NGŨ TỔ HOẰNG NHẪN
Kinh Thập Địa nói “ Trong thân chúng sinh có Phật tánh Kim Cang “. Ví như mặt trời tròn đầy sáng suốt, rộng lớn không ngằn mé. Chỉ vì mây đen ngũ ấm che đậy, như ngọn đèn để trong bình, ánh sáng không thể chiếu soi. Ví như thế gian, tám hướng mây mù đều dậy, khắp nơi đều tối tăm. Mặt trời đâu có tan hoại, tại sao không có ánh sáng ? Ánh sáng nguyên không hoại, vì bị mây mù che. Tâm thanh tịnh của tất cả chúng sinh cũng như thế. Chỉ vì bị mây đen vịn theo vọng niệm phiền não và các kiến chấp che đậy. Nếu hay giữ tâm lắng lặng, vọng niệm không sanh thì pháp Niết Bàn tự nhiên hiển hiện. Cho nên biết tâm mình xưa nay thanh tịnh.
Chơn tâm này tự có, không từ ngoài đến, không ràng buộc trong ba đời. Chỗ chí thân không gì hơn tự giữ tâm này. Nếu có người biết tâm, giữ tâm ắc đến bờ kia. Người mê tâm bỏ tâm thì đọa tam đồ. Chư Phật trong ba đời đều lấy tâm làm bổn sư. Luận nói “ Rõ ràng giữ gìn tâm thì vọng niệm không khởi, tức là vô sanh ”. cho nên biết tâm là bổn sư .
Chư Phật mười phương ngộ đạt pháp tánh, đều tự nhiên chiếu sáng nơi nguồn tâm, vọng tưởng không sanh, chánh niệm không mất, tâm ngã sở diệt, nên không thọ sanh tử, không sanh tử nên rốt ráo vắng lặng, cho nên muôn cái vui đầy đủ. Tất cả chúng sanh mê chơn tánh không biết gốc tâm, các thứ vọng duyên. Không tu chánh niệm nên tâm yêu ghét dấy khởi. Do yêu ghét nên hồ tâm bị bể chảy nên có sanh tử. Có sanh từ thì các khổ đều hiện. Kinh Tâm Vương nói “ Chơn như Phật tánh lặn trong biển sáu thức thấy biết, chìm đắm sanh tử, không được giải thoát ”. Cố gắng lãnh hội chỗ ấy, giữ chơn tâm thì vọng niệm không sanh, tâm ngã sở diệt, tự nhiên cùng Phật bình đẳng không hai.
Biết tâm nên ngộ, mất tánh nên mê, duyên đến liền hiệp, nói không thể cùng, chỉ tin quả quyết gìn giữ tâm mình . Kinh Duy Ma nói “ Không tự tánh, không tha tánh, pháp xưa không sanh nay cũng không diệt. Ngộ pháp này liền lìa hai bên vào trí vô phân biệt ”. Nếu người hiểu được nghĩa này chỉ khi tu biết được pháp yếu giữ tâm là bậc nhất. Ở đây nói giữ tâm là cội gốc của Niết Bàn, là yếu môn vào đạo, là tông của mười hai bộ kinh, là tổ của chư Phật ba đời.
Thể của Niết Bàn là vắng lặng, vô vi, an lạc. Tâm ta đã là chơn như. Vọng tưởng thì đoạn, vì đoạn vọng tưởng nên đủ chánh niệm, vì đủ chánh niệm nên trí tịch chiếu sanh, vì trí tịch chiếu sanh nên đạt tột pháp tánh, vì đạt tột pháp tánh nên được Niết Bàn. Cho nên biết giữ tâm mình là cội gốc Niết Bàn.
Kinh nói “ Chỉ chắp một tay, lấy móng tay vẽ hình tượng Phật hoặc tạo công đức như cát sông Hằng đều thành Phật đạo, chỉ là Phật giáo hóa chúng sinh không trí tuệ, tạo nghiệp được quả báo thù thắng ở đời sau, gây nhơn thấy Phật . Nếu người mong sớm thành Phật nên giữ chơn tâm. Trong ba đời, chư Phật nhiều vô lượng vô biên, nếu có một vị không giữ tâm mà thành Phật, hoàn toàn vô lý. Cho nên kinh nói “ Cột tâm một chỗ không việc gì chẳng xong “. Thế nên biết giữ chơn tâm là yếu môn vào đạo.
(trang 13)
Kinh Thập Địa nói “ Trong thân chúng sinh có Phật tánh Kim Cang “. Ví như mặt trời tròn đầy sáng suốt, rộng lớn không ngằn mé. Chỉ vì mây đen ngũ ấm che đậy, như ngọn đèn để trong bình, ánh sáng không thể chiếu soi. Ví như thế gian, tám hướng mây mù đều dậy, khắp nơi đều tối tăm. Mặt trời đâu có tan hoại, tại sao không có ánh sáng ? Ánh sáng nguyên không hoại, vì bị mây mù che. Tâm thanh tịnh của tất cả chúng sinh cũng như thế. Chỉ vì bị mây đen vịn theo vọng niệm phiền não và các kiến chấp che đậy. Nếu hay giữ tâm lắng lặng, vọng niệm không sanh thì pháp Niết Bàn tự nhiên hiển hiện. Cho nên biết tâm mình xưa nay thanh tịnh.
Chơn tâm này tự có, không từ ngoài đến, không ràng buộc trong ba đời. Chỗ chí thân không gì hơn tự giữ tâm này. Nếu có người biết tâm, giữ tâm ắc đến bờ kia. Người mê tâm bỏ tâm thì đọa tam đồ. Chư Phật trong ba đời đều lấy tâm làm bổn sư. Luận nói “ Rõ ràng giữ gìn tâm thì vọng niệm không khởi, tức là vô sanh ”. cho nên biết tâm là bổn sư .
Chư Phật mười phương ngộ đạt pháp tánh, đều tự nhiên chiếu sáng nơi nguồn tâm, vọng tưởng không sanh, chánh niệm không mất, tâm ngã sở diệt, nên không thọ sanh tử, không sanh tử nên rốt ráo vắng lặng, cho nên muôn cái vui đầy đủ. Tất cả chúng sanh mê chơn tánh không biết gốc tâm, các thứ vọng duyên. Không tu chánh niệm nên tâm yêu ghét dấy khởi. Do yêu ghét nên hồ tâm bị bể chảy nên có sanh tử. Có sanh từ thì các khổ đều hiện. Kinh Tâm Vương nói “ Chơn như Phật tánh lặn trong biển sáu thức thấy biết, chìm đắm sanh tử, không được giải thoát ”. Cố gắng lãnh hội chỗ ấy, giữ chơn tâm thì vọng niệm không sanh, tâm ngã sở diệt, tự nhiên cùng Phật bình đẳng không hai.
Biết tâm nên ngộ, mất tánh nên mê, duyên đến liền hiệp, nói không thể cùng, chỉ tin quả quyết gìn giữ tâm mình . Kinh Duy Ma nói “ Không tự tánh, không tha tánh, pháp xưa không sanh nay cũng không diệt. Ngộ pháp này liền lìa hai bên vào trí vô phân biệt ”. Nếu người hiểu được nghĩa này chỉ khi tu biết được pháp yếu giữ tâm là bậc nhất. Ở đây nói giữ tâm là cội gốc của Niết Bàn, là yếu môn vào đạo, là tông của mười hai bộ kinh, là tổ của chư Phật ba đời.
Thể của Niết Bàn là vắng lặng, vô vi, an lạc. Tâm ta đã là chơn như. Vọng tưởng thì đoạn, vì đoạn vọng tưởng nên đủ chánh niệm, vì đủ chánh niệm nên trí tịch chiếu sanh, vì trí tịch chiếu sanh nên đạt tột pháp tánh, vì đạt tột pháp tánh nên được Niết Bàn. Cho nên biết giữ tâm mình là cội gốc Niết Bàn.
Kinh nói “ Chỉ chắp một tay, lấy móng tay vẽ hình tượng Phật hoặc tạo công đức như cát sông Hằng đều thành Phật đạo, chỉ là Phật giáo hóa chúng sinh không trí tuệ, tạo nghiệp được quả báo thù thắng ở đời sau, gây nhơn thấy Phật . Nếu người mong sớm thành Phật nên giữ chơn tâm. Trong ba đời, chư Phật nhiều vô lượng vô biên, nếu có một vị không giữ tâm mà thành Phật, hoàn toàn vô lý. Cho nên kinh nói “ Cột tâm một chỗ không việc gì chẳng xong “. Thế nên biết giữ chơn tâm là yếu môn vào đạo.
(trang 13)