Đuốc Thiền ! (Hoà Thượng _Thích Nhật Quang)

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
Cách tu của người Phật Tử Tại Gia !

Hôm nay chúng tôi nói về cách sống của người Phật tử tại gia. Quí Phật tử phải sống như thế nào để hoàn thiện gia đình mình, hướng dẫn, tổ chức cuộc sống gia đình đúng theo tinh thần Phật dạy, mới có thể giữ được hạnh phúc dài lâu.

Thế thì Phật tử phải sống, phải sinh hoạt như thế nào để gọi là một gia đình Phật tử hoàn thiện, đúng theo tiêu chuẩn Phật dạy? Như quí vị đã biết sinh hoạt của người Phật tử, dĩ nhiên có phạm vi, có giới hạn của nó. Người ngoài nhìn vào nếp sống của mỗi gia đình, họ có thể đánh giá được đây là gia đình Phật tử hay không phải gia đình Phật tử. Đã nhiều lần chúng tôi nói đến sinh hoạt tự thân của mỗi Phật tử, chúng ta phải sống tu, thực tập theo lời Phật dạy, để chứng minh cho mọi người chung quanh thấy được giá trị và lợi ích thiết thực của đạo Phật, cụ thể qua cuộc sống của mình. Cho nên một gia đình Phật tử phải là một gia đình gương mẫu cho các gia đình trong cộng đồng xã hội noi theo. Vì vậy, bản thân mỗi Phật tử cũng phải sống gương mẫu.

Trước khi nói đến phương pháp cụ thể cho quí vị tu tập, tôi xin kể lại câu chuyện “Bốn viên ngọc”.

Ngày xưa có một chàng ngư phủ sống rất hiền lành. Một hôm trong lúc đang đánh cá, vị nữ thần hiện lên giữa biển, trao cho ngư phủ bốn viên ngọc với lời dặn như thế này: “Đây là bốn viên ngọc ước. Hãy trao tận tay cho đức vua anh minh”. Nói xong nữ thần lặng mất, chàng ngư phủ bàng hoàng với bốn viên ngọc sáng chói trong tay. Trước sự việc xảy ra đột ngột như thế, nếu là người tham lam thì có lẽ bốn viên ngọc kia đã trở thành của chàng ngư phủ rồi, không thể đến tay nhà vua được đâu. Nhưng không, vì như tôi đã nói đây là một chàng ngư phủ hiền lành nên anh ta đã lặn lội đường xa muôn dặm, đem bốn viên ngọc đó về dâng cho nhà vua, đúng như lời dặn của nữ thần.

Nhà vua thấy đây là một chàng ngư phủ mộc mạc, thật thà đáng khen. Cái lợi to lớn trong tay như thế mà không tham, từ xa vất vả đem đủ bốn viên ngọc về cho mình. Nghĩ thế vua liền nói: “Bây giờ ta sẽ ban thưởng cho ngươi một viên ngọc trong bốn viên ngọc này, tùy ngươi lựa chọn”.

Trong bốn viên ngọc ước đó, viên thứ nhất có thần dụng tạo ra những thức ăn cao lương mỹ vị. Khi cầm ngọc trong tay chỉ cần tưởng đến món gì mình ưa thích, tự nhiên nó hiện ra như ý. Viên thứ hai có thần dụng tạo ra lụa là gấm vóc, y phục thượng hạng. Viên thứ ba có thần dụng tạo ra vũ khí cực kỳ tối tân. Viên thứ tư có thần dụng tạo ra của cải giàu sang tột đỉnh. Nếu anh chàng ngư phủ nắm được viên ngọc thứ tư trong tay, thì từ đây về sau khỏi phải đi đánh cá nữa.

Hoàng đế hứa ban thưởng cho anh ngư phủ một viên bất kỳ, tùy anh lựa chọn, còn lại ba viên vua cho vào quốc khố để lo cho dân cho nước. Bởi đây là một vị vua anh minh nên không nghĩ gì đến riêng mình. Anh chàng ngư phủ suy nghĩ một hồi rồi thưa:

- Tâu Hoàng thượng! Việc này trọng đại quá, kẻ ngu hèn này không thể nào tự quyết định ngay được. Vậy xin Hoàng thượng cho thần hẹn nửa tháng sau sẽ trở lại trả lời.

Thấy anh này thật thà nên nhà vua chấp thuận. Thế là anh ta về nhà họp vợ con lại kể những sự việc trên. Nghe xong, bà vợ phát biểu trước tiên:

- Tôi một đời đi chợ, làm lụn mệt nhọc, thôi ông hãy lấy viên thứ nhất cho tôi đỡ cực tuổi già, khi đó nhà mình có đủ cao lương mỹ vị, như vậy là sướng nhất đời.

Bà vợ chưa dứt lời thì mấy đứa con gái ông ống lên:

- Mẹ sao quê mùa quá, ăn uống cực khổ có nhằm gì, miễn đừng ốm yếu thì thôi. Lụa là gấm vóc mới cần thiết cho tụi con. Thôi Ba hãy lấy viên ngọc thứ hai đi.

Nghe tới đó, mấy người con trai bực bội la lên:

- Đúng là đàn bà không biết gì hết ! chỉ có viên ngọc thứ ba mới làm cho ta trở thành anh hùng, quyền uy cao tột, không ai dám đụng đến, Ba hãy chọn viên ngọc thứ ba đi.

Thế là một cuộc tranh chấp, cãi vã dữ tội diễn ra trong gia đình.

Bấy giờ anh chài thấy mệt quá, ngọc ngà ở đâu không biết, mà chỉ thấy gia đình rối rắm mất hạnh phúc. Không khí càng tranh chấp càng đi đến bế tắc. Cuối cùng anh ngư phủ trở lại gặp Vua sớm hơn ngày hẹn và từ chối không nhận viên ngọc nào hết. Vua thắc mắc hỏi nguyên do. Anh ta tình thật kể lại tự sự và kết luận:

- Để giữ hạnh phúc gia đình được êm ấm như xưa, thần cam sống đời ngư phủ, bình thường giản dị mà không có sự tranh chấp trong gia đình, mọi người đều sống đúng với bổn phận, với việc làm của mình, như vậy là tốt nhất, hạnh phúc nhất.

Nhà vua nghe xong rất thán phục anh ngư phủ hiền lành và chuẩn y lời tâu của anh. Từ đó về sau, đời sống gia đình anh trở lại bình thường như xưa.

Câu chuyện cho chúng ta một bài học thật hay. Những lợi lộc gì từ bên ngoài đến, không do trí tuệ, khả năng của mình thì e nó sẽ quấy rầy, làm mất hết hạnh phúc gia đình. Bởi vì đó là những lợi lộc ngoài tầm tay chúng ta. Phật tử phải biết sống bằng chính khối óc, bàn tay của mình. Hạnh phúc, lợi lộc có hay không là do phúc báo, năng lực của mình gầy dựng nên. Ta gầy dựng được thì mới có thể làm chủ nó, dùng nó đúng chỗ, đúng việc, đúng theo ý mình muốn. Hạnh phúc là gì? Thưa, không ai biết, người ta nói hạnh phúc chứ thật ra có ai nắm được hạnh phúc đâu? Nó là cái bánh vẽ, là cái bóng không thực. Thế mà con người lại mộng mơ, tưởng tượng nó thế này thế kia. Thành ra không bao giờ biết được hạnh phúc là gì!

Người con Phật chỉ nếm được hạnh phúc khi nào biết dừng lại, biết sống bằng sự sáng suốt tỉnh thức. Sống vừa đủ trong phạm vi, khả năng gầy dựng của mình, bảo quản và sử dụng được những gì ta tạo ra thì may ra có hạnh phúc. Chúng ta đừng ước mơ, đừng chạy theo, đừng ỷ lại, đừng trông chờ. Có thể nói tinh thần chân thật là tinh thần chủ đạo của người Phật tử biết tu tập. Từ đó ta gầy dựng thăng hoa đời sống nội tâm ngày càng sâu sắc hơn, gần gũi với đạo hơn.

Trong sinh hoạt bình thường, trước tiên quí Phật tử phải ý thức được sự khởi động ba nghiệp của mình. Dù chỉ một ý nghĩ, một lời nói, một hành động thôi mà gia đình không có sự thống nhất, không hòa hợp là mất hạnh phúc ngay. Quí vị lưu ý, một gia đình dù chỉ hai người thôi, cũng có thể phát sinh vấn đề, nếu chúng ta không khéo. Đôi khi một mình mình, ta cũng bực bội đấm bàn đấm ghế, đừng nói tới hai người.

Ý nghĩ tuy chưa thốt ra lời nhưng nó đã hiện lên nét mặt, dáng vẻ, cử chỉ của mình rồi. Vì vậy những ý nghĩ không tốt thường hay được biểu hiện ra ngoài bằng sự bồn chồn, bất an của ta. Nếu nó không được tiêu dung, hóa giải mà cứ âm ỉ bên trong thì nhất định đến một lúc nào đó nó sẽ bộc phát. Bấy giờ nó sẽ là những cơn lốc, gây tai hại cho người chung quanh, cho xã hội không biết bao nhiêu mà kể.

Vì vậy trong một gia đình dù chỉ hai người thôi, nhưng cũng phải có sự thống nhất ý kiến. Làm việc gì, nói điều gì phải có sự thống nhất. Được vậy hy vọng quí vị có thể gần gũi với hạnh phúc. Còn ông muốn nói cứ nói, bà muốn hét cứ hét, mạnh ai nấy phát tiết ý nghĩ, lời nói của mình thì nhất định không lâu sẽ có cuộc tan rã thôi. Đó là những trường hợp xảy ra thường xuyên trong mỗi gia đình. Vì vậy Phật tử có học hiểu Phật pháp, phải khéo sắp đặt như thế nào để có sự thống nhất, tạo được hòa hợp trong gia đình, từ đó mới có được hạnh phúc.

Phật thường dùng những phương tiện bên ngoài để khống chế những ý niệm, tư tưởng, ngôn ngữ của chúng ta. Như Ngài bảo ban ngày nỗ lực thực tập thiện pháp, tức là pháp lành. Thực tập cho quen những pháp lành để tiêu dần pháp ác, công đức theo đó tăng trưởng, việc tu ngày càng dễ dàng hơn. Không để thì giờ qua suông, mỗi giờ, mỗi khắc, mỗi giây, chúng ta luôn luôn thực tập. Chữ “thực” là thực hành, chữ “tập” là thành nếp, thói quen. Ta siêng thực tập pháp lành thì sẽ có thói quen tốt. Từ đầu đêm đến cuối đêm không được bỏ phế. Đầu đêm tức là từ lúc mặt trời đã lặng. Cuối đêm là từ hai ba giờ khuya cho tới bốn năm giờ sáng. Người con Phật biết cách tạo hạnh phúc cho mình, cho đoàn thể thì không thể bỏ phế thời gian, không quên thực tập thiện pháp.

Thêm nữa, Phật dạy giữa đêm cũng phải áp dụng công phu để tự tiêu tức nghiệp ác, sinh trưởng nghiệp thiện. Nói tóm lại, đầu đêm tu tập thiện pháp, cuối đêm tu tập thiện pháp, giữa đêm cũng tu tập thiện pháp không bỏ lúc nào cả. Tu như vậy thì đâu còn thì giờ nữa mà tơ tưởng, tranh chấp, đấu lý với nhau. Thì giờ nào cũng tu, cũng soi lại mình, cũng thực tập pháp lành. Đó là nếp sinh hoạt Phật dạy cho người Phật tử. Nếu chúng ta có thiện chí tu hành sẽ áp dụng được.

Tại sao Phật lại đưa ra cách thức sống nghiêm khắc như vậy? Để ngăn ngừa tật giải đãi của chúng sanh. Như có người sắp đặt buổi tối tụng kinh niệm Phật, nhưng đến giờ đó có công việc không tu được. Nếu ta nhớ lời Phật dạy phải thực tập đầy đủ, đều đặn thì ta sẽ cố gắng tranh thủ sắp xếp sao cho có giờ tu, kẹt lắm cũng phải đốt hương cúng Phật, để chứng tỏ lòng thành của mình. Đầu đêm do có công phu nên khi ngủ không bị vọng động, được yên nghỉ. Đến giữa đêm, nếu giật mình thức giấc cũng nghĩ đến tu, ngồi dậy thắp hương, niệm Phật thì vọng động nào dấy khởi được. Nếu không nhớ như thế, thức giấc sẽ tơ tưởng đủ chuyện vẩn vơ. Rồi cuối đêm thức dậy, qua một giấc ngủ yên lành, khỏe khoắn, ta bắt đầu công phu tinh tấn hơn, tụng kinh, niệm Phật hoặc tọa thiền. Sau đó nghĩ đến các pháp lành như bố thí, làm phúc cúng dường, ủng hộ những nơi đáng ủng hộ. Đó là cách tu của người Phật tử tại gia.

Tuy nhiên, ban đêm muốn tu được đòi hỏi ban ngày chúng ta phải có công phu. Nếu không, khó lắm. Ví dụ ban ngày nghe người ta chửi mình nhịn được, thì về đêm trong giấc ngủ nếu có cơn mộng nghe chửi mình mới nhịn được. Cho nên lực tu ban ngày ảnh hưởng về đêm rất nhiều. Nếu ban ngày nghe ai nói gì bực mình, ta cự nự um sùm, tham sân đầy dẫy thì về đêm muốn có an lạc không được đâu. Ban ngày có thể khắc phục được những xấu dở của mình thì về đêm mới khắc phục được. Bởi vì trong giấc ngủ, ý thức chúng ta rất yếu, nên những tiềm thức trổi dậy, những cặn bã tồn đọng trong tâm hiện lên, nó quậy mình, ta không làm chủ được. Vì vậy công phu tu tập ban ngày rất cần thiết, đòi hỏi chúng ta phải quán chiếu liên tục, xét nét kỹ càng, thì mới có thể làm chủ được lú về đêm.

Như quí vị lớn tuổi siêng năng niệm Phật, không nhớ chuyện tào lao. Khi ngủ bị ác mộng thì liền nhớ tới Phật, kêu cứu với Phật. Còn ban ngày quí vị dong ruổi đông tây, không nhớ niệm Phật, thì khi gặp ác mộng chỉ biết hốt hoảng, sợ sệt, đụng đâu vớ đó, chứ đâu có nhớ Phật. Sống kiểu như vậy sẽ ảnh hưởng lớn đến lúc hấp hối, sắp bỏ thân này. Do đó Phật Tổ dạy ngay bây giờ mình phải tu, đừng đợi đến lúc hấp hối, mở miệng ra không được, tay chân quờ quạng, kêu Phật còn không được, nói chi đến cứu! Ngay bây giờ nếu quí vị luôn nhớ Phật, nhớ pháp thì đảm bảo không ma quỷ nào rù quến được. Sở dĩ bị ma quỷ rù quến là vì tu hành không miên mật, tâm dong ruổi tán loạn nên chúng mới xâm nhập được.

Chữ “miên mật” tức là liên tục, không còn bị xen cách bởi ngũ dục, tham sân, bởi mọi thứ bên ngoài. Trái lại bị cắt xén tức là không miên mật. Người không miên mật là người không đủ sáng suốt, không có sức mạnh tự chủ nên khi bỏ thân này chưa đảm bảo được thân sau. Làm chủ được mình là một vấn đề khó khăn lắm, cho nên ngay bây giờ chúng ta phải chuẩn bị trước.

“Thực tập thiện pháp” là từ nói chung, tất cả những niệm lành, việc làm lành như tụng kinh, niệm Phật, giữ giới, không chạy theo tham sân si, điên đảo vọng tưởng… đều gọi là thực tập thiện pháp. Rộng hơn nữa là giúp người làm những việc công đức, tạo các phúc điền. Còn theo tinh thần tu thiền thì lòng rỗng rang, không vướng mắc, không chạy theo, không lầm ngoại cảnh, không để ngoại cảnh kéo lôi, làm chủ hoàn toàn… Đó là thực tập thiện pháp. Thực tập thế nào là tùy theo quí vị, tùy hoàn cảnh, tùy trình độ mà có được những kết quả khác nhau.

Đặc biệt các vị học thiền, cố gắng làm thế nào đối với những dấy niệm loạn tưởng điên đảo của mình, phải loại nó ra. Nói “loại” là một cách nói, chứ thật ra ta biết nó là hư giả thì không dùng nó nữa. Quí vị cũng thừa hiểu, nếu theo nó, mình sẽ tạo nghiệp trôi dạt trong luân hồi sanh tử nhiều kiếp. Bây giờ không chấp nhận, không còn lầm nó nữa, đầy đủ sáng suốt, tỉnh táo để nhận diện nó. Ai được như vậy người đó có một đời sống thiền. Bởi vì sống thiền là sống hoàn toàn với niềm an lạc nội tại, không bị dẫn dắt bởi những nghiệp tập lăng xăng điên đảo, sống tự chủ.

Trong nhà Phật có từ tiêu trừ, sinh trưởng. Tiêu trừ tức là tiêu trừ những vọng tập của mình, sinh trưởng là phát sinh và tăng trưởng những pháp lành. Chúng ta đừng vì lý do ngủ nghỉ mà để đời mình trôi qua một cách oan uổng, không có chút ích lợi gì. Phật dạy thật chí thiết làm sao! Đừng tham ăn tham ngủ nữa là chúng ta không chấp nhận vô minh đen tối, vọng tưởng điên đảo phủ che, sống với cái sáng suốt, tỉnh táo của chính mình. Qua lời dạy này của Phật, chúng ta làm sao sống lại được với trí tuệ của mình, dừng tất cả những lao xao mắc mứu bởi trần cảnh bên ngoài.

Điều này quí vị có thể làm được không? Được chứ, vì nó không tốn hao tài sản gì cả. Chỉ niệm nào dấy lên, ta biết nó loạn tưởng thì bỏ đi. Tuy nhiên, muốn bỏ nó ta phải có lực, phải tỉnh. Có tỉnh rồi thì không còn lầm gì bên ngoài hết, có trí tuệ rồi thì thấy được lẽ thật của các pháp. Thấy được lẽ thật của các pháp rồi thì ai có thể làm gì mình được nữa? Chúng ta do chưa thấy được lẽ thật của các pháp nên mới mê lầm, chớ còn thấy được rồi thì không còn gì mê lầm. Cho nên yêu cầu của người Phật tử là tu tập sao cho có trí tuệ thấy được lẽ thật của các pháp.

Tụng kinh, ngồi thiền cũng không ngoài mục đích này. Tỉnh thì không còn mê, không bị mắc mứu các cảnh bên ngoài nữa. Người tỉnh là người có lực, có thiền định và trí tuệ. Phật nói cái nhà không thật, cái quạt không thật, thân này không thật, tâm cảnh không thật. Bao giờ chúng ta có đầy đủ sự sáng suốt thì chúng ta thấy thấu được lời dạy ấy của Phật. Còn Phật dạy không thật mà mình thấy cái gì cũng thật hết thì khổ thôi. Khổ vì mê lầm.

Tất cả các pháp đã không thật thì ta nắm giữ làm gì, buông bỏ hết đi. Cho nên thấy pháp không thật thì ta mới có thể buông bỏ nó được. Giận bỏ, thương cũng bỏ, quấy bỏ, phải cũng bỏ… cái gì cũng bỏ hết thì chúng ta tỉnh sáng. Điều này không phải chúng ta không làm được mà chưa dám làm, chưa muốn làm. Nếu những lời dạy đó của Phật chúng ta chưa làm được, thì Ngài nhắc thêm: “Hãy nhớ ngọn lửa vô thường thiêu đốt thế gian, sớm cầu tự độ, đừng tham ngủ nghỉ”.

Bây giờ Phật lấy lý vô thường để nhắc chúng ta. Vô thường là sự đổi thay. Như vị nào thường đến chùa đây sẽ thấy đổi thay hoài hoài. Rồi nhìn đến con người cũng thế. Rõ ràng nhất như cha mẹ chúng ta, mỗi ngày qua ta thấy hiện rõ nét già nua, da nhăn, tóc bạc, đi lụm cụm, sáng còn mạnh, chiều phải uống thuốc. Phật nói vô thường như lửa thiêu đốt trên đầu, bức thiết gấp gáp, không còn thì giờ cho mình dong ruổi ngược xuôi, tham đắm theo các việc ăn ngủ. Cho nên phải lo tu tập thiện pháp. Phật dạy khi ta thấy trong đầu còn lơ mơ, việc tu hành chưa quyết được thì phải nghĩ đến vô thường thiêu đốt, giống như là lửa cháy trên đầu cần phải cứu gấp.

Vô thường chi phối trong tất cả sự việc, nếp sống, sinh hoạt của chúng ta. Đang mạnh khỏe như vậy, bỗng nhiên đột quỵ. Hoặc công việc làm ăn đang phát triển tốt đẹp, bỗng nhiên những người cộng vốn vỡ nợ phá sản, kéo theo sự sụp đổ cho mình... Bao nhiêu thứ lo toan, sắp đặt, suy nghĩ, khổ sở cũng đều từ vô thường mà ra. Phật nói vô thường luôn luôn rình rập bên mình chứ không hẹn mai hẹn mốt gì cả. Nghĩ đến đó, không cho phép chúng ta hẹn, trông cậy hay ỷ lại vào ai. Đó là lời răn nhắc của Phật khi Ngài biết chúng ta chưa đủ tỉnh giác để lo tu tập.

Phật dạy thêm nữa, giặc phiền não thường rình giết ta dữ hơn kẻ thù, làm sao ngủ yên mà không tự cảnh giác! Phiền não, những bực bội trong lòng chính là giặc. Bởi vì chính nó mà cuộc sống đang suôn sẻ, vui tươi của chúng ta trở thành khổ đau phiền muộn. Chữ “Phiền”, một bên bộ hỏa, một bên bộ hiệt là cái đầu bị lửa đốt. Chữ “Não”, một bên bộ tâm, một bên tâm chữ não, tức là tâm không yên ổn. Phiền não giống như lửa đốt trên đầu làm cho tâm không yên ổn.

Quí vị nghiệm lại xem, chúng ta dễ phiền não quá phải không? Cái gì cũng phiền não được hết. Đang nói cười vui vẻ, nghe ai nói câu gì không vừa ý là nổi tức lên liền. Hoặc đang ăn uống ngon lành, nhai phải cái gì hơi lạ tự nhiên phiền lên, tức giận la lối người này người kia. Rõ ràng Phật nói “Phiền não là giặc ngủ trong lòng của các ông. Chưa đuổi được giặc dữ đó ra mà các ông yên lòng nằm ngủ là họa lớn”. Người an tâm rồi thì trời lay đất chuyển cũng không ăn thua chi, người này mới có thể yên lòng nằm ngủ. Nhưng nếu người còn nhiều phiền muộn, trong tâm dao động bất an hoài thì phải gắng nỗ lực công phu, chớ ham mê ngủ nghỉ mà chuốc họa không thể lường. Thật là những lời nhắc nhở thống thiết, vậy mà chúng ta còn chưa chịu tỉnh!

Trong kinh A Hàm kể lại ngài Xá Lợi Phất ngồi thiền tâm yên đến độ một con quỷ đi ngang đập lên đầu mà Ngài không hay. Trong khi với thần lực của nó, có thể đập vỡ núi Thị Vải nát thành tro bụi như chơi. Vậy mà Ngài vẫn ngồi thiền bình thường. Đến khi xả thiền, Tôn giả chỉ nghe hơi ê ê trên đầu một chút thôi. Đó là diệu dụng, là sức mạnh của một tâm yên định không gì có thể lay chuyển nổi. Nên biết tâm thanh tịnh không có phiền não, không còn máy động thì không nhiên liệu nào có thể đốt nổi, tâm đó là tâm Phật. Tất cả chúng ta đều có sẵn tâm đó, nhưng vì chưa phát huy nên không sử dụng được.

Phật dạy chúng ta sống lại, gầy dựng lại cái sẵn có, chứ không bảo mình mang cái bên ngoài vào. Ta đã có đủ hết, chỉ dám buông bỏ những lăng xăng, thì cái chân thật hiện tiền. Ở đây Phật dạy phiền não giống như những con rắn độc ngủ ngầm trong người mình. Quí vị nhớ hồi mười ba mười bốn tuổi, mình phiền não khác, vòi vĩnh tiền bạc không được hay bị cha mẹ quở rầy thì phiền não. Khi lên tuổi mười tám hai mươi, biết yêu thương rồi thì phiền não khác, những thứ nhớ nhung, tơ tưởng, chờ đợi đập vào mình. Nó bồn chồn, bứt rứt, khó chịu, xôn xao trong lòng giống như sóng dậy. Đến lúc về già năm mươi, sáu mươi tuổi thì phiền não khác. Các vọng tưởng quá khứ trồi dậy, rồi nuối tiếc, đau buồn. Hoặc thân thể già yếu đi đứng lụm cụm, ăn uống không được, phải trông cậy con cháu đỡ đần phiền phức. Bấy giờ hồi tưởng ngày xưa mình thế này thế nọ càng thêm phiền não. Hoặc thấy con cháu trong nhà, hồi nhỏ dạy nó nghe, bây giờ nó lớn nói không nghe đâm ra phiền não.

Nếu tỉnh thức, chúng ta cứ hoan hỷ nhìn cuộc đời như dòng nước trôi thì đâu có phiền não. Mấy đứa nhỏ lớn lên, nó có quyền ước mơ, có quyền yêu thương, có quyền hiểu biết theo hiện thời. Tại sao đem cái kinh nghiệm bảy tám mươi năm của mình chụp lên đầu nó, bắt nó phải thế nọ thế kia. Mình chỉ hướng dẫn nó, đừng cho nó làm những điều thương luân bại lý thôi, chứ còn sự sống của nó, quan niệm của nó, ta phải tôn trọng chứ. Sống được như vậy thì hết phiền não.

Bao giờ chúng ta dám buông, dùng định tỉnh như móc sắt móc hết phiền não thì tâm yên. Nên nhớ những cố chấp là rắn độc, buông hết thì mình mới an ổn. Quí vị lớn tuổi, ngồi niệm Phật an ổn, dù con cháu làm gì cũng tha thứ, buông hết thì mọi việc êm xuôi. Chớ nếu quí vị đặt vấn đề với nó là xem như tự chuốc thêm phiền não, trong khi vô thường cấp bách, sự chết hiện hình một bên, không còn thì giờ để ta phải quấy hơn thua với ai nữa hết. Chỉ biết mình đang dâng lòng thành qua nén hương cúng đức Phật, rồi ngồi yên tĩnh trong phòng riêng , lòng không còn vướng mắc gì bên ngoài nữa. Đó là hình ảnh hay nhất, đẹp nhất và trí tuệ nhất.

Chúng ta đọc kinh Bát-nhã hằng đêm, Phật bảo xem thân năm uẩn này không thật, hư giả. Nếu chưa thấy được nó là giả thì ta phải cố quán chiếu, thực hành tu tập thường xuyên hơn. Chứ ta chỉ lo lý sự việc nhân gian, việc gia đình, việc xã hội thì việc của mình ai giải quyết cho? Đến lúc quỷ vô thường đến kêu đi, mình quýnh lên gọi Phật, Phật cũng không cứu được nói gì đến con cháu. Cho nên Phật dạy đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm đều thực tập pháp lành là vậy.

Thêm một điều nữa, Phật dạy người tu phải biết hổ thẹn. Phật nói người xưa đã làm được như vậy, bây giờ không lý gì chúng ta không làm được. Ngày xưa các Ngài tu thành Phật thành Tổ, bây giờ tại sao chúng ta tu không thành Phật thành Tổ? Kinh điển thì không thiếu, băng từ cũng rất nhiều, giảng sư khắp nơi, nhưng vì chúng ta không có nhiệt tâm cầu đạo, lại không hỗ thẹn với những tập khí thô xấu nên khó chừa bỏ, khó tiến đạo.

Hồi xưa, đừng nói xưa, như tôi lúc nhỏ ở chùa, đâu có kinh chữ Việt như bây giờ. Chỉ có một bản kinh duy nhất, thầy cầm đọc và giảng, mình ghi theo. Sau đó thầy cho mượn biên ra. Ngoài giờ học còn phải làm đủ thứ việc. Nói thế để thấy rằng cái học hồi xưa không được như bây giờ, nhưng chư tăng cũng vẫn tu được, có thể nói là tu tốt nữa. Bây giờ thì thôi nào là Đại học Hán Nôm, nào là khoa ngôn ngữ này kia, các trung tâm ngôn ngữ dạy Hán, Anh, Pháp, Nhật đủ cả. Người ta tạo đủ điều kiện cho Tăng Ni, Phật tử học, thế thì không lý do gì chúng ta không tu được. Vì thế trong kinh có câu “kia đã trượng phu ta cũng vậy, không nên tự khinh mà lui sụt”.

Ở đây Phật dạy chúng ta phải có đức hổ thẹn, nghĩa là tự thẹn với mình và hổ với người. Người đã làm được mà mình không làm được thì phải tự hổ ngươi. Đức Phật Thích Ca trước khi thành đạo cũng có gia đình, lúc phát tâm tu hành cũng chịu bao nhiêu kham khổ mới thành tựu quả Phật. Chúng ta cũng là con người, tại sao mình tu không được. Thành ra đối với người xưa ta thấy hổ ngươi quá, đó là tại vì ta không chuyên, không quyết tâm. Giặc phiền não nằm đây, lửa phiền não nằm đây, trong tâm đầy dẫy những bệnh tật, mình chưa chịu kéo ra thì làm sao như người xưa được.

Hổ thẹn là phục sức đẹp nhất trong các thứ phục sức, lại cũng như móc sắt có thể chiết phục mọi thứ phi pháp. Cho nên nếu chúng ta không trang bị đức hổ thẹn, thì đời tu của mình có thể trôi suông. Nghĩa là so với người xưa ta không tự hổ, tự thẹn nên không cố gắng thực hiện cho được như các Ngài, đành chịu sự thấp kém của mình. Cam chịu kiểu này là yếu đuối, khiếp nhược, không phải tinh thần của bậc thượng sĩ quyết cầu đạo giải thoát.

Phật là bậc trí tuệ viên mãn, chúng ta là đệ tử Ngài cũng phải thực hiện trí tuệ ấy, đừng ngu xuẩn cúi đầu chấp nhận những thứ vô minh si ám. Phật đâu không nói tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật, cho nên bằng mọi cách chúng ta phải thực hiện cho được trọn vẹn khả năng ấy của mình. Không lý gì chúng ta lại cúi đầu để cho phiền não, rắn độc si mê đè bẹp mình. Nhìn lại người xưa như vậy, ta cũng phải học đòi và được như vậy. Vị giáo chủ của chúng ta qua một thời gian dài khắc phục tất cả những xấu dở, bỏ được tất cả tham sân điên đảo, thành Phật. Các vị thánh tổ đều như vậy thì chúng ta nhất định cũng phải được như vậy. Phải có niềm tự hào, có đức hổ thẹn mới tiến tu nổi. Trong kinh Di Giáo, Phật nói “Sống mà không biết hổ thẹn chẳng khác gì loài cầm thú”.

Cho nên ngay bây giờ quí vị phải ngẩng đầu lên, từng phút từng giây khắc phục những tập khí phiền não, mạnh dạn loại bỏ tham sân si. Luôn sống tỉnh táo sáng suốt, một chữ “buông” là an bình thực tại. Chúng ta nhớ mình đang phát huy lại trí tuệ của chính mình, nghĩa là nó sẵn có rồi, bây giờ chỉ cần đừng để những thứ hư giả bu bám, làm cho rối rắm tăm tối thì sẽ được yên ổn thôi. Phật nói mỗi chúng sanh đều có khả năng thành Phật, đều có trí tuệ sáng suốt. Nhưng vì từ lâu chúng ta bỏ quên, để cho các pháp bu bám, nên bây giờ phải loại bỏ chúng, để nhận lại sống lại với đức Phật của mình. Nên hổ thẹn tức là cơ hội để phục hưng cái cao quý đó.

Nói về Phật chất chúng ta không thiếu thốn sao không nhận lấy đó mà sống. Còn vật chất thế gian, Phật nói là nghiệp báo, càng tạo nhiều càng khổ. Ta cứ nghiệm sẽ thấy, những người có của cải nhiều thì khổ nhiều, danh vọng nhiều suy nghĩ nhiều, có sung sướng gì đâu. Thế thì ta chạy theo chúng làm chi cho khổ, trong khi cái chân thật đem đến an vui hạnh phúc thực sự cho mình lại không đoái hoài tới. Vì thế Phật nói chúng sanh điên đảo không biết đâu mà nói. Ngày nay hiểu được rồi, ta phải cố gắng phát huy trí tuệ của mình, để vĩnh viễn là con ông trưởng giả giàu có an vui.

Kinh Pháp Hoa, phẩm Tựa, Phật nói chư Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên là chỉ cho chúng sinh Tri Kiến Phật của mỗi người. Nhận ra và thể nhập, phát huy được trọn vẹn Tri Kiến Phật đó là công việc của mỗi người. Như Lai chỉ là người chỉ đường thôi. Rõ ràng đức Phật tôn trọng chúng ta hết mức. Dù mình đang trầm luân sanh tử như vầy mà Phật vẫn tôn trọng, cụ thể qua phẩm Thường Bất Khinh Bồ-tát nói: “Tôi không dám khinh quí vị, vì quí vị đều là Phật sẽ thành”. Như vậy chúng ta có thua sút ai đâu?

Trong kinh A Hàm kể lại. Một hôm, Phật cùng với ngài A Nan đi ngang qua chỗ buôn bán cá tôm. Phật bảo:

- A Nan! Ông vào nhà ấy xin một nuộc dây mà họ đã xâu cá tôm ra đây cho ta.

A Nan vào nhà ấy xin nuộc dây đem ra. Phật hỏi:

- Ông nghe mùi gì không?

A Nan thưa:

- Bạch Thế Tôn! Mùi tanh quá.

Đi một đoạn đường nữa, tới chỗ làm nhang thơm. Phật bảo:

- A Nan! Ông vào nhà ấy xin cho ta một bao giấy gói nhang.

A Nan vào xin bao giấy đem ra cho Thế Tôn. Đức Phật hỏi:

- A Nan! Ông nghe mùi gì không?

A Nan bạch Phật:

- Mùi hương thơm.

Phật nói:

- A Nan! Cũng thế, cuộc sống hiện tại với những sinh hoạt đây, nếu ta chấp nhận những thứ phiền não cấu uế thì tâm ta sẽ bị nhiễm bởi nó, sẽ mất hết sự thơm tho, không vươn lên được. Trái lại nếu trong cuộc sống, ta nhận lại cái chân thật của mình, sống thanh tịnh không nhiễm ô thì tâm ta cũng được xông ướp bởi các công đức, sẽ tỏa hương thơm, làm vui đẹp mình và mọi người.

Cuối cùng Phật kết luận:

- Đệ tử của ta phải có cuộc sống thơm tho, đừng để những tập nhiễm hôi thối làm nhiễm ô, phát huy những gì tốt đẹp, loại bỏ những gì xấu ác.

Tóm lại chúng tôi muốn nhắc nhở quí Phật tử trước nhất là cách thức tu hành. Chúng ta tu hành cần phải liên tục như Phật đã dạy đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm đều phải thực tập thiện pháp. Kế nữa phải có ý chí, sáng suốt nhận ra khả năng thành Phật của mình, không cam nhận cuộc đời trôi suông bởi phiền não, nghiệp tập. Sau cùng là nêu cao đức hổ thẹn, nhờ đức hổ thẹn ta chừa bỏ những tập khí xấu, thực hành pháp lành. Giống như người xông ướp các loại hương thơm, đó là hương giới, hương định, hương tuệ, hương giải thoát và hương giải thoát tri kiến.

Được vậy, hy vọng cuộc đời tu hành của quí vị sẽ đạt được thành tựu viên mãn.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
[align=right:9a708d3af3]CHỌN BẠN ĐỂ TU[/align:9a708d3af3]

Tổ Quy Sơn nói: “Sinh ta là cha mẹ, thành ta là thầy bạn”. Từ câu nói này chúng ta xét lại cuộc đời của mình thấy rất đúng. Như lời Tổ nói, mình làm được việc gì, thành tựu tất cả các công đức cũng như tăng tiến trong việc tu tập là nhờ ở thầy bạn lành. Cho nên đề tài chúng tôi nói hôm nay, phần đầu là “Chọn bạn để tu”, phần thứ hai nói về công phu tu hành.

Cha mẹ tạo tác ra thân này, nhưng như thế chưa phải là đủ. Muốn cuộc đời, con người của mình giá trị, làm những việc thực sự ích lợi thì phải có thầy bạn mới thành tựu. Thế nên tổ Quy Sơn dạy tiếp: “Gần gũi bạn lành như đi trong sương mai, tuy chẳng ướt áo nhưng dần dần có thấm”. Nghĩa là chúng ta gần gũi bạn tốt như đi trong sương mai, thoáng qua thì không thấy ướt áo, nhưng lâu dần dần sẽ thấm ướt.

Kinh Hiền Nhân có dạy: “Bạn có bốn bâïc. Thứ nhất bạn như hoa, thứ hai bạn như cân, thứ ba bạn như núi, thứ tư bạn như đất”. Trong bốn bậc này, chúng ta nên chọn bậc nào?

Thứ nhất bạn như hoa. Hoa đẹp, có hương thơm ai cũng thích, muốn hái để trang sức thân này hoặc trang trí quanh nhà. Tuy nhiên, khi hoa héo tàn hết hương sắc thì bị quăng vào sọt rác, hoặc bên vệ đường. Bạn như thế, chúng ta không chọn làm chi.

Thứ hai bạn như cân. Chúng ta thấy cái cân có hai dĩa bằng nhau treo ở hai bên, chính giữa là cán cân. Dĩa này để mười phân thì dĩa kia cũng phải mười phân mới giữ được thăng bằng. Đây đúng là loại bạn trao đổi hai chiều, hợp đồng này phải chính xác mới được, nếu không chính xác sẽ đổ như chơi. Loại bạn này dễ gây phiền não lắm, ta không nên chọn.

Thứ ba bạn như núi. Tương truyền ở Ấn Độ có núi Kỳ Xà Quật, đức Phật hay thuyết pháp tại núi này. Trong núi thường chiếu ra màu sắc đặc biệt. Chim muông sống ở đây cũng nhờ ánh sáng ấy mà màu lông óng ánh rất đẹp. Loại bạn thứ ba này có thể nương tựa. Vì từ bạn mà ta có được những tiếng thơm, thành tựu sự tốt đẹp cho mình. Đây là bạn tốt rất cần thiết trong đời sống của chúng ta.

Thứ tư là bậc sau cùng, bạn như đất. Đất là cơ sở chịu đựng, là nền tảng vững chắc dung chứa sự sống của vạn vật. Ta đi dép bằng nhung hay bằng gỗ, đất cũng không hề lên tiếng. Ta đổ nước hoa hay phân hôi, đất cũng không có thái độ thích thú hay phản đối. Một bề chịu đựng chấp nhận nâng đỡ, tương trợ cho muôn vật sinh sôi nẩy nở từ đất. Loại bạn này hiếm có trong đời, chỉ một bề chăm sóc, lo lắng, giúp đỡ cho người mà không đòi hỏi cho mình bất cứ điều gì. Trong bốn bậc, đây là loại bạn cao quí nhất và cũng khó gặp nhất. Nếu đầy đủ thiện duyên gặp bạn lành như thế, chúng ta lo gì không thành tựu được đạo nghiệp. Cho nên gặp được bạn như đất, chúng ta cúi đầu đảnh lễ nguyện suốt đời nương tựa, tu tập cho đến ngày viên mãn.

Tuy hiếm nhưng không phải không có. Nếu chúng ta sống bằng tấm lòng chân thật, sống trong đạo tình thanh khiết, nhất định sẽ gặp được hạng bạn này. Nói tới đây tôi mong sao Phật tử chúng ta ứng xử với nhau như đất, vui vẻ chịu đựng chấp nhận và không mong cầu gì cả. Được thế lo gì giặc phiền não không thối lui. Chọn bạn cũng là chọn cách tu, ta đừng bao giờ để phiền não cấu kết trong lòng và sai sử mình. Đồng thời bằng đạo tình chân thật, chúng ta tương trợ giúp nhau để thành tựu đạo nghiệp. Đó là việc chính.

Trong đời sống tương giao giữa người với người, muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp thì tình bạn này là cần thiết hơn bao giờ hết. Trong bốn loại bạn, đây là loại tối ưu nhất, kế đó là bạn như núi. Còn hai loại kia ta tránh, không nên thân cận. Muốn chọn bạn như đất hoặc như núi, điều trước nhất chúng ta phải sống chân tình, đối xử tốt với người, thấy lỗi liền can gián trong tình thương yêu đùm bọc. Như quí vị là bạn đạo với nhau, cùng đi chùa cùng học đạo, khi thấy bạn mình có sơ suất điều gì liền nhắc nhở bằng tấm lòng chân thành, không có chút tư ý gì khác. Đó là điều thứ nhất.

Điều thứ hai khi thấy người bạn làm được những việc tốt, chúng ta tùy hỷ. Kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm hoặc các kinh điển Đại thừa nói về công đức tùy hỷ rất lớn. Tùy hỷ là vui mừng theo. Công đức này có được nhờ tấm lòng cởi mở, không cố chấp. Thông thường ta thấy ai làm được việc, mình ít tùy hỷ lắm mà lại trề nhúng. Đó là thể hiện tâm lượng hạn hẹp, nhỏ nhen của mình, nó mới sai sử cái môi trề nhúng, cặp mắt liếc xiên liếc dọc rất xấu. Có khi phát ra âm thanh chát chúa, đay nghiến nữa. Nếu để tâm ích kỷ nhỏ nhen ấy sai sử thì thân, miệng, ý của chúng ta mất hết công đức tùy hỷ.

Trong kinh Pháp Hoa, Phật dạy khi thấy người trì tụng kinh Pháp Hoa hoặc các kinh điển Đại thừa, mình tùy hỷ khuyến khích, hoặc giúp đỡ, như đem nước cho uống, đem ghế cho ngồi, thắp hương trầm hoặc đốt nhang cúng dường... khiến người kia thân tâm thanh tịnh tụng kinh, công đức của mình cũng ngang bằng công đức của người trì kinh. Hoặc nghe người làm những việc tốt, ta vui vẻ khuyến khích, chứ đừng chê bai dè bĩu thì dù ta chưa làm được như người, nhưng công đức tùy hỷ ngang bằng công đức của người đang làm các việc thiện ấy. Phật dạy phát tâm tùy hỷ là để trị bệnh ích kỷ tật đố của con người. Thế nên chúng ta phải tu tập. Đó là điều thứ hai.

Điều thứ ba, khi gặp nạn đừng bao giờ bỏ nhau. Đây là một bài học luân lý. Như khi bạn đang trong đà tiến bỗng gặp trục trặc, ta phải gần gũi thăm hỏi, giúp đỡ hoặc tháo gỡ phụ những khó khăn với bạn. Vui cùng hưởng buồn cùng chia, cùng đi cùng tiến, đừng bao giờ bỏ nhau. Trong cuộc sống rất cần những người bạn như vầy.

Con đường từ đây cho đến ngày thành Phật xa xôi diệu vợi, không phải dễ dàng thực hiện. Nếu nói dễ là để khuyến khích chúng ta có thể thực hiện được khả năng thành Phật của mình. Nhưng làm sao gột rửa, chặt đứt hết dây mơ rễ má phiền não thật là thiên nan, vạn nan. Cho nên việc chọn bạn cùng một lý tưởng hướng thượng, luôn hỗ trợ trong mọi hoàn cảnh, mọi lúc là điều hết sức cần thiết. Vì vậy hai mẫu bạn thứ ba và thứ tư, tức là bạn như núi và như đất, chúng ta luôn trân trọng, khuyến khích phát triển loại bạn ấy.

Phật tử chúng ta làm sao trong sinh hoạt hằng ngày, tự mình thắng vượt được tất cả phiền não sai sử đồng thời tùy hỷ tha thứ giúp đỡ bạn hữu cùng tiến tu, xây dựng lý tưởng giác ngộ giải thoát hoàn bị. Điều này không phải dễ cũng không phải quá khó, chúng ta có thể thực hiện được, nhưng phải đúng phương thức tùy theo ý chí, khả năng và sự sắp xếp của mỗi người. Đó là chúng tôi nói lược qua phần thứ nhất “Chọn bạn để tu”.

Đến phần thứ hai, chúng tôi nói những điều kiện không thể thiếu của người tu. Nương theo những điều này chúng ta thực hành công phu sẽ có kết quả tốt đẹp.

- Thứ nhất là phải có tâm tha thiết.

- Thứ hai đừng bao giờ khởi nhị tâm.

- Thứ ba là tin quả quyết vào pháp tu, vào việc làm của mình. Niềm tin đó phải được xây dựng trên lý nhân quả.

- Thứ tư là biết tận gốc rễ sanh tử.

Chúng ta sẽ đi lần lượt từng yếu tố trên.

1. Tâm tha thiết:

Người tu phải có tâm tha thiết cầu đạo. Do tâm tha thiết ngày đêm không xao lãng, việc tu tập mới tập trung dẫn đến kết quả viên mãn. Nếu chúng ta thực hiện được tâm này, dần dần tâm trí tỉnh táo, không có gì khuấy động được mình. Nhờ sự tỉnh táo sáng suốt ấy ta yên ổn tu tập. Ví dụ ta muốn thực hiện một giờ lễ Phật tụng kinh, nếu không có tâm tha thiết, lễ Phật một hồi mỏi chân mỏi tay hoặc ngồi tụng kinh lâu bị muỗi cắn, liền nghe bực bội, khó chịu không muốn lễ Phật tụng kinh nữa.

Người tu không có tâm tha thiết thì không thể thực hiện chí nguyện, lý tưởng của mình. Vì thiếu tâm đó ta rất dễ bị lay chuyển rồi, bị động thì làm sao an ổn tu được. Như khi ngồi tụng kinh hay tọa thiền, mình phải tập trung tư tưởng, nếu không mọi thứ chung quanh ồn náo sẽ tác động đến tâm, chúng ta không sao yên tu được. Chỉ khi nào tha thiết, quyết tử vào một việc, chúng ta mới gác qua mọi cảnh duyên lăng xăng bên ngoài, giữ tâm yên định. Khi tâm có định tỉnh thì trí sáng suốt, việc tụng kinh hay tọa thiền của chúng ta mới có kết quả.

Tha thiết nghĩa là chí thiết chí thành vào một viêc mà thôi, không có việc gì khác. Ngay khi làm việc đó, dù có những cản trở, bức xúc ta cũng vượt qua, cố gắng khắc phục được hết. Như vậy mới thành công. Còn có chút gì e ngại nghi ngờ trong lòng, chúng ta sẽ thoái chí ngay, không tiến được nữa. Đó là vì thiếu tâm tha thiết.

Phật tử đối với việc tu hành phải tha thiết, đừng bao giờ tu lấy lệ. Ví dụ mỗi đêm quí vị có chừng nửa giờ tụng kinh, thắp hương cho Phật, nếu không tha thiết việc làm ấy sẽ không đạt chút kết quả nào, cụ thể quí vị không có chút định tỉnh, an vui trong sự tu hành ấy. Dù làm một việc nhỏ thôi mà tâm thành tha thiết thì đều có kết quả. Kết quả trong từng phút giây, từng tâm niệm an lạc của chúng ta.

Tâm an ổn, bất động trước tất cả những cảnh duyên chung quanh, từ đó ta có thể thành tựu được đạo nghiệp của chính mình. Cho nên tâm tha thiết là điều kiện tiên quyết để dẫn đến thành công trong sự tu học của chúng ta. Thiếu tâm này dù người thông minh trí tuệ đến đâu cũng dễ gãy đổ giữa chừng. Vậy nên quí Phật tử phải có tâm tha thiết cầu tu học.

2. Không khởi nhị tâm:

Không khởi nhị tâm tức là làm việc gì chỉ một việc đó, không có thứ khác xen vào. Người xưa khi tu tập, chuyên nhất một việc là tập trung tu mà thôi, không để tâm dấy khởi niệm gì khác. Chúng tôi xin nêu dẫn một số gương của các bậc cổ đức xưa tu hành, các Ngài khắc phục tất cả những trở lực, khó khăn từ bệnh hoạn cho đến các chướng duyên để đi đến thành công viên mãn.

Thiền sư Tịnh Lâm trước là một giảng sư rất nổi tiếng. Sau một thời gian giảng pháp, khuyến hóa Phật tử hiểu đạo tu hành, Ngài ngừng việc giảng dạy để tu. Nhưng do lúc trước giảng dạy, tiếp xúc với Phật tử nhiều, nên khi ngồi yên lại có những khó khăn làm chướng ngại, nhất là ngủ gục và tán loạn. Đây là hai thứ bệnh giống như hai gọng kềm, sẵn sàng siết cổ người tu. Mình vừa yên một chút thì la đà ngủ gục hồi nào không hay. Khi giật mình ráng gượng cho tỉnh thì đầu óc nghĩ đông nghĩ tây, ngược xuôi chuyện năm trên năm dưới của thiên hạ, khó có phút giây nào yên được.

Ngài Tịnh Lâm bị tình trạng ngủ gục làm mờ mịt nên rất loạn tâm. Lúc diễn giảng không thấy điều này, nhưng khi nghỉ giảng thì ma ngủ đến quấy nhiễu liên tục. Bấy giờ Ngài thấy gần chỗ mình ở có một gốc cây to trườn mình ra ngoài, dưới đó là một hố sâu gai góc đá sỏi lởm chởm. Với quyết tâm phải trị cho được bệnh ngủ gục, dù có bỏ thân cũng không sao, Ngài trèo lên nhánh cây chìa ra ngoài hố, sắp đặt một chỗ ngồi trên đó. Ngài tự lập thệ nguyện: “Nếu không trị được bệnh ngủ gục thà rớt xuống hố chết còn hơn, sống chi mờ mịt không tỉnh táo sáng suốt để tu hành gì cả”. Lập nguyện như thế rồi, Ngài lên đó tọa thiền. Bởi sợ hơ hỏng rớt xuống tan xác nên Ngài ngồi rất tỉnh từ giờ này sang giờ khác, nhập sâu trong chánh định, trí tuệ bừng sáng, phát minh tâm địa và ngộ đạo ngay trên nhánh cây đó.

Người xưa đã tu tập như vậy, không lý gì bây giờ chúng ta không thực hiện được. Chúng ta phải có quyết tâm, khẳng định rồi thì tùy theo hoàn cảnh mà hạ thủ công phu, chớ không phải bắt buộc chúng ta leo lên cây như Ngài mới thành tựu được sở nguyện của mình. Ví dụ như chỗ tụng kinh của quí vị nóng bức, mồ hôi tuôn dầm dề. Không lẽ mỗi lần mồ hôi tuôn ta bỏ tu sao? Phải tu. Nếu có thể sắm quạt máy thì sắm, không sắm được thì dùng quạt giấy. Nhưng ngồi tu mà cứ quạt xoạt xạc hoài không yên cũng khó coi, vậy thì ta khẳng định ngồi yên, chịu đựng khắc phục sự nóng bực này, xem ai thắng ai. Nhất định làm sao cho tâm mình được yên. Khi thắng được hoàn cảnh một lần rồi ta sẽ có đà tiến thủ, cứ thế mà tu tiến.

Mỗi người tùy theo nghiệp tập của mình, làm sao cố gắng tu tiến, cố gắng khắc phục mọi hiện tượng chung quanh, đó là quyết tâm phải thực hiện cho bằng được lý tưởng của mình. Đừng vì bất cứ một cảnh duyên, một lý do gì mà đạo tâm lui sụt, quí vị nhớ cho điều đó. Sáng được việc của mình tức là thấy rõ ràng tất cả những hiện tượng chung quanh không thật, thấy tất cả những gì lâu nay mình say mê đắm trước đều không thật, hoàn toàn làm chủ, không bị động, không bị sai suyển đối với tất cả pháp trần. Đây là người sáng đạo.

Một Thiền sư nữa là ngài Thông Đạt. Ngài cắt đứt mọi duyên bên ngoài vào sâu trong núi Thái Bạch quyết tâm tu hành. Uống nước suối, ăn rau rừng, tọa thiền liên tục, một lòng chuyên tâm tu tập. Nhờ quyết tâm như thế nên chẳng bao lâu, ngài thắng phục được tất cả hoàn cảnh chung quanh và thành tựu đạo nghiệp.

Chúng ta thấy rõ ràng mọi khó khăn không thể làm chùn bước người có quyết tâm. Cho nên Phật tử trong đời sống bình thường, dù khó khăn bao nhiêu, cũng không đến đổi không tu hành được nếu ta quyết tâm. Chỉ sợ không quyết tâm thôi, nghe Phật pháp cũng nghe, hiểu Phật pháp cũng hiểu mà quyết tâm hành trì thì chưa. Bởi thế nên chúng ta tu hoài mà chưa thành tựu được gì hết.

Có vị đi chùa năm mười năm cũng chưa sáng đạo. Năm nào cũng đi thập tự, cúng kiếng lung tung mà phiền não chẳng giảm bớt chút nào. Bây giờ làm sao chúng ta có một khẳng định đối với việc tu học của mình. Như vậy mới có cơ hội thành tựu đạo nghiệp. Thật ra việc tu học không phải quá khó, nhưng cần có tâm trường viễn, kiên cố, nỗ lực hành trì liên tục mới thành tựu được. Chúng ta có phước được thân người, có tất cả những phương tiện cơm ăn áo mặc, bạn hữu, kinh sách, Phật pháp thế mà tu không được là lỗi tại chúng ta.

Trên phương diện tu hoàn cảnh càng khó chừng nào ta càng tiến chừng ấy. Quí vị đừng sợ, đừng đổ thừa tại ở nhà con bận quá, hoặc vì công việc làm ăn con không có thì giờ tu. Phật pháp bất ly thế gian pháp, nghĩa là ở đâu lúc nào ta cũng có thể tu được hết. Với tâm khẳng định lúc ta làm việc là lúc tu. Tu như thế nào? Khi quí vị bán một món hàng nào đó, chỉ biết món hàng ấy thôi, không nghĩ gì khác. Đừng đưa cho người ta nửa chừng rồi lấy lại, nói thêm giá, trong đầu lung tung không nhất định. Nếu có tâm như vậy là đã đánh mất cơ hội tu, mất sự định tỉnh.

Chúng ta không hẹn thời gian nào mới tu cả, vì vô thường đến bất cứ lúc nào. Chúng ta tu trong từng tâm niệm, trong mọi hoàn cảnh. Nếu áp dụng như vậy tâm định tỉnh, ma buồn ngủ, ma tán loạn đều trị được hết. Quan trọng mỗi vị tự khắc phục, tự nhìn lại quá trình tu học của mình, làm sao được định tâm. Được thế rồi thì sáng suốt dẹp được giặc phiền não. Người thiếu sáng suốt không cách gì trị giặc phiền não. Ta không biết nó ở chỗ nào làm sao trị được.

Ví dụ lâu nay mình tưởng con mắt mình đẹp, bây giờ có người nói con mắt mình xấu, tự nhiên giặc phiền não hiện ngay đó liền. Hoặc lâu nay ta cho mình là người thật thà chân chất, bây giờ nghe ai nói mình xảo trá thì giặc phiền não sẽ hiện ra ngay. Thành ra chỉ cần người ta chơi xấu, đặt một trái mìn ở điểm yếu của mình thì phiền não nổ ngay.

Chúng ta là Phật tử, đừng bao giờ dại dột mắc lừa người, thả giặc phiền não cho nó sai sử mình. Phải tỉnh táo, làm chủ để không bị đánh lừa. Người gạt được thì ta sẽ bị mất mình. Ví dụ tôi đang ngồi đây nói chuyện với quí vị, bất ngờ đằng sau có tiếng nổ “đùng”. Nếu tôi bình tĩnh tập trung nói chuyện thì vẫn ngồi yên, gương mặt bình thản. Nhưng nếu nghe “đùng” tôi ngó lại, chạy băng ra ngoài thì điều tôi nói bay theo luôn. Phật tử đừng bao giờ làm việc nhị tâm như thế, phải có chủ đích đàng hoàng. Như vậy việc làm của mình mới tới nơi tới chốn.

Vị thứ ba là ngài Kim Cương Chiếu. Vị này xuất gia năm 13 tuổi. Năm 19 tuổi vào núi Hồng Dương nương Hòa thượng Ca Diếp tu tập. Ngài chuyên cần ngót ba bốn năm trường, không hề giải y áo. Ngài dụng công tu tập như thế suốt thời gian dài, không có thì giờ hớt móng tay, cạo râu nữa, chỉ chuyên tâm chú mục một việc tu thôi. Mọi sai sử phiền não trong lòng tắt lịm nên Ngài thành tựu đạo nghiệp, sáng được việc lớn của mình.

Chúng ta thấy tu hành như các Ngài làm sao không thành tựu được. Còn mình chẳng những có thời giờ cởi áo, mà còn có thời giờ nằm dài ngáy ngủ nữa thì Phật nào chứng minh cho, nói gì thành tựu đạo nghiệp. Chúng ta có thể bỏ thời giờ dắt trâu đi chơi mông lung, nghĩ chuyện năm trên năm dưới, nói hay dở tốt xấu của thiên hạ, nên việc mình không sáng. Chủ yếu của người tu là phải sáng việc mình mới đạt đạo. Muốn thế phải tập trung soi lại mình, trong nhà thiền gọi là phản quan tự kỷ. Chứ còn rọi ra ngoài thấy việc thiên hạ thì mất mình, làm sao sáng được việc lớn.

Tuy nhiên, trong cái quyết tâm chuyên nhất ấy phải biết chừng mực hợp thời hợp lý mới thành tựu được. Nếu thái quá hay bất cập đều dẫn đến phản tác dụng, chẳng những không được lợi ích mà còn tai hại nữa. Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương có câu chuyện về thầy Tỳ-kheo do phát tâm tu hành mãnh liệt nhưng không tiến được, Ngài đâm ra thoái hóa. Như giờ chư Tăng nghỉ ngơi Thầy lại không nghỉ mà tu học, thiền quán. Do tinh tấn tu tập thái quá nên thân thể Thầy nhọc nhằn sanh ra bệnh hoạn. Từ đó Thầy thoái tâm Bồ-đề. Bấy giờ giọng tụng kinh của Thầy không còn hay mà nghe áo não, buồn bã lắm.

Đức Phật nghe sự việc ấy nên gọi Thầy tới hỏi nguyên do. Tỳ-kheo ấy trình bày với đức Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Con nhất định hạ thủ công phu quyết liệt vì nghĩ rằng trong thời gian ngắn sẽ đạt được thánh quả, nhưng bây giờ thân thể con kiệt quệ, tinh thần căng thẳng quá, không muốn tu nữa.

Đức Phật hỏi:

- Hồi trước khi đi tu, ông thích trò chơi nào?

- Bạch Thế Tôn! Trước khi tu con thích chơi đàn cầm.

Phật hỏi:

- Khi dây đàn dùn quá thì âm thanh thế nào?

- Bạch Thế Tôn, khi dây đàn dùn quá sẽ không có âm thanh.

Đức Phật hỏi:

- Khi dây đàn căng quá thì âm thanh thế nào?

- Bạch Thế Tôn, khi dây đàn căng quá nó sẽ đứt và không thể phát ra âm thanh nữa.

Đức Phật hỏi lần thứ ba:

- Như vậy dây vừa phải thì âm thanh thế nào?

- Bạch Thế Tôn, nếu dây đàn vừa phải thì âm thanh thật tuyệt diệu.

Phật bảo:

- Này Tỳ-kheo! Tu hành cũng như thế, nếu Thầy phát tâm mãnh liệt quá mà chưa thực hiện được, thân thể mỏi mòn bệnh hoạn sẽ thoái lui vì giặc phiền não sai sử. Giống như dây đàn căng quá bị đứt, không thể đàn được nữa. Dây chùn quá cũng không được, ví như Thầy cứ nằm ngủ hoài mà muốn thành Phật, chuyện đó không bao giờ có. Giống như dây đàn chùn quá không thể phát ra tiếng. Chỉ khéo dung hòa thôi, tùy thời tùy lúc nỗ lực công phu. Thái quá vượt bực mà không có tâm trường viễn kiên cố, sẽ không thực hiện được đạo nghiệp.

Cho nên người tu phải khéo điều hòa cuộc sống, khéo sử dụng thân mong manh này thành tựu pháp thể kim cương thanh tịnh đặc biệt của chính mình. Phật tử nên noi theo các kinh nghiệm trên mà nắm vững phương thức tu hành, sao cho có thể thực hiện được đạo lý ngay trong cuộc sống của mình.

3. Tin quả quyết vào pháp tu:

Chữ tin ở đây trước tiên là tin nơi mình. Đức Phật đã từng nói “Ta là Phật đã thành, tất cả chúng sanh đều là Phật sẽ thành”. Chúng ta tin nơi khả năng thành Phật của mình thì mới có thể tu tập giác ngộ giải thoát. Song sự giải thoát đó phải được thực hiện ngay nơi chính bản thân chúng ta. Cho nên nếu không tin mình thì không có cơ sở, không có nền tảng để đạt được giác ngộ giải thoát.

Mỗi vị có thể chọn một pháp tu thích hợp cho mình, song pháp ấy phải chân chánh, đúng như Phật dạy. Đã có pháp môn tu rồi thì tin tưởng, dốc lòng giữ vững phương pháp ấy mà tiến tu. Không nên nay theo pháp này, mốt theo pháp nọ, tu như vậy không bao giờ đạt được kết quả mong muốn. Giống như người qua sông, muốn mau tới bờ nên đi hai thuyền một lượt, kết quả là rơi xuống sông thay vì đến bờ sớm.

Chúng ta cũng vậy, như Phật tử chọn pháp tu thiền ở đây thì cứ theo sự hướng dẫn của Hòa thượng, từng bước thực tập tọa thiền theo thứ lớp Ngài đã chỉ dạy. Không nên nay tọa thiền, mai trì chú, mốt niệm Phật. Như thế tâm sẽ tán loạn, không nhiếp niệm chuyên nhất thì việc tu không có kết quả. Hơn nữa có đi sâu vào mỗi pháp môn, chúng ta mới có kinh nghiệm sâu sắc và phát minh được những điều lý thú trong việc tu tập. Từ đó mới có thể truyền đạt, giúp cho huynh đệ đồng tu cùng thăng tiến.

Ngày xưa Thiền sư Pháp Thường sau khi được pháp ở Mã Tổ với câu “Tức tâm tức Phật”, Ngài lui về núi Đại Mai ở ẩn. Một hôm Mã Tổ sai người đến thăm. Ngài hỏi: “Gần đây Mã Tổ dạy người thế nào?” Thiền khách đáp: “Phi tâm phi Phật”. Thiền sư Pháp Thường nói một cách quả quyết: “Mặc cho ông già phi tâm phi Phật, ta chỉ biết tức tâm tức Phật”. Người xưa đã có niềm tin kiên cố như vậy mới thành tựu được việc lớn. Không như chúng ta nghe đâu tin đó, chẳng có lập trường gì cả, trách gì tu hoài chẳng tới đâu.

Lại, trong đạo Phật niềm tin phải được xây dựng trên lý nhân quả. Người làm lành nhất định được quả tốt, kẻ làm ác chắc chắn sẽ chuốc quả xấu. Nhân quả tương tác qua lại trong nhiều đời, song đều tuân thủ theo nguyên tắc này. Nhờ tin nhân quả, chúng ta mới chuyển nghiệp, dứt nghiệp và không tạo nghiệp nữa. Còn không tin nhân quả thì không thể chuyển nghiệp, dứt nghiệp. Không dứt nghiệp làm sao giải thoát sanh tử được. Do đó Phật tử phải có niềm tin kiên định nơi mình, đồng thời tin nhân quả thì việc tu tập chắc chắn sẽ thành tựu.

4. Biết tận gốc rễ sanh tử:

Người tu nếu không biết gốc rễ của sinh tử thì khó tu lắm. Đây là vấn đề có thể nói trọng yếu nhất của chúng ta. Vậy gốc rễ của sanh tử là gì? Gốc rễ của sanh tử là si mê phóng tâm chạy theo thinh sắc, chạy theo mọi hiện tượng bên ngoài. Bây giờ muốn giải quyết vấn đề sanh tử thì ta phải làm chủ được mình. Chỉ khi nào không chạy theo những bóng giả bên ngoài, chúng ta mới dừng được sanh tử. Chính điều này là chủ chốt của việc tu hành.

Trong nhà thiền dạy phản quan tự kỷ, nghĩa là tự soi lại mình tự làm chủ lấy mình cũng chỉ vì một mục đích giải thoát, chấm dứt sanh tử. Từ nhiều đời chúng ta cứ chạy theo bên ngoài. Con mắt ngó ra chứ không bao giờ ngó vô, cũng ít ngó xuống nữa. Bây giờ làm sao ta thấy được mình. Thấy thế nào? Thấy nghiệp tập, thấy thói hư tật xấu của mình, thấy để sửa đổi chuyển hóa. Ví dụ như mình định nói người ta dở, nhìn lại thấy mình dở hơn nên thôi không nói. Đó là tu, là chuyển nghiệp, dừng nghiệp để đi đến dứt sạch nghiệp, giải thoát sanh tử.

Thành ra chủ yếu của việc tu hành là làm sao soi lại mình, ta mới tu được, mới hết điên đảo. Nếu thấy mình còn dở thì cố gắng phấn đấu lên, nếu thấy mình có gì hay thì lấy đó làm đà tiến thủ tu tập, chớ không tự cao tự đại. Ví dụ thấy người kia bị chọc sân, họ nổi khùng lên nói tùm lum. Do đó khi bị chọc sân mình cố gắng khắc phục, cố gắng tự chủ không nói tùm lum, tức là khá hơn người kia rồi. Thấy khá để tiến chứ không phải để tự hào vỗ ngực khen tôi hay hơn, như thế là thất bại.

Thiền tông Việt Nam vào thời Trần, các bậc vua chúa nước ta đã thực hiện pháp tu này, có những cách thức tu tập đạt được kết quả cụ thể. Bây giờ chúng ta nên hướng theo các Ngài thực hiện tu tập như vậy để làm chủ được mình. Khi đó đã được an ổn, tất cả những lăng xăng lặng xuống hết thì trí tuệ phát sanh. Chừng ấy mọi dây mơ rễ má sanh tử đều bị ta chém phăng, thong dong tự tại đi trong cuộc đời, tùy duyên cảm hóa cứu độ chúng sanh, còn gì hay bằng!

Cho nên công phu soi lại mình là cẩm nang để chúng ta đi đến giác ngộ giải thoát. Phật tử nếu thật tâm tu hành cầu chấm dứt sanh tử đau khổ, nên đối trước Tam Bảo tha thiết phát trọng nguyện: Nếu không rõ suốt việc sanh tử, không vượt khỏi cửa chư Tổ, thệ không bỏ phương pháp mình tu hành.

Nhờ khẳng định như thế, chúng ta mới gắng nỗ lực vượt cửa sinh tử, sáng được việc mình, phá vỡ tất cả nghi lầm, mê muội từ nhiều đời. Việc này đòi hỏi tâm kiên cố, trường viễn của chúng ta. Quí vị nhớ, nói là làm, không phải nói suông. Tất cả chúng ta là con Phật đồng quy hướng về Ngài, quyết định như thế không bao giờ thay đổi. Có tâm quyết liệt như thế mới mong chấm dứt sanh tử khổ đau.

Nói những lời tâm nguyện tha thiết như thế, chúng tôi không chỉ nhắn nhủ với quí Phật tử mà thật ra chúng tôi nói với chính mình nhiều hơn. Bởi chúng tôi cũng đang trên con đường trở về với chính mình, việc dụng công phu còn trải qua nhiều giai đoạn lắm. Nếu không phát đại nguyện ắt không thể thực hiện đến ngày viên mãn.

Với tâm nguyện tha thiết này, cúi mong chư Phật chứng minh, tất cả chúng ta đều thực hiện thành tựu sở nguyện của mình.
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
NHỮNG NÉT ĐẶC BIỆT CỦA NGƯỜI TU THIỀN

Hôm nay chúng tôi sẽ nói về Những nét đặc biệt của người tu thiền. Chúng ta tu thiền phải biết những điểm đặc biệt này, nếu không sẽ mất thì giờ trong lúc dụng công, có khi công phu thối chuyển không tiến được. Làm sao mỗi ngày ta đều sống được với sự an lạc, tỉnh thức. Như thế mới đúng với tinh thần tu thiền.

Trước nhất, người tu thiền phải biết tâm mình là gì. Nếu tu mà chưa nhận được tâm thì chỉ luống uổng công phu. Như vậy tâm là gì? Cổ đức nói “Tâm là chơn Phật, tánh là chơn pháp. Ngoài tâm không có Phật, ngoài tánh không có pháp”. Có khi các Ngài nói “Tánh tức là Tâm, Tâm tức là Phật, Phật tức là Đạo, Đạo tức là Thiền”. Nói một vòng chỉ để cho chúng ta nhận được tâm. Người nhận được tâm thì sống được với đạo.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta tiếp cận với bao nhiêu công việc, nếu thể hiện được tinh thần thiền trong cuộc sống đó là ta nhận được tâm. Người xưa dạy: “Kẻ học đạo tu thiền phải biết rõ tâm mình, thấy rõ tánh mình. Người không nhận được bản tâm, chưa thấy được bản tánh thì sự tu tập khó thành tựu”. Sở dĩ chúng ta còn vướng mắc, bức xúc trong tiếp xử hàng ngày là vì chưa nhận được tâm, cứ chạy theo vọng tưởng điên đảo lăng xăng bên ngoài.

Người nhận được tâm rồi lúc nào cũng bình thản an nhiên trong tất cả sự tiếp cận, không dấy khởi niệm gì khác. Ngược lại, người chưa nhận được tâm, chưa có công phu tu tập khi gặp cảnh duyên trái ý nghịch lòng liền sanh bực bội, khi gặp cảnh duyên vừa ý liền thấy thích thú. Cảnh duyên bên ngoài luôn khiến cho ta dấy niệm chạy theo, nên bị mất mình vì nó. Đây là điểm mà người tu chúng ta phải nhận cho được để có sự tỉnh giác mạnh, nếu không chẳng những cả đời ta ngược xuôi với trần cảnh mà nhiều kiếp phải chịu trầm luân sanh tử rất thống khổ.

Cho nên người biết tu, tu một tháng bằng người chưa biết tu, tu một năm. Là vì mỗi một cảnh duyên, mỗi một sự kiện họ đều lăng xăng điên đảo. Cảnh buồn, cảnh vui, cảnh không vừa ý, cảnh vừa ý v.v… đều sôi nổi, đầy ắp trong lòng họ, không có một khoảng trống nào để được yên cả. Hầu hết mọi chúng ta đều có cuộc sống chộn rộn, bất an gốc là từ vọng tưởng điên đảo mà ra. Vọng tưởng điên đảo có là do chúng ta quên mất tâm của chính mình vậy.

Ngày xưa chúng ta không hiểu tại sao thế giới mình đang ở có tên là kham nhẫn, khi có chút công phu ta thấy quả thật như thế. Mỗi người hãy kiểm nghiệm lại lòng mình sẽ thấy những bất an, bức xúc, những điều không như ý làm cho ta đau nhức, khó chịu, bực bội xảy ra hằng ngày trong cuộc sống nhiều không thể kể hết. Còn những giây phút yên vui, thanh thản, tĩnh lặng thì hiếm hoi lắm.

Người thế gian mượn những hình thức như âm nhạc thể thao cho đến văn hóa nghệ thuật v.v… nhằm vui chơi vì họ ngỡ rằng những thứ đó có thể khỏa lấp được những khó khăn, bức xúc trong lòng nhưng cuối cùng không có niềm vui nào đủ sức giải tỏa phiền não cả. Có người ngồi xem hai ba tiếng đồng hồ kịch hài để quên đi nỗi buồn, nhưng không đợi diễn xuất kia chấm dứt, mà ngay khi đang đối diện với màn ảnh, tâm họ vẫn cứ buồn phiền, bất an, khó chịu như thường. Thế mà con người chịu đựng được tất cả, nếu có than thì cũng cứ gánh chịu chứ không bỏ đi đâu được, nên Phật gọi Ta-bà là cõi kham nhẫn, tức cõi có thể nhận chịu được tất cả.

Đức Phật ngày xưa khi còn là Hoàng thái tử Sĩ Đạt Đa đã bị một nỗi bức xúc giày vò, làm cho Ngài không thể chịu đựng nổi nữa, cuối cùng phải vượt thành xuất gia để giải quyết sự bức xúc ấy. Đó chính nỗi khổ triền miên của kiếp nhân sinh. Còn chúng ta cũng bị bức xúc nhưng cam chịu, nếu không nói là đầu hàng. Vì vậy ta cứ mãi nấn ná trong cõi kham nhẫn này. Cho nên sự ra đời của đức Phật như một sự đánh thức nhân loại sau giấc ngủ dài hàng nghìn nghìn năm.

Trở lại vấn đề tu hành, nếu chúng ta biết thương mình thì phải sớm tìm cách giải tỏa những bất an bất ổn trong lòng, không nên chấp nhận cuộc sống phiêu lưu, mỗi ngày mỗi kéo dài hơn, không biết đâu là cùng. Cho nên đối với công phu tu, phút giây nào được tỉnh táo, có chút an lạc là mừng phút giây đó. Bởi vì đôi khi phút này ta an lạc nhưng phút sau mất an lạc, không biết làm sao để giữ sự an lạc của chính mình. Nhiều người cuối cùng đành buông xuôi, ngày qua ngày tới đâu thì tới.

Niềm vui chân thật trong đạo phải được thực hiện và thể hiện từ bên trong tâm ta, chớ không thể chỉ tạm mượn nụ cười hời hợt bên ngoài khỏa lấp một tâm trạng bất an ray rức bên trong. Vui như vậy chỉ càng làm khổ mình khổ người, không phải là niềm vui chân thật. Đó là lý do vì sao có những vị vào đạo đôi ba chục năm, cuối cùng phủi áo ra đi, không còn chút tín tâm với Tam bảo. Chính vì ta không biết tự quay trở lại chiêm nghiệm lấy mình, nhận ra và sống thực với mình nên cuối cùng phải mất mình, chấp nhận cuộc sống tha phiêu lưu trôi dạt như thế.

Trong kinh Pháp Hoa, Phật nói: “Ba cõi không yên như trong nhà lửa”. Nếu ta là người tri thức, biết thương mình và nhắm thẳng đến công phu, khi nhận được tin tức này, nhất định ta không bao giờ chểnh mảng, lêu lổng vui chơi trong ngôi nhà lửa sắp sụp đổ. Phật nói chỉ có mấy đứa trẻ dại khờ không biết gì mới vui chơi trong ngôi nhà sắp sụp đổ. Người thức tỉnh đã biết ngôi nhà như vậy, nhất định không khi nào ta vui chơi trong đó được. Nhưng hiện giờ chúng ta vẫn vui được, vẫn sống trong đó không muốn tìm đường thoát ra, vì vậy Phật nói chúng sanh si mê điên đảo hết chỗ nói.

Với người tu thiền, đối trước các sự kiện vô thường của cuộc đời, điều cần yếu nhất là phải nhận được tâm của mình. Nhận được tâm rồi công phu tăng tiến đều đặn, không có gì trở ngại hết. Có chỗ nói nhận được tâm chính là kiến tánh, tức là thấy được tánh thật của các pháp. Người như thế không bị các pháp lay chuyển, đủ dũng lực và trí lực đối đầu với mọi hiện tượng biến thiên lưu chuyển không ngừng trong cuộc đời mà tâm vẫn bình an, không chút xao động.

Vì vậy có thể nói cốt tủy của sự tu hành là ở tâm, bởi tâm chính là sinh mệnh của muôn loài. Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu chúng ta chưa nhận được, chưa sống được với tâm thực của mình thì chưa nắm được cốt tủy của sự tu hành, do đó việc tu hành không tăng tiến. Nếu có tăng tiến thì sự tăng tiến đó cũng chỉ là giai đoạn tạm thời thôi. Chúng ta phải thật sự nuôi dưỡng công phu của mình, làm sao trong mọi tiếp duyên, ta chủ động giữ vững công phu tăng tiến đến nơi đến chốn. Có thế mới bảo dưỡng, thực hiện công phu một cách viên mãn.

Người thấy được tính chất tu hành mới có thể giải quyết được mọi vấn đề. Đó là người kiến tánh, là người bất động. Nếu tu hành mà không thấy được con đường trước mắt, chỗ đến như thế nào, nhất định chúng ta không dám tu. Ví dụ nghe nói tu thiền điên, nếu người không hiểu đến nơi đến chốn, dĩ nhiên sẽ không dám tu thiền. Rõ ràng do người ấy chưa thật sự thấy được cốt tủy của việc tu thiền, chưa kiến tánh nên mới bị dư luận bên ngoài làm thối chuyển như thế.

Người đã kiến tánh, đã sống được với tánh giác, dù nghe ai nói thế nào, tâm cũng vẫn bình thường, giữ vững lập trường tu tập của mình. Bởi người ấy biết rõ công phu, pháp môn tu tập của mình đã được những kết quả thiết thực, phù hợp với đạo lý sống hằng ngày. Cho nên họ có niềm tin vững chắc, vì đã tự khám phá đến nơi đến chốn việc của mình, không có người thứ hai tham dự vào. Có khẳng định như vậy, mỗi ngày mới phấn phát tiến tu được. Chứ còn sáng nghe người ta khen tu thiền hay ta thấy vui, trưa gặp ai nói tu thiền coi chừng điên ta liền hốt hoảng, chiều nghe người ta giới thiệu pháp tu nào hay hơn ta vội bỏ cuộc, tâm trạng tu hành không dứt khoát như vậy, tu cả đời cũng chả ra làm sao hết.

Thành ra người tu thiền phải có sự kiên quyết, có cái nhìn tới nơi tới chốn. Từ đó tùy theo công phu của mỗi người mà chúng ta hưởng được sự an lạc thiết thực khác nhau. Kinh Lăng Già nói: “Dĩ tâm vi tông, dĩ vô môn vi pháp môn”. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có công phu. Theo kinh Lăng Già dạy lấy tâm làm chủ, lấy cửa không làm sức sống hành trì hằng ngày. Tâm vốn không có hình tướng, cửa không đồng với không có cửa, như vậy công phu hằng ngày của chúng ta thật ra cũng chẳng phải là công phu gì cả. Chỉ cần tỉnh giác tự chủ, nhìn lại cái sẵn có nơi mình, đem nó ra dùng là đủ sức giải quyết tất cả mọi sự kiện, mọi vấn đề trong cuộc sống. Như vậy người sống với tánh giác, nhận được tâm là người có công phu mà không thấy mình có công phu, hóa giải được mọi chuyện mà chẳng thấy có việc gì bận rộn trong lòng.

Chúng ta vì thường sống với tâm vọng động bất an nên không hóa giải được việc gì cả, dù là việc rất nhỏ trong sinh hoạt đời thường. Như đang ngồi đây, vừa được tin ở nhà có người thân bệnh, trong lòng ta liền chao đảo, không còn tập trung nghe pháp được nữa. Những thứ an bất ổn luôn luôn vây hãm mình, bởi vậy cuộc sống không có an lạc. Người đã thực sự sống được với tánh giác, họ bình ổn rồi thì việc gì đến cứ đến, tất cả đều có nhân quả của nó, không phải bận tâm làm chi cho khổ. Mình đã gây trước như thế nào, bây giờ quả đến tương xứng thế ấy, phải chấp nhận thôi. Chấp nhận trong tỉnh táo, sáng suốt thì mọi việc không còn là vấn đề gì hết.

Thiền sư Hakuin ở Nhật Bản khi bị vu oan là tác giả của một bào thai, cha mẹ cô gái đến sỉ vả Ngài đủ điều, Thiền sư chỉ thốt lên hai tiếng “Thế à”. Đến khi đứa bé chào đời, họ đem ném trước mặt Ngài cũng kèm theo không biết bao nhiêu lời than oán, Thiền sư cũng chỉ nói “Thế à”. Sau cùng, không chịu được cơn dằn vặt trong lòng, cô gái thú thật với cha nàng rằng Thiền sư không phải là tác giả tạo ra tác phẩm kia. Cha mẹ cô ta đến hết lời xin lỗi Ngài, và dĩ nhiên Thiền sư cũng chỉ đáp lại hai tiếng “Thế à”. Đó chính là những nét đặc biệt nhất trong nhà thiền.

Chúng ta nếu gặp những sự việc như vậy, không biết sẽ than khổ tới đâu nữa. Cho nên người tu nhận ra bản tâm rồi, lấy cửa không làm phương tiện sống và nuôi dưỡng công phu hằng ngày, mọi chuyện xảy ra trong cuộc đời xem nhẹ như gió mây, thanh thản bình yên như hư không, không có vấn đề gì cả. Thế nên người học đạo phải biết rõ tâm mình là Phật, người hành đạo phải giữ được tâm không, thấu suốt ý nghĩa tức tâm tức Phật. Được vậy, công phu nhất định sẽ thành công, không bị trở ngại bởi bất cứ một ngoại duyên nào.

Nói đến người hành đạo giữ được tâm không, điều này rất quý. Tâm chúng ta ít khi nào không lắm, hết vấn đề này đến vấn đề khác, chúng cứ tuôn trào ra. Người sống và thể hiện được tâm không thì không có vấn đề gì cả. Như hư không ta có để vào đó bất cứ thứ gì nó cũng không đầy, còn vật có hình tướng khi đã chứa đầy chỉ cần thảy thêm một chút gì vào là nó tràn ra, không thể chứa được nữa. Hư không rộng lớn mênh mông, không bị giới hạn nên có dung lượng vô biên, tất cả sự vật trong đó không thành vấn đề.

Cho nên người tu thiền biết giữ tâm không là vượt thoát tất cả sự vướng mắc trở ngại bởi các sự kiện trong cuộc đời. Chúng ta còn bị vướng mắc là còn bất an. Nếu buông được, vui vẻ bố thí hết, trong lòng rỗng rang như hư không thì đâu có vấn đề gì để mình bận tâm nữa. Như thế là thoát ra tất cả sự vướng mắc, buộc ràng rồi, tức nhiên mình sẽ bình yên thôi. Cổ đức nói ngay chỗ đó, hãy xem như ta đã chết, người chết không bao giờ ngóc đầu dậy nói gì nữa. Người tu thiền luôn xem như mình đã chết. Đối với tất cả những vui buồn, thành bại, nhục vinh trong cuộc đời không còn bận tâm, như thế mới dốc lòng tiến đạo được.

Tuy nhiên đây chỉ là giai đoạn mới bắt đầu trở về quê cũ thôi. Từ đây cho tới ngày thực sự an ổn, đòi hỏi chúng ta phải có công phu, phải có một thời gian trải dài. Sự hiểu biết chưa phải là kết quả mà công phu thực hành, từng bước tu tập mới đưa ta đến mục đích mình mong muốn. Cho nên đòi hỏi chúng ta phải có thời gian tu tập, chịu đựng hành trì dài lâu. Thời gian này dài bao nhiêu không biết, khó khổ thế nào cũng không sao đoán được, tùy theo phúc duyên của mỗi người mà chúng ta có sự dấn thân nếm trải khác nhau. Thế nên biết việc tu quan trọng ở ý chí và tâm thành, chớ không phải thời gian hay không gian. Nói thế để chúng ta tránh bệnh yếu đuối, ỷ lại, cứ trông đợi bên ngoài hỗ trợ, cầu khẩn Phật trời phù hộ, không chịu phát huy tánh giác của mình.

Người tu thiền biết đoạn đường mình đi rất dài, nhiều khó khăn nguy hiểm đang chực chờ, nên chuẩn bị tinh thần đối phó, không sợ sệt, không nhát nhúa cầu cạnh ai hỗ trợ, tự nỗ lực vươn lên, vượt khó. Chúng ta luôn sáng suốt, biết tất cả mọi vấn đề đều phải tự mình giải quyết, không có người thứ hai can dự được cho nên tinh thần mạnh mẽ phấn phát. Khi đã quyết định như thế chúng ta sẽ bình yên. Dù sự việc xảy ra thế nào mình vẫn bình yên, không có vấn đề gì. Nếu chúng ta khởi niệm phải như vầy như kia hoặc cầu khấn nhờ vả ai giúp đỡ, tâm sẽ yếu đuối bất an ngay.

Trên đời này ai không muốn bình yên, nhưng có ai được bình yên hoàn toàn đâu. Người ta nói một câu hơi nặng, mình trả lời lại một câu cũng hơi nặng là mất bình yên rồi. Lúc ấy có cầu nguyện thần thánh nào, ổng cũng không làm trọng tài giải quyết nổi, vì biết không thể tạo thế quân bình trong những cái tâm bất an bất ổn như thế. Biết vậy tốt nhất ta sống tỉnh thức, đừng để tham sân si xỏ mũi lôi đi là không có chuyện cầu khẩn ai mà vẫn bình an như thường. Nên nhớ người thực sự muốn bình an không bao giờ gây chiến và cũng không đấu chiến.

Ngày xưa có một tên ăn trộm chúa, khi thấy con trai mình lớn lên, có thể hành nghề ăn trộm được rồi, hắn mới bảo với con: “Con có muốn ba dạy cách ăn trộm không?” Thằng nhỏ chịu liền. Thế là giữa đêm hắn kéo con trai đến đục tường, xông vô một nhà giàu nọ. Khi cạy được nắp thùng lớn rồi, hắn bảo con trai chun vào đó lấy đồ. Thằng con vừa chui vào, hắn liền sập nắp thùng xuống một cái rầm, rồi một mình thoát ra cửa. Vừa chạy hắn vừa la to “ăn trộm, có ăn trộm”.

Thằng nhỏ hoảng vía, khi nghe cả nhà mở đèn lục soát và tiến về hướng mình. Trong giờ phút chí tử ấy, nó bỗng nghĩ ra cách giả tiếng chuột kêu chít chít trong thùng. Người trong nhà chia nhau tìm bắt tên trộm, không thèm chú ý tiếng chuột làm chi, nên chỉ có một người đến giở nắp thùng ra xem. Thằng nhỏ liền xông ra hất kẻ kia rồi chạy trối chết ra cửa sau. Người ta đuổi theo bén gót, chạy ngang một cái giếng nó liền nghĩ cách ôm một tảng đá liệng xuống giếng, kêu một tiếng lớn. Mọi người ngỡ rằng tên trộm đã rơi xuống giếng nên không đuổi theo nữa, nhờ thế nó thoát nạn.

Về đến nhà, thấy cha ngồi uống trà thanh thản, nó tới gần với ánh mắt căm tức cực độ. Nhưng tên trộm chúa vui vẻ xoa đầu nó nói: “Con đã trở thành một tay trộm xuất sắc rồi. Từ nay về sau có thể thay Ba công việc này. Chúc mừng con”. Chừng ấy thằng con mới hiểu cách dạy trộm độc đáo của cha mình. Câu chuyện “Trộm dạy con” này đã được truyền tụng xưa nay với ý nghĩa rất thâm trầm.

Việc học đạo của chúng ta cũng thế. Phật, Bồ tát, các vị thầy của của chúng ta dạy cuộc đời là khổ, mọi thứ đều đổi thay, thân này hư giả v.v… Dạy xong, các Ngài về thất nghỉ. Chỉ còn lại một mình ta trong từng phút giây, phải đối diện với cuộc đời, với sự sống, làm sao đừng bị ngã gục, không thất bại trước dục lạc thế gian hoặc không bỏ cuộc giữa đường, đó là ta thành công. Ông thầy đem hết tâm pháp bí yếu, những kỳ đặc để hướng dẫn cho mình, nhưng chính chúng ta mới là kẻ khám phá ra những thành quả ấy.

Câu chuyện “Trộm dạy con” muốn nhắc nhở mọi người tu phải tự mình phấn đấu vươn lên, tự mình sống được mới thành công. Ngược lại nếu ta yếu đuối, coi như dọc đường đã trở thành tro bụi rồi, nói gì chuyện thành hay không thành. Cho nên nói đến sống đạo là nói đến công phu, nói đến sự thể hiện trọn vẹn tinh thần làm chủ mình qua sinh hoạt đời thường. Người có nếp sống đạo, có công phu tu hành, trong mọi tiếp xử hằng ngày luôn thể hiện một cách trọn vẹn tư cách của một người đã làm chủ được mình, không bị vướng mắc, cạm bẫy gì của thế gian kéo lôi nữa.

Có ba giai đoạn hướng tâm giúp chúng ta kiểm nghiệm được công phu hằng ngày của mình. Hướng tâm thứ nhất là hướng tâm phàm phu nặng về tình cảm, nên khi đối duyên xúc cảnh bị tình cảm kéo lôi. Xu hướng của tâm trong giai đoạn này còn nhiều tình cảm, ngã ái nặng. Đây là giai đoạn đầu của người tu, hầu hết mọi người đều trải qua. Nên trong giai đoạn này chúng ta phải phấn đấu quyết liệt với bệnh chấp ngã của mình. Bởi trí chưa hiện đầy đủ, công phu chưa viên mãn nên bị tình cảm chi phối, không thể tự làm chủ được.

Biết thế để chúng ta thông cảm, không nên xem thường các bạn đồng chí đồng hạnh với mình, họ cũng đang hì hục trong giai đoạn thứ nhất này. Bởi tất cả chúng ta còn xoay vần trong cuộc thế với biết bao ràng buộc, mọi thứ tình cảm bu quanh khiến cho mình kẹt cứng trong ngã chấp. Tu hành đến giai đoạn này, nếu hết duyên phải bỏ thân thì ta trở lại làm người có phúc duyên tiếp tục tu tập, không mất mát đi đâu cả. Tuy còn nặng về ngã chấp nhưng chúng ta có quá trình tu tập, chỉ nặng về tình cảm chớ không tạo tội phải đọa vào địa ngục hay ngạ quỷ, nên đừng quá lo sợ.

Trong kinh Niết Bàn, Phật có dẫn một ví dụ thế này. Như người đi chơi xuân ngang qua hồ nước trong, họ lượm viên sạn thảy xuống hồ nước, chốc lát nó lặn mất. Ta cứ tưởng viên sạn không còn nhưng thật sự nó nằm dưới đáy hồ, chứ không mất mát đi đâu. Gặp cơ hội nào thuận duyên viên sạn đó sẽ hiện ra. Người có trí thì nhẹ nhàng khéo léo vớt viên sạn lên một cách dễ dàng thôi. Việc tu hành cũng vậy, tuy công phu chưa viên mãn, mọi thứ còn dày đặc, lo ăn lo mặc việc nọ việc kia, nhưng chủng tử đã gầy dựng không mất. Ngày nào đủ duyên nó sẽ phát triển, chúng ta tiếp tục tu tập thăng tiến hơn nữa.

Hướng tâm thứ hai là hướng tâm từ phàm vươn lên thánh. Giai đoạn người tu đã có chút trí tuệ, biết phát huy và ứng dụng trí tuệ của mình khi đối duyên xúc cảnh. Chúng ta thấy rõ các pháp không thật, nên tâm bình thường an ổn với tất cả những sự kiện chung quanh. Đối trước những việc đau lòng, biết vận dụng trí tuệ để tự an tâm. Nhờ thế giữ được sự bình ổn thường xuyên. Đây là giai đoạn hành giả đã giữ vững công phu, trí tuệ bắt đầu phát sanh, tuy nhiên chưa phải hoàn toàn giác ngộ, chỉ là giác ngộ từng phần thôi.

Bởi được phần giác nên sự mê mờ giảm bớt, người này không còn lầm việc tu học của mình nữa. Một từ “Không lầm” này đã cứu rỗi không biết bao nhiêu nghiệp nhân và hóa giải không biết bao nhiêu phiền não. Do mê lầm nên chúng ta gây tạo nghiệp để rồi trôi giạt, loay hoay mãi trong vòng vay trả trả vay. Vì vậy tu đến chỗ không lầm là đã vượt được một đoạn đường đáng kể rồi. Ngay đời này, ta phát chí tu hành đến được chỗ “không lầm” đối vớt tất cả các pháp là rất quý hóa vậy.

Ngày xưa, trong pháp hội của tổ Bách Trượng, có một ông già sau khi nghe pháp không chịu về, cứ lảng vảng ở đó mãi. Tổ thấy lạ mới hỏi: “Sao ông chưa về, còn có điều gì muốn hỏi?” Ông già thưa:

- Con không phải là người thường. Trước con là Trụ trì, do có người hỏi: Bậc đại tu hành có rơi vào nhân quả không? Con trả lời không, nên bị đọa làm thân chồn ở sau núi này năm trăm năm rồi. Hôm nay đủ duyên được gặp Hòa thượng, cúi mong Ngài vì con nói phá, để con được thoát kiếp chồn.

Tổ Bách Trượng bảo:

- Ông hỏi lại ta đi.

Ông già liền hỏi:

- Bậc đại tu hành có rơi vào nhân quả nữa không?

Tổ Bách Trượng trả lời:

- Không lầm nhân quả.

Ngay câu nói này, ông già đại ngộ, biết được lỗi trước của mình, liền quỳ xuống bạch Tổ:

- Ngày mai nếu Hòa thượng thấy sau núi có xác một con chồn, xin táng nó theo pháp táng một vị Tăng. Con cúi đầu đảnh lễ Ngài đã giúp con thoát khỏi kiếp chồn và hiểu được lý nhân quả một cách thấu đáo.

Rõ ràng chỉ một từ “không lầm” thôi đã giải quyết được bao nhiêu dây mơ rễ má kết thành oan nghiệt nhiều đời. Trong mọi sinh hoạt thời thường, nếu lúc nào chúng ta cũng không lầm, thì ta là người giác ngộ, người đại giải thoát. Ăn cũng không lầm, ngủ cũng không lầm, tiếp khách cũng không lầm, đối với tất cả tài sản sự nghiệp, mọi thứ trên đời đều không lầm, tức trí tuệ đã tròn đầy rồi, đâu còn bị cái gì dối gạt nữa.

Cái khổ lớn nhất của con người là vô minh, tức si mê lầm lẫn. Cho nên tu là để chấm dứt sự si mê lầm lẫn ấy. Vì vậy các Tổ dạy người công phu chưa tới nơi tới chốn phải dè dặt như đi trên băng mỏng, trên mũi nhọn, trên bờ vực thẳm… hớ một chút là nhào xuống chết liền. Chúng ta phải biết mọi sự kiện dàn trải trước mắt đều tuân theo luật nhân quả. Trong mọi xuất sử, tương giao, tiếp cận, nếu ta tỉnh thức sống được với tánh giác của mình, thì trong một trăm điều giảm bớt chừng vài chục điều lầm lẫn. Đó cũng là quý lắm rồi. Còn nếu chúng ta không tu không tỉnh, thì sự lầm lẫn không biết bao nhiêu mà kể.

Như câu chuyện ông già vừa kể, đã là một vị Trụ trì, chỉ vì trả lời sai một chữ “không rơi vào nhân quả” mà phải 500 đời thọ thân chồn. Vì sao như thế? Bởi nói không có nhân quả tức là bác không nhân quả, rơi vào ngoại đạo, tà kiến. Nhân quả là một sự vận hành liên tục của các pháp. Tuy các pháp không thật, nhưng còn duyên là còn pháp. Ví dụ như huynh đệ chúng ta ngồi đây, có năm ba vị tu hành được giác ngộ thành Phật. Tuy đã thành Phật, nhưng những ân oán nhiều đời của các vị ấy đối với mọi người chung quanh chưa được giải quyết, khi đủ duyên các Ngài cũng phải trả hết. Trả nhưng các vị ấy không khổ, không hận, sẵn sàng vui vẻ để trả. Đó là sự khác nhau giữa bậc đã giác ngộ và chúng phàm phu chưa giác ngộ. Không phải nói thành Phật rồi là bao nhiêu nợ cũ quỵt hết, như vậy không được. Nghiệp nhân đã gây tạo, của ai nấy trả, rõ ràng như thế.

Tóm lại, xu hướng thứ hai của người tu là giai đoạn tâm đã phát sinh trí tuệ, nhưng chưa hoàn toàn viên mãn. Nhờ có trí tuệ nên việc tu tiến nhanh và vững hơn ở giai đoạn một. Cứ thế tiếp tục công phu một cách tinh tấn sẽ tiến dần lên giai đoạn thứ ba.

Đến hướng tâm thứ ba là hướng tâm của người đã nhận chân được cái chân thật nơi mình. Người này thấy rõ những ngược xuôi điên đảo của mình trong nhiều đời là do mê lầm chấp ngã. Bây giờ ngừng lại, không tiếp tục gây tạo nhân trầm luân trong sanh tử nữa. Giai đoạn thứ ba có thể nói là kết cục của người tu hành. Đến đây rồi thì tâm hoàn toàn an lạc vì không còn kẹt vướng ở bất cứ thứ gì nữa. Tâm thông, trí sáng, tự tại sống trong cuộc đời mà vượt thoát khỏi cuộc đời. Đây là giai đoạn người tu đã hoàn toàn làm chủ được mình và tất cả các pháp.

Ba hướng tâm này là những điểm căn bản của người tu. Chúng ta tu tập cần phải nắm vững những điều căn bản như trên, để đến trong mỗi giai đoạn ta không bị bối rối, không biết phải tu thế nào, tiến ra sao. Trong mỗi giai đoạn ta nên biết mình cần phải tiến lên, hoàn chỉnh công phu tu tập cho được rốt ráo viên mãn. Do đó đòi hỏi đức tánh kiên trì, sáng suốt, tế nhị, khiêm cung. Lúc nào cũng tự nỗ lực, không ỷ lại vào người khác, song rất tôn trọng thiện hữu tri thức và luôn có tâm khuyến khích động viên các bạn đồng chí đồng hạnh. Đây chính là những nét đặc biệt của người tu thiền.

Chúng ta nên nhớ bước đường công phu hành đạo là quá trình không phải ngắn, không phải dễ. Nếu ngắn nếu dễ thì tất cả chúng sanh đã thành Phật hết rồi. Bởi nó không dễ, không ngắn nên ngày nào mình cũng tu, cứ cố gắng mãi như thế, nhất định sẽ có ngày thành công.

Cuối cùng, xin kính chúc toàn thể đại chúng đều nhận và sống được với những gì có sẵn nơi mình, mãi mãi được an vui giải thoát.
 

Chiếu Thanh

Ban Đại Biểu nhiệm kỳ III (2015-2016)
Phật tử
Tham gia
26 Thg 10 2006
Bài viết
1,343
Điểm tương tác
592
Điểm
113
TU TẬP PHẢI CÓ CÁI NHÌN THẤU ĐÁO

Phật giáo luôn lấy giác ngộ giải thoát làm mục đích tối thượng. Trong quá trình tiến đến mục đích ấy, mỗi hành giả phải tự nỗ lực hành trì, ứng dụng pháp của đức Phật đã dạy vào cuộc sống tu tập của mình. Tuy nhiên sự hỗ trợ của chư Bồ-tát, các thiện hữu tri thức cũng không kém phần quan trọng. Vì vậy chúng ta cần phải có một cái nhìn thấu đáo về sự tự tu, và việc hỗ trợ của các thiện hữu tri thức quanh ta đều có tầm quan trọng nhất định của nó.

Trong kinh Pháp Hoa có kể sự hỗ trợ của Bồ-tát Phổ Hiền đối với một vị Tăng trì kinh Pháp Hoa thế này. Sau một thời gian học hỏi và siêng năng tu hành, Sư phát nguyện trì kinh Pháp Hoa và thấy có linh nghiệm. Hữu cảm thì tất ứng, vị Tăng này luôn được sự hộ trì của Tam Bảo, nhất là Bồ-tát Phổ Hiền. Do đó Sư càng phát tâm dũng mãnh hơn nữa, tìm lên rừng núi xa vắng, ít người lai vãng để việc trì kinh được nhiều thuận lợi hơn.

Với tâm khẩn thiết, luôn gìn giữ giới hạnh trang nghiêm, vị Tăng chỉ nỗ lực tu hành. Bấy giờ quanh núi Ngài ở thường thoảng mùi thơm lạ, thân tâm Sư cảm thấy lâng lâng an lạc. Nhưng đến một hôm, suốt mấy ngày trời âm u bão tố. Dù trên núi rừng nhưng không hiểu sao giữa đêm Sư nghe có tiếng rên la, khóc lóc, rồi sau đó là tiếng gõ cửa của người khác phái. Sư rất phân vân khó xử, nhưng tiếng kêu cứu ngày càng dồn dập. Lòng từ bi của vị Tăng, không thể làm ngơ được, nên cuối cùng Sư mở cửa ra. Vừa mở cửa thì một phụ nữ ướt đẫm, run rẩy xanh mét sắp ngất xỉu hiện trước mặt Sư.

Trước tình trạng như vậy, Sư phải cho cô vào trú đỡ trong thất. Biết hoàn cảnh bất lợi, suốt đêm Sư ngồi tỉnh tâm trì kinh Pháp Hoa, không dám nói gì hết. Nhưng ngặt nỗi, càng lúc cô càng đổ bệnh ra. Cô bắt đầu đau bụng lăn lộn giống như người đau ruột thừa sắp chết tới nơi. Vị Tăng chẳng biết làm sao, phải lấy dầu đưa cho cô, nhưng đau quá cô không tự thoa dầu được, cuối cùng thầy đành phải thoa cho cô.

Như quí vị đã biết cảm giác xúc chạm giữa hai phái khác nhau, nếu không phải là người giác quan hư hoặc các bậc tu hành đã đạt đạo, ngoài ra tất cả đều có cảm giác khác lạ, cho dù đó là một vị Tăng. Đứng trước phút giây đó, chỉ cần khởi lên một niệm loạn động thì trong tích tắc thôi, bao nhiêu công phu tu hành xem như cháy rụi. Quả thật như vậy, vị tăng này đã dấy niệm. Nhưng Sư không ngờ ngay lúc vừa khởi niệm thì xa xa trên mây Bồ-tát Phổ Hiền ngự trên thớt bạch tượng hiện ra với lời quở trách. Sư giật mình tỉnh mộng, ăn năn sám hối thì thấy người con gái khi nãy đã cuộn trong mây đi mất. Kể từ đó vị Tăng thúc liễm thân tâm miên mật, hạ thủ công phu nghiêm cẩn không để bất cứ một ngoại cảnh chi phối nữa. Đây chính là sự hỗ trợ của Bồ-tát đối với những vị thật tâm muốn tu hành.

Hòa thượng thường dạy chúng ta “Chỉ một niệm bất giác thôi là hư hỏng”. Từ một niệm bất giác chúng ta lao theo, lang thang trôi giạt, làm kiếp giang hồ lãng tử từ vô lượng kiếp rồi. Cho tới bây giờ, nếu không tỉnh giác triệt để, những niệm bất giác đó sẽ tiếp tục dẫn ta đi nữa, tiếp nối luân hồi không dứt. Cho nên Hòa thượng dạy chúng ta lúc nào cũng phải tỉnh giác. Tỉnh giác để làm gì? Để biết tất cả hiện tượng bên ngoài đều không thật, những niệm dấy khởi lăng xăng trong tâm cũng không thật.

Như câu chuyện trên, nếu vị Tăng có tỉnh lực cao, biết rõ thân cô gái kia không thật nên cái đau của cô cũng không thật. Sư liệu sức mình không thể va chạm vào thân phụ nữ thì cứ mạnh dạn nói: “Nếu hết duyên, cô cứ an lòng nhắm mắt, mai mốt trở lại tôi sẽ độ cho, chứ bây giờ tôi chưa đủ lực độ cô”. Tại vì lúc đó Sư bất giác, nên mới hỏng việc lớn của mình như thế.

Chúng ta tu hành phải tỉnh giác, thấy một cách tường tận, chắc thật, không có chút điên đảo nào hết rằng tất cả các hiện tượng chung quanh đều không thật. Thấy biết chắc thực như vậy rồi thì định tuệ sẽ hiện tiền. Đó chính là định tuệ cơ bản nhất nằm sẵn nơi mỗi chúng ta, chỉ cần mình phát huy được thì sẽ thấy vô số lợi ích lớn lao. Chẳng những hàng xuất gia cần có những trí tuệ ấy mà ngay cả quí Phật tử cũng thế. Chúng ta hướng về con đường Phật đạo, tu học theo và hành trì theo lời Phật dạy thì phải làm sao phát huy cho được trí tuệ Bát-nhã của chính mình. Đó là điều tối thiết yếu trong công phu tu tập vậy.

Người đời thường cho những gì vui thích vừa ý là phúc báo của mình. Thưa, đó chỉ là niềm vui thụ hưởng như ngũ dục, tài sắc, danh lợi ăn uống, ngủ nghỉ. Ví dụ người được tài thì vui, sắc diện tươi tắn, nhưng trái lại các bậc Thánh cho đó là hiểm họa cần phải xa lánh. Đây là điểm chúng ta cần phải bàn kỹ để không bị lầm lẫn như người thế gian. Thành ra người tu có cái nhìn tận nguồn tận gốc khác hơn người thế tục.

Sở dĩ chúng sanh luân hồi trong sanh tử, khổ đau triền miên cũng vì những thứ mê lầm này. Ví dụ quí vị nuôi con cái từ nhỏ, mỗi mỗi việc gì cũng sắp đặt cho nó. Khi còn bé thơ, nó ngoan ngoãn nghe theo sự sắp đặt của cha mẹ. Đến khi lớn khôn, quí vị nhắc nhở, có những điều chúng không đồng ý và cãi lại: “Bây giờ con lớn rồi, xin ba má đừng nói thế nữa”. Chừng đó quí vị giật mình “Trời ơi khổ!” Cuộc đời này luôn luôn là vậy. Bởi con người chấp cho cái nhìn của mình là đúng, khi gặp sự phản kháng liền thấy khổ. Nhà Phật gọi đó là si mê. Vì vậy chúng ta cần phải sáng suốt quay lại, sống lại với sự thật, biết rõ các pháp như huyễn, không có gì cố định, đừng cố chấp nữa là bớt khổ.

Người tu đối với tất cả những nhiễm trước của cuộc đời phải chấm dứt. Đó là cơ sở vững chắc để ta đi lên thanh thoát nhẹ nhàng. Chữ “Nhiễm” là thấm, lúc bắt đầu thấm ta không hay biết, nhưng khi đã thấm rồi thì hoàn toàn thay đổi. Chẳng hạn như ta đi trong sương móc, đầu tiên không thấy gì nhưng khi hay chiếc áo đã ướt là mình đã thấm sương đậm rồi. Cũng vậy, nếu ở trong dục lạc thế gian, ta không tỉnh, không có cái nhìn chính xác thì dần dần bị ô nhiễm mà ta không hay.

Bởi vậy điểm đầu tiên mà người tu chúng ta cần phải cắt đứt là sự nhiễm trước các pháp thế gian. Làm một người chiến sĩ dũng cảm, trên tay không bao giờ rời thanh gươm trí tuệ, sẵn sàng chiến đấu với ma phiền não, ma tham dục. Nếu lơ mơ ta sẽ thua nó lúc nào không hay. Tỉnh giác liên tục là sức mạnh của người tu, nếu không như thế ta sẽ bị dây mơ rễ má của tham dục ràng buộc, kéo lôi, không có ngày thoát khỏi.

Nói tới đây tôi nhớ chuyện hồi lúc ở Chân Không, những năm đầu còn rừng rậm, khỉ xuống phá trái cây nhiều lắm. Anh em chúng tôi lấy làm lạ một điều là lũ khỉ được xem như khôn ngoan nhất trong các loài cầm thú mà dường như nó cũng ngu xuẩn hơn ai hết. Cho nên muốn bắt nó không hẳn là khó. Mấy anh em để ý thấy bọn chúng thường xuống rình xem quí thầy làm gì rồi bắt chước. Vì vậy, một hôm chúng tôi rủ nhau ra đám khoai lang, làm bộ lấy dây tự cột mình vào cây này cây kia. Biết bọn chúng ghi ảnh này rồi chúng tôi rút lui. Đợi quí thầy vắng một chút chúng tràn xuống, cũng vào giữa đám khoai, lấy dây tự cột mình vào các cây chung quanh. Chừng ấy quí thầy vỗ tay, đập thùng, chúng hoảng chạy nhưng chạy đi đâu được. Thế là cả bọn té nghiêng té ngửa, vì mắc kẹt trong các cây mà hồi nãy nó tự cột. Chúng tôi được một mẻ cười thật vui.

Sự nhiễm ô, mắc mứu cũng như vậy, thấm hồi nào không biết nhưng tới lúc mình đứng dậy muốn đi thì kẹt cứng, đi không được. Cho nên phải làm sao tự chủ, cắt đứt những dây mơ rễ má của nó. Thành ra điểm thứ nhất ở đây tôi nhấn mạnh là người tu cần phải cắt đứt sự ô nhiễm dục lạc. Dục, nói chung là lòng tham đắm tất cả những nhu cầu trong đời sống, chứ không phải chỉ riêng sắc dục. Trong đời sống của chúng ta, nói về nhu cầu thì nhiều lắm. Ăn mặc, ngủ nghỉ, đi đứng, tiếp khách, làm việc… càng ngày càng phát sinh. Như con mắt của tôi hồi nhỏ đâu cần cặp kính này, bây giờ nếu không có nó thì tôi nhìn chữ này dính chữ kia, không đọc viết gì được, thế là một nhu cầu phát sinh.

Nếu chúng ta không tỉnh để soát xét kỹ những nhu cầu nào cần thiết cho mình, cuối cùng ta sẽ mất hết thì giờ vì những nhu cầu không cần thiết lại quá nhiều. Như vậy là mình đã rơi vào lưới dục hồi nào không hay. Tôi nhớ những năm thiếu gạo, chư Tăng phải ăn độn bo bo nhưng quí thầy vẫn sống vui. Bây giờ ngày hai ba bữa cũng vậy thôi. Giả như không có cơm mình ăn cháo cũng sống được như thường. Ngày xưa đức Phật tu khổ hạnh trong rừng già, ngày ăn chỉ một vài hạt đậu hạt mè mà sống được tới sáu năm trường. Nhận định được điều này, chúng ta tự giảm thiểu những nhu cầu không cần thiết trong đời sống để dành thì giờ cho việc tu hành.

Phật dạy hàng xuất gia phải tam thường bất túc, nghĩa là ba việc ăn, mặc, ngủ phải thiếu một chút. Để làm gì? Để không bị phạm vào lỗi ngũ ấm xí thạnh, tức thân này béo phì nặng nề, trở ngại cho việc tu hành. Nhờ thế chúng ta có thời gian thiền định, quán niệm, tỉnh thức sống lại với chính mình. Chớ cả ngày từ sáng tới chiều tối, ta cứ lo ăn, hết món này đến món khác. Xong buổi sáng tới buổi trưa, hết trưa lại chiều, nội việc ăn thôi cũng đủ oải rồi còn thì giờ đâu mà tu hành.

Phật pháp mênh mông, chúng ta học cả đời còn không thể hết, huống là để thời gian luống qua vô ích vì những việc ăn mặc tầm thường. Sống như vậy đâu còn ý nghĩa của hàng xuất gia ly dục, cầu giác ngộ giải thoát nữa. Con người lúc nào cũng chạy đua với vô thường để được sống còn, nhưng họ không ngờ rằng chính vì những cuộc chạy đua ấy mà họ đã mất tất cả. Chỉ có những ai biết dừng lại mới có thể tồn tại, có thể sống còn với chính mình. Nên nhớ ta không thể tìm sự sống trong lòng định luật đổi thay hữu sinh hữu hoại này.

Chúng ta đã trôi giạt, sinh đây chết kia nhiều đời nhiều kiếp mệt mỏi lắm rồi. Thế nên ngay trong đời này phải khẳng định cắt đứt dòng sanh tử cho rồi. Muốn như vậy cần sáng được việc của mình, làm chủ sinh tử mới nói chuyện được với vô thường. Điều không thể thiếu được đối với người tu là thiền định, chứ không phải ăn uống ngủ nghỉ hay tiền tài danh vọng. Vì vậy người xưa tu rất giản dị.

Nếu chúng ta cứ tạo nghiệp trầm luân sanh tử, cứ đắm trước dục lạc thì nhất định loay quay lẩn quẩn trong sáu đường thôi. Đây là việc làm của mình, chứ đâu phải của ai. Chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về những hành vi của mình ngay trong cuộc sống hiện tại. Nó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến đời vị lai của mỗi vị. Vì thế làm điều tốt, tu nghiệp lành bỏ nghiệp dữ, cốt là để dự phòng cho chính bản thân mình, chớ chẳng phải lo cho ai khác. Điều này dân gian thường nói “Ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng”, rõ ràng như vậy.

Làm sao ta gầy dựng được chủ lực để khi tái sinh vẫn đầy đủ chủng duyên tu hành. Điều này rất quan trọng. Chư Tổ thường nhắc “Đường trước mờ mịt chưa biết về đâu?” để chúng ta ý thức việc tu hành hôm nay là sinh mệnh của mình ở mai sau. Hòa thượng Viện trưởng nói: “Mỗi người sanh ra đã mang sẵn một bản án tử hình, chưa biết ngày nào lên đoạn đầu đài?” Trong chúng ta ai là người biết trước ngày mai mình sẽ ra sao, sao lại không nỗ lực tu hành?

Trong kinh Nhân Quả nói về quả báo tái sinh của nhiều loài rất đáng sợ. Đời này người nào tạo những nghiệp ác, khi chết phải đọa vào loài bàng sinh, khi vừa tắt thở họ thấy trời long đất lở, sấm sét mưa chuyển, cọp sói đuổi rượt. Họ chạy đến mức không biết phải chạy đi đâu nữa, bấy giờ gặp lùm bụi nào cũng chui vô để núp. Vừa chui vào là đã tái sinh, mang kiếp nhiều chân hoặc bốn chân, lông lá lù xù, sừng gạc đủ thứ; đã mang vào rồi thì không cởi ra được nữa. Thành ra nghiệp dẫn trong luân hồi là con đường mờ mịt chưa biết về đâu, ghê gớm thật.

Quả báo bị rơi trong những loài súc sinh hoặc nặng hơn như địa ngục, ngạ quỷ thì thọ mạng dài vô cùng, chịu không biết bao nhiêu thống khổ. Như ngục vô gián, bị rơi vào đó thì sự hành hình liên tục từ cho tới bao giờ trả xong nghiệp mới dừng được. Trong khoảng đó không có phút giây nào để nhớ Phật, nhớ pháp, không ai giúp đỡ mình được hết. Chỉ trừ Phật, Bồ-tát theo nguyện dùng từ lực tam-muội vào trong ấy hóa độ, tội nhân nương phúc trí của các Ngài có được chút phút giây tỉnh thức để chuyển hóa nghiệp dữ của mình.

Thế nên hằng ngày chúng ta dành được phút giây nào chiêm nghiệm, quán chiếu tỉnh tu thì quí giá phút giây ấy. Do đó cần phải mãnh tỉnh, tiết từng chút thì giờ đừng để tuột dốc, hối tiếc không kịp. Đó là những điều rất cần thiết đối với người tu.

Lâu lâu ta cũng nên kiểm tra lại chí nguyện ban đầu của mình, xem có còn giống lúc sơ tâm xuất gia không. Chúng ta có bệnh yếu đuối lại dễ quên. Mới hôm nào vào chùa siêng năng tinh tấn, việc gì cũng làm được, thời khóa nào cũng theo nổi. Chẳng biết vì sao được một thời gian, tự nhiên bệnh hoạn đổ ra, không làm gì nổi, tụng kinh tọa thiền cũng bỏ luôn, tuệ giác tắt ngủm, đụng việc phiền não… Thử hỏi những tình trạng này từ đâu mà ra? Bởi vì chí chưa đủ, tâm chưa quyết, lại bị ma ngũ dục chực chờ bên cạnh, nên chỉ cần một niệm giải đãi khởi lên là bọn chúng ập vào kéo lôi. Tu hành như vậy chỉ càng khổ thêm, vì nợ đàn na tín thí chất chồng, biết trả sao đây?

Đức Phật khi đã thấy được cảnh sanh, già, bệnh, chết của con người, Ngài trăn trở thao thao thức về số phận nhân lọai, cuối cùng phải vượt thành xuất gia tìm đường giải thoát. Năm năm tầm đạo, sáu năm khổ hạnh trong rừng già, cơ thể suy mòn cạn kiệt, tưởng như đã tắt thở, nhưng ý chí của Ngài vẫn không thoái chuyển. Nhờ thế, sau khi nhận bát sữa của nàng mục nữ bên cạnh dòng Ni Liên Thuyền, Thế Tôn chú tâm thiền định dưới cội Tất-bát-la suốt bốn mươi chín ngày đêm, chiến thắng toàn bộ nội ma lẫn ngoại ma, cuối cùng mới thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Công đức, thiện duyên như Ngài mà còn phải nỗ lực tu hành tới vậy, huống bọn chúng ta lại quá dễ duôi làm sao chấm dứt được dòng luân hồi sanh tử đây?

Chúng ta là đệ tử Ngài, cũng có tâm tìm sự giác ngộ giải thoát thì phải nên học hành theo tâm gương sáng của chư Phật, chư Tổ. Không ai hành đạo mà chẳng trải qua những thử thách gian nan cả, cốt yếu là phải có ý chí vững vàng, trí tuệ bén nhạy. Sau đó còn phải biết đủ, sống giản dị, siêng tọa thiền, để thì giờ quán niệm phát huy trí tuệ Bát-nhã của mình, đó mới điều cần thiết, quan trọng. Nếu người tu mà lại để tâm vào các việc tầm thường như ăn uống ngủ nghỉ hoặc theo đòi thế học, thì thật đáng hổ thẹn, chẳng giống Thích tử Như Lai chút nào. Cho nên chúng ta cần phải nghiệm lại mình việc này.

Đức Phật ngày xưa tu khổ hạnh không thể đạt được đạo lý giải thoát, nên cuối cùng Ngài trở về với thiền định, phát huy trí tuệ vô sư, triệt chứng thật tướng của các pháp mới thành đạo. Bây giờ chúng ta cũng đi theo con đường trung đạo ấy. Ví dụ ta cũng ăn sáng, ngọ trai, buổi chiều dùng chút ít gì đó để giữ sức khỏe tu tập. Nếu quá lệ thuộc vào thân này hoặc quá bỏ bê nó đều không thể dẫn đến thành tựu đạo nghiệp. Đó là điều chúng ta phải khéo tiết chế quân bình.

Do đó Hòa thượng ở đây thường dạy chúng ta phải có cái thấy thấu đáo, lấy trí tuệ làm đầu cốt nhận ra lẽ thật của tất cả các pháp. Có thế việc tu mới tiến triển đúng ý nghĩa, cuộc sống an ổn, ta thực sự là người biết gầy dựng niềm vui giải thoát ngay trong đời sống này. Chứ còn mắc mứu, còn chạy theo dục lạc thế gian thì khó mà giữ được nề nếp, tỉnh giác của người con Phật.

Niềm vui của người đã tỉnh giác khác với niềm vui của người đam mê chấp trước vào các pháp thế gian. Kinh Pháp Hoa kể lại niềm vui của anh chàng cùng tử khi nhận lại được cha mình cùng với gia tài của ông Trưởng giả, thật không thể sánh nổi với niềm vui của kẻ tha phương cầu thực, được ít cho là đủ. Chúng ta cũng thế, chỉ với chút ngũ dục thế gian cho là vui, trong khi chư Phật Bồ-tát thấy đó là pháp ô nhiễm, là bất tịnh đáng gờm đáng chán. Có cả một kho báu sẵn nơi mỗi chúng ta, dùng hoài không hết mà chúng ta lại bỏ quên không đoái hoài tới, thật là đáng thương xót! Vì vậy, các Ngài đã dùng mọi phương tiện để đánh thức trí tuệ của chúng ta, khiến ta nhớ lại của báu vô lượng ấy, lấy ra dùng thì sẽ trở thành Trưởng giả giàu có vô lượng.

Niềm vui sau khi đã có trí tuệ sẽ không bao giờ mất. Từ trí tuệ ấy chúng ta có cái nhìn chính xác đối với tất cả các pháp, đảm bảo việc tái sinh không còn “Đường trước mờ mờ chưa biết về đâu” nữa. Đó là lúc ta sung sướng nhất, hết phải lang thang làm kẻ thuê mướn vất vả. Cho nên Hòa thượng nói “Nếu một phen nhận được tánh giác rồi, chúng ta có đầy đủ tất cả, con đường luân hồi ngay đây chấm dứt”. Việc làm này tự ta thực hiện, không ai thế được. Chư Phật, Bồ-tát thương chỉ dạy vậy thôi, phần còn lại là của mỗi đương sự.

Trong kinh Pháp Hoa kể chuyện anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa ở thành Thất La Phiệt. Mỗi ngày anh nhìn vào gương thấy mặt mắt của mình xinh xắn dễ thương. Một hôm cái gương đó bể, soi vào không thấy đầu nữa, anh hốt hoảng vừa chạy vừa ôm đầu kêu “Tôi mất đầu rồi, tôi mất đầu rồi”. Anh chạy vòng quanh thành phố như thế, cuối cùng đến chỗ Thế Tôn. Đức Phật gọi lại bảo: “Cái đầu mắt mà mỗi ngày ngươi trông thấy xinh xắn dễ thương ấy, thật ra chỉ là cái bóng hiện trong gương thôi. Khi gương bể, bóng đó sẽ mất. Còn cái đầu thật ngươi đang ôm trong tay kia mới chính là của ngươi, dù gương có bể hay không, nó vẫn nguyên vẹn bên ngươi, không mất đi đâu hết”. Nghe thế anh chàng tỉnh ra, nhận biết cái đầu xinh xắn của mình còn nguyên vẹn, vui mừng khôn xiết.

Câu chuyện anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa cũng na ná như chúng ta. Phật nói mỗi người đều có sẵn tánh giác, nhưng chẳng ai chịu nhận, cứ sống với thân tứ đại hư dối, tâm vọng tưởng đảo điên. Sau đó lại chạy đi tìm chân tâm Phật tánh ở bên ngoài. Khi được Phật Tổ chỉ dạy, nhận lại được cái vốn sẵn có nơi mình, vui mừng như được của báu. Nhưng thật ra đâu có được gì, nó vốn sẵn nơi mình từ thủy chí chung rồi, chỉ tự ta cho là mất, rồi tự ta cho là vừa tìm lại được, thành ra có đủ thứ ngôn từ để diễn tả nó như bản lai diện mục, Phật tánh, chân tâm v.v… Tất cả đều chỉ là một trường huyễn mộng, chỗ này nhà thiền nói “đất bằng dậy sóng” thật không sai.

Tánh giác sẵn nơi mình, nhận được rồi thì tự nhiên không còn chạy theo những bóng dáng hư giả nữa, cũng không nói Bồ-đề, Niết-bàn, mà tất cả đều đầy đủ viên mãn. Tới đây rồi không muốn giải thoát cũng giải thoát, không cầu vui cũng vui, nhưng muốn diễn tả thì không thể dùng ngôn ngữ diễn tả được. Tuy nhiên với phúc duyên và chủng tử sẵn có của mỗi người, tôi tin chắc không sớm thì muộn, rồi đây chúng ta sẽ thấy nó sờ sờ giống như ngài Đại An nói: “Bây giờ con trâu trắng sờ sờ trước mắt, đuổi cũng không đi”.

Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, tôi xin mượn câu chuyện một thiền tăng đi hành cước đến hỏi đạo một Thiền sư:

- Cúi mong Hòa thượng vì con chỉ dạy pháp yếu.

Thiền sư đáp:

- Ta nói thì được rồi, chỉ sợ ông không tin.

Vị Tăng thưa:

- Lời Hòa thượng, con đâu dám không tin.

Thiền sư bảo:

- Ngươi có nghe tiếng con rắn bắt con nhái kêu bên ngoài không?

Vị Tăng lắng tai nghe và ngay lúc ấy Sư sửng sốt kêu lên: “Ôi chao!”.

Nếu quí vị nhận được cái đó thì nhận được tánh giác của mình, đồng thời cũng có cái nhìn thấu đáo về sự hỗ trợ của thiện hữu tri thức giúp phần khai sáng những gì quí báu nhất mà ta đã tự khuất lấp từ bao đời.

Buổi nói chuyện hôm nay đến đây xin tạm dừng. Cầu nguyện tất cả chúng ta thành tựu được công hạnh tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.
 
GÓP PHẦN LAN TỎA GIÁ TRỊ ĐẠO PHẬT

Ủng hộ Diễn Đàn Phật Pháp không chỉ là đóng góp vào việc duy trì sự tồn tại của Diễn Đàn Phật Pháp Online mà còn giúp cho việc gìn giữ, phát huy, lưu truyền và lan tỏa những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp của đạo Phật.

Mã QR Diễn Đàn Phật Pháp

Ngân hàng Vietcombank

DUONG THANH THAI

0541 000 1985 52

Nội dung:Tên tài khoản tại diễn đàn - Donate DDPP(Ví dụ: thaidt - Donate DDPP)

Chủ đề tương tự

Who read this thread (Total readers: 0)
    Bên trên