Trình trưởng bối muathularung!
Các thầy hay dạy rằng: người hiện nay giàu có, đẹp đẽ, làm quan... là nhờ phước báu đời trước...
Các thầy hay dạy rằng: hôm nay những người đến được đạo tràng tu học Phật pháp, cũng nhờ nhiều kiếp vun trồng tu hành mới có được
Song cũng là phước báu tu hành vun trồng nhiều kiếp trước, mà có người lại không giàu,thậm chí đói nghèo dù rằng rất quyết tâm tu hành đến đạo quả (hành đúng pháp)
Lại những người hiện đời làm quan , giàu có.. là hầu hết là làm điều xấu ác mới có được. vậy có trái với cái gọi là tiếp nối dòng tâm thức ?
…
Đây là những câu hỏi thuộc về nhân quả chẳng lầm.
Các vị thầy thường thuyết giảng rằng những người ở hiện đời này giàu có, đẹp đẽ, làm quan… là do phước báo đời trước, và những người ngày nay có điều kiện đến đạo tràng để học Phật, tin Phật là những người đã vun bồi việc tu hành từ nhiều đời kiếp trước là những lời nói đúng cùng chẳng đúng.
Tại sao lại có việc đúng cùng chẳng đúng?
Đúng là vì những lời nói trên tựa nơi y kinh mà đúng, song do chỉ tựa nơi y kinh mà chỗ hiểu biết của các vị thốt ra những lời trên khó thể tường tận cội nguồn của lý nhân quả vì thế nên những lời nói ấy tự có điều chẳng đúng. Kỳ thực họ chỉ nói ra những lời nói trên là dựa vào tín tâm, vào kinh sách mà chẳng thể tường tận chỗ chẳng lầm nhân quả, cứ tin là vậy rồi gieo vào lòng người cứ tin là vậy, vô hình chung việc làm thành lệ đó đã khỏa lấp, che giấu sự vô minh, tăm tối của cái biết tự thân. Nếu họ chỉ tựa vào y kinh diễn nói thì quả thật là họ chưa minh tâm, kiến tánh, chưa thể đáo nhập niết bàn.
Cụ thể là nơi những dẫn chứng liền kề của trưởng bối đã có chút biểu hiện của nhân quả chẳng đồng. Việc có những người tu hành quyết tâm đạt đến đạo quả (hành đúng pháp) lại có quả báo không giàu thậm chí đói nghèo, thân suy, hình bại; ngược lại có lắm kẻ làm điều xấu ác, nham hiểm, tệ bạc lại rất đỗi giàu có, quyền thế lẫy lừng.
…
Đúng thật là dòng tâm thức sẽ được tiếp nối từ đời này sang đời khác nhưng nó không là một dòng chảy chuyển động đều, xen lẫn những đoạn dòng chảy gấp rút, quyết liệt có những dòng chảy tựa chừng như gián đoạn và có cả những dòng chảy êm ả, lặng lờ.
Muốn sáng rõ con đường giải thoát sinh tử, quy luật nhân quả luân hồi thì người học Phật không thể đọc kinh sách cho nhiều rồi chấp lấy cái hiểu đó dương dương tự đắc ta biết, ta hiểu, ta đã vun bồi công đức, trí tuệ, ta sẽ được Phật đoái thương và có được một cái vé tốt ở đời sau. Cái bè của Phật Thích Ca để lại cho nhân loại không phải là nhằm vào việc khiến người đời sau mang vác nặng oằn nơi vô minh sinh tử, kinh sách không là kiến thủ để che lấp sự hiểu biết khách quan, sáng rõ ở người học Phật.
Người học Phật cần dùng trí tuệ của mình để quán chiếu những điều chưa rõ, chưa biết cho đến khi thông tỏ vạn pháp, quy luật luân hồi nhân quả thì mới có thể chặt đứt lưới vô minh, cứu cánh niết bàn mới hiển lộ. Đọc kinh sách cho nhiều rồi vọng chấp ta tự đầy đủ, ta tự viên dung rồi sinh tâm kiêu mạn, dưới mắt không người xem thường người hậu học thì khi vô thường gọi khó tránh khỏi việc tâm kinh, lòng loạn, các nẻo xấu ác nơi hậu kiếp khó thể lìa xa.
Muốn quán chiếu tường tận việc nhân quả chẳng lầm người học Phật hãy mở lòng ra nhìn và quán chiếu quy luật luân hồi của dòng tộc, của xã hội loài người trải qua nhiều đời kiếp, trong một khoảng thời gian lâu xa và trên diện rộng.
Phải chăng chỉ cần khách quan, đúng mực thì người quán chiếu sẽ dễ dàng nhận ra đó tựa như là quy luật của những dòng sông với các con nước lớn ròng? Và không có con nước lớn ròng nào giống với con nước lớn ròng nào cả.
Vì sao lại như vậy?
Vì bối cảnh xã hội luôn biến dịch và sự hiểu biết nhận thức, mỗi dòng tộc, mỗi thế hệ, mỗi thời kì là luôn có sự sai khác. Tuy nhiên, ở những điều khác biệt đó thì điểm chung nhất đó chính là quy luât con nước lớn ròng luôn có nơi dòng tộc bất kỳ cũng như nơi xã hội loài người. Quy luật con nước lớn ròng, đây là quy luật bất biến của xã hội loài người, nó thể hiện việc chẳng lầm nhân quả.
Khi đã sáng rõ quy luật luân hồi của dòng tộc, của xã hội loài người thì người quán chiếu hãy mở lòng quay về nơi tự kỷ xét lại dòng chảy quy luật luân hồi của bản thân trải qua vô số hà sa kiếp sống luân chuyển lên sống nơi 3 cõi 6 đường.
Phải chăng quy luật luân hồi của mỗi bản thể sống cũng tựa thể một dòng sông dường như bất tuyệt với vô vàn con nước lớn ròng đan xen giữa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, Atula và cõi Trời?
Quả thật đúng là vậy. Đó chính là việc chẳng lầm nhân quả chứ không phải giết một con gà đền mạng một kiếp gà. Theo quy luật con nước lớn ròng mà mà mỗi chúng sinh (nói chung), mỗi người (nói riêng) thọ nhận trả quả cho những nhân tốt xấu mà tự thân huân tập từ nhiều đời kiếp trước, việc thọ nhận nhân quả đó Phật Thích Ca dùng ngôn từ giả lập gọi rằng là nghiệp. Dòng chảy luân hồi ngỡ như là bất tuyệt đó sẽ cuốn mỗi người vào việc tử sinh, khổ não chỉ dừng lại khi người đó minh tâm, kiến tánh rõ biết quy luật sinh tử luân hồi, vượt thoát khỏi sinh tử, chấm dứt sự vô minh vì cái tôi thường tại của tự thân.
Vậy nên những việc mà trưởng bối đặt ra với tiêu đề có lầm nhân quả sẽ được lý giải rõ ràng bằng quy luật con nước lớn ròng cùng yếu tố duyên bất định.
Cụ thể là ngày nay có một lượng lớn người nghèo khổ tìm đến đạo Phật để nương náu một tâm hồn loạn động, bất an. Và không phải mọi người tìm đến đạo Phật ngày nay đều mong mỏi sự thoát khổ, ra khỏi luân hồi; có không ít kẻ trốn đời vào đạo hoặc mượn đạo tạo đời với danh tiếng, lợi dưỡng và sự kính trọng. Cũng lại như vậy trong số những người học Phật tìm đến đạo Phật vì thấy việc tụ tập thành nhóm có sự đông vui và cũng có những người nghèo khó tìm đến đạo Phật vì đinh ninh rằng việc đọc kinh nhiều phước báo sẽ quay về. Những người học Phật với tâm ý như thế thì đâu cần gì đến việc liễu nghĩa kinh sách, cứ đến giờ thì trả bài cho Phật 3 thời nghe, việc điều phục chế ngự Tham sân si mạn nghi là khái niệm trừu tượng, siêu hình trong tâm tưởng của họ. Do tâm ý móng cầu phước báo, sự giàu sang nên họ dễ dàng vượt qua nỗi mặc cảm tự ti thân phận nghèo hèn, họ lân la thân cận với những Phật tử giàu có quyền thế. Trong số những Phật tử giàu có quyền thế lại có những người tìm đến đạo Phật là nhằm vào việc “đặt vé tốt” cho đời sau, việc liễu kinh họ chẳng màng. Trong sự hiểu biết vô minh họ cả nghĩ tiền là tất cả, tiền có thể mua được phước báo ở đời sau, việc liễu nghĩa kinh, tháo gỡ vô minh cũng là điều họ không cần đến. Những người học Phật nghèo khó vì muốn thân cận người quyền quý, giàu sang nên lời nói theo đó cũng có sự bợ đỡ, tâng bốc; người nghe thấy cũng lọt tai lâu ngày dài tháng 2 tâm ý trên có chung cùng tần số tương hợp ở một mức độ nào đó. Không chỉ vậy! Những người học Phật nghèo khó đâu chỉ thân cận với một người giàu. Đến khi vô thường gọi người nghèo khó chết đi vẫn mang theo tâm ý giàu sang, quyền thế và những khuôn mặt, nơi ở của những người học Phật giàu có được tái hiện, họ quyến luyến người nào thì tâm tưởng họ sẽ theo người đó và nếu đủ duyên một bào thai nơi dòng tộc giàu có tượng hình, thần thức của người học Phật nghèo khó cũng sẽ có cơ may giàu có, quyền thế như lòng họ mong mỏi. Song do nơi tiền kiếp của người học Phật này không rèn giũa tâm tánh nên thói quen bủn xỉn, keo kiệt, hạ tiện khi nghèo khó sẽ được bảo lưu và phát tiết khi trưởng thành, điều này đánh dấu cho sự thoái trào của một dòng tộc, con nước ròng. Đây là quy luật nhân quả chẳng lầm khách quan, đúng mực.
Ngược lại, với những người học Phật giàu có, quyền thế vọng tưởng cúng dường Tam bảo trọng hậu ngõ hầu níu giữ phước báo, che giấu những hành vi ám muội làm giàu bất chính, song nếu chẳng may gặp phải duyên vô thường, cơ chế xã hội đổi thay khiến gia tộc họ sa sút (ví như là thời kỳ đánh tư sản ngày trước) thế là họ trở mặt coi thường nhân quả, bất mãn Tam bảo, tiếp tục dấn thân huân tập những đức tính xấu ác, tệ hại. Tất cả nghiệp quả xấu tốt đều do nơi vô minh mà ra.
Về việc người học Phật hành đúng pháp mà đói nghèo, khốn khổ. Thật chẳng lầm nhân quả. Thế nào là hành đúng pháp? Giữ giới, trì kinh, hành thập thiện chăng? Hay là việc gieo nhân không chờ phước báo quay về?
Một điều dễ nhận thấy là các nước Phương Tây ít chịu ảnh hưởng của đạo Phật nhưng sự văn minh, tiến bộ họ hơn hẳn các nước Phương Đông với chiếc nôi của nền minh triết cùng đạo Phật. Vì tham cứu kinh mà không liễu nghĩa nên người học Phật tự trói mình vào nhân quả ngắn ngũn, giới luật mê mờ,… không chỉ trói mình mà còn trói người rồi ngồi chờ phước báo, không làm mà mong có của ăn, của để, giàu có, quyền quý thì khó tránh khỏi quả nghèo đói. Đây là quả của xem kinh không liễu nghĩa, là vô minh vậy.
Khi quán chiếu quy luật nhân quả luân hồi ở mỗi chúng sinh sáng rõ với quy luật con nước lớn ròng khi gấp rút, sôi sục, khi lặng lờ, khi dường như gián đoạn tâm thức do trôi nỗi vào các nẻo giới sai biệt thì quy luật nhân quả chẳng lầm sẽ khách quan, đúng mực và thông suốt. Và cho đến khi đoạn đứt vô minh thì mỗi chúng sinh sẽ tự đoạn dứt luân hồi, giải thoát khỏi sinh tử.
…
Về việc tiếp nối dòng tâm thức ở các vị chứng đắc Tu đà hoàn, đó là một dòng chảy tiếp nối sự giải thoát hoàn toàn có sự liền mạch. Việc tiếp nối dòng tâm thức ở các vị chứng Tu đà hoàn được liền mạch ở những kiếp liền kề là do những vị này đã nhàm chán sinh tử, khổ não, họ đã điều phục gần như rốt ráo tham sân si mạn nghi… họ đã miên mật hành trì việc buông bỏ ở tiền kiếp song họ chưa kịp phá ngã trước khi vô thường gọi nên vẫn còn níu giữ cái tôi ngỡ rằng thường tại. Do tâm định nên họ sẽ trở lại kiếp người, và ở những kiếp người trở lại (kiếp người tái sinh) các vị chứng đắc Tu đà hoàn thường có sự biểu hiện dửng dưng với lẽ hơn thua, được mất, họ lặng lẽ sống và nếu có duyên may tiếp cận đến chánh pháp đúng mực, sáng rõ thì pháp hành họ sẽ liền mạch, họ sẽ sớm đáo nhập niết bàn. Nếu không có được duyên lành chạm đến chánh pháp thì cuộc đời họ chỉ là một vệt mơ hồ nơi cuộc sống, họ lại mất đi và tìm duyên lành ở kiếp sau.
Tu đà hoàn còn gọi là Dự lưu, có người gọi là Thất lai, một số người học Phật quy ước rằng Tu đà hoàn - Thất lai nên sẽ phải trở lại nẻo người 7 kiếp rồi mới giải thoát hoàn toàn. Lời nói này chỉ là cách nói giả lập, người học Phật đừng chấp rằng thật mà lại lọt vào lưới vô minh, tà kiến.
Vì lẽ ngài A Nan khi Phật còn tại thế chỉ có thể đắc quả Tu đà hoàn, thế nên về lý ngài A Nan phải mất đến vài kiếp tái lai. Phật nhập diệt ngài A Nan bị ngài Ca Diếp khiển trách sinh tâm tàm quý liền đó đắc A la hán, về sau nghiễm nhiên thành Nhị Tổ.
Rất cảm ơn những câu hỏi ích mình, lợi người của trưởng bối! Nếu câu trả lời của latuan chưa thông đạt rất mong được trưởng bối chỉ thẳng chỗ không thông, hoặc những điểm mà latuan trả lời chưa hết ý mà trưởng bối muốn đề cập vì mình, vì người.
Kính!