốn), thiện chí (không ganh ghét) và không bạo động được nhắc đến. Nếu một người đến với thiền Phật giáo mà không có sự hiểu biết chính đáng về khổ (dukkha) và sự chấm dứt của đau khổ, thêm vào đó không có động cơ chính đáng, thì chắc chắn rằng sự thực tập thiền của người này sẽ dễ bị lạc lối.

Thí dụ, có những người thực hành thiền như là một cách để đầu tư quyền lực, họ có thể gây ảnh hưởng hoặc thôi miên các học trò. Những kẻ khác xem đây như là một cách nhanh chóng để có nhiều học trò và mau làm giàu. Để được nổi tiếng cũng là một động cơ không xứng đáng. Tất cả những điều này, như là những động cơ đùa giỡn với thiền định, có thể đưa đến bệnh hoạn cho kẻ không thận trọng, và đôi lúc đưa đến sự rối loạn tâm trí.

Trong thiền Phật giáo, không có gì tệ hơn một người cho rằng kinh nghiệm của mình là tột bực, và cho mình là một vị thầy trong khi kinh nghiệm thiền của họ còn non nớt.

Ở đây cho thấy rõ ràng là điều này có thể đưa đến một nguy hiểm xa hơn nữa - là lòng kiêu hãnh dưới nhiều hình thức. Sự kiêu hãnh của một người nhìn được ánh sáng trong lúc thiền định, và cho rằng đây là một dấu hiệu báo trước của sự nhập định. Kế đó, sự kiêu hãnh của kẻ vừa chạm đến trạng thái định dù chỉ là một khoảnh khắc, và tự cho rằng mình là Người Cao Quý, và đây là một yếu tố rất mạnh mẽ để tự thuyết phục, nếu như không thuyết phục được những kẻ khác. Những người tầm thường khi thực tập thiền có thể để ý đến những thái độ “thánh thiện hơn anh” : “Tôi cố gắng, trong khi anh…”, hoặc “ Tôi thực tập thiền mỗi ngày, trong khi anh…”. Sự kiêu hãnh là một chướng ngại lớn cho bất cứ sự tiến triển nào, và trong khi chỉ có đức Phật hoặc vị A-la-hán có thể dẹp bỏ nó, mọi người nên dè dặt, và luôn sử dụng chánh niệm để kiểm soát nó.

Một nguy hiểm khác là người luôn tìm kiếm cái gọi là “tiến bộ”. Người này tin chắc rằng mình đang “tiến bộ”, vì khi thiền định họ thấy những ánh sáng, nghe những âm thanh, hoặc có những cảm giác kỳ lạ. Theo thời gian người này bị những thứ này quyến rũ, và dần dần quên rằng mình thực tập thiền là ước vọng tìm con đường giác ngộ. Sự “thiền định” của người này trở nên thoái hoá, nghiêng về những ảo mộng và biến cố kỳ lạ, đưa kẻ này vào thế giới của huyền bí và ma thuật. Con đường này là con đường đưa thiền sinh vào những vướng mắc. Những hiện tượng này dù có hấp dẫn cách mấy đi chăng nữa, chúng cần được mạnh mẽ dẹp bỏ bằng cách chỉ chú tâm, không để cho ý nghĩ rời rạc chú ý đến chúng, và như vậy sẽ tránh được những sao lãng này.

Ngoài những “ảo mộng” mà một người có thể thấy, cho dù chúng ở trong(được tạo ra bởi tâm thức của một người) hay ở ngoài (được tạo ra bởi những sinh vật bên ngoài), đối với vài người học thiền cũng có một kinh nghiệm làm sợ hãi như thấy được thân thể của mình bị tan hoại chỉ còn xương hoặc bị phình ra như một xác chết. Nếu một kinh nghiệm như thế này xảy ra, hoặc những kinh nghiệm khác tương tự như thế, một người cần thu hồi lập tức cái thấy của mình khỏi ảo giác này, nếu như một người không có thầy hướng dẫn. Những ảo giác đáng sợ như thế này có thể được sử dụng một cách chính đáng và lợi ích, nhưng nếu không có sự chỉ dẫn của một vị thầy thì thiền sinh nên tránh chúng là hơn.

Một nguy hiểm khác nữa là cố gắng thực tập thiền trong khi tâm thần đang bị dao động bởi những cảm xúc, tâm lý mất thăng bằng và chưa chín chắn. Sự hiểu biết về giá trị của những việc làm phước thiện hoặc tạo công đức rất là hữu dụng trong lúc này. Công đức làm thanh tịnh tinh thần, đây là một nền tảng rất tốt cho sự phát triển tinh thần, và sẽ làm dễ dàng cho việc nhập định và như vậy sự hiểu biết sâu sắc sẽ xuất hiện dựa vào công đức đã gieo. Những việc làm công đức có thể được tìm thấy trong cuộc sống như : bố thí và lòng rộng lượng, giữ gìn những giới cấm, giúp đỡ và phục vụ những người khác, kính trọng, và hết lòng nghe giảng pháp (Dhamma), thiết lập sự hiểu biết chính đáng về pháp -- tất cả những điều này là việc làm công đức, đem đến hạnh phúc và những cảm xúc chính chắn. Công đức, một người nên luôn nhớ rằng, mở tất cả các cánh cửa ở mọi nơi. Công đức có thể làm được, và mang đến nhiều cơ hội. Hãy để tâm thức luôn nghĩ về việc làm công đức, là sửa soạn cho tâm thức để có thể thực hành thiền và phát triển sự nhập định cũng như đạt được trí tuệ.

Nếu một người thực tập thiền mà vẫn nắm giữ những tham đắm của mình, những gì mình thích cũng như ghét, rõ ràng là làm cho con đường trở nên khó khăn hơn nếu không muốn nói là nguy hiểm. Thiền định ngụ ý là từ bỏ, và không có một thực tập nào có thể thành công nếu một người không sửa soạn ít nhất là cố gắng giảm bớt tham lam và sân hận, canh chừng sự ham muốn nhục dục, và nhận diện được si mê khi nó xuất hiện và làm mờ tâm tư. Một người chấp nhận từ bỏ cho tới lúc có những thay đổi bên ngoài (chẳng hạn như trở thành một vị tăng hay ni), cũng còn tuỳ thuộc vào cá nhân và hoàn cảnh chung quanh, nhưng chắc chắn một điều là : sự từ bỏ từ bên trong, một điều khá quan trọng, đó là thái độ từ bỏ đối với những dự kiện không tốt của tinh thần cũng như sự buông lung dục lạc .

Một nguy hiểm khác cũng thường có liên quan đến những nguy hiểm kể trên là, có một người tự dưng có cơ hội để thực tập thiền định trong một thời gian dài hạn. Người này ngồi xuống với quyết tâm là, “Bây giờ tôi sẽ thiền”, dù cho người này có một năng lực rất mạnh và họ ngồi và ngồi, và đi và đi, nhưng tâm thần thì xáo trộn và không được an bình. Có thể là vì họ cố gắng quá do đó bị xáo trộn. Hơn nữa, người này nên hiểu rằng khi thiền cần biết đến giới hạn của chính bản tánh mình. Cũng giống như bất cứ người công nhân nào biết được giới hạn của sức lực mình và cẩn thận không để mình bị mất sức. Với chánh niệm một người cần biết đâu là cực độ của lười biếng và của căng thẳng, để mà tránh.

Sự cố gắng quá độ hoặc thực tập quá mức sẽ tạo nên những trạng thái xáo trộn về mặt cảm xúc. Sự tức giận bất chợt hoặc kéo dài về những việc nhỏ nhặt, những ham muốn nhục dục mãnh liệt, những ảo giác kỳ lạ và những hình ảnh tưởng tượng quái dị có thể xuất hiện từ sự thực tập gay go nhưng thiếu sáng suốt.

Với những nguy hiểm này chỉ có một vị thầy kinh nghiệm mới có thể cho được lời khuyên thích ứng, và như thế tránh được những nguy hiểm nói trên và những đổi hướng sai lệch, và một người có thể tiếp tục thẳng tới con đường Niết bàn. Những người nào không có thầy cần tiến bước một cách cẩn trọng, và cẩn thận kiểm soát sự phát triển của mình bằng chánh niệm. Nếu người này để ý với chánh niệm và thấy rằng dù cho cố gắng với sự thực tập thiền , vẫn không thay đổi được gì cho cuộc sống hiện tại của họ, họ không có được sự an bình nội tại hoặc sự liên hệ với những người chung quanh cũng không tốt đẹp hơn, như vậy có nghĩa là có gì không ổn. Vì thế nên ngưng tập thiền trong một thời gian, và trong lúc này nên tìm những tài liệu xác thực, tốt nhất là gặp một vị thiền sư có kinh nghiệm, và nên để ý đến những vấn đề đạo đức chưa được hoá giải, nếu không thì tâm thức khó lòng mà phát triển được; và nên cố gắng sống đời sống giới hạnh căn bản của người Phật tử. Con đường thực tập của Trung Đạo sẽ không có tiến triển nếu một người sao lãng những vấn đề căn bản đạo đức.

-------------------------------------------
Bhikkhu Khantipalo
The Wheel Publication No. 116
Copyright Ó 1986 Buddhist Publication Society
Dịch Việt : Mỹ Thanh
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
HAI DÒNG THIỀN

Có hai dòng thiền Phật giáo, cho dù trong khi thực tập thì hai dòng thiền này được xem là bổ túc lẫn nhau.

Rất lợi ích cho một số người có tư tưởng năng động, luôn bị phân tán bởi những ý tưởng lăng xăng lộn xộn. Tư tưởng là một chuỗi dự kiện tinh thần, xuất hiện và biến mất một cách nhanh chóng. Mỗi một dự kiện là một tư tưởng đầy đủ với những yếu tố tinh thần, cho nên trong lúc ban đầu cái tư tưởng, cái tâm trí này là “sự chú ý” và nó quan sát những “tư tưởng” khác (tất cả chỉ là một sự tiếp diễn không ngừng nơi phần tinh thần của một người). Nhờ vậy một người mới dần phát triển được khả năng quan sát tâm trí, tư tưởng, để xem nó đi đâu. Đi về quá khứ, hiện tại hay tương lai. Có phải nó đang nghĩ đến vật chất hay cảm giác, hoặc đang nhận thức, hay đang ham muốn, hoặc là nó biến mất nơi ý thức ? Bằng phương thức hỏi rằng “Nó đã đi đâu?”. Sự phân tán nơi tinh thần sẽ từ từ được kiểm soát cho đến lúc “sự chú ý” hay “chánh niệm” trở nên nền tảng vững vàng cho việc hành thiền tiếp tục. Tâm trí cần được huấn luyện và phát triển theo cách thực tập này, nhưng nó phải được quân bình bởi sự tỉnh lặng thấm nhuần. Khi tinh thần trở nên yên tịnh thì một người nên bắt đầu thực tập thiền (jhana), và đây là bước đầu cho trí tuệ xuất hiện. Phương cách này gọi là “trí tuệ đưa đến tỉnh lặng”.
Những cách thực tập khác dành cho những người mà tinh thần ít bị giao động, bao gồm bốn mươi đề tài cổ điển về thiền (xem đoạn trước); và những đề tài thiền này cộng với những cách thực tập khác phát triển hơn, dựa vào một đối tượng để làm đề tài cho sự tập trung. Có thể là thân thể của chúng ta, hay một phần thân thể, màu sắc của một bức tranh, một chữ hay một câu, và sự suy ngẫm trừu tượng, vân vân và vân vân. Tất cả những phương thức này kèm theo sự rèn luyện về tinh thần một cách kỹ càng nhưng vừa phải . Lúc mà tư tưởng chạy sang chỗ khác thì phải từ tốn kéo nó trở về (bằng chánh niệm) để tiếp tục tập trung vào vào đề mục đã chọn. Nhiều người lầm tưởng và cho rằng thực tập như thế này thì nhất định sẽ có được sự tỉnh lặng ngay lập tức. Họ sẽ ngạc nhiên khi bắt đầu thực hành, vì họ sẽ nhận thấy có nhiều trở ngại hơn họ nghĩ. Lúc đầu là như vậy, vì có bao giờ họ chịu kiểm soát tư tưởng của họ đâu. Kế đó, lúc bắt đầu thực hành cũng giống như lấy một khúc cây khuấy nước đọng trong ao, hoặc khơi đống lửa tro. Tư tưởng như con voi rừng, quen chạy rong trong khu rừng ham muốn, sẽ không dễ gì để bị huấn luyện, không dễ gì bị cột lại. Nhưng với sự chuyên cần và chú tâm thì dần dần ta có thể dùng dây chánh niệm để cột voi lại, và kết quả là ta sẽ được sự tỉnh lặng.

Bốn mươi đề tài đã nói nằm trong cách thực tập thứ hai này mà khi đã có được sự yên tịnh nhờ vào thực tập thì trí tuệ sẽ xuất hiện. Vì thế được gọi là “tỉnh lặng đưa đến trí tuệ”, và các bài tập này rất quan trọng trong thời buổi hiện tại điên cuồng này. Để hiểu rõ thêm, một người nên tìm đọc Path of Purification (Con đường thanh lọc – Visuddhi-magga, bản dịch), cho dù quyển sách này cho ta một kiến thức vĩ đại , nó cũng không thể thay thế được sự liên hệ trực tiếp giữa thầy và trò.
--------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Lời khuyên hữu ích cho các thiền sinh

Từ quan điểm tâm lý đến thực hành, sự thiền định dành cho giới cư sĩ có thể được chia ra làm hai thành phần : nổ lực thực hành và thực hành trong sinh hoạt hàng ngày. Nổ lực thực hành cũng có hai phần : ngồi thiền mỗi ngày hay đôi khi ẩn cư (retreat).

Ngồi thiền mỗi ngày

Trước hết, chúng ta bàn về việc nổ lực thực hành thiền mỗi ngày. Có nghĩa là ngày nào cũng ngồi thiền vào một giờ nhất định. Cần phải cẩn trọng đừng nên ngồi thiền như một nghi lễ, mà phải luôn tự nhủ vì lý do nào mà ta phải thực hành thiền. Những ý kiến sau đây là những gợi ý hữu ích.

Nói về phần vật chất thì nơi thực hành thiền cần phải yên tịnh. Nếu có được một phòng nhỏ dành cho việc hành thiền thì thật là tốt. Dù sao thực hành thiền một mình vẫn hay hơn trừ khi những người trong gia đình đều cùng thực tập. Một người cần chắc chắn rằng tinh thần của chính mình phải trong sạch trong liên hệ với người chung quanh, như không tham lam, sân hận, vì những độc chất này sẽ cướp mất kết quả của sự hành thiền.

Muốn yên tịnh, hay nhất là nên dậy sớm để hành thiền trước khi những người khác thức dậy. Hơn nữa, lúc sáng sớm là lúc tâm trí thoải mái nhất và cơ thể không bị mệt mỏi. Một thiền sinh hết lòng thực tập sẽ luôn thực hành thiền vào những giờ nhất định, vì biết rằng chỉ cần đủ giờ ngủ nghỉ thì thân thể sẽ thoải mái và tỉnh táo hơn.

Sau khi thức dậy và làm vệ sinh xong thì nên ngồi thiền với bộ đồ sạch và thong thả. Cũng nên có một bàn thờ nhỏ với những hình ảnh Phật, nhưng cũng không cần thiết lắm. Vài người khác thì dâng hoa cúng Phật, thắp hương trong sự tỉnh thức cao độ. Trong những nước Phật giáo thì thiền sinh thầm niệm “Namo tassa bhagavato arahato samma-sambuddhassa”, (Nam-mô Bậc ứng cúng, chánh biến tri, bậc giác ngộ viên mãn) khấn nguyện về ba nơi nương tựa và những giới cấm. Nếu một người thuộc những lời kinh tán thán Phật, Pháp, Tăng bằng tiếng Pali thì cũng nên niệm những lời này trong khi hành thiền. Một điều hữu ích khác quan trọng cũng không kém là sự suy ngẫm về những lời tụng niệm, vì chúng giúp ta suy ngẫm về chân lý của pháp.

“Được may mắn có thân người, tôi có hai trách nhiệm trong pháp giới : lợi ích cho chính bản thân và lợi ích cho những người khác. Những chúng sinh khác dù là người hay không phải người, có hình thể hay không có hình thể, lớn hay nhỏ, xa hay gần, tôi sẽ đối xử với tất cả chúng sinh bằng sự dịu dàng, tử tế và mong rằng tất cả đều được an lành. Mong cho tất cả đều hạnh phúc…! Tôi sẵng sàng giúp đỡ khi thấy họ đau khổ, và sung sướng với họ khi thấy họ hạnh phúc. Mong sao cho tôi phát triển lòng bình đẳng, không phân biệt, có một tâm trí luôn thăng bằng để không bao giờ tức giận !

Trong lúc lo cho kẻ khác, tôi sẽ không quên sự tiến triển của chính mình trên con đường giáo pháp. Mong sao cho tôi nhận biết được mình đang bị gió nghiệp nào lôi kéo vì đã nhiều lần đau khổ triền miên trong sinh tử! Tôi cũng nên biết rằng cuộc sống này là ngắn ngủi và tạm bợ. Tâm trí và thân thể luôn đổi thay trong từng giây phút. Cả tâm trí lẫn thân thể này không phải là của tôi hay là tôi. Và nhận thấy rằng tâm trí hay bị dao động vì những khó khăn xảy ra trong cuộc sống ngắn ngủi này. Vì si mê và đầy ham muốn, tôi cần phải biết rằng cái chết là điều không thể tránh khỏi, già và bệnh là những việc tự nhiên phải đến. Tôi phải cố gắng để biết rằng cái người được gọi là “Tôi” là một tập thể của tinh thần và vật chất và nơi đó không có một thực thể nào gọi là linh hồn hay cái ngã thực sự hiện hữu. Mong sao cho tôi thấu hiểu được rốt ráo ý nghĩa của vô thường và vô ngã. Mong sao cho tôi được ở trong hư vô! Và giác ngộ được chân lý cao tột để sau này có thể dẫn dắt được những người khác!”

Khi ngồi thiền, nên giữ thân thể thẳng nhưng thư thả. Không nên cứng ngắt, bó buộc, đầu không nên gục xuống, thắt lưng phải thẳng. Thân thể phải yên tỉnh và thăng bằng. Mặc dù tư thế kiết già là tốt nhất khi thiền sinh ngồi trên một gối đệm nhỏ, có thể dùng ghế cho những người không thể hoặc không quen ngồi kiết già. Ngồi kiết già hay bán kiết già sẽ dễ nếu có một gối cứng để dưới bàn toạ. Đầu gối sẽ đụng đất và ba điểm tựa vững chắc (hai đầu gối và bàn toạ) sẽ làm cho việc ngồi thiền được dễ dàng.

Mỗi ngày, một người nên ngồi thiền trong một thời gian nhất định, cho đến khi có được sự tập trung kha khá, lúc ấy ta nên kéo dài thêm thời gian ngồi thiền. Có người đốt một nén nhang để đo thời gian ngồi thiền. Ngồi cho đến khi nén nhang tàn. Để hai tay theo tư thế thiền, mắt có thể nhắm hay khép hờ tuỳ ý.

Có nhiều cách thức được sử dụng để tập trung tâm trí, và hai cách thiền chánh đã được nhắc đến như trên. Những cách thức khác như lập đi lập lại một chữ hay một câu và có thể dùng xâu chuỗi. Nếu một người thực tập chú ý vào hơi thở, thì có thể dùng chữ “Buddho”, hoặc “Araham” để làm yên tịnh tinh thần. Thì thầm lập lại âm tự đầu khi hít vào và chú tâm vào âm tự sau khi thở ra. Cũng như đếm hơi thở ( từ một đến mười - thường không đếm hơn số mười, vì tâm trí sẽ dễ chạy loanh quanh) để giữ sự tập trung. Nhưng các phương cách này cần được bỏ đi khi đã bắt đầu có được sự tập trung cao. Khi thực tập vào một câu thì xâu chuỗi được sử dụng để đánh dấu mỗi câu bằng một hạt trên chuỗi. Sự thực tập thiền được tiến triển tốt đẹp khi sự tập trung vào một đối tượng được gia tăng. Nhưng cũng không nên cho rằng thực tập thiền là vô ích khi có những lúc ta bị xao lãng, lo ra hay buồn ngủ. Đây là những trở ngại cần được đối diện. Và nếu chúng được nhận diện bằng sự chú tâm, không phải bằng sự bực bội hay chán nản, thì những khó khăn này sẽ được khắc phục. Để thành công, điều cần thiết là ta phải luôn kiên trì và quân bình trong sự cố gắng.

Khi xả thiền, ta nên tụng một bài kinh và hồi hướng công đức cho tất cả chúng sanh. Trong lúc này, nên tụng Kinh Từ Bi – Metta Sutta (Bài kinh về lòng từ) , vì bài kinh không dài nên rất dễ nhớ. Vì có nhiều cách tụng, cho nên nếu có được một cuộn băng của bài kinh này được đọc tụng bởi các thầy thì rất tốt.

Trong vấn đề tụng kinh, việc hữu ích là nên biết rằng một vài bài giảng của Đức Phật được nói ra bằng ngôn ngữ cổ điển của Phật giáo. Một khi tâm trí bị phân tán thì bài kinh tụng có thể giúp một người trở lại sự chú tâm. Vào những lúc bị xao lãng , thiền sinh không nên thất vọng nhưng nên tiếp tục ngồi và tụng những bài kinh cho chính mình nghe. Đây là một cách thực tập của các thầy ngày hai lần để phát triển tinh thần. Đồng thời cũng là cách củng cố niềm tin và để quân bình trí tuệ. Một cách thực tập khác là thiền hành, có thể được thực tập ngay trong nhà hay trong khu vườn. Chiều dài khoảng hai mươi hoặc ba mươi bước là đủ, vì nếu khoảng cách dài hơn tâm trí sẽ chạy nơi khác, và nếu ngắn quá thì sự phân tâm sẽ dễ gia tăng. Một người nên đi theo nhịp đi bình thường của mình, hai tay nối nhau để thong thả trước thân. Vào cuối con đường thì nên quay lại theo chiều kim đồng hồ.

Vài lời tâm nguyện cũng rất cần thiết cho việc thực tập. Không có một người Phật tử thành tâm nào mà không thực tập thiền. Để tâm thực tập thiền, người đó phải có những lý tưởng Phật giáo trong tâm. Nhờ nương tựa vào giáo pháp, người Phật tử sẽ dễ vượt qua những trở ngại trong lúc thực tập. Bất cứ một trở ngại nào xảy đến đều bị khuất phục nhờ vào sự thành tâm của một người. Nếu trên bước đường tu tập, thiền sinh nhận thấy bị bít lối, sự tu tập không tiến bộ, và người này không có vị thầy bên cạnh. Họ không nên chán nản, hay bỏ cuộc, mà phải nghĩ rằng : “Tôi đang nhận lấy những quả không tốt mà tôi đã gieo trong quá khứ”. Và rồi người này nên nhớ lại lời cuối của đức Phật : “Tất cả những gì giả hợp đều sẽ tan rã. Với chánh niệm, các người hãy tinh tấn”. Tất cả những khó khăn cũng là những giả hợp và rồi chúng sẽ thay đổi, trong lúc này hãy mãnh liệt, tận tâm sử dụng chánh niệm để nhận thấy sự thật này.

Nếu một người không mệt lắm sau một ngày làm việc và có cơ hội vào buổi tối, hoặc một lúc nào đó rảnh rỗi thì nên ngồi thiền. Dẫu sao đi nữa, nên tập có thói quen ngồi thiền trước khi đi ngủ. Nên nghĩ rằng : “một khi ta đã nằm xuống thì chắc gì ta sẽ lại thức dậy”. Vì thế, một người có thể nằm xuống để chết và cách này là cách hay nhất để nhắc nhở ta loại bỏ những tánh xấu và để thực tập sự tỉnh thức. Nếu một người thực tập điều này, “nằm xuống để chết”, cách này rất hay để tập cho ta sẵn sàng cho cái chết có thể đến bất cứ lúc nào trong tương lai. Để giúp ta dần dần từ bỏ không bám víu vào những gì không thuộc về mình, chẳng hạn, thân và tâm này. Một câu kinh hay một chữ nào trong giáo pháp đều có thể được sử dụng, lập đi lập lại nhiều lần trước khi đi vào giấc ngủ. Bằng cách này, một người bắt đầu và kết thúc một ngày bằng sự thực tập giáo pháp của đức Phật. Ngoài việc thành tâm thực tập cả ngày, đâu có gì tốt hơn nữa ?

Ẩn cư

Cách thực tập cao độ là sự ẩn cư. Một thiền sinh sốt sắng có thể đi ẩn cư nếu những tiện nghi cho phép. Ở phương tây chỉ có vài nơi để thực tập. Điều quan trọng là làm sao nhận được lời chỉ dẫn trực tiếp nơi một người thầy có kinh nghiệm (sách chỉ là bước đầu, vì đôi lúc kể cả có thầy cũng vẫn chưa đủ). Một khi tìm được vị thầy rồi thì một người phải hết lòng chuyên cần để thực tập và để thể nghiệm lấy những gì mình đã học được. Nếu một người có được một người thầy và có điều kiện để thực tập thì người này là người may mắn nhất.

Nhiều người sẽ không có cơ hội có được một người thầy, và vài người khác sẽ cố gắng đi ẩn cư để thực tập thiền ở vài nơi yên tịnh ở miền quê. Chỉ nên thực hành việc ẩn cư khi mà thiền sinh đã được sự chú tâm cao. Nếu không thì việc ẩn cư sẽ không có lợi ích, đôi lúc còn có vẻ tăng cường những trần cấu của tinh thần.

---------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Sinh hoạt hàng ngày

Đã có rất nhiều bài viết về những cách thực tập thiền khác nhau. Sau đây là những lời chỉ dẫn. Trước hết, một người không nên tự dối mình khi nói về sự chú tâm. Không lợi ích gì khhi mình tự dối mình và những người khác là cuộc sống của mình là thiền trong sinh hoạt hàng ngày — trừ khi một người đã có được sự chú tâm cao độ. Chỉ có những người từng ngồi thiền trong nhiều năm và giữ giới như những tu sĩ thì mới có thể nói họ sống với “Thiền” trong sinh hoạt hàng ngày; mà nếu thật sự có như thế thì thông thường người này cũng không nói điều này ra cho người khác biết. Từ chối không cho sự hãnh diện có cơ hội để làm méo mó trạng thái của tâm thức, một người nên giữ quân bình và biết chấp nhận giới hạn của chính mình. Và đây là một bước lớn để tiếp tục. Nếu một người cư sĩ tự nghĩ rằng mình là một vị A-la-hán thì điều này sẽ ngăn cản bước tiến của mình; trong khi một người thành thật thì ít ra cũng có được sự hiểu biết để trở nên khiêm tốn hơn.

Nếu không có chánh niệm, thì khó lòng có hy vọng sống được với thiền trong sinh hoạt hàng ngày. Những việc bình thường vẫn có thể trở nên những đề tài cho sự thực tập thiền. Chánh niệm là sự chú tâm, biết mình đang làm việc gì ngay trong hiện tại. Chẳng có gì thú vị hết cho nên cần phải có sự cố gắng lúc ban đầu để tránh không mất “chánh niệm”. Thường khi nào muốn tránh những cảnh nhàm chán hay việc gì không thích hợp thì chúng ta hay hướng về những thế giới không tưởng, nghĩ về quá khứ hoặc tương lai và trốn tránh hiện tại. Nhưng nếu một người thật sự muốn hiểu rõ về mình, thì những việc nói trên không có lợi ích gì hết, bởi vì chúng được tổng hợp bởi những ảo tưởng, như sợ hãi, si mê. Trong khi chúng ta thực hành thiền một cách nghiêm ngặt thì chánh niệm có thể theo dõi tất cả những gì đang xảy ra trong tâm trí; trong công việc hàng ngày, ta nên đem chánh niệm đến với việc làm của chúng ta. Một người không nên “gởi” tâm trí đi lông bông, không để nó mơ tưởng về quá khứ hoặc tương lai. Đức Phật ngày xưa có nói như sau :

“Quá khứ như một giấc mơ,

Tương lai tựa ảo tưởng

Trong khi hiện tại như đám mây”.

Sự so sánh này rất cần thiết để giữ sự chú tâm, vì tâm trí hay chạy lăng xăng. Sự thực tập thiền giúp cho tâm trí “nằm trong” cơ thể, nghĩa là luôn có sự chú tâm, nhận biết về một việc gì. Chỉ có người thiền sinh hết lòng mới thấy được lợi ích của việc thực tập. Bởi vì sự thực tập này cắt đứt mọi hứng thú đối với bên ngoài, và làm ngưng bặt sự suy nghĩ viễn vong. Cái hay của chánh niệm là giúp ta tìm thấy được sự hứng thú trong công việc hàng ngày. Mỗi ngày qua đưa chúng ta gần kề với cái chết và cho dù với sự tái sinh ta cũng không biết mình sẽ đi về đâu. Chỉ có hiện tại cho chúng ta cơ hội để thực tập giáo pháp thay vì sống trong ảo tưởng hay chán ghét những gì mình không thích (hoặc dễ dãi với lòng tham của chính mình), với chánh niệm, chúng ta có thể chuyển hướng những thói quen cũ. Không phải bị kềm chế bởi tham lam hay sân hận, và bị thống trị bởi những ảo tưởng, và chỉ có chánh niệm mới có thể chỉ cho chúng ta đến con đường giải thoát.

Trong sự thực tập hàng ngày, chúng ta phải để chánh niệm có mặt luôn luôn để giúp chúng ta dần dần tách khỏi sự ràng buộc. Chúng ta cũng nên khôn ngoan lợi dụng những cơ hội “nghịch” như : chờ đợi xe lửa hay xe buýt, trong lúc chờ đợi ai, bất cứ lúc nào ta một mình trong vài phút. Thay vì chúng ta đọc báo, nói chuyện điện thoại, hay tán dóc với người khác, sẽ có lợi ích hơn nếu chúng ta cho tâm mình được “nghỉ ngơi”. Tách rời sự chú tâm nơi những vật bên ngoài, tập hít thở trong chánh niệm, hoặc lập lại những câu trong giáo pháp, hoặc những chữ như “Buddho” (Phật) hoặc “Arahat” (A-la-hán), làm như vậy cho đến khi chúng ta trở lại với công việc của mình. Trở về bên trong thường thường là một việc làm hết sức lợi ích, nó giúp ta củng cố việc ngồi thiền, và ngồi thiền giúp chúng ta mạnh thêm về khả năng quay lại bên trong. Chú tâm vào hơi thở là một cách tập trung rất tốt trong lúc chúng ta đi du lịch hoặc đang chờ xe buýt hay xe lửa. Tại sao ta phải hấp tấp và thiếu kiên nhẫn ? Một chút thực tập về hơi thở nên dành cho những lúc như thế này, chú tâm vào hơi thở giúp tâm trí ta bớt lăng xăng và giúp cho cơ thể ta bớt dao động. Một du khác phải cứ nhìn ra ngoài cửa sổ trong lúc phi cơ đang bay! Tại sao ta phải làm nô lệ cho cặp mắt trong khi một chút thực tập có thể lợi ích hơn. Một người không cần phải nghe những người chung quanh tán ngẫu, tại sao lại làm nô lệ cho “lỗ tai” ? Người ta không thể đóng hai tai lại, nhưng ai ai cũng có thể đem sự chú tâm của mình vào việc thực tập chánh niệm.

Cũng chính chánh niệm giúp cho sự tập trung trong lúc ngồi thiền. Chẳng hạn như ham muốn nhục dục có thể bị tan biến khi ta nghĩ đến sự mục rửa của thây ma. Nhan sắc được ban tặng cho các cô gái xinh xắn (hoặc anh chàng đẹp trai) trở nên lố bịch khi ta nghĩ đến những ông bà già có hấp dẫn ai đâu. Chỉ khi nào ta nhận thấy chính dục vọng sẽ đốt cháy kẻ ham muốn, lúc ấy ta mới thấy nên từ bỏ nó. Cũng như vậy, sự tham ăn dù chỉ chút chút cũng có thể từ bỏ được khi ta tập trung sự suy nghĩ về những tiến trình của đồ ăn. Đồ ăn đã nhai rồi dù có bày trên đĩa đẹp cách mấy cũng chẳng thấy ngon. Ói mửa cũng là những thức ăn đó nhưng đâu có ai ham. Cả đến phân để trên đĩa bằng vàng cũng không hấp dẫn được ai – nhưng đây lại là những gì còn lại của những món ngon đã ăn ! Khi một người đã suy ngẫm về thức ăn trong ba giai đoạn kể trên, lòng tham sẽ biến mất, và khi một người ăn, họ dùng thức ăn như là một món thuốc để giữ gìn thân thể này.

Trong lúc đang tức giận, chánh niệm có trách nhiệm để biết rằng ta nên đem sự chú ý qua một đề tài khác hay một người khác. Chính chánh niệm cảnh giác chúng ta khi chúng ta sắp sửa tức giận, và chính chánh niệm sẽ giúp ta chuyển hướng và giữ được thế quân bình.

Khi ganh tỵ xuất hiện, chánh niệm giúp ta thấy bằng tâm trí là “ganh tỵ đang xuất hiện”, và nếu ta không vui mừng với niềm vui của kẻ khác thì chánh niệm cũng cho ta biết rõ điều đó để giúp ta giữ thế quân bình hoặc giúp ta hướng sự chú ý của mình đến những đề tài khác. Đức Phật thật sự đã nói, “Chánh niệm, ta tuyên bố, rất là lợi ích ở mọi nơi”.

Những người có ý tưởng lệch lạc cho rằng Phật giáo khuyến khích sự thiền định cá nhân, cho nên không làm gì lợi ích cho xã hội. Họ nên hiểu rằng người Phật tử tin là xã hội có thể tốt hơn, nếu mỗi người biết tự sửa đổi. Một xã hội lý tưởng theo người Phật tử đã được đức Phật giảng trong những bài pháp dành cho người cư sĩ, và luôn nhấn mạnh sự phát triển của cá nhân là quan trọng và là một yếu tố cần thiết. Một xã hội lành mạnh là nơi mà có những người dân sống hoà bình với chính bản thân mình. Sự phát triển về trí tuệ và từ bi của một người có ảnh hưởng đến những người chung quanh, như là bột nổi bỏ vào trong bột bánh. Vì vậy người Phật tử luôn kêu gọi hãy cố gắng đạt sự an bình trong tâm mình, một khi mọi người có an bình trong tâm họ thì hoà bình sẽ có mặt trên thế giới. Nếu chỉ muốn có hoà bình mà không tự tu tâm thì không làm sao có được hoà bình miên viễn, vì gốc rễ tham, sân, si vẫn còn nằm trong tim mọi người. Không thực tế ? Chỉ dành cho những người không thực tập. Những người có thực tập nhận thấy sự lợi ích của thiền, đã giúp họ giải quyết được một số vấn đề trong cuộc sống.

Cho dù có tham gia nhiều ngày để thực tập thiền, con đường đưa đến Niết bàn vẫn cần nhiều nổ lực. Đôi lúc gặp phải trở ngại trên đường, nhưng với chánh niệm làm ngọn đèn soi sáng, ta hiểu được rằng mục đích của mình là đáng giá và huy hoàng, không phải chỉ cho riêng ta mà cho tất cả mọi chúng sanh.

------------------------------------------------
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
BA MỤC TIÊU CỦA TỌA THIỀN

Mục tiêu của tọa thiền có ba:

a)Phát triển định lực (Joriki).
b) Giác ngộ (Kensho Godo: Kiến tánh ngộ đạo).
c) Thể hiện Đạo vô thượng trong cuộc sống hàng ngày (Mujodo No Taigen: Vô thượng đạo chi thể hiện).


Ba mục tiêu này tạo thành một thể không thể phân chia được, nhưng vì mục đích biện luận tôi buộc phải nói đến chúng một cách riêng rẽ.

Định lực, mục tiêu đầu trong ba mục tiêu, là năng lực hay sức mạnh phát sinh khi tâm được hợp nhất qua sự tập trung. Định lực này còn hơn cả cái khả năng tập trung theo nghĩa thông thường của từ. Nó là một động lực, một khi được vận động, có thể khiến chúng ta, ngay cả trong những tình huống đột ngột và bất ngờ nhất, hoạt động tức khắc, không ngần ngại tập hợp trí tuệ lại và trong một cách thức hoàn toàn thích ứng với mọi hoàn cảnh. Một người đã phát triển định lực không còn nô lệ vào các đam mê của mình, người ấy cũng không còn lệ thuộc vào lòng thương xót sự vật chung quanh mình. Luôn luôn làm chủ cả chính mình lẫn các hoàn cảnh đời mình, người ấy hành động với sự tự do và bình tĩnh hoàn toàn. Nhờ định lực, người ta cũng có thể luyện được những năng lực siêu nhiên, như trạng thái trong đó tâm trở nên giống như nước hoàn toàn yên tĩnh.

Hai loại đầu trong năm loại Thiền tôi đã nói tùy thuộc hoàn toàn vào định lực, cũng như trạng thái vô tâm thể hiện trong Thiền Tiểu Thừa - trạng thái trống rỗng trong đó sự vận hành có ý thức của tâm bị chận đứng. Bây giờ, mặc dù sức mạnh của định lực có thể phát triển vô tận qua thực hành đều đặn, nó sẽ thụt lùi và bất thần biến mất nếu chúng ta chểnh mảng tọa thiền. Và trong khi có nhiều năng lực phi thường phát sinh từ định lực, song chỉ một mình định lực thì chúng ta không thể cắt đứt được gốc rễ cái nhìn hư vọng của mình về thế giới. Một sức mạnh của sự tập trung thì không đủ cho loại Thiền cao nhất, phải có giác ngộ hỗ trợ nữa mới được. Trong một tài liệu ít được biết đến do Tổ Thanh Đầu Hy Thiên (Sekito Kisen), người sáng lập một trong các phái Thiền vào giai đoạn sớm nhất, truyền xuống chúng ta ngày nay, có đoạn nói: "Trong phái chúng ta, sự nhận ra Phật tánh chứ không phải chỉ lòng sùng mộ hay định lực là tối cao."

Mục tiêu thứ hai là kiến tánh ngộ đạo, nhìn thấy tự tánh chân thật của mình và đồng thời nhìn thấy bản tánh tối thượng của vũ trụ và "tất cả vạn vật trong ấy." Ấy là sự hốt nhiên nhận ra rằng: "Xưa nay ta vốn đầy đủ và toàn hảo. Kỳ diệu thay, huyền diệu thay!" Nếu là thấy tánh thật, thì thực chất sẽ luôn luôn y nhau đối với bất cứ ai kinh nghiệm nó, dẫu người ấy là Phật Thích Ca Mâu Ni hay Phật A Di Đà hay bất cứ người nào trong quý vị tụ hội nơi đây. Nhưng nói thế không có nghĩa là tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm kiến tánh ở cùng một mức độ, vì trong cái rõ, cái sâu, cái đầy đủ của kinh nghiệm có những khác biệt lớn. Để minh họa quý vị có thể tưởng tượng một người mù ngay từ lúc mới sinh vừa bắt đầu thấy lại dần dần. Thoạt đầu, người ấy chỉ có thể thấy rất lờ mờ, u tối và chỉ thấy những vật gần mình. Rồi khi cái thấy khá hơn người ấy có thể phân biệt được các vật cách khoảng một thước, rồi đến những vật khoảng mười thước, cuối cùng người ấy có thể nhận ra bất cứ vật gì ở xa đến một ngàn thước. Ở mỗi giai đoạn này, thế giới hiện tượng người ấy nhìn thấy không khác nhau, nhưng những khác biệt trong độ rõ ràng và chính xác của cái thấy về thế giới đó rất to lớn như giữa tuyết và than. Các kinh nghiệm kiến tánh của chúng ta cũng khác biệt như thế về độ rõ và độ sâu.

Mục tiêu cuối cùng trong ba mục tiêu này là sự thể hiện Đạo Vô thượng trong toàn thể con người và trong những hoạt động hàng ngày của chúng ta. Ở điểm này, chúng ta không phân biệt cứu cánh và phương tiện. Tối thượng thừa mà tôi đã nói là loại thứ năm, là loại cao nhất trong năm loại Thiền, tương ứng với giai đoạn này. Khi quý vị ngồi một cách hăng say và không vị kỷ hợp với sự chỉ đạo của một bậc chân sư, nghĩa là hợp với tâm mình mặc dù có ý thức đầy đủ, hoàn toàn vô niệm như tờ giấy trắng tinh không một vết bẩn, bây giờ dù quý vị đã ngộ hay chưa, tánh Phật thanh tịnh vốn có của mình vẫn khai mở. Nhưng ở đây phải nhấn mạnh rằng chỉ với chân ngộ quý vị mới có thể trực nhận được chân thể tánh Phật của mình và Tối thượng thừa loại Thiền thuần khiết nhất, không gì khác hơn là loại Thiền đã được chư Phật thực hành.

Thực hành Thiền Phật giáo phải bao gồm cả ba mục tiêu này, vì chúng tương quan với nhau. Chẳng hạn, giữa định lực và kiến tánh có một mối liên kết chặt chẽ. Kiến tánh là "huệ kết hợp tự nhiên với định," nó là năng lực phát sinh từ sự tập trung. Định lực còn kết hợp với kiến tánh theo một cách khác nữa. Nhiều người sẽ không bao giờ kiến tánh được trừ phi trước hết phải luyện được định lực đến một mức nào đó, và nếu không họ có thể tự thấy quá bất an, quá nóng nảy và không dễ kiên nhẫn tọa thiền. Hơn nữa, trừ phi được định lực tăng sức cho, một kinh nghiệm kiến tánh đơn độc sẽ không có hiệu quả đáng kể đối với cuộc sống quý vị và nó sẽ tàn lụi chỉ còn là một kỷ niệm. Vì dù qua kinh nghiệm kiến tánh, quý vị đã hiểu được cái nhất thể sâu kín của vũ trụ bằng con mắt tâm, không có định lực, quý vị cũng không thể tác động với toàn bộ sức mạnh con người mình trên những gì nội kiến vén mở.

Ngoài ra còn có mối tương quan giữa kiến tánh và mục tiêu thứ ba, sự thể hiện Đạo Vô thượng. Kiến tánh khi đã hiện thân trong toàn bộ hành động của quý vị là thể hiện Đạo Vô thượng. Với giác ngộ viên mãn (Anuttara Samyak Sambodhi), chúng ta hiểu rằng ý niệm của chúng ta về thế giới như là nhị nguyên và đối lập là sai lầm, và với nhận thức này, thế giới của cái một của hài hòa và bình an chân thực đã vén mở.

Phái Lâm Tế có khuynh hướng cho rằng ngộ là mục tiêu tối hậu và xem nhẹ định lực và sự thể hiện Đạo Vô thượng. Như thế nhu cầu tiếp tục thực hành sau khi ngộ bị giảm thiểu và việc tham công án, vì nó không được tọa thiền hỗ trợ và hầu như không quan hệ gì với cuộc sống hàng ngày, chủ yếu trở thành một trò chơi của lý trí thay vì là một phương tiện để phát triển và tăng sức cho ngộ.

Mặt khác, trong khi thực hành được các chi nhánh chính của phái Tào Động ngày nay bênh vực nó lại nhấn mạnh sự thể hiện Đạo Vô thượng, thực tế nó không có gì khác hơn là sự tích lũy định lực, mà như tôi đã nói, nó sẽ "rỉ lậu" hoặc thoái hóa và cuối cùng biến mất trừ phi người ta tọa thiền đều đặn. Phái Tào Động ngày nay chủ trương rằng kiến tánh là không cần thiết và người ta không cần gì hơn là thực hiện các hoạt động hàng ngày với tâm Phật. Như thế chỉ là bề ngoài không có thực chất vì không kiến tánh, quý vị không bao giờ thực sự biết được tâm Phật này là cái gì.

Những sự mất quân bình như thế trong cả hai phái (5) Đoạn sau đây trích từ một bản thảo chưa xuất bản của Nyogen Senzaki đã quá cố miêu tả những dị biệt giữa Lâm Tế và Tào Động một cách thơ mộng và hấp dẫn: "Trong giới học Thiền, có người nói rằng Giáo lý Lâm Tế như sương cuối thu, làm người ta rùng mình, trong khi giáo lý Tào Động như gió xuân êm nhẹ ve vuốt bông hoa giúp nó chóng nở. Rồi có người khác nói: Giáo lý Lâm Tế giống như một dũng tướng điều động ba quân không trễ nãi, trong khi giáo lý Tào Động giống như một nông gia chăm sóc ruộng lúa, hết cây này đến cây khác, một cách kiên nhẫn." trong những lúc gần đây không may đã làm tổn hại phẩm chất của giáo lý Thiền. Đến đây là kết thúc nói về ba mục tiêu của tọa thiền.

ĐỘC THAM

Quý vị cứ tiếp tục thực hành bài tập cho lần cuối, nghĩa là tập trung vào hơi hít

vào và hơi thở ra và cố gắng thấy rõ từng

hơi một.

Bài nói này bàn về độc tham (Dokusan: tham vấn từng cá nhân), nó là thời gian dành cho việc mang tất cả các vấn đề thuộc về thực hành ra trước vị Lão sư một cách riêng tư. Truyền thống chỉ dạy riêng tư từng cá nhân này bắt đầu với chính đức Thích Ca Mâu Ni và đã được tiếp tục không gián đoạn đến ngày nay. Chúng ta biết thế vì một trong các đại sư của phái Thiên Thai, Trí Giả đại sư, trong sự hệ thống hóa của ông về toàn bộ các kinh điển vào tám giáo và năm thời có ghi giáo lý bí mật mà nó tương ứng với độc tham.

Không có sự hướng dẫn cá nhân này, chúng ta không thể nói rằng việc thực hành tọa thiền của mình là chân truyền. Không may từ thời Minh Trị, gần một trăm năm qua, độc tham đã chết thực sự trong phái Tào Động và chỉ còn trong truyền thống Lâm Tế. Nếu chúng ta ví tọa thiền với cuộc du hành thì một vài người khởi hành nhanh rồi sau đó chậm lại, một vài người khi bắt đầu chậm rồi sau đó gia tăng tốc độ, một vài người thấy giai đoạn này gian nan hơn giai đoạn kia, và tất cả mang những gánh nặng hành lý khác nhau (tức các dự tưởng), chúng ta bắt đầu có thể hiểu được tại sao không thể bỏ được sự hướng dẫn cá nhân trong độc tham.

Người ta có thể hỏi tại sao phải giữ bí mật cuộc độc tham. Vì không có gì là phi luân, tại sao không thể công khai giữa công chúng? Trước hết, vì chúng ta là những người tầm thường với cái ta, trước mặt kẻ khác chúng ta có khuynh hướng tỏ ra mình tốt hơn mình thực sự. Chúng ta không thể trơ trụi linh hồn và trần truồng thể xác thực sự. Vả lại chúng ta ngại nói toàn bộ sự thật, vì sợ bị cười. Hoặc giả, bị Lão sư quở trách, dùng ngôn ngữ thô bạo, chúng ta sẽ quan tâm đến ảnh hưởng của điều này vì sự có mặt của những người khác hơn là chỉ lắng nghe Lão sư với lòng rộng mở.

Còn một lý do nữa để giữ bí mật cuộc độc tham. Sau kinh nghiệm kiến tánh đầu tiên, quý vị đi từ công án này đến công án khác và nếu có mặt người khác ở đó khi quý vị cần chứng minh công án, nghe các câu trả lời của Lão sư, họ có thể nghĩ rằng: "A, câu trả lời là như thế" mà hoàn toàn không hiểu ý nghĩa công án. Hiển nhiên điều này làm tổn thương việc tu tập của họ, thay vì họ phải đi đến sự chứng ngộ và trình bày nó với Lão sư họ lại nhớ đến những câu trả lời của Lão sư, câu này có thể chấp nhận được còn câu kia thì không, song không phải thế và như thế là tự làm hại mình, việc tham công án của họ sẽ thoái hóa và chỉ còn là một tác dụng của lý trí. Vì những lý do đó, quý vị phải giữ im lặng khi có ai hỏi gì về một công án mà người hỏi chưa vượt qua được. Cuộc nói chuyện vô trách nhiệm có thể đưa đến những hậu quả nguy hiểm khác. Tin đồn có thể lan truyền rằng có người bị đánh dã man trong khi độc tham, chẳng hạn, đem lại cho Thiền tiếng xấu không xứng đáng. Vì thế, đừng bàn luận với bất cứ người nào về công án của mình, dù cho với những người bạn tốt nhất, hay với người thân trong gia đình.

Rõ ràng sự vi phạm bí mật bao quanh hệ thống công án xưa kia đã đưa đến sự suy đồi đều đặn trong giáo lý Lâm Tế. Những gì tôi sắp nói đến không áp dụng cho hàng cư sĩ, những người thường rất nghiêm túc trong tu tập. Nhưng ở các tự viện nơi có những tăng nhân phẫn uất với toàn bộ sự huấn luyện ở tại những nơi đó, ở địa vị đầu tiên chỉ phục vụ thời kỳ đòi hỏi để hưởng quyền tăng nhân nội trú của một ngôi chùa, vấn đề này trở nên rất nghiêm trọng. Ở các tự viện mà giới luật còn khiếm khuyết, một tăng nhân lớn tuổi hơn thường hỏi một tăng nhân nhỏ tuổi: "Chú đang tham công án gì thế?" Khi được nói cho biết, người lớn tuổi sẽ hỏi: "Chú có hiểu nó không?" "Không." - "Được rồi, tôi sẽ bảo chú câu trả lời", người tăng nhân lớn tuổi hơn nói - "Và đáp lại chú phải mua cho tôi ít bánh ngọt nhé." Vị lão sư có thể nói câu trả lời ấy có chân xác hay không, nhưng vì một lý do nào đó ông vô tình có thể chấp nhận câu trả lời không phải của tăng nhân ấy. Sự tu tập nay có thể không có gì nguy hiểm đặc biệt nếu một tăng nhân như thế chỉ ở vài ba năm trong tự viện trước khi trở thành tăng nhân nội trú trong chùa, khi không đòi hỏi tăng nhân ấy nhiệm vụ đánh giá sự giác ngộ của người khác. Nhưng điều có thể xảy ra là không có sự khai mở nào cả khi tăng nhân ấy hoàn tất sự tu tập tối thiểu để mình có thể ở lại tự viện có thể đến tám hoặc mười năm, thông qua toàn bộ hệ thống công án với những câu trả lời không phải của mình.

Cuối cùng, theo thông lệ trong phái Lâm Tế, khi một người hoàn tất toàn bộ các công án, sẽ được nhận danh hiệu là Sư. Như thế là một người không có sự hiểu biết chơn thực trở thành xứng đáng hướng dẫn người khác. Sự tu hành gian trá này đã ngấm ngầm phá hoại giáo lý Thiền. Các học giả Tào Động nghiên cứu Thiền một cách hàn lâm công kích hệ thống công án chỉ vì lý do này là đúng.

Điểm kế tiếp nói về hỏi những gì là thích đáng trong lúc độc tham. Tất cả các câu hỏi phải liên quan với các vấn đề phát sinh trực tiếp từ sự thực hành của quý vị. Điều này đương nhiên loại bỏ các vấn đề cá nhân riêng tư. Quý vị có thể thấy rằng sự riêng tư trong độc tham đem lại cơ hội tuyệt hảo để bàn đến các vấn đề cá nhân nhưng phải nhớ rằng những người khác đang chờ và nếu quý vị đưa ra những vấn đề khác ngoài các vấn đề tu tập của mình là quý vị đang làm trở ngại đấy. Đúng ra, quý vị có thể hỏi về cái bao tử của mình, chẳng hạn, nếu nó cồn cào hoặc cái răng đau đến nỗi không thể ăn được, hoặc về các ma cảnh quý vị có thể đang trải qua. Tuy nhiên, quý vị không nên hỏi về giáo lý Phật giáo hay Triết học tỷ giảo hoặc sự khác biệt giữa kinh này và kinh khác. Quý vị có thể hỏi bất cứ điều gì chừng nào nó còn phát xuất trực tiếp từ sự thực hành của quý vị.

Thủ tục đối với một học viên mới là biếu tiền mua nhang cho vị Lão sư trước khi bước vào độc tham. Người ta có thể hỏi tại sao lại có nghi thức như thế? Độc tham, không thể nhấn mạnh quá đáng, không phải là chuyện tầm phào vô ích. Trong khi mọi người tự do thực hành tọa thiền và lắng nghe Lão sư thuyết pháp về nhiếp tâm, đặc trưng chủ yếu của độc tham là tạo nên một mối dây nghiệp duyên giữa thầy và trò, ý nghĩa của nó rất sâu xa trong Phật giáo. Vì thế, không thể coi nhẹ độc tham. Hơn nữa vì những gì diễn ra giữa Lão sư và môn đệ trong độc tham có quan hệ với các vấn đề về bản tánh sâu xa và tối thượng, ở đó người ta phải nói sự thật. Trong những cuộc hội họp công cộng thường người ta rất ngại nói những điều làm phật ý người khác, nhưng trong độc tham không thể như thế được, vì chân lý tuyệt đối luôn luôn phải chiếm ưu thế. Vì những lý do này, những nghi thức đã được thiết lập không thể xem nhẹ được.

Mặc lễ phục để vào độc tham là đúng, nhưng ngày nay người ta không cố chấp việc ấy, quý vị có thể mặc bất cứ thứ gì thấy thích hợp là được. Khi được báo cho biết sắp độc tham, quý vị hãy sắp hàng phía sau cái chuông bên ngoài phòng tọa thiền. Khi đến lượt mình nghe cái chuông tay của tôi, hãy gõ vào cái chuông trước mặt quý vị hai lần và đến phòng này. Quý vị không nên chạy thốc vào vì như thế sẽ gây bối rối và quý vị sẽ không ở trong một tâm thái có lợi cho độc tham. Quý vị cũng không nên thơ thẩn đi vào vì có những người khác đang chờ. Theo tục lệ, đầu tiên quý vị sẽ lạy ba lạy ở ngưỡng cửa, rồi lạy ba lạy ở trước Lão sư, và rồi ba lạy nữa ở lối ra khi quý vị bước ra, nhưng bây giờ người ta giản lược chỉ còn ba lạy tất cả, mỗi lạy mỗi nơi kể trên.

Khi lạy trán quý vị phải chạm nhẹ xuống thảm, hai bàn tay giơ ra phía trước đầu, lòng bàn tay ngửa lên. Rồi co đôi cánh tay ở hai cùi chỏ, đưa hai bàn tay lên, lòng bàn tay ngửa quá đầu một tấc.

Dáng điệu thọ nhận đôi bàn chân, những phần thấp nhất của thân Phật này, tượng trưng cho sự khiêm tốn và sự tiếp nhận đầy lòng biết ơn Đạo của Phật vào cuộc sống của mình. Trừ phi đã nhận chìm cái ta của mình, thì quý vị không thể làm được việc ấy. Hãy nhớ rằng, vị Lão sư không những chỉ là người thay mặt Phật mà thật sự ông đang đứng chỗ của Phật. Lạy như thế, thực ra là quý vị đang bày tỏ lòng kính trọng Pháp.

Kế tiếp hãy đến trước tôi khoảng cách ba bốn tấc và nói cho tôi biết môn tu tập của mình. Chỉ nói một cách đơn giản: "Tôi đang đếm hơi thở," "Tôi đang tham công án KHÔNG" hoặc "Tôi đang thực hành Chỉ quán đả tọa." Hãy hỏi những câu ngắn gọn và đúng trọng tâm. Nếu có gì cần nói, tôi sẽ nói sau khi quý vị nói xong. Nhưng đừng vào làm phí thì giờ hỏi những việc vớ vẩn, hãy nhớ có những người khác đang chờ gặp tôi. Khi tôi rung cái chuông này là để quý vị tỏ dấu cúi đầu chào và từ giã. Sau đó nếu quý vị nhớ đến điều gì, hãy để đến lần độc tham khác, vì người kế tiếp đã sẳn sàng bước vào.

-------------------------------------------
Trích từ "Ba Trụ Thiền"

Đỗ Đình Đồng dịch.
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
KHỔ NÃO ! VỌNG TƯỞNG!

Nhiều người không biết rằng "đôi khi" KHỔ NÃO và VỌNG TƯỞNG, do chính chúng ta tự tạo, đừng đổ thừa Ngoại Cảnh hoặc Tha Nhân .

Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Ngồi trên thuyền ngao du sơn thuỷ, thoải mái , thanh thản .
Tuy nhiên nếu ràng buộc vào một vật hay một cảnh nào hai bên bờ hoặc trên giòng sông tất bị lạc hướng hoặc gặp nguy hiểm .

Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Ảo Giác !

Thiền Sinh khi ngồi thiền hay có nhiễu ảo giác .
Ngay trong hàng ngày, chúng ta vẫn đang sống trong ảo giác:
Nếu chúng ta cứ đi thẳng mãi trên một con đường thẳng, cuối cùng ta sẽ trở lại điểm khởi hành vì quả đất tròn .
Vậy cái mà chúng ta cứ cho rằng đó là đường thẳng, thật ra nó là đường cong !
Tương tự, máy bay cứ bay mãi theo đường thẳng trên trời, cuối cùng cũng sẽ về nơi khởi điểm .

Nếu Thiền Sinh cứ tin vào ảo giác cho là mình chứng thánh tất sẽ đi vào cái vòng luẩn quẩn đó và không thoát ra được cũng như không thoát ra được vòng sinh tử .
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
Thấy gì ?

Khi chúng ta nhìn vào một hồ nước "trong", không bị xao động, ta thấy gì ?

1- Thấy rõ đáy hồ và các vật trong hồ .
2- Thấy ảnh của nền trời xanh hoặc cảnh vật quanh hồ phản chiếu .
3- Không Thấy Nước !

Nếu Tâm không bị xao động, ta thấy tất cả, thật lẫn ảo tuy rằng không thấy Tâm ta . Cái thấy của ta cho biết là cái "không có gì đó" hoặc "không thấy đó" hiện hữu .

Mến,
 

phivan

Registered
Phật tử
Tham gia
15 Thg 6 2006
Bài viết
1,138
Điểm tương tác
1
Điểm
38
LỬA

Lửa là một trong Tứ Đại : Đất, Nước, Gió, Lửa .

Tuy nhiên Lửa cũng có nhiều loại :

- Lửa Trí Tuệ : Soi sáng mình và tha nhân .

- Lửa Từ Bi : Đem sự ấm áp thương yêu đến mọi người .

- Lửa Dục : Thiêu đốt chính bản thân mình và làm hại người khác .

Cũng là lửa, nhưng chúng ta khi làm chủ được nó, nó sẽ là ngọn đuốc trong Tâm .

Mến,
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên